Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 101
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23127
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 17/Dec/2024 lúc 12:39pm

Tấn Thảm Kịch 1975 


- Melvin R.Laird, cựu bộ trưởng Quốc phòng Mỹ dưới thời Nixon, sau mấy chục năm im lặng mới lên tiếng gần đây. Ông nói rằng chiến tranh Việt Nam không thể kết luận là một sự sai lầm, theo ông Hoa Kỳ đã chuốc lấy thất bại và bỏ lỡ nhiều cơ hội chiến thắng. Mục tiêu cuộc chiến tranh Việt Nam hồi ấy là để ngăn chặn sự bành trướng của Cộng Sản tại Á Châu. Cựu bộ trưởng Laird chỉ trích Hoa Kỳ năm 1975 đã bỏ rơi đồng minh Việt Nam, ông nói rằng điều xấu hổ không phải là Hoa kỳ có mặt từ lúc đầu mà là sự phản bội vào giờ phút chót, Quốc hội Hoa kỳ đã ngoảnh mặt làm ngơ trước những lời cam kết với Việt Nam của chính phủ Nixon trước đó. Cựu bộ trưởng nói rằng Tổng thống Ford, bộ trưởng ngoại giao Kissingger, bộ trưởng quốc phòng Schlesinger phải chia xẻ nỗi nhục này, cũng theo ông Quốc Hội là thủ phạm chính trong sự bỏ rơi Đồng minh qua một số quyết định như :

1- Chấm dứt can thiệp quân sự (8/1973).
2- Cấm can thiệp trở lại Việt Nam.
3- Cấm trả đũa nếu Hiệp định Paris bị vi phạm.
4- Giảm quân viện từ 1 tỉ 4 xuống còn 700 triệu vào năm 1974.
5- Từ chối yêu cầu của Tổng thống Ford xin viện trợ khẩn cấp cho Việt Nam đầu tháng 4/75. .

Cũng theo Laird, Tổng thống Ford đã bác bỏ thuyết Domino đã có từ 7/4/1954 dưới thời Tổng thống Eisenhower cho rằng hễ mất một nước sẽ mất luôn nhiều quốc gia khác mà người mình thường nói nôm na môi hở thì răng lạnh.
Vào ngày 10/3/2006 vừa qua hằng trăm chuyên viên, chính trị gia nghiên cứu về sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam đã tề tựu tham gia cuộc hội thảo tại thư viện Kennedy thành phố Boston, họ thảo luận đề tài "Chiến tranh Việt nam và các tổng thống Hoa kỳ". Các chuyên viên cho rằng đó là một cuộc chiến đầy những tai họa. Bà giám đốc thư viện nói các vị Tổng thống Hoa kỳ đã dìm nước Mỹ ngày càng lún sâu vào cuộc chiến tranh Việt Nam, họ tin rằng điều mình đang làm là phải nhưng đó chỉ là một sự liều lĩnh, theo bà một sử gia nói nó chỉ là một sự tính toán sai lầm về chính sách trong lịch sử đối ngoại của Hoa Kỳ. Một diễn giả sử gia trong buổi hội thảo nói có một vài cuộc chiến tranh là chính đáng, theo ông cuộc chiến tranh Việt Nam không chính đáng.

Trên đây là hai ý kiến trái ngược nhau, một bên đại diện là cựu bộ trưởng Laird cho rằng cuộc chiến tranh Việt Nam không thể coi là một sự sai lầm và ngược lại những người tham dự buổi hội thảo tại Boston cho rằng cuộc chiến tranh Việt Nam là sai lầm. Cuộc chiến tranh ấy đã khiến Hoa kỳ phải chi tới mấy trăm tỉ đô la, 58,000 quân nhân thiệt mạng, đất nước bị xáo trộn về chính trị cũng như kinh tế. . chưa kể đất nước phải mang tiếng nhục bại trận. Theo chúng tôi biết thì tâm lý chung con người thường ích kỷ, họ chỉ nghĩ đến những cái "mất" và không để ý tới những cái "được". Tất cả những sự mất mát đó chỉ là cái giá mà họ phải trả để được bắt tay Mao xếnh xáng ngày 21/2/1972, muốn bắt tay xếnh xáng đâu có phải chuyện dễ. Điều mà chính phủ Hoa Kỳ mong ước bao lâu nay đã thành sự thật, họ đã chiêu hồi được Trung Quốc, đảng cướp hung tợn này không còn là mối đe dọa tài sản tính mạng của Hoa Kỳ nữa, nhưng sự chiêu hồi ấy phải trả một giá hơi cao.

Theo chúng tôi nghĩ các ngài chuyên viên, chính trị gia ấy chắc cũng phải thừa biết như vậy và sự giả vờ ngây thơ của họ cho thấy họ không thẳng thắn nhìn nhận sự thật. Chúng tôi nghĩ các vị Tổng thống Hoa Kỳ chắc hẳn không sai lầm chút nào khi dính líu vào cuộc chiến tranh Việt Nam vì các ngài là những nhà chính trị gia lỗi lạc, những bậc thầy chính trị của thế giới chẳng lẽ lại sai lầm như vậy sao? Người ta kêu ca những sự thiệt hại cuộc chiến tranh ấy đã gây ra cho đất nước họ, thế còn đất nước nạn nhân đã là bãi chiến trường của bom đạn, binh đao khói lửa thì sao? Người Mỹ nói rằng số bom ném tại Việt Nam gấp 3 lần số bom ném tại Âu châu trong suốt thời Đệ nhị thế chiến, họ chỉ chú ý tới số tiền chi phí khổng lồ về số lượng bom đã ném xuống nhưng lại không để ý tới những nhân mạng, tài sản do những trái bom ấy gây nên.

Từ Thế chiến thứ hai đến nay ai cũng biết chỉ có thân phận mấy anh nhược tiểu là chịu thiệt thòi, làm món hàng cho các cường quốc mua qua bán lại, còn các siêu cường thì mấy khi chịu thiệt. Nay nhiều người cho rằng cuộc chiến Iraq là một sự sai lầm, nhưng nếu nhìn vào con số thống kê thì thấy Iraq là nước cung cấp dầu cho Hoa Kỳ nhiều nhất (29%), thứ nhì là Ecuator ( 19%). . các nước khác ít lắm chỉ năm, bẩy phần trăm thôi. Nhìn vào cái "sự thật phũ phàng" ấy thì không thể kết luận là chiến tranh Iraq sai lầm!

Sự thật không phải Mỹ can thiệp vào Đông Dương từ những năm 1964, 65 mà thật ra từ tháng 10/1950 khi Trung Cộng chuyển vũ khí ồ ạt giúp Việt Minh, người Mỹ đã vội viện trợ quân sự cho Pháp 300 triệu đô la, hàng không mẫu hạm Mỹ đã chở tới Sài Gòn 40 máy bay Hellcat cho Pháp. Chính phủ và Quân đội Quốc Gia Việt Nam được thành lập từ đó và đã được người Mỹ trả lương. Năm 1950 Viện trợ quân sự của Mỹ cho Pháp mới chỉ là 17% nhưng mấy năm sau tăng lên tới 74%. Năm 1949 Mỹ đã tàn nhẫn bỏ rơi Quốc Dân Đảng Trung Hoa, Mao thừa cơ nuốt trọn nước Tầu và thành lập Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hoà Quốc khiến cho cán cân lực lượng trên thế giới lệch hẳn đi.

Ngay khi vừa chiếm xong toàn cõi lục địa, Mao vội giúp đỡ và xúi dục Bắc Triều Tiên xâm lăng miền Nam năm 1950 khiến cho Mỹ phải hốt hoảng lấy danh nghĩa Liên Hiệp Quốc để nhẩy vào ngăn chặn và đã phải dùng biển lửa để chống lại chiến thuật biển người của Lâm Bưu. Mỹ bắt đầu ghê sợ Trung Cộng từ đấy, một khối 500 triệu người hung hãn, đói khát, hiếu chiến…. lại căm thù Hoa Kỳ và Tây phương ra mặt. Chiếm được toàn cõi Trung Hoa, Mao thừa nhận Hồ, rồi Hồ thừa nhận Mao và được viện trợ vũ khí đạn dược ồ ạt từ đất Tầu chuyển sang, ấy cũng là lúc Hoa Kỳ thấy nguy cơ Cộng Sản đang lan tràn xuống Đông Nam Á theo kiểu tầm ăn dâu và cương quyết ngăn chận đến cùng.

Năm 1954 Pháp thất trận tại Điện Biên Phủ phải ký hiệp Định Genève chia đôi đất nước Việt Nam. Năm 1955 Mỹ hất cẳng Pháp ra khỏi miền Nam để biến nơi đây thành tiến đồn chống Cộng của Thế Giới Tự do. Mỹ viện trợ quân sự cho miền Nam, huấn luyện cho binh lính miền Nam kỹ thuật tác chiến để ngăn ngừa hiểm hoạ Cộng Sản từ phương Bắc có thể tràn xuống bất cứ lúc nào. Đầu thập niên 60 Trung Cộng cho nổ trái bom nguyên tử đầu tiên, lật đổ được Kruschev khiến cho vai trò của Trung Cộng ngày càng quan trọng, nó đã làm thành cái thế chân vạc trên thế giới hồi ấy. Một thời gian ngắn sau, với đà tiến bộ khá nhanh, Trung Cộng chế tạo được bom kinh khí, rồi chế được hoả tiễn khi ấy Hoa Kỳ lại càng hoảng sợ hơn bao giờ hết, đối với họ, Trung Công còn nguy hiểm và đáng sợ hơn Nga sô rất nhiều vì nó là một khối người đông như kiến, đói rách, tàn ác, hiếu chiến. . chỉ tính chuyện xua quân đi ăn cướp mà tâm lý anh nhà giầu lại hay sợ kẻ cướp.

Mặc dù Trung Cộng ngày càng chống đối Nga Sô nhưng vẫn coi Mỹ là kẻ thù số một và thề quyết tâm đánh Mỹ. Năm 1965 Trung Cộng giật dây đảo chánh bất thành tại Nam Dương khiến cho Hoa Kỳ lại càng lo sợ hơn. Tầu đỏ nay đã trở thành cơn ác mộng đối với Hoa Kỳ. Sau khi hất cẳng Pháp tại miền Nam Việt Nam 1955, người Mỹ dựng lên chính phủ Ngô đình Diệm và yểm trợ hết mình, tình hữu nghị hai bên vô cùng khít nhưng chỉ được chừng bốn năm. Khoảng 1960 trở đi hai bên bắt đầu chia rẽ trầm trọng, Cộng Sản ngày càng gia tăng áp lực tại miền Nam, chúng đã đánh tới cấp trung đoàn, Mỹ sợ miền Nam sắp mất tới nơi bèn đề nghị đưa quân vào bình định nhưng ông Diệm một mực bác bỏ vì muốn giữ chủ quyền. Mỹ thấy chính phủ miền Nam ngày càng ương bướng khó bảo nên đã tính chuyện lật đổ để thay thế bằng một chính phủ khác dễ bảo hơn. Sau mấy lần cho đảo chính, ám sát hụt mãi đến đầu tháng 11/1963 mới thành công.

Mỹ tăng viện trợ quân sự cho miền Nam từ 1964 trở đi, năm 1965 chính thức đổ quân vào Miền Nam khoảng 180,000 người, năm 1966 lên 380,000 người, năm 1967 lên 480,000 người, năm 1968 lên tới 536,000 người đó là đỉnh cao nhất. Các cuộc biểu tình chống chiến tranh lúc ấy đã lan rộng trên đất Mỹ khi số lính Mỹ ủm củ tỉ tại Việt Nam lên tới 31,000 người. Tháng 3/1968 Tổng thống Johnson hăm dọa Bắc Việt để họ phải vào bàn hội nghị, Bắc Việt chấp nhận ngồi họp.

Từ 1965 đến 1968 cuộc chiến tranh cù cưa không dứt khoát, người ta đồn tư bản Mỹ buộc chính phủ của họ kéo dài chiến tranh để bán vũ khí, nhưng cũng có thể họ trì hoãn để mặc cả đi đêm với khối Cộng nhất là Trung Quốc. Tháng 4/1969 tướng Wesmoreland công bố bản phúc trình về Việt Nam cho biết nếu Mỹ không vào Việt Nam 1965 thì đã mất trong 6 tháng, ông chỉ trích chính sách hạn chế chiến tranh của Johnson không cho đánh qua Mên, Lào nên đã bỏ lỡ cơ hội chiến thắng.

Phong trào phản chiến ngày càng lên cao, Nixon nhậm chức Tổng thống đầu 1969 tuyên bố sẽ rút quân trong vòng mấy năm, thực hiện Việt Nam hoá chiến tranh, hòa bình trong danh dự. Từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1970 Quân đội Việt Nam Cộng Hoà được Mỹ giúp đỡ và khuyến khích hành quân sang Mên đánh Cộng Sản đã thành công vẻ vang, nhưng đầu năm sau hành quân Lam Sơn 719 sang Hạ Lào không thành công, ta bị thiệt hại về nhân mạng và vũ khí. Phong trào phản chiến tại Mỹ càng lên cao dữ dội vì chính phủ mới vẫn tiếp tục leo thang chiến tranh. Tháng 5 /1970 trong một cuộc biểu tình tại trường đại học Kent, Ohio quân đội đã bắn chết 4 sinh viên, làm bị thương 10 người khác khiến cho phong trào chống chiến tranh lên cao gấp bội lần những năm trước.

Nixon bắt đầu cho rút quân từ giữa 1969 cho tới hết năm 1970 rút khoảng 300,000 quân . . đến 1972 chỉ con trên 70,000 người. Chính phủ Mỹ đồng thời thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh, nâng tổng số quân đội miền Nam từ 600,000 và 700,000 trong những năm 1965, 1966 lên tới 940,000 giữa năm 1969. Hoa kỳ rút quân thực hiện Việt Nam hoá chiến tranh là đã nghĩ tới chuyện bỏ Việt Nam, họ chỉ chờ cơ hội bắt tay được với Trung Quốc là thực hiện kế hoạch "vắt chanh bỏ vỏ" nhưng người dân miền Nam ngây thơ thật thà không ai ngờ tới. Trong khi giúp miền Nam đánh Cộng Sản họ đã ngấm ngầm tìm cách thương lượng với Trung Hoa đỏ.

Năm 1969 chúng tôi có được nghe một anh bộ đội người cùng làng ra hồi chánh , anh ta nói " Mỹ nó muốn chiêu hồi Trung Quốc đấy chứ cái anh Bắc Việt thì nghĩa lý gì". Lời anh ta nói thật là linh ứng, tháng 2/1972 tại Bắc kinh Tổng thống Đế quốc bắt tay được Mao Chủ tịt. Họ mua bán với nhau trên xương máu của nhân dân và binh lính cả hai miền Nam Bắc, Nixon tươi cười mãn nguyện, cơn ác mộng con hổ đói Trung quốc không còn ám ảnh Hoa kỳ nữa. Hồi ấy người dân miền Nam ai nấy vui mừng hớn hở tưởng như "hoà bình sắp tới nơi rồi" nhưng thực ra "sắp chết tới nơi" mà không ai hay biết ngay cả Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà Nguyễn Văn Thiệu, tháng 10 năm 1973 ông đã cho sửa Hiến Pháp để ra ứng cử thêm một lần nửa! thật là một truyện diễu.

Cuối tháng 3/1972 Bắc Việt đưa 5 sư đoàn với 200 xe tăng, 3 trung đoàn pháo ồ ạt tấn công vùng giới tuyến chia làm hai mũi: 3 sư đoàn vượt sông Bến Hải đánh vào Quảng Trị, 2 sư đoàn từ phía tây tiến về Huế. Mấy ngày sau ba sư đoàn Cộng Sản 5, 7, 9 cùng 200 chiến xa tiến đánh Bình Long, ngoài ra sư đoàn 320 tiến đánh Kontum và sư đoàn 3 đánh Bình Định. Tổng cộng 10 sư đoàn Bắc Việt đánh lớn trong mùa hè đỏ lửa 1972 để thêm sức mạnh tại bàn hội nghị. Tại quân khu 3 các cuộc tấn công vào thị xã An lộc của Bắc Việt từ 10/5 cho tới cuối tháng 5 bị đẩy lui, hằng trăm xe tăng bị bắn cháy, đến ngày 12/6 An Lộc coi như hoàn toàn được giải toả. Tại vùng giới tuyến tháng 5 tướng Ngô quang Trưởng thay thế Hoàng Xuân Lãm và bắt phản công tái chiếm Quảng Trị từ 28/6. Khoảng một tháng sau đại quân ta cắm cờ trên cổ thành Quảng Trị, giữa tháng 8 dứt điểm cổ thành, ngày 16/9 cuộc chiến đẫm máu coi như chấm dứt, 3 sư đoàn Việt Nam Cộng Hoà đã đẩy lui được 6 sư đoàn Bắc Việt. Trong chiến dịch này Cộng quân thiệt hại khoảng 100,000 người (cũng có tài liệu nói 70,000 người), gấp đôi tổn thất của quân đội miền Nam. Cho đến cuối 1972 có vào khoảng một triệu cán binh Cộng Sản bị tử thương trong khi Bắc Việt vẫn ngoan cố theo đuổi chính sách "cố đấm ăn xôi" đẩy thanh niên vào chỗ chết, chúng hy vọng nhiều vào phong trào phản chiến, chúng cũng chỉ mong có thế.

Người Mỹ cho rằng chiến thắng trong trận mùa hè đỏ lửa một phần do sự yểm trợ hùng hậu của không lực Mỹ, chính ông Cao văn Viên, Tổng tham mưu trưởng cũng đã xác nhận "Cuộc công kích của địch quân năm 1972 đã cho thấy nhược điểm của tiến trình Việt Nam hoá chiến tranh. Nếu không được yểm trợ của Mỹ về Không lực và di động tính, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà khó có thể giữ được An Lộc , bảo vệ được Kontum và chiếm lại được Quảng Trị . Các phần đất này sẽ bị mất vĩnh viễn bởi vì chúng tôi không có đủ khả năng chiếm lại. Tuy nhiên, lúc nào còn Không lực Mỹ thì cán cân lực lượng vẫn có thể duy trì và Việt Nam Cộng Hoà vẫn còn một cơ hội tốt để sống còn"

Như thế năm 1972 lực lượng Việt Nam Cộng Hoà không được cân bằng so với Bắc Việt, nó chỉ cân bằng khi có sự yểm trợ của Không quân Mỹ, tại miền Nam tháng 5, tháng 6/1972 có 18,000 phi vụ do 700 phi cơ và 2,700 phi vụ do 170 B-52 thực hiện. Năm 1968 và 1972 chính phủ Việt Nam đã đề nghị chính phủ Mỹ cho thành lập thêm 2 sư đoàn tổng trừ bị để đối phó với lực lượng địch đã có ưu thế về xe tăng pháo binh, nhưng người Mỹ từ chối lấy lý do tốn kém. Kỳ thực họ không muốn cho quân đội miền Nam mạnh quá vì sợ có thể liều lĩnh đánh ra Bắc hoặc ương bướng khó bảo, họ luôn luôn nắm đằng chuôi. Như thế ta có thể kết luận về chủ lực quân, miền Nam không bằng miền Bắc cũng như năm 1953 chủ lực quân Việt Minh vẫn mạnh hơn Pháp.

Sau ngày ký hiệp định Paris, năm 1973 tình hình tiếp vận của miền Nam vô cùng thiếu hụt , một số lớn săng dầu đạn dược đã được dốc vào mùa hè đỏ lửa năm 1972, quân viện bị cắt giảm dần dần từ 2 tỉ 1 năm 1973 còn 1 tỉ 4 năm 1974 và 700 triệu năm 1975. Theo tiết lộ sau này của Bộ Tổng tham mưu hậu quả của giảm quân viện là không quân đã phải cho hơn 200 phi cơ ngưng bay, giảm số giờ bay yểm trợ huấn luyện 50%, phi vụ trực thăng giảm 70%. Các hoạt động hải quân cũng cắt giảm 50%, 600 tầu chiến các loạinằm ụ. Đạn dược chỉ đủ dùng cho đến tháng 6/1975.

So sánh với tình hình năm 1972 chúng ta sẽ thấy: Trong trận mùa hè đỏ lửa, Bắc Việt đã đưa vào trận đánh tổng cộng 10 sư đoàn, ta có đủ đạn dược săng dầu để chiến đấu lại được không quân Mỹ giúp đỡ về vận chuyển và oanh tạc. Sang năm 1975, săng dầu đạn dược thiếu thốn, không được B52 yểm trợ. Lực lượng địch lúc bắt đầu trận đánh khoảng 17 sư đoàn, chưa kể 3 sư đoàn tổng trừ bị thuộc quân đoàn 1 ở phía trên Bến Hải, khi ta mất vùng 1 và 2 , Bắc việt đưa nốt 3 sư đoàn vào Nam nâng tổng số lên 20 sư đoàn . Vũ khí đạn dược của địch năm 1975 gấp 3 lần 1972 theo tiết lộ của báo Nhân Dân năm 1976 nhân ngày kỷ niệm chiến thắng 30/4.
Chúng ta hãy lập bảng so sánh như sau.
Năm 1972:
- Bắc Việt đưa vào trận địa 10 sư đoàn
- Miền Nam có đầy đủ tiếp liệu đạn dược.
- Có yểm trợ của không lực Mỹ.
Năm 1975:
- Lực lượng Bắc Việt lên tới 20 sư đoàn, gấp đôi năm 1972.
- Vũ khí đạn dược của Bắc Việt gấp 3 lần năm 1972.
- Miền Nam thiếu thốn đạn dược nhiên liệu.
- Không được phi cơ Mỹ yểm trợ oanh tạc và vận chuyển.
Nhìn sơ ta cũng đủ thấy tình hình miền Nam lúc ấy bi đát như thế nào rồi.

Trong khi địch có khá đầy đủ tin tức tình báo về miền Nam, chúng ta lại không có tin tức chính xác về lực lượng địch. Theo Văn Tiến Dũng (trong Đại thắng Mùa Xuân) vào ngày 9 và 10 tháng 12/1974 vài ngày trước khi Bắc Việt đánh Phước Long, trong một phiên họp các tư lệnh quân khu tại dinh Độc Lập, tướng Thiệu cho rằng năm 1975 Bắc Việt có thể đánh lớn hơn năm 1974 nhưng không như năm 1968 và không bằng 1972, chưa có khả năng đánh vào các thị xã lớn mà chỉ đủ đánh các tỉnh nhỏ như Phước Long, Gia Nghĩa, rằng Bắc Việt sẽ đánh quân khu 3 chủ yếu là Tây Ninh. Theo Văn Tiến Dũng do nhận định sai nên tướng Thiệu đã bố trí chiến lược mạnh ở hai đầu (quân khu 1 và 3), chưa tăng cường lực lượng cho quân khu 2 trong đó có Tây Nguyên.

Sư bố trí lực lượng của miền Nam theo Văn tiến Dũng như sau.
Quân khu 1 để 5 sư đoàn (sư đoàn 1, 2, 3, Dù và Thủy quân lục chiến), 4 liên đoàn Biệt động quân, 418 khẩu pháo, 449 xe tăng, 96 máy bay chiến đấu.
Quân khu 2 để 2 sư đoàn (sư đoàn 22 và 23), 7 liên đoàn biệt động quân, 382 khẩu pháo, 477 xe tăng thiết giáp, 138 máy bay chiến đấu.
Quân khu 3 để 3 sư đoàn (sư đoàn 5, 18, 25), 7 liên đoàn biệt động quân, 376 khẩu pháo, 655 xe tăng thiết giáp, 250 máy bay chiến đấu.
Quân khu Bốn để 3 sư đoàn (sư đoàn 7, 9, 21), 380 khẩu pháo, 490 xe tăng, 72 máy bay chiến đấu, 580 tầu xuồng các loại.

Đã suy yếu vì thiếu tiếp liệu, ta lại đánh giá sai lực lượng địch nên đã bố trí các quân khu sai như trên. Cho tới 1975 ta vẫn không thay đổi sự bố trí lực lượng đã có từ trước cho phù hợp với tình hình mới. Lực lượng địch như đã nói ở trên tổng cộng là 20 sư đoàn, với số xe tăng thiết giáp ước lượng không chính xác khoảng 700 chiếc và700 khẩu pháo. Một nhà báo tây phương nói hai bên xem như ngang nhau vào lúc đầu của tấn thảm kịch. Năm 1975 Việt Nam Cộng Hoà có trên một triệu quân, 40% là chủ lực chính qui, 50% là địa phương quân, còn lại hải quân, không quân, cảnh sát. Lính nhà nghề chỉ có 13 sư đoàn và 15 liên đoàn biệt động quân , mỗi liên đoàn khoảng trên 2,000 người. Về mặt số lượng xe tăng và pháo của địch không bằng ta nhưng về mặt phẩm thì có phần hơn, thiết giáp miền Nam gồm M-48, M-41, M-113, trong đó chỉ có M-48 là tương đương với T-54 của Bắc Việt, pháo binh địch loại 130 ly có tầm viễn xạ tối đa là 30 cây số trong khi đại bác 105 ly, 155 ly của ta chỉ được 11 và 15 cây số, sau này được viện trợ thêm 175 ly có tầm bắn xa 25 cây số. Sự thực lực lượng hai bên không cân bằng vì miền Nam lâm vào tình trạng hết đạn.

Quân khu 2 gồm 13 tỉnh mà chỉ có 2 sư đoàn trấn giữ, lực lượng bị phân tán mỏng lại là nơi địch chủ trương tấn công toàn diện, Bắc Việt tung vào trận địa này 5 sư đoàn tổng cộng gần 80,000 người. Bắc Việt bất ngờ đưa ba sư đoàn tấn công Ban mê thuột ngày 11/3, năm ngày sau 16/3/1975, Quốc hội Mỹ cắt viện trợ 300 triệu đô la quân viện bổ túc cho Việt Nam như thế ta chỉ còn đạn đủ đánh trong vòng vài tháng, hôm sau 17/3 Ban Mê Thuột hoàn toàn mất. Từ ngày 11/3 tại dinh Độc Lập tướng Thiệu triệu tập phiên họp gồm các tướng Viên, Khiêm, Quang cho biết phải rút quân bỏ vùng 1 vùng 2 về bảo vệ vùng 3 và vùng 4. Kontum, Pleiku bị áp lực nặng, tướng Phú tư lệnh quân khu 2 bay về Cam ranh họp với các tướng Thiệu, Khiêm, Viên, Quang để bàn kế hoạch rút lui Pleiku theo đường số 7 về Tuy Hoà.

Cuộc triệt thoái bắt đầu từ 16/3 đến 19/3, ngày đầu nhờ yếu tố bất ngờ nên đoàn lữ hành ra đi êm xuôi, hôm sau dân chúng ùa theo, Bắc việt chớp thời cơ chận đánh, pháo kích tơi bời, khoảng 5,000 quân vượt đường máu tới Tuy Hoà, cuộc triệt thoái không có kế hoạch đầy đủ, cấp trên nhiều người bỏ đơn vị chạy trước, kỷ luật hỗn tạp, kẻ xấu lợi dụng bắn phá giết chóc. . Cuộc triệt thoái trên đường số 7 đã đi vào vết xe đổ của trận Cao Bắc Lạng năm 1950 khi quân Pháp triệt thoái khỏi vùng biên giới Việt Hoa đã bị Việt Minh chận đánh tan tành, được coi như một thảm bại lớn nhất trong cuộc chiến tranh tại miền Nam nước Việt từ trước đến nay.

Tướng Cao Văn Viên cho rằng ít nhất 75% các lực lượng chiến đấu của quân đoàn 2 đã bị tiêu diệt, 60,000 chủ lực quân khi về đến Tuy hoà chỉ còn lại khoảng 20,000, năm liên đoàn biệt động quân 7,000 người chỉ còn 900 người, 100 xe tăng các loại chỉ còn 13 cái M-113, trong số 400,000 dân cao nguyên chạy loạn chỉ có 100,000 người tới được Tuy Hoà. Tổng số vũ khí đạn dược trị giá 250 triệu đô la lọt vào tay Cộng quân. Ít ra cũng có tới 50,000 người thiệt mạng, cuộc triệt thoái mang lại hậu quả hết sức tai hại, nó đã kéo theo sự sụp đổ của toàn bộ miền Nam.

Miền Nam đã đang ở trong tình trạng ngặt nghèo vì thiếu đạn, săng dầu. . tướng Thiệu lại đưa ra những quyết định sai lầm vô cùng tai hại khiến cho đất nước trong chớp nhoáng đã kề bên bờ vực thẳm, ngày 13/3 ông cho lệnh rút sư đoàn dù từ Quảng trị về vùng 3, tướng Trưởng điều động liên đoàn biệt động quân 14 thay thế vào, biệt động quân nghe tiếng xe tăng địch vội rút về phía nam sông Mỹ chánh, Quảng trị coi như bỏ ngỏ đã lọt vào tay Bắc Việt hôm 19/3. Ngày hôm sau tướng Trưởng nhận được lệnh bỏ Huế rút về Đà nẵng, ngày 25/3 Quảng Tín và Quảng Ngãi lọt vào tay Cộng quân, ngày 25/3 Trưởng nhận lệnh đưa sư đoàn Thủy quân lục chiến về Sài Gòn. Cuộc tháo lui của Thuỷ quân lục chiến tại cửa Thuận An vô cùng thê thảm, biết bao người bỏ mạng khi lội ra tầu dưới hoả lực địch. Các cuộc di tản tại vùng 1 đã diễn ra một cách hỗn loạn được coi như tồi tệ hơn tại vùng 2, cấp trên nhiều người bỏ quân sĩ lại để chạy tháo thân, ngày 27/3 Đà nẵng bắt đầu nghiêm trọng, Cộng quân pháo vào thành phố dữ dội, dân quân chết như rạ, tướng Trưởng ra lệnh bỏ Đà Nẵng.

Vùng 1 và 2 bị mất trong chớp mắt khiến cho tinh thần binh sĩ suy sụp nhanh chóng, điều đáng nói là trong khi tinh thần chiến đấu của binh sĩ còn khá cao, thay vì tăng viện thêm tướng Thiệu lại cho lệnh rút bỏ cả hai quân khu khiến cho dân quân vô cùng hoang mang, cuộc di tản diễn ra trong cảnh hỗn loạn, đạp lên đầu nhau mà chạy, bắn giết nhau tìm đường chạy coi như đã dọn cỗ sẵn cho Việt Cộng xơi. Tất cả vũ khí đạn dược, quân trang, xe tăng đại bác . . tại hai vùng hầu như mất hết, một phần lớn đã lọt vào tay Cộng quân, đúng là giáo vào tay giặc. Năm 1976, Cộng Sản tiết lộ trên báo chí chúng đã lấy được rất nhiều chiến lợi phẩm tại vùng 1 và 2 nào xe cộ, đại bác, thiết giáp. . để trang bị thêm, đạo quân của địch bỗng nhiên tăng lên gấp bội. Như đã nói ở trên riêng cuộc lui binh tại quân khu 2 cũng đã có khoảng 50,000 người thiệt mạng, cuộc rút lui hỗn loạn tại quân khu 1 dưới những trận mưa pháo của địch nhất là tại Đà Nẵng còn thiệt hại nhiều hơn nữa, trong toàn bộ cuộc di tản vùng 1 và 2 có tới hằng trăm nghìn người bị chết oan.

Thực hiện xong kế hoạch rút quân tại vùng 1 và 2 coi như tướng Thiệu đã dọn cỗ sẵn cho Việt Cộng xơi. Sau khi vùng 1 và 2 lọt vào tay Cộng quân, phần còn lại của miền Nam coi như sẽ mất trong giây lát, đạn dược đã thiếu nay lại càng thiếu hơn vì các kho đạn miền Trung mất hết. Tại Sài Gòn các ông to bà lớn đã chuẩn bị kế hoạch "tẩu vi thượng sách" y như năm 1949 tại Nam Kinh, Trung Hoa các ông bộ trưởng, tướng tá đã lên máy bay ra đảo Đài Loan.

Sài Gòn sắp chết tới nơi mà chính phủ Thiệu còn khẩn khoản xin Mỹ viện trợ khẩn cấp 300 triệu, theo ông Nguyễn tiến Hưng, vào giờ thứ hai mươi năm tướng Thiệu còn tính việc lấy ngoại tệ trong ngân hàng để đi mua đạn, thật là diễu hết chỗ nói. Ngày 21/4 ông Thiệu từ chức tổng thống, tuyên bố Hoa kỳ bỏ rơi đồng minh, từ đó đến nay nhiều người Việt đổ lỗi cho Mỹ đã bỏ rơi đồng minh năm 1975. Người Mỹ, điển hình là đương kim Tổng thống và bộ trưởng quốc phòng lại chỉ trích quân đội Việt Nam Cộng Hoà trước đây đã không chịu đánh. Nhiều chính khách Hoa kỳ lại đổ lỗi cho miền Nam Việt Nam. Theo ông Nguyễn đức Phương, nhà nghiên cứu quân sự thì nguyên nhân thất bại đã đến từ cả hai phía Việt Nam và Mỹ.

Như chúng tôi đã trình bầy ở trên, Quốc hội Mỹ cắt giảm viện trợ quân sự khiến cho quân đội miền Nam lâm vào tình trạng ngặt nghèo kiệt quệ, một ông tướng Pháp nói đó là bức tử Việt nam. Chính người dân Mỹ, nhóm biểu tình phản chiến đã lên kế hoạch "vắt chanh bỏ vỏ", mặc dù không nói ra nhưng họ cho rằng đã "huề" với Trung Hoa đỏ rồi thì không còn lý do gì để giữ miền Nam. Người dân đã vận động với Quốc hội để bức tử miền Nam như trên, Quốc Hội phải theo ý dân vì sống nhờ vào lá phiếu của họ. Công bằng mà nói hành pháp Hoa Kỳ đã cố gắng cứu giúp sự sống còn của miền Nam nhưng họ đã bị Quốc hội trói tay đành phải chịu. Sau ngày 30/4/1975, một nhóm đông đảo sinh viên thanh niên phản chiến hớn hở tham dự buổi mít tinh để mừng chiến tranh chấm dứt "The war is over".
Cho tới nay ít ra đã có người biết xấu hổ vì cái trò vắt chanh bỏ vỏ.

Bộ trưởng tư pháp Mỹ R Kennedy nói Việt nam phạm vào rất nhiều sai lầm, trước mắt như chúng ta đã thấy ở trên, trong khi đạn dược thiếu hụt, tướng Thiệu lại sai lầm rút bỏ quân khu 1 và 2 đưa miền Trung vào chỗ thảm bại mất hết vũ khí đạn dược, chết bao nhiêu dân, quân, binh lính khiến cho tinh thần suy sụp ghê gớm đưa miền Nam xuống vực thẳm. Những người chạy lọan từ miền Trung vào Nam, một số sĩ quan viết lại hồi ký, họ nói rằng cấp lớn nhiều người thiếu tư cách, bỏ lính tráng lại chạy tháo thân.

Thật vậy, nhiều ông tỉnh trưởng vét tiền trong ngân khố chạy trước, điều đáng tiếc là trong khi tinh thần binh sĩ còn cao, cấp lớn hèn nhát ích kỷ đã giúp cho sự sụp đổ của miền Nam nhanh hơn dự kiến. Trong khi ba quân tướng sĩ còn đang chiến đấu anh dũng bảo vệ vùng 3, nhiều ông to bà lớn đã thu xếp quí kim chuồn ra ngoại quốc. Gần đây có một ông trước là quân nhân công chức mới định cư tại hải ngoại, ông ta nói "nhiều anh trước làm quan lớn bỏ chạy bây giờ còn lên tiếng huênh hoang, mấy anh hèn nên im lặng là hơn."

Ông Nguyễn Đức Phương cho rằng người dân thờ ơ không chịu giúp đỡ chính phủ, nhưng theo chúng tôi nghĩ vì chế độ Thiệu đã thối nát quá xá rồi, hẳn là ai cũng đều biết cả, nên người dân quá chán ngán không còn thiết tha gì đến, họ cũng chỉ lo chạy tháo thân mặc cho nó sụp đổ tan tành. Những người có cảm tình với ông Thiệu cho rằng nguyên do tấn thảm kịch tại tình thế ngặt nghèo như thiếu đạn dược, xăng dầu, nhưng một ông Tổng thống phải là người thao lược, mưu trí cao để có thể chuyển bại thành thắng, còn nếu không thì ai cũng có thể làm Tổng thống được.

Sau 30/4/1975 người ta ước lượng Cộng quân đã chiếm được 1,100 phi cơ các loại, hằng trăm tầu các loại của Hải quân, 300 xe tăng M-41, 250 xe M-48; 1,000 đại bác 105 mm, 300 đại bác 155mm và 175mm; 800,000 súng cá nhân M-16, 15,000 đại liên; 500 trực thăng; 130,000 tấn đạn dược. . tất cả trị giá hằng tỉ Mỹ kim.

Hậu quả của tấn thảm kịch như ta thấy đã khiến cho hằng trăm nghìn người chết oan, hằng trăm nghìn người bị tù đầy giam giữ lâu dài, vài năm sau có tới mấy trăm nghìn người bỏ xác giữa biển khơi trên đường tị nạn. Cuộc chiến tranh 1975 đã chấm dứt từ mấy chục năm qua nhưng nó vẫn in sâu trong tâm khảm người Việt nhất là đám tị nạn lưu vong. Bây giờ không phải lúc chúng ta ngồi oán trách đồng minh bỏ rơi miền Nam, ta phải tự trách mình đã không bảo được nhau, đã biến thành những quân tốt cho người ta xử dụng, đã để cho họ mua bán với nhau trên xương máu của hằng triệu binh lính cả hai miền Nam Bắc, đã biến đất nước thành bãi chiến trường và nơi thử vũ khí của khoa học quốc phòng.

Cuối cùng, những kẻ đã gây lên cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn sẽ đời đời đắc tội trước non sông và lịch sử.

Trọng Đạt

TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Cao Thế Dung : Việt Nam Ba Mươi Năm Máu Lửa (1945-1963).
Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975.
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975.
Đoàn Thêm: 1965, Việc Từng Ngày.
Đoàn Thêm: 1966, Việc Từng Ngày.
Đoàn Thêm: 1969, Việc Từng Ngày.
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Nam Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới.
Văn Tiến Dũng : Đại Thắng Mùa Xuân.
Đinh Văn Thiên: Một Số Trận Đánh Trước Cửa Ngõ Sài Gòn.
Dương Đình Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Mùa Xuân 1975.
The World Almanac Of The Viet Nam War, John S.Bowman, General Editor.
Stanley Karnov: Viet Nam, a History.

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23127
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 18/Dec/2024 lúc 10:31am

Thương Nhớ Quá! Việt Nam Cộng Hòa

Posted vào Tháng Mười Hai 28, 2018 bởi quanvan.net in Topa, z*Thơ văn // 7 Comments

Sáng sớm hôm nay, buổi sáng cuối tháng mười hai năm 1974 bỗng nhiên trời có mưa và rất lớn. Tôi bị thức giấc vì tiếng mưa rơi quá mạnh trên mái tôn. Tôi nằm im nghe mưa rơi và mắt thì cứ đăm đăm nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi ngạc nhiên khi tháng này vẫn còn mưa. Tôi nhìn mưa và nhìn bầu trời đầy mây đen mà lòng thì không vui. Tôi đang nghĩ về mấy đứa bạn trong đơn vị nay đã ra người thiên cổ. Không biết giờ này đơn vị đang hành quân hay nằm hậu cứ. Nếu đang hành quân mà có mưa thì thường có gió mạnh, một điều quả là cực khổ cho người lính khi phải lội sình lội rừng tìm địch. Lính đi hành quân sợ mưa vì mọi thứ đều trở nên nặng nề. Nhứt là nước vô trong giày rất khó chịu khi di chuyển. Chân ngâm nước lâu ngày bị nước ăn chân vừa đau vừa có mùi rất hôi. Việt Cộng thì cứ như là lũ chuột cống vậy. Chúng chỉ được trang bị đôi dép râu nên chúng nhanh chân chui rúc trong các hang động làm cho người lính không biết đâu mà tìm.

Hơn một tiếng đồng hồ trôi qua rồi mà tôi vẫn nằm im. Tờ lịch trên tường làm cho tôi chợt nhớ hôm nay là đúng năm tháng ngày tôi bị thương. Và, tôi cũng được tròn hai mươi bốn tuổi. Hai mươi bốn năm trước tôi được sinh ra và lớn lên nơi miền cao nguyên gió núi mưa rừng. Khi tôi đang vui học cùng thầy cô và bạn bè thì chiến tranh ý thức hệ không những vẫn đang xảy ra ở những khu dân cư thưa thớt hoặc trong những khu rừng rậm, mà đã xâm nhập vô các thành phố đông dân cư và gây ra những thảm cảnh thật thê lương.

Khi tôi vừa đậu tú tài, tôi đã từ giã học đường và thầy cô cùng bè bạn để lên đường làm bổn phận của người thanh niên trong thời chiến. Sau chín tháng quân trường, tôi được đi học tiếp khóa Rừng Núi Sình Lầy tại Dục Mỹ. Bốn mươi hai ngày với khóa học nổi tiếng khắc nghiệt của binh chủng Biệt Động Quân rồi cũng qua. Và, tôi được chính thức cầm súng chiến đấu. Một ngày kia trong buổi chiều tàn, tôi đến căn hầm của đơn vị trưởng để họp. Ngoài ông đơn vị trưởng còn có thêm ba vị sĩ quan và tôi. Đang họp thì căn hầm bỗng rung lên, đất và đá bay ào ào rồi căn hầm bị sụp đổ hết ba phần tư. Mùi khói đạn nồng nặc làm cho tôi bị ngạt thở rồi bất tỉnh. Đến tờ mờ sáng hôm sau khi tiếng đạn pháo bớt dần, tôi được mấy người lính đem ra khỏi căn hầm thì mới biết mình còn sống nhưng đã bị thương nặng. Năm người có mặt trong căn hầm thì chỉ có hai người là, Thiếu úy Lương mới rời trường Võ Bị Quốc Gia được hơn ba tháng và tôi… được sống sót. Cũng từ hôm đó tôi đã trở thành thương phế binh. Thiếu úy Lương may mắn chỉ bị vài vết xước trên cánh tay nên anh đã thay ông Đại đội trưởng chỉ huy phản công. Lương nhìn tôi nói: “Ông và tôi may mắn, nhưng ông phải từ giã vũ khí. Ông nhớ luôn cầu nguyện cho chúng tôi nhé”. Tôi đau quá nên không nói được ra lời. Tôi nắm tay Thiếu uý Lương thật chặt như xác nhận là tôi sẽ làm theo như Lương yêu cầu. Và, hằng ngày tôi vẫn cầu nguyện cho quê hương, cho đơn vị; luôn giữ chặt tay súng để đem bình an và hạnh phúc đến cho đồng bào.

Tôi ngồi lên và lần bước đến bên cửa sổ nhìn ra ngoài trời. Bên ngoài, mưa vẫn lớn nên đường sá vắng tanh. Mấy người đàn bà bán hàng rong quen thuộc đang đứng trú mưa dưới mấy mái hiên nhà bên kia đường và đang nói chuyện, nhưng thỉnh thoảng mấy bà ngước mặt nhìn lên trời cao như muốn hỏi ông trời, sao lại mưa chi vào tháng này? Vì trời mưa nên sáng hôm nay tôi không nghe tiếng rao hàng của mấy bà; vốn thường vang vọng vô đến tận trong phòng ngủ tôi.

Hiện tại thì bầu trời đã bớt u ám. Tất cả báo hiệu một buổi sáng sẽ đẹp lại và ấm áp. Tôi ngồi ăn sáng trong phòng ăn. Bà chủ nhà mà tôi mướn phòng đã chuẩn bị bữa ăn sáng cho tôi rất chu đáo rồi đi chợ hoặc đi công việc. Cả căn nhà dường như cũng đang quạnh quẽ vì chưa có ánh sáng mặt trời. Để tiết kiệm điện cho bà chủ nhà, tôi chỉ mở một ngọn đèn điện 40 wat. Ăn xong, tôi gom những mảnh vụn bánh mì trên mặt bàn lại. Một tiếng động mạnh phía nhà trước làm cho tôi giật mình nhìn lên đó nhưng không thấy bà chủ nhà bước vô. Tôi cặp cái nạng vô nách và lần bước lên nhà trước. Tôi nhìn thấy một tờ nguyệt san Phụ Nữ Diễn Đàn nằm dưới sàn nhà mà có lẽ người bỏ báo tháng cho cô con gái nhỏ của bà chủ nhà vừa đem đến. Tôi ngồi ngã người ra ghế và suy nghĩ tiếp.

Saigon hôm nay không còn bình yên như thuở nào nữa. Không còn trẻ em vui chơi chạy nhảy trên từng con đường vì những cuộc biểu tình của đám sinh viên thân cộng và thành phần đối lập, cùng những trò khủng bố đê tiện của Việt Cộng xảy ra gần như hằng ngày; vậy mà người dân lao động vẫn cứ tươi cười như chẳng có gì xảy ra cả. Họ phải sống và phải lo cho gia đình thì họ phải làm việc như thường ngày chứ không thể ngừng lại được. Gia đình tôi khuyên tôi nên ở lại Saigon, vì vậy tôi phải mướn phòng ở đây cho tiện chờ đến ngày đi tái khám và rồi chờ ngày ra Hội Đồng Y Khoa.

Tôi đứng lên đi thay bộ quần áo tươm tất rồi kẹp đôi nạng vô nách và tập tễnh bước ra cửa trước. Tôi muốn đi quán uống cà phê vì trời đã quang đãng và phong cảnh xung quanh như vừa được rửa sạch. Tôi nhìn lên trời cao. Bây giờ những làn mây nhỏ làm nổi lên màu xanh trên không. Tia sáng ấm của mặt trời thấm qua da thịt làm cho cái chân tôi bớt đau nhức.Tôi khập khễnh bước nhưng trong đầu lại cứ nghĩ về những người bạn trong đơn vị.

Chân của tôi vẫn còn đau nhức mỗi khi trời lạnh. Bỗng, trong đầu tôi hiện ra hình ảnh cô y tá ở bệnh xá dã chiến của tiểu khu khi tôi được đưa từ chiến trường về đó sau ba ngày bị thương. Đơn vị tôi đụng trận ở vùng quá hiểm trở nên việc tải thương có bị chậm. Cô y tá tên Ngọc Hoa đã cùng vị bác sĩ có mặt khi chiếc trực thăng tải thương đáp xuống, và, cô đã săn sóc cho cái chân của tôi. Hôm đó bệnh xá có quá nhiều thương binh và cái chân của tôi thì có mùi hôi thật khó chịu. Tôi cảm thấy khó chịu vì cái mùi hôi đó, thế nhưng cô Ngọc Hoa thì làm như không thấy khó chịu gì cả. Khi tôi tỉnh dậy sau khi bị chụp thuốc mê, tôi mới biết mình đã bị cưa mất bàn chân. Người mà tôi gặp đầu tiên cũng chính là cô y tá Ngọc Hoa. Cô cười thật tươi và nói: “Em tưởng anh bị cưa lên tới đầu gối rồi đó chứ. Cũng may. Bây giờ thì chân của anh không còn bị hôi nữa”. Trong lúc tôi đau buồn vì không ngờ mình trở thành thương phế binh quá sớm, thì, cô Ngọc Hoa đem lại cho tôi ly cà phê sữa nóng. “Mời anh uống chút cà phê cho ấm” – Tôi vui sướng đón nhận ly cà phê.“Cám ơn cô nhiều lắm”. Uống cạn phân nửa ly cà phê tôi đã thấy tỉnh tảo lại rất nhiều. Tôi nhìn thấy bảng tên trên ngực cô, tôi khen thật lòng: “Cô Ngọc Hoa đẹp mà lại cũng rất dễ thương nữa. Bị đau mà gặp cô Ngọc Hoa thì dù có đau đến đâu cơn đau cũng phải tan biến ngay”.  Cô Ngọc Hoa cười thật tươi. “Dạ, cám ơn lời khen của anh. Thấy mấy anh bị thương đau đớn mà em thấy tội nghiệp quá”. – “Phụ nữ là rường cột của xã hội. Chính những lúc như thế này mới thấy người phụ nữ  quan trọng như thế nào”. Cô Ngọc Hoa mỉm cười và mặt đổi qua màu đỏ. Cô quay lưng đi ra cửa vì có cô y tá bạn đến tìm cô.

Từ lúc đó cho đến hai ngày sau khi tôi được chuyển đến Tổng Y Viện Cộng Hòa, cô Ngọc Hoa luôn mời tôi ăn và uống những thứ mà phải mua ở câu lạc bộ mới có. Niềm vui của tôi vừa có thì lại bị sút giảm vì phải chuyển đến nơi khác điều trị. Hôm tôi chuyển đến nơi mới, cô Ngọc Hoa không có mặt nên tôi có viết để lại vài chữ cám ơn cô và rất mong sẽ được gặp lại cô. Một tháng sau tôi được tin bệnh xá dã chiến có cô y tá tên Ngọc Hoa bị Việt Cộng pháo kích dữ dội nên người chết rất nhiều. Tôi cầu nguyện và hy vọng cô Ngọc Hoa không nằm trong những người xấu số.


Uống cạn ly cà phê, tôi định cầm bình trà lên thì khi nhìn ra cửa tôi thấy một cô gái trẻ đang bước vô quán. Nhìn cô gái, tôi giật mình như không tin vào đôi con mắt của mình. Rõ ràng cô gái là cô Ngọc Hoa y tá đây mà. Cô Ngọc Hoa không nhìn thấy tôi nên tôi nhìn theo cô cho đến khi cô đi đến ngồi ở cái bàn phía trong cùng và kêu nước uống. Tôi chống nạng đi đến bàn của cô. Cô Ngọc Hoa vừa nhìn thấy tôi đến gần liền kêu lên vẻ vui mừng, nhưng, trên khuôn mặt cô lại lộ vẻ như hốt hoảng: “Anh Tâm. Em… em… rất mừng gặp lại anh, anh khỏe không?”  Tôi vui quá nên không để ý đến sự hoảng hốt của cô: “Cám ơn cô Ngọc Hoa tôi rất khỏe. Cô Ngọc Hoa … mọi chuyện bình an chứ?”. Cô Ngọc Hoa chưa kịp trả lời thì tôi hỏi tiếp cô về vụ bệnh xá bị Việt Cộng pháo kích hôm nào. Cô Ngọc Hoa nói: “Tiểu khu… không xa những khu rừng nên thỉnh thoảng vẫn bị lãnh pháo của Việt Cộng, nhưng không bị nặng như lần vừa rồi. Thật may là hôm đó em đi công tác nên thoát nạn. À, cái chân của anh… ra sao rồi anh Tâm?”. – “Thỉnh thoảng vẫn bị đau một chút nếu trời lạnh, nhưng bây giờ thì không”. Cô Ngọc Hoa và tôi ngồi bên nhau thật lâu và nói đủ thứ chuyện cho đến khi cô Ngọc Hoa từ giã tôi nói là phải đi vì có công việc.


Mảnh đất bề rộng mười tám thước và bề dài hai mươi ba thước mà tôi phải nhận nếu không muốn đi đến miền Trung. Dù vùng này còn hoang sơ nhưng cũng còn là miền Nam. Một cái hố lớn và đầy nước nằm trong mảnh đất mà tôi nghĩ đó là hố bom do máy bay B52 tạo ra khi đang còn chiến tranh.  Vùng này ngày trước là căn cứ của Việt Cộng. Trên mảnh đất của tôi có dựng sẵn một căn nhà lợp lá bốn thước bề ngang và sáu thước bề dài. Bốn vách được che chắn bằng ván cây mỏng nhưng không liền nhau. Mảnh đất vỏn vẹn chỉ có vậy.

Sáng sớm hôm nay, buổi sáng giữa tháng mười hai năm 1977, và, tôi mệt quá nên ngồi bệt xuống nền đất đưa mắt nhìn mông lung về phía trước. Mặt trời chưa lên nên tôi cũng không thể làm gì được. Tôi đang suy tính cách nào để lấp lại hố nước trong khi sức khỏe của mình lại quá sa sút. Nhìn mảnh đất lòng tôi không khỏi bùi ngùi và đau đớn bởi vẻ hoang sơ của nó. Tôi một thân một mình lại bị thương tật nữa thì làm sao có sức để tạo được cuộc sống yên lành nơi vùng đất chỉ có rừng với rừng mà thôi. Chung quanh vắng ngắt vì những căn nhà trong khu này không một bóng người. Những người từng đến đây đều trốn về lại Saigon hay nơi nào đó nên quang cảnh u tịch và hơi lạnh lẽo làm tôi cảm thấy rờn rợn. Tự nhiên từ miệng tôi thốt ra những lời cầu xin: “Hỡi các linh hồn đang quanh quẩn nơi đây. Tôi là người cùng khổ trong cái xã hội đói khổ và thù hận này, vì vậy tôi xin các linh hồn cho tôi được yên lành. Tôi hứa khi nào tôi có chút đỉnh tiền tôi sẽ mua trái cây cúng các linh hồn”.

Tôi chợt nhớ đến thằng Hùng, Trung đội trưởng và thằng Hải, Trung đội phó người nhái;  là hai thằng bạn thân cùng cầm viết trong cùng lớp học khi còn nhỏ mà sau này lại cùng cầm súng… bây giờ hai đứa trôi dạt nơi nào. “Hai đứa mày và gia đình có bị đầy đọa ở chốn rừng thiêng nước độc nào không? Có khi nào ba đứa mình sẽ được gặp lại nhau nữa không?” Tôi buồn quá nên cũng không biết phải làm gì cho hết buổi sáng hôm nay. Tôi thèm ly cà phê quá nhưng phải nhịn vì… vô phương. Cũng may là tôi chưa bao giờ hút thuốc, chứ không thì lại thêm một cái khổ nữa.

Tôi giật mình nhìn ra con đường đất nhỏ. Tôi vừa bàng hoàng vừa lo lắng khi nhìn thấy một người phụ nữ trong bộ đồ “cách mạng” với cây súng ngắn đeo bên hông, đang đi vô nhà tôi. Lúng túng nên tôi lùi lại vài bước như muốn tránh mặt người phụ nữ. Không thể né tránh được nên tôi đành đứng im nhưng trái tim thì đập dồn dập như muốn nổ tung trong lồng ngực. Tôi cảm nhận ngay sự lo sợ quá vô lý của tôi, dù sao thì “cách mạng” cũng đã biết hết về tôi rồi vì tôi đã phải khai rõ lý lịch khi bị tập trung. Tôi bình tỉnh nhìn ngay mắt người nữ cán binh mà tôi từng quen biết.

Người nữ cán binh “cách mạng” chính là cô y tá Ngọc Hoa; đang đứng trước mặt tôi với gương mặt và dáng điệu có vẻ ngượng ngùng. Cô Ngọc Hoa mặc dù đang khoác trên người bộ đồ của uy lực, của khủng bố và của chết chóc, nhưng, gương mặt cô nhìn tôi không một chút đe dọa hay hận thù. Cô nhìn xung quanh và khi biết chắc không có người nào khác ngoài cô và tôi, cô lên tiếng: “Anh Tâm, anh hãy cầm ít tiền này và anh mau mau đi khỏi nơi này, hoặc, anh trở về lại Saigon ngay đi. Anh không thể sống nổi ở đây đâu. Còn chuyện của em thì dài dòng lắm nên không thể kể ra ngay bây giờ được”. Tôi không một chút e dè hay tự ái, tôi cầm ngay số tiền mà cô Ngọc Hoa đưa. Tôi chưa kịp nói lời cám ơn thì cô Ngọc Hoa đã quay lưng bước đi thật nhanh như bị có người đuổi theo phía sau. Tôi chợt nhớ hôm cô Ngọc Hoa và tôi gặp lại nhau trong quán cà phê gần nhà tôi trọ. Hôm đó cô Ngọc Hoa lộ vẻ hoảng hốt khi bất ngờ thấy tôi xuất hiện. Có lẽ cô sắp phải thi hành công tác khủng bố nên mới cỏ thái độ như vậy chăng. Giờ đây tôi đã hiểu được là, tại sao bệnh xá tiểu khu luôn bị pháo kích nhưng cô Ngọc Hoa thì luôn được bình an.

Tôi tập tễnh bước ra khỏi vùng tử địa. Tôi sẽ không bao giờ quay lại nơi chốn này nữa, dù có bị bắt lại tôi vẫn sẽ trốn tiếp.


Tôi không ngủ được nên dậy sớm. Chỉ vài tuần nữa là năm cũ sẽ qua đi và năm mới sẽ đến. Tết dương lịch – Tết của Tây –  làm tôi nhớ quê hương miền Nam Việt Nam mà tôi đã rời xa cũng gần mười hai năm. Cả đêm tôi không thể nào nhắm mắt được đến nửa tiếng vì câu chuyện của người bạn thân lâu ngày mới gặp lại, nên lòng tôi cứ thổn thức nhớ về quê hương và những kỷ niệm.

Tôi vẫn nằm co người trong cái mền để nhớ lại buổi gặp gỡ hy hữu và cũng là lần đầu vào buổi chiều hôm qua; với một người bạn thân tên Hải. Hải từng là Trung đội phó người nhái và là một trong hai người bạn rất thân từ lúc còn nhỏ. Hải sau khi bị đi tù cải tạo về rồi trở thành… người bạn đời với người phụ nữ mà “nàng”  và tôi từng gặp lại nhau trong nhiều hoàn cảnh vừa mừng vừa tủi lại vừa lo. Hải kể cho tôi nghe một câu chuyện mà tôi sẽ không bao giờ quên:

“Ngọc Hoa – Hứa Thị Ngọc Hoa – là Cửa hàng trưởng chuyên phân phối thực phẩm theo tem phiếu cho đồng bào. Ngọc Hoa không ngờ sự đóng góp của mình cho cái gọi là “cách mạng”,  đã đem đến cái kết cục vô cùng đau thương và man rợ cho Việt Nam Cộng Hòa. Gia đình phân ly, người người bị khủng bố và bị đầy đọa là chuyện thường xuyên xảy ra sau cái ngày gọi là “giải phóng”. Thế rồi, Ngọc Hoa đã hợp tác với nhóm tổ chức các chuyến ghe vượt biển mà tôi là thành viên trong nhóm. Cửa hàng trưởng Ngọc Hoa đã cung cấp dầu nhớt, thức ăn, nước uống, an ninh bãi bến, và, vũ khí… cho năm chuyến đi thành công. Nhưng, đến chuyến thứ sáu thì Ngọc Hoa nói phải đi vì, “em linh cảm có sự phản bội của một tên công an bất mãn vì cho là mình được chia phần quá ít”. Chuyến đi của Ngọc Hoa được tổ chức rất chu đáo. Nhưng, khi chiếc ghe ra gần đến cửa biển thì bị hai chiếc tàu của công an ập đến và, Ngọc Hoa đã khẩn nài tôi thoát thân một mình. Tôi chỉ kịp nắm lấy bàn tay của Ngọc Hoa và bóp nhẹ thay cho lời chào rồi rời khỏi chiếc ghe. Tôi lặn thật sâu và đã thoát khỏi đám công an đang rọi đèn sáng trưng quanh chiếc ghe.

Ngọc Hoa đứng im lặng ở chỗ có hai chữ bị cáo chờ nghe tòa tuyên án. Thỉnh thoảng Ngọc Hoa ngửa mặt nhìn lên trần nhà rồi quay đầu ra phía sau nhìn tôi với cặp mắt thật buồn. Ngọc Hoa đang nghĩ gì thì tôi không thể biết được, nhưng, tôi thì đang nghĩ, nếu như chuyến đi không bị phản bội thì giờ đây có lẽ Ngọc Hoa và tôi đang ở Hồng Kông chứ làm gì có buổi xử án nàng như thế này. Tôi lo sợ Ngọc Hoa sẽ bị xử tù nhiều năm thì làm sao nàng có thể chịu đựng được những sự đầy ải và trả thù man rợ của bọn quản giáo. Tôi lo sợ như vậy là vì tôi từng được chứng kiến những “ông tòa” xử những người sĩ quan của mình đã trốn trại nhưng không thành công; thật ra đó chỉ là những tên ma cô. Còn những “bà tòa” thì có khác gì những cô gái điếm đâu. Chúng xử theo luật giang hồ, luật rừng rú, nên bọn chúng không cần phải rành luật pháp. Mục đích chính là bọn chúng phải xử theo ý của đảng, mà ai cũng biết đó chỉ là đảng cướp”.

Hải ngưng nói. Hải nuốt nước miếng thật mạnh vô lồng ngực như anh đang nuốt nỗi uất nghẹn vì sự bất lực của mình. Hải kể tiếp với hai con mắt đỏ như đổ lửa và hai giòng lệ chảy ra từ khóe mắt: “Tên ma cô xử án Ngọc Hoa chỉ đọc qua loa bản luận tội không quá mười lăm phút, và, hắn tuyên bản án tử hình cho Ngọc Hoa. Và, như để cảnh cáo những người khác nên chỉ một tháng sau Ngọc Hoa bị đem ra pháp trường mà không cho nàng kháng cáo. Tôi có mặt trong đám người tham dự nhưng chỉ biết đứng nhìn người mình yêu bị những viên đạn ghim vô lồng ngực. Trái tim tôi quặn lên đau đớn như nát tan ra từng mảnh… anh Tâm à”.

Nỗi đau mất người bạn đời mà Hải cho là nàng quá thơ ngây nên bị dụ dỗ làm nội gián chỉ vì nàng tin “tổ chức là những người miền Nam muốn thay đổi một xã hội khác tốt đẹp hơn, chứ nàng không bao giờ nghĩ là do người miền Bắc lãnh đạo. Đây cũng là nỗi đau của nhiều triệu triệu đồng bào miền Nam vì ngây thơ nên tin vô những lời xảo trá nhưng đầy mật ngọt và đã làm mất đi những truyền thống tốt đẹp và cao cả của dân tộc”.

Cả đêm qua tôi cứ như thấy hiển hiện trước mặt cô y tá tên Ngọc Hoa – Hứa Thị Ngọc Hoa – hiền hậu và nhân ái ngày nào; đã đem ly cà phê sữa đến mời tôi… Và cười thật tươi./.

Topa  (Hòa Lan)

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23127
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 18/Dec/2024 lúc 10:33am

Năm xưa Chồng Tôi là Người Lính

TRẢ%20GIÁ%20ĐẮT%20VÌ%20BỎ%20RƠI%20VNCH%20|%20|%20Adelaide%20Tuần%20Báo
Năm xưa chồng tôi là người lính,
Nơi vùng lửa đạn, Mồ hôi anh đã đổ,
Từ Hố Bò Bình Dương, Bình Long,
Đến Thừa Thiên, Quảng Trị.
Rồi một ngày anh gục ngã,
Tại chiến trường Tây Ninh.
Tôi góa phụ xuân xanh,
Con thơ chưa tròn tuổi,
Tiễn đưa anh lần cuối,
Về nghĩa trang quân đội Biên Hòa
<!>
Đã bao nhiêu năm qua,....
Bây giờ,Tôi ở nơi xa, Đã có cuộc đời khác.
Nhưng đôi lúc nghĩ đến anh tôi vẫn khóc,
Thương tiếc xa xăm.
Tôi về tìm mộ bia anh
giữa chập chùng cỏ dại cây hoang,
Để thắp một nén nhang,
Nhớ người lính của một thời chinh chiến,
Nhớ người chồng của một thuở gối chăn.
Năm xưa chồng tôi là người lính,
Một lần hành quân, Anh đã bị thương,
Máu anh loang ướt vạt cỏ ven đường.
Ôi, mảnh đất không tên,
Đã giữ chút máu xương người lính trẻ.
Đã bao nhiêu năm qua,
Bây giờ,Anh thương binh tàn tạ.
Sống trên quê hương đôi khi vẫn thấy mình xa lạ,
Bạn bè anh, Kẻ mất người còn,
Kẻ quên người nhớ,
Kẻ vô tình giữa dòng đời vất vả.
Năm xưa chồng tôi là người lính,
Nồng nhiệt tuổi đôi mươi,
Lần đầu tiên ra chiến trường,
Anh mất tích không tìm thấy xác.
Mẹ anh khóc cạn khô dòng nước mắt,
Lòng tôi nát tan.
Đã bao nhiêu năm,
Vẫn không có tin anh,
Anh ơi, dù quê hương mình đã hết chiến tranh,
Tàn cơn khói lửa,
Nhưng không phải là một quê hương như anh ước mơ.
Anh đã biết chưa?
Hỡi người tử sĩ không tên không một nấm mồ.!!!
Năm xưa chồng tôi là người lính,
Sống sót trở về sau cuộc đao binh,
Sau những tháng năm tù tội,
Bây giờ anh không còn trẻ nữa.
Lìa xa quê hương, Sống ở xứ người.
Những năm thánh chinh chiến đã đi qua,
Nhưng vết thương đời còn ở lại,
Trong lòng anh,Trong lòng những người lính năm xưa.

Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Dương


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 18/Dec/2024 lúc 10:36am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23127
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/Dec/2024 lúc 1:40pm

QUÁN BIÊN THÙY

 Vẻ%20đẹp%20núi%20Cô%20Tiên%20–%20Lào%20Cai-Du%20lịch%20Nam%20Phương%20Caravan%20&%20Teambuilding


Đêm Giao Thừa. Trên ngọn đồi 101, mà ai đã đặt cho cái tên là Quán Biên Thùy, cuộc vui vẫn đang tiếp tục. Đám người ngồi vây quanh bếp lửa. Ánh lửa đủ soi những gương mặt chập chờn và đỏ gay vì hơi rượu. Những người lính già thì yên lặng. Những người lính trẻ thì phấn kích hơn bao giờ. Lần này, họ đòi cho được Mỵ hát. Họ la: “Cô Mỵ phải hát cho chúng tôi nghe một bài. Cô Mỵ phải trổ tài.” Một người cầm cốc rượu đứng dậy, nói với người đại đội trưởng: “Đại úy phải nói làm sao để cô Mỵ hát cho chúng tôi nghe, nếu không, Đại úy phải bị phạt uống đền!” Sau đó, anh ta quay sang đám bạn, hỏi: “Phải không anh em? ” Cả bọn đồng đáp: “Phải!”. Rồi tiếng la gào cổ võ cực độ: “Cô Mỵ, hát đi, hát cho chúng tôi nghe đi cô Mỵ!” “Cho tràng pháo tay cổ động cô Mỵ đi anh em!” “Đại úy, 40 cốc đang chờ Đại úy!” Người đại đội trưởng chỉ biết nhìn cô em gái như cầu cứu “Em cứu anh với, Mỵ”.

Mỵ ngần ngại gật đầu. Người đại đội trưởng thở phào như trút cả một gánh nặng. Anh cảnh cáo:
– Chúng ta cùng vui Giao Thừa. Nhưng tôi xin anh em đừng uống nhiều. Anh em hẳn biết đơn vị chúng ta hiện ứng chiến cho sư đoàn. Sau đây tôi xin nhường lại cho cô em tôi…
Đám lính vỗ tay vang dội. Có người la lên:
– Cô Mỵ thương lính rồi, cô Mỵ hát bài lính chiến xa nhà đi cô Mỵ!

Riêng Mỵ, nàng đứng yên. Chưa lúc nào nàng cảm động như lúc này. Nàng đã có mặt tại một nơi mà nàng chỉ được nghe qua báo chí, hay những lời kể lại. Bởi vì Sài Gòn của nàng bình an quá! Bởi vì đời sống của nàng chỉ biết cuối tuần, chiếc áo dài tha thướt trên vỉa hè Lê Lợi, và ly nước mía ở đường Gia Long. Bởi vì mắt của nàng chỉ thấy bầu trời của Sài Gòn trên những phố lầu bình an, và rừng người yên ổn dạo chơi, không bao giờ bận tâm những gì ở xa, như ngọn đồi 101 này.

Rõ ràng, Sài Gòn của nàng chưa thật sự gần gũi cùng chiến tranh. Đêm nàng có thể trở về khuya và ngày vẫn yên tâm trên trang sách vở. Chiến tranh hình như chỉ xảy ra ở một cõi nào đó. Nàng chẳng bao giờ bận tâm thắc mắc. Nàng chẳng bao giờ lo âu về những tin tức từ chiến trường. Dù miền Quảng Trị nóng bỏng với đại lộ kinh hoàng, dù A Sao, A Lưới đã thấy bóng những chiến xa T54. Dù An Lộc, Bình Long, quân ta vẫn anh dũng trước lớp lớp hàng hàng kẻ thù. Dù bao binh đoàn Bắc quân đang tiếp tục theo đường mòn ************ để tiến về miền Nam. Nàng vẫn chưa biết được sự thật, và cũng vì vậy nàng mới đánh điện tín ra ông anh. Nàng muốn xem cái Quán Biên Thùy mà anh nàng vẫn hằng nhắc ra thể nào. Tờ điện tín đã làm cho anh nàng phải điên đầu: “Em sẽ đón Giao Thừa ở Quán Biên Thùy. Stop. Đón em ở phi trường. Stop. Chuyến bay… Stop.” Anh nàng đã hiểu rõ được cái bướng bỉnh của cô em gái. Lúc nào nó muốn là nó làm. Nó không đợi một câu trả lời… Nó đã thật sự đặt cho anh nó vào một chuyện đã rồi.

Và chuyện đã rồi là cô gái Sài gòn đã đứng ở cửa phi cơ nhìn về khu nhà khách. Nàng mang bộ đồ lính màu hoa rừng, đuôi tóc cột sợi dây thun, đôi kính đen che gần phần trên của gương mặt. Trông nàng vừa có vẻ bướng bỉnh, vừa có vẻ kiêu hãnh. Người đại đội trưởng bảo với người trung đội trưởng: “Con bé cứng đầu bướng bỉnh kia đã đến rồi đấy!” Rồi anh ta cười: “Mày chịu nó không, để tao giới thiệu giùm cho.” Trọng, tên người trung đội trưởng, có vẻ xấu hổ. Dù cõi lòng chàng chợt nổi lên một sự rung động vô cớ. Chàng liên tưởng đến một cánh chim, một hôm nào đậu lại bên khung cửa của đời chàng. Ít ra, có một cánh chim xinh đẹp như thế trong cõi cô liêu này của chàng cũng là một nguồn an ủi lắm rồi. Chàng biết chàng đã bắt gặp một cái gì thân mến nhất mà chàng không thể cắt nghĩa nổi.

Người con gái Sài Gòn đã làm rộn ràng cả nhà đợi. Nàng liến thoắng và nhí nhảnh khác hẳn với đa số cô gái đồng tuổi, thùy mị và đoan trang. Người anh của nàng giới thiệu người đi cùng: “Đây là anh Trọng, Thiếu úy Trọng độc thân.” Anh ta nheo mắt nhìn Trọng. Mỵ đưa tay bắt tay Trọng, rồi nói: “Anh Hai của em có nhắc anh nhiều lần. Hôm nay em mới được gặp.”
– Tôi cũng hân hạnh được đón tiếp một cô gái Sài Gòn.
Trọng trả lời. Đến đây, Mỵ giục anh nàng: “Mau cho em về xem Quán Biên Thùy của anh đi!”
– Không phải của tao đâu, của anh Trọng đấy.
Nàng quay sang Trọng:
– Cắt nghĩa cho em tại sao anh lại đặt là Quán Biên Thùy? Nếu là quán thì phải có cô hàng. Quán anh có cô hàng nào chưa? Cho em biết với.
– Chờ cô Mỵ đấy – Trọng nói.
– Nếu vậy thì quán của anh sẽ bị lỗ nặng. Không tin anh hỏi anh Hai của em đi, có phải em là một tay ăn hàng…
– Chẳng những mày ăn hàng mà mày còn ăn vụng. Tao bắt tại trận nhớ không Mỵ?
– Em ăn vụng ở chỗ nào? Tại em xót thương mấy thức ăn ngon lành không ai làm ơn cứu độ mà thôi. Hứ, anh khó thấy mồ!
– Tao khó ở chỗ nào?
– Thế thì tại sao giờ này anh không có một cô nào? Này nhá, phải có gì cho em rồi em giúp…
Cả bọn cười vui trước câu nói của Mỵ.

Ngày cuối năm, ngày của trở về. Trên gương mặt của mỗi người hôm nay, dù đợi giờ lên phi cơ hay dù bước xuống tàu, đều hiện lên ánh mắt hân hoan và cảm động. Có lẽ lát nữa họ sẽ có mặt tại ngôi nhà cũ, gặp lại những người thân yêu, và sống lại những giờ khắc bé nhỏ như ngày xưa. Họ sẽ sống lại cùng thế giới của lòng mẹ, lòng cha, của ông bà nội ngoại, mà họ đã xa cách vì cuộc sống và vì chiến tranh. Nhưng với một người con gái Sài Gòn này, sự có mặt của nàng còn mang một ý nghĩa khác: Người đại đội trưởng có thể tìm lại qua nàng hình ảnh gia đình cùng cõi thân yêu cũ. Và Trọng, chàng bắt gặp ở nàng một niềm hạnh phúc thầm kín. Ít ra, vẫn còn có con chim Họa Mi tìm đến Quán Gió, hót lên tiếng hót, cho những đời trai miệt mài trong dòng cuồng lưu hung bạo.

Dọc đường, Mỵ nói chuyện huyên thuyên. Nơi này quả thật xa lạ và mới mẻ đối với người con gái Sài Gòn. Nàng hỏi anh nàng về từng tên của dòng sông, chiếc cầu, ngôi làng. Nàng bắt anh nàng phải kể về ngôi nhà thờ đổ nát mà anh nàng đã viết trong thư: “Không biết ông lão kéo chuông còn ở đấy không hở anh? Không biết những con sáo đen có còn trở về mỗi buổi chiều không hở anh? Không biết những xuồng ghe còn đổ về trong ngày phiên chợ không hở anh? Này anh, những cô thôn nữ chắc đẹp lắm, phải không anh?…” Và bởi vì nàng thắc mắc nhiều quá nên Hải, anh nàng, phải dùng Trọng để trả lời thay. “Anh Trọng biết nhiều lắm. Mày nên hỏi anh Trọng thì hơn. Để tao còn thì giờ lái xe”.

Đến khu rừng thưa, chợt Hải rồ máy, Trọng lên đạn cây M16 và chĩa ra bên đường. Chiếc xe Jeep phóng ào trên con lộ vắng, hai bên đường nổi lên những lùm tre, lùm dừa bất trắc… Hành động của hai người đã làm Mỵ run sợ, mặt mày tái mét. Nàng bấu chặt lấy tay Trọng, và im thin thít. Bây giờ nàng mới có thể hiểu về một nơi mà người ta gọi là chiến tranh, một nơi mà nàng chỉ nghe mà không hề thấy. Nàng đã bắt đầu chạm vào cái khối không gian của hiểm nguy và từng thước đất của đe dọa thường trực. Nàng nghe cái ớn lạnh như chiếm lấy cả da thịt đến nỗi nàng phải run lên. Những lùm cây đó, những bờ mương, bờ rạch đó, chúng quá vô tri, vô giác, tại sao chúng lại tỏa ra nỗi đe dọa không rời. Thì ra, nàng nhớ anh Hải vẫn hay nhắc về những con ma rình rập mà ngày ngày anh phải đối diện, có phải là những con ma này không. Bên cạnh, Trọng vẫn hờm súng. Chiếc xe vẫn tiếp tục thả hết tốc độ về phía trước, trên con đường ngập những ổ gà và bụi mù. Và Mỵ đã nép sát vào người Trọng lúc nào nàng cũng không hay.

Khi qua khỏi khu rừng thưa, thấy lại xóm nhà, Trọng mới bỏ súng xuống. Mỵ nói không ra hơi: “Các anh làm em sợ muốn đứng cả tim.” Trọng cười: “Chúng tôi chỉ đề phòng. Cái chỗ rừng thưa này, bọn nó hay về bắn tỉa, hoặc đón xe đò.” Lúc này Mỵ mới nhận ra mình đang cầm tay Trọng và nép sát vào người chàng. Nàng bẽn lẽn đến đỏ mặt. Nàng cắn ngọn tóc đang bay xòa trước mặt, và ngồi im không nói.

Inline%20image
2.

… Bây giờ Mỵ đứng dậy. Dưới ánh lửa, nàng có thể nhìn những người lính già, thu mình trong chiếc áo ấm rộng thùng thình. Nàng không thể ngờ họ lại có mặt tại nơi này. Đáng lẽ ở cái tuổi của họ, đêm nay họ phải có mặt bên lũ cháu nội ngoại. Đáng lẽ giờ này họ sẽ mặc lại chiếc áo cổ truyền để thắp những thẻ nhang trước bàn thờ gia tiên. Nàng lại nhìn những người lính trẻ. Có gương mặt của ruộng đồng còn in trên nét phong sương. Có người râu và tóc mọc đầy. Có người mang kính cận thị. Và nàng cũng bắt gặp đôi mắt của Trọng nữa. Từ đôi mắt ấy, có cả một khối buồn, khối thao thức, bâng khuâng, dằn vặt của một người trí thức. Nàng nghe anh nói Trọng có cử nhân văn chương và hơn nữa, cái tên Quán Biên Thùy do chính chàng đặt ra. Chàng đã làm một bài thơ nói về một ngọn đồi nắng lửa, bốn bề là rừng tiếp rừng. Bài thơ được đại đội chuyền nhau đọc, và người đại đội trưởng quá thích, đã cho lính dựng lên tấm bảng đề Quán Biên Thùy ngay ở cổng trại. Phải, anh Trọng ơi, em phải cảm tạ anh vì anh đã làm cho em hiểu được những giọt mồ hôi của các anh, của định mệnh đang đè nặng lên đất nước chúng ta. Em ao ước được mang về những ngọn gió dịu dàng, tình tự đến cùng các anh.

Ánh lửa trước cơn gió đêm làm hình bóng những người ngồi trên sân trở nên chập chờn, có lúc sáng lên, có lúc mất đi vì gió đánh bạt. Và Mỵ ấp úng nói: “Thưa các anh, cám ơn các anh đã dành cho Mỵ nhiều cảm tình. Trong đời Mỵ, Mỵ chưa bao giờ có một đêm hạnh phúc như đêm nay. Mỵ mới hiểu rõ về nỗi hy sinh vô bờ của các anh. Giờ này, Sài Gòn của Mỵ đang làm lễ giao thừa. Nhưng giờ này, các anh đang ngồi đây bỏ quên những giờ phút thiêng liêng nhất…” Nàng nói đến đây, không còn cầm được nước mắt. Có phải nàng hiểu giá trị của một nỗi an bình là kết quả của bao nhiêu nỗi hy sinh quá thầm lặng từ những người đã có mặt, sống và chết vô danh?

Mọi người im lặng. Họ hiểu người con gái Sài Gòn đang quá chừng xúc động. Tiếng củi cháy kêu lách tách. Có bóng người lính cầm súng ở chòi canh. Những tiếng nổ rời rạc đâu đó. Đó là tiếng súng thay tiếng pháo. Và nàng bắt đầu cất lời hát. Nàng đã từng được tiếng là người hát hay nhất của trường. Trong các buổi văn nghệ ở nhà trường, mỗi lần tên nàng được giới thiệu là cả một rừng pháo tay vang động, và không bao giờ đám học trò bạn học lại không bắt nàng hát thêm bài thứ hai, thứ ba. Tuy nhiên, những lần hát như thế, nàng ít khi bắt gặp cái hồn của âm nhạc, cái cảm thông của người hát và người nghe. Nhưng bây giờ, tiếng hát là tiếng lòng đích thực. Tiếng hát cất lên như niềm cảm tạ, như nỗi tri ân, như lời vỗ về an ủi, như cả dòng lệ đẩy đưa cái nôi hoạn nạn gian khổ từ những con người, như u ẩn nỗi lòng của người cô phụ chờ chồng trở lại. Ai lướt đi ngoài sương gió, không dừng chân đến em bẽ bàng… Em ngồi đan áo… Ừ nhỉ, giao thừa sao lại buồn tàn thu. Nàng cũng không biết tại sao nàng lại cất lên nỗi niềm của người cô phụ? Phải rồi, mùa xuân vẫn còn có biết bao người cô phụ vẫn còn ngồi đan áo. Phải rồi, nhắm mắt lại, người con gái Sài Gòn còn thấy được những người ngoài sương gió, bỏ quên cuộc đời, bỏ quên tuổi trẻ, bỏ quên hiện tại, tương lai.

Bài hát đã hết, nhưng âm hưởng vẫn còn lắng lại vào tâm hồn người lính xa nhà, đến nỗi sau đó, là nỗi lặng yên đọng trên từng khối đêm như mặc niệm cùng quá khứ, như hoài niệm lấy dĩ vãng của mỗi người. Rồi trong một thảng thốt, tiếng vỗ tay như pháo nổ đồng loạt vang dậy, và tiếng la, tiếng hét tiếp tục. “Họa mi hát nữa đi, hát cho chúng tôi nghe thêm nữa đi!” Người con gái quay lại nhìn anh nàng. Hải vừa vỗ tay vừa nói với em: “Em hát thật xuất thần. Chưa bao giờ anh nghe em hát hay như thế!” Bỗng một tiếng nói cất lên từ trong một góc tối: “Tôi có đề nghị, chúng ta không thể để cho cô Mỵ hát một mình mãi. Đêm còn dài, chúng ta phải chứng tỏ ở Quán Biên Thùy có nhiều tài năng. Tôi biết có một người hát thật hay, chơi đàn cũng thật giỏi. Thiếu úy Trọng…”

Tiếng vỗ tay lại nổi dậy: “Phải đó. Mời Thiếu úy Trọng. Đừng để Quán Biên Thùy phải mất mặt bầu cua…” Mỵ nhìn Trọng, đôi mắt ngời sáng. Trọng lúng túng nhìn Mỵ rồi lắc đầu. Nhưng chàng không thể ngồi yên như vậy được. Những người ngồi xung quanh đang đòi chàng phải đại diện. Họ giục. Họ khuyến khích. Họ đưa mắt nhìn người trung đội trưởng chờ đợi. “Thôi Thiếu úy đừng xấu hổ nữa. Có em đây. Em đứng đằng sau Thiếu úy đây.” Một người lính trẻ cầm tay Trọng kéo dậy: “Thôi mà ông thầy, bộ ông thầy muốn làm mất mặt Quán Biên Thùy này sao?”

Cuối cùng Trọng phải đứng dậy. Hát cho ai. Hát cho người nào. Con chim từ đâu đã bay lại, đậu trên đồi một đêm. Con chim từ đâu đến đây làm tôi nhớ lại ngôi trường Văn Khoa, con đường Nguyễn Du cây xanh bóng mát. Và gió Bạch Đằng. Và nhà thờ Đức Bà. Và ly chanh đường. Uống môi em ngọt. Đêm càng khuya, sương càng dày, đồi càng lộng gió. Tiếng súng bắt đầu rộn ràng và đồng loạt. Giây phút Giao Thừa. Đợi chờ một phút, cho hoài niệm. Những tia đạn lửa xẹt ngang dọc cắt bóng tối. Ở chòi canh, người lính đã bắn súng mừng giao thừa. Trọng bắt đầu hát. Giọng chàng thật ấm. Từ trong đám đông, Mỵ nhìn người thanh niên. Nàng bỗng nghe thân thể nóng ran khi nhớ lại lần nắm chặt tay Trọng, cùng nép sát vào người Trọng. Có phải đó là dấu hiệu khởi đầu cho một tình yêu hay không?

3.

Đêm còn lại, Mỵ trằn trọc không thể nào chợp mắt. Hay tại vì nàng đang ở tại một nơi xa lạ, cách biệt hẳn cái thế giới quen thuộc của nàng? Không còn căn phòng với ánh đèn mờ nhạt. Không còn chiếc giường nệm và tủ áo dài, cái bàn trang điểm. Hay tại vì nàng đã chạm vào cái thế giới vừa tội nghiệp vừa bi tráng của Quán Biên Thùy? Hay tại vì người thanh niên có đôi mắt quá buồn, nhưng dáng dấp thì kiêu ngạo? Nàng vói tay lấy chiếc áo dạ nhà binh mặc vào người, rồi bước ra cửa hầm. Nàng bước co ro trong bóng tối. Đêm đặc quạnh, chỉ nghe tiếng gió đập vào mái tôn kêu lách cách. Đôi mắt nàng khốn khổ để làm quen với cõi lạ. Dưới đồi, sân bay quân sự và bản doanh của sư đoàn còn thấy những ngọn đèn nhiều nến, mờ nhạt trong sương đêm. Nàng đứng yên lặng. Lạnh. Run rẩy. Bỗng nhiên nàng nghe tiếng nói của người thanh niên. Tiếng nói như thân thiết tự một kiếp nào: “Cô Mỵ, cô chưa ngủ sao? Chắc là nơi này không quen với cô…” Mỵ quay sang nhìn Trọng: “Anh Trọng, em chưa muốn ngủ. Em muốn được hưởng một đêm trọn vẹn tuyệt vời như đêm nay.” Trọng lại hỏi Mỵ:
– Tại sao cô Mỵ lại lặn lội đến Quán Biên Thùy này? Cô Mỵ không sợ nguy hiểm sao?
– Bộ các anh coi chuyện chiến tranh chỉ dành riêng cho các anh hay sao?
– Nhưng nơi đây không thể hợp cho một người con gái Sài Gòn. Cô làm cho anh cô phải lo đến điên khùng khi nhận tấm điện tín của cô.
– Nhưng đêm nay là đêm giao thừa. Chiến tranh cả năm ít ra còn chừa một đêm ngừng bắn. Em nghe nói hai bên hưu chiến.
– Phải. Ít ra đêm nay người ta bỏ qua thù hận, chém giết.
– Cầu mong 365 đêm là 365 Giao Thừa.
– Cô Mỵ có ý kiến thật ngộ nghĩnh. Nếu thế thì đất nước ta là thiên đàng.
– Và mọi người trên thế giới sẽ nạp đơn xin về Việt Nam.

Mỵ cười thật vui. Lòng Trọng đâm ấm áp lạ lùng. Chàng hỏi Mỵ:
– Đi ngoài đêm, cô Mỵ có lạnh không?
– Em không lạnh. Em có cả chiếc áo dạ nhà binh trên người.
– Cô Mỵ à.
– Dạ, thưa anh.
– Văn Khoa của mình còn thầy T. dạy không?
– Dạ còn.
– Ông là vị thầy tôi kính nể. Nhờ ông mà tôi yêu văn chương. Mỗi lần ông giảng bài hay mỗi lần ông đọc thơ, là mỗi lần tôi phải ngồi chết trân. Ông đã giúp tôi tìm về chữ nghĩa. Một câu mà tôi vẫn nhớ mãi: “Văn chương là hơi thở.” Ngày ấy tôi vẫn còn nghi ngờ, nhưng giờ đây tôi mới biết. Hơi thở hụt hẫng từ những đêm những ngày của chiến tranh. Hơi thở ấy đến cả từng dấu chấm, dấu phết. 

29/07/1965:%20Sư%20đoàn%20đổ%20bộ%20đường%20không%20101%20đến%20Việt%20Nam

– Anh Hải nói như anh đang viết văn làm thơ.
– Phải, tôi dùng nó để mang hơi thở của tôi, của đồng đội tôi và tuổi trẻ của tôi.
– Và cả của em nữa, anh Trọng à!
– Thưa cô…
– Anh đọc cho em nghe một bài thơ của anh đi.
– Vâng, tôi làm nhiều thơ, nhưng không bao giờ thuộc hết. Để tôi rán nhớ xem… Vâng, tôi nhớ ra rồi. Bài Quán Biên Thùy.
Đồi đưa tôi lên tận mặt trời. Tôi lưng chảy dài những giọt mồ hôi. Mồ hôi tôi trộn vào nơi khói lửa. Tôi ở đây, một Quán Biên Thùy. Tôi là một tên tuổi trẻ lông bông. Thị tứ quá xa nên quán phải buồn. Không bàn ghế, không tách cà phê đắng. Tôi thổi khẩu cầm gọi bản gọi buôn…

Chợt một tiếng nổ lớn dội về. Tiếng nổ của trái hỏa châu. Rồi một vùng ánh sáng ngập lòa cả ngọn đồi. Tiếng nổ đã làm người con gái hoảng sợ, ôm chầm lấy người thanh niên. Người thanh niên dịu dàng nâng cằm người con gái lên. Chàng bắt gặp hai đốm sáng từ đôi mắt. Chàng nói trong hơi thở:
– Mỵ đừng sợ. Chỉ là tiếng nổ của trái hỏa châu. Họ mừng giao thừa trễ đấy!
Rồi chàng hôn lên mắt, lên trán của người con gái. Người con gái nhắm mắt lại. Nàng ngước đôi môi chờ đợi. Sau đó, họ hôn nhau cuồng bạo.

4.

Ngày hôm sau, giữa lúc Mỵ sửa soạn hành trang cho cuộc trở về thì đại đội được lệnh phải xuống đồi khẩn cấp. Địch đã chiếm một quận lỵ bên đèo vào sáng sớm mồng một và viên quận trưởng bị giết. Tiếng còi, tiếng kẻng tập họp khua liên hồi. Những người lính từ trong các dãy nhà tôn đổ ra, cùng với ba-lô, súng đạn nặng nề. Lúc này, Mỵ có thể thấy tận mắt thế nào là trận chiến, là binh lửa. Mọi người vẫn bình thản dưới ánh nắng đầu xuân. Mỵ nhìn Trọng. Người thanh niên đang đứng trước hàng quân. Người thượng sĩ già trung đội phó đang kiểm soát đạn dược súng ống. Con chó vàng vẫn tiếp tục vẫy đuôi cùng người này sang người khác. Những chiếc mũ rừng che những gương mặt rạm nắng. Những quả lựu đạn, hỏa tiễn M72 treo lủng lẳng trước ngực. Mỵ nhìn họ. Người ta đã từng kết án họ. Hãm hiếp. Mổ mật. Cắt xẻo lỗ tai. Nhưng Mỵ đã không bắt gặp một dáng dấp gì của đoàn quân đánh thuê, đánh mướn. Họ, những người rất bình thường, nông dân mộc mạc, hay những người lính già sạm đen, lưng trĩu nặng bởi cấp số đạn phụ trội, hay những người lính trẻ, đôi mắt sáng yêu đời nhưng chịu đựng và tuân phục trong hàng ngũ. Họ đang đứng nghiêm trước con mắt diều hâu của viên thượng sĩ thường vụ. Sau đó ông thượng sĩ thường vụ báo cáo với ông trung úy đại đội phó. Ông trung úy lại hô nghiêm, báo cáo với đại đội trưởng. Mỵ đã đặt thẳng câu hỏi cho Trọng, và Trọng nói:
– Trong một tập thể cả trăm người đôi khi cũng có một vài cá nhân làm xấu, dĩ nhiên. Mỵ hẳn biết, thú tính đôi khi phải cần để giải quyết chiến trường. Thú tính làm cho người lính không còn run sợ, khiến họ trở nên cọp beo sư tử. Có người nốc cả cốc rượu đế trước giờ lâm trận. Có người bị ám ảnh bởi khẩu súng phòng không của địch để được lên cấp. Có người bị ít tiền bạc trên xác chết…Có người vì hận thù địch đã tàn sát gia đình họ. Mới đây, có tên hành quân vào làng, lén dùng vũ lực hãm hiếp một cô thôn nữ. Chuyện đổ bể, cả làng biểu tình. Nó quì lạy khóc lóc. Nhưng cuối cùng, bọn anh cũng giải quyết. Anh Hải cử phái đoàn gồm có những người lính già như Trung sĩ nhất Kho, Thượng sĩ Tỏ, Trung sĩ nhất Mười và đám sĩ quan của đại đội đến làng mang cau mang trầu, trước hết là xin lỗi gia đình nạn nhân, sau xin làm đám cưới đàng hoàng. Bây giờ hai đứa đã trở thành vợ chồng.

… Bây giờ mấy chiếc xe GMC đã lên đỉnh đồi. Con chó vàng vừa cúp đuôi, vừa sủa inh ỏi. Trọng bước đến bên Mỵ: “Em trở về bình an. Cho anh gởi lời thăm Sài Gòn, thăm Văn Khoa, thăm chiều Chủ Nhật.” Mỵ nhìn đăm đăm người thanh niên, như muốn uống trọn vẹn hình ảnh của chàng trong buổi chia tay. Dáng Trọng gầy, chiếc mũ rừng chụp xuống, mái tóc dài, những ngón tay khẳng khiu. Chiếc quần trận màu xanh đã bạc, thấy có chỗ tươm rách. Mỵ thương chàng đến độ muốn ôm chầm chàng, để khóc òa như con nít. Mỵ muốn kể tất cả những gì mà con tim nàng đang trỗi dậy, đợi chờ một giây một phút cho cả cuộc đời con gái của nàng. Tuy nhiên nàng vẫn đứng chết trân, đôi mắt ướt nhòa, tóc mai phơ phất. Sau đó, không hiểu sao, nàng lại tháo chiếc trâm cài trên mái tóc của nàng rồi trao cho Trọng: “Anh Trọng, quà của em đây. Cầu xin cho anh được bình yên…” Rồi đoàn xe rồ máy xuống đồi. Bụi đã tung mù cả sân đại đội. Mỵ đứng yên nhìn theo.

Ngày mồng một đầu năm, trời thật xanh và trong. Những con chim én từ đâu bay lại, tiếp tục lượn vờn, nô giỡn trên giao thông hào. Người trung sĩ hậu cứ đã đến bên Mỵ: “Cô Mỵ, thôi mình xuống đồi thì vừa. Giờ này có chuyến xe đò chạy thẳng về tỉnh, không dừng lại dọc đường”. Nhưng Mỵ vẫn đứng yên. Nàng ao ước được làm cánh chim én trong bầu trời nắng vàng để bay theo đoàn xe, bay theo đoàn người, để mang tin lành, tin dữ về họ. Và nếu em có… Đến đây, tự nhiên nàng rùng mình. Cho nàng hay cho Trọng? Tại sao nàng lại nghĩ đến một điều ảm đạm trong buổi sáng mồng một này…”Và nếu em có mệnh hệ gì, em cũng xin được làm cánh chim…”. Nàng lắc đầu, cầm chiếc xắc tay, nhưng hai chân muốn chôn chặt. Có tiếng nói vô hình ở đâu đó như thúc hối nàng: Đừng đi. Đừng đi. Nhưng nàng vẫn bước lên xe Jeep. Ngồi trên băng mà mồ hôi thấm cả trán, cùng một con tim đang đập thình thịch. Hay nàng có một cái linh tính không may. Cho Trọng hay cho nàng? Có lẽ là cho Trọng, vì chàng là người trong cuộc. Chàng đang đối diện với tử sinh. Mỵ cứ nhắm mắt, van vái: “Anh Trọng ơi, cầu mong cho anh được bình an. Em lo sợ quá đi, anh Trọng ơi…”.

Chiếc xe đò vào ngày đầu năm như một cõi rộn ràng và thân mật. Hôm nay, mọi người dường như thân thiết gần gũi hơn mọi ngày. Những người con gái trong những chiếc áo mới, gương mặt tươi sáng, nụ cười cũng tươi. Những bà bán buôn có vẻ hiền từ, nhường nhịn, thay vì gắt gỏng do bận rộn trong những ngày thường. Và nhiều người thanh niên. Họ là lính về nhà ăn Tết muộn màng. Mỵ ngồi cùng với họ, nhưng dường như cách biệt hẳn họ, bởi vì Mỵ là một cô gái Sài Gòn xinh đẹp, áo quần thời trang: chiếc quần jean xanh và cái áo pull màu xanh đậm. Nàng lại mang chiếc kính đen che khuất cả phần trên của khuôn mặt. Nàng đã quên những gì đen tối trước đây nàng đã dự cảm. Bây giờ nàng đang chia xẻ cùng một niềm hạnh phúc chung của một ngày thiêng liêng nhất của dân tộc. Bỏ lại chiến tranh, chết chóc, thù hận đằng sau, để cùng tiếng cười tiếng nói và nỗi lòng rạo rực cho một cuộc sum họp.

Nắng vàng thắm cả đồng lúa bạt ngàn. Thỉnh thoảng, bên đường hiện lên những em nhỏ, các người đàn ông, đàn bà trong những bộ quần áo mới. Vài ông già mang áo dài khăn đóng lướt qua. Mỵ không thể tìm thấy cái không khí của chiến tranh, cái ve vuốt của bất trắc. Ngay cả những người thanh niên trong xe. Họ ngồi bên cửa, ló đầu ra ngoài, vô tư, bình thản.

Nhưng khi chiếc xe chạy đến khúc rừng thưa, nơi mà Trọng đã lên đạn, chĩa súng ra ngoài, và chiếc xe anh Hải rú ga ào phóng trên mặt lộ, thì một nhóm người trong bộ bà ba đen đã xuất hiện. Mỵ lại nhận ra họ còn mang cả súng. Bây giờ cả xe nhốn nháo. Gương mặt những người thanh niên tái mét. Nhưng họ đã bất lực. Họ đã bị sa vào cái bẫy vào ngày mà họ nghĩ là ngưng bắn, hưu chiến hay ít ra, thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam. Mỵ cũng vậy. Tim nàng như ngừng đập. Nàng nghẹt thở theo chiếc xe đò đang từ từ chậm lại, rồi ngừng hẳn. 

Inline%20image
Cuối cùng, cả một đoàn người được dẫn vào sâu trong bìa rừng, dưới hàng dừa bạt ngàn. Và người ta điều tra xem ai là lính quốc gia, bằng cách nhìn từng bàn chân một. Lính quốc gia dĩ nhiên là mang giày saut, bàn chân trắng không khô nứt. Có bốn người thanh niên được bắt trói ra một bên. Một người trong đám Việt Cộng, có lẽ là kẻ chỉ huy, đã đến trước Mỵ, nhìn chăm chăm nàng, rồi quát lên, giọng Bắc:
– Con này trước Cách Mạng mà còn mang kính đen của tư bản đế quốc đĩ điếm phản động!
Mỵ giật mình co rúm lại. Thì ra, vì sợ quá, nàng đã quên tháo chiếc kính che nắng của nàng.

Đó là dấu hiệu khởi đầu cho một điều dự cảm. Mỵ ngồi một bên, và chỉ mỗi một mình Mỵ là con gái, cùng với bốn người thanh niên đang bị trói, ngồi dưới gốc dừa. Rồi bài học tuyên truyền, rồi răn đe được tiếp tục nói lên từ một người bên kia. Rồi bốn người bị buộc tội là lính đánh thuê, đánh mướn, tàn sát nhân dân, bị bắn trực xạ bằng những phát súng lục trên đầu. Và sau đó, đến phiên Mỵ. Họ dẫn Mỵ vào khu nhà gạch đổ nát. Tay chỉ huy nói với người thuộc cấp: “Đồng chí ở ngoài canh chừng. Tôi phải làm việc với con bé này. Nó chắc là tay sai gián điệp Sài Gòn không chừng.” Người lính gật đầu: “Tuân lệnh anh Ba!” Sau đó hắn bước ra ngoài, đứng gác dưới cây bông sứ.

5.

Trong khi đó, đoàn xe 6 chiếc chở đại đội thám kích đã lên đèo An Khê. Xe trung đội Trọng chạy đầu tiên. Trọng như một người còn say men hạnh phúc. Hạnh phúc hay là định mệnh? Cánh chim từ đâu bay lại, hót bên thềm đời chàng, để lại những dấu chân hồng êm ái. Trong muôn ngàn cánh chim của mùa xuân bay lượn trên đồi, chàng đã tìm thấy một con chim yêu dấu. Đôi mắt sáng lung linh. Bờ ngực phập phồng sau làn vải lụa. Và hai bờ môi cắn bầm bằng nỗi cuồng nhiệt của tuổi trẻ.

Mùa xuân đã về đúng hẹn, và em là mùa xuân, mùa hạnh phúc, mùa ngọt lịm ân điển của địa đàng. Em đã mang tin lành, bình an, đến giữa cõi hoạn nạn. Em ở trên bầu trời xanh sẫm, đúng lúc, đúng hẹn, vô tư, đùa nghịch, vút lên cao, sà xuống thấp. Em, cánh chim mang mùa xuân về trời đất, núi rừng, dù không gian vẫn đầy những đe dọa gầm gừ. Ô kìa, một đàn chim én đang bay rợp trên đèo xám và rừng xanh. Trọng xúc động. Con họa mi của anh giờ này chắc trên chiếc xe đò xuôi về thành phố. Nhưng kia kìa, chàng muốn đứng thở khi nhận ra cả một đám chim mùa xuân, khi không sà xuống đoàn xe. Cứ hết con này, tiếp đến con khác. Chúng phóng xuống đường dễ chừng chúng đang làm một cuộc tự sát tập thể. Rồi trong một khắc giây nào đó, chàng nghe một tiếng rú như xé dội cả trùng trùng điệp điệp núi đèo, đẩy bật cả mấy tầng trời, gốc cây đại thụ, bạt cả bờ vách đá, sau đó là lời van lơn dồn dập: “Anh Trọng. Anh Trọng. Ngừng xe lại. Hãy ngừng xe lại. Anh Trọng ơi!…Nghe em đi, anh Trọng ơi!…”.

Trọng bủn rủn châu thân, nắm tay người tài xế, hối hả nói: “Anh ngừng xe nhanh lên!” Xe thắng giữa đèo. Đại bàng gọi máy hỏi sự tình. Trọng kể trong hơi thở về cái dự cảm của chàng. Đại bàng nói cũng nghe tiếng la rú. Rồi Đại bàng ra lệnh đại đội nhảy xuống xe, bố trí hai bên đường. Sau đó, một đoàn xe chở đạn pháo binh của Đồng Minh qua mặt. Chỉ trong mười phút ngắn ngủi, là sấm động ầm ầm của những quả mìn và tiếng súng lớn, sau đó là cả một khối lửa vĩ đại bừng dậy. Còn Trọng, chàng lom khom bò về hướng Đại bàng, nói không ra hơi: “Đại úy ơi, tôi có linh cảm Mỵ… Đại úy nói giùm tôi một câu. Một câu thôi để tôi yên lòng. Đại úy có nghe tiếng rú không?” Viên đại úy, dù đang bấn loạn, cũng cố an ủi Trọng: “Trọng, tin tao. Mỵ nó không hề gì đâu. Về lại trung đội mày đi. Chuẩn bị bọc hậu. Chừng năm phút nữa có trực thăng bay đến yểm trợ. “

Trần Hoài Thư


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 20/Dec/2024 lúc 1:47pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23127
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 23/Dec/2024 lúc 1:08pm

Nhật Ký Giáng Sinh Trong Tù


(Viết nhưng không thể gửi cho con gái)

Sau 47 năm - đúng vào tuổi con gái bây giờ - đọc lại những dòng nhật ký này tôi vẫn còn thấy xúc động và bạn đọc chắc ngạc nhiên tại sao tôi có thể qua mắt bao cán bộ việt cộng trong nhiều lần chuyển trại. Tôi đã phải khôn khéo ghi ngoài bìa vở tên mình và hàng chữ lớn ‘Học Tập Cải Tạo’

Trang trong mở đầu ‘Quyết tâm Học tập và Lao động tốt’ với những khẩu hiệu:

- Không gì quí hơn độc lập tự do.

- Lao động là vinh quang.

- Kế 10 năm trồng cây, kế 100 năm trồng người.

- Bàn tay ta làm nên tất cả, Có sức người sổi đá cũng thành cơm.

- Không có gì là khó, Chỉ sợ lòng không bền,

Đào núi và lấp biển, Có chí vẫn làm nên.

Cán bộ VC có liếc qua thấy những hàng chữ trên, chỉ gật đầu đắc chí khen tốt mà không nhìn thấy những dòng nhật ký tôi viết xen kẽ với các bài học chính trị, vì thế tôi đã giữ được quyển nhật ký đến nay.


* Long Giao: 24/12/75.

Linh Trang con yêu,

‘Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

Bình an dưới thế cho người thiện tâm.’

Đó là lời Thiên Sứ chúc mừng cho nhân loại trong đêm Chúa Giáng Sinh.

Ngày nay lời đó vẫn còn văng vẳng bên tai mỗi người chúng ta trong đêm trọng đại này.

Nhưng lời chúc mừng đó không đến với ba và các bạn nơi đây, không được mừng lễ Giáng Sinh, không được hưởng quyền tự do tín ngưỡng, vì chưa thành người công dân- Đó là lời của ban chỉ huy trại báo xuống. Vì thế không được tụ tập mừng lễ ồn ào, ca hát, kinh sách, cầu nguyện… Thật là buồn tủi không được dự một lễ Giáng Sinh vui tươi sốt sáng như trước đây để nguyện cầu cho Quê hương thanh bình no ấm và gia đình yên vui khỏe mạnh.

Thế mà chính trị viên lại đề cao cách mạng đảng, khi bắt được tù binh Mỹ ngoài Bắc, trong đêm Giáng Sinh vẫn cho ăn mừng lễ với cái đầu ngỗng theo phong tục cổ truyền của họ. Ôi ngôn từ thật là tiền hậu bất nhất! Còn bọn ba không phải là tù binh nên không có qui chế mà chỉ có nội qui-chấp hành nội qui là phải giữ đúng qui luật trên đưa xuống, vì các anh là học viên không phải tù binh- Lý luật xác đáng phải nhất trí thi hành nghiêm túc!...

Linh ạ, hôm nay lúc 4 giờ sáng ba nghe tiếng nhạc Noel từ một xứ đạo gần trại vang lên những bản Thánh ca quen thuộc, khiến ba bừng tỉnh nghĩ đến Chúa Hài Đồng sinh trong hang đá máng cỏ khó nghèo để đem bình an cho nhân thế-Thật buồn nghĩ đến mẹ và con không có ba cùng đến giáo đường dự Thánh Lễ trọng đại đêm nay. Tuy vậy cũng có mấy bạn tù Công giáo hát lên nhè nhẹ những bài Thánh ca sưởi ấm tâm hồn với những nhạc khí thô sơ do mình chế tạo- cũng ăn mừng lễ không có ngỗng thì có chuột thay thế. Ba không dám ăn thịt chuột dù trong đời quân ngũ đã thấy nhiều binh sĩ thưởng thức món ăn đồng quê này.

Nguyện Chúa Hài Nhi chúc lành cho hai mẹ con và gia đình cùng các bạn tù. Ba viết những dòng này lúc 7 giờ tối sau khi đã gánh nước đổ đầy 3 chiếc phi để chuẩn bị làm bếp ngày mai.


* 25/12/75

Ba viết tiếp về ngày Giáng Sinh đang bỏ dở vì phải âm thầm kín đáo ra vườn chầu Mình Thánh và Rước Lễ do Linh mục tuyên úy khởi xướng. Ồ chắc con lại bỡ ngỡ phải không? Thời gian mới các cán cán bộ chưa kiểm soát gắt gao, vì hình như đang chờ lệnh trên để chuyển tù đi nhiều nơi hay ra Bắc nên có phần lỏng lẻo đôi chút. Vì thế ba và một số bạn Công giáo thay nhau từng nhóm 4 hay 5 người ra cầu nguyện dưới ngọn nến cháy hắt hiu dưới bóng cây rừng trên khắc hình thập giá.

Ôi Chúa cao trọng ngự xuống nơi đây không có cả hang đá máng cỏ chiên bò thở hơi sưởi ấm.

Ba sốt sáng rước Chúa vào tâm hồn thay cho máng cỏ thấy ấm cúng và mach máu trào dâng một sức sống mới lạ thường. Cha Tuyên úy trao Mình Thánh cho từng người và khuyên nhủ đôi lời. Ngài nói trong hoàn cảnh này ta mới hiểu được tình thương bao la của Thiên Chúa hạ sinh làm người để cứu chuộc tội lỗi ta và ban phát an bình cho nhân loại. Anh em hãy can đảm chịu đựng gian khổ, giữ gìn sức khỏe và cầu xin sớm có ngày về xum họp cùng gia đình.

Sau lễ, các bạn và linh mục cùng dự tiệc mừng bằng nồi cháo ruột cá do nhà bếp tặng còn bốc khói nghi ngút, uống ngụm cà-phê, phì phà điếu thuốc lá, rít hơi thuốc lào. Sau những tháng xa gia đình và xã hội, mọi người không dám ăn nhiều, uống nhiều, hút nhiều mà chuyền cho nhau thưởng thức hương vị ngọt bùi len vào mạch máu.

Ba nghĩ như thế cũng là phép lạ rồi, vì tưởng không có gì mà lại ổn thỏa trong bầu khí ấm áp thân tình…

Ôi cũng là diễm phúc Chúa ban cho ba và các bạn tù, thay vì những ngấn lệ tủi nhục là những giọt lệ cảm mến trào dâng. Một mối xúc động chân tình nhất trong đời ba con ạ! Đêm nay quì bên máng cỏ, chắc mẹ và con cầu nguyện nhiều cho ba phải không?

Chúa sẽ không quên ban phúc lành cho gia đình ta đêm hồng ân này. Đêm nay ba dâng lên Chúa bằng những hy sinh chịu đựng trong tù như một ánh sao nhỏ bé soi đường cho những người đang tìm đến hang Be-lem thờ lạy Chúa Hài Đồng.

Thôi ba dừng bút và hẹn con thư sau sẽ kể tiếp nhé!

Ba con


* Sài gòn 25/12/76

Thăm anh,

Hôm nay là ngày Chúa Giáng Sinh cũng là sinh nhật của anh đấy.

Sài gòn mọi người nhộn nhịp đón mừng Chúa ra đời cứu chuộc nhân loại. Thế là đúng 2 mùa Giáng Sinh anh xa gia dình và xã hội bên ngoài. Mùa này ngoài Bắc lạnh lắm anh nhỉ? Tối nay bác chở hai mẹ con đi lễ nhà thờ Đức Bà, rồi đi 1 vòng Sài gòn. Con bé vui thích lắm, bảo nó ra đứng trước rạp Rex chụp hình gửi cho bố. Mua cho bé một triều thiên bằng giấy, chắp tay làm thiên thần giống ghê đi. Thật đúng là tuổi thơ thiên thần chả biết buồn khổ là gì.

Gia đình ta bình yên cả. Sau Giáng Sinh bác đi làm ở Củ Chi. Mẹ vẫn bám vào nghề nuôi heo. Còn em sáng đi trưa về sống lai rai qua ngày và đang xin dạy bình dân học vụ ở phường.

Riêng anh sức khỏe thế nào, còn phù thũng không, vẫn lao động cùng anh em chứ? Anh đừng lo lắng cho con và em, tuy sống khổ đôi chút, nhưng an ủi vì có con là nguồn vui. Các chị và gia đình cũng chật vật nên không giúp được, hôm trước anh viết thư nhờ các chị giúp em ngại lắm đấy. Anh Triệu hồi này cực lắm tính tình thay đổi nhiều, Quốc và Triệu Anh phải nghỉ học luôn. Chị ít khi ở nhà vì tiền nong chi tiêu anh ấy giữ cả. Anh chi Tùy đi kinh tế mới tạm sống được vì con cái đông chịu khó. Cậu Hảo mới qua đời. Còn Mậu con chú Tự thì sao, có ở cùng anh không và sao không thấy tin tức gì vậy? Còn thuốc và mấy thứ lặt vặt anh cần như kem, bàn chải đánh răng em đã mua sẵn rồi chỉ chờ có phiếu là gửi. Nhưng theo em biết gửi hàng qua bưu điện mỗi gói chỉ được 3 ký, muốn gửi anh đôi giầy để đi lao động cho tốt là hết 1 ký rồi.

Thôi vài hàng cho anh biết tin tức về gia đình. Mong ngày đoàn tụ sẽ kể nhiều chuyện anh hay. Con nhỏ ngủ ngon rồi! Thật tội nghiệp, mở an-bum ra chỉ đúng ngay bố. Nó nói nếu được đi thăm sẽ gọi ‘Bố ơi bế con tí!’

Nguyện xin Chúa Hài Đồng ban phúc lành cho anh mạnh khỏe đủ sức lao động tốt sớm về với gia đình!

Em: GIÁNG SINH trong tù Việt cộng


* Lời đầu cho Bạn:

Đối với chế độ CSVN, quyền tự do tín ngưỡng bị hạn chế nhất trong các quyền tự do của con người. Riêng Công giáo VN được chúng lưu tâm đặc biệt qua các sự kiện nổi bật như Quỳnh lưu, Ba làng, Bùi chu, Phát diệm…tiếp đến cuộc di cư vĩ đại của triệu người Công giáo từ Bắc vào Nam năm 54. Rồi sau ngày 30.4.75 khi bọn Cộng sản xâm chiếm miền Nam, trên hai triệu người lại bỏ nước ra đi với hai bàn tay trắng không sợ gian lao nguy hiểm để tìm tự do mà trong đó quyền tự do tín ngưỡng là ưu tiên.

Sau đó liên tiếp những vụ đàn áp tín đồ, cưỡng chiếm nơi thờ phượng, đất đai… như Thái hà, Toà Khâm sứ, Tam Toà, dòng Phaolô Vĩnh long, trường học xứ Loan lý, giật sập Thánh Giá Đồng Chiêm, Cồn Dầu, Mỹ yên, tại Đan viện Thiên An, Huế, giáo xứ Thọ Hòa, Thủ Thiêm, phá rối Thánh lễ tri ân Thương phế binh tại DCCT Sài gòn. Rồi gần đây nhất là vụ cưỡng chiếm nhà đất dân chúng Đồng Tâm, Thủ Thiêm, cụ Lê Đình Kình bị sát hại tại xã Đồng Tâm cùng con cháu bị lãnh án tử hình và chung thân để cố tình chu di tâm tộc…

Cùng các cơ sở Công Giáo như Nhà thờ, Nhà dòng, trường học, với ngụy danh kiến thiết đô thị tân tiến có cả nhà hát giao hưởng, làm nhiều ngàn gia đình không còn chỗ nương thân. Những hành động tham ô bỉ ổi của bọn tà quyền VC, khiến nhiều ngừời phẫn uất, cùng sự phản đối của các tổ chức nhân quyền trên thế giới. Thế mà bọn cầm quyền CSVN vẫn làm ngơ và tiếp tục dùng mọi thủ đoạn gian manh đàn áp tuyên truyền, hứa hẹn, dọa nạt, dùng hơi cay, dùi cui, roi điện, chó săn, côn đồ... Nhưng bạo lực không thể trấn áp được ánh sáng Tin yêu và tiếng kinh Hoà bình vẫn vang vọng khắp nơi trong và ngoài nước.

Rồi sau khi chiếm miền Nam, Cộng sản ra lệnh tập trung cải tạo, nhưng thực chất chỉ là giam tù không tuyên án – tất cả các sĩ quan QLVNCH – mà thành phần chúng theo dõi kỹ hơn là các vị Tuyên uý và sĩ quan Công giáo. Trong thời gian chúng tôi bị giam giữ ngoài Bắc, bọn cán bộ hay gọi các Linh mục và sĩ quan Công giáo lên tra hỏi, hạch sách về lý lịch, cấm không được truyền đạo, trao đổi sách báo Công giáo. Tuy nhiên dưới sự hướng dẫn của các Linh mục chúng tôi vẫn trao cho nhau đọc Thánh kinh, Kinh nguyện chép tay… Những buổi tối cầu nguyện vào ngày Chúa nhật và Lễ Trọng anh em vẫn tổ chức.

Qua những dòng nhật ký dưới đây, ghi lại trong tù vào đêm trước Giáng sinh năm 77 nơi trại tù Sơn La- dưới hình thức ‘Những lá thư viết cho Con gái đầu lòng không bao giờ gửi đi’. Nhưng giờ đây ra tù, sau gần 30 năm đặt chân lên đất Hoa Kỳ tự do, tôi xin trao lại ‘Lá thư này’cho Con gái và các Bạn như một kỷ niệm khó quên nhân dịp lễ Giáng Sinh.


…Sơn La, tối 24 tháng 12 năm 1977

Trại giam là một khu nhà đổ nát bỏ hoang vì bom đạn chiến tranh. Khoảng 4 giờ chiều là mây mù giăng phủ bốn bề. Tiếng cồng gọi tù là một mảnh bom vang dội nghe âm u buồn thảm. Những người tù quần áo rách nát có đóng số tù trước ngực và sau lưng, thân hình gầy yếu tiều tụy, vác trên vai những bó tre nứa nặng trĩu, cắm cúi mau bước về trại tập trung.

Ba viết cho con những dòng này giữa thung lũng Sơn- La, chung quanh núi rừng bao phủ. Sau bữa ăn chiều với vài củ khoai chấm muối là mặt trời đã khuất sau núi. Màn đêm xuống mau mang theo giá lạnh cùng với tiếng côn trùng và muông thú vang vọng gần xa.Các bạn tù đã gom được ít củi và lá khô đốt lên ngồi quanh sưởi ấm. Ba đã viết những dòng chữ xiêu vẹo này dưới ánh lửa chập chờn. Viết mà không bao giờ gửi đi – vì không được phép gửi hay nếu có gửi tới nơi con vẫn chưa biết đọc khi mới tròn 2 tuổi. Nhưng ba cứ viết để khi buồn đem ra đọc và biết đâu một mai khôn lớn con sẽ đọc. Mỗi đêm ba chỉ viết chừng nửa trang xen kẽ vào những bài học giáo điều mà bọn CS bắt ba học.

Đêm nay ba muốn viết nhiều hơn vì là đêm trọng đại: đêm Noel cả thế giới đang tưng bừng chào đón. Nơi đây làm gì có Thánh lễ, có ăn Reveillon, có Thánh ca…phải không con?. Thế mà có tất cả đấy con ạ! Chắc con lấy làm lạ tưởng rằng bọn CS đã biết tôn trọng tự do tín ngưỡng trong cả nhà tù, hay là trò khoe khoang cho cuộc sống ưu việt nơi miền Bắc sau hơn 30 năm tiến lên Xã hội chủ nghĩa? Không phải thế đâu con, vì ba đã đi qua bao giáo đường đổ nát dùng làm hợp tác xã chăn nuôi. Ba đã từng thấy những tên cán bộ gốc Công giáo nay đã bỏ đạo, cấm các Linh mục tuyên uý không được làm lễ và giải tội cho tù nhân. Chúng còn nói hàm hồ với các Linh mục là đảng và nhà nước chưa tha tội cho các anh nên các anh không có quyền tha tội cho ai cả.

Nhưng đêm nay trong cảnh ngục tù giữa núi rừng hoang lạnh Chúa an bài tất cả. Chúa thấu suốt những khát vọng nội tâm và không bỏ rơi những kẻ theo Ngài. Chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá, Chúa đã nuôi năm ngàn người ăn uống no nê thì vỏn vẹn chưa đầy 20 người tù Chúa sẻ lo cho tất cả…

Chiều hôm trước Cha Tuyên úy nhắc nhở anh em dọn mình chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Về nội tâm một số đã xưng tội trong rừng khi đi lao động, số còn lại xưng trong tù trước giờ Thánh lễ. Về hình thức bên ngoài anh em gom nhặt được trên đường đi lao động: vài con cá, tôm tép, lươn ếch…để nấu một nồi cháo khoai thập cẩm vì không có gạo –những người tù như ba quanh năm chỉ có 6 tháng khoai lang và 6 tháng khoai mì do chính mình đổ mồ hôi khai phá bạt ngàn trồng trọt nhưng ăn không đủ no với tiêu chuẩn hàng ngày 500 gam.

Ôi! Lúc này ba thèm một nồi cháo như người con phung phá trong Phúc Âm thèm một nồi cám heo…Có anh hái được ít lá chè trên một ngọn đồi bỏ hoang nấu những lon nước chè đặc thơm ngát hương vị núi rừng.

Trước giờ lễ cha Tuyên uý nói về ý nghĩa lễ Giáng sinh, sau đó anh em hát bài Thánh ca quốc tế ‘Đêm thánh vô cùng’. Thánh lễ trang nghiêm thầm lặng nhưng đầy xúc động. Mình Thánh Chúa đựng trong một hộp nhựa đặt trên chiếc mền phủ khăn trắng. Linh mục trao cho mọi người hôn kính và chia sẻ rước Chúa vào tâm hồn. (Mình Thánh là phần bánh bột, vị Tuyên uý được anh em nhà bếp cung cấp trước).

Kết thúc buổi lễ là ca khúc ’Đêm đông’ quen thuộc, càng cảm động khi một số anh em ngoài Công giáo cùng tham dự tiệc mừng. Có anh tình nguyện ngồi xa làm vọng gác tiền đồn để kịp báo động khi cán bộ xuất hiện. Vừa ăn cháo khoai vừa chuyền nhau ngụm nước chè nóng và nhắc nhớ những Kỷ niệm về Lễ Giáng Sinh trước trong cuộc đời.

Mọi việc hoàn tất tốt đẹp trước khi tiếng cồng vang lên báo hiệu tắt đèn lúc 8 giờ tối.

Trở về chỗ ngủ, cứ hai người chung nhau 1 chiếc chiếu và mùng cá nhân vì chỗ nằm mỗi người chỉ bằng 3 viên gạch. Nhà không có mái che, sương đêm xuống lạnh buốt phải chăng poncho hay tấm vải nhựa phía trên cho đỡ giá lạnh. Như các bạn giờ này ba chưa ngủ được, nhìn lên bầu trời đêm những vì sao lấp lánh qua đám lá cây rừng, ba tìm vì sao sáng nhất của Chúa Hài Đồng và vì sao mờ nhạt của đời mình –vì nếu khoa chiêm tinh ứng với số mệnh của mỗi người thì ắt hẳn trong muôn ức triệu tinh cầu sẽ mang tính mệnh của mỗi con người.

Ba hồi tưởng lại những kỷ niệm Noel đã qua tại vùng cao nguyên Kontum, những tháng ngày thử lửa đầu đời lính. Sau đêm tử chiến ba khiêng xác đồng đội cuộn tròn trong poncho lên trực thăng chuyển về hậu tuyến đúng vào đêm Giáng sinh khi khúc nhạc Silent Night do máy bay Mỹ phóng thanh vang vang trên thành phố- Pleiku mùa Giáng sinh xứ lạnh sương mù, thành phố im lìm ngủ say trỗi dậy theo tiếng Sứ thần tìm đến hang đá Be-lem đón mừng Chúa Giáng trần- Đà-lạt thành phố du lịch miền Nam cao điểm nhất vẫn là mùa Noel, mọi nơi du khách đổ về đón nhận những ngày lạnh nhất, tưng bừng nhất và cảm động nhất. Những nơi như nhà thờ Con gà,, Viện Đại học, Trường Võ bị, Chiến tranh chính trị, Chỉ huy tham mưu… đều mở cửa đón du khách với những lễ hội tưng bừng.

Ba và mẹ con những ngày ấy, cứ mong ước con sớm chào đời để cùng hưởng những phút giây êm đềm. Ba nghĩ đến mẹ con và con chắc giờ này đang sửa soạn đi dự Thánh lễ Nửa đêm, nhưng lại thiếu ba buồn quá con nhỉ?

Thôi ba hẹn con một mùa Giáng Sinh nào sẽ đến để dẫn con tới Thánh đường, quì bên hang đá cầu xin Chúa cho mọi người trong gia đình mình mãi sống bên nhau. Đêm nay con nhớ cầu nguyện cho ba, cho các bạn ba, cho Đất nước mình hết hận thù nhau, cho Dân tộc mình hạnh phúc. Đúng như lời vị Tuyên úy:’ Chỉ sống trong hoàn cảnh này ta mới hiểu sâu xa tình thương yêu của Chúa sinh xuống khó hèn vì nhân loại trong hang đá Be-lem’.

Tiếng ca nho nhỏ khúc hát Giáng Sinh của người bạn tù còn thao thức làm ba bừng tỉnh quay về thực tại cuộc sống tù đầy cực khổ nơi đây. Tiếng côn trùng vẫn hòa ca, tiếng thú rừng vẫn vang vọng xa xa. Một dòng suối len trong khe đá chảy róc rách gây cho ba cảm giác cô đơn và buốt lạnh. Ba kéo chiếc mền rách nằm sát bên bạn tù chuyền cho nhau hơi ấm như chiên bò thở hơi ấm cho Chúa khi xưa. Nghĩ đến những bạn tù bị biệt giam trong hốc đá lạnh buổt sau trại, mà dâng lên xót xa tủi hận… Cứ miên man trong suy tư và ba thiếp đi trong vùng trời Noel đầy mộng mị…”


* Lời cuối cho con:

Thấm thoát đã gần nửa thế kỷ kể từ Giáng sinh trong ngục tù Cộng sản năm nào, giờ vẫn còn là những kỷ niệm đau buồn khó quên. Nhưng có một điều an ủi cho ba và gia đình ta đã đến được vùng trời tự do, thoát khỏi kiếp sống đọa đầy với những đêm Noel buồn thảm.

Ngày ba còn nhỏ dại, khi nhìn vào những tấm thiệp Giáng sinh hay đọc truyện Noel nước ngoài, ba thường mơ tưởng đến những giáo đường cao vút vươn lên trong bầu trời đầy sao, tuyết phủ trắng xóa trên những cây thông như mũi tên khổng lồ. Ông già Noel râu tóc bạc phơ lái xe chở đầy quà tặng cho các trẻ em do những con tuần lộc sừng cong lao đi vun vút trong đêm từ miền Bắc cực.

Khi ba đặt chân lên miền đất hứa này, ba không còn những rạo rực của tuổi trẻ trứớc cuộc sống tràn đầy sức sống, không còn những năm tháng dài chờ đợi đầy hoa mộng. Nhưng con, giờ đã trưởng thành, hấp thụ được vốn kiến thức đủ bảo đảm cho cuộc sống tương lai tốt đẹp.

Nước Mỹ tuy không phải là thiên đàng hạ giới, nhưng vẫn là vùng trời tự do, đất hứa của tuổi trẻ, miền đất luôn sẵn sàng đón nhận và bao dung cho những con người chốn chạy khỏi một chế độ tàn ác vô nhân đạo.


Mùa Giáng sinh là mùa An bình Hạnh phúc mà con người luôn khao khát chờ trông. Ba xin mượn lời Thiên Sứ năm xưa chúc nguyện cho con và gia đình mình cùng mọi người trong đêm Đại Thánh này:

“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

Bình an dưới thế cho người chính tâm.”


Đinh Quân

(*) Ghi chú: Bài viết trong hoàn cảnh khó khăn, nên ngày tháng năm không thể liên tục, lời văn không chau chuốt, ý tưởng không sắp xếp- Nghĩ sao viết vậy thôi! Hình ảnh và vài hàng tâm sự bổ túc sau- Mong thông cảm những thiếu sót!



Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23127
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: Ngày hôm qua lúc 9:11am

Tuy Hòa Một Thời Gió Cát 


Vẻ%20đẹp%20vạn%20người%20mê%20của%20bãi%20biển%20Tuy%20Hoà%20Phú%20Yên

Tôi không phải là người Phú Yên, cũng chẳng có mối tình nào gởi lại Tuy Hòa, nhưng dường như cái xứ có núi Nhạn sông Đà thơ mộng ấy đã mãi vương vấn tâm hồn tôi, in đậm trong ký ức tôi những mối tình đẹp, thật dễ thương của đám bạn bè, đồng đội, cùng bao kỷ niệm vui buồn một thời trận mạc. 

Khi ấy bọn tôi còn rất trẻ, đa số vừa mới rời khỏi học đường vài ba năm để bước chân vào nơi gió cát. 

Ngày mang “sự vụ lệnh” về trình diện đơn vị tại Ban Mê Thuột, tôi và bốn thằng bạn cùng khóa cứ ngỡ cuộc đời mình sẽ dính liền với rừng núi của xứ “bụi mù trời” và “buồn muôn thuở”, chỉ còn biết nằm nghe tiếng chim kêu vượn hú. 

Ai ngờ sau hai tuần lang thang quanh quẩn trong con phố buồn hiu, ngắm mấy cô gái Thượng mang gùi đi xuống đi lên trên con đường A Ma Trang Long bám đầy đất đỏ, bọn tôi được ông Trưởng phòng 1 lái xe đi tìm chở về Câu Lạc Bộ Sĩ Quan, vội vàng lấy balô quân trang, rồi đưa thẳng ra phi trường Phụng Dực, tháp tùng phi cơ của ông tư lệnh, đại tá Lữ Lan, bay xuống đơn vị đang hành quân tại Khánh Hòa, ngay vùng biển quê hương tôi.

Đơn vị tôi lúc ấy, chắc cũng thuộc loại đánh đấm có hạng nên được chọn làm lực lượng lưu động trừ bị cho Quân Đoàn.  

Nay đây mai đó.Trước khi di chuyển đến đây, đã có mặt khắp nơi: từ Bình Tuy, Bình Thuận, Ninh Thuận, đến Lâm Đồng, Quảng Đức…

Khi đến đơn vị, tôi rất vui. Vì ngoại trừ ông tiểu đoàn trưởng, hầu hết tất cả sĩ quan trong đơn vị đều trẻ măng, độc thân vui tính, anh nào “đàn anh” nhất cũng chỉ vừa rời ghế nhà trường năm ba năm.  

Ba anh trung úy đại đội trưởng đều dạn dày lửa đạn. Một anh tốt nghiệp khóa 16 VB Đà Lạt, hai anh khóa 13 Thủ Đức, một gốc Huế một gốc Bắc Kỳ di cư. Nhưng anh nào cũng đánh đấm rất gan lì và vui vẻ chịu chơi. 

Tôi được bổ nhậm về đại đội của anh trung úy gốc Huế nhưng lại thân thiết với anh trung úy gốc Bắc Kỳ, vì ngoài các đức tính khác anh còn có nụ cười và ánh mắt dễ làm “chết người ta”. 

Không biết có bao nhiêu “hồn (đã) lỡ sa vào đôi mắt… anh” rồi, nhưng tôi là thằng lính ngang tàng mà cũng phải lụy anh trong cái tình huynh đệ. 

Sau này và cho mãi đến bây giờ, chúng tôi vẫn còn giữ cái tình “anh em tri kỷ” ấy.  

Đám trung đội trưởng tò te, ngoài tôi ra còn có bốn thằng cùng khóa 18 Thủ Đức với tôi, vài ba anh khóa 15, 17 và hai chàng khóa 19 VB Đà Lạt đầy phong độ, cũng vừa mới ra trường năm ba tháng trước. 

Tôi nhận trung đội với chỉ 25 thằng lính, nửa Kinh nửa Thượng.  


Ngay sau khi nhận trách nhiệm, công việc đầu tiên của tôi là dắt đám lính tráng vào QYV Nguyễn Huệ để dự đám tang, chào tiễn đưa ông Thượng sĩ già, trung đội trưởng tiền nhiệm ra nghĩa trang Đồng Đế. 

Ông vừa tử trận vài ngày trước đó trong một trận phản phục kích tại Tu Bông (Vạn Giã) và tôi đến trung đội để thay thế ông.  

Nhìn bà vợ và mấy đứa con của ông kêu gào, khóc la thảm thiết, tôi hình dung ra con đường thê lương trước mặt, và tự trấn an mình: mai này mình chết, may ra cũng không có tiếng quả phụ và trẻ thơ khóc lóc!

Thời ấy, nhờ ảnh hưởng kết quả của kế hoạch Ấp Chiến Lược còn sót lại, nên tình hình địch ở mọi nơi còn rất yếu, hầu hết là các lực lượng du kích và địa phương, nên bị tiểu đoàn chủ lực lưu động thiện chiến của tôi đánh cho tan tác. 

Do vậy chúng tôi đến đâu, cũng được các ông tỉnh trưởng đón tiếp nồng hậu.  


Sau hơn ba tháng theo đơn vị tiếp tục hành quân qua nhiều làng mạc, rừng núi và dẫm nát những mật khu Đồng Bò, Đá Bàn, Hòn Hèo của địch, đơn vị kéo về trú đóng trong một vườn dương bên bờ biển Nha Trang. 

Đám sĩ quan bọn tôi được ông tỉnh trưởng ưu ái dành cho bốn phòng trong khách sạn Phụng Hoàng, nằm trước ga xe lửa.  

Mệt và mất ngủ vì vừa trải qua cuộc phục kích đêm hôm trước, nên sau khi tắm rửa xong, tôi ngủ vùi một giấc. Thức dậy, nhìn ra ngoài, ánh đèn đường đã bắt đầu sáng. Mở ba lô tìm bộ quân phục mới để thay bộ quần áo trận còn dính đầy bùn lầy, cho hợp với khung cảnh phố phường.  

Dự định đi một vòng tìm lại những hang động tuổi thơ cùng dấu tích mấy mối tình học trò của vài năm trước, tôi bỗng nghe tiếng ông tiểu đoàn trưởng gọi tất cả bọn tôi lên xe trở về đơn vị, điểm danh sắp xếp lính tráng lên tàu Hải quân, đã ủi bãi ngay phía trước TTHL Hải Quân. 

Ra khơi lúc 11 giờ đêm. Qua hơn một đêm lênh đênh trên biển, tàu cặp vào bến của Duyện Đoàn 24 HQ bên bờ biển Tuy Hòa. 

Trong số những người ra đón đơn vị chúng tôi, ngoài ông tỉnh trưởng- trung tá Trần Văn Hai, anh trung úy Duyên Đoàn Trưởng HQ, tôi còn bất ngờ nhận ra ông anh con bà cô, trung úy thuộc Tiểu Đoàn 23 BĐQ đang hành quân trú đóng ở đây. 

Từ khi anh vào quân đội, bao nhiêu năm anh em không gặp, bất ngờ lại nhận ra nhau ở một nơi xa lạ, vui mừng quá đỗi. 

Anh em vừa mới ôm nhau, hỏi han vài câu, thì đơn vị nhận lệnh lên xe di chuyển. Ông anh kéo tôi và mấy sĩ quan cùng đại đôi lên xe Jeep của anh chạy theo đơn vị. 

Về khu Nhà Bằng, vị trí đóng quân tạm, sắp xếp đơn vị xong, bọn tôi theo anh ra phố. “Moa đãi các toa một chầu để biết mặt Tuy Hòa – xứ nẫu”. Anh bảo thế trước khi lái xe đi.

Tôi bỗng giật mình khi nghe “xứ nẫu”. Cái tên “Nam Ngãi Bình Phú” và “Liên Khu Năm” vẫn còn hằn trong tâm trí tôi từ lúc mới lên năm, bởi cha tôi bị Việt Minh bắt đưa ra đây hơn ba năm khi ông là thầy giáo đang dạy trường Pháp Việt, và mẹ tôi qua đời trước đó hai năm. Kể từ ấy tôi sống với ông bà nội, thiếu vắng cả cái tình phụ mẫu. 


Có lẽ đã phải trải qua những năm dài chiến tranh, nên phố xá Tuy Hòa ngày ấy còn “hoang sơ” lắm. Ngoài văn phòng Air Vietnam hai tầng và khu chợ mới xây dang dở, hầu hết là nhà cũ. Ông anh chở bọn tôi đến một cái quán nằm bên cây cầu, trên đường hướng ra Quốc Lộ 1. Tôi không còn nhớ tên, nhưng quán này nổi tiếng về món cá lóc nướng, và đặc biệt có mấy o Huế rất xinh. 

Để tránh tình trạng “tấn công nhầm mục tiêu”, ông anh tôi cho biết:

– Tuy Hòa có hai quán ăn nổi tiếng, đều có hai cô chủ “hoa khôi” gốc Huế, nhưng một quán đã có ông quan năm trung đoàn trưởng đóng đô, còn quán này là sào huyệt của ông chi đoàn trưởng Thiết Giáp có tiếng hào hoa.

Nhìn mặt thằng nào cũng buồn xo, ông anh tôi cười, an ủi:

- Yên chí đi! Tuy Hòa còn thiếu gì cô bé dễ thương. Trường trung học Nguyễn Huệ có biết bao cánh hoa biết nói, và mai mốt khi các toa ra vùng hành quân, sẽ có khối cậu chết mê chết mệt vì mấy cô gái quê! Bọn lính trong đơn vị moa thường kháo nhau: “Phú Yên đến dễ khó về” đấy! 

Thấy trong đám bọn tôi có hai chàng khóa 19VB, ông anh cho tài xế chạy về đơn vị đón một anh cùng khóa 19 ra gặp bạn đồng môn. Hơn 20 phút sau, một thiếu úy BĐQ cao ráo đẹp trai đến nơi chạy vào tay bắt mặt mừng. Cái tình Võ Bị quả là thắm thiết. Anh được giới thiệu là ” Chương Cl***ic”. Và để giải thích cái nick name của mình, anh mượn cây ghita của cô chủ quán, độc tấu mấy bản nhạc Tây cỗ điển. Ngón đàn của anh quả thật tuyệt vời! 

Chỉ sau ba hôm ở thành phố, đơn vị tôi có lệnh di chuyển đi Hiếu Xương, đến đầu cầu Bàn Thạch để hành quân tái chiếm lại một vài nơi đã bị Cộng quân làm chủ tình hình. Ông tỉnh trưởng cũng đã cảnh báo đám sĩ quan trẻ chúng tôi:

- Ở vùng ấy nhiều gia đình có thân nhân theo VC, nên mấy chú phải cẩn thận, nhất là thấy mấy cô con gái đẹp đừng có vội nhào vô. Trước đây đã có một anh chàng sĩ quan đề lô Pháo Binh mết lòng con bé thợ may, hành quân xong cứ ra ngồi ngoài quán, cuối cùng không thấy trở về đơn vị nữa, mất tích luôn!

Đám lính trẻ bọn tôi “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ” nên chỉ còn nhớ tới “mấy cô con gái đẹp” trong câu nói ấy của ông thôi.


Trung đội tôi được lệnh đóng quân giữ an ninh cầu Bàn Thạch và khu vực chung quanh. Cây cầu xi măng đúc đã bị VC giật mìn sập, nên vừa được Công Binh bắc cây cầu gỗ tạm. Cầu nằm gần chợ, và phía bên kia là vùng mất an ninh. Một tiểu đội của tôi nằm tiền đồn bên ấy. Ban chỉ huy trung đội và một tiểu đội bố trí ngay dưới gầm cầu. 

Sắp xếp vị trí đóng quân và canh gác xong, đã gần 5 giờ chiều, tôi bảo mấy chú lính dọn cơm ăn, để tôi còn đi một vòng chợ tìm xem các cô gái có “đôi mắt người… Phú Yên” ra sao.  

Vừa mang mấy lon guigoz cơm ra, bốn thằng chúng tôi chưa kịp cầm đũa, thì một trái lựu đạn từ trên cầu rơi xuống. 

Một anh lính phát giác la lên, cả bọn kịp lăn mình qua bên kia tấm cầu đúc (bị sập xuống), nhưng trái lựu đạn không nổ! 

Chỉ năm phút sau, người ném lựu đạn bị toán lính của tôi bên kia cầu đuổi bắt. Đến nơi, tôi ngạc nhiên khi nhận ra, không phải một, mà là hai cô con gái quê, tuổi cỡ 14-15,  một cô khá xinh, có đôi mắt đẹp.  

Cô bé này chính là người ngồi phía sau xe đạp, ném trái lựu đạn định giết tôi – chàng “lính trẻ hào hoa”, chỉ mới vài phút trước đây có ý định đi tìm… đôi mắt ấy. 

Đưa hai nữ “địch quân” đến trình diện ông tiểu đoàn trưởng. Thấy hai cô bé vừa run vừa khóc, mặt mày tái xanh, ông “tâm lý chiến”rất hay, vỗ vai hai cô bé, vừa cười vừa ôn tồn nói chuyện. Hai cô khai hết sự tình, nên được dẫn về giao cho gia đình, vừa “chiêu hồi” và cũng vừa cánh cáo, theo dõi họ. Một tuần sau, toán quân báo tiểu đoàn bắt được người đàn bà trong mũi công tác đã dụ dỗ hai cô bé làm giao liên và ném trái lựu đạn xuống cầu.

Chiều hôm sau, đơn vị có lệnh xuất phát cuộc hành quân bao vây và đánh chiếm kho vũ khí của địch tại Đa Ngư-Phú Lạc, nằm trên một khu núi đá sát biển, địa thế khó khăn hiểm trở và được phòng thủ rất kiên cố bằng nhiều ổ súng đại liên.

Tin tức cho biết địch quân đã chiếm làng Thạch Tuân và khu vực Hảo Sơn hơn hai tuần nay. Bộ đội địa phương vừa tiếp nhận một số lượng lớn vũ khí từ miến Bắc chuyển vào khu núi Đa Ngư Phú Lạc bằng thuyền. 

Đơn vị tôi có trách nhiệm phải đánh chiếm kho vũ khí này và sau đó tảo thanh các khu vực địch trong vòng hai tuần để đưa một đơn vị Bảo An của Tiểu khu vào trấn giữ. Đơn vị tôi được tăng cường Đại Đội 23 Thám Kích. Tất cả đều được trang bị mặt nạ chống hơi độc. 

Khởi hành từ tuyến xuất phát lúc 11 giờ trưa, mãi đến gần 3 giờ chiều chúng tôi mới đến khu vực mục tiêu, vì phải di chuyển qua những địa thế khó khăn hiểm trở để tránh bị phát hiện, gây yếu tố bất ngờ cho địch. 

Đại đội 3 của tôi đi dọc theo bờ biển đến phục dưới chân núi làm lực lượng án ngữ. 

Nỗ lực chính đánh chiếm mục tiêu là đại đội 23 Thám Kích và đại đội 2 của ông anh trung úy gốc Bắc kỳ. 

Không ngờ trận chiến lại khó khăn khốc liệt đến như thế, phải chia nhau từng nhóm nhỏ bò lên chiếm các hốc đá nằm bên ngoài căn cứ, bị địch phát hiện, cầm chân bằng đạn súng cối đủ loại và nhiều ổ súng đại liên. 

Vì đây là kho vũ khí, nên địch có đầy đủ các loại vũ khí và đạn dược. Cuối cùng phải nhờ đến phi yểm, mặc dù rất bất lợi vì trời chiều, sắp tối. 

Theo các trái sáng (cầm tay) được đồng loạt phóng lên đánh dấu vị trí bạn, cùng với sự hướng dẫn, chỉ điểm tài tình của anh phi công L19, hai phi tuần khu trục liên tiếp đánh bom rất chính xác xuống căn cứ địch, diệt các ổ súng đại liên, để lực lượng ta bám sát mục tiêu. 

Đại đội 23 TK và đại đội 2 của anh trung úy gốc Bắc Kỳ đánh đẹp một cuộc cận chiến, chiếm được căn cứ, một số tù binh bị bắt.  

Đại đôi 1 của anh trung úy Khóa 16VB kịp thời tăng cường bao vây và truy kích.  

Trận chiến kết thúc trước khi trời tối. Số chiến lợi phẩm thu được khá lớn, địch quân dự trù trang bị các loại vũ khí mới này cho các đơn vị thuộc Liên khu 5 của chúng.  

Tiểu đoàn kéo về Đông Tác dưỡng quân, được ông tướng tư lệnh Vùng và ông trung tá tỉnh trưởng đến thăm, mừng chiến thắng. 

Anh trung úy (nhiệm chức) gốc Bắc kỳ khóa 13 Thủ Đức được vinh thăng (điều chỉnh) trung úy thực thụ và tưởng thưởng anh dũng bội tinh với nhành dương liễu.  

Anh trung úy khóa 16VB được ngôi sao vàng. Nhiều sĩ quan và binh sĩ có công cũng được trao gắn huy chương. 

Ba ngày sau, được tiếp tế lương thực và đạn dược, tiểu đoàn trở lại Thạch Tuân.  

Chiếm lại ngôi làng nghèo này rất dễ dàng, cả đơn vị tiếp tục tiến quân vào Hảo Sơn, Đá Bia. Một khu vực núi non hiểm trở. Địch quân đã chiếm ngự các cao điểm trọng yếu.  

Trung đội tôi có lệnh mở đường dọc theo thiết lộ, nằm sâu giữa hai vách núi, để chiếm một ngọn đồi, đặt đại liên yểm trợ cho đơn vị còn lại bung ra hai triền núi phía trước. Con đường độc đạo hoàn toàn bất lợi, nhưng không còn lối nào khác. 

Nhờ pháo binh bắn dọn mục tiêu, nên trung đội tôi dễ dàng chiếm lĩnh ngọn đồi, ngay sau khi một toán địch quân vừa bỏ chạy, không kịp mang theo nồi cơm đang nấu và mấy cái võng nilon còn cột chặt trên cây. Cả tiểu đoàn tiếp tục tiến quân hai bên triền núi.  

Trận chiến khá quyết liệt, vì địch quân đã có sẵn nhiều cái chốt trên các hốc đá nằm cao trên núi, bắn trung liên và ném lựu đạn xuống quân ta phía dưới.  

Trời đổ mưa như trút nước. Đại đội 1 của ông anh Khóa 16 VB là mũi tiến công chính. 

Dù ở thế hoàn toàn bất lợi, nhưng nhờ tài chỉ huy và điều quân gan dạ của chàng trai Đa Hiệu, cuối cùng cũng đã chiếm được mục tiêu. Địch quân tháo chạy, bỏ lại vài chục xác chết và trên mười khẩu súng. Bên ta, hai binh sĩ tử thương và vài người khác bị thương nhẹ. 

Trời tiếp tục mưa không dứt. Bóng tối đã bắt đầu phủ kín khu vực hành quân. Có lẽ lo ngại địa thế bất lợi cho một cuộc đóng quân đêm và địch quân có thể được tăng cường phản kích, nên cả đơn vị có lệnh khẩn cấp rút quân ra. 

Riêng trung đội của tôi phải nằm lại để yểm trợ và đề phòng địch quân tập hậu. Khi được lệnh rút ra sau cùng, tôi xin pháo binh bắn chặn, để trung đội chia làm hai cánh yểm trợ nhau rút nhanh ra.  

Tôi đi theo cánh quân có lộ trình nguy hiểm hơn: theo con đường sắt. Nép sát vào vách núi, di chuyển rất nhanh, nhưng chỉ năm phút sau thì nhiều loạt đạn từ trên triền núi bắn xuống.  

Đạn địch xối xả xuống đường xe lửa, chát chúa ngay sát dưới chân tôi, tóe lên nhiều đóm lửa. Có cả đạn súng cối.  

Tôi nghe vài tiếng la đau đớn. Anh trung sĩ và một người lính đi sau lưng tôi trúng đạn. Anh trung sĩ bị bắn vào chân, còn anh lính kia bị thương nặng ở vùng bụng, ruột đổ ra ngoài. Cho người băng vội vết thương bằng các băng cá nhân, tôi vừa gọi xin tiếp ứng vừa xin pháo binh bắn cản hậu, rồi cõng anh lính bị thương rất nặng chạy nhanh ra khỏi vùng nguy hiểm. 

Người tôi ướt đẫm cả máu, nước mưa, và có thể có cả nước mắt (cho người thương binh -không có chút hy vọng sống- của mình). 

Trên đường trở lại làng Thạch Tuân đóng quân đêm, cả tiểu đoàn dàn hàng ngang lội bì bõm dưới những đám ruộng ngập đầy nước. Du kích trong làng lại bắn ra. Chúng tôi bám theo các bờ ruộng xâm nhập vào làng, nhanh chóng bao vây tứ phía, cả toán du kích không chạy kịp bị chúng tôi bắt.  

Xe tải thương không thể nào đến được vì không có an ninh lộ trình.  

Tối hôm ấy, anh lính bị trọng thương của tôi, vốn là một tân binh quân dịch, quê tận Gò Công, đã trút hơi thở cuối cùng trên tay tôi, sau khi giao cho tôi cái bóp có hai tháng tiền lương và thì thào lời trối trăn đứt đoạn, nhờ tôi chuyển lại cho vợ và đứa con gái đầu lòng chưa đầy một tuồi mà anh chỉ mới về phép thăm cháu một lần.  

Đó là người lính đầu tiên dưới quyền đã chết, trên tay tôi. Anh có cái tên rất dân dã mà tôi không bao giờ quên được: Nguyễn văn Tý. Trùng tên với một nhạc sĩ tài hoa và khí khái mà sau này tôi mới biết.


Mục tiêu các cuộc hành quân đã hoàn tất, tiểu đoàn chúng tôi được lệnh về đóng quân dọc theo Quốc lộ 1, từ ngã ba Phú Lâm đến hết Bàn Nham, Bàn Thạch.  

Trung đội tôi lại nhận lãnh cái cầu (gãy) Bàn Thạch, nơi mà tôi được cô gái Phú Yên đón chào bằng một trái lựu đạn nội hóa.  

Cứ vài ba hôm chúng tôi lại tổ chức các cuộc hành quân (có khi luân phiên từng đại đội có khi cả tiểu đoàn) ở Hòa Xuân, Hòa Thịnh, Sơn Thành, hay ra tận Ngân Sơn (Tuy An), Hiệp Mỹ, Tuyết Diêm, Hòa Phú, phía dưới đèo Cù Mông (Sông Cầu), giáp ranh Bình Định. Chấm dứt hành quân lại trở về “cứ điểm” Bàn Thạch.  

Lúc này con đường từ Bàn Thạch ra phố Tuy Hòa đã tương đối an ninh, nên những ngày không bận hành quân, bọn tôi được phép thay phiên nhau xuống phố Tuy Hòa. 

Cũng có những đón đưa trước cỗng trường Nguyễn Huệ, Bồ Đề. 

Cũng có những hẹn hò ngoài bãi dương, quán nước.

Trong đám bọn tôi cũng vài thằng có những cuộc tình chợt đến chợt đi. 

Thì ra các cô gái Tuy Hòa trông dễ thương mà thương thì không dễ lắm.  

Lúc ấy, tuổi trẻ bọn tôi còn cao ngạo: “mấy thằng lính ngang tàng này thì dễ gì mà chết trong mắt em”!, nhưng khi cô đơn lại tự an ủi mình: “đời lính tráng như vậy mà vui, không nợ nần, không làm khổ một ai, vợ con làm gì cho vướng chân vướng cẳng!”, tránh cái cảnh như một ông nhà thơ sau này đã thốt lên lời bi thảm “anh trở về dang dở đời em”! 

 

Hồi còn trong lính, tôi ghét cay ghét đắng bài thơ được phổ nhạc này. Đám lính tráng về phép mà nghe được đôi lần, chắc nhiều thằng không muốn trở về đơn vị nữa. Nhưng bây giờ ngồi nghiệm lại, tôi thấy đúng, cho dù có chút đắng cay. 

Lính bị thương tàn phế, hay là lính bị đày ải trong tù “cải tạo” ngày trở về ít nhiều gì cũng đã làm dang dở đời em.

Dù vậy, trong đám bọn tôi cũng có ba chàng phá luật chơi. Một thằng, cùng khóa với tôi, yêu một cô bé học mới lớp đệ lục, nhà ở cạnh chợ Tuy Hòa, một tiệm bán đồ gỗ nhỏ.  

Bọn tôi cứ nhạo nó là “dụ dỗ gái vị thành niên” và “tiền lương của mày không đủ để mua gạo thúc cho nó lớn”! Vậy mà cuộc tình cũng gắn bó hơn một năm. 

Ngày đơn vị tôi từ giã Tuy Hòa, cô con gái ấy đã tốn khá nhiều nước mắt. Sau này dường như cô bé trở thành cô giáo, lấy chồng là một đồng nghiệp tốt nghiệp Sư Phạm Qui Nhơn.  

Thằng bạn của tôi được giải ngũ sớm vì cận thị nặng. Nó trở về tiếp tục sách đèn. Tốt nghiệp sư phạm Đại học Đà Lạt về dạy Triết tại vài trường trung học.  

Năm 1973, khi nghe bạn bè bảo tôi đang nằm dưỡng thương ở QYV Nguyễn Huệ Nha Trang, nó từ đâu tìm đến thăm.  

Khi nhắc tới thời lính tráng ở Phú Yên, đôi mắt nó sáng lên, bảo là nó vừa bất ngờ gặp lại cô bé Tuy Hòa ngày xưa, khi cả hai cùng làm giám khảo và giám thị một cuộc thi Tú Tài ở trường Nguyễn Huệ hay Cường Đễ gì đó. 

Nó cười, nhưng đôi mắt nó lại mơ màng nhìn về một nơi nào đó… xa xăm!

Một ông đàn anh khóa 14 Thủ Đức của tôi, SQ/CTCT Tiểu Đoàn, vốn tu xuất và bị động viên khi đang dạy ở một trường La San Taberd nào đó, lại vướng vào lưới tình của một cô giáo Bàn Thạch. Là con một của bà già góa bụa. Cô giáo có nhan sắc và hiền lành, cười nhiều hơn nói. Có lẽ lớn hơn tôi một vài tuổi. Chị tỏ ra rất thân tình với đám lính trẻ bọn tôi. Chỉ một thời gian, chúng tôi xem nhau như người nhà. Khi nào chán cơm lính, bọn tôi rủ nhau ra chợ mua thịt cá rồi kéo đến nhà chị để nhờ chị nấu cơm, rồi cùng nhau ăn uống và đàn địch ca hát cả ngày. 

Ông đàn anh “tu xuất” của tôi vốn làm thơ tình rất hay, đàn ca có “trường lớp” lắm. Nghe nói trước kia anh làm trưởng ca đoàn trong mấy nhà thờ. Anh thường đệm đàn cho cô giáo hát bài “Chuyện tình Lan và Điệp”. Giọng hát Phú Yên cũng não nùng ai oán lắm. Đặc biệt phía sau nhà có cái giếng nước rất trong, nên chúng tôi thường ghé vào tắm rửa sau các lần hành quân trở về. Sau này, ông đàn anh thuyên chuyển về Vùng 4 trong Nam.


Mãi đến năm 1980, tôi bất ngờ gặp lại anh trong một trại tù ngoài Bắc. Ngạc nhiên và thú vị khi nghe anh kể là anh vẫn còn độc thân, và cô giáo Bàn Thạch ngày xưa giờ cũng chưa chồng. Điều làm tôi sững sờ hơn là ông bố của cô không chết mà tập kết ra Bắc năm 1954. Sau 75 về lại Phú Yên và giữ một chức hàm khá lớn. 

Cô giáo bây giờ không làm nghề giáo nữa mà đang là một cán bộ, chủ nhiệm hay trưởng phòng gì đó của chính quyền CS. 

Anh còn khoe là cô giáo thường gởi quà cho anh, và còn cho tôi đọc ké mấy lá thư cô ấy viết, bảo là sẽ ra thăm anh, cũng như hứa hẹn bảo lãnh cho anh về Phú Yên, nếu anh thấy lo lắng không muốn trở về quê quán Mỹ Tho, và nơi ấy anh cũng chẳng còn ai, sau khi bà mẹ già đã mất. Nhưng không thấy cô đề cập đến chuyện “nối lại tình xưa”. Tôi ngại, nên cũng không dám hỏi anh.  

Cuộc tình “giữa hai chiến tuyến” này liệu có làm cho con tim thắng được tất cả mọi giáo điều chủ nghĩa, để vượt qua bao hận thù, tang tóc? 

Rất tiếc, tôi không tìm được câu trả lời này. Vì mãi đến bây giờ tôi vẫn chưa gặp lại anh ấy, mặc dù tôi đã nhắn tin và tìm hỏi rất nhiều bạn bè sang Mỹ theo diện HO. 


Đôi lúc, nghĩ về họ, tôi hình dung đến một đôi vợ chồng già sống hạnh phúc trong ngồi nhà ngói xưa ở Bàn Thạch, có khu vườn và cái giếng nước trong, anh đàn em hát; hay đang cùng quì xuống cầu kinh trong một ngôi nhà thờ nào đó. 

Cô giáo hiền thục ngày xưa không thể nào trở thành một “nữ đồng chí CS” thứ thiệt được, chắc cũng đã sớm nhìn ra cái lý tưởng hoang đường mà ông cha của cô đã mê muội theo đuổi, để đành lòng bỏ lại mẹ con cô một thời góa bụa cút côi, giờ chỉ còn lại bao hệ lụy đau lòng. 

Có thể cô đã từ bỏ mọi chức tước (nhờ vào thành tích”phấn đấu”của cha), để cùng người tình xưa – người lính khác chiến tuyến với cha cô – sống trong hạnh phúc bình thường.  

Cầu mong những người con gái Phú Yên, dù hoàn cảnh nào cũng luôn giữ trọn mối tình xưa.


Đặc biệt nhất, và cũng gắn bó nhất, chính là chuyện tình của ông đàn anh Khóa 13 gốc Bắc Kỳ, có nụ cười và đôi mắt dễ làm ” khuấy động trái tim người… ta” mà chúng tôi đã kết nghĩa anh em. 

Đại đội của anh là đại đội đánh đấm khá nhất, nên được ông tiểu đoàn trưởng tin tưởng, giao cho đóng quân và phụ trách vùng đất bất an nhất: từ phía nam Bàn Thạch đến tận làng Thạch Tuân, tiếp giáp Đèo Cả, ranh giới cuối cùng phía nam của tỉnh Phú Yên.

Ban chỉ huy đại đội đóng quân sau khu vườn của một ngôi nhà ngói lớn hai tầng duy nhất ở vùng này. Đối diện phía bên kia, sau con hương lộ, là ngôi trường tiểu học. Ông bà chủ nhà thuộc hàng khá giả, vừa làm chủ một cửa hàng tạp hóa ở tầng dưới, vừa làm nước mắm ở khu nhà sau. Một ngày cuối tuần, anh rủ chú lính cận vệ ra giếng tắm. Thầy trò chỉ mặc quần xà lỏn huýt sáo nhởn nhơ, bất ngờ gặp hai cô gái đang ngồi giặt áo quần bên thềm giếng. 

Sau khi bớt ngượng ngùng, hỏi ra mới biết là con ông bà chủ nhà, học ở Tuy Hòa, cuối tuần về thăm cha mẹ. 

Có lần tôi ghé lại thăm anh, được ông bà chủ nhà và hai cô con gái mời hai anh em tôi dùng bữa cơm thịnh soạn. Ông anh Bắc kỳ hào hoa nhưng rất kín miệng. Nhìn ánh mắt tôi biết là anh đang mết cô chị. Cô em còn bé lắm. 

Ông bà già mua hẵn một ngôi nhà khá khang trang ở phố Tuy Hòa, gần trường Nguyễn Huệ cho hai cô và một ông anh trú ngụ học hành. Là anh em kết nghĩa, vậy mà cuộc tình của anh, tôi không biết mặn nồng đến đâu. Chỉ biết lâu lâu anh lái xe bỏ bọn tôi xuống phố Tuy Hòa, lì xì vài chục uống bia, rồi phóng xe đi một mình. Đúng hẹn ghé đón bọn tôi với nụ cười lúc nào cũng nở trên môi. 


Hơn một năm từ ngày đổ quân xuống Tuy Hòa, cũng vào một ngày hè nắng cháy, tiểu đoàn tôi có lệnh rời khỏi Phú Yên, bàn giao trách nhiệm lại cho Trung Đoàn 47 biệt lập từ Bình Tuy ra để sáp nhập vào Sư Đoàn 22BB, mà bản doanh Bộ Tư Lệnh đóng ngoài Bình Định.  

Đơn vị tôi cùng chi đoàn Thiết Quân Vận của ông đại úy tài hoa Bùi Thế Dung, lại lên tàu há mổm xuôi nam, đổ quân xuống Phan Thiết.

Ông đàn anh Bắc Kỳ của tôi sau này lên làm tiểu đoàn trưởng, đánh thắng một trận lẫy lừng tại Căn Cứ 6 Pleiku đầu năm 1971, đươc ông Tướng Vùng gắn lon thiếu tá đặc cách tại mặt trận.  

Sau đó được ông tỉnh trưởng Ninh Thuận (vốn là cựu trung đoàn phó của chúng tôi khi còn đóng ở Phú Yên) xin đích danh anh về Phan Rang làm quận trưởng. 


Một hôm, bất ngờ tôi nhận được thiệp hồng của anh mời đám cưới. Tôi ngẩn người khi đọc thấy tên cô dâu chính là cô hoc trò, con bà chủ quán ở Bàn Thạch ngày xưa, nơi anh đóng quân sau vườn nhà 6 năm về trước.  

Đến bây giờ tai tôi vẫn còn văng vẳng dư âm Bài Không Tên Số 2, với giọng hát Phú Yên thật nồng nàn cảm xúc, chị đã hát tặng bọn tôi ngay sau ngày đám cưới. 


Phải chăng ”đời một người con gái (Tuy Hòa) ước mơ rất nhiều, nhưng trời cho không được mấy, đến khi lấy chồng chỉ còn một mối tình mang theo”? 

Điều trùng hợp lý thú là năm 1976, khi bị chuyển tù ra Bắc, anh và tôi lại gặp nhau, ở chung một trại. Anh em thường gặp nhau tâm sự.  

Trong cảnh tù đày khốn khó, tình anh em gắn bó như xưa. Mỗi lần chị ra thăm nuôi anh đều mang theo thêm phần quà cho tôi.  

Có khi chị giả vờ đi lại trên con đê trước nhà thăm nuôi, biết chúng tôi sau một ngày lao động sẽ được về tắm giặt ở bên con đê ấy, để dúi vào tay tôi mấy tờ giấy bạc. Lòng tôi cảm động. 

Không ngờ cô con gái hiền lành ở vùng quê Bàn Thạch ngày xưa ấy, sau ngày chồng vào tù, đã dắt ba thằng con trai, mà đứa nhỏ nhất chỉ mới tròn 2 tuổi, vào Sàigòn bươn chãi nuôi con, tạo dựng được cơ ngơi nơi vùng đất lạ xô bồ phức tạp này. Và với chúng tôi, còn là một người bạn, người chị chí tình. 

Anh chị sang Mỹ theo diện HO. Mang theo kinh nghiệm từ Việt Nam, chị sớm vào nghiệp bán buôn. Chỉ một thời gian ngắn gia đình khá giả. Ba đứa con trai đều thành đạt. Cháu trai út ra bác sĩ, cháu giữa làm luật sư, còn cháu lớn là kỹ sư, nhưng sau này đã trở thành một mục sư đi rao giảng đức tin Thiên Chúa. 

Ngày đám cưới cháu trai thứ nhì, vợ chồng tôi sang tham dự. Bạn bè cùng đơn vị xưa từ khắp nơi cũng qui tụ về đây. Bất ngờ gặp một nhóm đồng môn Nguyễn Huệ của chị. Một cuộc hạnh ngộ thật kỳ thú. “Phe anh phe chị”. Chúng tôi biết thêm một số người đẹp Tuy Hòa xưa. 

Đám đàn bà ngồi nhắc tên những thầy bạn cũ. Đám đàn ông bọn tôi ngồi điểm danh lại những thằng bạn lính, từng in dấu giày saut trên vùng đất Tuy Hòa thuở trước. 

Giờ cũng chỉ còn có hai thằng: ông anh gốc Bắc kỳ và tôi. Một số đã chết trong chiến trận: Trương Ngọc Điệp, anh trung úy gốc Huế, đại đội trưởng đầu tiên của tôi ngày ấy, đã chết tại chiến trường Thiện Giáo (Phan Thiết) sau hơn một năm rời khỏi Tuy Hòa, và sau đúng hai tuần cưới vợ, một cô giáo Ninh Hòa gốc Huế. 


Vài tháng sau, ông anh Thái Hữu Dư, khóa 16VB, bị thương nặng trong một trận phản phục kích rất hào hùng tại Lâm Đồng, được thuyên chuyển về Vùng 4 sau khi xuất viện. Đặng Trung Đức, khóa 19 Đà Lạt, người bạn rất thân với tôi, tử trận tại Kontum trong “mùa hè đỏ lửa” khi đang làm tiểu đoàn trưởng.  

Trần Công Lâm, thằng bạn cùng khóa thân thiết nhất của tôi, trước khi nắm tiểu đoàn từng là một đại đội trưởng trinh sát lừng danh của Quân Đoàn II, cũng đã bỏ mình tại vùng Tây Bắc Kontum, trên dãy núi Ngok Wang đèo heo gió hú. 

Vài thằng giải ngũ vì thương tích. Số còn lại thì bị tù đày rồi tản mát khắp bốn phương trời!  

Nhưng dù còn sống hay đã chết, có lẽ thằng nào cũng mang theo ít nhiều bóng dáng và giọng nói của các cô gái Tuy Hòa, cùng bao kỷ niệm hào hùng, dễ thương của một thời trai trẻ.

Ngày rời khỏi Tuy Hòa năm ấy, đơn vị tôi cũng đã mang theo một số cô dâu Phú Yên xinh đẹp. 

Tôi còn nhớ mãi những khuôn mặt thật xinh xắn, làn da trắng nõn nà của các cô bé ở Ngân Sơn (Tuy An), bẽn lẽn “hóa trang”làm lính, xúng xính trong bộ quân phục của chồng, đầu đội cả nón sắt, lội nước leo lên tàu Hải Quân, sợ những người chỉ huy chặn lại không cho phép. 

Nhưng ông tiểu đoàn trưởng đã biết trước, bảo nhỏ đám chúng tôi cứ làm ngơ cho họ được “tùng phu”, khi biết chắc đây không phải là “mỹ nhân kế” của địch, và biết đâu đơn vị lại được thêm vài tay súng, những “người lính không có số quân“!

Ông trung tá trung đoàn trưởng cao lớn bô trai của tôi cũng đã mang theo cô chủ quán hoa khôi gốc Huế nổi tiếng một dạo ở Tuy Hòa.  

Ông đại úy Thiết Giáp hào hoa thì xuống tàu một mình. Sau này lên đại tá, trở thành thiết đoàn trưởng chiến xa lừng danh Vùng I, và đã rước cô ca sĩ Hà Thanh của xứ Huế về dinh.

 

Riêng tôi, rời Tuy Hòa, không vương vấn mối tình nào, nhưng lại mang theo một cậu con trai 15 tuổi. Thời gian đơn vị hành quân ở Phú Lâm, tôi đóng quân sau nhà chú bé. Từ đó chú bé cứ theo mấy chú lính của tôi và năn nỉ xin tôi nhận cho vào lính. Học tới lớp nhì thì cha chết, bà mẹ theo người chồng mới vào Cam Ranh hơn một năm sau. 

Chú bé ở với vợ chồng ông chú, vừa nghèo vừa đông con, lại bị bà thím hất hủi. Tôi động lòng thương nên thường cho lính gọi đến ăn cơm chung, và lâu lâu lì xì chút tiền lẻ. Chú có khuôn mặt khôi ngô, tình tình lễ phép, gọi tôi là anh ba, và khóc lóc năn nỉ nhất định xin đi theo tôi, dù góc bể chân trời nào. 

Vào Phan Thiết, tôi kể cho ông tiểu đoàn trưởng nghe hoàn cảnh đáng thương của nó, ông chở tôi và nó đến một văn phòng xã làm giấy khai sanh, tăng thêm đủ tuổi để nhận nó vào lính. Ông giao nó cho tôi. Tôi chỉ cho nó đi theo, mang cho tôi một balô sách và vài thứ thức ăn. Cuộc hành quân nào ác liệt, tôi gởi nó cho anh HSQ Tiếp Tế ở lại hậu trạm. 

Hơn bốn tháng sau, được gởi vào Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn. Nó trở lại đơn vị khi tôi đã làm đại đội trưởng, nhất định xin tôi tình nguyện vào tiểu đội thám báo. Không ngờ nó lại là thằng lính đánh giặc gan dạ, lẫy lừng, đã mấy lần cùng toán thám báo cứu tôi thoát chết.  


Hai năm sau, nó tử trận tại mât khu Lê Hồng Phong (Phan Thiết) vào một ngày gió mưa tầm tã, khi xông vào một căn hầm của địch. Khi ấy nó vừa tròn 18 tuổi đời.  

Lúc hấp hối, nó thoi thóp cố mở mắt nhìn tôi, đôi môi mấp máy như muốn nói với tôi một điều gì đó. Tôi vuốt mắt nó mà nước mắt tôi ràn rụa, trong lòng tựa hổ như đang có trăm ngàn vết chém. 

(Lê Xuân Tiên ơi! Bây giờ em đang ở một thế giới khác, bình an, không còn có hận thù chết chóc. Xin em hãy tha thứ cho anh. Đã mấy lần em xả thân cứu anh thoát chết, còn “anh ba” thì lại bất tài, không bảo vệ được cho em!).

Và đó cũng chính là món nợ ân tình duy nhất mà tôi không bao giờ trả được cho vùng đất Tuy Hòa – Phú Yên – của một thời chiến tranh, khốn khó.

Riêng ông trung tá tỉnh trưởng gốc Biệt Động Quân chịu chơi ngày ấy, sau này trở thành vị tướng lãnh tài ba và đã tuẫn tiết theo cùng vận nước vào cuối tháng 4/75.  

Còn ông anh Nguyễn Văn Tri, con bà cô, và anh “Chương Cl***ic” của Tiểu Đoàn 23 BĐQ đã thoát chết trong một lần Tiểu Đoàn nghỉ quân trong căn cứ của một đơn vị ĐPQ, bị nội tuyến từ trong đơn vị ĐPQ này.  

Sau này anh Tri bị thương, được chuyển về TTHL/BĐQ Dục Mỹ. Tôi ghé thăm anh một đôi lần khi đơn vị chuyển quân ngang qua Huấn Khu này. 

Anh sang Mỹ theo diện HO, định cư ở Boston, có cô con gái là ca sĩ Hạ Vy. và anh đã qua đời hơn 5 năm trước.  

Anh “Chương Cl***ic” khóa 19VB, sau này lên Thiếu tá, làm Tiểu Đoàn Trưởng một Tiểu Đoàn BĐQ lừng danh.  

Năm 1979, sau một lần chuyển trại tôi bất ngờ gặp lại anh trong một trại tù tận vùng Hoàng Liên Sơn.  

Hai anh em nằm gần nhau. Anh tự chế một cây đàn rất đẹp. Vẫn luôn giữ phong cách của một cấp chỉ huy, tư cách, nhẫn nhục, ít nói.  

Đêm đêm hai anh em uống trà tươi (giấu được khi hái trà cho trại), tôi ngồi nghe anh đàn.  

Trong hoàn cảnh ấy và với không gian yên ắng nặng nề, tiếng đàn Hạ Uy Cầm của anh càng thêm não nề réo rắt, chiêu dụ cả đám bộ đội canh gác, kéo nhau đến bên ngoài mê mẫn ngồi nghe. 

Nghe nói anh cũng đã sang Mỹ theo diện HO, nhưng nỗi buồn gãy súng vẫn chưa vơi, sống rất âm thầm với vết thương không lành được trong lòng. 


Xin cám ơn Phú Yên, cám ơn Tuy Hòa, cám ơn cả ngôi trường Nguyễn Huệ đã cho tôi những kỷ niệm vui buồn của một thời làm lính, với những đồng đội, bạn bè cùng những chuyện tình lãng mạn, dễ thương. 

Tất cả cứ như khói như sương lãng đãng quanh tôi trong những phút giây hồi tưởng.


Phạm Tín An Ninh



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - Ngày hôm qua lúc 9:14am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 101
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.492 seconds.