Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Thơ Văn | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn |
Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC | |
<< phần trước Trang of 195 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 06/Sep/2018 lúc 7:29pm |
Cái Bóng Của Vị Thầy Tu
Dừng xe trước
quán cà phê nằm bên triền núi, tôi kéo Lân vào ngồi bên chiếc bàn nhỏ,
nằm riêng rẽ dưới bóng mấy cành thông. Ngày thường, quán vắng khách. Đã
hơn bốn giờ chiều mà mặt trời đang ở trên đỉnh đầu. Mùa hè Bắc Âu ngày
dài ra, có những ngày cuối tháng sáu, gần như không thấy bóng đêm. Trời
nắng, nhưng không nóng lắm. Thỉnh thoảng có vài cơn gió làm lung lay
những cành thông, như muốn khuấy động cái không gian tĩnh mịch và tạo
thêm chút mát mẻ, thư thái cho khách nhàn du.
Đến đây đã nhiều lần, dần dà bọn tôi trở
thành khách quen của ông chủ quán, người Na-Uy, vốn trước kia ở cùng
xóm với tôi, nên đã dành cho chúng tôi sự tiếp đãi đặc biệt, thoải mái.
Hơn nữa đã từng nghiên cứu về Đạo Phật, nên thấy Lân trong bộ áo thầy
tu, ông chủ cũng tỏ ra ít nhiều tôn kính, có khi trao đổi đôi điều về
Phật và Thiền học, mặc dù ông chưa hề biết quá khứ, nhất là cả một thời
tuổi trẻ đầy sôi nổi, hào hùng và biến động của Lân.
Gần mười năm nay, sau khi về hưu,
hằng năm, vào khoảng giữa tháng Mười, vợ chồng tôi thường sang Cali ở
sáu tháng để trốn mùa Đông Bắc Âu, mà với tuổi già càng lúc cái lạnh như
càng ngấm vào da thịt và cả trong lòng mình. Đến hè, mỗi lần trở lại
Na-Uy, tôi thường ghé lại thăm Lân. Từ lúc nhận ra tuổi già qua nhanh
quá, cái quỹ thời gian không còn nhiều, và một số bè bạn đã lần lượt ra
đi, chúng tôi dành nhiều thì giờ cho nhau hơn. Lân về hưu trước tôi một
năm, và anh đã chọn một hướng đi đặc biệt cho tuổi già: tu tại gia.
Anh xuống tóc, ăn chay trường và mỗi ngày sống với kinh kệ như một vị
thầy tu, mặc dù không đến chùa. Anh cho rằng cái khung cảnh và sinh hoạt
ở một số chùa chiền bây giờ không thích hợp với anh. Hầu hết bạn bè và
những người quen biết đều tôn trọng cái quyết định đó, cũng như rất mến
mộ phong cách, đạo đức của anh. Thực ra, trước khi chọn con đường tu
hành, anh cũng đã có đầy đủ tố chất của một vị chân tu rồi. Hiền lành,
đạo hạnh, luôn chia sẻ tấm lòng với tha nhân, nhất là những người không
may, gặp điều khốn khó, và với ai anh cũng luôn nở một nụ cười hiền hòa
nhân ái. Lân dùng nguyên ngôi nhà ở sửa sang lại làm tịnh thất, nằm
trong khu ngoại ô, bên bìa rừng yên tĩnh. Anh sống ẩn dật, chỉ tiếp vài
ba người bạn chí thân. Tôi thường đến đây với Lân, có khi ở lại cả tuần,
theo anh ngồi tĩnh tâm hay tập thiền, nhưng thỉnh thoảng Lân cũng chìu
tôi, theo tôi ra ngồi ở cái quán cà phê bên vách núi yên tĩnh này. Tôi
nghĩ đây là nơi lý tưởng để Lân còn nhìn thấy một chút “thế gian” và
chúng tôi có thể ngồi hằng giờ tâm sự chuyện đời xưa, nhắc nhớ khoảng
thời gian khá dài mà chúng tôi có cùng chung quá khứ.
***
Tháng sáu năm 1976, sau khi bị
chuyển tù ra Bắc, đến Trại Hang Dơi thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn, tôi gặp
lại người bạn cũ, có thời ở cùng đơn vị. Anh ở khác lán với tôi, nhưng
cùng tổ và nằm bên cạnh Lân. Qua anh bạn này, tôi quen biết Lân từ đó,
để rồi sau này trở thành thân thiết. Điều đặc biệt là dù qua bao lần
“biên chế”, bị chuyển đi nhiều trại, Lân và tôi đều được may mắn, đi
chung với nhau cho đến ngày Lân ra tù, tháng 9 năm 1981.
Trước ngày miền Nam thất thủ, Lân là
thiếu tá, làm việc ở Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân (thuộc Bộ Tư lệnh
Không Quân). Một công việc bất đắc dĩ, ngoài sở thích của Lân. Anh vốn
là phi công trực thăng được chuyển về đây sau khi ra khỏi Tổng Y Viện
Cộng Hòa và được Hội Đồng Giám Định Y Khoa xếp vào loại 2, không thể phi
hành hay chiến đấu được. Anh bị trọng thương trong một chuyến bay cấp
cứu (rescue) một phi hành đoàn bạn bị bắn rơi trong trận chiến An Lộc.
Lớn hơn tôi một tuổi. Lân tình
nguyện vào Không Quân và được sang Mỹ học ngành hoa tiêu trực thăng. Về
nước được bổ sung cho Phi Đoàn Long Mã 219 ở Đà Nẵng, từ thời còn xử
dụng trực thăng loại H-34, về sau này được thay thế bằng UH-1. Đây là
một phi đoàn đặc biệt. Trên các máy bay sơn toàn màu đen, không vẽ quốc
kỳ và bất cứ danh hiệu hay mã số nào, ngoài hình những lá bài “ách xì”
cơ, rô, chuồn, bích. Phi Đoàn có nhiệm vụ thả và bốc các toán lôi hổ,
biệt kích, hoạt động trong vùng đất địch. Lân nổi tiếng là một phi công
tài giỏi, thông minh và can đảm.
Sau đó, được thuyên chuyển về một
phi đoàn thuộc Vùng 3. Năm 1970, Lân cùng phi đoàn đã đóng góp nhiều
chiến công trong các cuộc hành quân sang lãnh thổ Cam- Bốt. Năm 1972,
tham dự trận chiến An Lộc, đổ quân, tản thương cho Liên Đoàn 81 BCND và
một số đơn vị thiện chiến khác, Lân mấy lần bị thương nhẹ, được đặc cách
thăng cấp thiếu tá. Khi đã có lệnh và đang chờ thuyên chuyển đến một
phi đoàn khác để giữ chức vụ Phi Đoàn Phó, thì anh tình nguyện tham gia
phi vụ cấp cứu (rescue) một phi hành đoàn bạn bị bắn rơi. Nhờ tài năng,
lòng dũng cảm và nhất là tình đồng đội “không bỏ anh em không bỏ bạn bè”,
anh đã bất chấp mọi hiểm nguy, cứu được 3 trong 4 người của một phi
hành đoàn, khi phi cơ phải đáp khẩn cấp vì bị trúng đạn phát hỏa, người
xạ thủ đã bị tử thương. Được bốn gunships yểm trợ, Lân đã lừa địch và
bất ngờ đáp xuống trong màn lưới đạn, bốc ba người bạn đang bị Cộng quân
truy bắt. Nhưng khi vừa bốc phi cơ lên, Lân bị trúng hai viên đạn, làm
gãy xương cánh tay và ống chân trái. Sau này, trong một dịp tình cờ, tôi
gặp anh co-pilot trong phi vụ này, kể lại chuyến bay rescue vô cùng
hiểm nguy với tất cả lòng thán phục Lân. Anh bảo, nếu không có Lân hôm
ấy, chắc chắn việc cấp cứu đã không thành và ba người bạn cùng phi đoàn
đã bị địch quân giết hay bắt sống.
Khi ở trại Nghĩa Lộ, tôi được sắp
xếp cùng tổ với Lân. Chúng tôi thuộc đội phát rừng (vào mùa Đông) và
tăng gia (vào mùa Hè, vì mùa Đông, ở vùng này rất lạnh, không trồng rau
được). Tù ăn uống thiếu thốn và lao động cực khổ, nhưng Lân rất khỏe
mạnh. Có lẽ nhờ vào khả năng mưu sinh. Phải nói đây là một sở trường đặc
biệt của Lân mà bạn tù ai cũng nể phục. Anh có thể bắt tôm, cá bằng tay
không, khi đứng giữa một dòng suối hay con sông. Nhìn dấu chân các
loài vật anh biết ngay đó là con vật gì. Chỉ cần một nhánh cây anh có
thể “sáng chế” thành một cái bẫy để bắt các loại chim, chồn, và cả thỏ
rừng. Nhờ vậy mà anh nuôi sống cả một tổ tù, đặc biệt cứu vài người bị
đau bệnh, kiệt sức. Anh còn biết cả thuốc Nam, các loại lá, vỏ cây trị
bệnh. Một lần đi rừng chặt nứa, tôi bị một con ong đất chích vào tay,
sưng vù lên và tím cả một vùng da. Lân cho biết nọc loài ong này rất
độc, có thể làm chết người. Anh dùng dây rừng cột chặt cánh tay tôi lại,
đi tìm một loại lá và vỏ cây gì đó đắp lên. Chỉ sau một giờ đồng hồ vết
sưng biến mất. Một buổi trưa nhân ngày lễ, được nghỉ lao động, anh đã
câu được gần ba mươi con ếch ngay trong trại, dưới các rãnh mương thoát
nước. Chính tay trưởng trại đã đi theo xem và phục tài của Lân. Tất cả
ếch câu được đều giao cho nhà bếp “hậu cần” để có thêm chất thịt cho anh
em. Lân cho biết là chỉ cần nghe tiếng ếch kêu đêm hôm trước là anh
biết có khoảng bao nhiêu con và đang trốn ở đâu. Cần câu chỉ là một
thanh tre và một sợi chỉ từ cái bao cát được Lân xe lại, và mồi câu chỉ
bằng một miếng bông gòn nhỏ. Tối hôm ấy, tôi khuyên Lân nên chấm dứt
chuyện câu ếch và cần phải giấu kín cái tài mưu sinh, vì có thể bị bọn
cai tù nghi ngờ, “ra tay” trước đề phòng khả năng anh trốn trại. Tôi
cũng ngạc nhiên, khi Lân là một phi công “hào hoa”, nhưng khả năng mưu
sinh thoát hiểm rất tuyệt vời. Lân cho biết, khi còn nhỏ, nhờ cả thời
tuổi thơ sống bên quê ngoại, một vùng quê ở Tây Ninh, anh đã theo đám
bạn bè và cả những người nông dân lớn tuổi, học được rất nhiều điều như
thế.
Điều làm tôi nể phục hơn, ngoài
mưu trí, lanh lẹ, Lân còn là một con người gan dạ, liều lĩnh và chí tình
với bạn bè. Một lần trải qua một trận kiết lỵ kéo dài, thuốc men không
có, tôi chỉ còn khoảng ba mươi ký, kiệt sức đứng không vững. Lơi dụng
lúc đi lấy “phân xanh” (loại lá cây để ủ thành phân bón), không có vệ
binh canh giữ, Lân đã lén vào trại heo của Hợp Tác Xã (cách trại khoảng
vài trăm mét, mà trước đó đám tù bọn tôi có đến vài lần làm chuồng cho
họ) bắt một chú heo con (heo sữa) mang về giấu ngoài khu vực tăng gia
(nằm sát bên hông trại), để hôm sau vùi vào hầm lửa ( do tù đào và dùng
các gốc cây đốt lửa sưởi ấm) cho tôi ăn dần. Nhờ đó mà tôi sớm lấy lại
được sức. Một lần khác, khi được giao cho công việc lên phơi lúa trên
sân trại, nằm ngay trước ban chỉ huy trại, Lân thấy có một buồng chuối
thật dài sắp chín được đám bộ đội chăm sóc cẩn thận, bao lại bằng mấy
tấm bao cát và chống lên bằng hai thanh gỗ. Vài hôm sau, trong một buổi
sáng sớm mùa Đông, khi sương mù còn dày đặc (đứng cách vài thước không
nhìn thấy nhau), Lân đã lẻn lên sân trại cắt trộm cả buồng chuối mang ra
chôn giấu ngoài khu lao động. Hai hôm sau chuối chín, chờ lúc không có
mặt tay quản giáo, Lân đào buồng chuối lên để cả tổ cùng ăn. Vì sợ mùi
chuối chín dễ bị phát hiện, nên Lân đề nghị phải ăn cho hết. Một thời
gian quá lâu thiếu chất đường, nên cả tổ tám người thanh toán buồng
chuối khoảng một trăm quả trong vòng 20 phút đồng hồ mà vẫn chưa thấy
ngọt. Nhưng vì ăn nhiều quá, nên khi vừa đứng dậy, cả bọn bị ói thốc
tháo ra toàn là chuối.
Biết tài bắt cá của anh, nên mỗi
lần trại tù hay hợp tác xã bên cạnh tổ chức “tảo” các hồ cá để thả cá
con, Lân đều được chọn đi bắt cá. Hầu hết các hồ chỉ nuôi loại cá trắm
cỏ, nhưng có nhiều loại cá khác, như cá lóc, cá trê sống trong đó, sẽ ăn
hết đám cá trắm cỏ con. Nên trước khi thả cá, phải “tảo”hồ, băng cách
bơm cạn và bắt tất cả các loại cá khác nằm dưới bùn. Lân sở trường về
việc này. Nhưng thay vì phải giao tất cả cả bắt được cho trại, anh tìm
vài cái hang dưới bờ hồ, tạo thành những cái hộc để nhốt một số cá lóc
vào đó. Những cái hồ cá này, cũng là nơi cho tù rửa ráy hay tắm sau giờ
lao động. Và cứ mỗi lần tắm, Lân lại bắt một con cá nhốt sẵn trong hộc,
mang về cho cả tổ cùng ăn. Vì là đội tăng gia, được giữ mấy cái bình
tưới bằng nhôm, nên dễ dàng giấu cá trong đó mà không bị “phát hiện”.
Có một kỷ niệm tôi không thể nào
quên. Một khoảng thời gian ở Trại Hang Dơi, bọn CS luôn tìm mọi cách vắt
kiệt sức của chúng tôi. Tất cả tù đều phải lên rừng chặt nứa (loại tre
nhỏ) mang về bán cho nhà máy giấy Việt Trì, theo hợp đồng của trại. Chỉ
tiêu mỗi ngày là ba mươi cây. Nếu không đủ, sẽ không được nhận khẩu phần
ăn. Chỉ sau một tháng là nứa ở các vùng núi chung quanh trại tù hết
sạch. Chúng tôi phải chia nhau một toán ba người đi rất xa lên các dãy
núi cao tìm nứa. Lân và tôi luôn đi chung một toán. Trời mùa Đông, lạnh
buốt xương, và suốt cả ngày mưa phùn rả rích. Các lối mòn, ngõ ngách
lên núi biến thành bùn nhão, trơn như mỡ. Bọn tôi phải đóng những cái
cọc ngắn dọc trên các con đường, mỗi lần vác nứa xuống, dùng đầu ngón
chân tì vào các cọc để không bị trượt ngã xuống vực. Nguy hiểm hơn là
khi bị té ngã, bó nứa chùi xuống đâm vào người đi trước, có thể mất
mạng. Một buổi trưa, len lỏi trong rừng già, rất khó khăn để chui qua
những cây mây già, nằm chằng chịt như những con trăn dài chặn các lối
đi, những cây cổ thụ cao to che hết ánh sáng mặt trời. Khi bọn tôi đang
lo âu có thể bị lạc đường, chia nhau đi chặt vào các thân cây làm dấu,
thì bất ngờ một một cây cổ thụ bỗng rung rinh, lá cây xào xạc, bóng một
con vật to lớn nhảy xuống. Cả ba thằng khựng lại, rồi như theo bản
năng, nhanh chóng tìm lại ngồi sát vào nhau, mặt thằng nào cũng tái
xanh. Bỗng Lân quát lớn: “Đừng sợ, đứng dậy, đưa dao lên!” Tôi làm theo
Lân như cái máy. Khi hoàn hồn, nhận ra ngay trước mặt mình không xa, một
con dã nhân (vượn người?), cao to bằng ba con người, lông lá đầy mình,
mặt mày dữ tợn, đang rú gào đe dọa chúng tôi. Lân rất bình tĩnh, bảo bọn
tôi cùng hét thật lớn và bước tới với con dao đưa lên chém vào không
khí. Không ngờ con dã nhân lùi lại, rú thêm mấy tiếng rồi nhảy phóc lên
cây, phóng đi nơi khác. Hôm ấy bọn tôi về tay không và biết là sẽ bị
phạt mất phần ăn, nên Lân đã đi tìm mấy mụt măng rừng và luộc lên cho
bọn tôi ăn đỡ đói. Tôi và anh bạn tù kia phục Lân vô cùng. Nếu hôm ấy mà
không có Lân, chẳng hiểu bọn tôi sẽ phản ứng ra sao. Cũng đã từng bao
lần vào sinh ra tử, nhưng đứng trước một tình huống quá bất ngờ này,
thực tình chúng tôi mất hết bình tĩnh, chẳng biết cách nào đối phó. Đây
cũng là lần đầu tiên tôi nhìn thấy một con vật lạ lùng, ghê sợ, mà trước
đây chỉ biết mơ hồ qua sách vở và lời kể của ông bà.
Năm 1979, trước khi chuyển trại để
rời khỏi Hoàng Liên Sơn, vì Trung Cộng đang tấn công vào các tỉnh biên
giới phía Bắc, đội tù chúng tôi được chọn ra hai tổ đi lao động “thông
tầm”, gặt lúa cho một HTX nông nghiệp, ở cách xa trại khoảng mười cây
số. Lân được chọn làm toán trưởng. Chúng tôi khoảng 20 người, đi bộ, có
hai tên vệ binh đi theo. Đến nơi vào buổi chiều, trời sắp tối, bọn tôi
được trú ngụ trong một cái đình làng bỏ hoang, một phần mái và một bức
tường đã rệu rã. HTX dùng cái sân đình để chứa và phơi lúa. Không biết
có phải để “khuyến khích tinh thần” hay tạo thêm sức, HTX “bồi dưỡng”
cho bọn tôi một bữa xôi nếp với thịt trâu khá no nê. Có cả một xị rượu
mía. Đây có lẽ là bữa ăn thịnh soạn nhất trong đời tù bọn tôi.
Sáng hôm sau, tay Chủ nhiệm HTX
hướng dẫn chúng tôi ra khu ruộng, nằm cách ngôi đình làng khoảng 100
mét. Khi đến nơi bọn tôi mới ngỡ ngàng. Đây là những đám ruộng sình, lúa
rất tốt, nhánh nào cũng trĩu đầy hạt, nhưng nếu bước chân xuống ruộng,
người ta sẽ bị lún sâu xuống ngay, khó mà ngoi lên được, vì càng cử
động, tìm cách thoát lên, lại càng bị lún xuống thêm, có thể ngập đầu.
Bọn tôi lắc đầu ngán ngẩm, khi vừa hiểu ra cái giá của bữa cơm nếp có
thịt trâu, rượu mía tối hôm qua. Trong khi cả bọn nhìn nhau bất lực, Lân
đưa ra sáng kiến. Dùng các tấm cửa cũ của ngôi đình bỏ hoang, cột dây
kéo hai đầu, chỉ cần một người (chọn những người nhẹ ký nhất) ngồi trên
tấm cửa, gặt lúa, những người còn lại, đứng trên bờ hai đầu, thay phiên
kéo và giữ thăng bằng tấm cửa và an toàn cho người gặt lúa. Một tấm cửa
khác kéo theo bên cạnh, để chứa những bó lúa gặt được. Khi nào đầy lúa,
người gặt ra dấu, để được kéo vào bờ. Sáng kiến của Lân được mọi người
hoan nghênh, kể cả tay Chủ nhiệm. Khoảng mười tấm cửa cũ đủ loại lớn nhỏ
được mang ra sử dụng, một số cuộn dây được cung cấp, kể cả một số tre
được mang tới để vài anh chẻ ra đan thành những cuộn dây dài. Không ngờ
sáng kiến của Lân lại tuyệt vời. Chỉ hai hôm, tất cả lúa trên hơn mười
thửa ruộng sình được gặt xong. HTX “thu hoạch” được số lượng lúa khá
lớn. Tay Chủ nhiệm xin cho bọn tôi được ở lại thêm một ngày để nghỉ ngơi
và “liên hoan”. Ăn cơm trắng với cá “trám cỏ”. Thấy có một cái trống
rách, bỏ nằm lăn lóc trong góc đình, Lân bèn nghĩ ra một điều “kỳ lạ”
khác. Anh tháo da từ cái trống ra, mượn một cái chảo đun sôi gần cả một
đêm, sáng hôm sau, các miếng da nở ra, mềm, dẻo và trắng mướt. Lân thái
nhỏ ra, xin thêm đậu phụng (lạc), giã nát cùng với ít rau, rắc lên.
Miếng da rách trong chiếc trống lăn lóc ngày hôm qua, bây giờ đã trở
thành một món ăn khoái khẩu. Những bạn tù hôm ấy chắc chắn không ai có
thể quên Lân và những ngày tù thật đặc biệt này.
Sau khi được chuyển về Trại Nghệ
Tĩnh, Lân rủ tôi và một người bạn thân nữa tổ chức một cuộc trốn trại.
Tôi rất tin tưởng vào khả năng vượt thoát của Lân. Thời gian này bắt đầu
được thăm nuôi, Lân đã nhờ người nhà mang theo nhiều thức ăn khô, một
số tiền mặt và một cái địa bàn nhỏ dấu kín trong hũ mắm ruốc. Nhờ hối lộ
hậu hỉ cho tên công an phụ trách, nên mọi thứ đều trót lọt. Nhưng chưa
tới ngày thực hiện thì bất ngờ Lân có lệnh thả. Anh rất ngạc nhiên về
việc này. Kế hoạch trốn trại phải hủy bỏ, vì tôi và người bạn còn lại
không tin vào khả năng của mình, nếu không có Lân.
Năm 1983, sau gần một năm được
chuyển về Trại Z-30 C Hàm Tân, tôi được thả. Ra trại, thay vì về quê
ngoài Nha Trang, tôi vào Sài gòn tìm Lân. Vì trước lúc chia tay, Lân cho
biết là sau khi về nhà, anh sẽ mua ghe tổ chức vượt biên. Anh còn dặn
dò, bất cứ lúc nào ra khỏi tù, tôi nhớ tìm gặp anh ngay. Tôi luôn tin
tưởng vào khả năng, đạo đức và chân tình của Lân.
Thời gian trong tù, qua tâm sự của
Lân, tôi biết rất rõ về nhà cửa, địa chỉ và tất cả những người trong
gia đình anh. Ông cụ đã mất trước 75, Lân chỉ còn bà cụ đang sống với
hai cô em gái trong ngôi nhà khá lớn ở bên Quốc lộ, gần Ngã Tư Hàng
Xanh. Ông anh duy nhất là một Biên Tập Viên Cảnh Sát, làm việc tại Sài
gòn, đã kịp rời khỏi Nhà Bè vào sáng sớm ngày 30.4.75.
Lân được cả nhà, đặc biệt là bà mẹ
hết lòng yêu thương. Chính vì điều này mà Lân đã không đành bỏ mẹ để ra
đi khi CS chiếm Sài gòn, mặc dù khi ấy Lân có nhiều phương tiện trong
tay, đã giúp khá nhiều bạn bè ra khỏi nước. Sau này Lân còn cho tôi
biết, chính mẹ và các em gái của Lân đã bán nhiều tài sản và dùng vàng
bạc giấu được sau các đợt “đánh tư sản”, tìm đường dây đến một tay thứ
trưởng Bộ Nội Vụ CS mua cho Lân cái giấy ra trại, để vượt biên sớm. Lân
là một trong số rất ít tù được thả sớm từ miền Bắc trong thời gian ấy.
Khi tìm đến nhà, tôi gặp mẹ và
cô em lớn của Lân. Bà mẹ cũng là một người tu hành. Bên kia phòng
khách, tôi nhìn thấy một tượng Phật Quan Âm lớn hơn một người thật, cao
gần đến trần nhà. Tôi bảo tôi là bạn tù rất thân của Lân vừa mới được
thả ra, tìm đến thăm Lân, nhưng cả mẹ con đều bảo Lân đang sống ở vùng
kinh tế mới dưới Phước Tuy. Nhìn vẻ mặt của hai người tôi biết là họ
đang nghi ngờ tôi, có thể là một gã công an nào đó muốn thăm dò tin tức
Lân. Khi tôi hỏi xin địa chỉ nơi ở của Lân trong vùng kinh tế mới để đi
thăm, viện cớ là tôi ở ngoài Trung, sau này khó có thể gặp Lân, hai
người bảo là không biết, hơn nữa người lạ cũng không được phép đến đó.
Đoán là có điều gì xảy ra cho Lân, nên cả mẹ và em Lân cố tình giấu
giếm, tôi lấy tờ Giấy Ra Trại đưa cho cô em xem và kể thêm một số chi
tiết về Lân cũng như những người trong gia đình. Khi ấy hai người mới
tin và cho tôi biết là Lân tổ chức vượt biên, kéo theo một số bạn bè,
nhưng chẳng may ghe bị mắc cạn ở cửa sông Mỹ Tho, Lân bị bắt và đang bị
nhốt trong một trại tù rất khắc nghiệt. Tôi cám ơn và xin tạm biệt, nhờ
chuyển lời thăm Lân khi có thăm nuôi. Tôi cũng để lại địa chỉ và nhờ nói
lại với Lân, khi ra tù nhớ liên lạc với tôi. Mẹ của Lân bảo cô em vào
lấy một số tiền biếu tôi. Tôi từ chối nhưng hai mẹ con nhất mực bắt tôi
phải nhận. Cô em đã nhét tiền vào túi áo của tôi.
Sau hơn tám năm, trở về nhà,
chưa kịp làm quen với mấy đứa con, nhất là con gái út còn nằm trong bụng
mẹ ngày tôi vào tù, và cũng chưa kịp hỏi được tin tức về nơi chôn cất
cha tôi, ông đã chết trong môt trại tù khác trong Nam từ tháng 6/1976,
thì bốn hôm sau, tôi được “mời” ra công an thị trấn, nhận cái giấy trả
lại trại tù, với lý do “nhân dân địa phương không chấp nhận cho tôi được tạm trú”.
Khăn gói vào lại trại tù Z-30C, được cho ở tạm nhà thăm nuôi ba hôm,
sau đó nhận một tấm Giấy Ra Trại khác, với nơi chỉ định tạm trú mới là
sinh quán của tôi. Ở đó tôi chẳng còn ai, ngoài bà cô già, góa bụa sống
trong ngôi nhà từ đường của ông bà nội tôi để lại. Tôi lại bị chính
quyền CS ở đây hành hạ, làm nhục đủ điều. Không còn con đường nào khác,
ngoài vượt biên. Nhờ một ông anh con ông cậu ruột, nguyên là một HSQ Hải
quân, đang có sẵn ghe đánh cá, tôi liều lĩnh âm thầm khuyến khích và tổ
chức vượt biên, chỉ dành cho gia đình và những người thân thiết nhất.
Tôi nhờ đứa cháu vào nhà Lân. Rất may là Lân vừa mới ra khỏi tù hơn một
tuần lễ, cũng nhờ bà mẹ lo lót. Lân mua giấy tờ giả, đóng vai một “cán
bộ thương nghiệp” ra Nha Trang công tác. Tôi gởi Lân ở chung nhà với một
người bạn thân khác của tôi, là căn phòng nhỏ ngay phía sau một trường
tiểu học mà anh là hiệu trưởng, không ai để ý. Đúng giờ hẹn, tôi cho
người đón Lân bằng xe Honda và đưa Lân trốn trong một ghềnh đá sát bên
bờ biển ở một nơi an toàn. Tôi hẹn cho ghe ghé đến, đậu xa bờ khoảng 200
mét, báo mật hiệu bằng đèn và cho thằng cháu chèo thúng chai vào đón.
Nhưng Lân bảo không cần, vì thúng chai chèo chậm lắm, anh sẽ bơi ra tàu
cho nhanh. Khi kéo Lân lên tàu, hai đứa ôm chầm lấy nhau, như thầm hứa
hẹn một “trang sử” mới.
Mặc dù có người anh định cư ở Mỹ
từ 1975, nhưng Lân quyết định cùng đi Na-Uy với chúng tôi. Mấy lần tôi
hỏi, có phải trong lòng Lân còn “hận” Mỹ, đã phản bội, bỏ rơi người bạn
đồng minh, để đất nước và cả dân tộc mình điêu đứng lầm than? Lân cười,
bảo chỉ muốn sống gần tôi, người bạn đã cùng sống chết với anh trong
suốt đoạn đời tù đày khốn khổ.
Lân cùng học rồi cùng vào làm một
sở với tôi cho đến ngày về hưu. Chúng tôi cùng hăng say hoạt động trong
một tổ chức kháng chiến ngay từ ngày đến Trại Tị Nạn Bataan, Phi Luật
Tân. Vào thời điểm ấy, tổ chức này rất nổi tiếng và được nhiều người
khắp nơi tham gia, ủng hộ. Khi một cán bộ cao cấp của tổ chức từ Hoa Kỳ
đến Na-Uy sinh hoạt, cả Lân và tôi xin tình nguyện được về “chiến khu
quốc nội”(?), nhưng ông ta bảo không còn cần thiết nữa. Chỉ một tháng
sau đó, tổ chức này rạn nứt, tan vỡ, phơi bày bao điều không thật, đau
lòng. Chúng tôi thất vọng và phẫn nộ khi có cảm giác mình bị lừa dối.
Những năm sau, Lân sang Mỹ nhiều lần, thăm ông anh, họp bạn bè và tìm
hiểu các tổ chức, hội đoàn hoạt động ở đây. Anh háo hức, thiết tha mong
được đóng góp phần mình. Lân thường bảo, cuộc sống lưu vong này sẽ trở
nên vô nghĩa, nếu chúng ta không làm được điều gì. Chẳng lẽ rồi bọn mình
cũng chỉ là những “con chim ẩn mình chờ chết!”hay sao?
Cuối cùng, dường như Lân đã không
tìm được một “ánh sáng nào ở cuối đường hầm”. Anh bảo những hình thức,
phô trương, những bộ quân phục và lon lá bị lạm dụng, những ông bà háo
danh chủ tịch, tranh giành cộng đồng này, hội đoàn nọ, tệ nhất là mấy
cái chính phủ với đám tướng tá tự phong, tự diễn, lố bịch như đám phường
tuồng, làm anh muốn buồn nôn.
Có những ông chưa có một ngày
trong lính, nhưng lúc nào cũng tỏ ra là một nhà quân sự tài ba, huênh
hoang chê bai ông tướng này ông tá khác, phê phán đủ các trận chiến ngày
xưa. Cũng có những ông gốc lính, chẳng biết tài năng đến đâu, chửi bới
không sót một người nào, từ các cấp chỉ huy của mình ngày trước cho đến
tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, bằng lời lẽ hạ cấp bẩn thỉu, chụp mũ người
này người khác, nếu không hoan hô “cái tài thao lược” của phe ông.
Bạn bè thì một số thoải mái với
cuộc sống mới và đã biến thành những con người mới, quên mình đã từng là
lính và bị tù đày. Một số thì tìm đến với nhau trong những hội hè, mong
có nhiều cuộc họp mặt tiệc tùng, để có dịp mặc bộ quân phục, tìm lại
chút “dư âm ngày cũ”. Chưa kể một số đua nhau về Việt nam, để đi trở lại
trên những “đường xưa lối cũ.” Lân bảo, vẫn biết mỗi người có quyền
chọn cho mình một cách sống riêng để bù đắp những mất mát hay xoa dịu
phần nào vết thương quá khứ, tất cả đều tội nghiệp, nhưng sao anh vẫn
thấy có điều gì đó làm xót xa, đau đớn trong lòng.
Đôi khi Lân than thở với tôi:
-Đã hơn 30 năm sống trong cái cộng
đồng ly hương này, sao nhiều lúc mình vẫn có cái cảm giác bồng bềnh như
ngày nào còn ngồi với bạn trên chiếc thuyền vượt biển ra khơi!
Tôi lên mặt lý sự cốt an ủi Lân:
-Bạn đừng lý tưởng quá, thời gian
nó sẽ xói mòn và làm đổi thay tất cả. Trong cái xô bồ, mình phải gạn lọc
để chấp nhận và trân trọng những gì tương đối, bởi rất nhiều anh em,
cũng như chúng ta, đành phải “lực bất tòng tâm” trước những ước vọng đó
sao!
Tôi thầm tiếc và tội nghiệp cho
Lân, một con người yêu nước, tài ba, can đảm và đức độ như vậy mà chẳng
còn một nơi nào để “dụng võ”.
Nhiều lúc thấy Lân trầm ngâm,
ngồi im lặng như một thiền sư, tôi tự hỏi, từ ngày chọn con đường tu
hành, ngày đêm với kinh kệ, không biết trong lòng Lân có còn nỗi khắc
khoải nào không? Tôi ngại không dám hỏi Lân. Mới đây, trong lúc ngồi bên
nhau Lân nói với tôi:
-Bây giờ tôi chỉ còn mong ước hai
điều, trước khi chết được thấy đất nước mình đổi thay, không còn Cộng
sản, và khi nhắm mắt được có bạn ở bên cạnh để vuốt mắt và niệm cho tôi
một bài kinh A Di Đà!
***
Con chim gỗ trên chiếc đồng hồ
treo trong quán cà phê vừa hót lên bảy tiếng. Như vậy là bọn tôi ngồi
đây đã ba giờ đồng hồ. Trời không tối nên cứ tưởng còn sớm lắm. Ánh mặt
trời vẫn chói chang qua những tàng cây. Tôi đứng dậy dành đi trả tiền.
Lân bước ra trước, đứng chờ ở vệ đường, nhắm mắt ngước mặt lên trời.
Không biết anh đang cầu nguyện điều gì hay muốn xóa đi, quên hết những
gì mà chúng tôi vừa tâm sự, để trở về với cái tâm yên tĩnh của một thầy
tu. Anh đứng yên lặng nhưng cái bóng của anh lung linh, sống động trải
dài theo bờ con dốc đá. Nhìn cái bóng, tôi mơ hồ như bất ngờ được gặp
lại người phi công trẻ, hào hoa, oai hùng, mà mình đã từng quen biết từ
một thời nào xa xưa như trong tiền kiếp.
Bỗng dưng, tôi nhớ tới những đồng
đội bạn bè đã hy sinh, nhớ tới những chàng phi công hào hùng đã từng
sống chết với đơn vị tôi trong Mùa Hè 1972 và suốt một thời binh lửa.
Khi bước đến bên Lân, tôi vẫn thấy anh đứng lặng yên, bất động, hướng
mắt nhìn về một nơi xa xăm nào đó. Trên không gian bao la chỉ có vài áng
mây đang chầm chậm bay về phía cuối chân trời.
Phạm Tín An Ninh
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 10/Sep/2018 lúc 10:36am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 10/Sep/2018 lúc 2:27pm |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 11/Sep/2018 lúc 2:26pm |
Nụ Cười Bao Dung
– Ba rất vui mừng và xúc động khi được gặp con! Tôi nhìn người đàn ông trước mặt bằng ánh mắt hoài nghi, rồi liếc sang cậu Tính thật nhanh như thầm hỏi “có thật vậy không?”. Cậu Tính mím môi với nụ cười gượng gạo. Bàn tay cậu không ngừng xoay chiếc muỗng trong ly cà phê đá. Biết cậu sẽ tìm cớ để rút lui nên tôi vội vàng lên tiếng: - Con có một cái hẹn quan trọng lúc mười một giờ trưa. Con xin phép đi trước. Cậu Tính vừa định nhỗm dậy thì người đàn ông đã níu lấy cánh tay cậu van nài: - Cậu ở lại một chút… anh có nhiều chuyện muốn hỏi. Tôi với tay lấy chiếc áo khoác, lẹ làng: - Dạ con xin chào…!!! Ra đến bãi đậu xe tôi thở phào nhẹ nhõm. Vừa ngồi xuống sau tay lái tôi vừa lẩm nhẩm “ba! ba!!”, nhưng sao nghe giọng nói của mình… hình như lạ hoắc. Có thật ông ấy là ba của tôi? Tôi nhớ, từ ngày bắt đầu khôn lớn, không bao giờ tôi nghe mẹ nhắc đến “ba”. Còn tôi, chỉ một lần duy nhất trong đời -khi ấy tôi vừa lên mười tuổi. Sau câu hỏi, mẹ ơi! con có ba không, sao con chưa được gặp ba lần nào? thì mắt mẹ đã sa sầm, giọng nói như nghèn nghẹn, đứt quãng. Hãy nhớ! con có thể hỏi mẹ bất cứ điều gì, nhưng đừng bao giờ hỏi mẹ câu hỏi đó… nghe không? Rồi như chưa an tâm, mẹ kéo tay tôi nói rõ từng chữ. Nhớ không con? Giọng nói thật nhẹ nhàng, nhưng ánh mắt long lanh của mẹ làm tôi sợ hãi. Dạ con nhớ. Con nhớ. Tối hôm đó mẹ lên giường nằm cạnh tôi, vuốt tóc và hôn nhẹ lên mắt tôi, ngọt ngào nói: - Mẹ xin lỗi… Có những điều mẹ chưa thể nói với con bây giờ… nhưng sau này… lớn lên con sẽ hiểu. Con có giận mẹ không? Tôi im lặng. Cũng không biết vì sợ hay vì giận. Nhưng từ đó, trong tâm trí tôi không bao giờ có hình ảnh của một người cha!!! *** Cậu Tính đưa cho tôi cái hộp đựng bánh cookies được dán kỹ bằng vòng băng keo vải. Ngập ngừng một lúc cậu nói khẽ: - Đây là kỷ vật duy nhất của mẹ mà cậu giữ được. Có lẽ mẹ con không bao giờ muốn con biết sự thật về cuộc tình oan nghiệt của mẹ. Cậu cũng vậy, cậu không muốn những vết đen trong cuộc đời mẹ con ảnh hưởng đến tương lai của con. Nhưng bây giờ thì sự thể đã khác. Con cần biết rõ những gì con phải biết để xử sự cho đúng đối với người mà con phải gọi bằng ba. Phải gọi bằng ba! Hình như có chút gì cay đắng trong câu nói của cậu? Chắc hẳn cậu ghét và hận người đàn ông này! Tôi đặt chiếc hộp trên bàn, bâng khuâng nhìn ra cửa sổ. Trời đã bắt đầu vào thu với từng cơn gió nhẹ cuốn theo những chiếc lá vàng đang lắt lây trên cành cây khô gãy. Cái cảm giác nao nao buồn làm tôi ngại ngùng khi nghĩ đến việc mở chiếc hộp ra, nhìn vào đó như nhìn vào cái quá khứ đau buồn mà mẹ đã muốn đóng kín từ lúc tôi còn bé thơ. Tôi vốn là người không có tính tò mò và rất sợ đối diện với sự thật. Cái sự thật đầy nước mắt khốn khổ của mẹ tôi, người phụ nữ nhan sắc vẫn còn mặn mà nhưng đã lià trần khi tuổi đời vừa tròn con số bốn mươi. Mẹ tôi quen với “ba” khi đang là học sinh lớp 12 trường Đoàn thị Điểm. Lúc ấy đang thời chiến tranh, “ba” là một quân nhân, ông bị thương trong cuộc hành quân tại Chương Thiện và được đưa về điều trị tại quân y viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Mẹ có mặt trong nhóm học sinh ủy lạo chiến sĩ và cuộc viếng thăm định mệnh ấy đã bắt đầu cho một chuyện tình thời chinh chiến. Khi ánh mắt đầu tiên chạm vào nhau là mẹ đã bị mũi tên tình ái bắn trúng ngay tim. Cô nữ sinh mười tám tuổi lao vào tình yêu cuồng nhiệt bất kể sự ngăn cấm của gia đình. Mỗi ngày, sau giờ tan học mẹ thường lấy cớ ở lại tập văn nghệ Tết cho trường để vào thăm “ba”. “Tình yêu sét đánh” đã phát triển bằng đôi hia bảy dặm khiến cho bạn bè phải ái ngại, nên họ thường nhắc nhở mẹ, coi chừng mấy ‘anh lính đa tình’, anh nào cũng vậy, mỗi nơi dừng chân đều có một mối tình và người thua thiệt vẫn là những cô thiếu nữ đầy mộng mơ, lãng mạng. Ông ngoại tôi lúc bấy giờ là một vị đại tá có tiếng tăm. Dĩ nhiên ông không chấp nhận mẹ tôi dan díu tình cảm với một anh trung sĩ. Chưa kể ông và người bạn bác sĩ nào đó đã có ý định kết suôi gia. Khi “ba” xuất viện trở về đơn vị thì mẹ cũng bắt đầu xao lãng việc học. Tất cả thời gian còn lại khi từ trường trở về nhà mẹ dành để miệt mài viết thư tình và trang trải nỗi nhớ, niềm thương trên những trang nhật ký dày đặc. Năm đó mẹ thi rớt tú tài hai. Ông ngoại nổi giận, bắt bà ngoại lấy tất cả hình ảnh, thư từ mà mẹ đang cất giữ đem ra thiêu hủy. Tình yêu đầu đời đầy cuồng nhiệt đã khiến mẹ trở nên bướng bỉnh. Mẹ chống đối quyết liệt để giữ lại những kỷ niệm tình yêu mà đối với mẹ là quý báu nhất trên đời và ngày hôm sau mẹ đã trốn nhà, lặn lội trên quãng đường đầy nguy hiểm để tìm đến nơi “ba” đóng quân. Kết quả của sự liều lĩnh bất chấp hậu quả đó là một sinh linh bắt đầu tượng hình trong bụng mẹ. Khi biết mình có thai mẹ đã tức tốc báo tin cho “ba”. Rồi mẹ chờ đợi… chờ đợi mãi vẫn không có một hồi âm nào từ người tình đầu tiên mà mẹ hết dạ yêu thương. Cuối cùng mẹ không dấu được ông bà ngoại cái bụng ngày càng lớn. Một quyết định cấp bách đã được thực hiện theo lệnh của ông ngoại -mẹ phải lên Đà Lạt ở với Dì Mơ để dấu nhẹm chuyện xấu xa này. Nơi xứ lạnh đìu hiu đó mẹ vẫn viết thư cho “ba”, nhưng người vẫn bóng chim tăm cá. Tội nghiệp mẹ, hai mươi tuổi đầu với dung nhan diễm lệ, lại là con nhà danh giá mà phải mang lấy số phận lao đao trong mối duyên đầu. Đến ngày sinh nở, mẹ không kịp nhìn mặt con, đứa bé đã được đưa đi mất dạng. Mẹ khóc lóc thảm thiết, van xin ông bà ngoại hãy trả con lại cho mẹ. Nhưng ông ngoại đã lạnh lùng phán quyết. Hãy quên những chuyện không tốt đẹp đã qua, trở về nhà tiếp tục đi học, xem như chưa từng có đứa bé nào hiện diện trong cuộc đời của mẹ. Mẹ gào thét khóc la, nhưng ông ngoại đã dằn khẩu súng lên bàn với mệnh lệnh sắt thép, cả nhà sẽ chết nếu con tiếp tục bôi tro, trát trấu vào mặt ba mẹ. Nhìn thấy bà ngoại đang run rẩy với khuôn mặt đầm đìa nước mắt, mẹ đành gật đầu chấp nhận làm theo lời ông ngoại như chấp chận khóa chặt cánh cửa quá khứ, chấp nhận cắt lìa tình mẫu tử với đứa con mà mẹ chưa được nhìn thấy nó một lần. Một năm sau, vào tháng 8 năm 1975, một người đàn bà từ Lâm Đồng tìm đến nhà, trả lại cho bà ngoại đứa con gái mười ba tháng. Mẹ nhìn trân trối đứa con gái xinh đẹp như thiên thần trên tay bà ngoại. Không cần hỏi câu nào mẹ đã nhào đến ôm chầm lấy đứa con thơ. Nước mắt đoàn tụ ràn rụa trên khuôn mặt mẹ rơi xuống đôi mắt ngây thơ của bé gái đang ngơ ngác nhìn mọi người. Lúc ấy, ông ngoại bị đưa đi cải tạo tận miền Bắc xa xôi, gia đình lâm vào cảnh túng quẩn, mẹ phải cùng bà ngoại lăn ra ngoài xã hội để buôn bán kiếm sống. Trong cái thế giới chợ trời hỗn tạp mẹ gặp một người cùng nằm trong quân y viện với ba ngày trước. Qua người ấy mẹ được biết “ba” là hạ sĩ quan nên không bị đi cải tạo. Mẹ vui mừng cầm tờ giấy ghi địa chỉ của “ba” lòng khấp khởi hân hoan trước viễn ảnh đoàn tụ hạnh phúc. Nhưng khi mẹ đến nơi thì mới biết ba đã có người đàn bà khác… Đó là tất cả những gì tôi biết được qua cậu Tính. - Rồi sau đó thì sao hả cậu!!! Cậu chỉ chiếc hộp rồi xoa đầu tôi: - Câu trả lời nằm trong chiếc hộp đó. *** Khoảng thời gian sau đó tôi cố tình né tránh dù ông ấy tìm đủ mọi cách để gặp tôi. Dĩ nhiên tôi không bao giờ bắt điện thoại, dù ông gọi nhiều lượt mỗi ngày. Và cũng vì chuyện này mà tôi giận cậu Tính mấy tuần. Tôi gay gắt hỏi cậu, sao chưa hỏi con mà cậu đã cho số điện thoại, cậu biết con không muốn liên lạc với ông ấy mà! Cậu Tính trách tôi sau quá cứng lòng, chuyện xảy ra đã mấy mươi năm, nếu tha thứ được thì hãy tha thứ để hai bên đều được nhẹ lòng. Tôi không biết nói sao để cậu Tính hiểu, vì chính tôi cũng không biết rõ tâm trạng của mình. Hận ông? Cũng không hẳn. Vì dù không có cha, nhưng mẹ, bà ngoại, các dì, các cậu yêu chìêu tôi như trứng mỏng, nên tôi không hề có cảm giác thiếu thốn và khao khát tình thương. Ghét ông? Hình như … không đúng. Vì những éo le, cay đắng của mối tình ngắn ngủi giữa mẹ và ông ấy thì chỉ có người trong cuộc mới hiểu được. Còn trước mắt tôi, mẹ không hề vật vã khổ đau mà bà sống rất bình thản với nụ cười hiền từ và bao dung luôn nở trên môi. Có lẽ chính cái điều mập mờ không rõ rệt trong lòng tôi đã tạo nên một khoảng cách. Cái khoảng cách vô hình đó làm tôi ngại ngần khi đứng trước mặt ông ấy. Tôi sợ phải nghe những lời giải thích mà tôi không hoàn toàn tin tưởng. Tôi sợ phải trả lời. Những câu trả lời đôi khi không thật với lòng mình vì lý do tế nhị hoặc những câu trả lời gây đau đớn cho ông vì sự ngổ ngáo của tôi. Nhưng lý do chính xác nhất khi tôi quyết định không mở chiếc hộp -kỷ vật của mẹ- là tôi không muốn đối diện với sự thật. Có thể tôi là một đứa con ích kỷ, không muốn chia sẻ với mẹ những buồn đau mất mát mà người đã gánh chịu. Nhưng quả thật, tôi là một đứa con gái yếu đuối, thiếu ý chí và sự can đảm để đối diện và ứng phó với những biến cố xảy ra cho mình. Tôi bằng lòng với những gì tôi đang có. Tôi không muốn khơi dậy cái quá khứ không toàn màu hồng của tôi bằng sự chấp nhận ông bước vào cuộc đời tôi. Tuy là vậy nhưng lòng tôi không khỏi bứt rứt vì sự tha thiết của ông và sự lạnh lùng gần như vô cảm của tôi. Nhiều khi tôi ao ước mình giống như nhân vật trong vở tuồng cải lương, khi được ai đó cho biết đây là cha của con thì cô gái chạy bay về phía người cha giang rộng hai tay, miệng mếu máo kêu lên cha, rồi nói những câu đầy yêu thương nhung nhớ. Những cảnh ấy làm cho tôi buồn cười nhiều hơn là cảm động. Khi nghe tôi nói vậy cậu Tính trầm ngâm một lúc rồi nói - chẳng biết là thật hay đùa- chắc con cũng nên tập diễn như thế cho đời ba con bớt khổ. *** Tôi còn đang loay hoay chưa biết phải xử sự với ông ấy thế nào cho đúng thì bỗng một ngày… Vừa bước vào nhà hàng -nơi tôi thường xuyên ăn trưa- một người đàn bà tiến đến, xin phép ngồi cùng bàn với tôi. Tôi miễn cưỡng gât đầu và sau cái gật đầu là giật mình khi nghe bà gọi đúng tên tôi. - Kim Giao khỏe không? Nhìn ánh mắt ngỡ ngàng của tôi bà nhẹ nhàng nói: - Cô xin phép được tự giới thiệu, cô là…. người nhà của ba con! Bỗng dưng tôi cảm thấy khó chịu nên ngồi thẳng người lên: - Xin lỗi, tôi không có ba! Bà dịu dàng nhìn tôi với một nụ cười. Nụ cười hiền từ, bao dung trên môi bà sao giống mẹ tôi lạ lùng. Chính nụ cười ấy đã giữ chân tôi lại, dù tôi đã có ý định đứng lên khi nói xong câu nói ấy bằng giọng lạnh lùng. - Những gì đã xảy ra cho mẹ con thật đáng buồn… Cô không có ý nói rằng ba con không có lỗi, nhưng thời buổi chiến tranh loạn lạc khiến người ta không thể làm được điều mình muốn… Ba con rất ân hận. Ông đã cố công tìm kiếm con mấy mươi năm. - Con cái của ông bà đâu mà phải đi tìm một đứa con rơi như tôi. Bà lặng thinh một lúc rồi ngước mắt nhìn tôi. Vẫn còn đó nụ cười trên môi bà nhưng cái nhìn thì như chứa đựng rất nhiều điều u uẩn. - Chúng tôi không có con! Tôi nghiêng đầu nhìn bà, không cố ý mà lời nói buông ra như hờn, như trách: - Chắc là khi cô không sinh đẻ được ông ấy mới chợt nghĩ đến tôi mà ân hận. Nếu không thì tôi sẽ mãi mãi là đứa con không bao giờ biết cha mình là ai. Nụ cười tắt ngang. Môi bà mím lại. Đôi mắt long lanh ánh nước. Tôi chợt ân hận, lúng túng đứng lên, đến quầy trả tiền tô phở vừa mang ra rồi đi thẳng ra cửa. Tôi biết chắc phía sau mình có một đôi mắt thất vọng nhìn theo. Lòng tôi bất ổn suốt buổi chiều hôm đó. Không phải vì ông ấy. Không phải vì tôi. Mà vì người đàn bà. Tại sao bà ấy không hờn ghen, ganh tỵ với đứa con riêng của chồng mà lại cố gắng thuyết phục tôi và hết lời biện minh cho ông ấy. Hai ngày sau bà lại tìm gặp tôi. Vẫn với nụ cười hiền từ, bao dung bà không nói gì chỉ đặt vào tay tôi một bức thư rồi lặng lẽ bước đi. Lá thư với những lời lẽ van nài thật thiết tha, cảm động. Bà xin tôi hãy mở lòng đến gặp ông ấy một lần, vì có thể ông ấy sẽ ra đi bất cứ lúc nào vì căn bệnh nan y đang thời kỳ cuối. Đọc thư xong tôi cười ha hả: - Cậu Tính ơi! sao chuyện đời con giống vở tuồng cải lương gì… gì đó. Chắc ngày đi nhận cha, con phải xuống một câu vọng cổ, còn cậu thì nhớ phựt đèn màu nha. Công nhận bà này đóng vai người vợ cao thượng hay thiệt. Cậu Tính nhìn tôi nghiêm nghị: - Cậu ngạc nhiên về con, mỗi lần xem phim tình cảm con đều rơi lệ, sao bây giờ lại có thể thản nhiên như vậy? Tôi nhìn cậu Tính bằng cái nhìn khó hiểu. - Ủa! chứ không phải vì hai người ấy mà mẹ con phải khổ sao? Cậu mới là người làm cho con ngạc nhiên đó! Tôi tiu nghỉu đi vào phòng tự hỏi có thật là mình là kẻ vô tâm. Ngồi xuống giường tôi mở lá thư ra đọc lại. Những dòng chữ trong lá thư như rõ nét hơn, cũng lời thư tôi đã đọc qua nhưng bây giờ như tha thiết hơn với những lời tâm sự . “ Cô gặp ba con vào những ngày cuối tháng 4 trên đường di tản vào Saigon. Gia đình cô gồm có ba má cô và hai đứa em nhưng theo dòng người xô đẩy chen lấn và những lần phải tìm chỗ ẩn nấp vì đạn pháo kích đã lạc mất nhau. Một mình cô, người con gái mười bảy tuổi trôi dạt trên quãng đường đầy gian nan với bao cảnh chết chóc, cướp bóc. Và cô đã không thoát khỏi thảm cảnh đó. Nhưng ngay lúc cô bị kẻ xấu lôi vào bụi rậm trên khoảng đường vắng vẻ thì ba con, người lính quốc gia đang tìm đường tháo chạy đã xuất hiện kịp lúc để giải cứu cho cô. Từ đó, cô bám lấy ba con như bám vào một vị thần độ mạng. Để rồi, người con gái côi cút là cô vô tình trở thành một duyên cớ khiến mẹ con bỏ đi khi vừa gặp mặt ba con…” Nỗi thắc mắc lớn dần theo câu chuyện bỏ lững nơi đó buộc tôi phải tìm đọc những trang nhật ký nhòe nhẹt nước mắt của mẹ. “Em trở về nhà bằng những bước chân không hồn. Bao nhiêu ước mơ. Bao nhiêu hy vọng. Bao nhiêu náo nức chờ đợi đã vỡ toang. Còn lại đây là nỗi đau xé lòng. Cũng không biết bằng cách nào em có thể trở về nhà sau khi nhìn thấy người đàn bà từ buồng trong bước ra bấu vai anh hỏi nhỏ, ai vậy anh? Anh bối rối nhìn em, rồi nhìn đứa con bé bỏng trên tay em. Em tự hỏi, sao lúc đó em không nhìn thẳng vào mắt người đàn bà đó và nói thật nhẹ nhàng, tôi là ai không quan trọng, quan trọng là đứa bé này, con gái đầu lòng của anh Thắng. Nhưng em đã không làm như thế mà hối hả quay lưng bước đi để dấu những giọt nước mắt bẽ bàng đang lăn dài trên má. Em không biết sau lưng em anh sẽ nói gì với người đàn bà của anh? vợ của người bạn đã chết hay một người đàn bà tội nghiệp muốn tìm chỗ ẩn náu qua đêm…” Suốt đêm đó tôi không chợp mắt được dù là một phút với những suy tư không dứt. Hai người đàn bà hai số phận. Nếu như tôi không có mặt trong cuộc đời của mẹ thì chắc hẳn mẹ tôi đã có được một tấm chồng xứng đáng để hưởng hạnh phúc đến cuối đời. Nếu người đàn bà ấy có khả năng sinh con thì có lẽ bà cũng chẳng cần phải cầu cạnh để xin tôi ban cho chồng bà một tiếng gọi “ba” cho ông an lòng trước khi nhắm mắt. Cuộc đời là những khổ ải triền miên như thế sao? Tôi nghe lòng mình chùng xuống với nỗi buồn mênh mông. *** Cuối cùng tôi đã bằng lòng đi cùng cậu Tính vào bệnh viện để thăm người đàn ông ấy. Trên đường đi cậu Tính nói với tôi: - Cậu không biết con đang nghĩ gì nhưng cậu muốn nói với con một điều, cho dù trong lòng con không có chút tình cảm nào thì cũng đừng nên tiếc một tiếng “ba” với ông ấy. Tôi phì cười: - Ừa! cứ y như mình đang đóng kịch vậy cậu Tính há! Cậu Tính quay sang nhìn tôi không một nụ cười. Tôi bắt đầu nổi quạu: - Trời ơi! ai dạy con phải sống thật với lòng mình mà bây giờ cậu muốn con phải dối trá. - Không phải là dối trá mà là nhân đạo. Từng tuổi này… trải qua biết bao biến cố trong cuộc đời, cuối cùng cậu nhận ra một điều… những gì có thể tha thứ được thì mình nên tha thứ, những gì có thể buông bỏ được thì nên buông bỏ cho tâm hồn được thảnh thơi. Đó là đức bác ái đó, con biết không? Tôi hậm hực quay đi: - Cậu tu đắc đạo rồi chứ con thì chưa. Ước gì ngay lúc đó xe ngừng lại chờ đèn đỏ để tôi mở cửa lao xuống đường, chạy mất hút vào một con hẻm nhỏ nào đó cho đỡ tức. Tôi hít một hơi thật mạnh trước khi bước vào phòng 504. Người đàn bà đang ngủ gật trên ghế sofa chợt giật mình. Thấy tôi, mắt bà tròn lên đầy kinh ngạc rồi mừng rỡ bà chạy đến ôm chầm lấy tôi, hai bàn tay bối rối nắm tay tôi bằng tất cả sự xúc động và cảm kích. Nước mắt ràn rụa trên khuôn mặt tiều tụy, bà kéo tôi đến bên giường nói khẽ: - Anh ơi! Kim Giao đến thăm anh nè! Người đàn ông he hé đôi mắt đã mất nét tinh anh. Bà gật đầu nhìn tôi bằng cái nhìn tha thiết, van lơn. Tôi bối rối nhìn lên trần nhà. Dù cũng muốn làm điều bà đang chờ đợi, nhưng trong lòng tôi không hề có chút cảm xúc khi đứng trước mặt ông ấy. Tôi cũng lạ lùng với chính mình. Tôi không giận, không ghét ông, nhưng sao một chút tình cảm cỏn con dành cho ông tôi vẫn không có được. Bà đưa tay xoa nhẹ vai tôi, nụ cười không còn tươi tắn như lần tôi đã gặp bà nhưng vẫn là nụ cười hiền từ và bao dung của mẹ tôi. Tự dưng tôi thấy lòng mình nhẹ hẫng. Tôi nhìn bà bằng đôi mắt trìu mến và tiếng kêu bật lên từ mong muốn mang niềm vui đến cho bà. - Ba!!! Bà bật khóc trong tiếng nói đứt nghẹn: - Anh ơi! con nó gọi ba kìa… anh có nghe không? Tôi quay đi để bà đừng nhận biết tôi gọi tiếng “ba” là vì bà, vì nụ cười giống mẹ tôi chứ không phải vì người đàn ông mà tôi phải gọi bằng ba Ngân Bình |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 13/Sep/2018 lúc 7:25am |
TÌNH PHỤ Chuyện chú Ngọ gò o Mận cả xóm Bói đều biết, chỉ có mạ o là không hay. Mụ Bốn vui trong bụng khi thấy o Mận dạo ni làm siêng tối tối ra cắm ba cây nhang ở bàn thờ ông Thiên đầu cổng. Mụ nghĩ thầm “Hắn còn nhỏ mà đã có lòng thờ phượng thì cũng mờng. Rồi trời phật phù hộ độ trì cho hắn". Bữa nọ dậy sớm, mụ Bốn xách chủi rèng ra quét cổng ngõ. Mụ hầm hầm chưởi vang “Mệ nội đứa mô vặt hết đám chè tàu của tau trụi lủi”. O Mận tái mặt kéo tay mụ “Thôi mạ ơi! Tụi con nít hái chơi đồ hàng đó mà. Mạ chưởi chi cho mất lòng hàng xóm”.. Khi hàng chè tàu đã lên những chồi non xanh biếc; khi bốn bàn tay của chú Ngọ và o Mận ý tứ không dùng để bứt lá thì mụ Bốn bắt đầu nhận ra những tín hiệu lạ từ con gái. O Mận xanh lét, cái cổ ngẳng ra, lông mày dựng đứng. O dấm dúi lặt những trái chanh non nhỏ xíu sau vườn chấm muối nhai rau ráu. Mụ Bốn thả cái mẹt gạo xuống nền nhà, nắm tóc o Mận kéo vào buồng, vạch áo ra. Trên bộ ngực thanh tân, hai cái núm vú đã chuyển màu nâu sẫm. Mụ Bốn ngồi bệt xuống đất, thở không ra hơi . “Mi…mi… cái đồ thúi tha, rượng đực. Thằng mô… Thằng mô… Trời ui là trời…”. Tóc o Mận rối bù đổ xuống vạt áo đứt nút.. O khóc “Con lạy mạ… con xin mạ… Để con nhủ eng đi đám nói”. Nhưng cái đám nói mà o Mận hy vọng đã không diễn ra. Nhà Ôn Xạ chê mụ Bốn nghèo, con gái mà hư thân mất nết. Biết đó có phải là con thằng Ngọ không hay “Con ai đem bỏ chùa này?” Mụ Xạ ra chợ gia binh trên Cầu Lòn quệt hai ngón tay quanh cái miệng đầy cốt trầu “Tui không làm cao dưng mà nhà nớ khôn bì được. Tui không bưng trầu cau đi hỏi con gái hư. Thời tui lấy dôn, ôn Xạ phải nằm dưới đất một tuần. Có mô dư con cấy thời ni “Bạ mô là dà, ngã mô là chờng”. Dù bị mạ nhốt trong buồng nhưng o Mận cũng tìm cách gặp được chú Ngọ một lần. O chảy nước mắt hỏi “Eng còn thương tui khôn?”. Chú Ngọ chắt lưỡi “Em cứ hỏi chi như con nít năm tuổi, thương chớ răng không thương!”. Chú Ngọ không biết rằng khi lo âu, người ta cứ muốn nghe mãi những câu khẳng định, những câu làm cho người nhận cảm thấy an tâm. Câu trả lời của chú trớt quớt như tránh né. Chú chán rồi chăng? Không biết.. Chỉ biết rằng tháng sau chú tình nguyện đi lính như bài hát đang oang oang trên đài phát thanh chi khu Mai Lĩnh “Đi quân dịch là thương nòi giống”. O Mận biết tin chú Ngọ bỏ nhà đi qua ba dòng chữ chú nhờ thằng Tí Em dấm dúi. Xưa nay trong xóm Bói, chú Ngọ nức tiếng “miệng dẻo như kẹo kéo”. Trên đầu giường của gã con trai trình độ lớp đệ Lục Trường tư thục Thánh Tâm này là một đống tiểu thuyết của bà Tùng Long, Trọng Nguyên, Nghiêm Lệ Quân… Mấy dòng chữ chú viết cho o Mận y hệt thư của chàng công tử Triệu Vỹ viết cho cô gái Mỹ Lan trong tiểu thuyết Bên dòng sông Trẹm của nhà văn Dương Hà “Em đừng trách anh. Chúng mình có duyên mà không có nợ. Anh còn trách nhiệm đối với giang sơn tổ quốc. Mình hẹn nhau kiếp sau”. Ui trời, nếu ông tổng thống Thiệu nghe được, chắc tên chú Ngọ sẽ được lên nhật trình. O Mận trợn trắng con mắt, đấm ba cái bịch bịch vào bụng, cười khanh khách, xé lá thư của chú Ngọ làm hàng chục mảnh nhỏ tung lên trời. O bỏ ăn, nằm bệt trong xó buồng tối, khi khóc tru tru, khi cười ngô nghê. Bây chừ thì mụ Bốn lo lắng. Mạ nào mà chẳng thương con. Huống chi xưa nay o Mận nỏ phải là thứ gái lẳng lơ. Ôn Bốn chết sớm, mụ ở vậy nuôi đứa con gái độc nhất, nhà có nghèo nhưng đâu đến nỗi con cái hoang đàng. “Con ơi, con ăn một chút cho mạ nhờ. Thôi thì “con dại có cháu ngoại bồng”. Mạ không la con nữa mô”. Mụ Bốn cúi mặt lầm lũi đi chợ bán hàng, mặc kệ thiên hạ chỉ chỏ bàn tán. Được bao nhiêu tiền, mụ mua cá giếc nấu rau răm cho o Mận ăn hạ hỏa. Mụ lùng cá bống thệ kho khô để o ăn cháo gạo hẻo rằn. Mụ còn dấm dúi rút trong số tiền để dành hậu thân hậu thổ ra ngoài chợ tỉnh, vô tiệm Đức Thọ Đường bổ cho con mười thang thuốc Bắc. Không hiểu nhờ thầy thuốc mát tay hay vì lòng thương mạ mà dần dần bệnh tình o Mận thuyên giảm. O đã ra được đầu hè ngồi phơi nắng cho mụ Bốn rẽ tóc bắt chí, cái bụng thè lè như con ểnh ương. Mái tóc đẹp nhất xóm bây chừ xơ xác, lởm chởm như trải qua cơn bệnh thương hàn. Làn da xanh và mỏng, nắng soi qua được. Không ai còn thấy nụ cười o Mận. * Bà mụ Thơm loan báo o Mận đẻ được một thằng cu cái mặt “y chang thằng cha Ngọ”. Tràng hoa quấn cổ. Đập vào mông ba cái mới khóc oe oe. Thằng này chắc sau làm lớn lắm đây. Xóm Bói lại có một đề tài sốt dẻo cho mấy mụ đàn bà vô công rỗi nghề bàn tán. Quán nước chè của mụ Tươi bỗng dưng đắt hàng, chiều mô cũng có người ghé chuyện trò râm ran. Mụ Xạ lảng vảng nghe ngóng, thăm dò. Đàn bà thường hay quên. Mụ Xạ cũng quên tuốt những lời chửi mắng o Mận của mình trước đây. Dù răng chú Ngọ cũng là con trai duy nhất trong bầy con sáu đứa, hũ mắm treo đầu giàn. Mụ về thì thầm với ôn Xạ “Hay mình qua nhìn cháu? Hắn đi trận mạc lỡ có chuyện chi thì còn có thằng đội mũ mấn”. Ôn Xạ gạt phắt “Kì ni thằng Ngọ về phép, cưới cho hắn con vợ thì có cháu ngay. Mắc chi mụ lo”. Mụ Xạ tần ngần nhưng sợ chồng nên cũng im re. Thi thoảng có việc ra cánh đồng Long Hưng, ngang nhà o Mận, mụ che nón nhưng mắt len lén dòm vào coi có gặp ai bồng thằng cháu không. Thằng con o Mận, nhờ trời thương nhà nghèo, ăn ngủ ngoan như con cun cút. Căn nhà tranh trong khu vườn chuối im ắng, không hề nghe tiếng à ơi. O Mận ru con bằng những lời thầm thì trong cổ họng. Lắng nghe kỹ loáng thoáng mấy câu: Eng nói với tui như rìu chém xuống đá Như rựa chém xuống đất Như mật rót vào tai Bây chừ eng đã nghe ai Bỏ tui giữa chốn non Đoài khổ chưa?! Mệ Thơm hàng xóm qua chơi thì ít, dòm ngó thì nhiều. Mệ chép miệng “Thôi, cho cháu về dòm ôn bà nội đi. Có ghét chi thì cũng là cháu đích tôn”. Mụ Bốn dài môi “Đích tôn thừa trọng, đứt họng lòi da. Bước vô nhà ni, tui chém chết”. Ôn Trưởng ấp vô nhắc, hối làm giấy khai sinh. O Mận chỉ hé răng nói một câu “Mạ Lê Thị Mận. Con là Lê Hận. Rứa thôi!”. * Ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò… thằng cu Hận lớn nhanh như thổi. Mới đó đã chập chững biết đi.. Rồi cũng phải nghĩ đến chuyện làm ăn. Nhà một mạ một con, mụ Bốn mỗi ngày một yếu. Sau ba đêm bàn bạc, mụ Bốn nhờ chú Hoạt làm một cái quán tranh gần ngã ba Long Hưng, cất nhờ trên đất ôn Bá bà con xa, cạnh lò gạch Trương Kế. Quán bán mấy chai bia con cọp, vài chai xá xị, dăm ba thẩu kẹo bánh. Buổi sáng thì có thêm bó rau, trái cà trái mướp của mấy nhà trong xóm. Rứa mà quán đông khách mới lạ.Trước hết là mấy mụ đàn bà. Ghé quán làm chi? Để coi thằng Hận có giống chú Ngọ khôn? Để coi mặt mày o Mận bữa ni ra răng? Mà chả lẽ đi không. Thôi thì mua bó rau, củ hành cho có chuyện mà trạo. Thứ hai nữa là mấy chú lính "Địa Thiên Lôi" ở trạm gác Long Hưng. Ngồi lâu cũng mệt, ghé quán làm ly bia giải khát, ngó cô bán quán cũng hay. Thứ ba nữa, đúng như lời ôn cha nói: “Cơm chín tới, cải ngồng non. Gái một con, gà mái ghẹ”. Sau gần cả năm ở biệt trong nhà, o Mận đẹp ra. Da trắng, tóc xanh, ánh mắt xa xăm và không hề cười dù người khác kể chuyện tiếu lâm. Tất cả làm o thêm phần bí ẩn. Chi khu Mai Lĩnh thành lập, hàng o Mận tự dưng có nhiều khách mà đông nhứt là lính. Không chỉ lính Địa phương quân mà còn là lính của Trung đoàn I, lính Tiểu đoàn 11 Pháo binh … Thời buổi chiến tranh, đời lính sống nay chết mai, sau những cuộc hành quân trở về hậu cứ, họ cần nhìn người nữ cho đời thêm tươi, để có chuyện mà kể khi ôm súng nơi tiền đồn. Không với được gái tiểu thư thì ra quán ngắm gái một con cũng đặng. Dù cô chủ không cười với một ai nhưng ánh mắt của cô cũng làm mát lòng chiến sỹ. Vậy là mụ Bốn nghỉ chợ búa, quanh quẩn trong nhà, mọi chuyện giao cho o Mận. Trước không giữ được, chừ còn cái chi mà giữ! Quán cứ đắt và o Mận cứ lạnh lùng… * “Chú Ngọ về!”. Thằng Tí em vừa chạy vừa la. Mụ Xạ bỏ dở con dao xắt chuối, lạch bạch chạy ra. Ôn Xạ đang ngồi kéo thuốc lào cũng lật đật gác điếu. Xóm Bói đổ vội ra dòm. Chú Ngọ mặc bộ áo quần nhà binh còn mới, cái loon binh nhất trên vai, ba lô sau lưng. Gặp ai chú cũng cười, hàm răng nổi bật trên khuôn mặt đen như ảnh ông Chà Và ngoài ống kem Hynos. Nhà ôn Xạ chật ních người. Chú Ngọ ra đi có thư từ chi mô. Đông nhất là lũ con nít đứng chắp tay ngơ ngáo dòm, rồi mấy mụ đàn bà. Lại đàn bà xóm Bói! Họ chờ coi nhà ôn mụ Xạ nói chuyện chi. Nhưng đúng là nhà ôn Xạ! Chú Ngọ thay áo quần xách gàu ra giếng; ôn Xạ tiếp tục cữ thuốc lào; mụ Xạ đi nhốt con gà tơ chuẩn bị nấu cháo. Không ai nói gì. Đám con nít thấy không có chi hấp dẫn bỏ về trước. Mấy mụ đàn bà cũng tẽn tò rút lui. Đêm hôm đó, sau khi lai rai ba xị đế với cái giò gà, chú Ngọ nằm dài thoải mái trên bộ ván ngựa nghe Út Trà Ôn ca vọng cổ bài Tình anh bán chiếu. Dọn dẹp xong, mụ Xạ lại gần con trai hạ giọng: - Hắn đẻ rồi mi! Chú Ngọ hỏi: - Mạ nói ai? Mụ Xạ chắt lưỡi: -Thì con nớ, con Mận đó. Chú Ngọ bắt tréo chân: - Tưởng chuyện chi! Đẻ thì đẻ chớ. Lâu quá rồi mà… Mụ Xạ thì thầm: - Con trai mi nờ! Chú Ngọ tỉnh bơ: - Mạ muốn cháu à... Tui cho một đống. Tui có bồ rồi... Gái Sè Gòng đàng hoàng. Gái nhà quê ni kiếm mô chẳng được. Phía bên tê giường, ôn Xạ tằng hắng: - Sáng mơi, hai mạ con qua bên nớ thảy cho nó mấy ngàn bạc đem thằng cu về. Chú Ngọ quay mặt vô vách ngáy. Mụ Xạ loay hoay trong buồng với cái rương bằng gỗ lim. * Mụ Bốn đang cho thằng Hận ăn trên hè. Thằng bé bước lẩm chẩm trên nền đất nện, lâu lâu vấp ngã lại cố đứng dậy cười sằng sặc. Cái thằng được cả nết ăn lẫn nết ngủ, có vậy o Mận mới thay mụ gánh vác cả gia đình. Chiều ni o mua được mớ cá tươi, lúi húi kho dưới bếp, mùi thơm lan tỏa trong nhập nhoạng. Có bóng người đi vô sân. Con chó vện nằm dưới gốc bưởi gầm gừ. Mụ Bốn lấy tay che trán dòm ra. Ai tới chơi cử ni? Mụ Xạ đặt chiếc nón dưới mái hiên, chiếc nón như một phương cách cho mụ trốn lánh ánh mắt hàng xóm. Ấy thế mà chú Ngọ thản nhiên huýt sáo đi nghênh ngang đằng sau. Mụ Xạ cất tiếng: - Chào ả! Bây chừ thì mụ Bốn đã nhận ra. A, nhà cái thằng đã làm cho mạ con mụ khốn khổ. Mụ mát mẻ: - Mụ tới nhởi hay có chuyện chi? Nhà ni nghèo mô xứng. Mụ Xạ dòm thằng bé. Ui chao. Giỏ nhà ai quai nhà nấy. Cái mặt nớ đích thực là mặt thằng Ngọ thời nhỏ. Cũng con mắt to, cái mũi hơi gồ… Mụ mê man. Phải chi được hun nó một chặp. Mụ kéo tay chú Ngọ: - Tui đưa cháu tới xin lỗi ả và con Mận… Mụ Bốn xốc cháu lên: - Lỗi phải chi mà xin! Chú Ngọ tự tin bước vào nhà ngồi xuống cái chõng tre. Chú biết o Mận yêu chú lắm lắm. Ở hàng chè tàu ngoài tê o đã từng cắt cho chú một lọn tóc thề nguyền. Không biết chú vất chỗ nào rồi.. Chẳng nhớ. Mục đích chú đến đây cũng chỉ vì thằng cu. Đem được nó về nhà là tốt cho ôn mệ già. Còn chú .Trai giang hồ, thiếu chi. Cỡ như o Mận, gái nhà quê, nước gì! Mụ Bốn tay run run thắp ngọn đèn dầu. Thiệt sự trong tâm mụ, nếu như nhà ôn mụ Xạ biết lỗi đưa hai mạ con về thì mụ cũng cam tâm. Lòng mụ khi nào cũng thương con. Mong hai mạ con nó yên lành thì mụ cũng yên tâm nhắm mắt. Mụ Xạ thân mật: - Thôi đèn đuốc mà chi. Ả ngồi tui nói chuyện… Chú Ngọ tay ngoắt ngoắt thằng bé, dứ dứ gói bánh trong túi. Mụ Bốn kéo cháu vào lòng: - Có chuyện chi mụ cứ nói. Mụ Xạ tằng hắng: - Hôm ni tui qua đây nói chuyện với mụ. Con cháu ai mà không thương. Dù răng đây cũng là hột máu của nhà tui. Mọi chuyện dĩ lỡ rồi. Thôi, xin mụ cho cha hắn nhận con, cấy dôn tui nhận cháu… Mụ Bốn ngớ người ra. Nhận cháu thôi à! Mụ có lãng tai khôn? Té ra tui nuôi công cốc cho mấy người a? Té ra con tui đẻ cháu ra cho không mụ a? Như để tăng sức mạnh cho câu nói của mình, mụ Xạ rút trong bọc ra gói ni lông cột chặt: - Tui cũng bù chì cho mụ chút ít, cho con Mận chút vốn đi lấy dôn… Từ dưới nhà bếp, o Mận chạy vụt lên. Không ai nhận ra người con gái hiền lành của xóm Bói nữa. Mắt o long sòng sọc, mặt đỏ gay: - Mấy người định cướp con tui đi à? Đồ khốn nạn! O chỉ tay vào mặt chú Ngọ: - Thứ điếm đàng! Đồ sở khanh! Chú Ngọ chụp lấy tay o Mận. O giật ra: - Đừng đụng vào người tui. O Mận đùng đùng chạy xuống bếp. Người ta nghe tiếng dao liếc xoèn xoẹt vào đít chén. O định làm chi? Chém chú Ngọ hay răng? O lại chạy lên. Trời đất ! O kê ngón tay trỏ vào cạnh bàn, chém cái bụp. Lóng tay đứt rời ra, bay xuống đất. O Mận, giọng run rẩy, căm giận: - Cút đi! Lời nguyền của tui đó. Mụ Xạ đứng bật dậy, chụp mớ tiền trên mặt bàn vội vã bước ra. Chú Ngọ cũng theo bén gót. Gói bánh rơi xuống đất. Con chó vện chạy lại táp vội. Tiếng thằng cu con khóc thét… * Trong số người hay ghé quán o Mận có chú Phê, tài xế thiếu tá Thông, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 11 Pháo Binh đóng ở trại Nguyễn Văn Thoại, đường lên La Vang. Chú Phê người cùng làng Diên Thạnh, huyện Diên Khánh tỉnh Khánh Hòa với thiếu tá. Lúc còn nhỏ, có lần thằng Phê đã cứu một thằng nhóc khác xém chết đuối dưới cầu Hà Dừa. Thằng nhóc đó chính là ông thiếu tá hiện tại. Cuộc đời đưa đẩy, chú Phê gặp lại ông Thông lúc ông còn làm sỹ quan "đề lô" cho đại đội 4, tiểu đoàn 3 thuộc Sư đoàn 22. Cảm cái ơn cứu tử, đi đâu thiếu úy Thông cũng dắt dìu chú binh nhì này. Ông đổi từ Nam ra Trung, từ sỹ quan tác xạ qua Pháo đội trưởng, từ ban III lên Tiểu đoàn phó cho đến khi ra vùng địa đầu hỏa tuyến với chức Tiểu đoàn trưởng. Và chú Phê theo “ông thầy” như bóng với hình... Chỉ có chú Phê mới biết ông thiếu tá thích ăn cơm cháy với tóp mỡ, thích uống cà phê không đường pha thật đậm. Áo quần của ông thiếu tá, ngoại trừ bộ đồ treillis phải ra tiệm hồ cứng thì tất cả đều do tay chú Phê giặt giũ. Có thể nói chú vừa là tài xế, vừa là quản gia, vừa là đầu bếp cho ông thầy. Lo cho ông thiếu tá, chú Phê quên luôn cả bản thân.. Quay đi quay lại, chú đã hơn ba mươi đeo loon trung sỹ mà vẫn chưa có mảnh tình vắt vai. Ông thiếu tá có nhắc thì chú gãi tai cười hì hì nhe cái răng vàng bên khóe miệng. Ấy thế mà dạo này chú hay ghé quán o Mận mới kỳ. Mọi chuyện cũng có nguyên do. Cô người yêu của ông thiếu tá thích ăn ổi mà bữa đó đi ngang quán, chú Phê thấy có mớ ổi thật ngon. Muốn ông thầy“lấy điểm” với nàng, chú Phê thắng xe mua hết rổ. Trong khi chờ o Mận tìm cái bịch ni lông, chú Phê bồng thằng cu cho nó bấm còi chiếc Jeep “tin tin”. Thằng bé khoái chí cười tít mắt và khi chú Phê lái xe đi thì nó khóc òa. Đã từng nghe câu chuyện của cô chủ quán nên trái tim nhân ái của người đàn ông chơn chất này thấy tội. Và từ đó mỗi khi chở ông thiếu tá về hậu cứ tiểu đoàn thì chú Phê lại ghé quán cho thằng cu ngồi trên cái ghế bác tài bóp còi thoải mái. Chú không ba lơn ba cợt như mấy tay tới tán o Mận; chú cũng không ra dáng ta đây lái xe Jeep. Chú lấy thùng gỗ pháo binh đóng cho o Mận mấy cái ghế đẩu, làm cho thằng cu con ngựa phi nhong nhong, lại chịu khó xuống dưới pháo đội tác xạ xin tấm bạt che mưa tạt bên hông quán. O Mận pha cho ly nước chú cũng chỉ nhe răng cười thay lời cám ơn. Một bữa nọ, khi lái xe chở ông thầy vô Huế họp ở Bộ tư lệnh tiền phương Sư Đoàn I, chú Phê ghé chợ Đông Ba mua chiếc nón bài thơ có cái quai màu tím, lại mua thêm một chiếc xe nhựa .Tất cả được gói ghém cẩn thận bỏ phía sau xe. Thiếu tá Thông trợn mắt: - Mày mua cho ai đây Phê? Chú Phê gãi tai, đỏ mặt: - Người ta gởi… Thiếu tá. - A, thằng này ngon hơn cả tao. Bộ có bồ rồi hả? - Chưa thiếu tá, đang ở giai đoạn dò dẫm. - Tác xạ nhanh cho tao. Tiểu đoàn vừa nhận thêm mấy khẩu pháo 155 ly. Đừng làm mất mặt dân Pháo binh nghe mậy. Hai thầy trò cùng cười sảng khoái. * Mưa dầm thấm lâu. Từ những chăm nom lo lắng chân tình của chú Phê với cái quán, với thằng Hận, o Mận không còn có thái độ lạnh lùng. O chưa cười với chú nhưng thái độ có khác so với người ta. O nhẹ nhàng cám ơn khi chú cho thằng Cu gói kẹo, chở cho mụ Bốn mấy bó củi chụm bếp. O dư biết chú Phê thương mình nhưng o như con chim sợ cành cây cong. Hơn nữa, chú Phê quê quán xa xôi quá, biết người ta thiệt hay giả. Rồi có ai đoán được chữ ngờ. Buổi sáng trước khi dọn quán, o Mận nghe mụ Bốn than đau đầu, mặt đỏ ửng. O định nghỉ bán nhưng mụ Bốn sợ ở nhà thì mấy nải chuối chín hư nên xua tay quầy quậy “Đi đi. Có chi mô. Chút mạ hái nắm lá diếp cá giã đắp đầu hết liền”. Buổi trưa o Mận nhờ người giữ quán rồi chạy về coi mạ ra răng và lấy chén cơm cho thằng cu thì thấy nhà im ắng. O vô buồng thấy mụ Bốn trùm chăn nằm trên chõng. O lay lay “mạ ơi, mạ ơi” thì thấy người mụ lạnh ngắt. Hỡi ôi, mụ chết tự lúc nào! Cái đó người nhà quê gọi là trúng gió. Đám tang mụ Bốn là cơ hội để chú Phê cho o Mận thấy tấm chân tình của mình. O Mận chân yếu tay mềm, thờ thẩn như người mất hồn, người ta kêu chi làm nấy. Chú Phê nhờ mấy tay trong đội mai táng tiểu đoàn tẩm liệm, thiếu tá Thông thương thằng đệ tử cho mượn thêm hai chiếc xe Dodge, lại xin cho miếng đất trên nghĩa trang quân đội La Vang gần cái chùa có thầy Tuyên úy kinh kệ. Dòm đi dòm lại trong xóm Bói, đám tang của mụ Bốn coi bộ đàng hoàng nhất. Một năm sau, cảm cái nghĩa của chú Phê, ngày giỗ của mụ Bốn là ngày o Mận nhận làm vợ chú. O dẹp quán, đóng cửa nhà, lên trại gia binh tiểu đoàn ở. Một năm nữa, thằng cu có em. Chú Phê nói với o Mận làm lại giấy khai sinh cho thằng cu. Anh là Hân, em là Hạnh, bỏ cái dấu nặng đi. Đừng để cái khai sinh cũ lớn lên nó tủi. O Mận cảm động gật đầu. Năm 1971, sau trận Hạ Lào, thiếu tá Thông lên trung tá và có sự vụ lệnh đổi về Nha Trang làm Tiếu đoàn trưởng Tiểu đoàn 63 Pháo binh. Thôi thì cũng là một cơ hội để biết quê chồng và cũng giã từ cái xóm Bói làng Thạch Hãn với những đau buồn trong quá khứ, gia đình chú Phê sắp xếp đi theo ông thầy. Leo lên chiếc máy bay trực thăng, từ trung tá Thông cho đến hai vợ chồng chú Phê đều ngậm ngùi. Chỉ có hai thằng cu toét miệng ra cười. Tháng 4 năm 1975, từ đèo Phượng Hoàng, Trung tá Thông di tản về và kẹt cứng ở Nha Trang. Ông trốn lánh và không ra trình diện chính quyền mới. Chính chú Phê đã tìm mọi cách để đưa ông thầy về Sài gòn. Chú móc nối với người bà con và một đêm tối trời, chú đã đưa trung tá và gia đình lên Chụt xuống ghe. Nửa chừng nghe qua radio chính quyền Sài gòn buông súng họ đi thẳng ra khơi và lên tàu Midway của Mỹ. * Tháng Tư chú Ngọ cũng trở về làng. Nhờ thành phần hạ sĩ quan, chú chỉ phải học tập “đường lối chính sách Cách mạng” trong năm ngày. Nhưng làm gì để ăn đây? Xóm làng tiêu điều xơ xác. Người đi kinh tế mới, người di dân tự do vô Nam. Ôn mụ Xạ đã già, ruộng đất thành của hợp tác xã. Chú Ngọ vác cuốc đi hai ngày rồi về nằm thở dốc. Xưa nay chú là loại ăn bơ làm biếng, đi lính cũng chỉ làm “lính cậu”. Bây chừ làm răng? Mụ Xạ xưa nay vốn là người nhìn xa trông rộng. Một hôm, mụ nhấm nháy chú Ngọ: “Mạ thấy mi lấy con Lịch coi bộ được đó con”. - Con Lịch mô mạ? - Con mụ Thù có ôn chồng mới đi tập kết về đó mi. Chú Ngọ trợn mắt: - Ui! Cái con “Mắt chỉ thiên, mắt ngưỡng địa” đó hả? Cái con mười sáu tuổi còn đái mế thúi hoắc đó hả? - Mệ nội mi. Hắn thúi mà lí lịch hắn thơm. Mi làm chi được với cái danh “Ngụy”… Rồi mụ nói như dỗ dành: - Có điện đóm mô mà sợ. Tắt đèn nhà ngói như nhà tranh con à. Thời ni có cơm ăn là tốt rồi. Chú Ngọ càu nhàu: -Tui mô mà hạ giá rứa trời! Nhưng quả thật. Lúc đói mới biết giá trị của miếng ăn. Nhà mụ Xạ từ ăn độn chuyển sang ăn sắn lát, rồi bo bo. Đến khi bo bo cũng không có để mà ăn thì chú Ngọ đành lấy cô Lịch thôi. Lấy cô Lịch chú sẽ có cái chức “Đội trưởng”, sẽ có gạo “tiêu chuẩn” và sẽ chấm mút được chút công điểm của bà con. Đám cưới của chú tổ chức trong gian nhà kho của hợp tác xã, có kẹo Hải Hà, có thuốc lá Điện Biên giấy bạc. Mọi người hoan hỉ vì thiếu chất ngọt từ lâu, mỗi người đến dự được phát ba cái kẹo mà ít ai dám ăn, toàn bọc túi để dành. Đi bên cạnh bà vợ xà nẹo cười toe toét, chú Ngọ bỗng dưng nhớ đến nụ cười chúm chím và mái tóc ngát mùi hương nhu của o Mận một thời trong quá khứ… Quả là o Lịch mắn đẻ hay là mạ già ruộng ngấu. Chỉ trong sáu năm, lần lượt bốn đứa con ra đời. Ngặt một nỗi toàn con cấy . Chú Ngọ là con trai một, mụ Xạ đêm ngủ không ngon giấc. Mụ trút nỗi dằn vặt lên o Lịch. Thoạt đầu là những câu bóng gió xa gần. Rồi sau là những câu chạm mặt “Thứ đồ không biết đẻ”. O Lịch cũng không vừa. Ta là gái dòng giống Cách mạng mà. Ngụy như bên nớ lấy được mừng húm. “Mạ cũng đẻ một bầy vịt trời, nói chi tui”. Ôn Xạ đã chết, mụ Xạ ngày một già, nói chi lại. Mụ thắp hương cầu khấn trên bàn thờ, ngoài cổng ngõ mặc kệ con dâu chê “dị đoan, không theo đời sống mới”. Thỉnh thoảng trong những giấc ngủ nửa đêm về sáng, khuôn mặt thằng cu con o Mận chập chờn hiện ra. Chao ui cái thằng. Giống cha như đúc… Biết chừ ở mô. Mấy đứa cháu nội gái hùa theo mạ ăn nói chỏng lỏn, đanh đá. Đôi khi mụ Xạ nhớ lại những câu nói mình rủa xả o Mận. Phải quả báo không trời?! Nước mắt mụ ứa ra. Hợp tác xã làm ăn thua lỗ, giải thể. Ông bố vợ Cách mạng đã về hưu không giúp chi được, chú Ngọ đành đi xe đạp thồ. Sáng sáng chú chở gánh hàng của mấy o buôn chuyến lên ga Quảng Trị kiếm đồng bạc. Thời buổi của khôn người khó, thêm mẹ già và mấy cái "tàu há mồm", gia cảnh chú càng lúc càng bí bách. Đôi khi chú soi mặt mình vào gương. Chao ơi! Còn đâu thằng Ngọ một thời vang bóng. Thời gian qua… Mụ Xạ chết vào một buổi chiều mùa đông lạnh lẽo. Gió hun hút trên mái tranh. Mụ nhìn chú Ngọ như muốn nói điều chi mà không còn sức. Đôi môi mụ mấp máy. Chú Ngọ cúi sát người nhưng nghe không rõ. Đôi tay mụ bắt chuồn chuồn rồi duỗi ra. Người đàn bà uy quyền một thời của xóm Bói… Rồi sức khỏe chú Ngọ cũng không bì lại với tụi thanh niên trai tráng. O Lịch mở một cái quán nước cho mấy đứa nhỏ tập buôn bán. Chú Ngọ ngồi nhà lúi húi trồng rau sau vườn. Chú kiếm cây chè tàu về trồng hàng rào. Đất Quảng Trị trồng cái chi cũng khó, chỉ có cây chè tàu không ăn được thì mỗi ngày mỗi xanh um… Hai mươi năm sau ngày qua Mỹ, trung tá Thông mắc bệnh ung thư. Những ngày cuối đời, nguyện vọng của ông là được thiêu xác và đem về rải trên dòng sông Hà Dừa quê hương. Chú Phê lại là người được ủy thác nhiệm vụ này. Hai đứa nhỏ giờ đã trưởng thành. Thằng Hân có công ăn việc làm ổn định, thằng em đang đại học. Chú Phê bàn với o Mận kết hợp cho chúng nó về thăm Việt Nam, thắp nén nhang cho hai bên nội ngoại. Thôi thì “Đất có tổ, người có tông”, o Mận bằng lòng. Xóm Bói bây giờ thay đổi quá nhiều. Hai vợ chồng ngơ ngẩn như Từ Thức về trần. Những người xưa đã khuất bóng và phiêu dạt nơi đâu. Ngã ba Long Hưng không còn. Con đường lên La Vang giờ nhìn nhỏ như sợi chỉ. Nhìn quanh toàn những người xa lạ. O chú cải táng cho mụ Bốn rồi đưa tro cốt vào gửi trong chùa. Trong khi chờ chồng đi tìm tài xế, o Mận dắt hai con vào một cái quán bên đường. Cái quán nghèo nhưng có hàng chè tàu cắt phẳng phiu thật trông thật đẹp. Thằng em chăm chú nhìn và hỏi thằng anh: - What’s name? Thằng anh lắc đầu: - I don’t know. Let ask Mom. O Mận nói với con: - Cây chè tàu. Hai đứa cười và nhái lại: - Che tau…che tau… Không ai biết nép sau cánh cửa tre xập xệ , một người đàn ông đứng lặng. Đó chính là chú Ngọ. Dù thời gian đã quá xa xôi nhưng chú vẫn nhận ra người đàn bà sang trọng kia chính là o Mận, người con gái ngày xưa chú phụ rẫy. Bàn tay trái có một ngón cụt lóng đặt hờ hững trên chiếc xách. Và thằng bé trai với những đường nét thân quen… Trong đầu chú hiện ra hình ảnh người con gái đứng bên hàng rào chè tàu, tay lúng túng bứt những chiếc lá, mắt cười lóng lánh… Rồi một buổi chiều… cây dao… lóng tay… Xe đã đến. Ba người lên xe. Nụ cười khanh khách của hai đứa con trai vang vọng. Làn bụi mỏng bay theo chiều gió… Tiếng ru con của người hàng xóm cất lên: … À ơi …Vàng mười chê đắt không mua…Đi mua vàng bảy …À ời… thiệt thua trăm đường…à ơi… Chú Ngọ ôm mặt. Hai dòng nước mắt chảy qua kẽ tay. · Hương Thủy |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 14/Sep/2018 lúc 6:35am |
Lấy Chồng MỹNhìn nét mặt không vui vẻ lắm của chị Linh chị Bông ngạc nhiên:
Nguyễn Thị Thanh Dương |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 17/Sep/2018 lúc 11:27am |
Thạch ThảoJ’ai cueilli ce brin de bruyère L’automne est morte souviens- t’en ( L’Adieu- Guillaume Apollinaire )
Chiều xuống chầm chậm. Hàng thông vi vu trên đồi cỏ xanh thẫm màu, vài cụm mây trắng bàng bạc trên bầu trời cao. Người đàn ông thả từng bước chân , nhìn xuống làn nước bình yên, u tịch xa xa. Có phải tình yêu xưa của tôi đã chìm theo mặt hồ tĩnh lặng ? Tôi chợt lắc đầu, có chút tê tái trong tim khi làn gió lạnh thoảng qua nhè nhẹ. Một trái thông khô rơi lông lốc trước mặt, tôi vô hồn nhặt lên. Ôi ! Kỷ niệm xưa lại về... oOo Thành phố dường như tất bật, nhộn nhịp hẳn lên so với những ngày trước. Đâu đâu, người ta cũng xì xào bàn tán về chuyện di tản. Những chuyến xe đò lúc nào cũng đầy nhóc khách và hành lý một cách không bình thường. Chẳng còn gì bình yên ở nơi mà người ta hay tìm đến để trốn tránh những ồn ào, nhiễu nhương của cuộc đời. Chiến tranh ! Chiến tranh là gì vậy nhỉ ? Có một chủ nghĩa nào là tốt đẹp để giết nhau chăng ? Tôi không hiểu nổi! Sân trường Đại học hôm nay đượm vẻ buồn theo thời cuộc với những sinh viên lác đác đến trường. Khoa Chính Trị Kinh Doanh hầu như cũng chẳng có mấy người, ai nấy đều lóng ngóng nghe tin tức chiến sự. Chúng tôi cùng nhau ở lại trường đến ba giờ chiều thì chia tay về trong bùi ngùi, không biết ngày mai còn gặp lại hay không với tình hình nầy ! Riêng tôi cùng Thạch Thảo- cô bạn gái và vài người bạn thân rủ nhau ra cà-phê Hạnh Tâm, gần bùng binh, dưới khu Hòa Bình. Chúng tôi uống cà phê, nói chuyện quanh quẩn một lát rồi lại chia tay. Tôi thì chở Thảo cùng về trên chiếc Dame da trời của tôi. Thạch Thảo là bạn gái của tôi và học sau tôi một năm, hàng ngày chúng tôi vẫn hay đi về cùng nhau những hôm có chung giờ học. - Anh à, hôm nay không khí trên trường buồn quá nhỉ ! - Ừ , tình hình nầy chưa biết ra sao ! Những con đường dốc, nhà cửa thấp cao vẫn còn đó, nhưng những đóa hồng nhung dường như không còn thắm tươi như ngày nào. Thành phố hôm nay buồn chi lạ ! Mọi người đều có vẻ vội vã, dù chẳng biết vội vã để làm gì. - Anh, mình lên đồi đi anh . - Thạch Thảo bỗng lên tiếng . Giữa giờ phút mơ hồ của cuộc sống nầy, con người vẫn còn chút lãng mạn- để quên mọi thứ trong chốc lát chăng ? Tôi và Thảo cùng dạo lên ngọn đồi quen thuộc trong bóng chiều tà. Ngọn đồi trải dài cỏ xanh với những cây thông đây đó là nơi chốn bình yên của tình yêu chúng tôi. - Anh à ! Ngày mai rồi sẽ ra sao ? - Thạch Thảo nép mình trong vòng tay tôi thủ thỉ . Câu hỏi- Thạch Thảo hỏi tôi mà có lẽ cũng giành cho mọi người, và chắc cũng chẳng ai có câu trả lời ! Ngày mai- gần gũi và xa xôi – bên bờ yêu thương hay bên kia nỗi chết… Một con chim chiều lạc bầy kêu quang quác trong bầu trời dần mờ tối. oOo Tôi mân mê trái thông trong nắm tay, từng “cánh khô xòe ra như lời tình yêu nở rộ” - lời của Thạch Thảo năm nào văng vẳng đâu đây, trong tiềm thức cuộc tình xa xôi miên viễn… Tôi bước chân xuống đồi, định đi vòng quanh hồ về khách sạn. Cả vùng đồi cỏ đã vắng lặng, chỉ còn tiếng thông vi vu trong gió. Bỗng tôi giật mình vì dường như có một người – một cô gái – đang ngồi trên triền đồi, lưng quay về phía tôi. Ai mà giờ nầy còn ở đây nhỉ ? Tôi tưởng chỉ có một người đàn ông gàn gàn như tôi giờ nầy mới ra đây chứ ! Cô gái, với mái tóc nửa lưng và chiếc áo len tím, có vẻ như đang làm gì đó. Tôi bước đi nhè nhẹ, không muốn làm cô giật mình. Tôi đã tính tránh qua và đi luôn xuống bên dưới, nhưng khi đến gần cô, tôi thật không khỏi tò mò đứng lại nhìn cô từ phía sau : Cô gái đang sắp những quả thông khô- theo tôi nghĩ- thành một khuôn mặt người. Cô nhìn đăm đăm vào “khuôn mặt thông” đó rồi bỗng nhiên lấy tay gạt mạnh, những trái thông khô văng tung tóe khắp nơi. Tôi “ ồ “ lên một tiếng nho nhỏ. Cô gái bỗng quay phắt lại. Ánh mắt như long lên, giọng cô run run: - Ơ… ! Tại sao ông rình tôi ? Tôi nhìn cô gái : trẻ, khá đẹp, chỉ khoảng đôi mươi, vẻ mặt chẳng có gì ngang ngược như câu hỏi vô lý của cô. - Ồ, tôi chỉ vô tình đi từ trên xuống thôi ! - Vừa nói tôi vừa ra dấu. - Tại sao ông lại ở trên đó xuống vào giờ nầy ? Thật là tôi muốn phì cười vì câu hỏi ngớ ngẩn của cô gái. “ Tại sao cô lại ở đây giờ nầy ? “, tôi phải hỏi cô như vậy mới đúng chứ ! Nhưng câu trả lời của tôi lại nhẹ nhàng khi nhìn những sợi tóc bay lòa xòa qua khuôn mặt xinh xắn của cô gái kỳ lạ. - Tại vì tôi thích đồi thông vào giờ nầy… Tôi nghĩ cô cũng vậy phải không ? - Một câu nói xoa dịu tình hình của một gã đàn ông đứng tuổi giành cho người con gái trẻ trung. - Ông…ông chỉ đoán mò thôi… - Cô gái trẻ đã dịu giọng hẳn xuống. - Nhưng…đúng phải không ? - Đúng ? Chỉ đúng với ông thôi ! Còn với tôi, có thể … trong lúc nầy nhưng lúc khác thì không. Ông thấy không, gió ở đây vẫn hay đổi chiều đó ! Tôi ngạc nhiên với lối nói là lạ của cô gái. - Tôi thì bao nhiêu năm rồi tôi cũng vẫn giữ ý thích nầy. Nhưng lâu lắm, hai chục năm rồi tôi mới có dịp bước chân lên ngọn đồi nầy. - Ô…ông muốn tìm lại một chút ngày xưa phải không ? - Cô thật hay ! Đúng là như vậy. Ngày xưa có thời gian tôi ở đây, nhưng tôi đã rời xa lâu lắm rồi, mãi đến giờ…Tôi muốn… - …hoài niệm. - Cô gái tiếp câu nói của tôi . - Chắc là ông có một mối tình ở đây và bây giờ ông chợt nhớ lại … - Không phải là chợt nhớ, mà luôn luôn nhớ…dù đã lâu lắm. Lần nầy có thì giờ nên tôi sẽ thường ra đây… - Có chút nghèn nghẹn như tôi đang tâm sự với một người bạn thân về nỗi niềm sâu lắng riêng tư. - Ông chắc cũng chẳng phải người chung tình, đàn ông là thế cả mà ! Nếu không thì ông đã không bỏ người ta mà đi . Tôi nói đúng không nào ? Người ta, nhất là các ông, vẫn thường vất bỏ những gì mình đang có vì nghĩ rằng nó đã trở nên cũ rích, dư thừa… Để rồi sau đó quay lại khóc thương, tiếc nuối vì cái mới cũng đã thành cũ và chẳng có gì tốt đẹp hơn, còn tệ hơn nhiều là khác ! Tôi lại ngạc nhiên vì vẻ sành sỏi lẫn mỉa mai của cô gái trẻ và toan đáp lại. Nhưng vẻ mặt của cô bỗng như đăm chiêu, xa vắng, cô như đang nhìn vào cõi mông lung nào đó. Tiếng chuông chiều từ đâu vọng lại văng vẳng, trời đã sẫm tối. - Tối rồi, tôi nghĩ mình nên về ! Cô ở đâu, tôi có thể đưa cô về . Cô gái làm như giật nẩy mình, tỉnh mộng : - Không, không ! Tôi phải về ! Nhưng tôi cũng chưa tin ông đâu. Nếu thật ông không rình tôi thì giờ ông phải nhìn lên trên kia trong năm phút, chờ tôi đi khỏi đây đã. Nữa ! Cô nầy thật vô lý hết sức ! Nhưng cuộc đời, có nhiều khi có những điều thật vô lý nhưng ta phải chấp nhận, dù sao tôi cũng trải qua nhiều trường hợp như vậy rồi. Có lẽ cô có điều gì đó… - Được thôi, cô cứ đi đi ! Tôi quay mặt đi lên đồi rồi vòng xuống. Trong vòng vài phút, cô gái đã biến mất, cũng kỳ lạ như lúc cô xuất hiện trước mặt tôi. Buổi sáng, tôi lại thả bộ vòng qua đường Hai Bà Trưng, ngang nhà Thạch Thảo trước kia. Tôi đã nhiều lần hỏi thăm nhưng ngôi nhà đã đổi chủ từ lâu, ngay cả những nhà kế cận cũng vậy. Đà Lạt thay đổi tận gốc rễ như vậy sao ! Tôi cũng cố gắng tìm một vài người bạn cũ nhưng cũng không thể nào ! Cả một thế hệ cũ dường như tan biến vào sự vô thường của cuộc đời, dù đời vẫn êm ả như mặt hồ Xuân Hương phẳng lặng ban sớm. Tôi dự định sẽ ở đây vài tuần và hàng ngày lên đồi đi dạo, nghỉ ngơi cho tâm hồn thư thả sau thời gian dài làm việc mệt nhọc. Nhưng rồi mọi sự vẫn không như mình mong muốn, chỉ hôm sau là trong gia tộc lại có việc nên tôi phải về. Tuần lễ tôi ở Sài Gòn hóa ra lại được việc, cả cho gia đình lẫn cho tôi. Tình cờ gặp lại một người quen cũ, qua đó tôi tìm được Can, một người bạn thân cùng học ở Viện Đại Học Đà Lạt lúc xưa. Chàng sinh viên ba hoa ngày nào bây giờ là một anh ba-gác máy, sớm hôm lam lũ nuôi bầy con nhỏ. Gặp lại nhau chúng tôi thật là mừng, bao nhiêu kỷ niệm thời sinh viên được chúng tôi ôn lại bên ly bia vàng sóng sánh trong góc phố chiều. Lúc đầu, Can còn có vẻ e dè, có lẽ vì xa cách lâu ngày và cuộc sống làm Can mặc cảm. Nhưng được mấy chai thì hắn trở lại là thằng Can ngày cũ : - Mầy tên Hậu nhưng đúng là …đản Hậu mà ! - Gì nữa đây ? - Mầy còn nhớ con Thạch Thảo không ? Tôi giật nẩy người ! Từ nãy giờ, tôi đã muốn nhưng chưa kịp hỏi nó. - Lúc 75 đó , mấy tháng sau thì con Thảo xuống dưới nầy tìm mầy. Nó bới khắp hang cùng ngõ hẻm Sài Gòn, tới chừng nghe mầy đi rồi nó chết điếng. Mầy thiệt đản hậu, đi rồi còn bỏ lại cái bầu cho nó ! - Hả …? Cái…gì ? - Tôi thiệt đớ lưỡi với cái tin sét đánh của thằng Can. - Trời ơi ! Thiệt hả Can, rồi sao, Thảo bây giờ ở đâu ? - Sau đó…sau đó…Con Thảo lấy chồng . – Im lặng. Can ngưng nói như để chọc tức tôi. Rồi hắn tiếp : - Mà mầy biết chồng nó là ai không ? - Ai ? - Tôi thật không nén nổi . - Mầy nhớ thằng Quách “rùa “ chứ ? Cái thằng rùa trong nhóm mình, đi rụt rụt cái đầu đó. Nó đấy ! Tôi thở dài. Đời phải chăng là tiếng thở dài !? - Mầy nghĩ coi ? Ba nó chết, nó thì bầu bì ! Thằng Quách lúc đó mầy cũng biết mà, nó để ý con Thảo lâu rồi. Nó biết hết, nhưng vẫn bằng lòng lấy con Thảo. Con Thảo thì đâu còn lựa chọn nào nữa ! - Rồi sao ? Bây giờ vợ chồng Thảo ở đâu ? - Ô, cái đó…tao cũng chịu thua ! Lâu quá rồi ! Khoảng một năm sau, Mẹ nó bán nhà rồi kéo rốc nhau về đây sống. Nhưng sau thì làm ăn thất bại gì đó, rồi bặt tin luôn. Giờ tao cũng không biết tụi nó ở đâu ! - Còn đứa bé, là trai hay gái ? - Con gái. Tao có thấy, dễ thương lắm ! Đúng là có nét của mầy . Mọi con đường dẫn tới Thạch Thảo đều tắt ngúm với câu kết thúc của thằng Can. Trong mấy ngày ở Sài Gòn , tôi lại ra sức tìm tin tức Thảo nhưng chẳng được gì. Thất vọng ! Tôi quay lên Đà Lạt khi chỉ còn vài ngày cuối ở Việt Nam. Hôm nay, ngày cuối cùng tôi còn ở thành phố sương mù để nhớ về một quãng thời gian nên thơ nhất trong đời- cho đến bây giờ. Người bạn đường trung thành của tôi theo ánh chiều trải dài lên sườn đồi cỏ. Tôi hầu như đi lại con đường mà tôi và Thạch Thảo thường đi ngày xưa. Đâu đây như vẫn còn vang tiếng cười trong trẻo của nàng mỗi khi nghe tôi kể một chuyện cười ý nhị. Tôi đã lên đến khóm thông giữa đồi. Những cây thông có vẻ to lớn hơn xưa, hai mươi năm rồi còn gì ! Tôi ngồi xuống giữa một cụm thông dày, lòng thẫn thờ nhìn mặt hồ nhung loang loáng ánh chiều tà bên dưới. Vài khóm Thạch Thảo tím vẫn còn đây đó như nhắc nhở lại chuyện tình chúng tôi năm nào. Từng làn sương mỏng quyện lên như đưa tôi chìm vào ngày xưa huyền hoặc… oOo - Ngày mai ? - Tôi lắc đầu, nhìn vào mắt Thảo. - Anh chỉ biết giờ nầy mình còn bên nhau là vui rồi ! - Anh, anh sẽ yêu em mãi phải không ? Dù ngày mai có gì đi nữa…phải không anh ? Tôi lùa bàn tay vào mái tóc rẽ ngôi bên trái của nàng. - Anh mãi yêu em ! Từng tiếng tình yêu nhỏ giọt vào đôi mắt nàng. Có tiếng thổn thức giòn như tiếng lòng ngã đổ. Hai bàn tay Thảo bỗng trở nên ấm áp lạ lùng “ Anh, em không muốn xa anh ! Đời sẽ không là gì nếu không có anh “. Thảo vùi đầu vào tôi. Hương con gái ngất ngây chiều gió lộng. “ Em muốn là vợ anh hôm nay, anh mãi là chồng yêu của em nha anh ! “. Màn sương khói từ xa của núi đồi hay của một chiều chinh chiến lãng đãng ru hai chúng tôi vào cơn bềnh bồng mê hoặc… Trời cũng dần sẫm tối như cảm thông cho đôi uyên ương trẻ trong thời ly loạn… Nhà Thảo ở gần cuối đường Hai Bà Trưng, đoạn trên dốc. Căn nhà tường trắng với hàng rào tường vy hôm nay có vẻ buồn sao ấy dưới ánh đèn vàng. Thảo vừa mở cổng thì đã nghe tiếng Mẹ : - Chị con về rồi kìa ! Tôi tính chào Mẹ của Thảo rồi đi về nhưng Hồng Nhung, cô em gái mười lăm tuổi của Thảo đã òa lên khóc : - Chị ơi, Ba bị thương rồi ! - Trời ơi ! Ba sao vậy Má ? - Mới lúc nãy, có người trong đơn vị ghé đây nói Ba bị thương, đã được đưa về hậu cứ. Giờ Má phải vô đó xem sao, hai chị em ở nhà nghe. – Mẹ của Thạch Thảo nói với khuôn mặt lo âu. Tôi cũng thật bất ngờ với tin buồn của gia đình Thảo. Một cảm giác tội lỗi dâng lên trong lòng. Trong khi gia đình có chuyện thì chúng tôi chỉ biết tận hưởng lạc thú tình yêu bên nhau. - Bác đi bằng gì vậy ? Hay là để cháu chở Bác đi . - Có phiền cháu không ? Thật Bác cũng chưa biết đi bằng gì, giờ nầy kiếm xe sợ cũng khó. Đây vô đó chắc cũng phải nửa tiếng, có trễ cho cháu quá không ? - Không sao ! Cháu đi được ! Tôi và Thạch Thảo từ giã nhau bằng ánh mắt yêu thương nồng nàn, cảm thông và chia xẻ. Cả hai chúng tôi đều không ngờ rằng đó là lần cuối chúng tôi nhìn nhau . Tôi chở Mẹ Thảo vào đến Quân Y Viện rồi chờ một lát thì Mẹ Thảo trở ra bảo tôi đi về, lát nữa sẽ có người chở bà về lấy thêm đồ rồi trở vô. Trên đường về, một vài tiếng đại bác từ xa vọng lại làm tôi lo âu thêm. Những chiếc xe hàng thay vì chở rau cải thì lại đang chất ti vi, tủ lạnh, vật dụng gia đình bên đường. Một không khí căng thẳng, tuy không ồn ào nhưng dường như đang bao trùm thành phố. Vừa đẩy xe vào sân thì Má tôi làm liền một mạch : - Tao trông quá trời ! Đi đâu mà dữ quá ! Thôi lo ăn uống rồi chuẩn bị con ơi . - Chuẩn bị gì vậy Má ? - Tôi mở to mắt nhìn Má tôi. - Ông Tư ( bạn chạy xe hàng với Ba tôi ) về trước, ba mầy nhắn ở nhà chuẩn bị ổng về tới là lo dọn đồ đạc đi xuống Sài Gòn liền. - Vậy sao Má ! Tôi không ngờ tình hình biến đổi nhanh như vậy. Tôi nhìn trong nhà, từng túm đồ đã được Má và các em tôi cột sẵn. Lòng tôi cũng thật hoang mang. Chúng tôi phải ra đi sao ? Phải xa lìa thành phố và ngôi nhà thân thương này sao ? Rồi tôi lại nghĩ đến Thạch Thảo cùng gia đình nàng. Ôi ! Sao buồn quá vậy ! Tôi biết làm gì bây giờ ? Tôi vừa ăn cơm xong thì Ba tôi chạy xe về tới. Ông vừa bước vào nhà vừa nói : - Phải lo đi liền, chứ trễ là không kịp nữa đâu. Đường xuống Sài Gòn có thể bị cắt bất cứ lúc nào. Căng lắm rồi ! Rồi ông hối thúc chúng tôi mang đồ đạc lên xe. Tôi thật trở tay không kịp vì tôi còn khối thứ muốn đem mà chưa chọn lọc lại được. Rồi lại nghĩ đến Thạch Thảo, chẳng lẽ tôi đi mà không nói với nàng tiếng nào ! Tôi thật bức rức không yên, chỉ muốn xách xe chạy qua gặp nàng, nhưng thấy Ba tôi vậy thật tôi cũng không biết làm sao ! Lúc Ba tôi vô ăn cơm, tôi làm liều, đẩy xe Honda ra, nhưng Ba tôi đã nhìn thấy : - Không được đi đâu nữa hết ! Lên đường ngay đó ! Trời ơi ! Biết làm sao đây trời ! Ba tôi vừa bỏ chén xuống thì xe ông Tư đã đậu ngay trước nhà : - Xong chưa anh, mình đi luôn cho rồi ! Tôi thấy người ta đi rần rần rồi đó. Vậy là theo lệnh của Ba, cả nhà tôi lên xe rời Đà Lạt giữa đêm khuya để đi cặp cùng với chiếc xe của gia đình ông Tư. Lòng tôi như đã chết khi xe lăn bánh, bỏ lại những gì yêu dấu nhất- cả người yêu- người vợ mà mới chiều nay tôi đã cùng thệ ước ! Đèn vàng vẫn mờ ảo trong làn sương nhẹ. Ôi Đà Lạt dấu yêu, tôi gục đầu thổn thức “Thảo ơi ! “. Về được Sài Gòn, chỉ vài tuần sau thì lại thêm biến cố nữa. Lần nầy, chúng tôi còn đi xa hơn nhiều và bỏ lại hầu như tất cả : cả gia đình theo chú tôi lên một chiến hạm ở bến Bạch Đằng để ra khơi, từ bỏ quê nhà mãi mãi, dù trong lòng mỗi người ra đi là một cõi chết mênh mông bao trùm. Dù sao, chúng tôi cũng lấy sự ra đi làm may mắn vì biết rằng còn vô khối người muốn đi mà không được trong ngày cuối cùng của Miền Nam. Cái ngày mà có người đã nói- “ngày của nhiều người vui nhưng cũng của vô số người buồn “. Trái tim tôi lúc nào cũng thương nhớ Thạch Thảo bên cuộc đời lang bạt nơi xứ người. Mặt trời hàng ngày vẫn lên và tôi vẫn phải sống. Một cuộc sống tha hương không hề dễ dàng cho những con người thể xác một nơi, tâm hồn một nẻo. Từng mùa đông giá lạnh, tôi vẫn âm thầm thương nhớ người xưa. Bao nhiều thư từ tôi gởi đi đều không tin tức. Ngày lại qua ngày … oOo Tôi nhìn về lưng chừng đồi, nơi hôm trước đã gặp cô gái trẻ. Hình như có gì đang ở đó, tôi tiến lại gần. Đúng rồi ! Một người đang ngồi vẽ say mê trước khung vải : không ai khác hơn là cô gái hôm trước ! Tôi bỗng thấy lòng bồi hồi, cảm xúc khó tả đối với người con gái một lần gặp mặt. Cô gái đã dừng tay cọ, ngắm nghía tác phẩm của mình rồi đột nhiên quay lại : - Cũng là ông ! Lại rình tôi nữa ! - Giọng cô không có vẻ gì chanh chua như hôm trước. - Tôi nghĩ là cô vẽ đẹp lắm ! - Tôi trả lời cũng bằng một câu êm dịu. - Không đẹp lắm đâu ! Nhưng tôi có thể làm điều tôi thích. Đó mới là điều quan trọng phải không ? - Cô hay ra đây vẽ lắm à ? - Từ một tuần nay, ngày nào tôi cũng ra đây . - Vậy là trước đó, cô cũng ít ra…? - Ông nói là sẽ thường ra đây mà…sao tôi không thấy ông? - Cô gái không trả lời mà hỏi ngược lại tôi. Câu nói của cô lại như một hàm ý mong gặp lại tôi vậy. - Tôi cũng rất muốn ra đây…Đà Lạt quả luôn có nhiều điều đáng yêu, kể cả những tình cờ. Nhưng vì tôi bận việc phải về Sài Gòn, nhưng cô thấy đấy, vừa xong là tôi lên đây liền. Nhưng tôi cũng chỉ còn hôm nay là ngày cuối, ngày mai tôi sẽ phải đi rồi ! - Vậy sao ? Tôi thấy ông không có vẻ là người ở đó mà ! - Tại sao cô nghĩ vậy ? - Tôi khá ngạc nhiên với nhận xét chính xác của cô gái. - Có gì đâu. Nhìn nước da ông thì biết, với lại người Sài Gòn cũng không ăn nói như ông, họ chỉ muốn làm tới thôi . Tôi hiểu những gì cô gái nói. Đúng và bình thường ! Đàn ông - phụ nữ, sự thu hút của những thỏi nam châm khác cực. Thật ra, đứng trước cô gái nầy, tôi luôn có sự thích thú kèm chút xao xuyến. Thích thú vì cô luôn có vẻ vừa lạ lùng, vừa thông minh. Còn xao xuyến thì phải nói là tôi thật cũng không rõ lắm vì sao! - Nếu được, cô có thể cho xem bức tranh cô vẽ không ? - Tôi nhìn bức tranh đã được phủ kín của cô gái. - Tranh à …? … Ông uống cà phê chứ ? Tôi mời ông đó ! - Lại một câu ẩn ý của cô gái trẻ. - Cám ơn cô, tôi cũng đang thèm cà phê đây. Cô gái thu dọn giá vẽ và khi tôi đưa tay ra thì cô cũng không ngại ngần trao cho tôi xách giùm. Tôi theo cô gái đi xuống đồi, vừa đi vừa nói chuyện. - Tại sao ông lại muốn xem tranh tôi vẽ ? - Tôi thích xem tranh, tuy là không rành gì mấy về hội họa. Nhất là trong dịp như thế này… - Ông xem theo cảm xúc tự nhiên phải không ? - Đúng vậy ! Cô không cười tôi chứ ? - Những gì tự nhiên bao giờ cũng đáng quý mà ! Hôm nay cô gái nói chuyện thật đáng yêu ! Ngày cuối của mình ở đây cũng không đến nỗi tệ . - Tôi tên là Hậu, còn cô tên…? - Thanh Thảo . - Thanh Thảo ! Tên hay... và có vẻ quen thuộc lắm…! - Tôi hiện hiện khắp trên đồi mà, ngày nào ông chắng gặp ! - Cô gái cười ý nhị. - Cô nói cũng đúng, nhưng còn hơn vậy nữa… Thanh Thảo nhìn sang tôi, ánh mắt như ngầm tìm xem còn điều gì hơn vậy nữa, nhưng tôi không nói gì thêm. Thật ra, cái tên nầy lại gợi nhớ đến Thạch Thảo của tôi ngày xưa . Chúng tôi đã xuống tới con đường quanh hồ, ánh đèn vàng lung linh trong làn nước thẫm mượt mà. Thỉnh thoảng vài chiếc xe tới lui trên con đường vắng. Tôi lên tiếng : - Đường vắng vậy, cô không ngại khi đi một mình à ? - Đà Lạt mà ! Có gì phải ngại chứ ! - Cô nói với một vẻ hãnh diện của một người Đà Lạt, làm tôi nhớ lại những người Đà Lạt xưa. Đúng vậy ! Cuộc sống Đà Lạt xưa rất hiền hòa, làm như nơi đây con người không có gì phải lo toan đua đòi, hơn thua nhau. Thật ra, con người những nơi khác ở miền Nam trước kia cũng vậy thôi. Nhưng cuộc sống đổi thay đã làm con người thay đổi nhiều, sự hiền hòa ngay thẳng đã ra đi để thay vào đó là lối sống khác để có thể thích hợp, sinh tồn. Nhưng dường như Đà Lạt vẫn còn giữ được nét yêu kiều ngày xưa: tôi thấy những chiếc xe máy nơi đây vẫn không hề được khóa lại . - Mình uống cà phê ở đâu đây ? - Sắp tới rồi ! - Cô mỉm cười, rồi tiếp : - Ông cứ theo tôi, đừng ngạc nhiên nhé ! Tôi nhìn lại cô, khẽ nhún vai như chấp nhận, cô đã cho tôi nhiều ngạc nhiên rồi mà . Đến trước một ngôi nhà bên đường, cô rẽ vào. Tôi bước vào theo, tiếng nhạc nhè nhẹ đâu đây. Những chiếc bàn nhỏ ngoài trời dưới những giàn dây leo bên trên, vài người khách ngồi rải rác. Thạch Thảo như có vẻ thành thạo nơi này lắm. Cô đưa tôi vào một chiếc bàn rồi hỏi “ Ông uống gì, cà phê đen? “ . Thanh Thảo hỏi và tôi mỉm cười gật đầu với câu tự trả lời của cô. Cô gái nầy thật cũng hay hay, tự nhiên và gần gũi, thật là khác xa với lần gặp đầu. Cô quay đi và một phút sau quay lại với hai ly cà phê phin trên tay. Tôi không khỏi ngạc nhiên : - Là quán nhà cô à ? Quán đẹp lắm ! Thảo nào… Tôi nhớ lại hôm trước cô biến mất một cách nhanh chóng. - Phải ! Nhưng ông uống cà phê đã rồi hãy khen, tôi pha đấy ! - Ô, cà phê ngon tuyệt ! - Tôi nhấp một ngụm cà phê, thật ngon gấp bội với cô gái xinh trước mặt . - Thật chứ ? - Thanh Thảo cười tự nhiên. - Thanh Thảo, tôi vẫn muốn xem tranh cô vẽ đó nhé ! Thanh Thảo trầm ngâm một chút rồi trả lời : - Cũng được ! Không hiểu sao tôi lại ưu tiên cho ông vậy nhỉ ! Vì tranh nầy, đúng ra tôi chỉ vẽ cho riêng tôi, với người khác chẳng có gì đặc sắc đâu. Ông đừng cười nhé ! Cô gái dựng giá vẽ trước mặt tôi rồi từ từ giở tấm voan che bức tranh. Hình dáng một đôi thanh niên nam, nữ ngồi bên nhau dần xuất hiện trên đồi cỏ xanh. Và khi Thanh Thảo dở hết tấm voan, tôi không khỏi sững sốt : người thanh niên với mái tóc dài bồng bềnh trong tranh chính là tôi- chàng sinh viên Nguyễn Đức Hậu của hai mươi năm về trước. Người thiếu nữ không ai khác hơn là Thạch Thảo ngày ấy. Tôi cố kềm nén cảm xúc nhưng vẻ mặt bần thần, run rẩy của tôi đã không dấu nổi cô gái trẻ . Thanh Thảo có vẻ ngạc nhiên, cô gái lên tiếng như để giải tỏa thắc mắc cho tôi : - Tranh nầy tôi chỉ vẽ lại một tấm hình thôi . - Hình ! Phải rồi…Tấm hình đó ở đâu cô có vậy ? - Giọng tôi như lạc đi. - Là của mẹ tôi để lại với những lời dặn dò từ khi tôi còn bé. - Vậy mẹ cô đâu ? Ở đây chứ ? - Tôi hấp tấp. Thanh Thảo nhìn tôi với ánh mắt kỳ lạ : - Không lẽ ông biết mẹ tôi sao ? Nhưng mẹ tôi không còn nữa ! Mẹ, Ba và hai em tôi đã ra đi mãi mãi… Ngày ấy, vì tôi quyến luyến Ngoại quá nên Mẹ để tôi ở lại với Ngoại… Cặp mắt Thanh Thảo ươn ướt, giọng cô gái như cơn gió vi vu đưa tôi lạc vào cơn mộng du xa tắp. Từng đợt sóng dâng cuốn tôi vào biển cả mù khơi . Mắt tôi mờ đi. Tôi mơ hồ nghe tiếng Thanh Thảo từ đâu xa lắm “ Ông sao vậy ? Dạ Ngoại , để con làm. Ông chờ tôi chút xíu nhé, tôi quay lại liền ! “. Tôi không biết tôi đang sung sướng hay đau khổ ! Giọng ca Julie nhè nhẹ như từ cõi xa mù… “ Ta ngắt đi. Một cụm hoa Thạch Thảo. Em nhớ cho mùa Thu đã chết rồi ! Em nhớ cho, em nhớ cho. Đôi chúng ta ,sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa Trên cõi đời này Từ nay mãi mãi. Từ nay mãi mãi không thấy nhau … Ôi ngát hương thời gian mùi Thạch Thảo Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em. Vẫn chờ đợi em ! …
Nguyễn Đức Diêu |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 18/Sep/2018 lúc 8:42am |
HắnHắn tên Đặng Trần Lê Nguyên là bạn với tôi từ thời Trung học nhưng vì thái độ chính trị mập mờ của Nguyên khiến tôi không coi hắn như là bạn thân mặc dù Nguyên từng giúp đỡ tôi hơn cả anh em và bà con ruột thịt. Cái tính thù dai và cố chấp của tôi sau thời gianViệt Nam Cộng Hòa bị bán rẻ khiến tôi gọi Nguyên là “Hắn” thay vì tiếng bạn có vẽ êm dịu và thân thiện hơn Nguyên và tôi ở cách nhau một làng, nhưng khi thi đậu vào Đệ thất hai đứa học cùng trường nhưng khác lớp. Năm Đệ lục ( lớp sáu ngày nay) hai đứa cùng mướn một phần cái chái của một nhà giàu ở Thiềng Đức, hai đứa cùng nấu ăn và đi học. Nhà Nguyên nghèo, tôi chẳng hơn gì Nguyên, cha mất sớm Nguyên là con một, mẹ Nguyên tần tão nuôi Nguyên ăn học, chẳng may mẹ mất khi Nguyên đang học Đệ ngũ, một người cô tiếp tục nuôi Nguyên. Có lẽ cô ấy cũng không dư dã gì nên tháng giúp chút ít, tháng không. Nguyên không ngại cực khổ và sĩ diện, anh lãnh bán bánh mì mỗi buổi sáng trước khi đi học. Tính chịu khó và hiền lành của Nguyên ai cũng yêu mến.
Vào năm Đệ ngũ Nguyên nhổ giò, cao lớn, nước da trắng như Tây, gương mặt chữ điền, thêm vào đó, tóc hơi dợn sóng, khiến Nguyên đẹp trai và nỗi bật giữa đám đông, Không biết Nguyên học coi chỉ tay tự bao giờ, năm nầy Nguyên bắt đầu coi tay giùm bạn bè. Hắn coi cho tôi khá trúng. Tôi không mấy tin vì nghĩ Nguyên sống chung với tôi nên đóan mò. Một vài nữ sinh cùng trường đến tận chỗ chúng tôi trọ nhờ coi tay. Dường như ai cũng khen tài coi chỉ tay của Nguyên. Chính cái nghề nghiệp dư nầy làm khổ Nguyên dài dài. Nhiều lúc hai ba cô đụng nhau ở nhà chúng tôi, những cú hứ nguýt của các cô khiến Nguyên luôn bị xáo trộn, học hành xao lãng. Ngòai ra Nguyên còn có tài cạo gió. Bịnh nhức đầu nóng lạnh Nguyên ra tay chừng mười phút là người bịnh khỏe hẳn. Cái tài nầy tôi nghiêng mình bái phục. Hỏi ai dạy hắn cạo gió, hắn cho biết, bà cắt giác hơi lối xóm lúc cạo gió cho mẹ hắn, luôn tiện chỉ những huyệt quan trọng để khi mẹ cần Nguyên tự cạo cho mẹ mà khỏi phải nhờ bà thầy hoặc khi bà thầy đi vắng. Một hôm bà chủ nhà đang ngồi tự nhiên chân tay co quắp, mặt nhợt nhạt, chị Xuân con bà chủ hô hóan lên, Nguyên chạy đến xem, hắn hỏi mượn chai dầu và lấy miếng bạc năm cắc bằng nhôm mạ bạc cạo gió cho bà chủ. Chừng hơn năm phút mặt mày bà hồng hào trở lại, bà co dũi tay và đứng dậy dễ dàng. Gia đình bà chủ cám ơn Nguyên rối rít. Nghề coi tay gây phiền tóai cho Nguyên, nhưng dường như hắn thích, các cô luôn làm phiền hắn nhưng lúc nào hắn cũng cười vui vẻ như không chuyện gì xảy ra. Tôi quên nói là cái chái của bà chủ nhà được ngăn đôi bằng vách lá, trước đó chắc có một gia đình nào mướn, khi tụi tôi dọn vào độ nửa năm có hai cô gái cũng dọn đến. Hai cô chiếm phía trước, ngó ra lộ giá ba trăm. Hai đứa tôi chọn phía sau giá hai trăm. Hai cô lớn tuổi hơn chúng tôi. Cô Thơm dáng người hơi quê kệch, cô ở miệt Cái Ngang lên tạm trú học nghề may bên chợ, sáng đi học nghề, chiều về cũng tự lo cơm nước. Cô Nhậm người Trà ôn cũng cùng học nghề như Thơm. Lúc đầu Thơm Nhậm ít nói, về nhà hai cô nấu nướng ăn uống không hề nghe tiếng động. Nguyên có máu ga lăng, lu nước nấu ăn cho hai phòng Nguyên đều xách lên đổ đầy, nước ở nhà tắm cũng một tay Nguyên, tôi chỉ thỉnh thỏang làm việc đó. Thơm và Nhậm có hôm về sớm thấy Nguyên xách nước giúp ra chiều cảm động. Hai cô bắt đầu thăm hỏi hai đứa tôi về quê quán và nhiều chuyện khác, đặc biệt câu chuyện luôn ưu tiên dành cho Nguyên. Tôi biết phận mình nên luôn im lặng. Bắt đầu hôm đó hai cô thường mang cho chúng tôi khi tô canh, lúc thì dĩa thịt xào, những món mà Nguyên và tôi ít khi làm được. Chúng tôi chỉ làm độc món hột vịt dầm nước tương, siêng lắm thì ghé chợ mua mớ salad hay dưa leo. sang hơn nữa thì mua xá xíu về ăn, đó là vào dịp đầu tháng, ngòai ra thì hột vịt làm chuẩn. Dân mình có câu ví von: Bà con xa không bằng xóm giềng gần, tối lửa tắt đèn nhờ hột quẹt. Việc ấy đã xảy ra trong hai gia đình ở trọ như chúng tôi. Thơm một chiều về sớm, cô làm cá ngòai sàn nước xong, trên đường vô nhà cô đi như người say rượu, tới cửa nhà cô quị xuống. Chị Xuân (con bà chủ) đi làm về thấy vậy la lớn lên gọi Nguyên. Nguyên chạy ra cửa và thấy Thơm mặt mày tái mét không nói được tiếng nào. Nguyên gọi tôi cùng dìu Thơm vào giừờng, không tị hiềm nam nữ, Nguyên lấy dầu cạo gió cho Thơm, bịnh tình có giảm nhưng Thơm vẫn chưa cử động. Chị Xuân định gọi xe lôi đưa Thơm đến bịnh viện, Nguyên không nói gì ra sau nhà tìm mảnh chén kiểu, anh đập lấy vài miếng có cạnh bén, đồt đèn hơ lửa để khử trùng rồi cắt sau lưng, hai bên cổ, cắt tới đâu đều nặn máu ra, máu bầm đen. Xong phía lưng, tới phía trước, hai bên thái dương, chỗ hóp ở cổ, hai bên bã vai. Thơm bắt đầu nói được, tụi tôi vô cùng mừng rỡ, chị Xuân vỗ vai Nguyên khen - Ông thầy Nguyên hay quá. Nhân đó chị đưa tiền nhờ tôi chạy xe qua chợ mua giùm chai dầu Cù là hoặc Nhị thiên đường về phòng khi hữu sự. Tôi về tới nhà đưa dầu cho Thơm và bảo cô ấy thoa cho ấm. Nguyên đang nấu cháo thương hàn cho nàng. Sáng hôm sau Thơm sang nói lời cám ơn tụi tôi đặc biệt với Nguyên. Thơm nhìn Nguyên vừa e ngại lẫn âu yếm. Cô lí nhí: - Không có anh Nguyên chắc Thơm chết mất rồi Nguyên cười nhìn Thơm lên tiếng - Nguyên chỉ làm những gì phải làm. Nguyên rất mừng khi Thơm khỏe lại
Sau lần cạo gió, hai cô Thơm và Nhậm đề nghị: - Mỗi chiều hai anh chỉ nấu cơm thôi, đồ ăn chúng tôi nấu giúp. Lời đề nghị quá hay, chúng tôi hoan nghinh hết mình. Ngày học, tôi và Nguyên ăn căng tin buổi trưa ở trường, chiều nếu hai cô tình nguyện nấu giùm thức ăn, tụi tôi sẽ rảnh rang hơn. Nhiều lần tôi khuyên Nguyên nên bỏ việc coi tay, để thì giờ lo học hành. Nguyên ừ hử nhưng rồi đâu lại vào đó. Một chiều tôi có giờ trống về sớm, vừa vô nhà tôi thấy một người đàn bà đứng sát Nguyên thiếu điều ôm hôn hắn. Người đàn bà khỏang hơn hai mươi tuổi, nước da trắng nõn, cặp mắt lả lơi. Tôi vào làm chị ta ngượng lí nhí với Nguyên một chốc rồi ra về. Tôi hỏi Nguyên chị ta là ai, Nguyên cho biết đó là dì một cô bạn quen đến nhờ Nguyên xem chỉ tay. Coi xong chị trả Nguyên 100 đồng và hẹn hôm khác sẽ đến xem tiếp. Chồng chị ấy người Tàu dân buôn bán. Nguyên nói nhờ tôi về đúng lúc, chị ấy tấn công Nguyên tới tấp, hắn suýt xiêu lòng. Câu chuyện tưởng chấm dứt và Nguyên không còn xem chỉ tay nữa, nhưng chứng nào tật nấy. Một trưa nọ ba tôi đến thăm tôi và tại nhà trọ cũng có hai cô đang rù rì với Nguyên. Tuần sau ông kêu tôi về và bảo tôi phải tìm nhà khác, năm nầy thi cử, cứ mèo mỡ mãi sẽ thi rớt. Ba tôi vẫn thương Nguyên nhưng tình trạng lăng nhăng của hắn khiến ông cương quyết tách tôi ra khỏi Nguyên. Hôm tôi dọn đi Nguyên buồn hiu, cả tôi cũng vậy. Mấy tháng hè qua nhanh, tôi quyết chí phải thi đậu nên tôi học chăm chỉ, một hôm tôi đến thăm Nguyên, hắn cho biết dạo nầy hắn bán bánh mì đắt lắm, hắn tìm được nhiều mối chỉ chạy xe đến giao bánh, chạy hơi xa nhưng khỏi phải bán lẻ, tiền bạc không còn thiếu hụt như trước. Hai nàng Thơm và Nhậm dạo nầy “ cưng “ hắn lắm. Tôi ra về vẫn lưu luyến chỗ trọ cũ.
Mới đó mà đã hơn nửa năm kể từ lúc tôi dọn đi. Nguyên rủ tôi đi uống cà phê, trông Nguyên có vẽ buồn tôi hỏi tại sao? Nguyên bây giờ mới thú thật, hắn thầm yêu cô bạn cùng trường hồi tiểu học, gặp nhau cô vẫn chuyện trò vui vẻ, mới đây Nguyên bày tỏ lòng mình, cô cho biết là cô đã có người yêu rồi. Tôi đùa: - Sao mày không chọn Thơm, cô ấy hơi quê mùa nhưng yêu mày thật tình - Thơm về quê lấy chồng rồi. Rồi hắn kể: một đêm vào tháng trước, Nhậm về quê, nhà chỉ còn Thơm, tới chin giờ hơn, Thơm qua nhà kêu tao cạo gió giùm, tưởng thiệt, tao vừa rờ trán xem, bất thình lình Thơm ôm tao cứng ngắt, cô hổn hểnh bảo tao hãy yêu cô đi. Thơm để ngực trần không soutien, áo chỉ gài nút tạm bợ, nàng hôn tới tấp, tao xiêu lòng, hưởng ứng lời mời gọi của nàng, ham muốn nhiều nhưng làm ăn chẳng tới đâu, nàng chẳng những không giận hờn trái lại còn âu yếm hơn nữa. Tao ngủ luôn bên đó và đã sống như vợ chồng với nàng. Sáng ra nàng mở rương lấy hai bộ đồ ngủ nàng may cho tao và hỏi tao nếu yêu nàng thì tao hứa đi nàng sẽ trốn ở luôn trên này, cố đi làm và nuôi tao đi học, nếu không tuần sau tới đám hỏi Thơm không sao trốn tránh được. Bên chồng tương lai dường như có quyền thế khiến gia đình nàng bắt buộc phải ưng chịu. Do vậy nàng quyết đem những gì quý báu nhứt trao cho tao - Câu chuyện có vẻ lâm ly, hôm cô bịnh mày cạo gió tao thấy Thơm âu yếm nhìn mày, chẳng những mày cạo gió mà còn “ bắt gió “ nữa. Còn bà Nhậm mày cạo gió chưa. -Tao vừa cự lộn với Nhậm . - Lại chuyện cạo gió chứ gì ? - Gần như vậy. Sau khi Thơm về quê, Nhậm ở nhà một mình, có đêm nàng giả bộ sợ ma, nửa đêm qua kêu cửa, tao đã biết tẩy của Nhậm nên không bỏ lỡ cơ hội, tao kéo nàng lên giường và … Bắt đầu từ đêm đó, khi nào cần nàng sang tìm tao, nào dè tuần vừa rồi nàng dắt về một chàng trai coi bộ dân nhà giàu, nàng sang nhờ tao đi mua giùm nước uống. Tưởng là bà con với Nhậm tao đi mua đến khi về tao còn đứng ngòai cửa nghe Nhậm nói với gã nọ - Anh đừng hiểu lầm, nó là bạn với thằng em tôi. Em lại yêu thằng con nít ấy sao? Tao đem nước mua về và lịch sự nói với bọn họ - Mời anh chị dùng nước. Tao làm như không nghe thấy gì hết, nhưng cương quyết không chung chạ với cô ấy nữa. Bây giờ nhà ai nấy ở, cơm ai nấy ăn. Tôi khuyên Nguyên - Ngày thi gần kề, bỏ tất cả lo học thi - Tao cũng biết vậy nhưng số tao theo thầy bói phán, tao khổ nhiều với đàn bà, nhưng tao trở nên giàu có cũng nhờ đàn bà. Tôi không đồng ý: - Tại ai mầy cũng yêu, phải chọn người đàng hòang rồi yêu mới tốt Nguyên biện hộ: - Đời tao chỉ yêu H. nàng từ chối, nên sau đó ai yêu, tao yêu lại, tuyệt đối tao không chọc ghẹo tán tỉnh ai cả. Quả nhiên Nguyên rớt kỳ thi Trung Học năm đó, kỳ nhì cũng hỏng luôn. Nguyên tình nguyện đi Thủ Đức, sau chin tháng tôi luyện ở Quân Trường, Nguyên ra trường với cấp bực thiếu úy Địa Phương Quân. Mấy năm đầu Nguyên đi đóng đồn, trong các xã thuộc quận T.B, Sáu năm sau Nguyên mang cấp bậc Đại úy và là Chi khu phó đặc trách Quân Sự. Giữa Nguyên và Thiếu tả Quận trưởng xích mích sao đó nên ông muốn tống khứ Nguyên ra khỏi quận. Không tìm được lỗi lầm nào ở Nguyên nên ông quận không vui. Cơ hội đến: có khóa học về Tham Mưu của Hoa Kỳ dành cho các Sĩ quan Việt Nam, ông quận đề nghị Nguyên, hy vọng bứng Nguyên ra khỏi quận. Vòng tuyển nầy khá gay go, sau cùng Nguyên là một trong số các sĩ quan được chọn cho đi du học. Chín tháng học ở Mỹ về, Nguyên vẫn cà nhõng ở tỉnh, nay giữ tạm chức nầy, mai tạm chức khác, sau cùng là thanh tra. Chín năm kể từ ngày ra trường Nguyên vẫn là Đại úy, muốn lên Thiếu tá phải có bằng Tú Tài, Nguyên không có được nên cứ cà lơ phất phơ. Một tình cờ Nguyên gặp Lan khi Nguyên về quê thăm gia đình người cô nhân ngày giỗ của mẹ. Cô giáo Lan bạn với Linh em họ chàng. Trong đám giỗ Nguyên Lan được sắp ngồi gần nhau. Tâm tình tương đắc, hai người ở vào lứa tuổi sắp ế tơi nơi nên họ có khuynh hướng kết hợp. Tuy gần ba mươi nhưng trong Nguyên vẫn phong độ. Bốn tháng sau họ làm đám cưới. Hai vợ chồng Nguyên mua nhà trả góp hàng tháng của chánh phủ dành cho Quân Nhân Công chức. Lúc Lan mang thai, Nguyên lại được đi Mỹ tu nghiệp nữa. Đúng là số đỏ, có người chạy chọt để đi mà không được, riêng Nguyên vì ông quận ghét mà Nguyên được đi Mỹ tới hai lần tính ra cả năm rưởi. Lần này Nguyên trở về nhờ vào tiền đổi chác theo hối suất chợ đen và các món đồ chàng mang về đem bán gom lại cũng khá nhiều, bảo đảm cuộc sống cho gia đình họ được vài năm. Tình hình chiến sự ngày càng nguy ngập, Việt Cộng tấn công vào những chỗ xưa nay vẫn cho là an ninh. Ra khỏi tỉnh độ năm bảy cây số phải đề phòng kẻo Việt Cộng bắt cho đi mò tôm như hồi năm 1945. Nguyên bây giờ là Tiểu đòan trưởng Địa Phương quân, đi hành quân liên miên. Có lúc Nguyên muốn xin qua Sư đòan hy vọng có thể lên lon được, nhưng nhìn lại vợ con Nguyên bỏ ý định. Từ Tiểu đòan, Nguyên lên chức Liên Đòan Trưởng Địa phương quân, Nguyên đánh giặc không thua đơn vị nào, huy chương mang đỏ ngực vậy mà vẫn cứ mang cấp đại úy.
Đi tu nghiệp lần hai, Nguyên tìm một chút hy vọng có thể thăng cấp bậc được. Một trong số giảng viên người Mỹ thấy trình độ Anh Văn của Nguyên lưu lóat, trong khóa học luôn có sang kiến. Ông tìm hiểu và biết Nguyên mang cấp đại úy quá lâu mặc dù ở đơn vị tác chiến, hỏi lý do, Nguyên cho biết là Bộ Quốc Phòng Việt Nam đòi hỏi phải có Tú Tài I mới có thể thăng cấp tá được, Nguyên quên hết chữ nghĩa khó lòng thi đậu được. Vị giảng viên ấy nói có một cách may có thể giúp Nguyên được. Một hôm ông xin nhà trường cho Nguyên nghỉ một buổi và chở Nguyên đên Ty giáo dục ở vùng đó xin cho Nguyên thi chứng chỉ tương đương Văn Bằng Tú Tài II của Việt Nam. Nguyện dự thi khỏang hai giờ, chỉ hai giám khảo vừa gác thi lẫn chấm bài, kết quả Nguyên đậu. Tại đó họ cấp cho Nguyên chứng chỉ đậu kỳ thi như đã nói. Vị giảng viên chở Nguyên đến Học Khu nhờ thị thực chữ ký của vị giám khảo đã ký tên trên chứng chỉ đã cấp. Trao cho Nguyên chứng chỉ ông còn dặn thêm là có thể lúc đầu họ không cứu xét nhưng hy vọng năm sau. Cầm chứng chỉ trong tay Nguyên cũng không hy vọng mấy. Một năm trôi qua, một hôm ban quân số cho biết Nguyên có tên trong đợt thăng thưởng kỳ nầy. Nguyên thăng cấp thiếu tá trong lúc tình hình Việt Nam rất bi đát, tât cả quân nhân vẫn giữ vững tay súng, nhưng đạn dược, các tiếp liệu khác, cạn dần mà không thay thế được. Ngày 30-4-75, mang tủi nhục cho tòan thể Quân Cán Chính Viêt Nam Cộng Hòa, ngày tang thương của dân miền Nam vì chúng ta bị phản bội, bị bán đứng. Từ giả chiến hữu Nguyên về nhà với gia đình, hai ngày sau tóan võ trang đến nhà bắt Nguyên . Con gái thứ ba của Nguyên vừa tròn tháng tuổi. Vợ Nguyên bị cho nghỉ việc, họ lấy luôn nhà. Vợ con Nguyên nương náu tạm nhà người cô của Nguyên. Nguyên bị đưa ra Bắc, năm đầu Nguyên nhận được hai ký lô quà tiếp tế do Lan gởi, từ đó về sau không ai thăm nuôi nữa, Nguyên trở thành con bà phước. Nguyên tự an ủi là vợ chàng phải lo cho con cái, lại bị nghỉ việc nên không thể trách được. Nguyên xuất thân từ nghèo khó nên chàng chịu đựng được cảnh này, có điều chàng không an tâm khi cả thư từ cũng không là tại sao? Năm năm liền không ai thăm, bất thần vào ngày chúa nhựt Nguyên đươc gọi tên nhận quà. Mừng khôn tả chàng mau lẹ chạy ra khu thăm nuôi, không phải Lan mà Linh con của cô chàng. Linh kể, Lan dã vượt biên thành công với cả gia đình bên vợ chàng. Mừng cho các con đến bờ bến Tự Do, nhưng duyên tình của chàng và Lan dường như khó lòng tồn tại. Tâm trạng mất mát khiến chàng không hỏi được gì hơn nữa, Linh thông cảm tâm trạng anh mình, nàng ân cần khuyên anh cố giữ gìn sức khỏe để sống và về với gia đình. Nàng cũng cho biết chắc nàng không thể đi thăm được nữa, mỗi lần xin nghỉ họ bắt nhăt bắt khoan đủ đều. Nguyên an ủi em: - Em khỏi lo cho anh nữa anh sẽ cố gắng tự lo cho mình. Buổi thăm nuôi chấm dứt, Nguyên mang đồ thăm nuôi vào trại. Nhìn anh thất thểu xa dần, tự nhiên Linh bật khóc thành tiếng. Thương anh đã cực khổ, nhọc nhằn từ bé, nay tù đày, vợ con bỏ bê…
Nguyên được thả đúng vào dịp Noel năm 1983, tính ra chàng ở tù gần 8 năm, Nguyên luôn tự hỏi tại sao Lan tệ bạc như vậy, trong thời gian chung sống, Lan tỏ ra nết na hiền thục. Tại sao? Túng quẫn khiến nàng thay lòng đổi dạ. Vô lý, đến ngày mất nước nhà chàng còn một số tiền tàm tạm, Lan đã cho mẹ nàng mượn một số tiền khi chàng đi học làn thứ nhì trở về, ngồi trên xe lửa với các bạn tù được phóng thích một đợt với chàng ai cũng mừng vui, cười nói râm rang. Riêng chàng vẫn đâm chiêu suy nghĩ. Tới trạm Bình Triệu Nguyên lên xe ôm về nhà má vợ chàng. Nhà đổi chủ, dường như nhà của cán bộ, hồi còn trong trại các bạn tù thường tiếu lâm dặn chung anh em : nếu được thả ra tới nhà khoan vô, phải đứng ngòai quan sát xem có nón cối, dép râu không, nếu có thì lập tức tránh xa nếu không muốn ở tù tiếp. Nhìn thấy có dáng cán bộ trong nhà mẹ vợ, tư nhiên Nguyên phì cười nhớ lại câu chuyện với các bạn cách nay mấy năm và được lập đi lập lại nhiều lần khi các bạn hết đề tài. Đang ngơ ngác thì Tân, người em chú bác với vợ chàng ra nhìn và kéo Nguyên vào nhà. Hai anh em mừng rỡ khi gặp lại, Nguyên chưa hỏi, Tân bắt đầu kể: chị Lan và anh Tôn đã yêu nhau khi còn là học sinh, chưa cưới hỏi mà họ đã có con. Bất đắc dĩ bác Hai tôi tạm chấp nhận cuộc hôn nhơn. Năm 1958 Quốc Gia bố ráp bắt bọn V. C nằm vùng. Tôn là một trong số đó. Anh bỏ thành phố vô bưng, chị Lan tới ngày sanh nở, bác Hai tôi nhứt định đem đứa nhỏ cho người ta chứ không nuôi,. má anh Tôn lãnh đem về. Lúc đó con bé mới ba tháng. Phần chị Lan gia đình bắt buộc rời con, chị đi thăm con bé vài lần thì bên nội nó dọn nhà đi mất. Chị Lan rất đau khổ nhưng thời gian cũng phôi pha, chị học và thi Sư phạm kế gặp anh. Tới năm 1977 anh Tôn xuất hiện tại nhà Bác Hai, lúc nầy anh là Trưởng Ty thuế vụ tỉnh Biên Hòa, họ nói và bàn gì không ai biết; nhà Bác Hai đóng cửa đi vắng, tôi tưởng bác về quê miệt Bình Thủy. Độ gần hai tuần công an bao nhà bác, mời tổ trưởng đến chứng kiến cho họ mở khóa vào nhà. Bốn tháng sau chị Lan gởi cho tôi một lá thư từ Ga lăng, chị cho biết gia đình anh Tôn, gia đình chị và con cái đều đến đảo bình yên. Nghe rõ tự sự, Nguyên cáo từ. Tân lấy xe đưa Nguyên đến bến xe miền Tây để về nhà Linh. Ngồi trên xe đò Nguyên lẩm nhẩm, đầu tiên mình lầm nên lấy nhầm vợ cán bộ Cộng sản, nay họ về bắt lại vợ thì huề, nhưng còn ba đứa con mình sẽ ra sao? ! Nguyên về tới nhà mọi người mừng rỡ, vợ chồng linh vẫn còn đi dạy học, hai em trai Linh đã vượt biên và định cư ở Mỹ hai năm rồi. Một chú em đã tìm đến nhà Lan và cho biết Lan tái hôn với chồng cũ, Lan cũng nhờ nhắn giùm Nguyên là Lan sẽ nuôi dạy ba đứa con học hành tử tế. Ở nhà chơi với vợ chồng Linh vài ngày Nguyên bàn với họ là anh phải đi xa, vùng nầy anh tới lui hành quân nhiều lần chắc có hiềm khích không nhiều thì ít. Anh dự định đem di vật của người bạn tù ở vùng Tắc Cậu thuộc tỉnh Rạch Giá giao cho vợ con họ, nếu thuận lợi anh định cư luôn. Nguyên đem giao cho chị Hảo, vợ thiếu tá Đạm cái bóp có 50 đồng, tấm ảnh chụp trước ngày mất nước. Anh Đạm đau nặng không thuốc thang, biết sẽ chết nên nhờ Nguyên nếu ra tù mà anh không còn nữa thì đem về cho vợ con anh và nhắn với chị Hảo bằng mọi giá phải cho mấy con vượt biên. Nguyên tìm tới nơi thì chị Hảo và các con đã ra đi và hiện định cư ở Mỹ. Chị tới trại hai năm trước khi hay tin chồng mất và khi về nhà chị đem hai con ra đi. Nguyên thở phào nhẹ nhõm, đã làm xong lời trối trăn của bạn. Nguyên nêu ý định muốn ở lại xứ nầy thì song thân chị Hảo rất hoan nghinh, ông bà cho biết ở đây dân chúng ra đi gần hết, đa số là người gốc Tàu, vùng này lúc trước cán bộ họ trốn ở mấy đảo hoang nay họ ra làm lớn hết, nên chánh quyền tương đối dễ chịu. Bác gái bảo Nguyên ở nhà nghỉ ngơi, mai bác đi đến hỏi ông Trưởng ấp giùm. Nguyên không ngờ ở đây việc cư trú lại dễ dàng quá. Bác trai dẫn chàng đến gặp ông trưởng ấp. Ông chấp thuận và hỏi Nguyên có gia đình con cái gì không? Bác trai ra phía trước hút thuốc. Ông Trưởng ấp đề nghị thẳng thừng - Nếu anh muốn có nhà cửa sẵn thì anh cho tôi một chỉ vàng, nếu không có thì tôi chỉ chỗ rồi anh tự túc xây cất. Anh suy nghỉ đi rồi cho tôi biết. Nguyên ngần ngừ một chốc và lên tiếng -Thưa nếu một chỉ, tôi lo được. Lúc ra đi tôi cũng dự định nếu che chòi cũng tốn kém, nên đã chuẩn bị. Chỗ nầy rất vừa ý, tôi biết ơn và sẽ không quên lòng tốt của ông trưởng ấp. Nguyên trình giấy tờ và đưa cho ông ta một chỉ vàng một cách kín đáo. Ông ta cùng Nguyên và ba chị Hảo đi chừng năm trăm thước đến một ngôi nhà một căn lợp lá có cửa đàng hòang. Ông ta hỏi - Anh đồng ý nhà nầy không? Chỗ này gồm hai công vườn một công ruộng. Một mình anh chắc đủ sống. Chàng cám ơn và nhận nhà, ông hẹn hôm sau đến làm sổ hộ khẩu. Nguyên cùng bác trai về nhà. Bác cho biết ở đây nhà bỏ trống vì chủ vượt biên rất nhiều. Kỳ rồi trong buổi họp ông trưởng ấp than: -Tôi có làm khó ai đâu sao bà con cứ ra đi mãi. Nước nhà độc lập rồi không lo làm ăn đi làm gì ! ! Câu chuyện về ông thầy “ cạo gió, bắt gió” tôi thêm một tên nữa, ông thầy “ bắt cua biển “ Nguyên tới đây coi như khá đầy đủ, còn tại sao tôi cho hắn có thái độ mập mờ? Vì những lý do sau: Nghe tin Nguyên ra trại tôi gởi về hai trăm đô, qua Linh nhờ chuyển cho hắn. Hai tháng sau tôi nhận thơ Nguyên từ địa chỉ ở Rạch Giá, Nguyên cám ơn tôi và cho biết hắn đã sống vững rồi. Vài người bạn thân cho biết nhờ Nguyên họ đã có tiền đi Hà nội nộp đơn ra đi theo diện H.O. Cũng một số bạn của Nguyên và tôi lại nói Nguyên lúc nầy giàu rồi, hắn ở với vợ một cán bộ chồng đền nợ nước hồi chiến tranh. Bà nầy có vườn tược nhà cửa xênh xang, vì vậy lúc nầy Nguyên nói chuyện rặt khuôn mấy anh răng hô, mã tấu và cương quyết không nộp đơn đi Mỹ. Nghe thế tôi rất giận, bạn bè chí cốt sao lại mau chống xoay chiều, tôi bất mãn nên gọi Nguyên là hắn để tách ra khỏi nhóm bạn bè thân thiết. Thiệt hư chưa biết ra sao, có lẽ tôi phải hỏi Linh để rõ hơn về hắn.
Nguyễn Thành Sơn |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 19/Sep/2018 lúc 8:49am |
Kiếp Nghèo Sau một tháng về thăm lại làng cũ, phố xưa, thích nhất là được
nhìn giòng sông tuổi thơ. Con sông với bao nhiêu kỷ niệm êm đềm của thời
thơ ấu. Cái tuổi chỉ biết ăn, học và chơi đùa không biết mệt. Hôm nay
Thơ từ giã bà chị dâu và đám cháu gần chục đứa để trở lên Sài Gòn. Ngày
mốt vợ chồng Thơ và bà chị gái phải đáp máy bay trở về Montréal, nơi các
con đang mong đợi. Một tháng trôi qua nhanh quá. Nhất là ở vào tuổi của
Thơ, không ai mong thời gian đi nhanh như mây bay, gió thoảng! Chiếc taxi bảy chỗ mới chở nỗi tám cái vừa valise, vừa xách tay,
nhét đầy ắp áo quần và quà cáp các thứ. Thì bà con biếu dài dài từ Bắc
vào tới trong Nam mà lị! Ông xã cằn nhằn, nhưng Thơ cứ mặc kệ, nhét đầy
đến nỗi tét luôn cái túi xách Adidas bằng vải nylon! Cái túi nàng đã
mua, để chứa sách do bạn bè tặng, cách đây 3 năm nhân dịp đi chơi Los
Angeles. Thơ tức cái hãng máy bay chết tiệt Air Canada chỉ cho mỗi hành
khách có đúng một kiện miễn phí. Chỉ có hành khách mua vé từ tháng mười
một trở lại mới được hai valises. Mà nàng thì đã mua từ tháng chín! Muốn
thêm một valise í à? Thì phải sùy ra đúng một trăm đô la chứ sao! Cũng
đành cắn răng chi ra hai trăm cho hai chuyến đi và về. Thơ còn cái tội
nữa là lần đi du lịch nào, bất cứ ở đâu, cô cũng lén dấu một vài nhánh
cây cảnh hay hoa hoét gì đó đem về nhà trồng. Mà ác cái là cành cây nào
cũng đâm rể và mọc lên phơi phới. Lần này Thơ dấu đúng năm cành dâm bụt
lá ngũ sắc. Vừa thấy bụi dâm bụt trước nhà cô em chồng và mắt Thơ sáng
rực như đèn pha! Trước hôm xếp đồ vào va ly, Thơ ra chợ Sài Gòn mua vài
cành hoa giả, sau đó trộn lẫn giả và thật để đánh lận con đen mấy ông
nhà đoan ngoài phi trường. Chiêu này Thơ học từ một người bạn thích đi
du lịch và mê trồng trọt (đồ chôm) như cô. Tiểu Thu Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 19/Sep/2018 lúc 8:51am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 21/Sep/2018 lúc 7:37am |
Mùa Thu Mưa Bay
Từ ngày anh tôi đậu đại học, khoác danh hiệu sinh viên, tôi trổ mã thành thiếu nữ 16 tuổi, căn nhà vốn êm ả trầm lặng của gia đình tôi bỗng tấp nập khách khứa. Tất cả “khách” đều là bạn chung lớp với anh hai. Những anh mới bước vào ngưỡng cửa đại học, mang bao ước mơ hoài bão to tát, đang tập tành làm…người lớn. Các anh thích đến nhà tôi chơi vì đến nhà tôi cũng giống như đi “dã ngoại”, nhà tôi cách thành phố Sài Gòn 20km, không có vườn tược ao hồ cây trái gì cả, nhưng ai cũng thích đến. Cả lớp kháo nhau “ thằng Thái có nhỏ em đẹp lắm!”. Tôi chỉ là cô bé lọ lem con nhà nghèo, còn nguyên nét quê mùa ngơ ngáo. Gia đình tôi sống trong một xóm đạo toàn người Bắc di cư, nên tôi nói rặt giọng “ Bắc kỳ dốn” kéo dài thượt. Có lần, má đi buôn về, mua cho một quả mít, dặn tôi xẻ ra mang biếu bà cụ trước nhà một miếng. Quả mít thì quá nhỏ, anh em tôi lâu lắm mới được má “hào phóng” mua cho một chút trái cây. Tiếc rẻ, tôi đem biếu bà một miếng nhỏ sát cuống. Lúc sau, bà cầm cái vỏ mít sang tìm tôi “mắng vốn”: - Sao mày cho “chị” miếng mít …nguyên …thơ là …thơ ế. ( miếng mít toàn xơ là xơ thế) Từ đó, chúng tôi hay dùng câu : “nguyên thơ là …thơ để nói đến món gì quá …hẻo”. Giọng Bắc của tôi cũng vậy, lúc nào cũng có chữ “ế” kéo dài đằng sau, nghe đúng “giai điệu” Bắc…kỳ. Tuy “mang tiếng” là “đẹp lắm” nhưng quần áo tôi cũ mèm, xốc xếch, tóc cột bằng sợi thun nhỏng nhảnh đuôi gà, thay cho chiếc kẹp nhiều màu lóng lánh mà tôi hằng mơ ước. Trên người tôi không có món “trang sức” nào quí giá, tai đeo đôi bông bằng hột…nhựa, chờ mãi một đôi bông vàng 18k bà nội hứa cho từ hồi còn nhỏ xíu chưa xỏ lỗ tai, đến giờ chưa thấy. Tính tôi cũng còn con nít ham chơi, rảnh một chút là chạy biến ra sân nhà thờ nhẩy dây, đánh chuyền, chẳng quan tâm đến “thời sự” sôi động trong nhà. Trong số bạn anh Thái đến chơi, có ba anh rất thân với anh tôi là anh Quế Anh, Trường Giang và Thiên Phú. Bốn anh được bạn trong lớp phong cho danh hiệu … tứ đại công tử. “Đại công tử” là ba anh kia thôi, chứ anh Thái tôi con nhà nghèo làm sao là “công tử” được, nhưng anh tôi lại cao ráo, đẹp trai, trắng trẻo nên có vẻ cũng xứng với danh hiệu. Các anh siêng năng tặng quà cho em gái …út, dù chẳng có dịp gì, còn nếu là sinh nhật thì các món quà càng đặc biệt “nặng ký” hơn. Anh tôi hay hỏi đùa em út: - Sao sinh nhật út mà toàn là bạn anh tặng quà vậy? ( bạn út nhỏ xíu làm sao có quà) Cuối cùng chỉ còn anh Quế Anh giữ lại “truyền thống tốt đẹp” này. Sau mới biết, thì ra hai anh kia đứng lại “nhường đường” cho Quế Anh…. Một hôm, ngồi chơi chán, Quế Anh rủ anh Thái đi uống cafê, thằng em kế ở đâu chạy về, mặt mũi đỏ gay, mồ hôi nhễ nhại, nó cuống quýt lắp bắp: - Anh Que…Ành chò èm đì vơi. Quế Anh ngạc nhiên sửng sốt hỏi anh Thái: - Nó nói cái gì vậy? Sao nó bảo tao …què??? Chúng tôi lăn ra cười sặc sụa, thằng em mắc cở chạy mất, anh Thái cố nín cười giải thích: - Nó nói mày cho nó đi với, nó nói Quế Anh chứ không phải …què. Quế Anh vẫn thắc mắc: - Sao nhà mày kỳ vậy? Mày người Nam, em gái mày người Bắc, em trai mày người…Trung. Má tôi người Bắc, ba người Nam. Sau ngày “giải phóng” ba đi “học tập”, má quá khó khăn chật vật nuôi anh em tôi, nên gởi anh hai về bên nội ở nhờ một thời gian, vì thế anh nói tiếng Nam. Còn lại, tôi và em gái ở với má và bà ngoaị trong xóm rặt người Bắc nên nói tiếng Bắc là đương nhiên, nhưng không hiểu sao thằng em kế tôi lại “đột phá” thanh âm, biến thành giọng …Trung. Nhà tôi qui tụ cả ba miền đất nước. Ba được “nhà nuớc khoan hồng” cho về “đoàn tụ” với gia đình từ năm tôi 12 tuổi, nhưng vì ba má không hợp nhau, nên ba về sống với bên nội. Bà ngoại mất đã lâu. Má con tôi dọn ra Thủ Đức ở cho gần trường anh hai đi học, vì má rất lo lắng hồi hộp mỗi ngày anh đạp xe mười mấy cây số đi về, trên con đường tỉnh lộ xe ben chở đất đá chạy bạt mạng, cán người như ngóe. Dù còn rất nghèo, không biết bằng cách nào má xoay sở mua được căn nhà xuống cấp trong cư xá Kiến Thiết và sang lại một quán cafê nhỏ trong sân nhà người ta cho tôi bán, anh hai và thằng em sáng tối ra dọn hàng phụ. Ngày ấy, có trào lưu cafê sân vuờn và nghe nhạc nước ngoài, người ta không còn thích ngồi uống cafê trong nhà với bốn bức tường bí bức, quạt quay vù vù, nghe nhạc “sến” rên rỉ. Quán tôi gọi là “sân vuờn” cho …sang, chứ thật ra chỉ là mảnh sân nhỏ, để vài chậu dừa kiểng, vài chậu thiết mộc lan rải rác. “ Dàn âm thanh” là cái mini cat sét, giấu trong quầy, phát ra loa nghe rồ rồ rẹt rẹt, vì thế tôi không cho ai đứng gần quầy, sợ họ phát giác ra “dàn máy hiện đại” của tôi thì xấu hổ chết người. Người ta bỏ tiền ra đi uống cafê sân vuờn là để hưởng không khí trong lành, gió mát thiên nhiên, thưởng thức âm nhạc với dàn hifi tuyệt hảo, nhạc của những boyband, girlband nổi tiếng thế giới. Quán tôi chỉ có vài ba cuốn băng, (vì anh em tôi không ai rành nhạc nước ngoài), cộng với âm thanh máy phát ra… rẹt rẹt, khách đổi tên quán Thiên Lý của tôi thành quán BGs, vì chỉ có băng BGs là hay nhất và tôi mở cả ngày đến nhão nhoẹt. Khi mùa mưa tới, những tấm bạt che ở trên mái tạm lủng lỗ, dột, nước mưa rơi lõm bõm xuống ly cafê, mưa gió hắt tứ tung, khách phải …mặc áo mưa ngồi uống .Tôi “thủ” mấy cái áo để trong quầy, khách nào quên mang, tôi phát cho một cái, mặc vào … ngồi “nước lụt” trên ghế, uống cafê, nghe nhạc rột rẹt cùng với tiếng giọt mưa lộp độp trên tấm bạt, lạnh run. Khách vẫn vui vẻ, dù đôi khi có phàn nàn ca cẩm chút đỉnh. Có một người khách đặc biệt, anh ngồi lặng lẽ ở một góc khuất, uống ly cafê đen đặc quánh, mỗi ngày… Anh đẹp trai như diễn viên điện ảnh, khuôn mặt hiền lành trầm lặng, nụ cười sẵn sàng nở trên môi khi nói chuyện, nhưng anh rất it nói, không phàn nàn khi nghe nhạc dở, không mặc áo mưa khi trời mưa, khiến lòng tôi phải áy náy. Tôi động tâm thỉnh thoảng kín đáo nhìn trộm anh, thì bắt gặp đôi mắt sâu cũng đang nhìn tôi, lần nào cũng vậy… Tôi thấy lòng mình rộn lên một cảm giác là lạ, không biết gọi tên, nhưng vô tư không nghĩ đến nhiều. Vả lại, tôi còn đang “ bận rộn” sàng lọc, phân tích, đối phó với bao nhiêu lờì bóng gió xa xôi của nhiều người, vừa là bạn anh hai, vừa là khách quen trong quán. Thì ra người “khách đặc biệt” kia cũng là bạn chung lớp với anh hai, từ lâu anh có nghe lời đồn “ em thằng Thái đẹp lắm”, nhưng vì tính hiền lành nhút nhát, anh không muốn “bon chen”, cho đến một lần anh Thái rủ anh ra quán uống cafê. Từ đó anh trở thành “khách đặc biệt” , mỗi ngày đến quán “ngồi đồng”. Anh tiến đến gần quầy, chỗ tôi ngồi, nói nhỏ: - Anh muốn nói chuyện với Châu một chút. Phản ứng tự nhiên như mọi khi, tôi “xua đuổi”. - Anh đừng đứng đây, má Châu la. Anh nài nỉ. - Vậy thì chỗ khác, Châu cho anh một cái hẹn đi, lúc nào Châu rảnh? - Châu chỉ rảnh buổi trưa, khi vắng khách, có thể nhờ anh Thái coi quán giùm. Anh vui mừng hấp tấp nói: - Vậy thì trưa mai, lúc 1 giờ, anh chờ Châu ở…. Tôi ừ đại cho anh khỏi đứng lại nói thêm, sợ má ra bất chợt trông thấy lại bị rầy. Trưa hôm sau, tôi …quên béng mất “ cuộc hẹn tình đầu”, vô tư ngồi “nhiều chuyện” với nhỏ bạn. Khoảng 3 giờ, anh Tánh hớt hơ hớt hải chạy đến báo tin: - Châu, sao em hẹn với thằng Chương mà không đến? Nó đứng chờ em say nắng …xỉu rồi, mới tỉnh lại, nó muốn gặp em. Tôi áy náy quá, vội vàng theo anh Tánh đến gặp anh. Mặt mày anh xanh mét như vừa trải qua một cơn bịnh nặng. Anh hẹn tôi ở một quán cafê khác, nhưng đứng ngoài đường chờ vì sợ trong quán toàn thanh niên, tôi sẽ ngại. Nắng giữa trưa tháng hạ thiêu đốt cơ thể, nhưng anh kiên nhẫn đứng chờ cho đến khi đổ gục. Sau chuyện này, chúng tôi thân nhau hơn.
Sắp đến 2/9 là ngày lễ “độc lập” của nước “cộng hoà xã hội chủ nghĩa VN”, anh muốn rủ tôi đi chơi nên đến nhà xin phép má. Nhà tôi không có sofa cho khách ngồi, chỉ có mấy chiếc ghế đẩu, anh không dám ngồi ngang hàng với má nên xếp bằng ngồi dưới đất. Má tôi cao giọng nói mát mẻ, kiểu chua chát cuả người Bắc. - Nhà tôi nghèo, con tôi còn phải buôn bán phụ với gia đình, đâu có sung sướng nhàn rỗi như các anh các chị nhà giàu, đi chơi lễ chơi lạt, thôi anh để cho nó yên, đừng rủ rê nó chơi bời nữa ( người bắc nói “chơi bời” là đi chơi). Má nói nhiều lắm, toàn giọng mỉa mai chua chát. Anh ngồi im bất động, thỉnh thoảng dạ nhỏ. Má thôi nói đã lâu, anh mới dám đứng dậy, nhưng lại ngã khụy xuống, vì ngồi xếp bằng quá lâu nên đôi chân bị tê cứng. Tôi bất nhẫn cho anh và thầm trách má quá khắt khe với tôi. Là con nhà nghèo, từ nhỏ đến giờ tôi chẳng được đi đâu chơi. Nơi xa nhất và vui thú nhất là nhà nội, không phải vì bên nội thương yêu quí hóa chúng tôi mà vì nhà nội là nơi duy nhất để đến và có nhiều bánh trái mà ở nhà không có, nhưng bây giờ chúng tôi không thích về nội nữa, vì nhận biết được sự ghẻ lạnh nơi đó. Tôi đã làm lụng miệt mài, phụ giúp má kiếm tiền từ khi còn rất nhỏ, chưa bao giờ được thụ hưởng niềm vui từ bên ngoài. Chưa bao giờ được rong ruổi nơi những khung trời lạ, ngắm nhìn cảnh vật thiên nhiên tươi đẹp, hồn nhiên vui đùa một ngày, không cần lo lắng chuyện bán buôn đắt ế… Má thật bất công!!! Cái đầu nông nổi khờ dại của tôi đã nghĩ như thế và đưa đến quyết định: Má khó quá, thôi về ở với ba. Nghĩ là làm, tôi giấu vài bộ quần áo, trốn má đón xe về thẳng nhà nội ở Bà Rịa, tôi sẽ về ở với ba: Ba dễ hơn má. Đó là sự an bài của thượng đế, khi để xảy ra xung đột giữa hai má con tôi, nhờ vậy chúng tôi mới được gặp ba lần cuối, vì từ khi dọn ra chỗ ở mới, bên nội không biết địa chỉ nhà tôi. Khi về đến, mới hay ba đã nhập viện và vừa ở phòng mổ ra. Ba có vẻ tỉnh táo, thấy tôi, ba mừng rỡ rưng rưng nước mắt, nắm chặt lấy tay tôi dặn dò, nghe như lời trăn trối! - Cả đời ba có lỗi với má con, các con hãy hiếu thảo với má, bù đắp thay cho ba. Tôi cuống quýt nhắn tin về. Khi má đến nơi thì ba đang hấp hối, không nói được gì nữa, chỉ khẽ nhúc nhích mấy ngón tay. Ba biết có má hiện diện bên cạnh, nhưng thân xác đã đóng băng, khô lạnh, từ từ chìm sâu vào giấc hôn mê cuối cùng. Hỡi ôi!!! Tay nghề cuả các bác sĩ “giải phóng” quá tệ, vết mổ bị nhiễm trùng dẫn đến tử vong. Ba tôi mất đúng vào ngày rằm tháng 8, tết trung thu. Ngày đưa ba đến nơi an nghỉ, mưa sụt sùi buồn thảm. Tôi thuơng ba quặn lòng. Tuy ba không gần gũi, không hy sinh lao nhọc để nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng tôi, không thắm thiết tình phụ tử, nhưng dòng máu đang chảy trong huyết quản chúng tôi là của ba, anh em tôi có mặt trên chốn nhân gian này cũng là nhờ ba. Xảy ra việc tôi giận má về đây mới kịp nghe được một lời trăn trối và má con tôi có thể làm tang lễ tiễn ba chặng cuối cùng, nếu không thì chắc ba cô đơn lạnh lẽo lắm. Dù ba đã có người vợ sau và đứa em cùng cha, nhưng họ đâu có thể khỏa lấp được khoảng trống của chúng tôi. Trong lúc tôi đớn đau suy xụp, bước thấp bước cao trên đường ruộng dẫn ra huyệt mộ, khóc ngất từng cơn, Chương vẫn ở sát một bên, nắm chặt tay tôi chia xẻ, dìu đỡ mỗi khi tôi sắp ngã, lo âu cuống quýt khi tôi ngất xỉu, tha thiết vỗ về an ủi cho tôi nguôi. Tình anh trao cho tôi sâu vời vợi, mênh mang êm ả như mặt hồ lộng bóng trăng thu. Anh trầm lặng ít nói, không biết dùng từ ngữ để biểu đạt tâm tư, nếu không xảy ra biến cố trọng đại này, làm sao tôi hiểu được tình anh. Khi biết chúng tôi yêu nhau, Quế Anh buồn thiu, tâm sự với anh Thái. - Tao …thương Châu từ dạo mới chơi với mày mà không dám nói, bây giờ muộn màng rồi, hai thằng kia ( Giang và Phú) chửi quá trời, tụi nó thấy tao nhát nên nhường đường cho tao, nếu không đâu tới phiên thằng Chương, rốt cuộc tao …hỏng bét. Anh Thái an ủi: - Tại duyên số thôi, mà cũng tại …mày, không dám nói với nó sao không nhờ tao nói giùm, thằng Chương lù đù mà vác cái lu chạy, tao cũng không dè. Quế Anh ngập ngừng: - Không phải tao … cầu cho họ … tan vỡ, nhưng ngày nào Châu chưa đám cưới, tao …vẫn chờ. Bạn anh Thái ai cũng dễ mến. Người thì dí dỏm hài hước, người thì lanh lợi hoạt bát, riêng Quế Anh rất hiền, gần gũi thân thiết với chúng tôi nhất, tôi mến anh, coi anh như anh Thái, nên rất hồn nhiên vô tư. Nếu anh bày tỏ tình cảm, tôi không biết cảm giác của mình ra sao nữa. Mấy mùa thu trôi qua. Nói cho lãng mạn, chứ ở miền nam chỉ có hai mùa mưa nắng, mùa thu là mùa mưa, không có lá vàng rơi, hay con nai vàng nào ngơ ngác đạp trên lá khô xào xạc cả, mùa chỉ có mưa sụt sùi lê thê… chèm bẹp. Chương trở nên thân thiết trong gia đình tôi. Má thấy Chương hiền lành lễ phép nên cũng chấp nhận. Thích thú nhất là thằng em người …Trung, mỗì lần anh đến nó rất mừng, vì được mượn chiếc mô-tô phân khối lớn chạy rong trong xóm, nó mê xe như người ta mê …thuốc lào.. Chương cũng muốn nó đi càng lâu càng …tốt, cả hai đều có lợi. Gần tết năm đó, Chương đưa tôi về giới thiệu với gia đình. Nhà Chương giàu vì ba Chương là dược sĩ, có nhiều tiệm thuốc tây. Má Chương dù ở trong nhà vẫn trang điểm cầu kỳ, đôi mắt xếch tô đậm, nhìn rất dữ. Ban đầu bà vồn vã tiếp đón tôi niềm nở. Sau khi hỏi về gia cảnh, tôi thật tình kể. Biết tôi là con nhà nghèo, chỉ mới học hết cấp ba, bà liền thay đổi hẳn thái độ, lạnh nhạt như muốn tiễn tôi về ngay. Ra về với nỗi buồn tủi ngập lòng. Sao mẹ Chương lại coi trọng sự giàu nghèo đến thế. Có bao nhiêu chàng trai giàu có đang theo đuổi tôi, nhưng tôi yêu Chương vì mối chân tình tha thiết của anh, ở bên anh, tôi cảm nhận được sự êm ả bình yên. Tình yêu là cảm xúc bất chợt, nhưng dằng dặc nỗi chắt chiu mơ ước. Tuy tôi chỉ học đến cấp ba, nhưng đó là sự cố gắng phi thường của má, sự nỗ lực không mệt mỏi của bản thân và có những điều tôi học được ở trường đời, không hề có trong giáo trình rường học, vậy không tốt sao? Tôi ngậm ngùi nói lời chia tay với Chương, anh buồn rũ như tàu lá héo, nắm chặt tay tôi rưng rưng. - Em ráng chờ thêm một thời gian, để anh thuyết phục mẹ. Tôi không biết anh thuyết phục mẹ bằng cách nào, riêng tôi, tôi không đủ tự tin để làm dâu một bà “mẹ chồng” kỳ thị giai cấp như thế.
Anh vẫn ngồi lặng lẽ ở góc quán. Giọt mưa rơi lộp bộp xuống bàn, vào ly cafê, tan loãng, tung toé như những hướng đời phân chia muôn ngả. Anh tiến về phía tôi, đưa một tờ giấy gấp tư, nói nhỏ. - Anh về. Tôi ái ngại. - Còn mưa mà, anh có đem áo mưa không? - Anh quên rồi, không sao đâu. Nhìn bóng anh khuất sau làn mưa trắng, tôi nghe lòng dâng lên nỗi xót xa bùi ngùi, có làn khói nào vương vào khóe mắt, cay. Mở tờ giấy anh đưa ra coi, chỉ ngắn ngủi mấy câu …thơ: …Đếm bước trở về theo lối chân quen / Giọt mưa ngâu điệu buồn rơi lặng lẽ / Ánh đèn vàng bên đường soi bóng lẻ / Đêm ngủ rồi anh vẫn thức vì em / Em hỡi em, xin đừng nói gì thêm / Lời ly biệt cho tình đầu tan vỡ. Tôi ngẩn ngơ mất vài giây: - Trời!...cái “ông” này, bình thường “nói không ra răng” mà trở thành thi sĩ từ bao giờ? “ổng” đi mô-tô mà làm như đi bộ vậy. Dù đi xe, hình như chiếc bóng anh lầm lũi... Tôi xúc động đến nao lòng, vì dù có …tưởng tượng trong thơ một chút, thì vẫn là lời phát ra từ trái tim anh.
Anh đến nhà, dựng vội chiếc xe rồi lao vào tôi như cơn lốc, vui mừng rối rít. - Em, má chiụ rồi, chủ nhật này anh đưa em qua nhà cho má nói chuyện. Chủ nhật, tôi hồi hộp đi theo anh, không hình dung được thái độ của mẹ anh ra sao. Bằng cách nào anh đã thuyết phục được mẹ??? Một người rất quan trọng chuyện môn đăng hộ đối và không thích tôi ra mặt. Sau khi đợi tôi khép nép ngồi xuống ghế, bà vô đề ngay: - Tôi nói thế này, cháu suy nghĩ rồi về bàn với mẹ xong trả lời tôi. Cháu nói nhà cháu đơn chiếc, không có bà con thân thuộc, vậy thì kiếm vài người hàng xóm nào đó cho đủ chục người, bên này hai mẹ con tôi qua. Tôi sẽ đưa cháu mấy trăm ngàn để làm mâm cơm cho xong lễ hỏi, vậy nhé. Chương tái mặt nhìn mẹ. Tôi lặng người chết điếng, sao bà có thể thốt ra được những lời khinh mạn quá đáng như vậy. Đây là một cách sỉ nhục cho tôi nản, không phải bà thật lòng muốn tổ chức một đám hỏi theo nghi thức bình thường. Sau mấy giây trấn tĩnh, tôi ngồi thẳng người, nhìn bà, dõng dạc nói: - Thưa bác, con trả lời ngay, không để bác chờ lâu. Nói về đám hỏi, nhà con là đàng gái, cho dù một bàn hay mười bàn, cho dù nghèo, má con cũng xoay xở lo được, không phải dùng tiền của bác. Con thấy gia đình bác rất đông, chưa kể họ hàng gần xa, sao lại chỉ có bác và anh Chương qua nhà con, không giống đám hỏi…. Tôi chưa nói hết câu, bà cướp lời: - Nhà tôi đông, nhưng mọi người bận buôn bán làm ăn, không đi được. - Nếu việc làm ăn nhà bác quan trọng hơn nghi thức cưới hỏi, thì con cũng không cần đám cưới đám hỏi với anh Chương nữa. Con không phải gái hư, con chỉ nghèo, nhưng nghèo không là cái tội, con hãnh diện khi sống trong mái gia đình nghèo của con, bác không cần sỉ nhục gia đình con bằng cách đó. Để mặc bà há hốc miệng tức giận, tôi quay sang Chương: - Anh đưa em về. Ra đến sân, tôi còn nghe tiếng bà tru tréo lồng lộn trong nhà: - Mày thấy chưa Chương, chưa làm dâu mà nó đã trả treo như thế, mai mốt về đây làm sao tao chịu được. Trên đường về, anh khẽ trách tôi: - Sao em không nhịn má một chút, để từ từ anh tính. Tôi chua chát: - Anh tính được gì, má anh chịu cưới hỏi em đàng hoàng sao? Hay cũng dùng cách kẻ cả khinh mạn đó đối xử với gia đình em. Em có thể vì anh nhịn nhục, nhưng má em không đáng phải chịu nhục như vậy. Má em phải ngẩng cao đầu hãnh diện với mọi người, cho bõ công lao nhọc, cực khổ nuôi dạy tụi em. Mình không có duyên vợ chồng, em không thể làm dâu má anh đựợc đâu.. Anh im lặng, tôi chỉ nghe tiếng thở dài đắng lòng.
Đã bao năm trôi qua. Giòng đời đưa tôi trôi dạt đến phương này. Ở đây, mùa thu lá vàng rực rỡ rơi đầy trên thảm cỏ, xào xạc dưới chân. Tôi vẫn nhớ mùa thu chốn cũ, nơi có những cơn mưa dai dẳng sụt sùi. Giọt mưa rơi vào ly cafê đắng, tan loãng, phôi pha… Về sau, vợ Chương cũng có tên Châu giống tôi, nhưng có thay thế được tôi trong lòng anh? Và hình bóng anh tôi còn cất giữ trong một góc trái tim, tình đầu đâu dễ phai phôi… Quế Anh mới lấy vợ sau ngày tôi rời VN. Bạn bè thân thiết cũ của anh Thái tản mác mỗi người một phương, xa xôi. Những ngày tháng cũ vui vẻ hồn nhiên lùi sâu vào dĩ vãng, làm sao tìm lại được…
HT. THANH NGA Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 21/Sep/2018 lúc 7:45am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 24/Sep/2018 lúc 9:04am |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 195 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |