Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Chuyện Linh Tinh | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh |
Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. | |
<< phần trước Trang of 101 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23108 |
Gởi ngày: 31/Oct/2024 lúc 10:01am |
Bạn Tù Sơn LaTrời Sydney năm nay lạnh hơn mọi năm. Đêm đông buốt giá, phải trở dậy kiếm cái heater. Mở đèn lên, nhìn ra ngoài vườn, sương đêm đã đọng thành một màn băng mỏng. Nhìn màn băng mỏng trên sân, ký ức tôi bỗng trở về cái lạnh buốt xương năm 1976, khi tù cải tạo miền Nam năm đầu tiên ra Bắc. Tụi tôi được "chiếu cố" cho ở Sơn La, địa danh nổi tiếng "Nước Sơn La, ma Vạn Bú". "Sơn La âm u, núi khuất trong sương mù". Tù cải tạo thuộc trại 1, liên trại 2 được phân ra ở trong trại tù Sơn La thời Pháp thuộc. Sau nhiều cuộc biến thiên, nhất là sau vụ ném bom miền Bắc, các trại tù này đã đổ nát, chỉ còn lại cái nền xi măng. Nhà tù đã đổ bây giờ được che tạm bằng ni lông, hoặc lợp bằng tranh mỏng. Sơn La là miền cao nên lạnh sớm. Mới tháng 11 gió bấc đã lồng lộng thổi về. Đến cuối tháng 12, lạnh vào cao điểm... Chậu nước để ngoài sân, qua đêm đã đọng thành băng mỏng bên trên. Tù thì nóng cũng khổ, lạnh cũng khổ. Nhưng nóng thì đôi khi còn trốn được. Tạt vào một lùm cây hoặc là tạm ngâm mình xuống ao, xuống suối. Còn lạnh thì không trốn vào đâu được, nó theo mình suốt ngày, suốt đêm. Nhất là anh em trong Nam ra cứ yên trí là "học tập một tháng", nên quần áo đem đi làm gì nhiều cho nặng. Ra ngoài Bắc đụng cái buốt giá của mùa đông thượng du miền Bắc, thêm mưa phùn ẩm ướt nên cái lạnh lại càng thấm thía. Ban đêm cái nền xi măng trong nhà tù nó lạnh như nước đá, mặc đủ thứ áo quần hiện có mà vẫn lạnh, mặc cả áo mưa đi ngủ, có anh chui vào một cái bao tải vừa kiếm được mà vẫn cứ run. Hóa ra cái lạnh ở ngoài vào thì ít mà cái lạnh ở trong ra thì nhiều. Cái lạnh vì đói cơm nhiều hơn cái lạnh vì thiếu áo. Hồi đó nằm cạnh bên tôi là hai người bạn tù cùng trong đội rau... Một ông nguyên là dân Thiết Giáp, một ông nguyên là Thượng Tọa (giám đốc nha Tuyên Úy Phật giáo). Ông Thiết Giáp trước đây vốn là một tay hào hoa rất mực. Ông thuộc loại "Tây con", học trường danh tiếng Saumur, đánh giặc rất chì, ăn chơi rất bảnh... Đôi lần tâm sự vụn, ổng rút trong ngực áo ra có tấm ví có hình một bà rất đẹp, rất mignonne mà khẽ nói "bà xã moi". Đôi mắt đục và nhăn vì đói lạnh của ông chợt sáng lên khi nhìn lại hình ảnh vợ. Mới đây ổng vừa nhận được một gói quà 1kg đầu tiên từ trong Nam gửi ra. Ông hy vọng lắm vì có người nhận được ít thịt khô, ít ruốc chà bông. Gói quà của ông, xem đi xem lại mãi chỉ có một cái áo lạnh và đặc biệt có hai cái quần slip màu hồng nhạt, chắc là của phái nữ. Tôi không tiện tò mò, hỏi han về việc riêng của bạn nhưng tôi chắc bà xã của bạn phải yêu thương lắm, phải lãng mạn lắm mới gửi món quà để "tưởng nhớ một mùi hương" như vậy. Đôi khi rảnh rỗi, ông bạn tù hàng xóm của tôi lại khẽ giở món quà đặc biệt ra hồi tưởng... Trước đây ông bạn tôi thường hút Lucky. Đi cải tạo ông mang theo một cái pipe Dunhill và vài hộp thuốc Half and Half. Nhưng đã lâu rồi hết thuốc hút pipe, ổng cũng như mọi người khác hút thuốc lào. Quá nửa đời người rồi mới biết cái hấp dẫn của thuốc lào. Nhất là mùa rét, sáng sớm tinh mơ ngồi dậy, hút một điếu đầu tiên trong ngày, cho nó say lơ mơ quên trời, quên đất, quên cảnh lên voi xuống chó, quên luôn cảnh lưu đày tù tội. Ôi giây phút tuyệt vời... Thuốc lào hấp dẫn như vậy nên trong tù đã có thành ngữ "Có thuốc lào là có tất cả". Nhưng ở miền Bắc cái cần thiết nhất là gạo, ăn còn không đủ thì lấy đâu ra thuốc lào cho tù. Đành trông chờ vào quà của gia đình gửi tới. Nhưng trong những chuyến gửi quà đầu tiên, có mấy ai được nhận thuốc lào. Thuốc lào thành của hiếm... Ở trong tù cái gì thiếu cũng chấp nhận được, nhưng thiếu thuốc lào là một thiếu thốn rất lớn lao. Thuốc lào không những làm quên hiện tại mà thuốc lào còn là dấu móc để người tù cải tạo thêm kiên nhẫn đi tiếp cuộc đời tù dằng dặc. Trong trại không có ai có quyền đeo đồng hồ. Phải gửi đồng hồ cũng như những đồ tùy thân có giá ở trại. Ngày ngày đi làm, cuộc sống khổ sai nhọc nhằn, đời tù hun hút, thời gian mịt mờ. Trong khi đó quy định của trại giam cứ một tiếng rưỡi đồng hồ lao động là có "kẻng" nghỉ 10 phút "hút thuốc, uống nước". Điếu thuốc lào ở trên một cái đích gần gũi để người tù vươn tới, một đoạn đường dù ngắn nhưng sắp đến nơi. Nó cũng là một an ủi nhỏ sau hơn một giờ cực nhọc. Vì vậy nên dù khó kiếm, dù đắt đỏ, cũng không ai muốn bỏ thuốc lào. Những tay có thuốc lào thấy vậy nên càng ngày càng lên giá. Một phần ăn sáng (một phần tư chiếc bánh mì luộc) trước đổi được 5 điếu thuốc lào, sau xuống giá còn 3, rồi còn 2 điếu... Người ta sẵn sàng quên đi cái đói để đổi lấy một vài phút say quên. Anh bạn tù hàng xóm của tôi, nghiền thuốc lào quá nặng, rét đến nơi mà không thuốc hút. Anh liền lấy cái pipe Dunhill nổi tiếng của Ăng lê ra đổi thuốc lào. Được chừng 10 hôm là hết thuốc. Có người mách lấy lá ngải cứu phơi khô thái nhỏ hút vô nghe được lắm. Anh bạn tôi nghe lời, phơi đi phơi lại lá ngải cứu trộn thêm với nước điếu và một chút nước mắm, một chút đường. Hôm hoàn thành thuốc lào ngải cứu, anh có mời tôi hút thử, cũng thấy say say nhưng không êm bằng thuốc lào, mà rát cổ họng. Ông bạn tù Thượng tọa mới bảo rằng không nên hút cái giống ấy, hao người, hao phổi. Nhưng anh bạn tôi thèm thuốc quá cứ hút thuốc ngải cứu cho đỡ thèm. Một hôm, vừa hút xong, chưa kịp đặt cái điếu cày xuống, máu mũi anh đã chảy ròng ròng.,.. Mùa đông đầu tiên ngoài Bắc, anh bạn tù hào hoa một thuở của tôi vừa đói, vừa lạnh, vừa thèm thuốc. Theo anh thì mùa lạnh ở VN khó chịu hơn bên Tây nhiều mà lạnh nhất là hai cái tai. "Nhiều khi tôi cứ tưởng hai cái tai lạnh cóng của tôi nó rụng mất rồi". Anh vừa nói, vừa run lập cập. Một buổi tối trời vừa lạnh, vừa mưa, lán lợp giấy nilong, nước mưa giột tí tách, anh bạn tù của tôi chợt có sáng kiến mới. Anh lấy chiếc quần slip của vợ gửi cho chụp lên đầu, kéo sụp xuống tận mí mắt, che kín hai tai. Trong cái chập choạng của một ngọn đèn dầu hỏa, tôi thấy anh "không giống ai", mà trên thế giới này chắc không thể có một cái mũ, cái nón nào ly kỳ đến vậy. Anh nhếch một nụ cười, vừa hài lòng vừa ngượng ngập và khẽ nói: "Cho nó ấm hai cái tai mà đỡ nhớ thương vợ con, ông ạ..." Dạo ấy, tù cải tạo còn thuộc quyền quân quản, thuộc Bộ quốc phòng, chưa thuộc Bộ nội vụ. Quân đội trông nom tù, chưa phải công an. Anh em chưa phải vào các trại tù mà ở trong các lán, có dây thép gai bao quanh và bộ đội canh gác ở ngoài. Buổi tối chưa có lệ vào phòng giam, xích cửa lại, gióng sắt đưa lên giam tù trong đó suốt đêm, sáng mai mới tháo xích, mở cửa, ăn uống, ỉa đái trong đó luôn như các trại tù công an sau này. Nhưng mỗi tuần vài ba lần thế nào quân đội Vi Xi cũng có kiểm tra đột xuất, mà kiểm tra thường vào ban đêm. Nghe tiếng còi gắt gỏng rít lên là anh em phải vội vàng trở dậy, mắt nhắm mắt mở chạy ra sân đứng xếp hàng 2 để cho cán bộ kiểm soát. Anh "lán trưởng" sau khi kiểm lại số người trong lán, đứng nghiêm báo cáo. - Báo cáo cán bộ, lán 4 trại 1, 30 người đủ. Tên Thượng úy chính trị viên cầm đèn pin, đứng cạnh một anh lính mang AK tùy tùng, hất đầu ra lệnh: - Được, cho vào. Tù hàng hai lần lượt kéo nhau vô lán. Anh bạn tù Thiết Giáp của tôi đang giở thức giở ngủ nên lật đật cứ đội nguyên cái "mũ" không giống ai ra xếp hàng. Khi anh vừa đi qua tên Thượng úy, chợt có tiếng giật giọng: - Anh kia đứng nại. Tất cả anh em vô lán hết, chỉ còn NVP Thiết giáp đứng co ro ngoài cửa. Anh em lắng nghe cuộc đối thoại bên ngoài: - Cái này là cái gì" - Dạ... cái quần... - Ở đâu ra" - Vợ tôi gửi cho tôi. - Tại sao mà anh nại đội cái quần của vợ anh... - Tại trời lạnh quá... mà không có mũ... - À, anh này bôi bác chế độ. Anh tên gì" Mai nên nàm việc... Tên Thượng úy Vi Xi này anh em trong trại đặt tên là "Thượng úy Không No". Tuần nào sáng thứ Hai, y cũng lên lớp anh em về mọi thứ chuyện trên trời, dưới biển. Nói thì ngọng líu, ngọng lo, l đánh ra n nhưng lúc nào cũng thở ra giọng "đỉnh cao trí tuệ". Một hôm trong đề tài "an tâm học tập, cải tạo" y ta lên tiếng: "Các anh không no, gia đình các anh không no, nhân dân không no, đã có đảng và nhà nước no". Mọi khi, y ta nói trời trăng mây nước gì, tù cũng cứ ậm ừ, coi như gác bỏ ngoài tai. Bữa ấy, khi vừa nghe y nói tới đó, đám bạn tù cải tạo bỗng phát lên một trận cười rầm rĩ cũng với tiếng vỗ tay vang dậy. Y ta tưởng bở, lại càng đỏ mặt tía tai lên mà nói tiếp.... Nhưng sau này không biết có tên "thối mồm" nào đó mới lý giải cái cười rôm rả và tiếng vỗ tay không ngớt của tù cải tạo cho y. Y ta giận lắm. Giận lắm nên y hành hạ anh em tù sát ván. Một anh bạn tù đói quá, nhổ trộm khoai mì (sắn) mọc trên sườn non. Trước đây, cái tội như thế này chỉ bị cảnh cáo trước đội, rồi viết kiểm điểm "rút kinh nghiệm" là xong. Kỳ này, chính trị viên "Không no" liền nhốt anh bạn nhổ trộm sắn 1 tuần vào trong cái cũi dây thép gai, một kỳ công của đỉnh cao trí tuệ. Đây là một túp lều, nhưng một túp lều quây bằng dây kẽm gai. Không có tường mái, chỉ có một tấm bạt được coi như mái lều. Ở trong dây thép gai quấn ngang dọc, chằng chịt cao thấp. Người vô ở trong đó phải cẩn thận lắm không thì bị gai cào rách lưng, rách mặt, đặc biệt là ngồi không được vì thấp quá, nằm cũng không được vì không đủ chỗ. Lúc nào cũng phải nửa nằm, nửa ngồi cứ lom khom, lom khom... Chính trong thời điểm này anh bạn tù Thiết Giáp của tôi lên gặp "y ta làm việc". Khi về NVT mặt mũi chảy dài. Anh cho hay là cán bộ "không no" tuyên bố không cho anh đội cái mũ "thiếu văn hóa" ấy nữa. Anh phải làm kiểm điểm" hứa trước đảng và nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh lệnh của cán bộ". Buổi tối, bên ngọn đèn dầu tuôn khói mịt mù, anh bạn thiết giáp của tôi thở phào phào ngồi viết kiểm điểm, vừa viết vừa run vì đói lạnh, vì không có cái mũ che tai... Chợt ông bạn hàng xóm bên phải của tôi là Thượng tọa Thích Thanh Long (nguyên giám đốc nha tuyên úy Phật giáo) từ từ lên tiếng: - Đừng có lo, rồi đâu có đó... Nói xong, ông khẽ lục trong đám quần áo của ông lấy ra một tấm áo nâu dài, tấm áo "Thượng tọa" của ông mà đưa cho ông Thiết Giáp. - Hãy cứ quấn cái áo này lên đầu cho ấm... Rồi ta tính... Chúng tôi, ông Thượng tọa, ông Thiết Giáp, và tôi, là 3 người trong số 1 tổ "tam tam" trong đội rau. Ba người chúng tôi phụ trách một khu rau ở bên bờ suối, cạnh bệnh xá và khu B dưới gốc cây lim già... Chúng tôi cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm... nên hiểu nhau nhiều lắm. Được làm với ông già này là một điều may mắn lớn. Vì ông Thiết Giáp với tôi, từ xưa đến giờ đâu có biết cày cuốc, trồng rau trồng củ ra làm sao đâu. Ông già Thượng tọa chỉ vẽ cho chúng tôi hết thảy. Từ cách cầm cái cuốc, cái thế đứng khi cuốc phải như thế nào" Cuốc hùng hục "như trâu đánh mả" như tôi... là không được. Cuốc như thế là "cuốc lật" dành cho việc cuốc ruộng, cuốc vườn. Ở đây trồng rau thì cuốc phải "đầm", nhẹ nhàng, từ tốn như mưa dầm, mưa lâu thấm đất. Cuốc hùng hục như tôi thì sức đâu mà cuốc cả ngày cả buổi. Ông cụ còn chỉ cách sử dụng các loại cuốc thật nhỏ, chỉ lớn hơn cái bay thợ nề một chút thôi. Rồi còn ủ phân, pha nước tiểu, tưới bón, trồng trọt... Mỗi loại rau, mỗi thời kỳ đều tưới bón khác nhau, lúc nhỏ tưới bón khác, lúc lớn phải bón thúc lại khác. Bây giờ chúng tôi đang trồng rau cải ngồn ngộn, những trái su hào no tròn... Đi tưới nước giữa hai hàng cây cải tốt tươi, tiếng vòi nước hoa sen dội vào lá cải nghe rào rào, ông cụ ung dung làm việc, thần thái an nhiên. Ngoại cảnh hình như không ảnh hưởng được đến ông cụ. Ông giống như một ông già nhà quê thuần hậu, quanh quẩn bên cây lá trong vườn. Ông hình như không lo, không sợ cái gì. Ông nói ít, cái câu thường thấy ở ông cụ là: "Đừng có lo, rồi đâu có đó"... Để cho cái việc của ông bạn Thiết GIáp "đâu có đó" đối phó với anh thượng úy "không no", ông cụ Thanh Long một ngày chủ nhật sau đó liền cắt cái vạt áo dài nâu "Thượng tọa" của ông lấy vải may cho ông bạn Thiết Giáp một cái mũ đội đầu. Bàn tay già nua run rẩy (năm ấy 1976 ông cụ đã 63 tuổi) đường kim mũi chỉ cũng thô sơ vụng về nhưng ông bạn Thiết Giáp đón nhận cái mũ mà rưng rưng xúc động. Ông cụ đã cắt chiếc đạo y ra may mũ. Ai cũng tiếc chiếc áo dài theo ông cụ đã lâu, chắc mang nhiều kỷ niệm tu hành của một vị cao tăng, nhưng ông cụ chỉ cười xòa mà nói: "Thì nó cũng chỉ là cái áo..." Đã lâu lắm rồi, người địa phương ở Sơn La nói vậy, mới có năm quá lạnh như năm nay. Đúng là "giậu đổ bìm leo", vào cái lúc mà tù cải tạo ra Bắc, lại đụng ngay một trận rét kinh hồn... Mà xưa nay cái lạnh và cái đói có nó có liên hệ "hữu cơ" với nhau. Càng đói thì càng rét - mà càng rét thì càng đói. Anh em ta đã có người "nằm xuống" vì đói lạnh. Vũ Văn Sâm (viết văn, làm nhạc) chết đêm 16 rạng 17 tháng 11 năm 1976 bên bịnh xá, sau cơn gió mùa đông bắc đầu tiên. Đến đầu tháng giêng 1977 (không rõ là ngày 3 hay 13 tháng giêng, tôi nhớ không được kỹ lắm) Ngô Quý Thuyết tòa án quân sự vùng 4 cũng đi luôn, đi rất êm đềm, rất lặng lẽ. Sáng ra không thấy anh ta dậy nữa, lay chân gọi dậy thì người đã lạnh cứng từ lúc nào rồi. Trong tờ khai của đội trưởng đội của anh NQ Thuyết, có nói rằng "Anh NQ Thuyết được đội cử nuôi heo, anh đói quá nên thường ăn vụng cám heo. Chắc là bị ngộ độc nên đã chết". Ở xứ thượng du này có cái rất sẵn là đá và cỏ. Những bữa trời quang mây tạnh, trèo lên núi kiếm lá về ủ phân, thấy bát ngát toàn núi là núi. Những chỏm núi gần xa, chập chùng ngút mắt trông giống y như một màng lưới bao la mà mỗi ngọn núi là một mắt lưới. Sơn la: lưới núi. Hay thật, đúng y như thế thật. Tù mà ở trong cái lưới núi này thì chạy đi đâu cho thoát. Vì nhiều núi nên có nhiều loại đá. Một bạn tù trẻ tuổi ở khu B bên cạnh, Vũ Xuân Th. tay biệt kích dù mũ xanh kiệt hiệt có khá nhiều tài: đóng ciné, điêu khắc, vẽ, đánh bóng chuyền có hạng, mưu sinh kỳ tài... Bây giờ Vũ Xuân Th. kiếm ăn lần hồi những khi rảnh rỗi bằng cách chọn đá marble về gọt thành nõ điếu hút thuốc lào. Nõ điếu made in Vũ Xuân Th. thì khỏi nói, vừa đẹp vừa có khắc hoa, khắc chữ (theo yêu cầu) vừa kêu ròn rã không thể tả. Giá rẻ thôi: một ký sắn hay 2 cục đường tán 1 cái. Tôi và Vũ Xuân Th. là chỗ "bồ tèo" nên Vũ Xuân Th. có tặng một cái nõ điếu tuyệt vời: rất kêu (cái này là dĩ nhiên rồi) mặt trước có khắc nổi hình một con diều hâu đậu trên cành thông, một bên là một đóa hoa hồng, một bên nữa là khắc năm tháng... Khi đem tặng cái nõ điếu, Vũ Xuân Th. mới "bốc láo" rằng: "Một đóa hồng cho đại bàng cô đơn đây". "Đại bàng đại biếc gì nữa ông ơi, đáng lẽ ông phải khắc một con quạ già mắc bẫy". Trong khi đó ông bạn già Thượng tọa của tôi cũng đi kiếm đâu được mấy mảnh đá dài dài. Lúc nào rỗi rãi lại thấy ông cụ ra bờ suối mài mài, đục đục.... Một hôm tôi thấy trong lều dụng cụ của tổ rau tụi tôi, hình dạng hai tấm bia đá thô sơ có khắc tên Vũ Văn Sâm, mất ngày..., Ngô Quý Thuyết mất ngày... Tôi nhấc tấm mộ bia lên, nhìn ông cụ" Ông cụ ngó mông ra khoảng rừng núi chập chùng mà nói: "Thì cũng mong đánh dấu được vài nắm xương tàn." Một sáng mùa đông vào khoảng nửa buổi, tôi đang lặc lè 2 thùng "ô doa" (arrosoir) tưới nốt cho khoảng vườn rau trước mặt, gần nhà bếp khu B thì bỗng có tiếng gọi khe khẽ, khẩn trương: - Này, này. - Ai đấy" - Vũ Xuân Th. đây. - Làm gì đấy" - Bữa này làm "chảo trưởng". Thổi cơm nhà bếp. Ăn cháy không" Tại sao mà bạn ta hôm nay lại hỏi một câu "thừa thãi" như thế nhỉ. Tôi và Vũ Xuân Th. đều là dân "volley". Tôi thì già rồi còn Th. thì đang sức. Trong làng "bóng chuyền" tụi tôi, mỗi khi mà cây nêu lỡ tay nêu sang lưới bên kia thì dân bóng chuyền kêu bằng "cơm nắm cho tù", nghĩa là đối phương được biếu không một trái banh ngon lắm, bổ lắm, chắc ăn lắm, ít khi có lắm. Bây giờ chúng ta là tù "chính cống bà lang trọc" rồi, đói lòi xương, vàng mắt mà lại còn hỏi "có ăn cháy không"". Chừng như nhận ra sự vô duyên của mình, Vũ Xuân Th. vội nói: - Chạy ra góc vườn lấy mảnh lá chuối lại đây. - Có ngay. Sau đó từ cái lỗ mắt cáo của hàng rào nhà bếp khu B, qua đám lá duối và dây leo bìm bìm, tôi nhận được từ bạn ta Vũ Xuân Th. một cái gói lá chuối âm ấm, nóng nóng. Để ngay cái gói này áp sát vào bụng, mà đi về dưới gốc lim già bên bờ suối, nơi cái lều nhỏ của tiểu tổ chúng tôi... Ôi chao, cái làn da bụng lép kẹp của tôi đang được sưởi ấm, đang được phỉnh nịnh. Cái may mắn này ít khi có lắm. Tôi phi về như bay. "Tây con" Thiết Giáp thấy tôi mặt mày tươi rói liền ngẩng đầu lên hỏi: - Cái gì mà hí hửng thế" Tôi bước vô lều, nhìn trước nhìn sau, rút từ trong bụng ra gói lá chuối còn tươm khói. Mở ra, miếng cháy vàng rộm, nóng hổi, đang bốc hơi. "Tây con" sáng mắt ra, vội hỏi: - Ở đâu ra thế" Tôi chỉ sang khu B mà khẽ nói: - Bạn vừa cho... Tôi để phần ông cụ một miếng, ông cụ đang bận tay ngoài chỗ "cây giống". "Tây con" và tôi chia nhau miếng cháy nóng, vừa ăn rau ráu vừa hít hà. Từ sáng đến giờ, mỗi đứa chúng tôi xách ít ra cũng hàng trăm đôi nước, chân tay, mình mẩy rã rời, bởi vì buổi sáng có cái gì vào bụng đâu. Dạo này hết bột mì cứu trợ rồi. Cái gọi là "bữa sáng" chỉ là một chén cháo bột khoai mì loãng đầy mùi hôi mốc. Không ra đâu vào đâu. Mùa lạnh nước suối cạn, phải lần xuống dưới lòng suối mới múc được nước. Leo lên bao bậc đá trơn, tay xách đôi thùng tưới, miệng thở dốc, sức cứ oải dần, tay chân càng lúc càng nặng trĩu, nhấc không muốn nổi. Trời thì lạnh và ẩm. Cái rét thượng du miền Bắc rất thấm, rất sâu. Người Bắc kêu bằng rét ngọt. "Cái ngọt nó lọt tận xương", lại thêm xách nước nên áo quần thấm nước suối. Cái lạnh bên ngoài cái đói bên trong nó hành mình tơi tả. Đang khi sức cùng lực kiệt, đầu váng mắt hoa như thế thì có miếng cháy nóng này... "Ôi món quà từ trên trời rơi xuống". Chưa có món bánh mì nào trên thế giới có thể sánh được với miếng cháy. Ông cụ ăn từ tốn, không có ào ào như tụi tôi. Ông cụ làm còn nhiều, còn mạnh hơn tụi tôi nữa mà hình như ông già không thấy mệt mỏi. Lúc nào cũng nhẩn nha, lững thững mà việc gì cũng xong. Ông cụ vẫn nói "từ lúc nhỏ đi tu ở nhà chùa... thì tôi vẫn làm lụng như thế này, cũng dưa cà như thế này... chỉ tội nghiệp các ông..." Ông cụ chỉ vẽ cho chúng tôi cách làm vườn, trồng cây, bón tưới... Những công việc gì khó khăn, vất vả ông cụ giành lấy mà làm. Như cái món lấy phân bắc (phân người) về ủ, ông cụ cũng tự tay làm lấy. Hôm nay, sau khi ăn miếng cháy xong, ông cụ khẽ nheo mắt, tay giơ một nhúm thuốc lào mà nói "hút đi". Thuốc lào thật, dẻo quánh, thơm nồng, đâu phải thuốc lào "ngải cứu" hay thuốc lào "lá cải khô". - Hút luôn hở cụ. Hay là xái nhì, xái ba" - Hút luôn đi. Trong cái lúc thuốc lào khan hiếm như lúc này, nếu có thuốc lào thật, đâu có dám hút luôn cả điếu. Phải hút xái nhì, có khi xái ba, tức là một điếu thuốc mà hút 2 hay 3 người. Người thứ nhất châm lửa, rít một hơi, người thứ 2 rít một hơi, rồi người thứ 3 hơi cuối cùng. Người nào mà được hút cuối cùng là "đặc biệt", vì được hưởng cái hậu, được rít kêu lóc cóc... Hôm nay, trúng số rồi. Vừa được ăn "bữa lỡ", lại có thuốc lào thật rít thẳng tay. Tôi hút xong điếu thuốc lào mà say lừ đừ. Từ mấy bữa nay, hôm nay mới có thuốc lào thật. Còn toàn hút thuốc lào "lá cải già tẩm nước điếu phơi khô". Ăn xong, hút xong thấy đời sáng láng, phơi phới. Tôi liền tà tà đi ra gần chỗ nhà bếp, đằng hắng lấy giọng mà thưa với bạn ta rằng: "Tương phùng được buổi hôm nay... Trùng phùng lại nhớ giờ này hôm sau". Tôi nghe thấy tiếng cười rinh rích rồi Vũ Xuân Th. vừa cười, vừa nói vọng ra: - Được rồi, hiểu rồi... ông nội... Cứ khoảng giờ này ngày mai ông lại tới đây... Nhưng mà khéo léo đấy nhá. Thế là cứ vào khoảng nửa buổi, 9 giờ rưỡi mười giờ sáng những ngày sau đó, mỗi khi thấy bạn tôi "chảo trưởng" ra cơm, tiếng xẻng khua xuống chảo gang kêu xoèn xoẹt, là tôi lại lững thững giả vờ bắt sâu bọ, bên bụi ruối... rồi lĩnh từ tay bạn ta một gói cháy vừa chín tới mang về... Nhưng cái thời gian "bồi dưỡng" này không được bao lâu. Chừng hơn nửa tháng sau, bạn tôi Vũ Xuân Th. đã rời khỏi nhà bếp, ra làm công việc khác. Nguồn tiếp tế của tụi tôi bị cắt. "Phúc bất trùng lai họa vô đơn chí", bạn Thiết Giáp NVP của tụi tôi cũng điều sang đội chăn nuôi. Cái khu rau này, thượng úy "không no" tuyên bố: "Chỉ cần 2 người cũng đủ. Các anh khắc phục". Công việc 3 người làm trước đây đã "bá thở" bây giờ còn lại có 2 người. Ông cụ gần như bao giàn hết công việc cũ của NVP nhưng tôi vẫn phải làm thêm. Nhưng điều đáng phàn nàn là trong thời gian bồi dưỡng vừa qua cái bao tử của tôi nó bắt đầu quen ăn "bữa lỡ" hồi 9, 10 giờ sáng rôi. Bây giờ "ăn quen nhịn không quen" cứ nửa buổi là tôi phờ phạc, đói mịt mờ, cất chân, cất không muốn nổi. Thấy tôi rũ rượi như "gà chết" ông cụ một bữa nhìn tôi rồi chắt lưỡi: "Đừng có lo..." Ông cụ cầm con dao, xách cái bị cói phăng phăng, chừng nửa giờ sau ông cụ về, đặt phịch cái bị vào trong bếp. Trong cái lều nhỏ của tụi tôi, lúc nào bếp cũng cháy lim dim, vừa để đun nước, hút thuốc vừa để sưởi những lúc nghỉ tay. Bây giờ ông cụ quạt lửa lên, lấy mấy củ sắn ở trong bị ra bỏ vào bếp nướng. Ông cụ bảo tôi ra ngoài coi "động tĩnh". Tôi lại bắt đầu mừng vì có đồ ăn, nhưng lại ghê vì tôi biết ông cụ vừa lên trên đồi lấy sắn của trại. Ở các trại tù hoặc các nơi đóng quân của Vi Xi, ở chung quanh thế nào cũng có một số đất đai thống thuộc. Ở vùng đồng bằng hoặc trung du thì trồng lúa, trồng ngô khoai trồng trà, trên thượng du như Sơn La này thì trồng sắn, trồng ngô, trồng mía. Thứ sắn lưu niên để từ năm này sang năm khác, coi như là nguồn lương thực dự trữ. Đây là thứ cây lương thực dễ trồng nhất trong thiên hạ. Nhổ cây sắn lên lấy một chùm củ. Xong rồi cứ cây sắn ấy. lấy dao chặt một gang tay, phải có ít nhất là 3 mắt. Cuốc một nhát cuốc hay lấy dao đào lên, nhét một cái hom lên trên mặt đất. Cứ thế là chừng năm sau, mỗi cái hom lại thành một cây sắn, lại cho một chùm củ. Đất tốt thì củ lớn, đất xấu thì củ nhỏ. Trong những thứ lương thực ở trại tù miền Bắc, sắn được xếp vào hạng bét. Chỉ tiêu, cân đo, đong, đếm của lương thực là 1 gạo ăn 2 ngô, hay là 3 khoai, hay là 4 sắn. Dù là hạng bét nhưng đối với tù đói nhăn răng, nó vẫn là rất quý. Tù mà động đến sắn, ngôi, khoai của trại... là xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa". Nhất là trong khi thượng úy "Không no" cứ như cái bóng ma, lúc ẩn lúc hiện, chuyên môn rình rập theo dõi anh em. Đó là nghề của hắn. Tôi có một anh bạn cùng khóa, NKB xưa nay tính tình "nhà binh" cho đến tận kẽ răng. "Reglo" số 1, việc làm răng rắc quần áo là ủi thẳng tắp, giầy bottle de saut bóng láng, huy chương đeo một dề, xe díp bóng ngời nệm trắng tinh tươm. Đi cải tạo ra Bắc bây giờ bạn tôi, không biết vì không hợp thủy thổ hoặc đói khát ra sao mà răng rụng hết, thành một ông già móm xọm. Nhưng bạn tôi lại thèm đường thèm mật quá. Ở gần khu trại mộc của đội anh có một khu trồng mía. Mía cứ bị bẻ trộm hoài, thượng úy "không no" rình rập mãi mà không bắt được ai. Một bữa, thượng úy thấy thấp thoáng bóng người trong ruộng mía liền nhảy ra bắt giữ. Gặp ông bạn móm xọm của tôi. - Anh vào đây nàm gì" Ăn trộm mía phải không" - Tôi đi kiếm rau "tàu bay", tôi đâu có ăn trộm mía. - Không ăn trộm mía vào đây để làm gì" Anh bạn tôi liền há mồm ra, chỉ vào hai hàng lợi không răng mà phều phào nói: - Tôi đâu còn răng mà ăn mía. Thượng úy "không no" thấy vậy, không còn bắt bẻ vào đâu được nữa nên vùng vằng bỏ đi. Nhưng y ta nhất quyết bắt cho bằng được người ăn cắp mía. Một bữa không biết y ta đến từ bao giờ, cải trang ẩn dạng ra sao mà ông bạn móm của tôi vào chặt một cây mía là bị y ta bắt được ngay tại trận. Y rất bằng lòng về chiến công "bắt trộm" của mình. Bạn tôi quá thiếu chất đường (cũng như hầu hết các tù cải tạo thèm chất ngọt và thèm mỡ) nên thường lén vô ruộng mía, đem dao chặt vội một vài đẫn, nhét vào người mang về. Lấy dao dóc mía, chẻ mía ra từng miếng nhỏ đưa vào miệng không răng mà nhần, mà ngậm. Nó cũng khỏe lên được phần nào. Còn vỏ mía thì phải chôn xuống đất ngoài vườn. Ngay bữa bắt được kẻ trộm mía, thượng úy "không no" liền biểu diễn quyền uy của mình bằng cách khác; không có giam tội nhân vào cái cũi dây kẽm gai mà y bắt ông bạn không răng của tôi cầm nguyên một cây mía đứng riêng ở ngoài cổng trại. Y ta nói: "Hãy nhìn cho kỹ đi, thượng cấp của các anh đấy". Anh em đi làm về đều thấy ông bạn tù gì, cầm cây mía đứng lom khom, cúi mặt không dám nhìn ai. Ai cũng thương anh.... đồng cảm với anh vì đi tù cải tạo trăm người như một đều phải "cải thiện" cách này, cách khác. Con người "một động vật xã hội", nên "đói là đầu gối phải bò". Thế thôi, chả ai coi thường, chả ai bỉ thử anh đâu. Nhưng tôi biết, bạn tôi vốn trọng phép tắc lễ nghi nên bạn tôi đau lắm. Do vậy nên bây giờ thấy ông bạn già Thượng tọa đi lấy trộm sắn về cho tôi ăn vì tôi thèm quá, đói quá, tôi vẫn cứ ghê ghê trong bụng. Thượng úy "không no" mà bắt được, không biết y ta sẽ hành hạ mình cách nào đây" Nhưng sợ bị bắt là cái lo xa. Còn đói cồn cào ruột gan là cái lo gần. Thế thì ta hãy cứ ăn cái đã. Đang đói bụng mà lại có sắn lùi bếp than thì nhất thế giới rồi. Tôi cứ chạp thẳng cánh. Ông cụ đi lấy sắn, nướng sắn mà ông cụ có ăn bao nhiêu đâu. Tôi ăn phần lớn. Và sau đó cứ vào khoảng 9, 10 giờ sáng, tưới bón xong là ông cụ xách cái bị đi ra. Lúc thì sắn lúc thì khoai, lúc thì củ giong... Tôi cứ có ăn đều đặn. Bạn "Tây con" Thiết Giáp NVP phải đổi sang đội chăn nuôi, trong cái rủi lại có cái may. Bên ấy có công tác lên rừng đẵn cây chuối hột về cho heo ăn. Được ra ngoài thuộc "diện rộng" đi xa xa, gặp được 'đồng bào' nên mới có cơ hội kiếm ăn, đổi chác. Vắng mặt tên quản giáo, len lén đem được một cái quần tây, một cái ao pull, một cái kính, một cái bật lửa... đem "quy ra thóc" lấy xôi, lấy cơm mắm... hoặc 'quy ra thuốc' lấy thuốc lào... đều được cả, thành ra tụi tôi dạo này có vẻ "phong lưu" hơn trước. Một bữa lấy sắn về ông cụ đang ngồi trong lều, quạt đang đều tay, sắn đã bắt đầu chín bốc mùi thơm ngậy, tôi đã chực sẵn đến giờ ăn, thì bỗng có tiếng động nhẹ đằng sau. Tôi quay lại thì thấy đôi ủng màu đen đã đứng sau lưng tự lúc nào rồi. Tôi chết sững. Thượng úy "không no" đã tới. - Biết ngay mà, cứ vào khoảng 10 giờ nà cái nều này có khói. - Thượng úy "không no" đắc chí. Tôi cứng họng không biết nói năng gì, tâm thần hoảng hốt. Ông già thượng tọa của tôi, khẽ ngước lên, nhìn thượng úy "không no" rồi điềm đạm nói: - Cán bộ thứ cho. Anh em chúng tôi... đói quá... Giọng nói ông bình tĩnh, người ông vẫn ngồi vững vàng, cái tay quạt sắn vẫn đều đặn không thay đổi, không cuống quýt, mà cũng không ngừng nghỉ. _ Như thế này là nâu rồi đấy nhá. Không phải chỉ một hôm nay mà thôi đâu. Thượng úy "không no" vừa nói vừa quay ra xem xét, kiểm soát căn lều. Chợt y thấy hai cái mộ bia mà ông già Thượng tọa của tôi mới đục xong còn để đó. "Vũ Văn Sâm mất ngày...", "Ngôi Quý Thuyết mất ngày...." Y đọc mộ bia xong nhìn chúng tôi, một anh tù già tóc bạc phơ, một anh tù trung niên xác xơ ốm đói. Hình như có một suy nghĩ gì đó thoáng qua, nên nét mặt y có vẻ đắn đo, xong rồi y lững thững đi ra mà nói: - Sau không được thế nữa nhá. Ninh tinh. ...Cho đến bây giờ không biết vì lý do nào mà tên thượng úy hầm hừ ấy đã bỏ qua cho chúng tôi. Có thể vì những tấm mộ bia, nghĩ đến những người anh em xấu số của chúng tôi đã chết vì đói lạnh... hoặc là phong thái "đại hùng, đại lực, đại từ bi" của con nhà Phật trong phút giây nào đó đã khơi dậy được "chút tính người còn sót lại" trong y. |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23108 |
Gởi ngày: 02/Nov/2024 lúc 1:00pm |
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 02/Nov/2024 lúc 1:05pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23108 |
Gởi ngày: 04/Nov/2024 lúc 12:59pm |
Những Anh Hùng Vô DanhTrung Úy Nguyễn Thanh Long, đã hy sinh 1972 ở Núi Dài, Châu Đốc. Anh tốt nghiệp Sĩ Quan Võ Bị Đà Lạt. Cùng khóa của anh nhiều người cũng đã hy sinh trong cuộc chiến tranh khốc liệt. Và còn nữa, những khóa sau, như khóa 28 và 29. Ngay sau Lễ Mãn khóa, các Tân Sĩ Quan đã lên thẳng xe chờ sẵn trước cổng trường để về ngay các đơn vị nhận nhiệm vụ. Họ đã ra thẳng chiến trường vào những giờ phút hấp hối của Miền Nam tự do. Ai trong số những người trẻ tuổi ấy đã vĩnh viễn nằm xuống? Ngày 30/4/75 đã qua lâu rồi. Nhưng ngày ấy đã mãi mãi trở thành một cột mốc lịch sử. Xin được một lần nữa cúi đầu trước các anh, những Anh Hùng Vô Danh đã viết lên những trang sử bi hùng. *** Năm cuối cấp thật áp lực đối với các nam sinh. Không mơ tưởng đến Bách Khoa, Y Khoa, họ chỉ có hai con đường để lựa chọn. Một là học tàng tàng để chờ cuối năm vào Trung Tâm Huấn Luyện Thủ Đức. Hai là đỗ Tú Tài để được vào binh chủng mình thích. Trở thành Sĩ quan trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, là ước muốn của Long bao lâu nay. Nên từ đầu năm, anh đã chuyên tâm vào việc học. Hôm qua, để giải xong đề thi vừa mượn được, Long đã thức suốt đêm. Buổi học sáng nay, dù cố chong mắt nhìn lên bảng, nhưng lời thầy giảng cứ trầm trầm, lơ mơ bên tai Long. Đến tiết cuối thì Long hết gắng gượng nổi. Đôi mắt cứ chực díp đi. Long đứng đợi ở bãi xe, mỉm cười vẫy Chi. Chi cũng mỉm cười thật tươi bước tới. Nhưng ơ kìa, Chi không dừng lại bên Long, mà tiến về phía thằng lớp trưởng A2. Long đứng bật dậy, hét lớn: — Chi, Chi ơi! Tiếng la của Long làm cả lớp giật mình quay lại. Đôi mắt Long đỏ ké vì giấc ngủ chập chờn. Nhưng có lẽ mặt Long còn đỏ hơn. Cả lớp vỡ ầm tiếng cười. Mọi người hết nhìn Long, lại quay sang nhìn Chi. Ở bàn đầu, Chi đang cúi gằm xuống, mặt đỏ như gấc. Thầy vờ làm nghiêm, gõ gõ cây thước lên bảng: — Trật tự nào. Còn Long, ra ngoài rửa mặt. Cuối giờ lên văn phòng gặp tôi. Một ngày cuối tuần cấm túc không là gì đối với Long. Nhưng bị Chi giận, lại là chuyện nghiêm trọng. Nhà Long xa hơn nhà Chi một quãng, nhưng cùng đường, nên khi tan trường, hai đứa hay thong dong đạp xe về và huyên thuyên đủ chuyện trường lớp. Vậy mà mấy hôm nay, Long chỉ dám đạp xe lẽo đẽo theo sau Chi. Con đường quen thuộc hằng ngày bỗng dưng buồn đến lạ. Trưa nay khi tan học, trời đổ mưa lất phất. Biết Chi thường hay quên áo mưa, Long lấy chiếc áo mưa từ trong cặp, chạy đuổi theo. — Chi mặc vào đi. — Kệ tui. Ông đừng theo tui, người ta thấy kỳ lắm. Nghe Chi xưng ông, tui là biết Chi giận lắm, vì bình thường Chi luôn nhỏ nhẹ mà. Long kiên nhẫn nằn nì: — Chi mặc áo mưa vào đi kẻo bị ướt đó. Chi đẩy tay Long ra. Chiếc xe bỗng lảo đảo khiến áo rơi xuống đất. Long lầm lì cúi xuống nhặt chiếc áo lên. Hai chiếc xe vẫn chạy song song, nhưng không ai nói với ai lời nào. Đến nhà, Chi lặng lẽ mở cổng đẩy xe vào, chẳng chào Long như mọi khi. Long cũng dừng xe lại, chống chân xuống bên gốc me trước nhà Chi. Mưa chợt đổ ào. Gió thổi mạnh khua rung cành lá, làm mưa rào rào trút xuống như thác lũ. Người Long ướt sũng, mà cảm giác tức tối, giận dỗi cứ bừng bừng lên. Mười phút. Mười lăm phút trôi qua. Cánh cổng bật mở. Chi cầm dù bước ra: — Long về đi. Mặt Long vẫn lầm lầm. Về hay ở thì có liên quan gì đến Chi chứ. — Long… Giọng Chi sũng nước làm cơn bực tức trong lòng Long bỗng dưng xìu xuống. — Chi … Chi đừng giận Long nữa nha. Chi cúi đầu, lí nhí: — Ừ… Chỉ cần có thế, Long tươi ngay nét mặt, dấn mạnh bàn đạp về phía trước: — Long về đây. Chi vào nhà đi. Trong màn mưa mờ mịt, có một anh chàng đang gò lưng giạt gió và một cô gái đang cầm dù mỉm cười nhìn theo. Ngày … tháng… năm 1971. Chi thương yêu, Chỉ còn hai tháng nữa là mãn khóa. Ngày ấy anh sẽ chính thức tốt nghiệp với quân hàm Thiếu Úy Võ Bị Đà Lạt. Niềm mơ ước và tự hào của khóa sinh các anh sắp trở thành hiện thực rồi. Và em biết không, anh còn có một ước mơ từ lâu, rất lâu… Trường anh nằm trên ngọn đồi cao. Chung quanh là cỏ xanh và những hàng cây mimosa vàng rực rỡ. Sau những giờ tập luyện, anh thường nhìn ra khoảng không gian mênh mông quanh trường, và ước gì có em ngay lúc đó. Mình sẽ đi chầm chậm qua những lối mòn. Áo em cũng vàng như màu hoa và vờn quanh bước chân anh theo gió thoảng. Còn hạnh phúc nào hơn khi có em trong đời? Người ta vẫn hay ví von, “Tiểu đăng khoa rồi đại đăng khoa “. Hình ảnh chàng trai vinh quy bái tổ về làng, rồi đưa nàng về dinh với “võng anh đi trước võng nàng theo sau…”, trong thơ ca ngày xưa, lãng mạn quá phải không em? Anh không có võng lọng để đón đưa em, cũng không thể cho em những vinh hoa phú quý. Nhưng anh yêu em và muốn được bên em, cùng em đi đến cuối cuộc đời. Em có thể suy nghĩ thật kỹ rồi trả lời cho anh. Vì, đó là một quyết định không dễ dàng gì. Đồng ý làm vợ một người lính trong vận nước điêu linh như thế này, em sẽ chịu rất nhiều thiệt thòi trong cuộc sống. Và cho dù câu trả lời của em như thế nào, anh cũng mãi mãi yêu em….. Lễ Truy Điệu Chiến Sĩ Trận Vong đã cử hành vào đêm hôm trước. Hôm nay là Lễ Mãn Khoá gắn cấp bậc cho các Sĩ Quan. Long và các bạn trịnh trọng trong quân phục trắng, chính thức nhận quân hàm Thiếu Úy. Tân Sĩ Quan Thủ Khoa thực hiện hai nghi thức quan trọng nhất của buổi lễ, là Lễ Khai Cung và Lễ Trao Kiếm Chỉ Huy. Lá cờ tổ quốc bay phất phới trên lễ đài. Đôi mắt của những người trẻ tuổi ánh lên niềm tự hào, tràn đầy nhiệt huyết. Chi chờ anh ở phòng khách sau buổi lễ. Khi nhìn thấy anh xuất hiện ở ngưỡng cửa, trái tim cô đã thắt lại một thoáng. Trong bộ quân phục với quân hàm sáng lóa, anh trông thật trưởng thành và oai hùng. Chàng trai trẻ từ phút giây này không chỉ là của riêng cô. Anh còn nhiệm vụ cao cả của Tổ quốc oằn nặng trên vai. Long tiến đến nắm lấy tay cô. Nỗi xúc động khiến cô gần như nghẹt thở. Cô nói thật dịu dàng, nhưng rõ từng câu, từng chữ: — Em đến để trả lời câu hỏi của anh. Em yêu anh. Em sẵn sàng chấp nhận tất cả để được làm vợ anh. Chúng ta sẽ cử hành lễ cưới ngay trong kỳ nghỉ phép này của anh… Trước khi anh lên đường ra trận. Gương mặt cô tái nhợt, nhưng ánh mắt thật long lanh. Long cũng xúc động đến nghẹn lời. Anh vòng tay ghì chặt cô vào lòng trong hạnh phúc lẫn đớn đau. Ngày….tháng…năm 1971 Chồng yêu thương của em, Vậy là anh đã thực sự bước vào cuộc chiến. Bàn tay chỉ biết cầm bút ngày nào, bây giờ sẽ chai sần vì súng đạn. Từ lúc này, lòng em không còn một giây phút bình yên. Chúng mình sinh nhầm thời đại, nên tuổi trẻ chúng mình buồn quá phải không anh? Ba ngày phép của anh là những ngày hạnh phúc vô cùng của hai vợ chồng ngâu. 24 tiếng đồng hồ một ngày không đủ cho những người yêu nhau. Anh chở cô đi vòng vòng thành phố. Những con đường như mòn vẹt cả vết xe. Cô nấu cho anh những món anh ưa thích, rồi ngồi nhìn anh ngấu nghiến ăn. Cô hát líu lo, cười nói tíu tít. Anh thức giấc nửa đêm, chống tay ngắm nhìn cô say giấc. Thời khắc bình yên này anh đã từng ao ước biết bao nhiêu, trong những đêm lạnh giá nơi đồn xa, hay những lần chạm vào tử địa. Còn bao lâu nữa họ mới lại được gặp nhau? Ngày… tháng …năm 1972 Anh— hạnh phúc của đời em, Hình như trong em đang hình thành một sinh linh mới. Là con của chúng mình đó. Anh có vui không? Em đang ngộp trong niềm vui khi được làm mẹ của con anh. Con sẽ giống anh từng ánh mắt, nụ cười, để mỗi khi nhìn thấy con, em tưởng chừng như đang có anh bên cạnh. — Làm gì mà cười hoài, mậy? Long đưa bức thư cho Vũ. Gương mặt anh rạng ngời. — Vậy là mày sắp lên chức bố rồi, thằng ông nội. Vũ vừa nói vừa đấm mạnh vào vai anh. Long nhăn mặt xuýt xoa. Nếu lúc khác, có lẽ anh đã đấm trả cho thằng bạn một phát rồi. — Không biết là con trai hay con gái nhỉ? — Ừ, tao cũng không biết nữa. — Hay là cứ sinh đôi, cho có đủ cả trai lẫn gái đi. Long ngần ngừ: — Nhưng mà chỉ có mỗi mình Chi ở nhà, lại mang nặng đẻ đau. Tội lắm. Vũ cũng chợt chùng giọng: — Không biết cuộc chiến này bao giờ mới chấm dứt. Cả hai lặng người nhìn ra bên ngoài. Tiếng súng pháo đì đùng vang lên từng lúc như nhắc nhở đất nước này chẳng có cuộc sống bình yên. Ngày…tháng…năm 1972 Long ơi, Em không nhận được tin tức gì của anh. Những lá thư em gửi đi cũng bị trả lại. Đơn vị anh di chuyển liên tục. Em lo lắng lắm, anh biết không? Mỗi ngày em hết xem báo lại nghe tin tức trên đài phát thanh, trên truyền hình. Chiến sự đang căng thẳng vô cùng. Những địa danh chưa một lần em đến, giờ không còn xa lạ, khi nghe nhắc đến từng ngày. Cầu xin ơn trên cho anh chân cứng đá mềm, bình an trước làn tên mũi đạn. Ngày…tháng…năm 1972 Chồng yêu thương của em, Chị bạn đồng nghiệp em vừa đi nhận xác chồng về. Hôm qua khi đưa đám, nhìn chị ấy rũ rượi khóc ngất bên quan tài, không ai cầm được nước mắt. Em vừa căm thù cuộc chiến này đến tận xương tủy, lại vừa sợ hãi nó, Long ơi. Một tia chớp lóe sáng kèm theo một tiếng nổ long trời hất tung người anh lên cao, rồi quăng anh ngã sõng soài trên sườn núi lởm chởm đất đá. Máu từ ngực trái Long đẫm ướt cả bức thư của Chi. Mơ hồ, anh thấy nụ cười Chi rạng rỡ, lúc gần lúc xa như ánh sao đêm chấp chới. “…Hình như trong em đang hình thành một sinh linh mới. Là con của chúng ta đó. Anh có vui không? “ Có, anh vui lắm, Chi à. Anh không hề cảm nhận đau đớn dù máu loang lổ từ lồng ngực vỡ toang. Chỉ có niềm vui ngập tràn…. “Chi ơi, con ơi!...” Mẹ chồng vẫn nhắc nhở Chi đừng nghĩ ngợi lung tung. Hãy cố bình tâm và ăn uống tẩm bổ cho con được khỏe mạnh. Nhưng làm sao cô an lòng cho được. Cô không nhận được hồi âm nào của anh. Mỗi ngày qua, bao khắc khoải càng thêm chồng chất. Giấc ngủ cô chập chờn trong ánh hỏa châu rơi. Tiếng hát từ radio bên hàng xóm vọng trong đêm vắng những lời ca não nuột: “….Anh không chết đâu anh, anh chỉ vừa bỏ cuộc đêm qua. Em thấy mắt anh trong ngọn nến vàng hắt hiu niềm nhớ. Trong khăn tang cô phụ còn lóng lánh dấu ái ân. Giọt nước mắt nóng bây giờ và còn hằng đêm cho anh, cho anh…” (Trần Thiện Thanh) Cô bịt hai tai lại, nhưng tiếng hát vẫn ong ong trong đầu cô như nỗi ám ảnh khôn nguôi. Hôm nay lòng cô bỗng dưng có lửa. Giữa bữa cơm, cô chống đũa, thẫn thờ nhìn vào khoảng không. Mẹ chồng lo lắng hỏi: — Chi à, con có sao không? Cô giật mình lắc đầu: — Dạ, không. Không có gì đâu mẹ. Đã khuya lắm rồi mà cô vẫn trằn trọc mãi. Sợ mẹ lại lo lắng, cô không dám bật đèn, chỉ chong mắt nhìn vào bóng đêm. Cô xoa bụng nhè nhẹ, thì thầm với con mà như thể trấn an mình: — Ba sẽ chóng về với mẹ con mình, con nhé. Mãi, cô mới mòn mỏi thiếp đi. Mơ màng, cô thấy người anh đẫm đầy máu. Cô hoảng hốt bật dậy, hét thật to. Tiếng hét của cô làm mẹ chồng tỉnh giấc. Bà xô cửa phòng cô, bật sáng đèn: — Có chuyện gì vậy con? Cô thở dốc, thất thần nhìn quanh. Không có gì cả. Chỉ là giấc mơ thôi mà. Đừng làm mẹ sợ. Cô lắp bắp bịa một lý do: — Con… mơ thấy ăn trộm thôi mẹ. Mẹ chồng đỡ cô nằm xuống: — Con mệt nên mơ linh tinh đó mà. Cố dỗ giấc ngủ lại đi con. Khi mẹ chồng với tay tắt đèn và bước ra, cô thoáng nghe tiếng bà thở dài. Cô vùi đầu vào gối. Nhưng vừa nhắm mắt lại, cô có cảm giác như Long đang đứng bên giường. Máu từ ngực anh chảy xuống ấm nóng tay cô. Cô choàng dậy ôm chầm lấy anh. Tay cô chỉ chạm vào khoảng không. Cô ngồi tựa lưng vào tường lạnh, nước mắt tuôn tràn. Run run, cô mấp máy môi cầu nguyện, cố bám víu vào niềm tin siêu nhiên khi thực tại đầy ắp những bất an. Từ ban-công nhìn ra, Chi có thể thấy hai hàng cây rợp bóng chạy suốt con đường. Nắng trải vàng một vạt thênh thang trong chiều hiu hắt. Thành phố nhỏ quẩn quanh vài góc phố, thân thuộc đến nhắm mắt vẫn hình dung được. Vậy mà vắng một người sao thấy trống vắng đến mênh mông. Những hoa nắng nằm yên không reo vui rộn rã như ngày xưa khi mình đón đưa nhau. Gió chỉ lao xao lời buồn khi không có anh bên cạnh. Anh ở đâu bây giờ hở Long? Anh có biết em nhớ anh quay quắt từng phút giây không? Một người mặc quân phục chợt dừng trước cửa nhà. Là anh, là anh đó phải không Long? Niềm vui òa vỡ làm người cô tê cứng. Phải mất một lúc định hình, cô mới quýnh quáng chạy ra cầu thang. Bước chân cô bỗng khựng lại lưng chừng khi nghe tiếng mẹ la lên thảng thốt rồi khuỵu xuống: — Trời ơi, con tôi… Người lạ vội đỡ lấy mẹ. Một dự cảm chẳng lành làm cô chới với. Cô như rơi vào chân không. Lảo đảo, cô lăn dài trên những nấc thang. Cô gái có mái tóc xõa dài, gương mặt buồn rười rượi, hay đi chân trần qua những con đường rợp bóng cây, trong những buổi chiều hiu hắt gió. Trên tay cô ôm con búp bê, miệng nghêu ngao hát câu ru hời: “À ơi con ngủ cho ngoan, Cha còn nợ nước đa đoan chưa về”. Cô thường ngước lên nhìn những chiếc lá trên cao xao xác, thầm thì với một ai đó ở thế giới của mình. “Long ơi, anh đi lâu quá chưa về. Em nhớ anh lắm,anh biết không?” Đôi lúc, cô chợt nhìn đăm đăm về phía trước, như bất chợt trông thấy người quen, rồi vụt kêu gào đuổi theo chiếc bóng vô hình: “Long ơi, chờ em với…” Thành phố nhỏ, nên nhiều người biết chuyện và quen mặt cô. Nhưng dẫu có nhìn thấy cô từng chiều, họ vẫn chạnh lòng với hình ảnh một cô phụ lang thang trong ánh tà dương lịm dần vào tối. Có những ánh mắt xót xa kèm theo tiếng thở dài: — Tội nghiệp, cô ấy còn trẻ quá. Vâng, cô vẫn còn trẻ lắm. Cũng như anh. Anh còn trẻ lắm. Chỉ có ngọn núi kia là già cỗi mà thôi. Rồi thời gian trôi qua. Những lớp bụi thời gian phủ mờ ký ức. Mấy ai còn nhớ nơi đó đã một lần anh nằm xuống. *** Năm 2015, lần đầu tiên tôi trở lại Việt Nam cùng con. Lần dò hỏi thăm dân địa phương, tôi tìm được vườn nhà ngoại ngày xưa. Cảnh vật thay đổi đến ngỡ ngàng. Ngôi nhà năm gian thênh thang của ngoại đã mục nát, đã giở đi. Không còn dấu vết gì của khu vườn thơ ấu. Cây cối cằn cỗi, cỏ dại mọc tràn lan khắp lối. Tôi phải vẹt cỏ và những cành cây chằng chịt để vào khu mộ thắp hương. Đây là khu đất hương hỏa để chôn cất những người đã mất. Nhưng ngoại không còn, con cháu tứ tán khắp nơi. Không ai chăm sóc mộ phần. Người bà con xa đang sống nơi này chỉ sơn mộ và dãy cỏ một lần vào cuối năm khi ai đó gửi tiền về. Từng nén hương thắp cắm bên mộ. Khói trầm hương quyện trong gió sao nghe cay xè mắt. — Mộ của ông cố, của bà cố… Còn mộ này của ai mà chết trẻ quá vậy mẹ? Tôi ngước nhìn. Hàng chữ Nguyễn Thanh Long gợi nhớ những kỷ niệm xa xưa. — Mộ của anh họ mẹ. Anh ấy chết khi chỉ vừa 24 tuổi. Con tôi trầm ngâm: — Tội nghiệp quá. Ông ấy bị bệnh hả mẹ? — Không. Vì chiến tranh con à. Đôi mắt con đầy vẻ ngạc nhiên. Trong cuộc sống bình yên nơi đất nước Mỹ, con không bao giờ nghĩ đến những thảm họa kinh hoàng của chiến tranh, những mạng sống bị hủy hoại một cách tàn nhẫn. 30/4/1975 đã trôi qua gần nửa thế kỷ rồi. Dòng đời đã cuốn chúng ta đi. Có những điều mình muốn quên, thật sự muốn quên đi. Nhưng cũng có những điều vô tình bị xóa mờ theo năm tháng. Tôi đã dành một buổi nói chuyện với các con. Thế hệ các con trưởng thành nơi đất Mỹ, nhưng các con vẫn mang trong người dòng máu Việt Nam. Các con cần biết và có quyền được biết về đất nước Việt Nam. Để tự hào dân tộc. Để sống thật tốt, thật xứng đáng… Sống tiếp cuộc sống của những người lính trẻ đã hy sinh bảo vệ tự do và bảo cuộc sống cho chúng ta hôm nay. |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23108 |
Gởi ngày: 08/Nov/2024 lúc 10:29am |
Thương Tiếc Bạn TôiVăn Cường 2011 Đang lang thang với mấy người bạn trên bờ biển Alicante ở Tây Ban Nha, tôi bàng hoàng khi nhận được tin nhắn từ cô em gái của Cường: “Anh Cường vừa mới ra đi! Thùy đang khóc đây.” Tôi không nghĩ là bạn tôi lại trút bỏ cuộc đời phiền muộn này nhanh như thế. Vì chỉ cách đây vài hôm, khi biết Cường vừa phải vào bệnh viện, tôi gọi thăm. Hai thằng vui vẻ chuyện trò, cười đùa với nhau, và tôi rất mừng khi nghe Cường khoe là bác sĩ bảo nằm dưỡng sức để chờ giải phẫu. Cùng trang lứa bọn tôi, ai cũng biết đã đến lúc xếp hàng để lần lượt chờ đến phiên mình rời khỏi thế gian này. Bởi đó là luật trời, không ai ngăn được. Chỉ mong sao được ra đi một cách thanh thản nhẹ nhàng, như ngủ một giấc rồi không bao giờ thức dậy nữa, đừng phải ốm đau để làm khổ vợ con. Nhưng riêng sự ra đi của Cường làm bọn tôi cảm thấy đau lòng, tội nghiệp. Bởi vì bạn tôi chỉ mới vừa tìm lại được chút ít niềm vui, yên ả sau bao đắng cay nghiệt ngã gần cả một đời. Chưa kịp hưởng được khoảnh khắc hạnh phúc muộn màng thì đã phải bỏ lại tất cả cho trần gian. Tôi quen biết Cường khi hai thằng cùng vào học lớp đệ lục trường Văn Hóa. Khi ấy nhà Cường ở trong một con hẻm lớn trên Phường Củi, gần nhà trọ của mấy người bạn đồng hương Vạn Giã với tôi, nên những ngày nghỉ tôi thường ghé lại đây thăm bạn cùng quê và chơi với Cường. Nhà Cường ở gần tư gia bà Lâm Thị Khương, chủ nhà hộ sinh lớn nhất ở Nha Trang. Không biết đó có phải là nguyên nhân để sau này Cường có ông anh rể mang họ Trần Lâm? Văn Cường 1960 Ông cụ thân sinh của Cường là một công chức cao cấp trong ngành Quan Thuế, nên thời gian sau đó, gia đình Cường được cấp một ngôi biệt thự trên đường Duy Tân, ngay bờ biển, bên cạnh Viện Pasteur. Khu vườn khá rộng, nên ông cụ cho cất thêm một căn nhà tôn phía sau để các cậu con trai thoải mái sinh hoạt, đùa giỡn, học hành. Lúc ấy tôi đang trọ học ở nhà ông chú, một tiệm buôn ở đầu đường Quốc Lộ 1, gần Ty Thông Tin, bên cạnh nhà Thầy Võ Thành Điểm, nhưng hầu hết những ngày nghỉ và cả những lúc chuẩn bị thi cử, tôi thường xuống ở với Cường. Thực ra để học thì ít mà tắm biển và đi chơi thì nhiều, nhất là tránh bị ông chú tôi sai vặt. Gia đình Cường có khá nhiều anh chị em, tất cả đều rất vui vẻ dễ thương. Hầu hết đều học ở trường Võ Tánh và Nữ Trung Học. Ông anh cả lớn hơn bọn tôi nhiều tuổi và đã sớm nhận lấy trách nhiệm “quyền huynh thế phụ”, hết lòng lo lắng, dạy dỗ, làm gương cho em út. Bà chị kế, học trên bọn tôi hai lớp, rất thùy mị, hiền lành chăm học, đặc biệt lúc nào cũng vui vẻ yêu đời, vì dường như đang lúc có tình yêu, cô em kế của Cường là một trong những giai nhân của Trường Nữ, nên mới năm đệ lục mà cũng đã có khối chàng si tình, lại toàn là những “anh hùng hào kiệt”, nên bọn tôi cũng được hưởng “phước” lây. Cô em này còn giới thiệu cho tôi làm quen với cô bạn học cùng lớp thân thiết, ở trên đường Hoàng Tử Cảnh. Cường còn mấy đứa em nữa, và bà cụ còn cưu mang nuôi một đứa cháu mồ côi. “Ông cụ rất đẹp trai và nổi tiếng đào hoa”, Cường thường khoe với tôi như thế. Lúc ấy tôi nghĩ có lẽ rồi Cường sẽ thừa hưởng cái “nghiệp” này của ông cụ. Vì Cường trông cũng phong độ lắm. Bà Cụ người Huế, là ái nữ của một vị đại thần triều Nguyễn, nhưng rất bình dị, hiền lành, phúc hậu, sẵn sàng chấp nhận mọi hệ lụy từ cái giá của sự đào hoa mà ông trời đã phú cho chồng mình. Bà rất thương con, lo lắng cho con từng ly từng tý. Đúng là một bà mẹ mẫu mực đáng kính của truyền thống Việt nam. Biết tôi thân thiết với Cường, bà xem tôi như con cháu trong nhà, thường nhắc tôi, mỗi lần tôi đến chào bà để đi về: “Con nhớ xuống đây ở chơi và học với thằng Cường nghe!” Lúc còn học đệ nhất cấp ở trường Văn Hóa, có lẽ nhờ vào lòng yêu thương của Thầy Hiệu Trưởng Nguyễn Bá Mậu, đặc biệt là Cô Tùng Linh, phu nhân của Thầy, cô giáo hướng dẫn lớp tôi, cũng có thể lúc ấy tôi chưa tập tành yêu đương, chưa hề “chết ở trong lòng một ít”, nên luôn chăm chỉ và học hành khá giỏi, tháng nào cũng đươc lãnh bảng danh dự. Cường khoe “thành tích” này của tôi với bà cụ, cốt để cho bà yên lòng mà “giao” Cường cho tôi. Tôi được bà cụ và các anh chị em của Cường quí mến. Thỉnh thoảng Cường theo về quê Vạn Giã của tôi chơi, khi trái tim chàng ta bắt đầu đập lạc nhịp mỗi khi nhìn con gái đẹp. Lúc ấy ở quê tôi có cô Hồng N, cũng là một trong những giai nhân bên trường Nữ, học sau bọn tôi hai lớp, mà Cường mới làm quen, có lẽ nhờ cô em gái giới thiệu. Đầu năm Đệ Tứ, một số học sinh từ các trường tư thục khác “đầu quân” vào lớp tôi. Trong số này có hai cô có cùng tên Phương nhưng khác họ. Đễ dễ phân biệt, trong lớp gọi Phương Hòa và Phương Huế. Hai cô lại là đôi bạn thân nhau từ trước và ở chung một nhà ngay trước chợ Đầm. Cả hai đều thuộc hạng “mỹ nhân” và Cường bắt đầu trồng cây si Phương Hòa. Lúc ấy tôi nghĩ bọn tôi vẫn là những thằng con nít, bắt chước các nhân vật trong Hồn Bướm Mơ Tiên hay Đoạn Tuyệt của mấy ông nhà văn Tự Lực Văn Đoàn, hoặc ảnh hưởng mấy bài thơ của TTKh và ông Xuân Diệu, nên đóng vai “si tình” cho có vẻ người lớn vậy thôi, chứ biết yêu đương là cái gì đâu. Nhưng tôi đã lầm, bạn tôi si tình thiệt. Chưa học được cách tỏ tình như thế nào, Cường thiết tha làm sao tìm được một tấm hình của Phương Hòa để có cớ làm quen và treo trên đầu giường cho đỡ nhớ. Và đúng như là chuyện được ông tiên cho chiếc đèn thần. Một hôm ghé thăm anh bạn Cao Minh Thống, cũng ở Phương Sài, gần nhà cũ của Cường, bất ngờ tôi thấy Phương Hòa từ trong nhà anh Thống đi ra. Tôi “rồ ga” đi thẳng để Phương không nhìn thấy, rồi quẹo vào nhà anh Thống bằng một con hẻm khác. Tôi khá thân tình với anh nên hỏi anh quen biết thế nào với Phương Hòa. Anh bảo hai ông bà già là bạn thân thiết kết nghĩa huynh đệ tự ngày xưa, nên đám con xem nhau như anh em ruột thịt trong nhà. Tôi thực thà trình bày tự sự, và hỏi anh có tấm hình nào của Phương Hòa. Anh Thống đi lấy tập Album gia đình và chỉ cho tôi mấy tấm hình của Phương Hòa. Anh còn cho tôi được quyền tuyển chọn. Dĩ nhiên tôi chọn tấm chân dung đẹp nhất, và hứa ngày mai sẽ mang trả lại, mặc dù anh bảo “toa cứ giữ luôn cũng được!” Cường trố mắt ngạc nhiên khi tôi đến tìm và chìa ra tấm hình của Phương Hòa. Tôi lên mặt ra lệnh cho Cường “mày chỉ có đúng hai tiếng đồng hồ để làm bùa phép gì đó mà thôi!” Chàng ta ríu rít tuân lệnh, bảo tôi chở ra tiệm ảnh Mai Ngôn trên đường Phan Bội Châu, năn nỉ ông chủ sang gấp ra ba tấm cỡ lớn, và sẵn sàng trả tiền phụ trội. Ông chủ mỉm cười, hiểu ý, bảo đúng hai giờ nữa ghé lại lấy. Cường rủ tôi ra Hưng Hoa thưởng công hai cái paté chaud và một ly sữa đậu nành, ngồi đấu láo để chờ đợi. Thời ấy tôi được ông chú giao cho một chiếc Lambretta mới toanh để chở bà thím đi đòi nợ, và giao dịch các nhà thầu, nên tôi thường lợi dụng “công vụ”, xách xe xuống đón Cường đi chơi. Sau đó, không biết Cường đã nhờ tay họa sĩ nào vẽ lại tấm hình của Phương Hòa rất đẹp, mang tới lớp tặng nàng. Phương Hòa trố mắt ngạc nhiên, tra hỏi tấm ảnh này ở đâu ra, Cường gãi đầu cười: – Đêm nào cũng nằm mơ thấy Phương nên nửa đêm thức dậy vẽ thôi mà! Phương Hòa nhìn vào mắt Cường với một chút cảm động và nở nụ cười. Khi hai đứa ra ngoài, tôi đập vai Cường: – Không ngờ mày cũng có tài tán gái, chắc mày học ông già? Phương Hòa từ quê vào trọ học ở nhà Phương Huế. Một ngày Chủ nhật, Cường rủ tôi ghé lại thăm. Bọn tôi đến bất ngờ, bước vào cửa thì gặp ngay ông bà già của Phương Huế. Nhìn thấy bọn tôi, hai nàng xanh mặt. Cường lóng ngóng, ấp úng không ra lời. Nhờ không có tình ý gì, nên tôi bình tĩnh, bảo đến mượn bài tập, vì hai đứa bị bệnh, vắng mặt ngày hôm qua. Hai nàng biết ngay là tôi nói dối, nhưng cũng ríu rít đi lấy sách vở. Ông bà già tưởng bọn tôi hiếu học quá, nên vui vẻ rút lui để bọn tôi nói chuyện. Mà thực ra cũng có biết chuyện gì để mà nói! Chỉ vờ hỏi một vài câu không đâu vào đâu, rồi tôi kéo tay Cường đi, không dám ở lâu, sợ lộ tẩy. Vậy mà sau cái lần “đột nhập gia cư bất hợp pháp” này, bọn tôi và hai cô bạn tên Phương lại thân tình nhau hơn. Cường nắn nót viết thư nhờ tôi thêm mắm muối, nhưng rồi “lá thư cứ còn hoài trong vở giữa giờ chơi mang đến lại mang về”. Cuối cùng phải cầu cứu tôi, vờ mượn sách của Phương Hòa rồi bỏ cái thư của Cường vào. Tôi nghĩ tối hôm ấy cả hai cô nàng đọc thư Cường mà tha hồ cười khúc khích. Không biết là Phương Hòa có tình ý gì, hay chỉ có chút cảm tình với Cường như một người bạn nhỏ. Vì thời ấy, dù học cùng lớp, nhưng các cô đều như lớn trước tuổi, và nhiều cô đã lấy chồng. Ngay trong lớp tôi cũng có cả hai cặp vợ chồng. Không hiểu có thể gọi đó là cuộc tình đầu đời của Cường hay không, nhưng rồi cũng sớm kết thúc sau khi bọn tôi thi xong Trung Học Đệ Nhất Cấp. Cường có rủ tôi ra quê tìm Phương Hòa mấy lần nhưng không gặp. Bà cụ của Phương bảo nàng đi chơi trên Đà Lạt với bạn bè, nhưng không biết ở đâu. Giá mà biết thì chắc chắn tôi cũng đã có dịp đi Đà Lạt với Cường. Sau Hè, mỗi người một ngả. Tôi vào Võ Tánh, Cường vào Bá Ninh, còn hai cô Phương không biết đi đâu. Đùng một cái, nghe tin Phương Hòa lấy chồng. Cường buồn đứt ruột, và dường như đó là lần đầu tiên trong đời, Cường biết tương tư! Dù học khác trường nhưng bọn tôi vẫn thường xuyên gặp nhau ở nhà Cường như lúc trước. Vào thời điểm này, ông bà già Cường mới mua được khu nhà số 5 Lê Lợi, chung một hàng rào dâm bụt với nhà bác sĩ Nguyễn Gia Quýnh. Bọn tôi thường được bà Quýnh gọi sang đánh bóng bàn với bà ở sau vườn. Bà rất đẹp, quí phái, tốt bụng và vui vẻ. Nhiều lúc hai thằng cứ mải lo nhìn bà mà không thấy quả banh đang ở đâu!. Rồi nhờ cao ráo đẹp trai, và cũng có thể nhờ mai mối của cô em gái, nên không lâu sau đó Cường quen biết thêm vài cô bạn nữa. Cô nào cũng xinh đẹp. Nói tên các cô nàng này thì trong đám học trò chắc ai cũng biết. Dù vậy hình ảnh của Phương Hòa vẫn còn trên vách, trên các tập bìa sách của Cường và chắc chắn là vẫn còn rất đậm nét trong trái tim Cường. Bọn tôi nhập ngũ khi chiến trường miền Nam bắt đầu sôi động. Tôi ra Bộ Binh đánh đấm ở khắp Vùng 2, Cường vào lính sau và được chọn vào Nhảy Dù, nên đi khắp bốn Vùng Chiến Thuật. Thỉnh thoảng hai đứa mới có dịp liên lạc được, hẹn một lần gặp lại ở Nha Trang. Nhưng rồi cuộc chiến càng lúc càng khốc liệt, chúng tôi không còn cơ hội để rời khỏi chiến trường. Mãi đến ngày 20.4.75, khi tôi lái xe xuống Bến Bạch Đằng để đón một số quân nhân của đơn vị di tản, thất lạc từ miền Trung, được tàu Hải Quân chở về đây, bất ngờ gặp Cường trong một quán ăn, đang ngồi với vợ. Đây là lần đầu tiên tôi biết bà xã của Cường, mặc dù tôi đã gởi quà mừng đám cưới hơn hai năm trước đó. Vợ chồng khoe với tôi đã có đứa con gái đầu lòng ba tháng tuổi, đang gởi cho bà ngoại. Uống với Cường một ly bia, tôi phải vội vã chia tay, trở về đơn vị đang hành quân ở Cần Giuộc, Long An. Trong cảnh dầu sôi lửa bỏng này, tôi bắt tay và ôm lấy Cường mà lòng dạ thật bùi ngùi, thầm nghĩ sau này không biết có còn gặp lại. Lúc tiễn tôi ra xe, Cường ôm vai tôi hỏi: – Mày biết tao đặt tên con bé con tao là gì không? Tôi ngần ngừ chưa kịp trả lời thì Cường cười: – Mỵ Cơ. Tôi biết đó cũng là tên của một người con gái đẹp, nhưng hỏi Cường: – Tao cứ tưởng mày đặt tên cháu là Phương Hòa chứ? Cường cười to và siết tay tôi thật chặt. Sau ngày 30.4.75, nỗi bất hạnh của đất nước đã kéo bọn tôi theo với bao cuộc trầm luân. Bạn bè kẻ tù tội người ra đi, tản mát khắp bốn phương trời.. Nhớ tới lần bất ngờ gặp nhau ở Bến Bạch Đằng, tôi lại hy vọng là vợ chồng Cường đã tìm đường ra đi, không phải tù tội như tôi. Mùa hè 1984, chỉ vài tháng ra tù, tôi cùng vợ con vượt biển. Được tàu Na Uy vớt trước khi một cơn bão lớn ập tới, nên gia đình tôi đến định cư ở một nước tận Bắc Âu xa xôi. Một xứ thiên đường nhưng đầy băng giá và quanh năm tĩnh mịch. Hai năm sau, trong một buổi tiệc Giáng Sinh, tôi có dịp quen biết vợ chồng một anh chị bạn, lớn tuổi hơn tôi. Khi nghe anh chống giới thiệu chị vợ tên là Nga, có họ là Văn, và bảo là khi vào quốc tịch NaUy, sở dân số thắc mắc bảo Văn là tên lót của đàn ông Việt Nam chứ sao lại là họ. Nghe họ Văn tôi bỗng nghĩ ngay đến Cường, bởi những người mang cái họ này không nhiều lắm. Tôi hỏi chị: – Chị Nga họ Văn, vậy chị có biết bác Văn Thưởng ở Nha Trang? – Ô, đó là ông chú ruột của tôi mà. Ba tôi thứ hai, còn chú ấy thứ năm. Rồi chị ngạc nhiên, hỏi lại tôi: – Mà sao anh biết chú Thưởng? Tôi cười: – Em là bạn thân của Văn Cường và biết gần như cả nhà bác Thưởng. Chị Nga trố mắt khi nghe tôi kể từng người trong nhà Cường, và kể cả việc anh Nguyễn Mộng Giác cũng từng vào Nha Trang học và ở trọ nhà Cường. Anh Nguyễn Mộng Giác là anh, em cô cậu với Cường và chị Nga. Chị cho biết Cường vừa sang Mỹ theo diện HO, và đang ở gần chị Như Khuê, rồi mở điện thoại gọi ngay. Tôi nói chuyện với chị Khuê và chị cho tôi số điện thoại của Cường. Tối hôm đó, Cường và tôi tâm tình hơn hai tiếng đồng hồ. Cô vợ mà tôi gặp trong quán ăn với Cường ở bến Bạch Đằng vài ngày trước 30.4.75, đã lẳng lặng dắt đứa con gái ra đi, khi Cường vừa mới ra tù trong cảnh khốn cùng. Và từ ngày ấy không còn liên lạc với Cường. Cháu Mỵ Cơ giờ đã hơn 20 tuổi, nhưng Cường chưa hề gặp lại. Chỉ có Xuân Thùy, cô em gái của Cường liên lạc với cháu đôi lần, nhưng đã bặt tin từ lâu lắm. Những ngày ra tù và khốn khó, Cường tập tành đi buôn bán với đám bạn học ngày xưa, thỉnh thoảng đến Bưu Điện nhận quà của bà chị và cô em từ Mỹ gởi về, lúc ấy chưa gởi được tiền nên chỉ là các thùng thuốc Tây và một ít vải vóc. Và tại Bưu Điện, Cường có cơ hội quen biết một phụ nữ trẻ làm việc ở đây. Cô ta đã ly dị chồng và có một cô con gái. Hai người làm đám cưới khi Cường có danh sách sang Mỹ theo diện HO. Cuộc hôn nhân chắp nối lần này cho Cường một thằng con trai. Nhưng rồi sóng gió bất ngờ ấp xuống. Cuộc hôn nhân lại gãy đổ trong đau đớn mà tác nhân lại là cô con gái riêng của vợ, muốn hãm hại Cường nên đã dàn cảnh để truy tố Cường . Ra tòa, Cường không hề có lỗi. Vợ chồng chia tay, đường ai nấy đi. Cường nhường ngôi nhà cho vợ và cậu con trai, dọn ra, share phòng một người đồng hương và cũng là đồng nghiệp, làm chung sở với Cường. Mùa hè 2011, theo lời hẹn, từ Bắc Âu tôi sang gặp Cường ở San Jose khi Cường về đây tham dự cuộc họp mặt Nhảy Dù. Chúng tôi có hơn một tuần bên nhau, rong chơi, đùa giỡn, tâm tình. Thỉnh thoảng có cả Xuân Thùy, cô em gái gần gũi và thân thiết nhất của Cường, từ Sacramento xuống. Trải qua nhiều thăng trầm, mất mát, Cường có gầy và già đi, nhưng vẫn còn ít nhiều phong độ. Cường nhắc tới Phương Hòa và bất ngờ cho tôi xem hình ảnh của Phương Hòa trên mặt chiếc điện thoại của Cường. Tấm ảnh ngày xưa, tôi mượn của anh Cao Minh Thống đưa cho Cường sao lại ở tiệm Mai Ngôn. Tôi ngạc nhiên, không ngờ thời gian đã quá lâu và trải qua quá nhiều sóng gió trong đời mà Cường vẫn còn nhớ tới cô bạn học xinh đẹp ngày xưa. *** Một hôm, rất tình cờ tôi gặp lại Phương Hòa. Qua một người bạn thân, Phương Hòa biết tôi đang ở Cali, nên nhờ đưa đến thăm tôi. Tuổi đã lớn, nhưng Phương Hòa là một người đàn bà vẫn còn mặn mà nhan sắc, tính tình vui vẻ, yêu đời và gần gũi, dễ mến. Phương Hòa kể cuộc đời mình khá lao đao với một cuộc hôn nhân sai lầm, không hạnh phúc. Có lẽ hồng nhan thì thường bị đa truân. Bây giờ Phương Hòa sống một mình. Định cư ở Mỹ khá lâu và kinh doanh khá thành công, nhưng từ hai năm nay Phương Hòa về sống ở Nha Trang, chỉ thỉnh thoảng trở lại Mỹ thăm con cháu. Bọn tôi ngồi kể chuyện xưa, Phương Hòa tỏ ra luyến tiếc một thời son trẻ, nhất là lúc cắp sách đến trường. Tôi cười, nhại một câu ca cũ “Ai bảo lấy chồng sớm làm gì cho lời ru thêm buồn!” Phương Hòa cười rất tươi, nhưng vội nhìn lên trần nhà, long lanh đôi mắt. Phương Hòa cũng cho biết cô bạn Phương Huế vẫn sống cùng chồng con ở Ninh Hòa, và “hai cô Phương ngày xưa” vẫn thường gặp nhau ở đó. Chồng Phương Huế vốn là một giáo sư dạy Anh Văn ở trường Lê Quí Đôn, “phải lòng” khi Phương Huế còn là cô học trò đệ nhị. Tôi nhắc lại những ngày Cường si tình rồi tương tư, khi nghe tin Phương Hòa đi lấy chồng, và kể cho Phương Hòa nghe về những phong ba, bất hạnh trong cả cuộc đời Cường. Sau một thoáng bùi ngùi, Phương Hòa nhắc tới chuyện tấm ảnh ngày xưa, hỏi tôi ở đâu mà có. Tôi khai thật là đã mượn của anh Cao MinhThống để cho Cường sao, vẽ lại. Tôi còn nói thêm, tấm ảnh ấy của Phương Hòa, lúc nào Cường cũng mang theo, và bây giờ đang nằm trên mặt chiếc điện thoại của Cường. Phương Hòa cảm động, bảo tôi gọi Cường để hai người nói chuyện. Qua lời tâm tình, tôi biết Cường rất xúc động khi gặp lại Phương Hòa (dù chỉ qua Facetime) và được nghe Phương Hòa nói những lời thân ái. Tôi nghĩ hình bóng của Phương Hòa, một cô bạn cùng lớp đệ tứ ngày xưa, đang thức dậy mãnh liệt trong lòng Cường. Tôi hình dung tới những ngày đi học, khi bọn tôi vẫn còn là những thằng con trai mới lớn, tập tễnh chuyện yêu đương. Tôi nhớ tới tấm hình của Phương Hòa với mái tóc thề, khuôn mặt thơ ngây xinh đẹp như một thiên thần mà tôi đã mượn của anh Thống để cho Cường dùng “làm bằng cớ yêu thương”. Đầu tháng 6/2016, theo lời hẹn, Cường về lại Việt Nam thăm Phương. Hai người bạn học ngày xưa, giờ tóc ai cũng bạc Họ dành nhiều thời gian cho nhau. Cùng đi thăm lại ngôi trường xưa, những con đường kỷ niệm cũ. Không biết những dấu tích ngày xưa có lấp được phần nào khoảng trống từ những bất hạnh của cuộc đời họ? Sau hai tuần, Cường trở về lại Mỹ. Đi làm được vài hôm, thấy trong người mỏi mệt, Cường đến gặp bác sĩ gia đình và được đưa vào bệnh viện, phát hiện có dấu hiệu ung thư. Tôi đang nghỉ hè ở Tây Ban Nha thì nhận hung tin này. Nói chuyện mấy lần với Cường qua điện thoại. Nghe Cường nhắc tới những ngày ở Nha Trang với Phương Hòa, cười vui và hy vọng bệnh tình sẽ sớm được chữa trị, tôi mừng. Nhưng chỉ hơn hai tuần sau đó, tôi ngỡ ngàng khi nhận được tin nhắn của Xuân Thùy:“Tình hình anh Cường tệ lắm rồi, ung thư lá lách đã lan ra gan, chắc không có gì cứu vãn được. Bác sĩ cho biết thời gian không còn nhiều nữa. Cả nhà đang giấu, không cho anh Cường biết sớm. Anh Cường quí anh lắm, nhắc anh luôn nên anh nhớ thường gọi sang thăm, an ủi anh Cường nghe!” Cô em gái thân thiết nhất của Cường đã từ Sacramento (CA) lên tận Easton (PA) chăm sóc, ở bên cạnh an ủi anh mình. Điều bất ngờ và như một phép mầu, mò mẫm trên Facebook mấy ngày liền, Xuân Thùy liên lạc được với cháu Mỵ Cơ, cô con gái lớn mà trên 50 năm rồi Cường chưa bao giờ gặp lại, giờ đã là một bác sĩ trung niên. Cô Thùy tâm tình, báo tình trạng của Cường, và khuyên cháu nên nói với ba nó một đôi lời trìu mến. Trước giờ phút lâm chung, Cường vẫn còn tỉnh táo để được nghe cô con gái đầu lòng gọi tiếng “Daddy” và cả hai cha con cùng khóc. Không biết đó là những giọt nước mắt hạnh phúc hay xót xa, mà Thượng Đế đã dành cho con người, khi đã trải qua bao chia lìa, tang thương dâu bể? Và chỉ mấy giây sau đó, Cường ngả đầu sang một bên, lặng lẽ ra đi, để lại trên gò má hai dòng nước mắt. Hiểu được anh mình, nên hôm ấy Xuân Thùy đã tìm những bộ quân phục và mấy chiếc nón sắt, nón đỏ Nhảy Dù mặc vào cho tất cả mọi người trong gia đình, tạo niềm vui cuối cùng cho Cường, một người lính Nhảy Dù bất hạnh, nhưng luôn hãnh diện, hết lòng với binh chủng và đồng đội của mình. Văn Xuân Thùy 19-8-2016
Tôi phân vân mãi chưa dám gọi về Nha Trang báo tin buồn này cho Phương Hòa. Liệu Phương Hòa có còn “dư nước mắt để khóc người ngày xưa”, khi cuộc hôn nhân của chính Phương Hòa vẫn còn để lại nhiều vết thương đau đớn trong lòng mình? *** Văn
Cường ơi, thằng bạn thân thiết nhất của tao cả một thời đi học! Tới tuổi bọn
mình thì ai cũng đã đến lúc sẽ phải lần lượt rời khỏi thế gian vô thường đầy đớn
đau phiền muộn này. Bọn mình vốn là những thằng lính chiến, lăn lóc trên khắp
chiến trường rồi bất ngờ phải buông súng, bị tù đày khổ ải, mà sống được tới
hôm nay cũng đã là may mắn lắm. Mày đi trước một bước. Tao buồn vì từ nay
trong đám bạn bè thân thiết sẽ thiếu vắng mày, nhưng tao cũng mừng cho mày, hy
vọng là trước lúc ra đi, mày cũng đã tìm lại những gì mất mát mà mày từng tha
thiết, cho dù không toàn vẹn. Mà trên đời này có cái gì là toàn vẹn đâu, hả Cường? Hãy yên nghỉ nghe Cường! Phạm Tín An NinhChỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 08/Nov/2024 lúc 10:30am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23108 |
Gởi ngày: 21/Nov/2024 lúc 12:46pm |
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 21/Nov/2024 lúc 12:47pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23108 |
Gởi ngày: 22/Nov/2024 lúc 11:50am |
Đại Úy Trở Về Năm 1978 tôi đi học sư phạm và ra dạy tiểu học
đồng thời với ngày gia đình tôi chuyển lên vùng kinh tế mới. Nói đến “kinh tế
mới” chắc hẳn người Việt, nhất là những người sống ở miền Nam chẳng lạ gì. Đã
vào tháng chín, là mùa khai giảng nhưng nơi đây vẫn còn im ắng. Mọi người vừa
mới đến nên còn đang bận rộn che lại mái nhà để ở và đi phát hoang để kiếm đất
đai trồng trọt. Tôi và những người bạn cầm quyết định đến trình diện với “điểm” ° và được biết
nơi đây chưa có trường học. Vùng kinh tế mới có 3 thôn, mỗi thôn cách nhau
khoảng 5 cây số đường đồi núi. Trong nhóm giáo viên về đây chỉ có tôi là có gia
đình tại chỗ, các bạn tôi đều từ đồng bằng lên dạy học, tất cả đều là thầy
giáo, lúc ấy chưa có bóng dáng cô giáo nào, có lẽ bởi vì vùng kinh tế mới lúc
này vẫn đang còn là nơi rừng thiêng nước độc, không ai nở để con gái về làm
việc nơi đây.
Riêng thôn bên cạnh thì có nhiều cô giáo, lớn tuổi hơn chúng tôi một chút. Hỏi
ra thì biết các cô ấy dạy học từ trước biến cố 1975 và tiếp tục được giữ lại để
dạy học. Hỏi thêm chút nữa thì hóa ra các cô ấy là vợ sĩ quan VNCH, đi kinh tế
mới dạy học để chờ chồng về. Tự nhiên giữa tôi và các cô giáo ấy có sự đồng cảm
và quí mến nhau, có lẽ vì cùng chung một hoàn cảnh. Tới nay tôi vẫn còn nhớ cô
Quỳnh Như, hiệu phó, cô Như Thủy, tổ trưởng lớp 1 và cô Ngọc Lê tổ trưởng lớp
3. Cả ba người đều có chồng là trung úy. Cô Lê và cô Thủy đều đã có một đứa
con, riêng cô Như thì chưa. Cô nói: “Vừa mới cưới nhau có mấy tháng là xảy ra
chuyện, ảnh đi luôn tới giờ nên chưa kịp có con”. Cô vừa nói vừa cười, một nụ
cười buồn trên khuôn mặt đẹp.
Công việc đầu tiên của tôi là đi đến từng nhà để ghi tên tuổi trẻ em trong
thôn, xem thử em nào đang học lớp mấy, em nào đã đến tuổi đi học mà sắp xếp lớp
lang cho năm học đã bị muộn màng. Sang tháng 10, giáo viên thì đã có nhưng
trường lớp vẫn chưa, mọi người đều nóng ruột e ngại con em sẽ lỡ mất chuyện học
hành. Mọi người trong thôn bàn bạc và có sáng kiến dùng những căn nhà tạm của
những người “bỏ vùng”° ở rãi rác trong thôn làm lớp học tạm. Chúng tôi về
“điểm” xin bàn ghế và sách giáo khoa, vài ngày sau xe tải chở về và các lớp học
lần lượt “khai giảng”, ê a tiếng học bài giữa một vùng núi rừng hoang lạnh.
Cô Như Thủy nói với tôi:
- Thôn chưa có cô giáo, thôi thì Huy dạy lớp 1 nhé.
Tôi giãy nảy:
- Trời! Em con trai mà dạy lớp 1 sao được. Mấy đứa nhỏ này đi học còn khóc nhè
sao mà dỗ được chớ.
- Em phải cố gắng thôi chớ biết sao. Chẳng lẽ tụi chị tuốt dưới kia lên đây dạy
hay sao?
Tôi chống chế:
- Thì cũng còn mấy đứa kia kìa…
Cô Như Thủy cười:
- Tụi nó cũng con trai như em thôi mà, để tụi nó dạy mấy lớp khác. Em “cũng là
người ở kinh tế mới mình”, gởi con nhỏ cho em phụ huynh sẽ yên tâm hơn. Để năm
học tới có cô giáo về thì tính sau, nghen Huy
Tôi chẳng còn lý do gì để từ chối, đành phải chấp nhận dạy học sinh lớp 1 bé
xíu xiu. Và rồi tôi đã dạy lớp 1 suốt ba năm liền, vì đợi hoài mà không thấy có
cô giáo nào về…
xxx
Nói về dạy học thì có nhiều chuyện sẽ kể trong những lần sau, ở đây chỉ nhớ mấy
cô giáo vợ trung úy và tôi, thằng thanh niên mới lớn cũng có cha và anh là
những sĩ quan của một thời tan tác. Tháng 12 ngôi trường đã được làm xong, dĩ
nhiên là mái tranh vách đất, do bà con trong thôn phân công nhau dựng nên. Có 2
dãy phòng học, mỗi dãy 3 lớp đối diện nhau. Dãy nhà nối giữa là văn phòng và là
chỗ ở của giáo viên. Mỗi phòng học có 3 cửa sổ và 1 cửa ra vào, rộng không kể
xiết, có lẽ vì núi rừng sẵn gỗ sẵn cây hà cớ gì hà tiện. Chúng tôi hăm hở
chuyện dạy học một cách chân tình…
Theo qui định, dạy học thì phải soạn giáo án, tôi dị ứng chuyện này kinh khủng.
Chỉ mỗi việc gọt bút chì và viết chữ mẫu cho tụi nhỏ là tôi đã muốn hụt hơi nói
chi chuyện giáo án giáo iếc! Tôi than thở với cô Quỳnh Như:
- Miễn cho cái chuyện giáo án đi chị Như ơi, tốn thời gian quá, dạy thì tùy cơ
ứng biến thôi mà, có gì đâu mà soạn sẵn chứ.
Chị Như chép miệng:
- Chị cũng biết, nhưng cái nguyên tắc ở trên qui định như vậy thì chị cũng chả
biết xoay xở ra sao, em cứ liệu liệu xem…
Hóa ra cái “liệu liệu xem” là trước mỗi lần thanh tra hay dự giờ tôi đều nhận
được lá thư viết tay do chị Như gởi, báo cho biết ai đi kiểm tra, là tỉnh về
hay chỉ là phiên định kỳ của ban giám hiệu. Và tôi đã hiểu. Tôi lấy một quyển
vở mới soạn một lèo cả tuần giáo án, không quên ghi chú vào đầu quyển: “tập 3”,
hàm ý là còn có tập 1 và tập 2 đã soạn trước đó. Chị Như xem xong ghi vào mấy
chữ: “đã kiểm tra, ngày tháng năm, ký tên”… rồi lần sau tôi lại cứ tiếp tục như
vậy. Cũng có khi trong đoàn kiểm tra có người hỏi các tập giáo án trước đâu,
tôi trả lời cất ở nhà… Cứ như vậy suốt mấy năm tôi dạy học chẳng phải soạn bài,
nhàn nhả không ai bằng…
xxx
Qua năm học tiếp theo cô Quỳnh Như bị bệnh, suốt ngày nằm rủ rượi một mình
trong căn nhà tôn vắng vẻ. Tôi tới thăm nói: “Coi chừng sốt rét là mệt à
nghen”. Cô Như Thủy khều tay tôi ra ngoài nói nhỏ: “Không phải sốt rét đâu, hôm
hè rồi chồng nó được thả về, nó ốm nghén đó” “Hả! Sao “ổng” không lên đây?”
“Hà! nó đang tính xin nghỉ việc để chuyển đi đó, Huy biết vậy thôi nhen, không
được nói với ai, để nó đi chớ tội”. Và sau đó thì chị Quỳnh Như được nghỉ
thiệt. Chị cầm giấy tờ đàng hoàng ra khỏi vùng kinh tế mới, để lại tôi với nỗi
băn khoăn chả biết ông chồng trung úy của chị ra sao, có xứng đáng với người
đàn bà đẹp mà suốt năm học qua tôi đã từng ái mộ?
Vài tháng sau đó trung úy Cần, chồng cô Ngọc Lê được thả về. Anh em giáo viên
chúng tôi xúm xít quanh căn nhà nhỏ của chị chia sẻ buổi liên hoan khiêm tốn.
Anh Cần dáng người ốm yếu, giọng nói khàn khàn. Chị Lê san sẻ:
- Anh Cần bị bệnh suyển kinh niên hồi giờ đó.
Tôi tò mò:
- Anh bị bệnh vậy đi lính sao ra trận được?
Anh cười cười:
- Anh hồi trước làm văn phòng không hà, có đánh đấm gì đâu…
- Thôi thôi, mọi người ăn uống đi không hỏi han gì nữa, để anh Cần nghỉ ngơi
ha. - Chị Lê vừa mời mọc khách khứa vừa gắp thức ăn cho chồng.
Mãi sau này khi đã thân thiết rồi anh Cần có nói với tôi: “Hồi ở trong tù tụi
nó đánh anh mất tiếng đó em. Mà thôi chuyện qua rồi, không cần nhắc lại làm
gì”.
Bước qua năm học thứ ba ở kinh tế mới thì anh Mạnh, chồng cô Như Thủy được về.
Khác với anh Cần, anh trung úy không quân này lầm lỳ và ít nói. Mỗi khi chúng
tôi đến nhà anh đều lánh mặt ra sau vườn, lụi cụi bên mấy giồng khoai lang, mấy
bụi sắn mì. Cô Thủy ái ngại nói với chúng tôi:
- Tụi em thông cảm đi nha. Anh Mạnh hồi xưa vui lắm, bây giờ đi cải tạo về tự
nhiên lầm lì ít nói vậy đó chứ thật ra tốt bụng lắm…
Cuối năm học, chị Thủy nhắn tôi đến nhà. Chị bày ra mấy hộp “đồ dùng dạy học”
và nói:
- Anh chị chuẩn bị chuyển về Sài Gòn để chờ kết quả thủ tục “hát ô”. Chị không
còn dạy nữa nên để lại cho em mấy cái đồ dùng dạy học này. Toàn bộ chương trình
lớp 1 đều có đây hết, cả Toán và Tiếng Việt. Em lấy dùng để dạy cho tụi nhỏ.
Tôi mở thử một hộp ra xem: Mấy cái bông hoa, mấy con số, mấy con gà con vịt,
bảng chữ cái bằng giấy v.v…những thứ lặt vặt mà khi dạy chúng tôi dán lên bảng
cho tụi học trò xem… Tất cả những đồ thủ công này đều được cô Như Thủy làm ra
một cách công phu, tỉ mỉ… Tôi cầm xem mà muốn ứa nước mắt… Nhưng rồi tôi cũng
không có dịp để dùng vì năm học tiếp theo đã có cô giáo về dạy học. Tôi trả lại
lớp 1 để dạy lớp lớn hơn. Tuy nhiên tôi vẫn cẩn thận giữ gìn mấy hộp đồ dùng
dạy học của cô Thủy cho mãi đến hơn hai năm sau mới trao lại cho một cô giáo mà
tôi thấy có tình yêu thương con trẻ thật lòng…
xxx
Trở lại với những ngày đầu nơi vùng kinh tế mới. Một đêm đang ngủ bỗng nghe
tiếng kẻng vang rền. Chúng tôi thức dậy ra xem thì thấy du kích đang áp giải
một người đàn bà và hai đứa bé. Đứa bé gái mẹ ẳm trên tay, thằng anh lui cui
chạy theo níu áo mẹ. Tiếng thôn trưởng Bảy Mô oang oang:
- Cô Hoa này “bỏ vùng” bị tụi tui bắt lại được bên suối Đậu Đen nè. Bà con coi
đi!
Tiếng chị Hoa khóc ri rỉ:
- Tôi chỉ dẫn thằng Cường về nhà nội nó để đi học thôi mà.
- Chị đừng có mà biện bạch, đi đâu mà đêm hôm khuya khoắt như vậy? Chị tưởng
tui không biết chị là vợ ông đại úy thủy quân lục chiến hay sao?
Có tiếng nói:
- Thôi chị Bảy ơi, thông cảm cho “cổ” đi, đại úy đại uyết gì đâu, tại “cổ” thân
phận đàn bà yếu đuối thôi mà. Chị Bảy cứ để tụi tui giúp đỡ cho.
Chị thôn trưởng Bảy Mô hướng vô phía bóng tối, nơi chúng tôi đang đứng:
- Vậy bây giờ tôi giao cô Hoa này lại cho “đội” quản lý đó nghen. Làm sao thì
làm, “bỏ vùng” là có chuyện với tôi đó.
Chị Bảy Mô và mấy cậu du kích bỏ đi, tôi chạy lại ẳm thằng Cường lên. Chà,
thằng này tôi vừa ghi tên chuẩn bị đi học lớp 1 đây mà…
Bốn năm sau ba thằng Cường trở về. Ông đại úy thủy quân lục chiến, trở về lầm
lủi và muộn phiền. Thật ra trước đó đã có mấy đại úy trở về. Đầu tiên là đại úy
Bằng, một đại úy già trạc tuổi ba tôi (nói già là theo lúc đó chứ tính ra mấy
vị đó trẻ hơn tôi bây giờ nhiều à). Ba tôi được mời đến dự tiệc đoàn tụ vì cả
hai ông trước đây đều làm việc ở cùng đơn vị trường HSQ Đồng Đế Nha Trang, có
quen biết nhau. Sau đó lác đác và lần lượt các đại úy trở về. Có người đứng
tuổi, có người còn trẻ… Có người chúng tôi gặp mặt, có người chỉ nghe tên.
Người đàn ông đi với thằng Cường gặp tôi tại trường học:
- Tôi là ba thằng Cường. Nhờ thầy giúp cho việc rút hồ hơ học bạ…
Tôi biết ngay đây là ông đại úy chồng cô Hoa, là ba ruột của thằng Cường và con
Ánh. Tôi cảm thấy lúng túng thật sự:
- Anh đã gặp chị Hoa chưa?
- Gặp rồi chứ. Chúng tôi thỏa thuận thằng Cường đi với tôi, con Ánh ở lại với
má nó, còn lại sau này tính tiếp.
Tôi nhìn thằng Cường đang đứng bên cạnh ba nó băn khoăn và buồn bả: “Vậy là em
sẽ đi với ba hả?” “Dạ” - thằng Cường gật đầu, mái tóc vàng hoe trên khuôn mặt
bé thơ đen sạm.
Số là sau đợt “bỏ vùng” không thành công năm nọ, ba mẹ con chị Hoa đành ở lại
vùng kinh tế mới trong sự cưu mang của bà con đồng cảnh ngộ. Sát bên nhà chị là
nhà anh Tánh, một trung úy pháo binh độc thân, tính tình cô độc và khó chịu.
Những người trong đội hay nói đùa: “Ông Tánh ở sát bên nhà cô Hoa, có gì giúp
đở người ta với nghen”. Anh ta chỉ gầm gừ không nói năng gì. Vậy mà hơn một năm
sau đó, hai người tự nhiên về ở với nhau, năm sau nữa sinh được một bé gái…
Bây giờ ba thằng Cường trở về, mọi việc trở nên lỡ làng và khó xử. Ông ta giải
thích với tôi:
- Tôi không trách móc gì đâu. Những năm đó nếu không nhờ anh Tánh thì mẹ con
thằng Cường cũng khó sống. Xét ra thì tôi cũng có mang ơn mà. Bây giờ cô ấy đã
yên phận thì phải đành lòng thôi. Ban đầu tính đưa cả con Ánh đi luôn nhưng vậy
thì tội quá, nên chỉ để thằng Cường đi với tôi thôi.
Tôi nói:
- Anh tính chuyển cháu về học trường nào? Biết để ghi vào giấy giới thiệu
chuyển trường?
Anh ngập ngừng:
- Chà! Cũng chưa biết xin học tiếp ở đâu. Có nhà bà con ở Sài Gòn, tá túc chờ
“hát ô” chưa biết nhanh chậm ra sao…
- Thôi được rồi, chuyện hồ sơ của cháu cũng không khó gì đâu, cứ để trống chỗ
tên trường xin nhập học, anh sẽ điền vào sau cũng được. À, mà bây giờ cũng trễ
quá, hồ sơ nằm ở văn phòng chính, chắc là sáng mai mới rút ra được. Vậy tối nay
anh ở đâu?
- Không sao, tôi đang trọ ngoài bến xe, mai sẽ quay lại được.
Ông đại úy dắt tay thằng Cường đi ra phía cổng trường. Nắng chiều phản chiếu
hai cái bóng một thấp một cao liêu xiêu và cô độc.
xxx
Cũng trong khoảng thời gian này tôi gặp đại úy Bình, không rõ là sĩ quan chủ
lực hay địa phương, chỉ biết ông làm việc tại Qui Nhơn. Ông Bình là ba của
thằng Khanh, học sinh lớp 5. Tôi không dạy lớp thằng này nhưng trong xóm với
nhau nên khá gần gủi. Thật ra tôi chỉ biết bà nội nó trong những lần thăm viếng
gia đình phụ huynh với mấy đứa bạn. Hỏi han thì biết ba nó còn đi cải tạo, má
nó buôn bán gì đó ở Qui Nhơn, thỉnh thoảng mới về để chu cấp tiền nong, quần áo
và những thứ linh tinh khác. Một đôi lần có thoáng gặp má nó. Một người đàn bà
sang trọng, quí phái…
Buổi chiều tôi nhận được bức thư tay do thằng Khanh mang tới:
“Thầy Huy
Tôi mời thầy tối nay đến nhà tôi để bàn việc giúp chuyển trường cho em Khanh.
Tôi chỉ nhờ vả một lần duy nhất này thôi, mong thầy không từ chối. Ba của
Khanh. Bình”
Trước mặt tôi là người đàn ông tầm thước, hơi xanh xao nhưng có nụ cười khinh
bạc. Bên góc giường là hai người đàn bà: bà nội và má thằng Khanh.
Rót nước trà ra ly ông Bình chậm rãi nói:
- Tôi vừa từ trại cải tạo trở về. Chiều nay thấy thằng Khanh ngồi trên lưng con
bò tôi không thể nào tưởng tượng ra được đây là thằng con tôi. Thằng Khanh đây
sao?
Tôi cười cười:
- Thì chuyện chăn bò ở kinh tế mới này thì có gì lạ đâu anh? Đứa nào cũng cơ
cực mà.
- Tôi hiểu tôi hiểu. Nhưng không thể không đau lòng… Con tôi đây sao? Ôi trời!
- Thôi con à, chuyện đã dĩ lở vậy rồi, có ai muốn đâu mà… - Tiếng bà nội thằng
Khanh.
Hóa ra tình cờ tôi được nghe chuyện nhà của đại úy Bình. Sau biến cố 75 anh hạ
sĩ lái xe cho đại úy Bình ngày xưa sắm được chiếc xe hàng đi buôn chuyến. Tình
cờ gặp lại rồi giúp đở cho vợ của “ông thầy” năm xưa, lâu ngày thành ra nhân
nghĩa. Tuy không có con cái gì nhưng ai cũng biết. Đại úy Bình nói với tôi,
giọng rổn rảng:
- Tôi đã gặp nó và cảm ơn đàng hoàng. Cảm ơn vì đã giúp đở vợ con tôi trong cơn
khốn khó. Tôi cũng đã nói thẳng thắn với “cổ” nên ra đi với tôi, quên hết mọi
sự để làm lại cuộc đời, nhưng “cổ” không chịu. Tôi đã hết lòng rồi, bây giờ
không còn gì ân hận nữa. Tôi sẽ dẫn thằng Khanh ra đi…
- Sao anh cứ nóng nảy làm gì. Chuyện lỡ rồi em chẳng còn lòng dạ nào đâu anh. -
Người đàn bà bên góc giường lên tiếng.
- Ờ ờ, anh xin lỗi, xin lỗi ông thầy nghen, tôi hay nóng nảy.
Rót thêm nước vào ly ông đại úy trầm ngâm:
- Sáng mai vợ chồng tôi đi xuống “điểm” để ký cái giấy xác nhận ly hôn. Nhân
tiện muốn ghé bên trường học rút cái hồ sơ cho thằng Khanh, nên mới nhờ tới
thầy.
Nhìn vẻ băn khoăn trên mặt tôi ông ta nói tiếp:
- Tôi chuẩn bị làm hồ sơ đi “hát ô”, mà má thằng Khanh từ chối nên tôi nghĩ
phải lấy giấy xác nhận để có người khác đi với mình. Đi một mình cũng vô duyên
quá!
Ông đại úy lại nở nụ cười, một nụ cười đau đớn.
Theo hẹn, sáng hôm sau tôi và ba má thằng Khanh đi xuống “điểm” để lo chuyện
giấy tờ. Đường đi phải băng qua một con suối nhỏ. Mùa mưa nên đoạn sâu nhất
nước cao lên tới háng. Tôi cởi quần dài, vén quần đùi nhón chân lội qua. Quay
lại nghe tiếng của đại úy Bình:
- Để anh cõng em qua, đừng ngại, chỉ là lần cuối thôi mà.
Ông ta quấn cái quần dài quanh cổ, khòm lưng cõng vợ qua suối, vẻ mặt nhiệt
thành. Tôi giả lơ để người đàn bà không mắc cở…
Lúc ngồi bên ngoài chờ ông Bình trả lời phỏng vấn bên trong, tôi hỏi:
- Sao chị không đi với anh ấy?
Một nụ cười buồn rớt trên mặt chị:
- Cậu còn trẻ nên chưa biết đó thôi. Tôi hiểu “mấy ảnh” mà. Đau đớn lắm! Sống
bên cạnh nỗi đau của mấy ảnh mình không chịu được đâu, thôi thì phó mặc cho số
phận thôi.
xxx
Đã ba mươi mấy năm qua rồi kể từ ngày ấy. Tôi đã không còn trẻ nữa và các anh
chị ấy chắc cũng già rồi. Tôi không rụng về cội, cứ lưu lạc đi qua dặm trường
rong ruổi. Đôi khi nhớ về không biết cô Quỳnh Như xinh đẹp bây giờ ở đâu? Mấy
cái hình thủ công con chó con mèo, bông hoa chữ số của cô Thủy bây giờ có ai
gìn giữ? Cô Ngọc Lê và trung úy Cần nay ra sao?
Hai ông đại úy ngày xưa giờ đã ra sao rồi? Và đớn đau hơn cả là thằng Cường
thằng Khanh bây giờ đã làm được gì? Có còn nhớ một khoảng đời kinh tế mới hắt
hiu mồ côi bé nhỏ? Có còn nhớ mẹ hay không?
° ĐIỂM là nơi điều hành toàn bộ hoạt động của vùng KTM. Những người làm việc ở
đây là bên bộ đội, có sự trợ giúp của đội ngũ thanh niên xung phong, bộ máy tổ
chức như một xã hoặc phường nhưng khác ở chỗ hoạt động độc lập, nhận chỉ thị từ
tỉnh, không liên quan nhiều đến chính quyền địa phương.
° "Bỏ Vùng": chỉ những người hoặc gia đình trốn khỏi vùng kinh tế
mới.
Lê Phú Hải |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23108 |
Gởi ngày: 30/Nov/2024 lúc 8:48am |
Chạm Cửa Thiên Đường Vượt trùng dương, ngàn cơn bão, em đã đến Nam Dương, đất nước ngàn, vạn đảo; em chạm cửa thiên đường, cửa chưa mở; cơn sốt rừng ập đến, chiều thu buồn, em nằm lại Kuku! Hòm Cao ủy, phủ thân người yêu dấu, thay vòng tay anh ấm: tấm nilong! Mộ chí đề tên, ngày em mất, mả lạn tàn phai sương gió thời gian; mộ chí khắc bằng dao để lòng đau, anh nhớ! Rượu cay đắng mang theo, rửa cốt người yêu dấu, chiếc nhẩn cưới còn đây, thương hoài tay áp út! Anh hú, anh kêu: tiếng hú chiều tuyệt vọng …Ôi em ơi! Ôi Đất hỡi; Trời ơi ! Sao nỡ đóng cửa thiên đường khi bàn tay em chạm tới. Ba mươi năm về lại Ku Ku; chiều thu lá rụng; sóng biển khóc, khóc thương người uổng tử ! Rụng lá vàng, sao nỡ rụng lá xanh? Bài thơ khóc em chiều Kuku ngàn thu vĩnh biệt; anh mang tro cốt em theo mình vĩnh biệt Kuku! Tháng Sáu, năm 1982, sau một chuyến hải hành gian nan đã đến được Kuku, Nam Dương. Mừng vì đến được bến bờ tự do chưa thỏa thì đau đớn thay chỉ hai tháng sau, cơn sốt rừng ác tính đã mang vợ tôi đi mãi mãi!” Triệu, một thuyền nhân tỵ nạn ở Ku ku ngày xưa hồi tưởng: “Tôi đã chôn theo em gương, lược, áo quần! Chiếc nhẫn cưới em vẫn còn đeo trên ngón tay áp út!” Mộ em trên sườn đồi, cạnh bãi đáp trực thăng, là một vùng đất sét pha cát, khá xốp, chứ không phải đá núi nên chiếc quan tài của Cao ủy trong đó xác bọc bằng một tấm ni long lúc hạ huyệt cũng sâu tới hai thước đất. Một chiếc thánh giá bằng gỗ đơn sơ, tên em và ngày mất được khắc lên trên đó. Giờ khai quật, cẩn trọng đào xuống gần hai tiếng đồng hồ, chiếc áo quan hiện ra, nắp ván thiên đã mục rã thành cát bụi sau thời gian dài đăng đẳng. Trên nền xi-măng của bãi trực thăng dưới cơn mưa nặng hạt, tôi thu nhặt toàn bộ mẩu xương cốt, những di vật, gương lược và chiếc nhẫn cưới ngày xưa trên ngón tay áp út tôi đã từng chôn theo em, được bỏ trong chiếc bọc ni long. Hài cốt được hỏa thiêu dần dần biến thành tro trắng! Cát bụi đã trở về cát bụi! Nhìn lên đỉnh đồi phủ mờ mây trắng như một dải khăn tang nghìn trùng xa cách Xin tạ ơn đất trời Kuku, dẫu quê người, vẫn rộng lượng cho xác thân em tạm nương náu suốt 37 năm qua. Ngày xưa, khi chiếc tàu Cao ủy xa dần Kuku, tôi đã thầm nói lời từ biệt với em và hẹn ngày trở lại. Bây giờ tôi trở lại vì ai nỡ bỏ em mồ hoang cỏ lạnh cho đành! Trời Kuku bỗng đổ một cơn mưa rừng nhiệt đới! Cơn mưa rừng nhiệt đới ngày xưa phân ly, tôi đi, em ở! Và cơn mưa rừng nhiệt đới chiều nay tôi trở về Ku Ku để tìm lại em…” Xin hãy rót xuống một giọt rượu để giải oan cho những cái chết tức tưởi trong cuộc biển dâu nầy!
Đoàn Xuân Thu Melbourne Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 30/Nov/2024 lúc 8:51am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23108 |
Gởi ngày: 03/Dec/2024 lúc 9:16am |
Tôi Đi "Ủ Tờ"Theo thông cáo của chính quyền mới "giải phóng" thì tất cả các Sĩ quan, viên chức của chính phủ VNCH ở Saigon phải đến trình diện tại nhiều địa điểm khác nhau để đi "Học Tập Cải Tạo".Tôi phải trình diện trong 3 ngày 13-14-15 tháng 6 1975. Thông cáo cũng nói rõ là chỉ cần đem tiền để đóng tiền ăn và mang đồ dùng đủ xài trong vòng 1 tháng. Mới nghe qua thông cáo thì ai cũng mừng thầm, thôi thì đi "học tập" có 1 tháng chẳng bao lâu. Đến trưa ngày 15/6/75 tôi cùng bạn H.H. Quang (K2), bạn M.V. Thọ (K1) kêu xe xích lô máy chở đến trình diện tại một tòa nhà đối diện Bộ TTM, cạnh quán Bánh Bao Ông Cả Cần. Vào làm thủ tục "nhập học" và đóng tiền ăn 1 tháng rồi được hướng dẫn lên lầu ở trong 1 phòng nhỏ, tới khuya được xe đưa đến "Trường Cải Tạo" ở Làng Cô Nhi Long Thành, trên đường ra VũngTàu nhưng chưa tới Bà Rịa. Làng Cô Nhi LT trước đây là nơi nuôi dưỡng hơn 2000 trẻ em mồ côi. Khu làng rất rộng có 13 dãy nhà vách gạch mái tôn và một ngôi nhà biệt lập xây theo kiểu hình bát quái ở phía bên trái khi vao cổng. Cuối năm 1973 khi được tin báo của BCH/CSQG/Khu 3, là VC đã lợi dụng Làng Cô Nhi LT để làm cơ sở kinh tài và chứa chấp thanh niên trốn quân dịch nhiều năm. Họ đã tổ chức gác cửa và lập các chòi canh xung quanh làng không cho bất cứ ai được vào làng.Vì thế BTL/CSQG/Khối Điều Hành đã xin phép Bộ Nội Vụ đưa 3 Đại Đội CSDC của BD222 lên bao vây LCN để giải tỏa. Khi thấy CSDC đến bao quanh họ cho đốt tất cả các chòi canh ở xung quanh làng, đồng thời đánh kẻng, đánh chuông, đánh trống la inh ỏi như bị cướp đến làm hại trẻ em mồ côi. Thế là Trung Đội võ thuật của CSDC liền yểm trợ cho Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc BCH/CSQG/Biên Hòa tiến vào làng để kiểm soát và thanh lọc. Một cán bộ VC tên Tư Sự và đồng bọn bị bắt đem nhốt ở khám Chí Hòa. Số thanh niên trốn quân dịch được đưa đi làm nhiệm vụ của họ.Số trẻ em mồ côi được Bộ Nội Vụ chuyển đi nơi khác để tiếp tục nuôi dưỡng. Đêm đó tôi cùng Đại Tá Quý, Trưởng Khối của tôi cũng có mặt ở BCH/CSQG/ Khu 3 từ 10 giờ đêm tới 3 giờ sáng để theo dõi diễn tiến cuộc HQ giải tỏa nầy và về trình Tư Lệnh kết quả nội vụ vào lúc 8 giờ sáng hôm sau đó. Làng Cô Nhi LT được bỏ trống từ dạo đó. Đến tháng 6 năm 1975 mới có hơn 3000 anh chị em Sĩ quan CSQG, Viên chức hành chánh ở các Phủ, Bộ, Dân Biểu, Nghị sĩ... được đưa vào đây "Học Tập Cải Tạo" và lấy tên là "Trường Cải Tạo Số 15NV". Khi vào làng CNLT tháng đầu chỉ đi dạo chơi, trò chuyện cùng bạn bè, lớp thì đánh cờ tướng, đánh banh v.v..Mỗi người được phát 1 chiếc chiếu để nằm trên nền gạch, việc ăn uống được nhà thầu ChợLớn lo vì mọi người đã đóng tiền ăn. Ai có tiền thì mua thêm kẹo bánh, nước tương, xì dầu, đậu phọng... kể cả thuốc lá cũng có bán ở Câu lạc bộ do Tư Sự ở Khám Chí Hòa ra tiếp tục kinh doanh. Một hôm tôi và K2 Nguyễn văn Tư (CHT/CSQG/ Phước Long) đi lang thang trong vòng thành của làng CN có gặp K2 Trần Ngọc Ánh và K3 Lê Bửu Hừng đang lom khom rào kẽm gai quanh chỗ chúng tôi đang ở. Ánh và Hừng bị VC bắt ở Phước Long và đang là tù binh của VC lúc đó. Hết 1 tháng rồi mà chả có học tập gì cả. Có anh nói mình đi ngày nào thì về ngày đó khi đúng 1 tháng. Có người nói mình đi ban đêm thì về ban đêm. Rồi qua tới ngày 15/7 một anh nói đêm nay mà mình không về thì "mút chỉ cà tha" rồi. Sáng hôm sau khi gặp cán bộ anh em chạy lại hỏi thì cán bộ nói: "Các anh chưa học tập gì cả mà sao về được!" Có người hỏi vậy còn tiền ăn có đâu mà đóng tháng tới. Cán bộ trả lời: "Thì nhà nước nuôi các anh lo gì." Lúc đó mới "tá hỏa" và biết mình nghe mà không hiểu ý thông cáo của chính quyền "giải phóng".Sau 3 tuần nữa mới được luân phiên lên Hội Trường để học tập. Bài học ít lắm chỉ có 7 bài thôi do cán bộ từ ngoài Bắc vào thuyết giảng. Sau mỗi bài học phải về viết bảng khai báo lý lịch 3 đời, đã giết bao nhiêu cán bộ Cách mạng, đã làm gì có lợi cho Mỹ-Ngụy và làm gì có hại cho CM trước đây. Cứ khai hoài không biết bao nhiêu lần mà cứ bảo các anh chưa thành thật khai báo làm sao tiến bộ để được nhà nước khoan hồng cho về đoàn tựu với gia đình. Sau khi học hết 7 bài rồi thì bắt đầu đi lao động. Đến cuối năm, Tết VN sắp đến thì được trại cho phép viết thơ về gia đình để cho thân nhân đến thăm gặp lần đầu tiên sau gần 1 năm biệt tích.Qua Tết anh em chúng tôi lần lượt được chuyển ra Bắc. Trước khi ra Bắc phải xuống trai giam ở Thủ Đức. Lúc di chuyển xuống trại giam TĐ vào nửa đêm, tôi ngồi chen chúc với nhiều người, khi xe chưa chạy thì thấy có 2 anh công an cầm súng dài đứng dưới phía sau xe, 1 anh công an khác đi vào trong xe đem theo 1 xâu còng số 8 đến còng tay 2 người từng cặp một ngồi sát bên nhau.1 anh "học viên" la inh ỏi lên: Ối, Ối... ai còng tay tôi, ai còng tay tôi và khóc thê thảm, vì anh ngồi khuất sau các bạn khác đang đứng mà không thấy mặt anh công an đang bấm còng. Đến TĐ mới biết mình bị "Ủ TỜ" vì có phòng giam kiên cố, cửa có song sắt và mỗi chiều phải tập hợp để công an điểm số vào buồng giam khóa cửa lại hẳn hòi không giống như ở làng Cô Nhi LT. Sau 1 tháng ở trại giam TĐ, một đêm nọ chúng tôi lại được còng tay đưa xuống bến Tân Cảng Saigon để lên tàu Hồng Hà ra khơi. Tàu Hồng Hà là một loại tàu chở hàng có 3 hầm, mỗi hầm chứa được 800 người ngồi chen chúc nhau dưới đáy sàn tàu. Các tù nhân được mở còng ra rồi đi xuống hầm tàu bằng 1 cái thang xong họ rút thang lên. Bọn tù chúng tôi như ếch ngồi dưới đáy giếng, nhìn lên chỉ thấy toàn là mây trời vì tàu không có mui. Ngày đầu tàu chạy không thấy gì, đến ngày thứ hai mọi người đều bị say sóng ngã gục lên gục xuống, có người bị ói mữa nhứt là mấy người lớn tuổi trông thấy tội nghiệp quá, vì lúc đó mình còn trẻ khô, chỉ có 33 tuổi tây. Sau 3 ngày đêm tàu đến đậu ở bến cảng Hải Phòng lúc 3 giờ sáng. Đến 7 giờ sáng thì được bắc thang lên bờ ngồi chồm hổm trên bãi cát để nghe đọc nội qui di chuyển và có đông công an mặc đồ màu rêu xanh đứng quanh đợi sẵn. Khi lên xe tù nhân chúng tôi lại "được" còng tay từng cặp như trước để chuyển đi. Qua Bắc Hải Phòng và chạy thẳng đến một trại tù ở giữa rừng núi Quãng Ninh. Trại tù nầy có lâu đời, có vách tường mái ngói, song sắt rất kiên cố. Trại nằm trên một khu đất rộng, bằng phẳng, chung quanh bao bọc bởi bờ tường cao. Ngoài xa hơn là những ngọn núi đồi với nhiều cây xanh rậm rạp. 6 tháng đầu ở Quãng Ninh được học tập và khai báo giống như ở làng Cô Nhi Long Thành. 1 tháng được ra ngoài để lao động gọi là "Lao Động Bồi Dưỡng". Khi học tập xong thì một số người được chuyển sang các trại khác. Số người còn lại thì ra lao động hàng ngày, hàng tháng, hàng năm để tiến bộ được cả hai mặt: học tập và lao động. Lúc đó văn võ kiêm toàn thì mới "ra trường" được. Tôi ở trong Đội được phân công đan các sọt đựng rác bằng tre nứa do tù hình sự lấy trong rừng đem về tận sân buồng giam để làm. Có ngày cả đội đi gánh phân bò ở các chuồng bò trong rừng đem về cho các đội khác trồng rau. Khi đi qua các con suối có nước lên đến đầu gối đôi khi làm "Thợ gánh phân" phải té lên té xuống khi phân thấm nước làm nặng thêm. Còn việc chuyển phân của tù nhân từ các buồng giam thì được tù hình sự phụ trách, chúng tôi chỉ luân phiên mỗi ngày 2 người chun dưới hầm cầu ở sau buồng giam, nín thở rồi bưng 2 sọt đựng phân có lót rơm ra cửa cho tù hình sự dùng xe "cải tiến" đẩy phân ra rẩy tưới rau cải mỗi ngày. Mỗi buổi chiều được tù hình sự mang cơm đến trước sân, anh em xúm lại chia phần. Ai ăn thì cứ ăn, tôi thì thường mang cơm vào buồng giam đợi đến khi cán bộ đến điểm số để vào buồng khóa lại thì mới lấy cơm ra ăn ngồi ngay chỗ nằm có cửa sổ nhìn qua song sắt. Ngoài kia núi rừng, mặt trời vừa lặn, cảnh vật điều hiu. Xa xa có tiếng chim rừng luôn kêu "Hồ Hởi, Hồ Hởi" nghe mà trong lòng buồn muốn chết, có hồ hởi khỉ khô gì đâu mà chim nó cứ kêu hồ hởi mãi. Lúc nầy là không còn hy vọng ngày về. Miền Nam, nhà cửa, vợ con, cha mẹ... đều xa lắc xa lơ. Mình đang ở miền Bắc, một tỉnh sát liền biên giới Trung Cộng, núi rừng lạ quắc lạ quơ đâu phải quê mình. Mỗi chiều đi lao động về, cởi áo quần lao động ra tắm giặt thì vài con "vắt" đeo trên chân, trên ngực, cắn no tròn làm nhiều người nhẩy dựng, la hét vì trước nay chưa từng gặp con vắt. Vắt là loại giống như con "đĩa" ở miền Nam sống ở dưới nước của các ao hồ hay đồng ruộng. Còn con vắt ở miền Bắc thì sống trên bờ, ở các bụi cỏ thấp, khi gặp người hay trâu bò đi ngang qua là nó nhảy vào cắn hút máu để sống. Nó cắn không thấy đau nên mình không phát hiện ngay khi nó bám vào da thịt của mình. "Ủ TỜ" ở Bắc tù nhân phải đi lao động luôn, người tù ăn uống thiếu thốn, máu cũng không có dư, mà con vắt nó lại đói và cần máu để sống, người tù miền Nam đành phải chịu vậy thôi, vì một khi mình đói lại có loài vật đói hơn mình, cần được giúp đỡ trong cơn hoạn nạn. Lúc ở buồng giam số 6, một ngày chiều chúa nhựt cả Đội được nghỉ. Anh Đội Trưởng họ Lâm bên CSQG phe ta, kêu tôi và 2 bạn khác nữa đi ra ngoài để đan mấy cái sọt đựng phân cho trại theo lệnh của cán bộ. Tôi giả vờ không nghe vì trong buồng giam đang ồn ào. Ngày hôm sau anh hợp đội để kiểm điểm buổi tối sau khi vào buồng giam. Anh nói có người còn "cứng đầu" hôm qua cán bộ kêu đi đan sọt đựng rác mà không đi. Nếu anh có đọc được bài viết nầy, nay tôi xin lỗi "trễ" với anh, vì lúc đó tôi mê coi đánh cờ tướng mà không nghe lệnh của anh. Vả lại anh kêu tôi đi làm vào chiều Chúa Nhựt, tù được nghỉ, mà anh hay trại không có trả tiền OVERTIME!!! Khi ở Quãng Ninh tôi cũng có nghe nhiều tin đồn: nào là ra Bắc "ủ tờ" thì không có ngày về, mà phải định cư luôn dọc theo 2 bên bờ sông Hồng. Nhà nước sẽ xây cất những dãy nhà gần nhau trên đồng bằng coi như những xóm làng dành riêng cho tù ở miền Nam ra ở. Vợ con của tù lần lượt ra ở đó luôn, không cho trở về sống ở miền Nam, vì sợ cho họ trở lại đất cũ nhà xưa dễ dàng phản loạn nhà nước khó kiểm soát được. Lúc đó thất vọng quá, may gặp anh bạn N.H.Ph. gốc quân đội biệt phái CSQG, anh thường cho tôi biết những tin tức Quốc Tế và VN, hoặc có những tin tức liên quan đến số phận của tù miền Nam. Có những cuộc họp sơ khởi giữa Mỹ và VN để đưa tù cải tạo ra đi, Mỹ sẽ bồi hoàn tiền cho VN. Nghe tin hấp dẫn quá nên tôi cũng một phần an tâm hơn. Rồi tiếp theo sau đó anh cho tôi biết là mình chắc phải dời đi nơi khác vì Trung Quốc và VN sắp đánh nhau ở dọc biên giới. Anh em chúng tôi chuẩn bị tinh thần chờ xem. Một đêm nọ nhiều xe đến trại và công an đến mở cửa buồng giam bảo chúng tôi sẵn sàng ra xe để chuyển trại. Đoàn xe di chuyển về phía Nam ngang qua Phủ Lý Nam Định xe chạy luôn đến sông Hồng đậu lại để chờ qua bắc sông Hồng. Người dân miền Bắc đến đứng bên đường gần đoàn xe để xem. Có người nói "giặc Tàu bị bắt" ở biên giới, nhiều người không nói gì mà chỉ đứng xem. Chúng tôi được công an đứng phía sau xe canh giữ, hai người bị còng tay từng cặp không cho nói chuyện. Quá khát nước, một anh bạn nhờ công an vào nhà dân để xin 1 lon nước nhưng công an nó không chịu. Thế là đành nhịn khát cho đến 10 giờ đêm hôm đó khi về tới trại tù Thanh Hóa. Đoàn xe di chuyển vào tận núi Lam Sơn nơi anh hùng Lê Lợi trú đóng quân ngày xửa ngày xưa. Chúng tôi được đưa vào Trại Cải Tạo số 5/Phân trại B. Phân trại B nầy có các buồng giam đều là mái tranh, vách đất. Đêm hôm đó mấy con rận rệp sống dưới sàn gỗ mụt nát, có nhiều lổ nhỏ, bò lên ăn tiệc no nê, vì trại chưa kịp dọn dẹp và phát chiếu cho tù nhân trải ngủ. Thanh Hóa là tỉnh có nhiều đồng bằng trồng lúa, khí hậu nóng, các buồng giam có giếng nước đào ở ngoài và dùng gào có dây thẩy xuống kéo nước lên tắm rửa mà nhiều người xài tạo vũng lầy quanh miệng giếng dơ dáy thêm. Ăn uống thì độn bo bo còn nguyên võ nên ăn vào nó ra cũng còn nguyên hình hạt bo bo không tiêu thụ được, sức khỏe anh em tù nhân xuống cấp thê thảm. Đồng loạt cả trại tù nhân miền Nam đều tuyệt thực. Khi tù hình sự khiêng cơm tới cửa buồng giam không ai ra nhận. Khi cán bộ đến kêu ra tập họp đi lao động thì mọi người cùng nằm dài tại chỗ không đi đâu hết. Những tấm giấy trắng được viết và đeo trước ngực của một vài anh có nội dung như sau: "Chúng tôi không ăn thức ăn của gia súc" lên ngồi trên Hội Trường giống như thầy tu ngồi trước bàn thờ Phật. Vì sợ tù nổi loạn trại đem cả tiểu đoàn lính vc đến canh phòng vòng đai của trại. Xung quanh trại không có bờ tường mà được trồng tre gai để làm hàng rào. Thấy không thuyết phục được tù đã tuyệt thực 3 ngày qua nên họ ra lệnh cho tất cả anh em chúng tôi phải di chuyển qua phân trại C ở cách đó chừng 4km. Chúng tôi phải gồng gánh đồ đạc đi bộ dưới sự kiểm tra dọc theo 2 bên đường của Tiểu đoàn lính VC đến tăng cường 2 hôm trước. Phân trại C có 3 dãy nhà xây tường gạch mái ngói dành cho chúng tôi đến ở, còn các dãy nhà tranh khác dành cho tù hình sự. Đến trại C rồi thì công an đến buồng giam kêu 3 anh: Chí (Quốc Gia Hành Chánh), Tiệp (CSQG), Lạc (Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo) lên văn phòng để thẩm vấn, hỏi han về nguyên nhân tuyệt thực từ bên phân trại B, nhưng đến tối cũng không thấy 3 anh trở về buồng giam, anh em lo sợ là 3 anh đã bị thủ tiêu ở ngoài núi gần trại nên đồng loạt kêu la ở khắp cả buồng giam: Yêu cầu trả lại Chí, Tiệp, Lạc và tiếp tục tuyệt thực nữa. Đêm ngày cứ la đòi trả 3 anh lại và vỗ tay hát bài ca "Cờ Bay, Cờ Bay" giống như QL/VNCH sau khi chiếm lại Cổ Thành Quãng Trị năm xưa. Tất cả các buồng giam bị khóa cửa, công an cầm súng dài đi tuần tra bên ngoài. Lúc 7 giờ tối khi anh em đang ca hát vỗ tay với lời kêu lớn xin trả lại 3 anh Chí, Tiệp, Lạc thì anh N.H.Ph. vào mùng vẩy tay kêu tôi vào nằm cạnh anh, rồi anh áp sát cái Radio nhỏ vào tai tôi để cho nghe tin tức từ đài BBC. Khi đó tôi mới biết chính cái Radio nầy mà anh mới có được những tin tức quan trọng để cho tôi biết từ ngày còn ở trại tù Quãng Ninh. Sau 4 ngày tuyệt thực ở phân trại C bị đói meo, ai có gì thì ăn nấy để sống, trại nó không mang cơm tới nữa. Vì có sự trợ giúp của một số ít cây "ăng ten người" nên buổi sáng sau đó, trại đem nhiều công an tới từng buồng giam để bắt còng tay dẫn đi thêm hơn 50 anh em nữa, đưa về phân trại B nơi đó đã có 3 anh Chí, Tiệp, Lạc bị cùm từ 4 ngày trước. Sau đó họ bắt chúng tôi phải ký tên vào một cái đơn do trại làm sẵn: Đơn Xin Ăn Cơm. Tất cả mọi người đều phải ký tên mới có cơm mà ăn, không thì cho nhịn đói tàn đời luôn. Một vài anh bị khủng hoảng tinh thần, có khi chạy la hét giống như người điên hay bị ma nhập. Nhiều tin tức dồn dập trong buồng giam, nào là Tàu Cộng đánh VN, Việt Nam đánh Tàu Cộng ở biên giới gây nhiều chết chóc đau thương. Cái Radio của anh Ph. là nguồn sống tinh thần của một số anh em chúng tôi lúc đó. Một hôm tôi bị cảm không đi lao động, nằm ở từng trên của buồng giam có một mình. Anh trưởng "Ban Thi Đua" mà tôi thường nói với các bạn thân là "Ban Thua Đi" đến và nhảy lên nằm kế bên tôi để hỏi thăm bịnh tình của tôi và nói chuyện ngoài đời. Tôi mới hỏi về gia đình vợ con anh hiện nay ở đâu? Anh nói tụi nó đang ở bên Pháp. Tôi nói nếu sau nầy mà mình bị "trục xuất" ra nước ngoài thì anh "Trúng Tủ" là cái chắc. Khi nghe tôi nói, anh Trưởng "Ban Thua Đi" liền ngồi dậy, bước xuống đất bỏ đi. Mấy ngày hôm sau khi lên Hội Trường để kiểm điểm 1 anh phe ta về 1 hành động gì đó tôi quên mất. Anh bị kiểm điểm ra đứng trước cả số đông bạn tù ngồi ở dưới thì anh trưởng "Ban Thua Đi" lên đọc bảng "Cáo Trạng". Trong bảng cáo trạng, ngoài việc phê bình kiểm điểm anh bạn đang đứng ở trên, anh Trưởng BanThua Đi còn nói thêm là trong trại nầy "còn có người có tư tưởng Vọng Ngoại", tức là anh nói tôi chớ không ai khác. Tôi nghĩ anh Trưởng Ban Thua Đi nói quá xá đúng nhưng không dám vỗ tay, vì lúc đó cả trại đều có tư tưởng Vọng Ngoại, nhưng không dám nói ra kể cả chính anh, vì vợ con anh sẵn sàng chờ đợi anh ở bên Pháp. Riêng anh bị kiểm điểm thì đứng đầu ngã qua ngã lại, mặt mếu máo, đái ướt cả quần, nước tiểu chảy xuống đất trước mặt mọi người, làm như anh bị điên lên. Một hôm khác công an đến kiểm tra công tư trang của tù trong buồng giam của chúng tôi, để chuyển một số anh đi buồng khác và một vài anh khác đến buồng giam của chúng tôi. Khi dọn đồ đạc đồ dùng cá nhân ra sân cho công an xét thì anh Ph. (Người có cái Radio) là người đầu tiên được gọi bước lên hàng hiên của buồng để kiểm soát. Họ bắt anh Ph. đứng chống 2 tay vào vách tường, đưa từng chân một lên để họ kiểm tra dưới dép, lục lạo trong túi áo. Anh Ph. đã bỏ cái Radio trong túi áo lạnh Field Jacket CSDC đem treo áo ngoài dây kẽm dùng để phơi quần áo cho tù cạnh đó. Khám xét anh Ph. xong họ không thấy gì cả họ kêu anh Ph. dọn đồ đạc vào buồng giam. Các anh em tù còn lại không phải lên hàng hiên như anh Ph. mà được xét đồ tại chỗ ngồi ở ngoài sân. Lợi dụng lúc mọi người lo sắp xếp đồ đạc của mình và công an đang lo làm nhiệm vụ của họ thì anh họ Tạ (Nha An Ninh Cảnh Lực/BTL/CSQG) đến cầm cái áo có cái Radio của anh PH. đang treo ở dây phơi quần áo đem treo vào cửa sổ có song sắt. Anh Ph. ở trong buồng giam kéo cái áo của anh vào buồng. Thế là cái Radio của anh Ph. đã theo chủ vào buồng giam mà công an không hay biết gì cả.Tôi nhìn thấy diễn tiến nội vụ mà hồi hộp lo sợ. Nếu công an nó bắt gặp thì "Nhà Đá" không tha cho anh Ph. và những bạn có liên quan bảo vệ cái Radio cũng bị "Nhà Đá" mời vô luôn. Thật quá may mắn cho phe ta lúc nầy. Lúc trước khi xài hết pin thì anh Ph. phải nhờ mấy cục pin của anh Sơn (Khối Nhân Viên/BTL/CSQG). Anh Sơn bị điếc tai nên đi ở tù có mang theo máy trợ thính, mà trại lại thu giữ máy trợ thính của anh Sơn vì sợ anh Sơn dùng máy trợ thính để nghe tin tức báo cáo cho CIA. Khi xài hết pin của anh Sơn, anh Ph. phải dùng cái bánh bột luộc dẹp phát cho tù ăn sáng đi lao động để đổi lấy 1 cục pin của mấy anh tù gốc Miên để nghe tiếp tin tức. Đến khi không còn tìm đâu ra pin nữa thì anh Ph. đem cái Radio ra chôn dưới chân núi Lam Sơn chỗ anh đang vác đá bên cạnh lò gạch. Núi Lam Sơn là nơi được anh hùng Lê Lợi rút quân về đây trú đóng khi quân Tàu quá mạnh. Sau nầy vì mấy cây "Ăng ten người" và "Ban Thua Đi" của trại bám sát quá nên chiếc Radio nó biết chui xuống đất ở chân núi Lam Sơn để lánh nạn. Chiếc Radio nó biết theo gương người Anh Hùng của dân tộc ViệtNam. Ngoài 3 anh Chí, Tiệp, Lạc, một số hơn 50 anh em bị bắt lần thứ nhì để chuyển qua phân trại B sau nầy cũng được chuyển về phân trại C trở lại để tiếp tục lao động "cải tạo". Theo lời kể lại của anh Tiệp thì chỉ còn anh và anh Lạc, trại nói 2 anh còn yếu sức chưa có thể đi lao động được nên ở lại buồng giam nghỉ ngơi và trại sẽ chích thuốc bổ bồi dưỡng, khi cơ thể khỏe lại sẽ ra lao động sau. Mỗi anh xuống trạm xá chích thuốc một ngày nghỉ 1 ngày. Trạm xá cũng luân phiên người trực. Một ngày do anh Bác Sĩ cùng đi tù chung xuống làm việc, ngày sau do 1 anh tù hình sự làm, có lẻ đây là nghề y tá chuyên môn của anh khi ở ngoài đời thường. Anh Lạc đến chích thuốc nhằm ngày anh Bác Sĩ phe ta phụ trách, còn anh Tiệp được anh tù hình sự chích. Anh tù hình sự nầy trước đây bị kỷ luật cùm chung với anh Tiệp trong nhà đá nên hai anh rất thân thiện và thông cảm nhau, vì 2 người cùng cảnh ngộ gông cùm. Anh tù hình sự mới nói nhỏ với anh Tiệp là tôi khuyên anh đừng nên chích thuốc nầy, vì trong 10 mũi thuốc bổ nầy có 1 mũi thuốc độc ở trong, anh nên ký tên vào sổ mỗi khi đến trạm xá, coi như đã chích thuốc, anh tù hình sự đem thuốc đi chôn giấu dưới đất để trại không biết. Anh Lạc sau khi được anh Bác Sĩ phe ta chích hết 10 mũi thuốc thì sức khỏe lần lần đi xuống rồi chết luôn ở phân trại B. Còn anh Tiệp thì không hề hấn gì vì đâu có chích mũi thuốc nào đâu mà chết. Thế là anh tù hình sự đã giúp đỡ và cứu mạng anh. Thật quá may mắn !!! Đến đầu năm 1982, một số anh em cùng trại được chuyển qua Nam Hà và các trại khác cũng ở trên miền Bắc. Một số đông anh em được chuyển về miền Nam. Phân trại C chỉ còn lại chừng 100 đến 120 người trong đó có tôi. Thấy không được chuyển về Nam, tôi nghĩ chắc "tiêu tùng" rồi. Đêm đêm tôi bị mất ngủ,lo suy nghĩ không biết cuộc đời "Ủ TỜ" của mình rồi sẽ ra sao? Nhớ lại tin đồn lúc trước là mình sẽ ở lại luôn trên 2 bờ sông Hồng-Hà thì không lẽ như vậy, hay là mình được đi thẳng qua Mỹ bằng phi cơ ở một phi trường trên đất Bắc không cần vào Nam? Nếu ở luôn trên đất Bắc thì chỉ biết mỗi ngày phải vác cuốc ra đồng, lang thang hát bài "Bác cùng chúng cháu...trồng rau..." và cũng không thể sống thọ đến ngày hôm nay đã hơn 47 tuổi tây đọc ngược lại. Nếu may mắn còn sống sót thì chắc chắn cũng quên hết giọng nói chính gốc của dân NamKỳ của mình, mà sẽ đổi giọng nói như thế nầy: "Ối Giời Ơi, Thế Lầy Nà Thế Lào?" Khi nhớ lại thông cáo lúc trước của chính quyền "Giải Phóng" kêu gọi đi "Học Tập Cải Tạo" trong vòng 1 tháng mà nay biết bao nhiêu tháng rồi mà vẫn còn ở đây? Sau thời gian ra Bắc "Cải Tạo" tôi mới biết và hiểu rõ thế nào là "Cải Tạo" và hai chữ "Cải Tạo" hay "Ủ TỜ" hoặc "Ở TÙ" không có gì khác nhau. Tôi cũng biết thêm về các trại tù của nhà nước XHCN/VN luôn luôn có kế hoạch giữ vững được kinh tế của trại, vì họ biết dùng sức lao động của tù nhân, họ biết tận dụng "phân" của tù nhân đem pha trộn với nước để tưới rau cải cho xanh tốt rồi thu hoạch rau cải đó đem về cho tù ăn, vừa tiết kiệm được tiền mà kế hoạch canh tác luôn luôn bền vững không sợ thất mùa! Khi ra Bắc "ủ tờ" đã có 1 số tù nhân phe ta bị tử vong vì bệnh hoạn, già yếu, sức khỏe không cho phép tiếp tục lao động khổ sai với thời gian vô hạn định. Những người đã vĩnh viễn ra đi trong trại tù mà tôi còn nhớ một ít người như: Anh Quách Trung Chánh (Học Viện CSQG), bạn Vũ văn Nghi K3 (Phụng Hoàng BTL/CSQG), bác Bùi Hiền Tôn (NhaCSQG Đô Thành) là cha của K2 Bùi Hiền Danh, anh Lương văn Bê (Khối HQ/BTL/CSQG), anh Long (KHQ), anh Lạc (Phủ Đặc Ủy TU7TB), anh Uông Kim Cho (Kampuchia)... Phân trại C của trại Cải Tạo số 5 Thanh Hóa luôn tiết kiệm được "Hòm" để chôn tù nhân khi họ qua đời. Cả phân trại C chỉ có 1 cái "Hòm" không đáy. Mỗi khi có tù nhân chết thì họ để 1 miếng ván lót dưới đáy hòm vào, rồi bỏ xác chết vào hòm, khiêng ra tới huyệt đào sẵn, đặt hòm trên huyệt rồi rút tấm ván lót dưới đáy hòm ra để thân xác chết rơi xuống huyệt, lấp đất lại chôn, còn cái hòm thì khiêng về trại để đó, chờ khi nào có tù nhân chết nữa thì cứ vậy mà làm. Chỉ có 1 cái hòm mà chôn không biết bao nhiêu tù nhân chết trong trại. Mồ mã thì được chôn trên 1 ngọn đồi thấp có tên là "Đồi Xã". Mồ mã không có mộ bia mà được đánh số thứ tự trong 1 sơ đồ do trại thiết lập. Khi thân nhân đến viếng mộ thì cán bộ trại cầm theo cái sơ đồ ra đồi Xã đi lòng vòng để đếm số thứ tự ghi trong sơ đồ rồi chỉ cho thân nhân: mộ nầy. Cán bộ đi về trại, thân nhân ở đó mặc sức mà đốt nhang, khấn vái, khóc than, thật quá thê thảm !!! Trong thời gian ở Phân trại C, tôi nằm trong Đội làm đất, đóng gạch gần đó nên thường xuyên theo dõi và thấy tù hình sự khiêng hòm ra đồi Xã rồi lại khiêng hòm về trại. Thân nhân khi vào trại thăm nuôi tù nhân thì được cán bộ nữ dẫn ra thăm mộ ở đồi Xã vì tù nhân đã qua đời mà thân nhân không hay biết gì. Một hôm đang sắp gạch đã được nung chín mà cứ theo dõi đám ma của tù hình sự, một cục gạch từ trên cao rớt xuống làm mất nguyên móng chân cái, không đi được phải nghỉ 5 ngày và đi cà nhắc. Nay đã có móng chân mới thay thế mà dày cộm xem không giống ai. Đó là thành tích của lao động là vinh quang, lang thang thì không có gì hết !!! Chính sách "Cải Tạo" hay "ủ tờ" cũng đã làm cho biết bao gia đình tan nát, phân ly: con mất cha, vợ mất chồng và chồng mất vợ. Chúng ta cũng thật là nể trọng, khen ngợi và ca tụng các bà vợ đã thay chồng nuôi dạy con cái và thăm nuôi chồng đang trong cảnh tù tội khổ đau. Có nhiều bà vợ đã lặn lội thân cò đi thăm chồng đang bị giam cầm ở tận miền Bắc trong rừng núi xa xôi. Đây là một tấm gương thật tốt đẹp cho người đàn bà Việt Nam trong cuộc đổi đời đầy gian truân khổ ải. Ngược lại, sự thủy chung của một số ít vợ chồng không còn được trọn vẹn như chuyện "Đồi Thông Hai Mộ" ở Đà Lạt năm xưa. Chuyện kể lại sự thủy chung giữa một anh Sinh Viên Võ Bị Đà Lạt khi ra trường phải đi chinh chiến ở miền xa. Người tình sau nhiều năm chờ đợi không thấy tin tức gì, nàng tưởng rằng người yêu đã tử trận ngoài chiến tuyến nên đành quyên sinh để giữ trọn lời thề. Thân xác nàng được chôn cất bên bờ hồ Than Thở, chỗ mà hai người thường hẹn hò gặp nhau, có thông reo bóng mát, mỗi cuối tuần khi anh SVVB ra phép. Lâu ngày khi được về phép anh sĩ quan Võ Bị Đà Lạt vội vã trở lại Đà Lạt để thăm người yêu thì chỉ còn thấy mộ nàng. Anh Sĩ Quan Võ Bị chỉ còn biết thắp hương khấn vái và xin lỗi nàng, vì mình quá bận rộn việc nước non và xin hẹn gặp lại nhau nơi miền Vĩnh Cửu. Sau nầy khi trở lại chiến trường không may anh bị tử thương ngoài mặt trận.Thân xác của anh cũng được thân nhân mang đến chôn cất bên cạnh mộ người yêu. Thế là hai người vẫn giữ được thủy chung cho đến cuối cuộc đời và ở nơi miền vĩnh cửu nữa. Còn chuyện anh em sĩ quan, viên chức của chính phủ VNCH bị đày đi "Ủ Tờ" thì 1 số ít bà vợ ở nhà cũng mỏi mòn trông đợi mà ngày về của chồng xa lắc xa lơ nên đành cất bước sang ngang vì một lý do nào đó. Một số ít bà được ra nước ngoài rồi cũng chuyển qua "Thuyền khác" vì thuyền cũ còn mắc kẹt trong tù Cộng sản. Khi chồng được ra tù CS anh vội vàng đi sang tìm vợ con thì vợ anh không cho anh vào sống chung vì bà đã có chồng khác. 1 vài trường hợp khi mới qua Mỹ tôi cũng có gặp đó là khi vượt biên, 1 ông có vợ còn kẹt ở VN gặp 1 bà có chồng còn kẹt trong lao tù CS. Họ gặp nhau trên đảo tị nạn, nên mới làm 1 cái "Hợp Đồng" để sống chung và có chỗ nương tựa nhau ở nơi xứ lạ quê người. Đến khi nào vợ hoặc chồng đôi bên ở VN qua thì hợp đồng đó hết hạn và họ sẽ trở về sống với vợ hay chồng của mình. Có trường hợp chồng hay vợ qua tới thì 1 trong 2 người không chịu hủy bỏ hợp đồng, vì thấy người vợ hay chồng mới sang đã "Lỗi Thời" không còn "thích ứng" để sống chung với họ được. Thế là người "Bạn Đời" trước đây chỉ là bạn "Tạm Thời" thôi. Anh hay chị phải đi chỗ khác chơi! Tệ hại hơn nữa, có 1 bà không cho chồng của mình vô nhà ở khi anh ra trại tù Cộng sản, vì trong nhà cũ của anh đã có 1 anh cán bộ VC vào thế chỗ. Trước khi đi "ủ tờ" anh đã có 2 đứa con. Nay bà vợ cũng tạo được 2 con cho anh chồng cán bộ thế chỗ của anh khi anh đi tù CS. Thế là anh phải xách gói ra ngoài trại cưa để sống qua ngày. Sau đó anh và 2 con của anh được đi Mỹ theo diện HO. Bà vợ ở lại với chồng cán bộ và 2 con mới của bà. Mấy năm sau đó bà ta cũng muốn đi Mỹ nên 2 con của anh phải bảo lãnh cho mẹ nó sang. Mấy ngày đầu đến sum họp cùng chồng cũ và 2 con, anh bỏ ra ngoài phòng khách ngủ, nhường cho bà vợ vào ngủ phòng của anh. Sau nhiều ngày lạnh lẽo, nhứt là mùa đông, bà vợ ra nắm tay ông chồng cũ dẫn vào phòng để "Nối lại tình xưa". Anh chồng cũ cũng lịch sự bèn "Tuân Lệnh" của bà. Qua được Mỹ rồi mỗi năm bà lại về VN để thăm anh chồng cán bộ và 2 con sau của bà cho được "công bình". Thật quá hay, vì bà biết cách đối xử rất tốt với chồng con, chồng nào cũng là chồng, con nào cũng là con của mình! Tiếp tục bà lo bảo lãnh 2 con sau của bà được qua Mỹ sum họp mẹ con. Rồi bà sẽ bảo lãnh ông chồng cán bộ qua thế chỗ anh chồng cũ. Anh chồng cán bộ khi qua Mỹ sẽ không bị trả thù, không bị đuổi ra sống ở trại cưa như ở VN, vì anh chồng cũ đã qua đời rồi. Nếu anh chồng cũ còn sống thì khi ra sân đá banh để tranh tài thì bà vợ sẽ đứng giữa tay mặt cặp cổ ông chồng cũ, tay trái cặp cổ anh chồng cán bộ, còn 2 con của ai thì sắp hàng sau lưng của cha nó. Lúc cuộc đấu bắt đầu thì 2 ông chồng sẽ giữ 2 "Gôn", bà làm trọng tài, mỗi đội banh có 2 cầu thủ sẽ quyết liệt tranh tài. Đội nào thắng bà sẽ cho phần thưởng, đội nào thua cũng không bị phạt, vì các cầu thủ đều là con của bà và 2 thủ môn cũng là chồng của bà, ai nở lòng nào mà phạt cho đành! Các bạn thấy không, bà rất tình cảm và biết cách đối xử rất tốt đẹp với đại gia đình của bà. Kế hoạch sau cùng là bà sẽ chọn mua 3 phần mộ ở nghĩa trang nào có đồi thông như ở Đà Lạt. Xác của ông chồng cũ sẽ được lấy cốt đem về chôn ở nghĩa địa mới. Bà dặn dò các con của bà khi nào bà qua đời và anh chồng cán bộ cũng chết thì chôn bà ở giữa, ông chồng cũ đã lấy cốt chôn bên tay mặt của bà, còn ông chồng cán bộ thì chôn bên trái mộ bà. Lúc đó ta sẽ có chuyện "Đồi Thông Ba Mộ". Câu chuyện quá hay và quá đặc biệt. Khi sách in ra để bán tôi nghĩ chắc nhà xuất bản không in kịp để bán cho khách Việt Nam mua đọc. Đây là một chuyện tình đầy thủy chung, hiếm có và rất đáng khen cho 1 người đàn bà VN đã biết lựa chọn cách sống "thích hợp" với xã hội mới và biết cách cư xử tử tế với đại gia đình của bà khi vận nước mới đổi thay !!! Nay 41 năm đã trôi qua, khi nhớ lại chuyện cũ thì thật quá đau buồn. Phần đông anh em chúng ta may mắn hơn một số ít anh em gặp phải cảnh tệ bạc trong cuộc đời. Chúng ta không bị chết trong tù sau một thời gian khổ sai vô tận. Khi ra tù chúng ta được sum họp cùng gia đình, cha mẹ, vợ con. Hiện nay chúng ta đang yên tâm vui sống nơi xứ người, không còn lo việc chuyển trại, không lo sợ bị còng tay, không lo bắt đi gánh phân, không lo ăn độn bo bo còn nguyên võ, không còn nghe nói dóc nói gạt hay cảnh đời bon chen vì lợi ích cá nhân của một người mà nỡ lòng nào gây thiệt hại cho nhiều người khác cũng là bạn bè đồng cảnh ngộ tù tội như mình. Tôi nghĩ mỗi người chúng ta có số mạng khác nhau và chuyện vợ chồng cũng là duyên nợ. Mình rơi vào vị thế nào rồi thì khó mà cưỡng bức lại được số trời đã định. Thôi chúng ta hãy cùng nhau yên phận và vui sống với tuổi già như hiện tại là hạnh phúc lắm rồi./. NGUYỄN VĂN LINH Trung Đội 24/ĐĐ102 K2/HV/CSQG. |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23108 |
Gởi ngày: 04/Dec/2024 lúc 11:30am |
Nợ đời một nửa, một nửa nợ ơn emCho
nên có muốn kéo dài thêm cái đời học trò để được mơ mộng đủ thứ chuyện
dưới biển trên trời thiên hạ cũng đâu có cho. Rồi có phải thuộc dòng hào
kiệt gì đâu, tôi cũng xếp bút nghiên theo việc kiếm cung. Nói kiếm cung
cho nó vẻ văn chương và lãng mạn, chứ thực ra tôi vào lính, mà lại là
thứ lính hạng bét thì làm gì có kiếm với cung. Có phải lính tàu bay tàu
thủy gì đâu, mà là lính đi bộ. Lúc băng rừng lội suối, mặc bộ đồ trận hôi hám cả tuần không tắm, tôi ghét cay ghét đắng cái ông nào là tác giả cái câu ” Bộ Binh là nữ hoàng của chiến trường ” mà tôi đã đọc được ngay từ khi mới vào quân trường, đếm bước một hai để hát bài “đường trường xa”. https://www.youtube.com/watch? Khổ thì khổ vậy, chứ mấy cô gái bé bỏng hậu phương lại mê lính trong mấy bản nhạc của ông Nhật Trường. Vì “nếu em không là người yêu của lính, ai thương nhớ em chiều rừng hành quân, ai băng gió sương cho em đợi chờ, và giữa chốn muôn trùng ai viết tên em lên tay súng? .. ” Nhờ vậy trong mấy năm đóng quân dọc đường số 1, nơi nào tôi cũng để lại vài mối tình con. Tôi nghĩ đời lính như vậy mà vui, thì thôi chớ tính chuyện vợ con làm gì cho nó vướng chân vướng cẳng. Hơn nữa, tôi cũng hiên ngang với đám con gái lắm, nên làm gì có chuyện “chết trong mắt em”. Vậy rồi trời xui đất khiến thế nào, sau mấy năm đánh đấm ở Quảng Ðức, Buôn Mê Thuột rồi Bình Định, Phú Yên, đơn vị tôi được mấy cái tàu há mồm chở vào bỏ xuống bãi biển Nha Trang vào lúc đường phố mới lên đèn. Tôi thấy lòng lâng lâng sung sướng vì không khí yên bình của thành phố biển, mà còn tưởng mình đã được trở về với những “hang động tuổi thơ ” của ông Nguyễn Xuân Hoàng. Nào ngờ, khi còn mải mê với mộng mị, tôi bị đánh thức lúc nửa đêm cùng đơn vị leo lên một đoàn xe mấy chục chiếc để tiếp tục “hát khúc quân hành “. Ðoàn xe ra khỏi thành phố, qua Ty Thông Tin, ra quốc lộ 1, trực chỉ hướng bắc. Tôi lại mừng thầm, nghĩ là sẽ được về dưỡng quân ở Dục Mỹ. Nhưng tôi đã “ước tính tình hình” sai bét. Ðoàn xe dừng lại tại bùng binh, ngã ba Ninh Hòa. Một tiểu đoàn lính đổ xuống cái thị trấn còn đang say ngủ. Ðại đội tôi nhận lệnh vào đóng quân trong sân vận động. Sáng hôm sau tôi rủ mấy thằng bạn, quần áo chỉnh tề, ra phía trước ” thăm dân cho biết sự tình”. Thấy một ngôi nhà mở cửa, bọn tôi bước vào làm quen. Chủ nhà là một cô gái nho nhỏ dễ thương, mời đón mấy thằng lính trời ơi đất hỡi mà miệng vui cười, e thẹn nhìn tôi bằng cặp mắt nai tơ. Vậy mà thằng lính ngang tàng như tôi lại chết trong đôi mắt ấy. Bắt đầu từ một chuyện tình cờ như vậy đó, mà tôi trở thành chú rể của Ninh Hòa hơn một năm sau. Trường Trần Bình Trọng cũng vừa có một cô học trò bỏ trường, bỏ lớp, bỏ bạn bè và bỏ cả đội múa “Trăng Mường Luông “. Bây giờ cứ mỗi lần đọc bài thơ của ông nhà thơ Quan Dương, người Ninh Hòa, là tôi nhìn thấy có tôi trong đó : Nàng làm vợ lính đúng tám năm. Tám năm khốn khổ lo âu. Vì lúc nào cũng có thể trở thành góa phụ. Ðã vậy đứng ở Ninh Hòa lúc nào nàng cũng nhìn thấy hòn núi vọng phu sừng sững cuối chân trời! Nhưng rồi nàng không trở thành góa phụ mà lại trở thành tù phụ. Cơn sóng bất ngờ phủ xuống miền Nam, cuốn nàng theo cùng những người có chung số phận. Thân phận bọt bèo với một đàn con dại, cô học trò Trần Bình Trọng bé nhỏ ngày nào bây giờ phải một mình chống chọi với phong ba. Riêng tôi, một thằng lính bất ngờ thua trận thì chuyện tù đày nào có than chi. Chỉ tội nghiệp cho “người tình bé nhỏ ” ngày xưa. Tôi tự trách mình, giá mà ngày đó tôi đừng ra khỏi cái sân vận động, không gặp nàng, thì biết đâu nàng chẳng tìm lại một cố nhân nào đó – mà tôi thường nghe nàng nhắc đến với lòng ngưỡng mộ – bây gìờ đã là một ông quan hải quân, sẽ đưa nàng xuống tàu ra khơi đi tìm vùng đất hứa. Rồi nàng bỗng dưng trở thành con cò lặn lội bờ sông của ông Trần Tế Xương, để nuôi đủ sáu con với một chồng – ông chồng gần tám năm biền biệt ở các trại tù Lào Cai, Yên Bái. Tôi còn nhớ lúc ở trong tù, tôi may mắn nằm bên cạnh nhà thơ lớn Tô Thùy Yên. Tôi rất quý anh vì anh là một người tù có tư cách. Thấy tôi dốt nát mà cũng thích thơ văn, anh làm tặng tôi hai bài thơ khá dài và hay lắm, viết vào một mẩu giấy rất nhỏ. Nhưng lúc bị cai tù kiểm tra, tôi nhát gan nên bỏ cả hai bài thơ vào miệng nhai nát rồi nuốt vào cái dạ dày đang đói. Tôi thuộc lòng mấy câu viết về nàng: Ra khỏi trại tù, dường như tôi chỉ đem về cho nàng thêm những đắng cay. Với một người chồng còn mang đầy những vết thương cả trên thể xác lẫn tâm hồn, một đàn con thơ dại, giữa một xã hội chất chồng thù hận, nàng biết xoay sở làm sao? Cuối cùng, nàng phải cùng chồng con, đem sinh mạng đánh một canh bạc cuối cùng. Có lẽ ông trời không phụ lòng nàng. Chuyến đi vội vã, chuẩn bị chưa xong, rồi cũng đến được bến bờ. Trong lúc bao nhiêu người tìm cách tận hưởng hạnh phúc của một điều tưởng chừng may mắn nhất của con người, hoặc ít ra cũng ngơi nghỉ để hoàn hồn từ cõi chết, nàng lại tiếp tục làm kiếp con cò trong một vùng tuyết lạnh mênh mông, lo lắng cho con, để cho chồng học thêm vài chữ và vác ngà voi chạy đủ thứ chuyện bao đồng.. Bây giờ những đứa con đã trưởng thành. Nàng chiều chồng để cho mỗi đứa tự chọn quốc gia nào nó thích mà dung thân. Mỗi đứa một phương trời. Nàng lại là một hậu phương cho các con đi vào trận mới. Ngôi nhà trở nên trống vắng. Cuối cùng nàng cũng chỉ còn có tôi, người lính thất trận năm nào đã mang đến cho nàng biết bao là hệ lụy. Dư âm cuồng nộ của những cơn giông bão năm nào dường như vẫn còn đâu đó trong giấc ngủ của riêng nàng. Tuổi
sắp già, mà tôi còn mang nhiều món nợ. Biết làm sao trả cho xong. Nợ
núi sông, nợ máu xương bè bạn. Mà tôi thì cứ mãi là thằng lính hèn mọn,
bạc tình. Và tôi còn nợ nàng, nợ Ninh Hòa, mảnh đất hiền hòa đã cho tôi
một người vợ chung tình, cùng tôi qua bao cuộc biển dâu. Phạm Tín An Ninh |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23108 |
Gởi ngày: 12/Dec/2024 lúc 11:42am |
Trời Xanh Không Em 1. Mùa hè một chín bảy hai, cha tôi tử trận ở Long Mỹ, để lại một vợ và bốn con. Mẹ lúc đó mới ba mươi sáu, tôi mười lăm và thằng Thanh vừa bảy tuổi. Sau gần ba tháng bàng hoàng, tang thương mẹ tôi trở lại với cuộc sống cơm áo đời thường trước mặt với đàn con nhỏ dại. Con mất cha như nhà mất nóc, chị em tôi như bầy chim tan tác lạc đàn. Dòng đời vẫn lặng lẽ trôi mặc cho bao biến cải đổi dời. Mẹ con tôi phải cùng dựng lại nóc, mà từ ngày xưa cuộc chiến chinh nào cũng đã đưa những người mẹ trở thành “phụ thân”. Gom hết tiền dành dụm cộng với tiền tử, mẹ tôi bán luôn căn nhà đầy hình ảnh kỷ niệm cha tôi, để sang lại quán cơm bình dân, đối diện bến xe đò thị xã. Phía sau quán cơm Thanh Vị, mẹ tôi lấy tên thị xã đảo ngược lại, bà dựng thêm hai chái nhà cho mấy mẹ con cùng ở. Hai bên nội, ngoại đều nhiều lần đề nghị đem vài đứa về nuôi, đỡ tay, nhưng bà một mực từ chối. Tôi thương mẹ vô cùng. Là con gái lớn, tôi cũng nhiều lần xin nghỉ học giúp mẹ một thời gian, khi ổn định đâu vào đó, tôi trở lại trường cũng không muộn. Mẹ tôi vừa khóc vừa mắng tôi một trận nên thân. Từ đó, tôi không dám nhắc đến nữa, mà cố gắng sau buổi học dồn hết tâm sức đở đần với mẹ cho tiệm cơm và chăm sóc đám em. Đời sống mẹ con tôi cứ vậy lặng lẽ trôi qua như dòng kinh xáng chảy quanh thị xã, phía sau nhà. Hơn năm sau, quán cơm mẹ tôi khách ăn mườn mượp phải mở rộng thêm gần hết mặt lộ. Khách quen thuộc hằng ngày, phần đông là đám tài xế và phụ lơ. Còn lại là hành khách tứ xứ hoặc những người lính trẻ một lần dừng quân. Họ đến và đi như những cơn gió nổI, không mấy lần trở lại. Có những hôm đường bị đấp “mô”, hay lỡ chuyến xe cuối cùng, vài người khách hành vào quán hỏi mẹ tôi xin được mướn chiếc giường ngủ tạm qua đêm. Mẹ tôi nghĩ ngay đến chuyện biến hai chái phía sau thành nhà trọ cho khách lỡ đường. Cũng đã khá giả nên mẹ tôi mướn căn nhà rộng rãi gần nhà máy điện, cho chị em tôi có đời sống riêng biệt, xa khỏi chỗ bán buôn ồn ào. Công việc phụ giúp mẹ ở quán cơm cũng giảm dần vì mẹ đã có nhiều người bà con từ dưới quê lên làm phụ. Họ vừa tránh được cuộc chiến tranh đang càng ngày khốc liệt vừa kiếm được chỗ ăn, việc làm. Mẹ tôi sau thời gian lao đao, khốn khổ nay đã được chút bình yên. Bà tươi tỉnh và duyên dáng hơn xưa. Có nhiều người đàn ông cũng đến ve vãn, nhưng chừng như bà không mấy quan tâm bởi đàn con bốn đứa. Năm đó tôi cũng vừa mười bảy, tuổi dậy thì rực rỡ của thời con gái. Ngực tôi vun tròn, mắt long lanh, môi luôn mọng đỏ và biết ngượng ngùng trước những đôi mắt của đám con trai cùng lớp, những người lính trẻ mỗI lần tôi đi ngang qua tiểu đoàn. Đêm tôi trằn trọc khó ngủ, nằm lắng nghe tiếng súng vọng xa xa quen thuộc, mộng mị vu vơ. Còn ngược lại ban ngày, tôi cứ nằm đâu là ngủ đó, như con mèo tam thể của bà Năm chủ nhà. Những chiếc lồng đèn xanh đỏ đủ loại bắt đầu treo bán khắp dãy chợ và trường tổ chức chương trình văn nghệ trung thu yểm trợ tiền phương. Nhờ cao ráo, sáng sủa tôi được tuyển vào ban hợp ca và ban vũ của trường. Trong một buổi tập hát, tôi quen Lộc. Anh học 12, trên tôi một lớp và trưởng khối báo chí trường. Chạm ánh mắt anh lần đầu tôi đã linh cảm một quan hệ tình cảm gì đó giữa tôi và anh. Lộc không đẹp trai, anh da ngâm ngâm, dáng người chắc hơi thấp nhưng anh có đôi mắt thật sáng và thông minh. Với anh, trong ánh mắt sáng đó, tôi biết hình ảnh mình đã chiếm ngự mỗi nỗi bối rối, ngỡ ngàng. Ngày nào, Lộc cũng đi ngang qua lớp tôi đôi lần. Để nhìn thấy tôi và được tôi nhìn đáp lại. Chỉ vậy mà đêm nào tôi cũng nằm mơ tưởng đến anh, muốn đêm qua nhanh để ngày mai tôi được anh liếc nhìn bối rối. Lộc ở trọ học nhà bà con gần ngõ nhà tôi, cuối bờ kinh xáng. Tôi dọ biết gia đình anh ở Hoà Hưng, cách thị xã cả nửa ngày đò. Cho đến một buổi tan học, vừa rẽ vào ngõ, tôi đã thấy anh đứng đợi tự bao giờ. Anh trao bức thư và nói vội, “Gửi cho Loan..!”. Tôi chưa kịp phản ứng, tim đập thình thịch thì anh đã rảo bước đi nhanh. Về nhà tôi không kịp thay đồ, chui ngay vào hầm “ chảng-xê” để đọc thư anh. Tôi đọc đi đọc lại thư Lộc nhiều lần, gần như thuộc lòng mà vẫn chưa thấy chán. Vài ngày sau tôi trả lời thư anh và cuộc tình bắt đầu từ đó. Ông là người khách thương hồ tầm thước, tuổi chừng năm mươi. Một tháng đôi lần, ông ghé giao và nhận hàng đặt cho lần ghé tới. Nghe nói ông gốc gác ở miệt Tân Châu, Hồng Ngự. Trong đêm một trái pháo rơi giữa nhà, cả gia đình đều chết thảm thiết, trừ ông. Đến nay ông vẫn chưa hiểu sau mình sống sót với bao mảnh đạn phá nát bả vai, phải mổ nhiều lần mới lấy hết miểng. Từ đó ông bỏ xứ ra đi, sống lênh đênh trên chiếc ghe bầu mà ông gọi là nhà. Chú Bảy, tên ông, sống đời trên chiếc ghe buôn, xuôi ngược khắp mặt nước sông hồ của miền châu thổ. Dạo sau nầy, ông ghé quán mẹ tôi thường xuyên hơn và lần nào ngoài hàng cho quán, ông cũng có những món quà nhỏ, là lạ phương xa cho chị em tôi. Khi thì gói chuối ngào Hồng Ngự, khi thì chục cam miệt Cái Bè và lắm lúc cả chiếc kẹp tóc đồi mồi tận chợ Hà Tiên. Để rồi có nhiều hôm, ông dừng ghe bên bờ kinh hẳn vài hôm, phía sau quán mẹ tôi. Ông giúp mẹ tôi dựng lại một vách mái loang lổ, đóng lại vài chiếc bàn, cái ghế lung lay hay lót lại cái sàn nước đã lâu ngày gạch bể, trơn trợt. Mẹ tôi nhiều lần đề nghị ông ngủ lại phía sau nhà trọ. Ông đều từ chối. Chiếc ghe bầu là căn nhà trọ thân thương, duy nhất của ông. Nên không như những người đàn ông khác, mẹ tôi tỏ vẻ trìu mến, quyến luyến ông ra mặt. Mấy chị em tôi cũng quấn quít ông, nhất là tôi, không phải vì mấy món quà nhỏ phương xa, mà là những đêm ngồi nghe ông kể chuyện sông hồ. – Nược, là một loài cá nước ngọt, sống từng đôi và rất tinh khôn. Cá nược có nhiều ở sông Cái lớn, nhất là những khúc sông quanh quẩn cù lao. Chúng thường xuất hiện lúc trời vừa rạng hừng đông, từng đôi lộI đua theo những chuyến đò. Chú đã từng nghe kể lại tính thủy chung của loài cá tinh khôn nầy. Có người đánh lưới cá ở miệt Cái Bè, vô tình giết chết con cá nược đực. Con cái chờ đợi trả thù, dìm chìm ghe, giết chết người đánh cá. Sau đó nó tự lao mình lên bãi đất cồn, nằm chết khô trên cạn. Dân làng biết chuyện, cúng đàn giải oan cho người chết và lập miếu thờ đôi cá nược trên cù lao… Ngày nay giống cá nầy gần như mất dạng. Bom đạn, xe tăng, tàu chiến đã càng quét mọi sự sống, an bình của vùng đồng bằng sông nước. Chiến tranh không chỉ tiêu hủy con người mà cả thiên nhiên, cầm thú… Thôi khuya quá rồi, mấy đứa đi ngủ, mai còn đi học. Mẹ mấy đứa lại rầy rà chú nữa. Tôi và mấy đứa em còn đang chần chừ tiếc rẻ thì chú Bảy đã đứng dậy và đi ra ghe bầu đậu bến ở bờ kinh xáng. Cũng kịp lúc mẹ tôi vừa về, hối chị em tôi chuẩn bị đi ngủ. Như thường lệ, tôi dành ngủ một mình trên nấp hầm “chảng-xê”. Tôi nằm thao thức và nhớ Lộc vô cùng. Sáng nay anh gởi tặng tôi hai tập nhạc, Như Cánh Vạc Bay và Ca Khúc Da Vàng, của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Anh đã giữ tay tôi thật lâu khi trao tập nhạc. Tôi xúc động run cả người và chực muốn ngã vào vòng tay anh say đắm. Tôi sẵn sàng, nhưng anh thì vẫn chưa tiến xa hơn trong một tầm tay nắm. Hơi ấm lòng tay anh vẫn còn vương vấn tay tôi. Đôi mắt sáng, tình tứ của anh vẫn là tất cả giấc mơ tôi bao đêm dài trằn trọc. Tôi chợt giật mình thức giấc với tiếng động trong đêm. Không biết tôi đã rơi vào giấc ngủ chập chờn nầy tự bao giờ. Tôi bàng hoàng lắng nghe tiếng thở hổn hển của người đàn ông. Đêm vắng lặng, tiếng thở lúc một rõ, dồn dập vọng lại cùng âm thanh thịt da, vạt giường chạm lẫn vào nhau… Rồi tất cả trở lại lặng im. Tiếng xột xoạt của quần áo, tiếng trở mình khe khẻ từ phía ngoài giường ngủ mẹ tôi. Tôi tê cứng cả người, mẹ tôi ngoại tình, ăn ngủ, làm tình với người xa lạ nào đó? Mà không, bà đã mãn tang từ lâu, sao gọi ngoại tình. Nhưng người kia là ai? Nghiêng mình, tôi cố lắng nghe những tiếng thì thầm từ phía giường của mẹ, chỉ cách tấm vách ngăn mong manh. Tiếng nấc nhè nhẹ của mẹ chợt vang lên. Chuyện gì xảy ra cho mẹ. Mẹ tôi đã khóc quá nhiều rồi cho cuộc đời nầy, tôi không muốn bà phải khóc nữa. Nếu phải thấy bà khóc thì đó là những giọt nước mắt hạnh phúc trên khuôn mặt bà… Tiếng nấc nghẹn ngào của mẹ nhỏ dần rồi tắt lịm. Lúc sau là tiếng chân và tiếng cửa mở kèn kẹt trước nhà. Người đàn ông đó đã đi xa, để lại đâu đây tiếng thở dài của mẹ. Tôi úp mặt vào gối, cố xua đuổi chung quanh những việc đã xảy ra. Trăn trở, tôi xoay xở người tìm tư thế thoải mái, cố nhắm mắt tìm giấc ngũ… Đêm đó, trong giấc mơ chập chờn còn lại, tôi thấy Lộc hôn lên môi, ngực mình… Buổi chiều trải chiếc thảm vàng nhạt xuôi dòng kinh xáng. Tôi nén vu vơ vài mảnh đất khô cứng xuống bờ kinh. Hai đứa vẫn ngồi yên lặng, đeo đuổI những ý nghĩ riêng tư. Lộc báo tôi hay ngày mai anh sẽ đi xa như bao thanh niên khác trong thị xã. Từng đợt nối tiếp nhau ra đi, để rồi sẽ vĩnh viễn không trở về vớI cuộc sống và nỗi thương nhớ quặn lòng của người ở lại. Nước mắt cứ tiếp tục ứa tràn mỗI lần tôi nghĩ đến những ngày sắp tới không có Lộc trong thị xã bé nhỏ nầy. Tôi khẻ liếc nhìn khuôn mặt đăm chiêu của Lộc, không hiểu anh đang nghĩ gì và có mang tình tôi trong đó. – Rồi một ngày Loan sẽ hiểu. Ngày đó, chắc gì Loan còn nhớ đến Lộc… Nhưng thôi, Loan hãy nhìn dòng kinh. Đẹp quá phải không Loan. Biết bao nhiêu đổi dời, tang thương dòng kinh xáng nầy vẫn sớm chiều lớn, cạn. Tiếng Lộc trầm buồn, không như những lúc ôm đàn hát, “Người con gái Việt Nam da vàng yêu quê hương nên yêu người yếu kém / Người con gái ngồi mơ thanh bình yêu quê hương như đã yêu mình…”, trong những đêm lửa trại. Tôi muốn nói với Lộc thật nhiều. Rằng mãi mãi, tôi sẽ không bao giờ quên Lộc. Rằng tôi yêu Lộc thiết tha hơn cả thị xã nầy yêu mến dòng kinh xáng Sà-No. Nhưng, ngôn ngữ chừng như đang dãy chết trong tôi. Đầu tôi nghĩ mà miệng lưởi tôi đông cứng trơ trơ. Tôi đành chỉ nhìn bâng quơ những chiếc ghe xuôi ngược trên dòng kinh, mà nghe lòng mình thổn thức. – Loan hứa chờ Lộc trở về, nghen Loan. Chắc chắn Lộc sẽ trở về với thị xã, với Loan. Ngày đó quê hương sẽ không còn đạn bom, chết chóc và sẽ không còn những chia ly trong mỗi cuộc đời. Con ngườI sẽ nối thành vòng tay lớn của yêu thương, của lòng tin và hy vọng… Tôi lắng nghe từng lời anh như một tín đồ ngoan đạo. Lộc còn nói nhiều, rất nhiều về quê hương, con người và tình yêu rộng lớn. Nhiều lúc tôi không hiểu anh nói gì, nhưng cần chi, tôi chỉ muốn nghe giọng anh nói. Tôi chỉ muốn yêu anh và được anh đáp lại tình tôi. Những điều to lớn khác của anh, tôi không cần hiểu. Với tôi chung quanh anh là ánh sáng, là hào quang của tình yêu và mơ ước. Lộc ơi, Loan sợ những cuộc chia ly, những lời tiễn biệt. Đừng nói đến ngày mai nếu mình không gặp lại, không có nhau. Trong tình yêu của anh, Loan chỉ là con chim nhỏ đang tập chuyền cành, đừng để em cô đơn giữa bầu trời quá rộng… Lộc quay sang nhìn tôi ngây dại và nắm tay tôi, xiết nhẹ. Tôi nghe tim mình thổn thức từng cơn. Lộc chợt kéo mạnh tôi ngã vào lòng anh, kép chặc vòng tay. Khuôn mặt tôi và anh chỉ cách trong hơi thở. Tôi khép mắt như một phản xạ tự nhiên. Đôi môi Lộc lướt nhẹ trên mũi, dọc má và gắn chặc bờ môi tôi chờ đợi. Tôi chưa biết hôn trả lại thế nào chỉ biết đầu lưởi tôi tê dại trong nụ hôn anh mãnh liệt. Chung quanh như xụp đỗ dưới chân, tối tăm mê muội, khi bàn tay tham lam của Lộc ngừng trên bờ ngực tôi… 2. Ngọn đèn chong soi bóng dì Út lùi dần, mờ nhạt trên bờ kinh. Tiếng máy ghe dượng Bảy khàn đục, vỡ tan từng tiếng vọng chạy dọc đôi bờ. Đêm cuối tháng Hai vằng vặc và se sắt lạnh. Cuộc chia tay cuối cùng với dì Út thật lặng lẽ, thoáng chốc. Tất cả những điều cần nói chúng tôi đã nói hết trong những tháng ngày khốn khổ trôi qua. Phiá sau ghe, bập bùng trong đốm lửa trên môi là khuôn mặt thẩn thờ, nghiêm trọng của dượng Bảy. Chưa bao giờ tôi thấy mến phục ông như lúc nầy. Ông đã đem lại tất cả niềm vui, sự sống và bao hy vọng cho gia đình mẹ con tôi. … Cuộc đổi đời năm bảy lăm, một lần nữa đưa gia đình tôi vào ngõ ngoặc mới. Quán cơm đóng cửa, mẹ con tôi sống thấp thổn từng ngày trong chiến dịch giảm dân và hồi hương những gia đình “ngụy” không phải sinh quán tại thị xã. Gia đình tôi nằm trong diện nầy. Mà không ở trong diện nầy thì gia đình tôi cũng không sống nổi với đám chính quyền thị xã. Con côi mẹ góa, thành phần tiểu thương là mục tiêu đấu tranh “giai cấp” của chính quyền mới. Công an khu vực lãng vãng trước nhà, trường học cứ bắt phải khai lý lịch mỗi học kỳ. Con cái lần lượt bỏ học, mẹ tôi bán dần đồ đạt trong nhà sống cho qua ngày đoạn tháng. Nước chảy đá mòn, chẳng bao lâu nhà cửa trống trơn, chúng tôi chỉ nhìn nhau rồi nhìn mẹ chờ đợi ngày tình nguyện đi vùng kinh tế mới. Mẹ con còn đang hốt hoảng, thì chú Bảy bất ngờ trở lại. Không như một người khách trú qua đường, ông là vị cứu tinh của gia đình tôi. Chú Bảy trở về với tất cả sự kính nể và trọng đãi của đám chính quyền địa phương. “Cách mạng” xóa bỏ tỉnh Chương Thiện, thị xã Vị Thanh thành đơn vị huyện thuộc tỉnh Cần Thơ. Chú Bảy là người có công với cách mạng và là bạn đồng chí với bí thư tỉnh ủy. Theo lời chú kể, trong chuyến giao hàng ngang Hỏa Lựu, chú đã vô tình giúp đở dấu trên ghe một người đàn ông đang trọng thương ra khỏi trận ruồng bố của lính quốc gia. Sau nầy biết được người đó chính là bí thư thường vụ tỉnh ủy Cần Thơ. Chú Bảy vốn không biết gì, cũng không quan tâm đến chuyện chính trị, chỉ thấy người hoạn nạn cứu giúp vậy thôi. Nhưng cũng từ đó, chiếc ghe chú Bảy trở thành đường tiếp vận, giao liên cho các đồng chí lãnh đạo tỉnh… Chú Bảy trở thành dượng Bảy của chị em tôi bằng một buổi tiệc gia đình thật nhỏ. Dượng thật sự rời bỏ một đời sông nước và dừng bước chân thương hồ với mẹ tôi bên bờ kinh xáng Sà-No. Bến xe thị trấn chẳng mấy chốc chen chúc khách đường xa. Mẹ và dượng mở lại quán cơm. Cuộc sống gia đình tôi từ đó ổn định, nề nếp và chiếc ghe của dượng buột bến sau nhà. Thỉnh thoảng dượng cùng mẹ hoặc chị em tôi lại xuôi ngược dòng kinh xáng trong những chuyến mua hàng trên tỉnh… Và, tôi đã biết được người đàn ông trong đêm đó là chính là dượng Bảy. Ngày tháng qua, tôi vẫn thẫn thờ nhìn những buổi chiều lặng lẽ trên dòng kinh mà thương nhớ một người. Đã năm năm rồi thoáng chốc trôi qua. Đã năm năm rồi không gặp, tin Lộc vẫn biền biệt mù tăm. Cuộc tình có sâu đậm bao nhiêu rồi cũng cuốn dần theo năm tháng mõi mòn. Tôi không còn là cô học trò thơ dại mộng mơ, vụng về chưa biết hôn môi. Đời sống áo cơm và cuộc biến động không chừng của xã hội làm cho thế hệ tôi già dặn trước tuổi thời gian. Vài người đàn ông nữa đã đi qua đời tôi. Những cuộc tình đó thật ngắn ngũi và không để lại một âm vang. Tên tôi là một loài chim, con chim luôn vươn lên tìm khoảng trời xanh thẳm, mà chừng như chung quanh nó chỉ là những vách đá cheo leo và những biển đồi không bến đậu. Cuộc chiến tranh chấm dứt bất ngờ, như nén chúng tôi vào xã hội không ngày mai, không lối thoát. Họ, những người trẻ đã ra đi, cũng vẫn chưa trở về. Nếu đâu đó, có người trở lại thì cũng chỉ vội vã, lơ láo chuẫn bị cho một chuyến ra đi vô định khác. Đám thiếu nữ chúng tôi vẫn cô đơn trong nỗi đợi chờ vô vọng. Nhóm người mới, những kẻ chiến thắng họ lại càng ngơ ngác hơn trước những khước từ của cuộc sống chung quanh. Một lần tưởng đã quên, tưởng đã quá khứ cuộc tình mới lớn. Tính về dạy trường cấp 3 thị xã vài tháng sau ngày giải phóng. Tôi vừa tốt nghiệp phổ thông, còn đang chơi vơi với những đổi thay thì quen Tính. Chúng tôi rơi vào cuộc tình của nhau dễ dàng, vội vã. Ngày mai là đám mây mù của bao nhiêu từ ngữ mới, đảng ta vinh quang hạnh phúc, ngụy quân ngụy quyền, tội ác với nhân dân… vân vân và vân vân. Cùng với hợp tác xã, hộ khẩu, cửa hàng, gạo bán cân từng ký, hàng nhu yếu phẩm tính đầu người… còn bao nhiêu thứ nữa để tuổi trẻ chúng tôi lao vào những cơn lốc của thời cuộc và cả tình yêu. Tôi và Tính ở cơn lốc của tình yêu, để quên và cũng để biết mình còn hiện hữu. Một đêm tôi đã trao anh những giọt máu trinh nguyên từ cửa mình con gái, những mê sảng đầu đời của tình yêu thể xác. Nhưng nghiệt ngã thay, trong nỗi đê mê dục vọng tôi cứ tưởng mình đang nằm trong vòng tay của Lộc và rên xiết gọi tên anh. Chỉ vài tháng sau, Tính bị bắt vì tội chứa chấp tài liệu phản động và có mưu đồ “chống phá chính quyền cách mạng”. Lần cuối vào thăm anh trong phòng tạm giam thị xã, tôi đã khóc xót xa còn anh thì chỉ lặng nhìn tôi thương cảm. Sau đó nghe nói anh bị áp tải lên công an tỉnh. Tôi tìm tới thì được trả lời là đã đưa đi nơi khác, nhưng không ai cho biết ở đâu. Tính biến khỏi cuộc tình tôi từ đó, vĩnh viễn. Tôi hy vọng giữ lại chút gì còn lại của anh, nhưng tất cả chỉ là niềm thất vọng. Những buổi chiều một mình, ngồi nhìn dòng kinh xáng Sà-No chảy lững lờ quanh thị xã phía sau nhà, tôi không hiểu tại sao hòa bình rồi mà không còn ai ở lại..? 3. Chiếc ghe máy chợt như khừng khựng, chậm lại. Tiếng dượng Bảy vọng nhỏ từ phía sau mui: – Trạm kiểm soát… Tụi nó kêu ghé vô. Chị em tôi bừng tỉnh, ngồi lại chĩnh tề. Bên ngoài mũi ghe trời cũng lờ mờ sáng. Mẹ tôi vừa xấp lại mấy quả đựng bánh vừa dặn nhỏ: – Nhớ là mình về giỗ ngoại ở Giồng Riềng, Kiên Giang nghen con. – Dạ… Chiếc ghe máy cập sát bờ, hai người thanh niên trẻ nón tai bèo vai khoác súng nhảy xuống chòng chành mũi ghe. – Đi đâu mà đông dầy nè. Có giấy đi đường hông… Chủ ghe đâu? – Dạ gia đình tôi về quê đám giỗ. Có giấy đi đường đây, trình mấy chú. Mẹ tôi lui cui đưa tờ giấy đi đường đã cầm sẵn trên tay. Một ngườI thanh niên rọi đèn pin dọc ngang tờ giấy, còn người kia luồn đầu đi thẳng phí sau mui lái. – Chú cho coi giấy chứng minh nhân dân. – Tui đưa má nó dới mấy đứa sấp nhỏ dìa quê ăn đám. Giấy chứng minh của tui đây, chú coi. Hai người thanh niên cầm giấy tờ ra phía trước mũi ghe, xem xét và thì thầm to nhỏ. MọI người còn đang yên lặng chờ đợi thì có giọng xấc xược: – Chú cho tắt máy ghe và tất cả mọi người lên bờ! – Dạ chuyện gì vậy chú… – Thì cứ lên trạm sẽ rõ. Dượng Bảy tắt máy, ra dấu cho chúng tôi theo dượng lên bờ. Tay chân tôi lạnh ngắt, nghĩ đến căn buồng tạm giam mà một lần tôi đến thăm Tính. Trạm kiểm soát là căn nhà lá nền đất vuông vức chừng bảy, tám mét. Bên trong cuối căn vách, phía trên là bức hình lãnh tụ nhìn xuống cười mai mĩa, dưới là một bàn làm việc nhỏ với rải rác giấy tờ và bên hông là một bàn tròn lớn khác với bốn chiếc ngồi chung quanh. Họ ra dấu cho chúng tôi ngồi đợi và cầm giấy tờ cùng dượng Bảy đi vào phía trong. Mấy mẹ con lo lắng nhìn nhau, nghĩ đến tình huống đen tối nhất. Lát sau dượng Bảy đi ra, nói nhỏ: – Tụi nó tình nghi mình vượt biên. – Làm sao bây giờ… Mẹ tôi hốt hoảng. – Đợi tụi nó đi gọi thằng trưởng đồn công an đến giải quyết. Giọng dượng Bảy vẫn từ tốn, nhỏ nhẹ. Thời gian chờ đợi nặng nề trôi qua. Tôi nhớ đến những vòng kẽm gai của trại tạm giam và khuôn mặt gian ác của tên cán bộ giữ tù lần thăm Tính, khẻ rùng mình. Dượng Bảy đã chuẩn bị giấy tờ thật cẩn thận cho chuyến đi, không hiểu sao đám công an nầy vẫn làm khó dễ. Nhưng mỗi lần nhìn khuôn mặt bình thản của dượng, tôi thấy an tâm phần nào. Cho dù là sự an lành không đâu, trong xã hội mà mọi nghịch cảnh có thể xảy ra bất lúc nào, bất cứ nơi đâu. Có vài tiếng chân và tiếng người lao xao bên ngoài. Tôi sửng sờ ngước nhìn người đàn ông bước vào trạm. Lộc. Đúng là Lộc. Lộc của tôi ngày xưa đây mà. Anh không gì thay đổI, ngoài khuôn mặt hơi xạm đen, ráng nắng. Tôi chưa kịp phản ứng thì Lộc nhìn thẳng mặt tôi thoáng chút ngạc nhiên, rồi hững hờ lướt qua, tiến đến chiếc bàn đặt cuối phòng. Hai ngườI công an đưa những giấy tờ tùy thân của gia đình tôi cho Lộc: – Xin báo cáo đồng chí trưởng đồn. Giấy tờ đầy đủ nhưng không biết thiệt hay giả. Vã lại trên ghe chở nhiều thực phẩm, lại đi về vùng biển Rạch Gía, rất tình nghi tổ chức vượt biên. – Được, để tôi. Hai đồng chí cứ tiếp tục nhiệm vụ. Hai người công an trẻ liếc nhanh về phía chúng tôi rồi bỏ ra ngoài. Lộc nhìn lướt qua giấy tờ, rồi ngước mắt về phía dượng Bảy: – Ông là chủ hộ, chủ ghe. – Dạ phải. Lộc đứng dậy, đi chầm chậm về phía dượng Bảy. Nỗi sợ hãi tan biến, nước mắt chợt từ đâu dàn dụa trên mặt tôi. Biết bao năm tôi đợi chờ, thương nhớ bây giờ là đây. Lộc bằng xương bằng thịt, xa lạ, hững hờ đang trước mặt và chuẩn bị đưa cả gia đình tôi vào vòng tù tội. Nhớ ngày nào bên dòng kinh, anh bảo tôi chờ đợi, tưởng anh không trở về nào ngờ anh đã lãng quên. Tôi cúi đầu, không muốn nhìn anh, không muốn nhìn thấy từng nỗi ước mơ tôi vỡ tan, rụng chết. Tôi không dám nhìn mẹ, dượng, mấy em tôi như thể chính mình là kẻ tội đồ của những hành động lạnh lùng của Lộc đối với gia đình. Lộc ơi, tại sao mình gặp lại nhau làm gì. Tại sao Lộc không chỉ là Lộc của ngày xưa, “Từ lúc đưa em về là biết xa nghìn trùng…”, như bao lần ai cất tiếng hát em nghe. – Bà đưa mấy đứa nhỏ xuống ghe, đợi tôi. Tiếng dượng Bảy làm chúng tôi bừng tỉnh. Hiểu ý ông, mẹ tôi lặng lẽ ra dấu cùng chị em tôi xuống ghe. Tôi cố quay lại nhìn Lộc và dượng đi về phía trong trạm kiểm soát. Lộc đi thẳng, không nhìn lại. Lát sau, mọi người thở phào khi thấy dượng bước xuống ghe với giấy tờ trên tay cười, nói: – Xong rồi, mình đi. – Thiệt hả… Ông nói gì với tụi nó vậy. Mẹ tôi mừng rỡ hỏi. Khuôn mặt bình thản dượng cười nhẹ, kéo cổ áo và chìa cánh tay trái, ôn tồn nói nhỏ: – Nói gì đâu… Tôi lột đưa thằng trưởng đồn sợi dây chuyền và cái đồng hồ đeo tay. Nó trả giấy tờ cho đi, còn chúc hờ lên đường may mắn. Chiếc ghe máy dượng Bảy rời trạm, xuôi vào giữa dòng kinh xáng. Tôi không cầm được nước mắt, cắn chặc môi để không ngoái đầu nhìn lại. Trạm gác lùi dần, mờ nhạt phía sau. Dòng sông như tẻ đôi bờ, rẽ con nước từng cụm lục-bình bị đẩy ngược hai bên hông chiếc ghe dượng Bảy. Phía trước chúng tôi là cuối một nhánh sông dài, nơi sông sẽ về với biển… Hơi nước lạnh đọng môi tôi mằn mặn, câu hát nào còn văng vẳng dọc bờ kinh, “Nơi em về ngày vui không em Nơi em về trời xanh không em Ta nghe nghìn giọt lệ Rơi xuống thành hồ nước long lanh…” (Như Cánh Vạt Bay – Trịnh Công Sơn) Nguyễn Vĩnh LongChỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 12/Dec/2024 lúc 11:49am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 101 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |