![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Chuyện Linh Tinh | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 104 |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23444 |
![]() ![]() ![]() |
Về Phía Mặt Trời Lặn
Đã 50 năm qua mà tâm hồn tôi vẫn cứ vật vờ, vất vưởng như thế. Thời quân ngũ của tôi chẳng thấm thía gì so với 50 năm thăng trầm xa xứ; thế nhưng nó cứ sống thênh thang, sống bền bỉ và gặm nhấm hồn tôi ở trong buổi xế chiều. Vâng, chưa tròn 7 năm quân ngũ, đúng một phần ba chiều dài của cuộc chiến tranh tự vệ của quân dân Miền Nam..nhưng thương quá là thương! ****** Không ai không biết là tình thế càng lúc càng xấu đi; địch quân đã tiến về sát vòng đai Saigon. Thời gian vài tuần trở lại đã có một số anh em xầm xì chuyện di tản chiến thuật... nào là tử thủ Vùng 4, nào là Côn Sơn, nào là Phú Quốc, nào là Thái Lan, Bangkok... làm tôi bật cười! Vâng, chỉ xầm xì như chuyện bình thường rồi việc ai người đó lo, hồn ai người ấy giữ trong khi đó các cấp chỉ huy hoàn toàn không nói gì đến tình thế hiện tại. Họ vẫn tỉnh bơ điều động công việc bình thường như mọi ngày. Mọi người vẫn đi bay, vẫn cấm trại, vẫn điếu đóm với an ninh phi trường để chạy ra chạy vào giữa cảnh Saigon xôn xao, lo lắng chiến tranh tràn về thành phố. Trưa 27 tháng 4 năm 1975, tôi còn ngồi ăn ở quán Huế (bán toàn đồ ăn xứ Huế) nằm trên đường Phan Thanh Giản. Quán này của gia đình Thu Dung, một cô bạn cùng hát hò trong Ca Đoàn Hương Xưa mà tôi có cảm tình đặc biệt. Nhân lúc Thu Dung tới ngồi chơi với tôi một lúc, tôi thật sự chỉ nói đùa với Thu Dung nhưng lại với giọng điệu nghiêm chỉnh: “ - Tình hình đen tối quá, em có muốn đi tỵ nạn với anh không?” - Em là chị cả trong gia đình làm sao em có thể ra đi một mình được? Và đó là câu nói đùa cuối cùng của tôi còn tồn đọng trong tâm tư từ ấy đến nay. Nếu tôi thật sự có ý định ra đi, chắc chắn Thu Dung không phải là ưu tiên đầu tiên mà là người vợ sắp cưới đang ở không xa dưới phố. Dù vậy, tôi cũng ghé đón chú em thứ Tám đang trọ học ngoài phố vào cư xá SQ độc thân ở cổng Phi Long, vì nghĩ rằng có hai anh em ở Saigon nên sống chết cần có nhau, vì chúng tôi đã mất liên lạc với đại gia đình từ trước khi đi biệt phái Đà Nẵng và rồi theo Biệt Đội xính vính rời khỏi vùng hỏa tuyến địa đầu trưa ngày 27 tháng 3 năm 1975 để về lại Saigon. Trưa 28/4, được tin từ một người thân quen ngoài phố, chú em trai thứ Bảy của tôi ở Bình Tuy chạy về tới Saigon bằng đường biển. Tôi vô cùng vui mừng, cấp tốc chạy ra đưa chú vào trại nhờ sự quen biết với an ninh và phòng thủ phi trường. (Tôi quen biết với họ qua Học Viện Võ Thuật Thần Phong, hoặc qua những lần tranh giải bóng chuyền hàng năm giữa các đội tuyển Không Quân, mà đội tuyển KĐ53CT bao giờ cũng giành chiến thắng sau cùng vào những năm cuối cùng của KQVNCH.) Trong khi đó, Đặng Phước bạn chí thân bay trực thăng ở Đà Nẵng di tản về Saigon ở tạm với tôi vài tuần lễ để đợi lệnh đi Cần Thơ, lại hộc tốc chạy ra phố chiều hôm trước để tìm kiếm vợ khi nghe tin nàng ở Đà Lạt chạy về, cái quyết định này được trả giá cho nhiều năm tù đày, vài lần vượt trại, chục lần vượt biển cho tới hơn 10 năm sau mới chạy thoát được thiên đường mù Cộng sản, hội ngộ với tôi ở bến bờ tự do! Sau khi ăn trưa với hai chú em, mua ít đồ đạc cần dùng ở khu gia binh, đưa hai chú về phòng dặn dò: “Chỉ ở yên trong phòng dù bất cứ biến cố gì.” Tôi tất tả vào phi đoàn điểm danh và ứng trực để chờ phi vụ hành quân. Đêm 28 tháng 4, năm 1975. Tôi vẫn bình thản nhận phi vụ hành quân như mọi lần. Tôi được cắt bay phi vụ Tinh Long 2 từ 8g tối đến 10g đêm. Tôi nhớ như in cảm giác hồi hộp tột độ đêm hôm đó. Mỗi lần nhớ đến lại rùng mình. Cất cánh bay về hướng Lộc Ninh nhưng vừa qua Thủ Dầu Một không bao xa, chúng tôi đã nằm trên vùng trách nhiệm. Điều đó có nghĩa là chiến trường không còn xa thành phố bao nhiêu. Tôi nói “bình thản” vì không có chọn lựa nào khác và không tin Saigon có thể thất thủ nhanh chóng hơn Nam Vang được. Với đầu óc vô tư của tôi lúc đó, tôi vững tin vào tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân đội Miền Nam sau hơn 7 năm dài làm lính. Những chiến công hiển hách, lẫy lừng của quân đội Miền Nam, ngoài sức tưởng tượng của thế giới tự do cũng như cộng sản qua hai trận đánh long trời lở đất trong dịp Tết Mậu Thân và Mùa Hè Đỏ Lửa, cho tôi niềm kiêu hãnh và tin tưởng. Chúng tôi bay ở cao độ 10 ngàn bộ trên đường tới vùng trách nhiệm. Vừa tới “đầu ngõ”, địch quân đã dàn chào chúng tôi bằng đủ loại phòng không, thắp sáng rực trời như màn pháo bông ở lúc cuối cùng của cuộc lễ mừng Độc Lập ở Hoa Kỳ mỗi năm. Hai mươi con mắt mở banh để canh chừng “đóm lửa xanh SA7”. Dưới mặt đất từng đoàn xe vận tải đủ loại của địch quân, nối dài vô tận, mở đèn sáng choang một cách tự tin, nối đuôi nhau chạy về hướng Saigon. Có vài lần anh Trưởng Phi Cơ hỏi ý kiến anh em có chuẩn bị tinh thần để xung trận hay không. Dường như không có một ai trong 9 người còn lại trên tàu có chút ngần ngại nào khi trả lời YES! Ai cũng đang căng thẳng, hồi hộp tột bực; cái chết dù có lởn vởn trong đầu mọi người nhưng không còn có sự chọn lựa nào khác tốt hơn là khai hỏa. Tuy nhiên, cứ mỗi lần nhào xuống nhập trận là phòng không cứ như đan lưới, sáng rực trời lại phải vã mồ hôi bay lên cao khỏi tầm phòng không. Phải rất dè dặt sử dụng trái sáng MK24 chống SA7 nhưng cũng đã bắn ra hơn chục lần! Ôi! Không có nỗi khó chịu, hồi hộp nào bằng khi lâm trận mình chưa bắn được viên nào còn địch quân cứ bắn xối xả như mưa! Kinh nghiệm bao nhiêu lần đánh trận, chỉ khi nào mình khai hỏa thì lúc đó mới hết hồi hộp. Nhưng cả 2 tiếng đồng hồ trên vùng, 4 khẩu đại bác minigun 6 nòng và 2 con gà cồ đại pháo 20 ly 6 nòng hôm nay hoàn toàn im tiếng. Chúng tôi không có lấy một cơ hội để khai hỏa vì không thể bay lọt qua được màn lưới phòng không. Ai cũng hiểu đạn minigun không ăn nhằm gì ở cao độ quá 5 ngàn bộ và đại pháo cũng chẳng ăn nhập gì nếu trên 6 ngàn bộ. Tự nhiên tôi có cái mơ ước lạ lùng, “Phải chi mình có đầy đủ đạn dược thì cũng bắn xả láng hù dọa địch quân và để cho mọi người bớt hồi hộp.” Chúng tôi rời vùng trong nỗi uất hận sau khi bàn giao vùng trách nhiệm cho Tinh Long 3. Sau khi hoàn tất nhiệm vụ tôi hối hả chạy về cư xá. Chỉ hơn vài tiếng sau, đạn pháo kích của địch quân bắt đầu ầm vang khắp căn cứ. Vừa tờ mờ sáng, tôi dè dặt ra khỏi phòng để quan sát chung quanh... vì trong trận pháo kích lúc hừng sáng dường như chúng tôi nghe tiếng rú chói tai của một trái đạn pháo rớt xuống sát bên ngoài tường... mà đợi đến thót tim nhưng mãi không nghe tiếng nổ!!! Tôi “rụng rời” khi thấy một phần nhỏ chui đạn 122 ly còn nhô trên mặt đất! Như thế có nghĩa là số phận chúng tôi chưa đoạn tuyệt. Nhìn chung quanh, tất cả đều vắng lặng; phía bên kia đường, đối diện cư xá là trại huấn luyện binh sĩ KQ; thường ngày ra vào nhộn nhịp giờ đã vắng lặng khác thường. Tôi đảo qua một vòng thu nhặt những súng ống, đạn dược vất bừa bãi đem về phòng với ý nghĩ thừa sức cho ba anh em chiến đấu tới cùng. Xong tôi lấy xe chạy lên khu gia binh, đến ngay tiệm tạp hóa của Tr/S Ngọn (một nhân viên phi hành vừa bay tối qua với tôi) mua thêm nhiều gạo và nước mắm. Mặc dù dọc đường thấy người người ngược xuôi xuôi ngược như tìm kiếm một cái gì; thỉnh thoảng tiếng pháo kích vẫn ầm vang đây đó nhưng tôi vẫn không hề nghĩ tới là phải tìm phương tiện ra đi. Về tới nơi thấy hai chú em lo lắng hỏi tôi tính sao? Tôi thản nhiên nói rằng: “Anh em mình có đủ thực phẩm và súng đạn để tử chiến.” Hai chú nhỏ lần đầu tiên trong đời được rờ tới súng đạn nên có vẻ an tâm. Bỗng nhiên tôi chợt nghĩ tới bạn bè các phòng bên cạnh; tôi đi gõ cửa từng phòng nhưng hoàn toàn vắng tanh. Trước cửa phòng của Nguyễn Đồng Khuyến (bạn cùng khóa C130) có nồi cơm và nồi thức ăn còn nguyên vẹn nhưng cửa khóa, then cài. Tôi mang về phòng nhưng lòng tôi nôn nóng kỳ lạ, vô cùng bất an. Tôi bảo hai chú nhỏ ăn cơm trước, ở kỹ trong phòng, tôi lấy xe chạy vào phi đoàn để xem sự thể ra sao. Chạy ngang qua khu cư xá của nữ quân nhân KQ thấy rộn rịp xe cứu thương, cứu hỏa. Tôi chạy một mạch vào phi đoàn... ôi cảnh tượng hoang tàn, vài quân nhân đang ngược xuôi, dớn dác không ai có cơ hội chào hỏi ai như thường lệ. Tôi chạy vụt về cư xá bốc hai chú em đèo nhau trên chiếc Lambrettite của tôi chạy ra khu đậu Tinh Long tìm kiếm,may mắn gặp một chú Phi Đạo Tinh Long hướng dẫn tôi cùng đi tìm máy bay với câu nói: - Tìm được máy bay ông thầy cho em đi với nghe. - Dĩ nhiên rồi! Những nơi chú Phi Đạo hướng dẫn tới đều đã không còn máy bay. Hai xe bốn người chạy tiếp tục tìm hết bãi đậu này sang bãi đậu khác dưới những tiếng hú của đạn pháo kích của địch rót vào phi trường và kẻ chạy đông người chạy tây trong vô vọng... Cuối cùng tìm được chiếc Tinh Long ở ngay sát Trạm Hàng Không Quân Sự còn khả dụng, mũi tàu đang hướng ra ngoài. Chú em Phi Đạo leo lên cánh cho biết 2 bình xăng đầy và cho biết chỉ một số đồng hồ không quan trọng hư hỏng mà thôi. Sau khi xem tình trạng chung bên ngoài, tất cả đều tốt. Tôi vào phòng lái quay máy... mừng quá, máy nổ ngon lành, một số đồng hồ không quan trọng lắm bị malfunction (kim nằm ở vệt đỏ). Tôi quyết định ra đi. Thò đầu ra cửa sổ phòng lái gọi chú Phi Đạo và hai chú em nhưng không thấy đâu. Tôi hoảng hốt tắt máy nhảy xuống đất, thấy chú Phi Đạo ngồi trên chiếc xe hơi màu trắng, mui trần đang nổ máy! Chú nói với tôi rằng: - Thôi anh em ông thầy đi trước, em lấy xe chạy về nhà rước gia đình rồi tìm cách đi sau. Xong chạy biến ra phía cổng! Tôi nghĩ chú ấy vừa lượm được chiếc xe này của ai đó đã bỏ lại nên muốn dùng làm phương tiện về đưa nhiều người thân cùng đi. Nhưng tình hình này nếu chú ấy ra khỏi cổng thì kể như không còn cơ hội ra đi được nữa; có lẽ tôi đang ngẩn ngơ, hốt hoảng nên cũng chẳng nói được lời nào! Hơn nữa, tôi lại đang lo lắng tìm kiếm hai chú em. Vừa lúc đó thấy vài người bạn chung phi đoàn xuất hiện bất ngờ, nhảy lên tàu quay máy, taxi ra khỏi bến đậu! Tôi kinh hoàng đứng ngay trước mũi tàu cố khoa tay cản tàu lại nhưng con tàu vẫn phom phom chạy tới làm tôi phải nhanh chân nhảy ra chỗ an toàn. Con tàu vẫn tiếp tục đi về phía phi đạo. Tôi vô cùng tức giận và thất vọng nhưng kịp suy nghĩ lại: “Ở lằn ranh sinh tử,con người ta thường hành động theo quán tính là chuyện tất nhiên.” Nghĩ vậy nên sự tức giận cũng lắng xuống bớt nhiều phần. Đang đứng lớ ngớ với nỗi lòng tức bực 2 chú nhỏ thì thấy 2 chú em đang chạy về phía tôi! Tôi hét lên: - Tại sao bỏ đi đâu vậy? Chú lớn bình tĩnh nói: - Tụi em xin lỗi anh Bốn, 2 đứa em không muốn đi, tính chạy về Bình Tuy tìm Ba Mẹ và anh chị em nhưng ra cổng không được, đầy nghẹt người là người, la ó phản đối om sòm nhưng Quân Cảnh bắn chỉ thiên rất gắt, rồi bắn cả xuống đất làm mọi người hoảng sợ lui vào. Nghe nó nói tôi chợt nhớ tới Ba Mẹ và các em... muốn khóc! Chưa biết hành xử ra sao thì nghe thấy anh Phan Vũ Điện chạy xe pick up của KQ ngang qua vẫy gọi: - Thuận, chạy theo anh nè, anh đang cần copilot! 3 anh em vọt chạy theo. Lúc này pháo kích đã rất thưa. Chạy tới phía bắc của phi đạo gần khu Hàng Không Việt Nam, 3 anh em vọt ngay lên tàu cùng lúc với một số đông người ùa tới chen lấn nhau nhảy lên. Tôi và anh Điện làm việc theo quán tính như một chiếc máy... Tàu không hoàn hảo nhưng anh Điện nói có tay trong nói an toàn. Chúng tôi đưa tàu rời khỏi bến đậu hướng thẳng ra phi đạo cất cánh. Đường băng lổ chổ vì đạn pháo kích của địch quân, vừa chạy vừa tránh; tống hết ga cố tăng tốc độ thật nhanh để kéo tàu lên trước khi hết đường băng. Tàu rời khỏi mặt đất rung liên hồi vì chưa đủ tốc độ cần thiết. Anh Điện tăng cao độ thật chậm và tôi ngồi thầm cầu nguyện trong nỗi lo sợ tột cùng. Tôi nghĩ trong đầu: “Có thể chiếc tàu bị triệt nâng bất cứ lúc nào!” Tai nghe trên tần số mọi người nói với nhau: “Phải quẹo trái chỗ Trường Đua Phú Thọ về hướng biển để tránh phòng không của địch quân.” Chưa quân bình được tốc độ mà còn phải quẹo gấp... chết là cái chắc! Anh Điện với bao nhiêu kinh nghiệm trận mạc già dặn nên bình tĩnh hơn tôi rất nhiều. Anh từ từ đưa con tàu lên cao dần về phía Côn Sơn. Tôi thở phào và đổi tay lái cho anh Điện nghỉ xả hơi chút đỉnh trong khi con tàu vẫn chậm chạp tăng cao độ! Đến lúc này, bình tĩnh mới thấy một buồng lái đầy người, ít nhất 3-4 ông chức sắc cùng chạy với mình trong đó có ông Hoàng Nuôi, Trung tá PĐT Tinh Long của tôi! Mỗi ông mỗi ý, ông thì muốn đi Côn Sơn, ông muốn xuống Dương Đông Phú Quốc, ông muốn đi Bangkok, ông nói Utapao, có ông lại muốn đáp xuống nước (ditching) sát Hạm Đội 7 của Hoa Kỳ đang chờ ngoài khơi (?)... Cãi nhau chí chóe làm anh Điện điên đầu quát lên: - Các ông làm ơn im giùm, tôi là TPC của chiếc tàu này và tôi là người quyết định! Tuy vậy vẫn không ngớt tiếng bàn tán xôn xao dù không còn lộn xộn như trước! Cuối cùng anh Điện quyết định đi Utapao. Tôi dò tần số để nghe ngóng tin tức của phe mình và tin tức phi trường... Đáp xuống Utapao không mấy khó khăn sau hơn hai tiếng bay. Tàu vừa vào chỗ đậu được quân nhân Mỹ hướng dẫn. Trước khi xuống tàu, chúng tôi buộc phải để lại tất cả vũ khí đạn dược trên tàu. Có khám xét cẩn thận. Chúng tôi được hướng dẫn vào trạm và một đội quân nhân Mỹ túa tới chiếc tàu và sơn bỏ lá cờ VNCH! Chúng tôi hoang mang và đau buồn vô cùng nhưng cũng vừa lúc gặp lại rất đông bạn bè đã tới trước đang ồn ào tranh cãi về gia đình,vợ con đã được đem ra Côn Sơn sáng sớm hôm nay. Bây giờ tôi mới biết là bên các phi đoàn C130 đã cho phép một số gia đình đi trước! Ở Thái Lan vài hôm, khi những gia đình ở Côn Sơn tới nơi, gồm có các ông thần đã lấy máy bay của tôi ngày hôm trước; tôi vẫn còn quạu nhưng cũng phải cười trừ vì giờ đây ai cũng chung số phận. Chúng tôi làm thủ tục kẻ trước người sau chuyển đi trại tạm cư Orote Point, Guam. Ở đây được khoảng tuần lễ, anh em tôi được chuyển lên căn cứ Anderson làm thủ tục đi trại tỵ nạn Eglin AFB ở tiểu bang Florida, Hoa Kỳ. Nhớ lại câu chuyện vui trong chuyến bay từ căn cứ Anderson tới Eglin AFB. Chúng tôi được di chuyển bằng loại máy bay vận tải khổng lồ C5 của Không Quân Mỹ nên chuyên chở rất đông người tỵ nạn,đủ mọi thành phần, nhiều binh chủng, kể cả dân sự. Trên đường bay bỗng nhiên một số người trên tàu bị chứng đau mắt cấp tính. Các nhân viên phi hành đoàn người Mỹ thông báo trên hệ thống loa phóng thanh trang bị trong lòng tàu: - Chúng tôi cần một vị Bác Sĩ giúp phân phát thuốc men và chỉ dẫn cách giữ vệ sinh để chống lây nhiễm cho vài bệnh nhân trên tàu. Câu hỏi được lặp đi lặp lại vài lần nhưng vẫn chưa thấy ai lên tiếng, trong lúc tôi cần đi phòng vệ sinh nên đứng dậy tiến về restroom phía trước. Ai ngờ một nhân viên phi hành kéo tuột tôi lên phòng lái hỏi: - Ông là Bác Sĩ hả? - Tôi không phải nhưng tôi trước có học trường y khoa vài năm. - Vậy thì được rồi, ông có thể giúp chúng tôi phân phát thuốc cho người đang bị đau mắt cấp tính và chỉ dẫn cách giữ vệ sinh chung cho mọi người. Tôi chưa kịp phản ứng gì thì anh ta chỉ cho tôi một tủ thuốc tây, mở ra bảo tôi đọc instructions của mấy chai thuốc nhỏ mắt rồi nói lại cho bệnh nhân biết. Họ cũng đưa cho tôi một hộp đựng khăn dùng để cấp phát cho những người đau mắt. Tôi ú ớ không ra lời nhưng... lỡ rồi tới luôn vì cho đến lúc này vẫn chưa có ai lên tiếng. Tôi cầm mấy chai thuốc và xin một bình nước ấm để ngâm hết hộp khăn rồi tiến về những người đang mắc bệnh, đưa cho mỗi người một chai thuốc và một chiếc khăn, chỉ cách dùng theo lời chỉ dẫn in sẵn trên lọ sau khi lau mắt sạch sẽ bằng những chiếc khăn riêng biệt. Tôi đề nghị cho nhóm người này ngồi tách biệt ra một chỗ khác để giảm thiểu sự lây nhiễm. Một số hành khách thấy tôi loay hoay “làm Bác Sĩ” tưởng thật nên lại xin thuốc nhức đầu. Sẵn phân phát luôn một số thuốc nhức đầu, đau bụng cho những người có nhu cầu... Tôi tưởng tôi cần đi phòng vệ sinh nhưng bị lôi kéo cả tiếng đồng hồ sau mới có giờ đi được (có lẽ ú ớ quá nên quên luôn việc cần làm). Khi tôi về lại chỗ ngồi thì ông thần bạn thân, Phát Volley (vua đánh bóng chuyền của SĐ5KQ), ngó tôi cười ha hả chế nhạo: - Mầy là Bác sĩ hồi nào sao tao không biết! Tôi ngượng đỏ mặt nhưng cũng cố đùa lại: - Mầy đừng để bị bệnh tao sẽ đè mầy ra chích vào mông nha con. Nhập trại Eglin được vài tuần thì hai gia đình chúng tôi gồm Phát Volley cùng vợ với một con nhỏ và tôi với hai chú em được bà già nuôi ngườiMỹ làm giấy tờ bảo lãnh về sống cùng gia đình bà ở San Antonio, Texas. Chúng tôi gọi bà là Mẹ nuôi vì năm xưa đi học bay ở San Antonio tình cờ gặp và thân thiết với bà khi bà vào thăm trại khóa sinh của lũ chúng tôi. Chúng tôi vẫn giữ liên lạc bao nhiêu năm nay, vì thế khi dừng chân ở Honolulu trên đường đi Eglin,tôi đã liên lạc với bà xin bà bảo lãnh ra khỏi trại tỵ nạn càng sớm càng tốt. Bà vui vẻ nhận lời liền. Bà Mẹ nuôi là góa phụ của một cựu Trung Tá phi công đã tử trận ở chiến tranh Triều Tiên năm xưa. Thứ Bảy, ngày 26 tháng 5, năm 1975 lũ chúng tôi xuất trại bằng phương tiện hàng không dân sự. Ngày Chủ Nhật, 6 người chúng tôi được bà già đưa đi nhà thờ. Ngày thứ Hai tiếp theo, tôi và Phát đi làm thợ vịn bán thời gian cho một ông hội viên nhà thờ chuyên môn sửa chữa nhà cửa... Và kể từ hôm đó, chúng tôi bắt đầu tự lực cánh sinh, nếm thừa mứa mùi nhục vinh của đời sống tỵ nạn tha hương. ********** Ghi chú thêm: 1/ Phi Đoàn Tinh Long 821 có gần 300 nhân viên phi hành, bay loại Stinger AC119K là loại vận tải tác chiến tối tân nhất củaKQVNCH thời bấy giờ.Chuyên môn yểm trợ chiến trường ban đêm khắp 4 Vùng Chiến Thuật. Ngoài tổng hành dinh của phiđoàn nằm tại Không Đoàn 53 Chiến Thuật, thuộc Sư Đoàn 5 KQ, căn cứ Tân Sơn Nhứt còn có 2 Biệt Đội, một ở Phù Cát, một ở Đà Nẵng. Biệt Đội luân chuyển mỗi 2 tuần tới một tháng tùy theo nhu cầu chiến trường. Giờ hoạt động của Tinh Long từ 6g chiều tới 6g sáng, gồm 6 phi vụ chính, mỗi phi vụ bao vùng ít nhất 2 tiếng đồng hồ và 2 phi vụ ứng chiến. 2/ Vài nét về phi cơ AC119K Stinger: Rất hữu hiệu trong chiến trường chống biển người, chống đoàn xe tăng. Hai động cơ hiệu Wright R-3350s với 3,500 mã lực mỗi máy. Và hai ống phản lực hiệu General Electric J85-GE-17 với lực đẩy 2850 lbs. mỗi chiếc. Hỏa lực trang bị gồm 4 khẩu đại liên 6 nòng, MXU-470/A 7.62 mm “miniguns”, với 21,500 viên đạn cho mỗi khẩu, và 2 khẩu đại pháo 20 mm, M61-A1, 6 nòng với 3,000 viên đạn mỗi khẩu. Tất cả được điều khiển bằng hệ thống điện tử tinh vi. Nó cũng được trang bị 24 trái sáng hiệu MK 24 để chống hỏa tiễn tầm nhiệt và ống phóng hiệu LAU-74/A. Phi công có thể cho khai hỏa hoàn toàn tự động, bán tự động hoặc tự điều khiển. Chiếc Stinger cũng có một hệ thống radar hồng ngoại tuyến tối tân gồm các máy APQ-136, AAD-4 (FLIR), và hệ thống điện tử báo động APR-25/26 (ECM). Phi hành đoàn tiêu chuẩn có 10 nhân viên, gồm 5 Sĩ Quan (pilot, copilot, navigator, night observation sight (NOS) operator, radar/FLIR operator), và 5 HSQ (một cơ khí phi hành, một nhân viên trái sáng và 3 nhân viên vũ khí). Stinger có tốc độ chiến đấu 180 knots/g; thời gian bay khoảng 5 tiếng cộng thêm 30 phút dự trữ). Khả năng của Stinger rất hữu hiệu ở độ cao từ 3.500 – 5.500 ft trên mặt đất (AGL). Stinger có rất nhiều ưu điểm nhưng có một khuyết điểm quá lớn là to xác và chậm chạp, dễ làm mồi cho cao xạ, phòng không, và hỏa tiễn tầm nhiệt của địch quân. Chúng tôi thường gọi đùa Stinger là “quan tài bay”! Các loại chiến đấu cơ nhanh như chớp còn bị dính chấu huống gì 180 knots/giờ... nhưng thực sự có ai bao giờ bay tới tốc độ đó ở chiến trận đâu!
Yên Sơn |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23444 |
![]() ![]() ![]() |
Để biết ơn Thương Binh V.N.C.H. … Diễn giả vừa dứt câu, tràng pháo tay vang lên. Diễn giả ngưng nói, hơi mỉm cười, nhưng ánh mắt vẫn còn vương buồn, nhìn quanh hội trường, tiếp: “… Kính thưa quý vị, những người mà tôi đề cập chính là Thương Binh Việt Nam Cộng Hòa (V.N.C.H.). Quý vị đã xúc động mãnh liệt khi thấy hình ảnh những đoàn cựu sĩ quan Quân Lực V.N.C.H. bị cộng sản Việt Nam (csVN) bắt lao động khổ sai trong các trại cải tạo. Quý vị cũng đã phẫn nộ khi thấy những người tỵ nạn còn kẹt tại đảo bị bắt đưa lên máy bay, ép buộc trở về Việt-Nam. Vậy, quý vị nghĩ gì khi những người bị chiến tranh đoạt mất một phần cơ thể, nay đã trở thành những kẻ ăn xin ngay trên chính phần đất mà chính máu và một phần thịt xương của họ đã bồi đắp? Đến đây, tôi nghĩ, có vị sẽ nghĩ rằng chiến tranh đã chấm dứt từ lâu rồi, khơi dậy làm chi nữa! Xin thưa, cứu đói Thương Binh V.N.C.H. trong lúc này không phải là khơi dậy những đau thương của cuộc chiến mà chính là quý vị đang xoa dịu nỗi đau/đang hàn gắn phần nào những tan tác/đang chia xẻ phần nào những tệ hại còn sót lại sau cuộc chiến. Mỗi lần, sau khi chào Quốc Kỳ, hát Quốc Ca, quý vị dành một phút mặc niệm để tưởng nhớ những người đã bỏ mình vì nước, đã liều chết vì Tự Do – nhưng chưa bao giờ tôi nghe ban tổ chức nào ngõ lời cảm ơn Thương Binh VNCH cả! Chính nhờ những người đã hy sinh một phần thân thể trong cuộc chiến, chúng ta mới được sống trọn tuổi thơ/được cắp sách đến trường/được sum vầy với Cha Mẹ và gia đình. Và ngày nay, với cơ thể lành lặn, chúng ta được sống đầy đủ dưới bầu trời Tự Do; còn những kẻ bất hạnh ấy đang khốn khổ và bị hất hủi bên quê nhà. Tại sao chúng ta nỡ để những người ơn của chúng ta phải đói rách và tủi buồn nơi cuối trời quên lãng? Ngày xưa, Pháp đô hộ Việt-Nam, nhưng hình ảnh anh Thương Binh lại nên thơ như trong bài Ngày Trở Về của Phạm-Duy: … Ngày trở về có anh thương binh Bây giờ, anh Thương Binh V.N.C.H. không thể ‘chống nạn cày bừa’, vì đất của Mẹ Anh đã bị csVN chiếm đoạt; anh Thương Binh phải lê lết tấm thân tàn trên hè phố/trong nhà lồng chợ/trước các tiệm ăn hoặc bên những đống rác đầy ruồi bọ để kiếm ăn! Miếng cơm của anh Thương Binh bây giờ không phải là ‘nắm cơm ngon’ mà là vũng cơm thừa! Anh Thương Binh đã ăn cơm thừa, uống nước vũng thì làm thế nào Anh có được ‘con trâu xanh’ để nó ‘hết lòng giúp đỡ’? Người Mẹ của anh Thương Binh cũng không ‘lần mò ra trước ao nắm áo người xưa ngỡ trong giấc mơ, tiếc rằng ta đôi mắt đã lòa vì quá đợi chờ!’; vì Mẹ của Anh đã chết tại một vùng kinh tế mới khô cằn nào đó! Kính thưa quý vị, nếu ai đã từng chứng kiến thảm cảnh của Thương Binh V.N.C.H. khi các Anh bị Việt-cộng đuổi ra khỏi các quân y viện miền Nam, các Anh phải bò lê lết trên những con đường quanh bệnh viện; và sau đó những Thương Binh này phải lây lất xin ăn hoặc moi rác để kiếm miếng ăn, thì không ai là người không hướng tâm về những nạn nhân trực tiếp của cuộc chiến tương tàn ấy! Trước tình cảnh nát lòng của tập thể Thương Binh V.N.C.H., chúng tôi tha thiết xin quý vị, những người may mắn còn lành lặn sau cuộc chiến và quý vị thuộc các ngành Nha Y Dược, Cục Quân Y, QL/V.N.C.H. – những người đã hơn một lần hàn gắn những tàn tích ghê rợn của chiến tranh trên cơ thể các Thương Binh này – hãy nghiêng xuống để tình thương lênh láng từ trái tim đầy rung cảm của quý vị, một lần nữa, nhiểu từng giọt nồng, làm ấm lại những tâm hồn vỡ vụn đang bị dòng đời quên lãng!...” Đến đây, dường như đang bị xúc động mạnh, diễn giả ngưng lại. Cả hội trường im lặng. Từ hàng ghế thứ năm, như không nén được nỗi đau trong hồn lâu hơn nữa, Mạnh hơi khom người đứng lên, đi ra ngoài. Nỗi đau của Mạnh khơi nguồn từ ngày đình chiến, 27-01-1973. Mạnh và đồng đội đều hiểu hiệp định ngưng bắn “da beo” là phi lý, đầy áp lực đối với quân nhân miền Nam và chỉ có lợi cho “phía bên kia”; nhưng, dù sao, trong một thời gian, cũng giảm thiểu số thương vong cho cả hai phía. Lý do Mạnh nghĩ đến số thương vong của “phía bên kia” là vì, trong đoàn quân xâm lăng từ phương Bắc thế nào cũng có Tuất – đứa em duy nhất mà Mạnh đã lìa xa khi Mạnh còn mang “tên cúng cơm” là Mùi. Mùi nhớ rõ, năm ấy, Mùi đã khóc sưng cả mắt nhưng Mẹ vẫn quyết định ở lại vì Mẹ ngại ông bà Ngoại và ông bà Nội không biết nương tựa vào ai lúc tuổi già! Lý do Bố để Tuất ở lại vì ông bà Nội sợ sau khi Ông Bà mất không ai để tang, không ai nhan khói! Từ ngày đó đến ngày hưu chiến cũng gần hai mươi năm, Mạnh không biết ông bà Nội/Ngoại còn sống hay đã về tiên cảnh và Tuất có được dịp chít vành khăn tang cho Ông Bà hay không; nhưng Mạnh biết chắc chắn một điều là không thể nào Tuất được ở lại làng để lo nhang khói cho Ông Bà; vì ngoài Bắc không có đạo luật như miền Nam: Miễn dịch cho những người con trai duy nhất còn lại trong gia đình. Mạnh nghĩ, Tuất, hoặc đã chết trên đường mòn ************, hoặc đang có mặt trong đoàn quân vượt vùng phi quân sự để vào đến bờ sông Thạch Hãn này. Bây giờ sắp ngưng chiến, lòng Mạnh cũng tạm yên, bớt áy náy/đỡ bứt rứt về đứa em không cùng chiến tuyến. Bất ngờ Mạnh nghe thiệu thính viên gọi nhỏ: -Ông Thầy! Mạnh quay lại. Hiệu thính viên lom khom đến gần: -Đại bàng trên máy, ông Thầy. Mạnh chụp ống liên hợp: -Đại bàng, đây Metro! -Giờ “nghỉ chơi” sắp điểm. Kiểm soát “con cái” của “toa” cẩn thận. Đề cao cảnh giác và tuyệt đối tuân hành lệnh “nghỉ chơi.” -Nhận năm, Đại bàng. Mạnh chuyển sang tầng số nội bộ và truyền lệnh đến từng tiểu đơn vị. Lệnh ngưng bắn chỉ vừa truyền đi trên đài phát thanh được vài phút, Mạnh nghe nhiều tiếng reo hò, rồi một giọng Bắc nghe rất rõ: -Ngưng bắn “dzồi”, anh em ơi! Câu ấy được lập lại từ nhiều hướng khác nhau. Mạnh nhận định được rằng đơn vị của chàng đang ở vào thế “cài răng lược” với đơn vị csVN. Không gian quanh bờ sông trở lại tịch mịch, đầy căng thẳng và hồi hộp. Bỗng một giọng Bắc lại vang lên: -Các anh Quốc Gia ơi! Ngưng bắn d…z…ồ…i…Thích quá! Vẫn im lặng. Một lúc sau lại có tiếng từ hướng khác: -Các anh Quốc Gia ơi! Thèm thuốc quá! Cho một điếu. Sau nhiều lần lập đi lập lại những câu ấy mà cũng vẫn không được đơn vị “Ngụy” đáp ứng, Bắc quân im lặng. Sáng sớm hôm sau, những lời kêu gọi như lúc khuya lại vang lên. Bất ngờ Mạnh nghe giọng Nam, sắc và gọn: -Đứng lại! Mạnh chụp ống liên hợp, chưa kịp bấm nút để liên lạc kiểm soát tình hình thì đã thấy – cao khỏi những đọt tranh còn lóng lánh sương mai – lố nhố nhiều nón cối! Ngay tức khắc, Mạnh và hiệu thính viên chụp vũ khí cá nhân. Vừa khi ấy Mạnh nghe nhiều tiếng “đứng lại!” vang lên từ nhiều phía. Mạnh đứng bật dậy. Thấy Mạnh đứng lên, cả đơn vị của Mạnh cũng đứng lên, sẵn sàng trong tư thế cận chiến. Nhưng, đồng loạt, Bắc quân đưa cao tay vẫy vẫy: -Ngưng bắn dzồi! Anh em cả. Chúng tôi đâu có khí giới đâu. Đói và thèm thuốc quá, các anh ủng hộ tý. Người lính miền Nam chất phát, đưa mắt nhìn nhau, khó xử. Bắc quân vừa từ từ bước đến gần vừa cười cười: -Ôi Giời! Mấy hôm nay đói meo. Mỗi “nần” các anh ăn, mùi đồ hộp thơm “nừng”, tụi này thèm quá! Thấy quả thật địch quân không mang súng, người lính miền Nam cả tin, hạ nòng súng, ùa đến bắt tay Bắc quân. Sau vài phút vui mừng, lính miền Nam lấy thức ăn và thuốc trong ba-lô tặng lính miền Bắc. Lính miền Bắc cười tở mở rồi “hồ hởi” khui, ăn ngay tại chỗ. Vừa ăn lính miền Bắc vừa nhìn từng đôi giày “sô” sờn gót, từng chiếc đồng hồ cũ kỷ hoặc cặp kính mát được dắt hờ vào túi áo rằn ri của người lính Thủy Quân Lục Chiến rồi trầm trồ một cách thèm thuồng: -Ôi Giời! Đồ đạc của các anh “hiện đại” quá! Cho sờ tý. Lúc này người lính miền Bắc trông ngây ngô, vui thích và hiền lành như đàn cừu vừa tìm được cánh đồng cỏ non. Bất ngờ một tiếng “sát!” vang lên! Nhanh và “ăn khớp” nhau như đã được thực tập nhuần nhuyễn, những con cừu hiền lành ấy bỗng biến thành đàn hổ đói vừa ngửi được mùi thịt tươi! Bắc quân phùng mang, trợn mắt, vung dao găm, đâm túi bụi vào chính những người vừa cho chúng ăn! Mạnh và nhiều thây người gục xuống. Mũ xanh, nón sắt rơi ơ hờ cạnh gốc tranh câm nín! Máu đỏ vẽ thêm những đường kỷ hà trên quân phục rằn ri! Vài tiếng súng rời rạc vang lên. Quay sang, thấy hiệu thính viên đã chết, Mạnh, một tay ôm vết thương nơi lồng ngực bên trái, một tay cố sức hất thân người của hiệu thính viên ra để Mạnh dùng máy truyền tin. Vừa khi ấy, một anh nón cối chạy ngang. Nghe tiếng máy truyền tin rè rè, rẹt rẹt, anh nón cối dừng lại. Thấy Mạnh nằm nghiêng, đang áp tai vào ống liên hợp trong tư thế liên lạc, anh nón cối biết “đối tượng” là cấp chỉ huy, vội hươi dao găm lên, sẵn sàng đâm vào lưng của Mạnh. Bất ngờ Mạnh ngẩng lên, ánh mắt đầy thảng thốt. Khi ấy anh nón cối cũng vừa thấy một vùng máu đỏ nhuộm thắm phần trên của túi áo; nơi có bảng tên Nguyễn Văn Mạnh. Anh nón cối đá ngược vào mặt Mạnh làm Mạnh bật ngửa ra sau. Ngay lúc đó anh nón cối đâm vào vùng bụng dưới của Mạnh! Mạnh quặn người, nghiến răng, dồn hết tàn lực vào đôi tay, chụp cánh tay của anh nón cối, bóp chặt. Anh nón cối bậm bờ môi thâm sì, ấn dao găm sâu xuống, sâu xuống nữa! Trong nỗi đau tột cùng, Mạnh nhìn anh nón cối bằng ánh mắt ngỡ ngàng đến khó hiểu rồi buông tay, khép mắt! Mạnh tỉnh lại khi chiếc trực thăng mang dấu hồng thập tự là đà, sắp đáp xuống… *** Chiếc phản lực của hãng hàng không Northwest càng bay xa lục địa Hoa-Kỳ bao nhiêu Mạnh càng cảm thấy bồi hồi bấy nhiêu. Mối tình cảm này tựa như tâm trạng của Mạnh dạo Mạnh vừa được phóng thích khỏi trại cải tạo Sơn La ngoài Bắc, đáp xe lửa về Nam. Khi chuyến xe lửa vừa qua khỏi cầu Bến-Hải, nỗi buồn sâu kín không biết từ đâu dấy lên ngập cả hồn chàng. Nghĩ ngợi một lúc Mạnh mới tìm ra nguyên nhân gợi buồn là chiếc cầu Hiền-Lương! Ranh giới phân chia đất nước đã được xóa đi trên bản đồ, cũng như hai vết sẹo nhăn nhúm trên cơ thể của Mạnh đã lành lặn. Nhưng thử hỏi đến bao giờ dòng sông đẫm máu này mới thoát khỏi tính chất oan nghiệt của nó; cũng như biết đến khi nào những tế bào nơi hai vết sẹo của Mạnh mới trở lại trạng thái bình thường! Khi xe lửa qua khỏi ga Tuy-Hòa, Mạnh khóc lúc nào Mạnh cũng không hay! Nước mắt của Mạnh bây giờ chỉ âm thầm lăn dài trên hai gò má trũng sâu chứ không tuôn trào cùng tiếng thét gào điên loạn của thằng Mùi trong một đêm hãi hùng cách nay xa lắm. Đêm đó, trên chuyến tàu từ Tuy-Hòa về Nha-Trang, Mùi ngồi cạnh Bố, nhớ lại hương vị của biển và những món ăn tuyệt vời mà người bạn gái của Bố ở Tuy-Hòa nấu đãi hai Bố con nhân dịp Mùi thi đậu trung học đệ nhất cấp. Tội nghiệp Bố và người đàn bà đang muốn chiếm vị thế của Mẹ! Bao nhiêu tiền dành dụm Bố và bà ấy đều vui thích và hãnh diện đưa Mùi đi may áo quần, mua sách vở, dày dép, chuẩn bị cho Mùi làm “cậu tú” vì Mùi quyết định “học nhảy” lớp đệ tam. Nghĩ đến sách vở và quần áo mới, Mùi cảm thấy thương Bố quá, vỗ nhẹ vào vai Bố: -Bố! Mai mốt con học xong con cũng đi Biệt-Động-Quân giống Bố, nha, Bố! Im lặng. Bất ngờ, xe lửa hãm nhanh tốc lực. Nhiều tiếng lao xao từ nhóm người đi buôn: -Rồi! “Tụi nó” chận nữa rồi! Thấy vẻ hốt hoảng hiện lên mặt mọi người nhưng Mùi chẳng biết chuyện gì đang xảy ra. Bỗng Bố chụp cái xắc có bộ quân phục giấu kín trong ấy, liệng qua cửa sổ toa xe, trước đôi mắt ngơ ngác của Mùi. Thân nắm chặt tay Mùi, giọng lo âu, nói vào tai Mùi: -Coi chừng chúng nó bắt thanh niên đi theo chúng nó. Có gì con cố chạy thoát, đừng để chúng nó bắt, nghe chưa? Lúc này Mùi mới lờ mờ hiểu và sợ. Xe lửa dừng hẳn. Những người ngồi gần cửa bắt đầu nhốn nháo rời xe. Những người ngồi bên trong cũng tuần tự đi ra. Tất cả đứng gom lại nơi thửa ruộng khô. Sau đó, mấy người mặc đồ bà ba đen, tay xách đèn lồng – không biết xuất hiện từ đâu – bắt đàn bà, người già và trẻ con đứng riêng; đàn ông đứng riêng, rồi “đồng chí chính trị viên” bắt đầu tuyên truyền. Giữa lúc tinh thần mọi người bị chi phối và căn thẳng đến tột độ, bỗng một tiếng hô “nghi…ê…m…” vang lên. Phản ứng tự nhiên của những người lính chuyên nghiệp, Bố – cũng như những quân nhân khác đang mặc thường phục – vội đứng thẳng, cụp hai chân vào nhau trong thế nghiêm thì nhóm Việt cộng nhận ra ngay ai là lính. Việt cộng nhào đến, bắt ngay những người ấy đứng riêng ra. Trong khi Mùi run sợ, chỉ biết nhìn Bố lủi thủi tuân lệnh Việt cộng thì “đồng chí chính trị viên” điểm điểm ngón tay trỏ vào toán lính V.N.C.H., mặt hắn xoay về nhóm thường dân, lên án: -Đồng bào thấy rõ, đây là những tên phản động, tay sai của ngoại bang, mang tâm “niếm” gót giày bọn “sen đầm” quốc tế, phản “nại” dân tộc. Chúng nó đáng tội chết! Chúng nó phải đền tội trước nhân dân! Nghe “chính trị viên” phát biểu, toán lính V.N.C.H. đưa mắt nhìn nhau, ngầm hiểu rằng cuộc đời của họ chắc chắn sẽ kết liễu tại đây! Thế thì liều! Bố hô lớn: “Biệt Động Quân! Sát!” Như nghe một mệnh lệnh khi xuất quân, những người lính VNCH vừa chồm tới, muốn lao thẳng vào toán Việt cộng thì, ngay khi ấy, khẩu đại liên – không ai biết Việt cộng đặt trên mui xe lửa từ lúc nào – quạt từng loạt đạn vào toán lính VNCH không khí giới, trước sự kinh hoàng của mọi người! Mùi hét lên: “Bố! Bố ơi! Bố!” và dợm người muốn chạy đến ôm xác của Bố; nhưng một người đàn bàn kéo Mùi lại: -Im! Mày muốn tụi nó giết mày luôn hả? Mùi hãi quá, nín thinh. Sau khi mấy người mặc đồ bà ba đen thổi tắt mấy ngọn đèn lồng và lẫn vào bóng đêm, mọi người mới ùa đến bên các nạn nhân. Mùi gục đầu lên xác của Bố và kêu khóc thảm thiết. Người đàn bà lúc nãy lại đến, ai ủi, dỗ dành Mùi. Nhưng Mùi vẫn cứ khóc cho đến khi khan cả tiếng mới chịu lặng yên. Thỉnh thoảng Mùi nhìn xác thân bê bết máu của Bố rồi quẹt nước mắt! Sau bao nhiêu biến thiên của cuộc sống, Mùi tưởng Mùi đã quên được đêm kinh hoàng đó, nhưng không! Khi nhớ lại Mùi vẫn còn xúc động, lặng lẽ lau nước mắt. Mùi thở dài! Từ một thằng Mùi côi cút, Mùi lăn xả vào đời với tên mới – Mạnh – như ngầm nhắc nhở mình luôn luôn hướng về tương lai với tinh thần cứng rắn cộng với niềm tự tin trong một cơ thể tráng kiện. Nhưng, sau lần bị thương vào ngày ngưng chiến để người vợ trẻ của chàng lặng lẽ ra đi – vì hình hài của Mạnh đã mất khả năng thiên bẩm của người đàn ông – Mạnh tự biết rằng niềm tự tin trong chàng không còn nữa! Khi xe lửa dừng tại ga Nha Trang, Mạnh cảm thấy lạc lõng và cô đơn như dạo nào chàng và Bố vừa rời tàu “há mồm” sau nhiều ngày rời bến Hải-Phòng! Ra khỏi ga xe lửa, Mạnh ngơ ngác, không biết về đâu; bởi vì Mạnh lớn lên và khởi sự binh nghiệp từ trường Thiếu Sinh Quân! Thấy nhiều kẻ ăn xin bám theo hành khách, Mạnh chạnh lòng, nhưng chợt nhớ số tiền quá ít ỏi trong túi, Mạnh lắc đầu, nhìn lơ chỗ khác. Bất ngờ Mạnh chú ý đến tấm thẻ nhựa nhỏ được gắn nơi ngực của một hành khất mù đang ngồi im lặng cạnh mấy chiếc xích-lô, tay đưa gáo dừa ra xin. Nhìn kỷ, Mạnh giật mình. Tấm thẻ nhựa ấy là thẻ căn cước quân nhân thời VNCH! Mạnh bước đến, hỏi nhỏ: -Sao anh dám đeo căn cước quân nhân? Anh không sợ à? Trong khi cho xe chạy ra cầu Hà-Ra, người lái tự giới thiệu là Vũ, cựu Mũ Nâu. Sau những chuyến xe thồ thường nhật, trước khi về nghỉ, Vũ thích ghé ga xe lửa đón tù cải tạo mới được tha, đưa họ về với gia đình mà không nhận thù lao. Trường hợp của Mạnh, Vũ xúc động, đề nghị Mạnh về ở tạm nhà Vũ, Vũ sẽ tìm người cho Mạnh dạy kèm Anh văn, kiếm tiền… Dòng ý tưởng của Mạnh vừa đến đây, bất chợt chàng nhìn ra cửa sổ phi cơ. Phi cơ đang lên cao, lên cao nữa và vượt khỏi nhiều tầng mây để Mạnh thấy, phía trên phi cơ, bầu trời trong xanh như biển của những ngày sóng lặng; và dưới lườn phi cơ, mây trắng kết liền nhau, trông như cánh đồng tuyết. Cuối tầm mắt, bầu trời xanh và “cánh đồng tuyết” tiếp giáp nhau trông như vòm chân trời mà Mạnh thường thấy vào những chiều lang thang trên bờ biển ở trại tỵ nạn Ga Lăng. Thời gian ở trại Ga Lăng, tuy thiếu thốn, cô đơn, buồn nản nhưng Mạnh không phải lo bị mất việc, không tiền trả bills; Mạnh cũng không phải làm quần quật như từ ngày đến Mỹ. Đến Mỹ, Mạnh tìm được việc làm ở một body shop. Điều kiện làm việc trong hãng sửa xe này thật là kinh khủng! Nhưng, là một cựu sĩ quan đầy tự trọng, Mạnh chấp nhận hoàn cảnh, không xin chính phủ giúp đỡ. Khi biết một người bạn về Bắc thăm nhà, Mạnh nhờ người ấy tìm cách liên lạc về làng xưa, tìm Mẹ và Tuất; vì năm 1954 ra đi, Mạnh còn quá nhỏ, không thể nhớ địa chỉ một cách chính xác. Cũng vì lý do đó, khi bị Việt cộng giải ra Bắc, Mạnh không thể liên lạc về gia đình. Sau khi người bạn giúp liên lạc được với bà Mẹ và Tuất, Mạnh phải làm thêm việc giữ an ninh cho một nhà kho, vào cuối tuần, để có phương tiện tài chính giúp Mẹ và Tuất. Lúc này Tuất đã có ba người con trai; đứa lớn chết trận csVN xâm lấn Cao-Miên. Không thể nào Mạnh mường tượng lại được con đường từ làng ra tỉnh lộ và từ tỉnh lộ về Hải-Phòng. Nhưng Mạnh lại nhớ rõ cảnh đàn bà con gái – theo chỉ thị của Việt-Minh, lúc đó Mùi không biết – đứng dọc hai bên đường, khóc lóc, kể lể, làm như thương yêu, tiếc nhớ đàn ông lắm, cứ níu kéo, năn nỉ đàn ông ở lại! Mùi run quá, sợ mấy bà ấy kéo Bố ở lại. Nhưng có lúc Mùi lại mong Bố bị kéo lại để Bố đừng đi, và như thế, Mùi sẽ được ở lại với Mẹ. Nhưng Bố mạnh dạng hất tay mấy bà ấy ra: -Thôi! Đừng làm trò khỉ! Bố và Mùi ra đi yên phần. Chỉ tội cho ông bà Nội, ông bà Ngoại, không chịu rời nơi chôn nhau/cắt rốn cho nên về sau bị csVN đấu tố đến chết, về tội điền chủ, cường hào, ác bá! Suốt thời gian liên lạc được với Mạnh, Mẹ và Tuất chưa bao giờ cho Mạnh biết sự thật về những cái chết đau thương của ông bà Nội, Ngọai. Mạnh cũng chưa dám cho Mẹ và Tuất biết Việt cộng đã dùng thủ đoạn đê hèn để giết Bố – vì ngại thơ bị kiểm duyệt và “nhà nước” sẽ gây phiền toái cho Mẹ. Đến khi Mạnh trở về làng xưa, lần đầu tiên chỉ có ba Mẹ con ăn cơm với nhau, tại nhà Tuất, Mẹ mới bùi ngùi kể lại cho Mạnh nghe và Mạnh cũng có cơ hội thuật lại cái chết đầy thương tâm của Bố. Cái chết của Bố đã khắc sâu vào tâm khảm của Mạnh. Giờ đây lại biết sự thật về bốn cái đại tang, Mạnh bàng hoàng, đau xót vô cùng! Giữa khi gia đình đang đau buồn, bất ngờ một anh công an phường xuất hiện, đưa giấy, bảo mời Mạnh sáng mai lên phường “làm việc”. Mạnh nhìn anh công an bằng đôi mắt mở lớn, đầy ngạc nhiên, rồi dịu xuống, như thầm trách. Thấy ánh mắt của Mạnh, Tuất giật mình. Ánh mắt ấy như dội vào tâm thức để Tuất phải bận tâm, phải nghĩ ngợi. Đêm đó, sau khi anh em nằm bên nhau trên chiếc phản, hàn huyên cho đến gần sáng, Mạnh rơi vào giấc ngủ một cách dễ dàng. Riêng Tuất cứ trằn trọc mãi, không ngủ được vì bị ánh mắt khó hiểu của Mạnh lúc chiều ám ảnh. Tuất cố vận dụng trí nhớ để xem Tuất đã thấy ánh mắt ấy ở đâu/vào dịp nào, nhưng đành chịu! Rồi Tuất hồi tưởng lại những cuộc đụng độ dữ dội với quân miền Nam xem những nạn nhân của nòng súng/lựu đạn/dao găm và mã tấu của Tuất chết như thế nào, và động tác của mỗi nạn nhân trước khi chết ra làm sao! Nhưng vì giết nhiều “kẻ thù” quá, Tuất không thể nhớ được “kẻ thù” nào có ánh mắt lạ lùng đó! Khi Tuất thiu thiu ngủ, ánh mắt ấy lại hiện về. Tuất không dám mở mắt, cố tập trung tư tưởng vì ngại ánh mắt ấy sẽ biến đi. Tuất thấy sau đôi mắt dường như thấp thoáng loại quân phục có tích cách ngụy trang của lính miền Nam. Tuất vận dụng tâm trí nhiều hơn nữa và từ từ nhận ra những đường kỷ hà màu xanh, nâu và trắng chen lẫn nhau. Đúng rồi! Quân phục của Lính Thủy Đánh Bộ! Ô, lạ không! Tại sao lại có vết máu tươi nơi ngực trái/vết đâm ở vùng bụng dưới và tiếng kêu rè rè/rột rột của máy truyền tin? Người Tuất toát mồ hôi. Đúng là ánh mắt của “tên” sĩ quan “Ngụy” bị Tuất đâm chết cạnh máy truyền tin, bên kia bờ sông Thạch-Hãn, vào hôm có lệnh hưu chiến! Tuất nhớ dường như Tuất thấy bản tên của “hắn” là Nguyễn Văn Mạnh! Vừa khi ấy, Mạnh thức giấc, than nóng và đèn sáng Mạnh ngủ không được. Tuất tăng tốc độ quạt máy và khuyên Mạnh nên cởi áo thun để ngủ cho mát. Tuất đến công tắc điện, có ý đợi Mạnh cởi áo thun xong rồi mới tắt đèn. Nhưng khi chiếc áo thun trắng vừa vuột qua khỏi vai của Mạnh, Tuất nhíu mày vì thấy vết sẹo nơi ngực trái của Mạnh. Tuất hỏi: - Anh “nàm” gì mà có vết sẹo dài thế? Như suốt mấy ngày qua, với dụng ý không muốn nhắc đến quá khứ, Mạnh đùa: - Anh có cả…ngàn vết sẹo chứ phải một đâu, chú! Biết Mạnh đùa, Tuất cũng đùa theo: - Người có ngàn vết sẹo thì… “cái ấy” cũng mang sẹo rồi! Hai anh em cười thành tiếng. Trong phút giây vui với đứa em mấy mươi năm xa cách, Mạnh cảm thấy trẻ lại như ngày nào anh em ở truồng tắm sông, quên giữ ý: - Không phải ngay “cái ấy” mà gần gần thôi. Tuất cũng vô tình, muốn kéo dài niềm vui: - Đâu, đưa em xem nào! Mạnh trật lưng quần đùi ra. Thấy vết sẹo màu nâu nổi cộm ở vùng bụng dưới của Mạnh, Tuất hoảng kinh, đứng sững! Đầu óc của Tuất xoay vòng vòng, muốn nổ tung! Ánh mắt lúc chiều, vết sẹo bên trái của lồng ngực và vết sẹo ở bụng dưới…Lẽ nào! Tuất khổ sở, lắc đầu nhiều lần rồi nghiêm giọng: -Anh Mùi! (Biết Mùi đã đổi tên, nhưng Mẹ cũng như Tuất, đều muốn gọi Mạnh là Mùi; vì tên Mùi nghe gần gũi, thân thiết hơn.) Hồi trước anh là Lính Thủy Đánh Bộ, đúng không? - Chuyện qua rồi, tìm hiểu làm chi nữa? - Thôi được. Em chỉ yêu cầu anh trả lời cho em một chữ “có” hay “không” mà thôi. Chịu không? Mạnh quen miệng “Okay”. Tuất hỏi: - Ngày đình chiến, đơn vị của anh có đóng ở bên kia sông Thạch Hãn hay không? - Có! Chú hỏi để làm gì? Tuất không trả lời, vội tắt đèn và hấp tấp mở cửa trước: - Thôi, gần sang rồi. Anh nằm nghỉ. Em đi có tý việc. Em sẽ về ngay. *** Sau khi nghe Tuất kể rõ câu chuyện, Mẹ lặng người một lúc rồi thở dài: - Tuất à! Bất cứ điều gì xảy ra trên đời đều do Duyên và Nghiệp. Trường hợp của con và anh Mùi cũng chỉ là một trong muôn vàn cảnh oái ăm trên đất nước điêu linh này. Con biết hối và biết thương anh Mùi, thế là đủ. - Nhưng làm thế nào con có thể sống được với sự ray rứt này, Mẹ? - Ý con muốn như thế nào? - Con muốn nói thật với anh Mùi để xin anh Mùi tha thứ cho con. - Không nên, con à! Có bao giờ anh Mùi muốn nhắc chuyện cũ đâu. Vả lại, bây giờ chỉ con và Mẹ biết chuyện, Mẹ con mình đau lòng; nếu anh Mùi biết nữa, chỉ thêm một người nữa đau lòng chứ có giải quyết được gì đâu, con! - Nhưng con cũng có nhiều chuyện ấm ức, con muốn nói với anh Mùi. Nhờ những lá thư ngày trước Tuất thường gửi tay từ trong Nam về cho Mẹ, Mẹ hiểu tâm trạng của Tuất. Mẹ đáp: - Con có thể nói với anh Mùi những chuyện ấm ức đó. Nhưng, Mẹ nghĩ, con không cần phải nói với anh Mùi về lỗi lầm của con ở bên kia sông Thạch Hãn, vào hôm ngưng chiến! - Vâng. Con hiểu. *** Trên chuyến xe lửa Thống Nhất, Mạnh và Tuất ngồi uống bia nơi toa hàng ăn vào lúc xế trưa, vắng khách. Nhìn quanh không thấy ai khác, ngoài người ngồi xa xa sau quày tính tiền, Tuất tiếp: - Trong hàng ngũ bộ đội, biết bao nhiêu thằng như em, nhưng chỉ sợ gia đình bị trả thù cho nên ít đứa dám ra hồi chánh; trừ những người miền Nam tập kết, vì gia đình họ ở miền Nam, họ không sợ. Bởi thế, anh đừng tưởng ai ở ngoài Bắc cũng đều là cộng sản cả đâu. - Nếu anh nghĩ như thế, anh đã không về. Ngưng một chốc, Mạnh tiếp: - Dù sao thì họ cũng là kẻ chiến thắng. -Thắng mẹ gì! Hồi đó nếu Mỹ cho B52 “rải thảm” thêm một trận nữa là bọn chúng đầu hàng vô điều kiện, cũng giống như Nhật hồi thế chiến thứ hai rồi! - Thế Tuất không hãnh diện được có mặt trong đoàn quân chiến thắng à? - Hãnh diện gì! Thời chiến, ngoại trừ con cháu bọn “chóp bu”, thằng thanh niên miền Bắc nào khỏi vào bộ đội? Khi đã xung trận thì giết hoặc bị giết chứ có ai muốn thế đâu, anh. Mạnh cười cười, liếc chỗ xăm bốn chữ “sinh Bắc tử Nam” trên tay Tuất. Hiểu Mạnh nghĩ gì, Tuất nhìn vào chỗ bị xâm rồi bưng chai bia, “tu” một hơi, tiếp: - Anh đã thấy những thằng bộ đội bị xích chân vào xe tăng/vào thân cây/vào trọng pháo chưa? Đấy, vô nhân đạo thế ấy mà tụi bộ đội vẫn phải để cho xích, huống gì xâm bốn chữ định mệnh này! Mạnh bóp nhẹ tay Tuất. Tuất xoay ngược bàn tay, nắm tay Mạnh rất lâu. Hai anh em đều yên lặng. Không phải đến bây giờ Tuất mới cảm nhận được tình anh em ruột thịt nơi Mạnh; nhưng quả thật bây giờ Tuất mới cảm thấy nhẹ nơi lồng ngực, vì Tuất đã nói ra được phần nào những điều ray rứt trong lòng chàng. Tuất đứng lên, đến bên cửa sổ, nhìn mong ra vùng không gian bát ngát. Cánh đồng xa xa lúa đã chín vàng. Từ lúc đó, trên chuyến tàu Thống-Nhất theo Mạnh về Nam để cải táng hài cốt của Bố, lòng Tuất thanh thản như những áng mây cuối trời./. ĐIỆP-MỸ-LINH |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23444 |
![]() ![]() ![]() |
Ánh mắt của Cha
Lời phi lộ: Riêng tặng cho O Lê Thị Như Hương hiện đang ở Huế
Thân mến TQĐ
- Vào bài:
Tác giả Tâm Chánh là người con gái của Trung Tá Từ Tôn Khán, Khoá 10 Võ Bị, Tỉnh Đoàn Trưởng Tỉnh Đoàn Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn, Huế. Ông bị Việt Cộng bắt và sát hại trong Tết Mậu Thân 1968 tại Huế:
Nếu bây giờ ông Trời ban cho tôi một ước nguyện thì điều tôi sẽ cầu xin không một giây ngần ngại: xin cho Cha của tôi được sống lại dù chỉ là một ngày để Mẹ tôi có được niềm vui trước khi bà từ giã cõi đời, để cho các con tôi được gặp Ông Ngoại. Một mơ ước thật hão huyền và sẽ không bao giờ đạt được nhưng tôi vẫn khấn nguyện, vẫn ước mơ…
Người Cha thân yêu của tôi bị bọn Việt Cộng khát máu đoạt mệnh trong biến cố tết Mậu Thân năm 1968 khi tuổi đời của Ông chưa đến ba mươi bảy. Mẹ tôi trở thành góa bụa ở tuổi ba mươi hai, cái tuổi thanh xuân đẹp nhất của một người phụ nữ, bơ vơ với sáu đứa con thơ dại và đứa con út mới tượng hình ở trong lòng. Nửa thế kỷ qua, lòng tôi chưa bao giờ ngưng tiếc nhớ, ray rứt, và đau khổ.
Thuở đó, gia đình của tôi cư ngụ tại đường Bạch Đằng, một con đường nằm ngay tại trung tâm của tỉnh Thừa Thiên, thành phố Huế. Con đường này song song với đường Huỳnh Thúc Kháng nổi tiếng với những tiệm bánh mứt, kẹo mè xửng giòn, dẻo đủ loại. Hai con đường cách nhau bởi giòng sông Gia Hội, nơi có những chiếc đò đưa khách sang sông trong suốt bốn mùa.
Trong khu đất rộng của Ông Bà Cố tôi để lại gồm có ba căn nhà: căn Nhà Cẩn có lối kiến trúc xưa tọa lạc ngay chính giữa của khu vườn, là nơi thờ phụng tổ tiên với các điện thờ và các cột trụ thiếp vàng chạm trổ rẩt tinh vi, với bàn ghế giường tủ và các tấm mành đều được cẩn xà cừ. Nhà Tây được xây cất theo lối kiến trúc của Pháp, nằm về phía tay trái của Nhà Cẩn. Ở giữa hai căn nhà có bụi chè tàu rất lớn được trồng từ mấy đời trước, cành lá xum xuê cao quá đầu người. Đằng sau Nhà Cẩn, qua một khu vườn đầy hoa Tường Vi là căn Nhà Mới được kiến trúc theo lối tân thời.
Chúng tôi đã sống thời thơ ấu hết sức êm đềm trong căn nhà của Tổ Tiên. Ông Bà Nội của chúng tôi lúc đó đã không còn ở Huế, nhưng chúng tôi được sự thương yêu đùm bọc của Ông Bà Ngoại. Cha tôi đi hành quân thường xuyên, mỗi lần về ông đều đàn hát cho Mẹ tôi nghe và chở chúng tôi lên thăm Ông Bà Ngoại. Mấy Mẹ con quấn quýt bên Cha trong hạnh phúc ngập tràn.
Một lần về sau chuyến hành quân, Cha đem về một con chó. Ông gặp nó bị thương, nằm bên vệ đường. Ông đã tự tay săn sóc vết thương cho đến khi con chó bình phục. Kể từ đó gia đình chúng tôi có thêm một thành viên mới, chú chó Berger cao lớn. Con chó hết sức quyến luyến Cha tôi. Nó vô cùng mừng rỡ bất cứ khi nào ông về đến nhà, nó luôn luôn quanh quẩn ở bên ông khiến Mẹ tôi đôi lúc cũng bực mình khi bị nó làm chộn rộn.
Những tưởng cuộc sống sẽ được mãi ấm yên như thế… Nhưng tất cả đã thay đổi vào đầu năm 1968.
Đêm Giao Thừa Tết Mậu Thân, chúng tôi tụ họp ở nhà Ông Bà Ngoại để cúng tết và dùng bữa với gia đình của các Cậu Dì đến từ các thành phố khác. Khoảng gần mười giờ đêm bỗng có những tiếng nổ. Ban đầu mọi người đều ngỡ là ai đó đốt pháo Tết sớm, nhưng chỉ sau vài phút, Cha tôi biết ngay là tiếng nổ của súng. Gương mặt và đôi mắt Ông đầy lo âu. Chỉ trong khoảnh khắc, Ông nhận được điện tín về lệnh chuẩn bị cấm trại và tuyệt đối đề phòng cảnh giác. Cha tôi xin phép Ông Bà Ngoại để đưa Mẹ con chúng tôi về vì phải đi trực. Mọi người đều năn nỉ Cha tôi ở lại vì có lẽ họ đã linh cảm được điều không hay nhưng Cha tôi cương quyết từ chối. Ông nói là cấp chỉ huy thì không thể vi phạm kỷ luật quân đội.
Khi gia đình tôi vừa về đến nhà thì con chó sủa vang và cứ cắn ống quần của Cha tôi. Tuy vậy, Cha vẫn không chú ý đến những cử chỉ khác thường của nó vì ông đang tìm cách liên lạc với cấp trên để nói chuyện. Con chó vẫn sủa ăng ẳng và kéo ống quần của Cha. Đang ở trong tình huống căng thẳng, lo âu, Cha đã nạt lớn và hất mạnh con chó sang một bên. Nó sợ hãi bỏ chạy ra ngoài sân, và hôm sau những người giúp việc đã cố công tìm kiếm con chó nhưng không ai thấy nó.
Đêm Mồng Một Tết, Việt Cộng (VC) tấn công. Vài ngày sau, chúng chiếm thành phố Huế.
Cha bảo Mẹ và tất cả chị em chúng tôi chạy qua trú dưới căn hầm của một gia đình láng giềng cách nhà của chúng tôi năm căn. Cha ở lại nhà tiếp tục liên lạc điện thoại, làm việc với cấp trên.
Sau nhiều ngày chui rúc trong căn hầm, chúng tôi không nghe tin tức gì của Cha nên Mẹ rất lo lắng. Rạng sáng ngày 10 tháng 2 năm 1968, Mẹ tôi đã nhờ O Lan, cô giúp việc trong gia đình, bò về nhà để thăm dò tin tức. Nhân lúc Mẹ đang cho em bé út chưa được một tuổi bú sữa, tôi lén đi theo O Lan.
Khi O bò ra khỏi miệng hầm được một quãng ngắn thì O mới biết là có tôi đi theo. Dù lo lắng Mẹ tôi sẽ rầy la, nhưng O cũng mừng vì có tôi bên cạnh cho đỡ sợ.
Lúc đó khoảng gần 5 giờ sáng, trời mùa đông xứ Huế vẫn còn tối đen và lạnh căm căm. Vất vả lắm chúng tôi mới len qua được những hàng rào ở phía sau các khu vườn và lẻn về đến nhà.
Chúng tôi giật mình vì thấy người lạ đứng đầy sân. O Lan vội kéo tôi nằm sát xuống đất sau bụi chè tàu ở giữa Nhà Cẩn và Nhà Tây.
Từ đó, tôi trợn mắt cố nhìn xuyên qua bóng tối. Tôi rụng rời khi thấy Cha tôi và các chú cận vệ đang bị trói ké tay trước hàng hiên của căn nhà Tây. Chúng đang tra hỏi các chú Mãng, Chú Phấn, và chú Truật với những câu được lập đi lập lại “Các anh muốn chúng tôi khoan hồng thì hãy khai ra những gì mà Thiếu Tá Khán giấu diếm, bằng không đừng trách chúng tôi”.
Khi nghe vậy tôi và O Lan lâm râm cầu nguyện để các chú đừng khai mặc dù tôi không thật sự hiểu bọn VC muốn các chú khai những gì…
Họ bắt đầu đánh các chú. Tiếng đấm, đá bình bịch như xoáy vào đầu tôi. Rồi tôi nghe giọng Cha tôi “Các anh muốn gì thì cứ hỏi tôi, binh lính của tôi không có tội tình chi mà các anh hành hạ họ.” Tôi nghe chúng cười gằn rồi nói: “Thiếu Tá đừng lo, sẽ tới lượt chúng tôi hỏi thăm sức khỏe Thiếu Tá”
Mấy phút im lặng trôi qua, tôi không nghe được khi bọn chúng nói nhỏ những gì với nhau. Lúc ấy, O Lan và tôi vừa lạnh vừa sợ, hai hàm răng của chúng tôi đánh lập cập vào nhau. Chúng tôi càng co rúm người lại, tưởng như chúng sắp phát giác ra sự hiện diện của chúng tôi.
Khi trời mờ sáng thì tôi và O Lan phải đổi tư thế để ngồi xổm lên để lá chè che khuất. Từ chỗ núp, tôi đã thấy được rõ ràng cảnh tượng trước hiên nhà. Bọn VC mặc đủ sắc phục, đứa thì mặc nguyên bộ đồ nhà binh, đứa thì mặc quần tây, áo sơ mi, nhưng trên cánh tay áo của chúng đều có đeo băng đỏ. Tên nào cũng cầm một cây súng có họng dài và quanh lưng đeo băng đạn, có tên còn cầm lựu đạn trên tay. Trong đám người mặt đầy sát khí này có một người đàn bà mặc bồ đồ đen, tay cầm súng lục. Chúng vây lại quanh Cha, la hét tra khảo về những việc làm của Cha. Cha trả lời:
– “Tôi có lý tưởng của tôi, các anh có lý tưởng của các anh, tôi không khai báo, không chỉ điểm đồng đội của tôi.”
Chúng gầm gừ, chửi rủa rồi quay báng súng đánh túi bụi vào đầu, vào mặt Cha. Một tên thét lớn:
- “Vận mạng của cả gia đình mày đang nằm trong tay của chúng tao. Nếu mày chịu khai báo thì chúng tao sẽ tha và không sai người đi lùng bắt vợ con mày”.
Cha thở hổn hển vì đau nhưng chỉ nói:
– “Các anh cứ làm nếu thấy cần, tôi thà hy sinh vợ con chứ không thể hèn mà đầu hàng các anh”.
Mụ đàn bà la the thé:
-”Đánh nữa! Đánh nữa đi”!
Chúng vừa đánh vừa kéo một sợi xích sắt lớn khóa chân Cha tôi và các chú cận vệ lại với nhau. Rồi những báng súng, những cái đá, cái đạp lại liên tiếp giáng xuống đầu, xuống ngực, xuống lưng Cha. Nước mắt tôi rơi ràn rụa, ngực tôi nhói lên với từng tiếng hừ hự vang lên từ phía Cha tôi…
**
Cha! Đã năm mươi năm qua, con vẫn nhớ như in những giây phút ấy. Những giây phút khủng khiếp mà lời lẽ không bao giờ đủ để diễn tả. Những cây súng giơ lên, quật xuống. Chúng vây quanh Cha, liên tiếp đánh.
Từ sau bụi chè tàu, con đã đứng lên. Con gạt phăng tay O Lan đang hết sức níu lấy con. Con nhào tới, sụp xuống lạy xin bọn chúng tha cho Cha và các chú. Cha đã cố ngẩng lên và nhìn thấy con. Cha sững sờ trong khoảnh khắc. Rồi Cha trầm giọng bảo con phải can đảm, đừng van xin vô ích.
Con bỗng nghe đau nhói trên đầu. Một bàn tay thô bạo đã xoắn tóc con, dúi đầu con xuống đất, trước mặt Cha. Chúng gào lên rằng sẽ bắn con nát óc để xem Cha có còn cương quyết từ chối khai báo nữa hay không. Con sợ hãi đến tột cùng, toàn thân con run bần bật. Con tưởng Cha sẽ đầu hàng nhưng con đã nghe tiếng Cha bảo chúng rằng:
– “Các anh cứ bắn con tôi đi, nếu các anh muốn, nhưng tôi vẫn không thể làm theo lời yêu cầu của các anh”.
Con khóc nghẹn từng cơn như sắp tắt thở, vừa van xin chúng, vừa năn nỉ Cha. Và, lúc đó, con đã bắt gặp ánh mắt Cha nhìn con. Ánh mắt đầy cương nghị, nhưng cũng chan chứa thương xót, khổ tâm. Ánh mắt của Cha đã cho con thêm can đảm, thêm nghị lực để chịu đựng. Con đã bớt hoảng loạn, đã có thể lắng nghe lời Cha trăn trối. Cha dặn con phải thay Cha để lo cho Mẹ, cho em. Khoảnh khắc đó chỉ dài vài phút, nhưng mãnh lực của ánh mắt, lời nói trước khi Cha con mình vĩnh viễn xa nhau đã theo con cho đến hôm nay.
Bỗng nhiên có một tên VC khác chạy vào, bọn chúng tụ lại bàn nhau điều gì đó với vẻ lo lắng. Cha nhìn thẳng vào mắt con lần nữa, mấp máy môi nói thật nhỏ “Con chạy đi!” Rồi bất ngờ Cha la to “Anh em tấn công!” Bọn VC vội dàn hàng, quay mặt về phía cổng chính. Ngay giây phút đó, con đã phóng qua bụi chè tàu, chạy thục mạng ra khỏi vườn sau.
**
Sau 26 ngày, quân đội Quốc Gia đã tái chiếm thành phố Huế. Con đã được cho theo cùng với Ông Ngoại, Mẹ, và chú Bốn tài xế để đi tìm Cha ngay lập tức. Mọi người khởi hành từ 4 giờ sáng ngày 27 tháng Giêng năm Mậu Thân. Trời còn tối đen mà tiếng khóc đã rền rĩ khắp các nẻo đường. Từ cầu Đông Ba đi về phía cầu Gia Hội, nhìn đâu cũng thấy xác người nằm la liệt.
Khi con đến trường Gia Hội, thì những toán đi tìm đang đào những hầm chôn tập thể lên. Có những nạn nhân chưa chết hẳn nhưng khi thân thể của họ được vực lên thì đa số họ hộc máu và tắt thở trong vòng vài phút.
Mùi tử khí đã khiến Ông Ngoại, Mẹ, và con bị xây xẩm mặt mày nhiều lần. Đến khoảng 2 giờ chiều, sau khi đã tìm kiếm ở tất cả các mồ chôn tập thể ở sân trường Gia Hội, Mẹ đã đuối sức vì lúc đó Mẹ đang mang thai mà không biết. Ông Ngoại đề nghị trở về nhà và sẽ tiếp tục chuyện tìm kiếm vào ngày hôm sau. Ông cũng an ủi Mẹ con là biết đâu Cha đang bị chúng bắt làm tù binh. Chú Bốn cũng đồng ý, thế là mọi người thất thểu quay về.
Mọi người vừa qua khỏi cầu Gia Hội chưa đầy một thước bỗng nhiên con chó của Cha bất thần xuất hiện. Mọi người chưa hết kinh ngạc thì con chó tru lên đầy ai oán. Nó cắn lấy ống quần của Mẹ, kéo bà đi theo nó. Ông Ngoại tái mặt, biết ngay là điềm chẳng lành. Ông vội kéo con đi theo con chó.
Đến cửa Thành Nội, ngay dưới chân bức tường đầy rêu phong là một nấm đất cao được đắp sơ sài. Con chó dừng lại, ngửa cổ sủa liên tục. Dân ở những nhà gần đó kéo ra, họ nói với Ông Ngoại là chính họ đã chôn cất Cha. Họ nói là thấy đám VC dẫn đầu bởi Nguyễn Thị Đoan Trinh, và Hoàng Phủ Ngọc Phan, đã áp giải Cha tới đó. Họ đã chứng kiến cảnh Cha bị đánh đập vô cùng dã man nhưng Cha vẫn nhất định không hé một lời. Rạng sáng ngày 11 tháng 2, 1968, họ nghe tiếng súng nổ, sau đó họ tìm thấy Cha nằm gục ở chân tường. Tuy biết Cha, nhưng họ sợ bị trả thù nên đã phải đợi đến đêm hôm đó mới vội vã chôn Cha.
Khi Chú Bốn đào huyệt lên, Mẹ té xỉu khi vừa nhìn thấy Cha. Cha nằm đó trong cái huyệt nông chưa đầy một thước. Sóng mũi Cha vẫn cao, đôi mắt Cha khép kín nhưng khuôn mặt với nét cương nghị vẫn còn nguyên vẹn. Con đã run rẩy cúi xuống thật gần để rờ mặt Cha. Con đã thấy những dòng máu khô đen từ những vết đánh ở hai bên má và màng tang của Cha.
Cha ơi! Con đã đứng nhìn Cậu dùng khăn tẩm rượu trắng để lau máu trên thân thể cha. Chiếc áo len đen do chính tay Mẹ đan bị lủng nhiều chỗ ở ngực nên con biết là cha đã bị bắn nhiều phát vào tim. Qua chỗ rách Con còn thấy thẻ căn cước của Cha lòi ra khỏi túi áo sơ mi trắng. Qua làn nước mắt ràn rụa, con thấy các binh lính của Cha đóng áo quan cho Cha từ những tấm ván bởi vì cả thành phố Huế chỉ còn một chiếc hòm nhỏ, không vừa với Cha. Sau đó, những chú lính đã cùng chú Bốn đưa Cha về lại nhà của mình.
Cha nằm giữa phòng khách của Nhà Tây. Ở ngay nơi đó, chỉ một tháng trước chúng con và Mẹ còn quây quần cười nói bên Cha, nay chỉ có chúng con đội tang trắng xóa, ngơ ngác khóc than trước di ảnh Cha. Con nức nở gọi Cha ơi nói chuyện với con đi, đừng im lặng nhìn con như vậy nữa. Trong ánh nến lung linh, con đã thấy như Cha đang đưa mắt nhìn nhìn theo từng đứa chúng con. Ông Ngoại bảo không nên di chuyển xa trong lúc tranh tối tranh sáng, VC nằm vùng đang còn trà trộn khắp nơi. Các chú đã đào huyệt cho Cha ngay trong vườn, phía bên trái của căn nhà Tây. Các vị sư chỉ dám đến để tụng kinh một tiếng đồng hồ rồi hạ huyệt.
Giờ phút cuối, chúng con đi vòng quanh áo quan trước khi các chú di chuyển Cha ra huyệt, con thấy như ai đâm vào người con hằng trăm mũi dao nhọn. Con tự trách mình đã bỏ chạy để Cha ở lại với bầy quỷ dữ, con tự giận mình không nghĩ ra kế để cứu Cha cùng các chú cận vệ.
Rồi chúng con lại phải ném những miếng đất xuống huyệt. Từng mảnh đất đen rơi lộp bộp lên cỗ quan tài mà Cha nằm trong đó. Nỗi đớn đau trong lòng con không thể có ngôn ngữ nào diễn đạt được, Cha ơi.
**
Cha yêu thương, chuyện xảy ra đã năm mươi năm về trước nhưng hình ảnh của Cha cùng ánh mắt Cha nhìn con trong những giây phút cuối cùng vẫn mãi mãi trong tâm trí con.
Định mệnh đã khiến con trốn Mẹ đi về nhà để được gặp Cha, để được nghe Cha dặn dò lần cuối. Định mệnh đã cho con thấy được ánh mắt cương nghị, đầy dũng khí của Cha, dù Cha đã bị bọn người khát máu hành hạ. Ánh mắt chan chứa xót thương của Cha đã nâng con dậy trong thời gian con bị khủng hoảng sau khi Cha ra đi, và không biết bao nhiêu lần sau đó khi con ngã quỵ trong những tháng năm dài côi cút.
Định mệnh đã cho con cơ hội nhìn tận mặt để nhận diện những người đã giết Cha, mặc dù mấy chục năm qua con chưa có can đảm tìm hiểu về những cái tên mà người mà dân trong Thành Nội đã kể cho Mẹ và con. Mãi đến đầu năm nay, 2018, Cô C. đã gửi cho con xem cuộc phỏng vấn tên Hoàng Phủ Ngọc Phan về Tết Mậu Thân. Con đã run rẩy suýt đánh rơi cái Ipad khi thấy mặt hắn. Năm mươi năm trước, vào ngày 10 tháng 2 năm 1968, chính tên này đã dọa giết cả gia đình mình, chính hắn và đồng bọn đã vung báng súng đập lên Cha và các chú.
Cha yêu thương, đến giờ phút này con vẫn khâm phục tài trí của Cha. Cha biết chúng không bao giờ tha cho Cha, dù Cha có khai báo. Vì thế, Cha thà chịu cho cha con mình cùng chết, nhưng Cha đã quyết bảo vệ cho gia đình những đồng đội.
Từ đó đến nay, con luôn nuối tiếc vì không còn nghe được tiếng Cha răn dạy. Đó là nỗi mất mát to lớn của tụi con. Em út không hề nghe được giọng nói và không hề thấy được gương mặt của Cha. Con cứ tưởng tượng đến nỗi khổ đau của Mẹ, và con đã khóc trong suốt mấy chục năm qua, nhất là mỗi khi chồng con vô tình choàng vai ôm con để an ủi đã khiến hình ảnh Cha ôm Mẹ ngày nào trở về rõ rệt trong trí con. Con lại bật khóc như đứa trẻ lên năm.
Cha ơi! Bây giờ con đã nên người, đã thành công, đã giữ trọn lời con hứa với Cha năm nào, con đã làm tròn trọng trách Cha đã giao phó cho con. Tất cả các con, các cháu của Cha đã thành nhân. Cha không có con trai nhưng đứa con gái mít ướt này đã cho Cha một thằng cháu ngoại và đứa cháu ngoại này cũng cho Cha một đứa cháu cố trai. Vì ai mà Cha không được một lần thăm chúng! Vì ai mà Cha lỗi hẹn với Mẹ của con!
Viết cho Cha mà nước mắt con vẫn trào và sẽ không bao giờ ngưng khi con nhớ đến người Cha vắn số của con. Con hãnh diện được làm con của Cha, một người Cha đầy lòng nhân hậu, đầy trí dũng cảm đã giữ đúng cương vị, tư cách, và uy tín của một sinh viên sĩ quan của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam.
Nhớ Cha hoài. Con gái mít ướt của Cha.
Tâm Chánh |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 104 |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |