Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn
Message Icon Chủ đề: Có Không Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 14 phần sau >>
Người gởi Nội dung
cao the
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 15/Jul/2011
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 589
Quote cao the Replybullet Gởi ngày: 29/Oct/2013 lúc 5:13am

         ... đi về đi

 

Mây ngủ trên trời cao

Bóng che dài mặt đất

Một chút buồn thuở nào

Long lanh làn nước mắt

 

Ôi ngày vui, ngày xa

Sầu miên man đọng lại

Hạt sương bên đời ta

Thành nổi buồn êm ái

 

Vượt qua bao gềnh thác

Tung tăng đường ta về

Như cá Hồi lìa xác

Hồn nhập vào hương quê

 

Cao Thệ

IP IP Logged
cao the
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 15/Jul/2011
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 589
Quote cao the Replybullet Gởi ngày: 04/Nov/2013 lúc 9:12am

 

                   …..ngồi xuống đây

 

Hạt nước nhỏ, mang theo hồn biển lớn

Theo mây bay dan díu khắp mười phương

Biển cát nóng, cỏ đời non mơm mởn

Mệt nhoài thân nhặt mãi đoá vô thường

 

Cội nguồn xưa, bãi bờ xa lơ lắc

Sóng hoang sơ tung bèo bọt reo mừng

Em ngồi xuống lắng nghe … trùng dương hát

Chạy chi hoài theo bụi khói mong lung !

 

Cao Thệ

IP IP Logged
cao the
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 15/Jul/2011
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 589
Quote cao the Replybullet Gởi ngày: 21/Dec/2013 lúc 7:20am
Đôi lời gởi bạn vừa Xuất Gia

Phật nay chẳng dám về chùa
Sư ông tạc tượng để lừa thế gian
Từ bi như chiếc lá vàng
Tách xa hỷ xả bạt ngàn chân mây

Áo tu quỷ mặc làm thầy
Phật, Tăng từ đấy mỗi ngày mỗi xa
Đường tu lạc nẽo phù hoa
Tham si chễm chệ pháp toà giãng kinh

Mấy lời đệ viết gởi huynh

Cao Thệ


Chỉnh sửa lại bởi cao the - 22/Dec/2013 lúc 11:14pm
IP IP Logged
cao the
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 15/Jul/2011
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 589
Quote cao the Replybullet Gởi ngày: 27/Dec/2013 lúc 3:50pm
An Cao
Dec 21 at 9:17 PM
Cám ơn bài viết con trai gởi tặng. Mừng năm mới Ba mẹ chúc con thân tâm thường lạc, chuyên cần học tập vì là năm cuối.
Ba mẹ lúc nào cũng bên con, con trai ạ !
Cao Thệ


ĐẠI ĐỊA VÀ QUÁN ÂM

“Ta không vào Địa Ngục thì ai sẽ vào đây” ( Kinh Địa Tạng)
Em có thói quen hay lạy sám hối vào những ngày cuối tuần. Một lần em hỏi ta rằng, lạy sám hối có thật sự diệt được hết nghiệp ác và tội lỗi không? Ta nói, nếu em có thể lạy thấp hơn chút nữa thì sẽ có công năng như thế. Em nhìn ta nhíu mày, cứ như là ta đang nói đùa vậy, bởi vì em vốn là một người con Bụt rất thành tâm, có lạy nào mà năm vốc của em không chấm đất đâu chứ. Ta không chịu nổi sự dễ thương nơi cái nhíu mày dường như trách cứ ấy.
-          Ừ, thì nếu em có thể ở thấp như đất thì tất cả tội lỗi và nghiệp quả đều được tiêu trừ.
Em còn nhíu mày nhiều hơn và biểu lộ sự trách cứ nhiều hơn nữa.
-          Thôi sáng mai, ta và em cứ quay lại nơi đồng cỏ, rồi từ đó, ta sẽ tìm ra cách để được ở thấp như đất vậy…
Và sáng hôm ấy, em lần nữa lại theo ta lang thang trên cánh đồng cỏ xanh, chim hót, mây trời và gió lộng. Em còn nhớ người thợ gốm ở quê mình không? Ông lão nghệ nhân già nua với đôi mắt kèm nhèm nhưng đôi tay thì linh hoạt và điêu luyện vô cùng. Cũng nơi đôi bàn tay ấy mà những cái lu, cái khạp cho đến chén dĩa tinh xảo đều được ra đời. Nếu đất có một hình tướng riêng biệt thì làm sao ông lão ấy có thể nặn đất trở thành những công cụ kia. Cho nên ta có thể xem VÔ TƯỚNG như là một đặc tính đầu tiên của đất vậy. Mà em hãy nhìn rộng ra cả pháp giới này, có pháp nào là có tướng trạng cụ thể đâu? Như chiếc lá khi vàng úa thì rơi xuống tan lại trong đất, và trả hơi nước nhỏ bé cho đám mây. Nên ta nói rằng chiếc lá có mặt trong đám mây, trong ánh nắng, trong cơn mưa, trong đất và trong vạn pháp. Như hạt muối đi vào trong biển, thì cả đại dương kia có chỗ nào mà không có mặt của hạt muối bé bỏng ấy đâu. Em đừng vội cho rằng tinh thể muối là có hình tướng cụ thể khi phóng to qua lăng kính trong phòng thí nghiệm. Vì hình tướng đó cũng giống như chiếc lá kia thôi. Vì VÔ TƯỚNG nên muối mới tan được trong đại dương, nên lá trở thành bất nhị với vạn pháp. Mà chính em, ta và tha nhân đây cũng là không có hình hài cụ thể. Cái thân xác chúng ta đang đây giống như hiện tướng của tinh thể muối vậy. Và thân này, thấy vậy nhưng lại như là hoa nắng bên thềm, thấy là có nhưng không thể nắm bắt, cầm giữ được. Và vì pháp giới là vô tướng, nên mới thị hiện ra được núi, đồi, cỏ cây, chim chóc, muôn loài mà chỉ với 4 nguyên liệu cơn bản là tứ đại thôi.
Không những ở pháp giới chúng sanh, mà tâm ta cũng mang tính chất như vạn pháp, những vọng tưởng, cảm thọ, phiền não cho đến ngay cả an lạc, tịch mịch, hoan hỷ cũng đều là vô tướng. Bởi vì nếu không mang tính chất ấy thì làm sao có trùng trùng điệp điệp những thị hiện của tâm trong mỗi sát na sanh diệt. Hay nói theo Kinh Hoa Nghiêm thì vạn pháp VÔ TÁC, tức là có bản thể thường trụ, chân nguyên bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất lai bất vãng. Do muốn phá đi cái chấp tướng của chúng sanh, nên Bụt Thích Ca mới dạy về Bồ tát Quán Âm không có tướng trạng mà chỉ là thị hiện hình tướng để nói pháp độ người. Quán Âm cũng chính là quán chiếu về tính chất VÔ TÁC, về Như Lai thể tánh của vạn pháp. Cho nên việc tạo tượng Bụt và Bồ tát rồi lập đàn hô thần nhập tượng, lại cho đó là chùa linh, tượng báu hay Bụt và Bồ tát ban phước, rồi đem chư vị trở thành tà thần quỷ vật để cầu xin mê tín hoang đường, bùa chú mà không quán về Như Lai tự tánh thì xem như là đang phỉ báng Chư Bụt và Bồ tát vậy.
Năm trước, cũng vào những mùa gió này, em và ta nhặt được một con chim nhỏ bị chết lọt thỏm giữa cánh đồng cỏ. Ta đã giúp em đào một cái hố nhỏ dưới cội cây, lót vào đó ít lá như là một huyệt mộ cho con chim xấu số. Hôm nay, khi đi lang thang ngang qua nơi ấy, em ngậm ngùi nói rằng, chắc giờ đây xác của chim đã tan vào và hòa làm một với đất rồi. Kì diệu quá. Hằng ngày ta bỏ vào trong đất biết bao nhiêu là thứ từ rác rến cho đến những thứ tưởng như sạch sẽ nhất. Đất có phiền hà gì đâu, phân biệt gì đâu. Đất cứ lặng lẽ mở lòng ra đón nhận và chuyển hóa. Và đó cũng là TỰ TÁNH VÔ PHÂN BIỆT của đại địa vậy. Em đã thấy rồi đó, tất cả sanh tử, sạch dơ chỉ là ý niệm về Nhị Nguyên. Đại địa không kẹt vào nhị nguyên nên mới an nhiên mà ôm trọn vạn pháp vào lòng. Nếu chúng ta không kẹt vào nhị nguyên thì vượt được hết thảy mọi đau khổ của thể gian thứ mà đến từ cái chấp mê lầm về đôi bờ ý niệm. Trong em, ta và chúng sanh ai mà không có những nội kết sâu thẳm. Và những nội kết ấy hành hạ, dằn vặt chúng ta đau đớn vô cùng. Từ nỗi đau dai dẳng ở nội tâm, nó chuyển thành những khối u, những tế bào bất trị nơi thân này. Chúng thâm hiểm lắm. Như khối ung thư phải có những phương tiện y học tiên tiến mới thấy ra được sự hiện diện của chúng, thì nội kết cũng vậy. Cái sân hận mà em đang đối trị và nghĩ rằng đã diệt được tận gốc bằng những chuyến đi từ thiện, bố thí, cúng dường, sám hối chỉ giống như em đang nhổ cỏ nhưng không nhổ tận gốc. Kể cả khi em ngắm tượng Bụt, viếng Chùa, tụng vạn bộ Pháp Hoa Kinh, niệm vô lượng danh hiệu Bụt thì cũng không thể chạm đến được cái nội kết thâm hiểm trong em và cái an lạc những phương tiện ấy mang lại chỉ là tạm bợ. Bởi vì nó vi tế vô cùng nên em phải quán chiếu sâu sắc vào tâm thức thì mới mong nhìn thấy và phát hiện được nội kết. Ngay cả khi em bắt tay với kẻ thù và nói với hắn rằng em đã tha thứ cho hắn thì kỳ thực chỉ là dối lừa của nội kết.
Người ta hay nói với nhau cách diệt nội kết là “LẮNG NGHE ĐỂ HIỂU, NHÌN LẠI ĐỂ THƯƠNG”. Em cứ nghĩ đơn giản rằng phải nghe kẻ thù giải bày tâm sự, và nhìn lại vấn đề cho sáng tỏ nên thấy hắn đáng thương vì bị vô minh che lấp. Nhưng nó cũng giống như cách mà y khoa cắt bỏ cái khối u vậy. Cắt chỗ này thì mấy năm sau chỗ khác sẽ di căn. Bởi lẽ nội kết vẫn còn. Chúng ta có mặt trên cõi này đây là vì những nghiệp quả đã gieo, vì những ân lẫn oán cần phải trả vay. Mà trong vô lượng kiếp số như thế, liệu em có thể tìm hết tất cả kẻ thù ở ngoài kia để nghe tâm sự của họ, và nhìn lại nội tình của từng vụ việc không? Cho nên, phải lắng nghe, quán chiếu sân hận, lẫn yêu thương để hiểu rằng chúng là tác phẩm của TÂM PHÂN BIỆT. Giống như nhìn vào những sóng tan tan hợp hợp để thấy sanh tử chỉ là ý niệm. Và sự chấp vào NHỊ NGUYÊN LÀ NỘI KẾT SÂU THẲM NHẤT TRONG MỖI CHÚNG TA. Từ cái thấy đó, nên nhìn lại tất cả những ý niệm của mình trong vô lượng kiếp, thấy tự mình là nạn nhân của chính mình nên khởi tâm thương xót. Mà chúng sanh ngoài kia đang kẻ cười người khóc thì có khác gì với ta đâu. Nên hiểu và thương ta như vậy rồi thì mới hiểu và thương được chúng sanh. Khi đã lìa được đôi bờ sở chấp thì nghiệp vẫn còn đó nhưng kẻ nhận nghiệp đã không còn. Vì chuyện to lớn của đời là sanh tử mà còn xem như “đắp chăn đông, cởi áo hạ” thì còn gì có thể lay chuyển được tâm của hành giả đây ? Nên Bụt nói, vượt hết mọi khổ ách tức là vượt được cái thấy bị kẹt giữa những ý niệm. Mà Quán Âm là quán về tự tánh vô phân biệt, là tánh nguyên bản của vạn pháp là vô tướng: bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng bất giảm. Vì không phân biệt như thế nên tâm hành giả mới thấy chân tướng của nội kết, hay đất mới có thể chuyển hóa được thân vô tướng của vạn pháp. Cho nên không ai có thể tha thứ cho ai mà chỉ có thể tha thứ cho chính mình. Chư Bụt và Bồ tát mười phương cũng không thể GIẢI NGHIỆP CHO BẤT CỨ CHÚNG SANH NÀO. Bụt Thích Ca tuy thành đạo mà thân vẫn chịu sanh, lão, bệnh, tử, nhưng tâm của Bụt không trụ nơi sanh, lão, bệnh, tử ấy vì đã không còn sở chấp. Do vậy, nghiệp không phải nơi thân mà cội gốc là ở tâm. Chư Bụt cũng y nơi tâm mà nói pháp. Nhưng chúng sanh lại lấy pháp ấy mà đem trang trí nơi thân nên hai đường thẳng song song chẳng gặp nhau bao giờ. Cho nên hãy dùng cái tánh nghe tự thân để nghe ra được thanh âm tự tánh nơi ta cũng như vạn pháp. Thứ âm thanh ấy là vô thủy, vô chung mà không tiếng thế gian nào có thể lấn át được:
“ Phạm âm, hải triều âm
Tiếng hơn thế gian kia”
Tiếng sóng biển là không ngừng nghỉ và cũng không có bất cứ cái âm thanh nhạc cụ nào là có thể làm át đi được. Nên hải triều âm được ví như âm thanh nguyên bản của vạn pháp.
Khi đã thấy như vậy rồi, em hãy nhìn ra xung quanh đồng cỏ xem. Đất có phân biệt khi cung cấp chất mùn cho cây cao hay thân cỏ đâu? Em có thấy vạn vật trên hành tinh này đang sống phụ thuộc vào đất từ gián tiếp đến trực tiếp không? Như cỏ lấy chất dinh dưỡng từ đất, nai ăn lấy cỏ, và hùm beo lại sống bằng thịt nai. Cho nên nói, đất thấy là tầm thường như vậy nhưng lại nuôi sống được tất cả hữu tình. Vì hạnh của đất là TỪ BI VÔ PHÂN BIỆT. Mà đó cũng là hoa trái của Như Lai tự tánh, của Quán Âm hay là của hành giả đã nghe được âm ba chưa bao giờ vắng mặt trong vạn pháp. Vì không còn chấp vào hình tướng, thể trạng, của chúng sanh nên từ bi mới có thể lan tỏa và ôm trọn lấy vạn pháp. Là không còn sự phân biệt giữa kẻ bố thí, người nhận bố thí, và của bố thí. Thì đó mới chính thực là bố thí vậy. Cũng như Tịnh Độ tông, niệm Bụt Di Đà cho đến khi trở về VÔ NIỆM thì mới chính là niệm. Hay nói cách khác, là trụ nơi vô niệm để quán chiếu rằng niệm hay vô niệm cũng chỉ là phân biệt của TÂM NHỊ NGUYÊN. Các pháp bố thí, cúng dường chỉ phương tiện độ đời, chứ tuyệt đối không phải là cứu cánh của người tu. Cho nên tu không phải là đi từ thiện bởi vì nếu không bỏ xuống được sở chấp thì mọi suy nghĩ, lời nói, việc làm cũng chỉ là đảo điên mà thôi. Chư Bụt vì đã vượt được đôi bờ nên dù nghĩ gì, nói gì, làm gì cũng đều PHẬT SỰ lợi lạc cho hữu tình. Nếu ta không chuyển được yêu thương trở thành Từ Bi vô phân biệt, và bản thân không trở về với tự tánh thì bố thí theo kiểu phàm phu ấy chỉ làm dày lên cái chấp ngã của người cho, và thị phi của người nhận. Nói như vậy, không phải là ta đánh đổ hết những công việc thiện nguyện nhưng khẳng định rằng song song đó phải lấy việc quán chiếu nội tâm làm việc hàng đầu. Đừng nhặt nhạnh những phước nhỏ mà quên rằng mình đang nắm giữ kho tàng vô giá. Như người cùng tử lo tha phương cầu thực, bữa đói bữa no vì loanh quanh nên mới không nhận ra viên ngọc quý mà người bạn lành đã may sẵn trong túi áo rách bươm của mình. Lòng tốt là một trong những báu vật của thế gian. Nhưng pháp của Bụt là pháp xuất thế gian, nên lòng tốt trong đạo Bụt phải được nuôi dưỡng trong tâm vô phân biệt thì mới trở thành Từ Bi. Vì đại địa không phân biệt chúng sanh cũng không thấy được mình đang nuôi cả chúng sanh nên thành tựu được như vậy. Vì không phân biệt thì từ bi mới hiển bày.

Cao Hồng Ân
IP IP Logged
cao the
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 15/Jul/2011
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 589
Quote cao the Replybullet Gởi ngày: 29/Dec/2013 lúc 8:58pm

Nếu bố thí, cúng dường mà tự tâm còn thấy chướng ngại thì đó chỉ được gọi là từ thiện và góp tiền, góp sức xây chùa mà thôi. Mà thân là chùa, tâm là Như Lai, vô lượng cảm thọ, phiền não, cho đến hỷ lạc đều là chư Pháp thì em ơi, còn nơi nào đáng để quay về hơn là TỰ THÂN của chính mình nữa chứ?
Đừng nói rằng Đại Thừa là cỗ xe lớn nên gom tất cả mọi chúng sanh lên xe và chở đi, nhưng người lái xe không tự mở mắt nhìn đường mà lại bị che lấp bởi chấp niệm phân biệt thì tai nạn tiềm tàng còn gây ra sự thảm khốc và đau xót gấp vạn lần những cỗ xe nhỏ. Nên muốn hiểu được liễu nghĩa Đại thừa và tùy nghi thị hiện phương tiện độ đời thì trước tiên phải thấy được và vượt được NHỊ NGUYÊN.
Khi còn thấy là từ thiện, là cúng dường thì đã không còn là Phật sự rồi.
Nên
“Từ nhãn thị chúng sanh
Phước tụ hải vô lượng”

Tâm không còn ý niệm về từ thiện, cúng dường nữa mà chỉ như là đất dâng trọn mình cho cỏ cây, vạn vật sanh tồn, trú ngụ và cậy nhờ. Nên mới được chư Bụt trong ba đời không ngừng tán thán rằng:
“Quán Âm bậc Tịnh Thánh
Nơi khổ não nạn chết
Hay vì làm nương cậy”.
Và như thế, trên bề mặt của đất tuy hố sâu, gò đống, núi đồi nhưng đó chỉ là những thị hiện trên bề mặt của đất, chứ kỳ thật tận cùng sâu thẳm của đất là bằng đều, không cao không thấp. Đó cũng là tự tánh Như Lai nơi chúng sanh là bằng nhau không khác. Mà cũng chính là chỗ GIÁC NGỘ của Chư Bụt là tương đồng. Chúng sanh có thể chậm lụt, khiếm khuyết về thân cũng như về trí thông minh nhưng khi đã chịu quay về Tự tánh thì sự chứng đắc cũng ngang bằng chư Bụt. Cho nên nói rằng, Bồ tát Thường Bất Khinh cũng chính là âm thanh của vạn pháp đang nhắc nhở hành giả về NHƯ LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM mà hành giả vì chạy loanh quanh và ôm giữ ý niệm về hạnh phúc, và đau khổ , cộng với nỗi sợ hãi về sanh tử nên đã gạt phăng đi, đã quên bẵng đi lời nhắc nhở nhiệm màu ấy. Thậm chí còn cho là khùng điên, rồi ra tay đánh đập, đuổi đi giống như khi chúng sanh nhận vọng làm tâm, nghe chỗ tột cùng của tự tánh lại sanh tâm hoang mang, rồi cho là vô lý vậy. Nhưng Bồ tát Thường Bất Khinh cũng không bao giờ nhụt chí, cũng như Quán Âm thị hiện không dứt ở mười phương, như Hải Triều Âm hay tiếng vang tự tánh của vạn pháp không bao giờ ngơi nghỉ. Và ngay trong đời hiện tại, dù cho Thường Bất Khinh có là tiền thân của Bụt Thích Ca đi chăng nữa, thì Bụt vẫn không ngừng tuyên thuyết và nhắc nhở chúng sanh phải lắng lòng để nghe cho được cái âm thanh vi diệu của Tự tánh.
Với những đặc tính như vậy, nên không có khoáng sản quý giá nào trên thế gian lại nằm ngoài lòng đất. Như kim cương, ngọc quý, và vàng bạc đều phải được hun đúc trong đất. Đó chính là lời khẳng định, chư Bụt hay trí tuệ của Chư Bụt chỉ được phát khởi nơi tâm đã không cỏn chướng ngại về ngã chấp, sở chấp, vượt khỏi đôi bờ tử sanh. Mà theo kinh Phổ Môn thì là tâm của hành giả khi đã nghe được âm ba vi diệu nơi tự tánh.
Em ạ, để nói rõ, tính đếm về công hạnh và đặc điểm của đất thì không thể cùng tận bởi vì Đại Địa nơi Phổ Môn là hình ảnh của vị Bồ tát Trì Địa. “Trì” là ôm lấy, bảo vệ, và vun bồi. Mà như Bụt Thích Ca đã nhấn mạnh, không thể tính đếm được công hạnh của một vị Bồ tát, nên chỉ có thể lược nói. Nên những tính chất và đặc điểm trên chỉ là những thứ mà tâm phàm phu hạn hẹp của ta có thể quán chiếu được. Em đã thấy rồi đó, nếu muốn sám hối thật sự thì phải như là đất thì từ đó mới thể nhập được bất sanh bất diệt. Như đã nói, sám hối không phải là để diệt nghiệp mà là phương tiện để cho chúng sanh quán chiếu, quay về tự tánh. Đó gọi “hồi đầu thị ngạn” vậy. Khi đã thấy và sống được với Như Lai tánh thì dù nghiệp còn, hay không còn cũng không là điều quan trọng nữa.
Do những công hạnh nhiệm màu đã phản chiếu gần như toàn bộ những tư tưởng, áo nghĩa uyên thâm của Quán Âm nơi phẩm Phổ Môn thị hiện, nên Bồ tát Trì Địa được là vị đứng lên giữa đại chúng để chốt gọn lại về pháp môn vi diệu và thù thắng này:
“Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT đạo nghiệp tự tại, PHỔ MÔN thị hiện sức thần thông này, thời phải biết công đức người đó chẳng ít”
Ta có thể diễn nghĩa thành: Kính thưa Bụt. Nếu trong pháp hội này, ai đã nghe, tin và thực hành theo những pháp môn quán chiếu về tự tánh để từ đó phá đi ý niệm về NHỊ NGUYÊN thì người ấy có công đức vô lượng vô biên, có thể sánh cùng chư Bụt vậy.
Mà trong chúng hội Pháp Hoa, thì có vị Bồ tát nào xứng đáng để làm công việc là phản ánh lên toàn công đức, trí tuệ của Bồ tát Quán Âm hơn là Ngài Trì Địa chứ ?
Em và ta đã cùng nhau đi trọn một vòng quanh cánh đồng Phổ Môn, nay mình phải quay về nhà thôi, trời đã tối rồi. Trên đường về, ta hãy dùng tiếng bất sanh bất diệt mà ca ngợi trí tuệ bất khả tư nghì của chư Bụt, vì những áo nghĩa nơi Phổ Môn cũng nhiều như cây cỏ, và vạn vật xung quanh ta vậy. Thế mà, Bụt lại có thể giảng nói tất cả pháp bất khả thuyết ấy thông qua ẩn dụ của Quán Âm và những chi tiết, hình ảnh hết sức tinh tế và ẩn tàng nơi phẩm kinh này.
Hãy đem thiên thu vào trong hơi thở. Đem tận nghiệp của ba đời vào trong một niệm. Thì em sẽ thấy được Quán Âm. Hãy trì cho đến khi thấy không còn trì nữa thì mới thật là TRÌ. Hãy niệm cho đến khi không còn thấy niệm nữa thì đó mới chính NIỆM.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Bụt
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ tát
Nam Mô Shantideva Bồ tát
Nguyện những điều con viết ra đều từ nơi chánh niệm đặng lợi lạc hữu tình.

Cao Hồng Ân

IP IP Logged
cao the
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 15/Jul/2011
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 589
Quote cao the Replybullet Gởi ngày: 12/Jan/2014 lúc 9:26am


Hòa Thượng Như Huyển Từ Thông

NHƯ có như không, sắc tướng này
HUYỂN từ sông núi đến trời mây
TỪ bi hỷ xả gieo nhuần khắp
THÔNG suốt mười phương pháp giới này

Cao Thệ


Chỉnh sửa lại bởi cao the - 12/Jan/2014 lúc 11:14am
IP IP Logged
cao the
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 15/Jul/2011
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 589
Quote cao the Replybullet Gởi ngày: 16/Jan/2014 lúc 11:43pm
An Cao
To: Ba Me
Today at 5:27 AM
[TA và EM]
“Ta gặp em trên lối rêu phong
Cũng chiếc áo xanh ngọc ngà ngày xưa ấy
Nay đã hóa thiên thu…”
Những mối tình nhân gian có thể đi trọn một đời người, có thể đi vào thi họa, vào văn chương nhưng điểm chung nhất của chúng vẫn là sự hạn hẹp về thời gian. Ba mươi năm, năm mươi năm, cho đến nhiều hơn thế nữa, chúng vẫn kết thúc, vẫn phân ly bởi sống chết, chia lìa. Cho nên người xưa đã từng hẹn biển, thề non với nhau rằng:
“sinh không đồng ngày, đồng tháng
Chết xin nguyện được đồng quách đồng quan”
Có nghĩa là chết đi, xin được vẫn là uyên ương, vẫn nắm tay nhau đi vào cõi vĩnh hằng. Nhưng có thực sự là mong ước sẽ được viên thành không? Hay chỉ như những cơn gió trời bay đi muôn phương…
Trịnh đã đến với thế gian như ta và em, và tất cả chúng sanh. Khóc cười và sống chết. Đi trọn trọn một kiếp nhân gian để yêu nồng hơn nhân thế, để tự tình cùng vạn pháp. Những mối tình li kỳ ấy được người nghệ sĩ diễn bày bằng thơ nhạc. Những bản nhạc tình rất đặc trưng của Trịnh, có người gọi là đạo ca, cũng có kẻ gọi là tình ca. Nhưng riêng ta, xin được gọi những lời nhạc chứa đầy đạo lớn mà say mèn nhân thế ấy là Tâm Ca. Bởi lẽ, chúng đến từ nơi tâm thức đã vượt xa cái giới hạn nhàm chán của chủa chiền, kinh điển, chúng càng bỏ xa khuất cái tình yêu hạn hẹp của thế gian. Và Trịnh cứ lang thang hát những bản Tâm ca như thế. Nơi vạn pháp này, có chỗ nào mà không phải là Như Lai đâu ? Có chỗ nào mà không phải là Thiên Chúa_tự tánh của vạn pháp đâu? Và cũng có chỗ nào mà không phải là Trịnh đâu chứ? Và như thế, Tâm Ca của Trịnh cứ cất lên như tiếng vọng của trùng dương, của đại ngàn đang lao xao vì gió lộng. Em hãy nhắm mắt cùng ta để thấy mình tan ra trong vạn pháp. Để từ một con sóng nhỏ mà hóa hiện ngàn khơi. Để từ thân sanh diệt mà liễu ngộ chân như.
“Ta thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khô
Ta thấy em đang ngồi khóc khi rừng chiều đổ mưa”
Tự tánh là Ta. Ta là tự tánh, đã yêu em say đắm từ vô thủy vô chung. Đã yêu em như đất yêu cây, như biển ngòi yêu tôm cá. Mà em có biết đâu? Trong muôn vàn những kiếp sống sanh diệt, giả tạm, mong manh và buồn chán ấy, em đã vất vưởng tìm một tình yêu giữa nhân thế. Rồi vì tình yêu ấy hạn hẹp về thời gian, dễ gãy vụn nơi gió đời, nên em cứ như cỏ trên đồng. Nắng thì khô héo, mưa dầm lại tươi. Em đã chạy theo mưa nắng, đã chạy theo những cuộc tình, chạy theo những cái không phải là em. Đã khóc cười với nắng mưa.
“Rừng thu lá úa em vẫn chưa về
Rừng đông cuốn gió em đứng bơ vơ”
Đi qua những vùng mưa nắng, em lại càng bặt vô âm tính nơi bốn mùa. Em thấy gì nơi những chiếc lá vàng rơi? Sự sanh diệt đến đi bất tận và muôn trùng. “Em vẫn chưa về” bên ta, tan vào tự tánh mà vẫn còn vu vơ đâu đó nơi sóng ngàn tử sanh.
Em có thấy những đau khổ của nhân gian không? Em có thấy gốc rễ của đau khổ không? Vì họ chỉ thấy sự sống chết của chiếc lá. Họ chỉ thấy được sự sống chết của thân giả tạm này. Và từ đó, cười vui, khóc hận. Em chìm đắm như thế như những con sóng cứ rên xiết vì sanh diệt. Nhưng quên mất rằng bản chất của chúng là nước. Mà nước thì có đến đi bao giờ đâu?
Ta thấy hết em ạ. Ta đã yêu em từ vô lượng kiếp số và sẽ vẫn mãi còn yêu em. Ta đau khổ lắm khi dáng em đứng “chơ vơ” trước ngọn gió đông lạnh buốt vai gầy. Nhưng em “vẫn chưa về”.
“Ta thấy em trong tiền kiếp với mặt trời lẻ loi
Ta thấy em đang ngồi hát khi rừng về nhiều mây”
Ta cũng đã thấy em với cô quạnh với tự ngã như mặt trời “lẻ loi” giữa hư không. Vậy chính cái mặt trời tự ngã đã dẫn đưa em đến với sự lẻ loi cô quạnh của thế gian. Em đã không thấy được tự tánh vô ngã của vạn pháp. Cái này sanh vì cái kia sanh. Cái này diệt vì cái kia diệt. Sự hiện hữu của em trên cõi đời này là một điều màu nhiệm, bởi lẽ nó là sự phản chiếu của cả vũ trụ mênh mông. Bởi lẽ, nó là sự kết tinh của muôn vạn nhân duyên chằng chịt. Bởi lẽ, nó là ý Cha Trên Trời, là Như Lai Viên Giác Diệu Tâm.
Hãy bỏ xuống tự ngã, hãy hòa mình vào chân như, để em có ta, có vạn pháp làm bầu bạn, tri kỷ. Em sẽ không bao giờ còn thấy lẻ loi, cô đơn giữa những bến bờ ý niệm. Những chiếc lá thay màu rồi rụng rơi héo úa mỗi độ thu về. Cũng chính cánh rừng ấy, chính những tàn cây, trơ trọi, buốt giá lúc đông sang, rồi khi xuân đến, lá lại từ đâu mà mà nảy lộc đơm chồi? khi hè về, thì lá lại càng thắm đẫm màu xanh. Chính cánh rừng ấy là TỰ TÁNH không đến đi, không cấu tịnh, không SANH DIỆT. Chỉ có lá cây là biến đổi hình tướng, rộn ràng tử sanh mà thôi. Vậy thì Tự tánh của vạn pháp cũng như vậy, thân xác của em là lá rừng, mà tự tánh nơi em cũng như cánh rừng ấy, có thay đổi bao giờ đâu?
Rừng thu thay lá mây bay buồn rầu
Rừng đông buốt giá mưa bay rạt rào
Cũng vì nghĩ rằng thân xác này là của ta, là ta mà nhân loại trùng trùng đau khổ ngoài kia. Họ tìm đến những trò vui tạm bợ để nghĩ rằng sẽ tìm thấy chính họ nơi những cảm giác vô thường về thân. Nhưng thật sự thì họ có tìm được chính mình đâu? Bởi vì những chiếc lá lúc nào mà không thị hiện vô thường. Những cảm giác về thân, những ảo tưởng mà cảm giác ấy mang lại, những hành động nắm giữ, xô đẩy từ ảo tưởng, và kể cả những kinh nghiệm về tất cả quá trình ấy đều không thực có. Chúng đến đi như mây hợp tan, mong manh như bọt biển. Vậy thì hạnh phúc mà thế gian nghĩ rằng là thực ấy, cũng chỉ như hoa đốm giữa hư không. Không tài nào nắm giữ được. Những cuộc vui của thế gian sớm nở tối tàn. Ta đã đi qua những con đường của vũ trường, bia rượu, đã lặn ngụp nơi ao hồ của xác thịt. Những chúng sanh ấy rời nhà với dung mạo đẹp tươi rồi tờ mờ sớm hôm sau lại về nhà, với đầu bù tóc rối, với áo quần xốc xếch, chính họ cũng không biết là họ đã làm gì tối qua. Đêm đó, họ đã rất vui với cái vui tạm bợ. Em thấy họ có đáng thương không? Họ như cùng tử lang thang, vất vưởng mà không biết rằng trong túi áo có viên ngọc giá trị muôn lượng. Những niềm vui của thế gian là chóng vánh bởi nó đến từ THA LỰC. Tức là vay mượn một điều gì đó để làm niềm vui. Không chỉ có những người thế gian say đắm trong vũ trường mới chính là tìm cầu tha lực. Mà đó cũng có thể là chính em, khi hiểu sai về Phật, Chúa. Cầu xin van vái. Không có một Đấng nào có thể ban cho ta hạnh phúc được đâu em.
Phật không thể ban cho Niết Bàn
Chúa không thể ban cho Nước Trời
Mà nó ở ngay chính nơi em. Vì sự bức thiết như thế, nên ta đã đợi em, ta mong chờ trên những ngày tháng cô quạnh. Bởi lẽ, em không nhớ đến ta, mà có nhớ đến thì cũng không đủ can đảm để quay về bên ta. Em sợ Phật quở, Chúa trách. Sợ Sư Thầy, sợ Linh mục thôi ban phép bí tích, thôi xoa đầu ban phước. Sợ Kinh điển không có người đọc tụng, sợ Tin mừng không có kẻ giảng rao. Vì sự ngu muội của chúng sanh sợ cái đau về thân mà quên mất BẢN LAI DIỆN MỤC, quên mất Con từ nơi Cha mà đến, nên người ta mới có thể xây lên những nhà tù giáo điều mà nhốt Phật, nhốt Chúa vào. Họ không để em tiếp xúc được với Phật, Chúa thật sự là TỰ TÁNH nơi em. Em bận phải đi nhà thờ vì sợ tội tổ tông, em bận phải lạy sám hối vì sợ nghiệp báo. Nhưng em ơi, Jesus ngày xưa còn đòi đập đổ đền thờ, Thích Ca hồi đó có lạy lục một đấng nào đâu? Mà họ vẫn an lạc như nhiên giữa kiếp phù sinh. Là bởi vì, họ đã trở về với khả năng chế tác hạnh phúc nơi chính họ.
Chúa không thể cứu khổ.
Phật không thể cứu khổ
Mà có em mới cứu được chính em.
Em hãy quay về.
“Ta vẫn mong ta chờ mãi trên từng ngày quạnh hiu
Ta vẫn mong em về đấy cho đời bày cuộc vui”
Em về với ta, về với chính em mà chưa bao giờ sanh diệt thì đời sẽ mở cho em thấy những cuộc vui bất tận. Đó là chính là Nước Trời, chính là Cực Lạc giữa nhân gian. Là em vẫy vùng trong biển lớn của vạn pháp. Đó mới chính thực là chân hạnh phúc bởi vì nó là của em, do chính nơi em.
Mùa xuân đã đến em hãy quay về
rừng xưa đã khép em hãy ra đi
Em sẽ quay về đâu? Và nếu ra đi, em sẽ đi đâu? Em không hề có chốn để quay về, và em cũng hoàn toàn không đích đến cho cuộc ra đi. Nếu bỏ xuống khái niệm của “quay về” và “ra đi” thì còn lại gì? Nếu bỏ đi những ý niệm phân biệt NHỊ NGUYÊN thì còn lại gì?
Đó là CHÂN NHƯ.
Em có bao giờ ngồi nghe hơi thở. Niết Bàn sẽ hiển bày giữa sát na sanh diệt. Nước Trời sẽ ngự đến giữa hai làn hơi vào và ra ấy.
Rừng xưa đã khép , rừng xưa đã khép em hãy ra đi
Em có nghe tiếng ta đang van nài không? Rừng xưa đã khép. Tức thân tứ đại này đã tan rã từ khi mới chào đời
“Dưới vành nôi mọc từng nấm mộ
Dưới chân ngày cỏ xót xa đưa.” ( Cỏ xót xa đưa_TCS)
Những nguồn tha lực ngày xưa em bám víu cũng là giả tạm. Vậy em hãy từ bỏ chúng đi. Để đứng lồng lộng giữa gió trời, mà nghe hương của vạn pháp, rồi tình tự, ân ái cùng ta cho đến ngàn thu. Thật sự, em có cần phải ra đi, hay quay về đâu, cứ an nhiên là chính em thì em đã gặp được ta rồi.
Ta đã hòa làm một với em từ trước thuở Đất Trời được tạo nên. Có tình yêu nào to lớn đến thế không em?

Cao Hồng Ân
----------------------------------------------------------------------------
Cám ơn bài viết của con trai gởi ba mẹ
Cao Thệ
IP IP Logged
cao the
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 15/Jul/2011
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 589
Quote cao the Replybullet Gởi ngày: 18/Jan/2014 lúc 9:24pm
An Cao
To : Ba Me
Today at 8:03 AM

QUÁN CHIẾU VỀ VÔ THƯỜNG
( Nếu em không đằng vân mà đến, thì hãy quay về)

Mấy hôm trước ta lại rủ em ra đồng. Cái nắng giữa hạ như thiêu đốt vạn vật và đồng cỏ cũng chịu chung số phận như thế. Em buồn lắm bởi vì đồng cỏ xanh mượt mà của những tháng ngày xưa cũ đã dường như biến mất. Giờ đây, trên đất khô cằn vì thiếu nước, những thân cỏ vàng hoe, gục ngã. Đó đây, có những những khóm cỏ may mắn nằm dưới bóng râm của cây to vợi thì lá khô đét lại, tóp tép vào nhau, trông như những gai ngọn tua tủa hướng lên trời cao. Vậy mà trời vẫn như đổ lửa.
Cứ thế cho đến vài ngày sau, tự dưng trời thương đổ trận mưa rào. Em ngồi cùng ta nơi hiên nhà, nghe đất rộn lên vui sướng. Rồi trong sự thinh lặng giữa những tiếng mưa, chúng ta lại nghe được tiếng lá cỏ vươn mình. Mưa lớn và nặng hạt lắm. Như cho thỏa lòng trời sau bao ngày nắng hạn. Mưa kéo dài đến tối. Ta quay sang nói với em rằng, sự màu nhiệm của cuộc sống đang bắt đầu rồi. Em vẫn còn giận trời nhiều lắm, vì nắng chi mà nắng dữ vậy, làm mất đi đồng cỏ xanh rì hôm trước, nơi em và ta từng lọt thỏm giữa những thân cỏ cao quá đầu người mà nói chuyện vu vơ. Trước em nhắm mắt lại, em còn cố nói với ta rằng:
-          Mưa như vậy thì có ích lợi chi đâu chứ, vì những bụi cỏ đã chết mất rồi.
Ta thương em nhiều lắm nên dang tay ra ôm lấy em và hôn lên đôi má bầu bĩnh pha chút giận dỗi chuyện nắng mưa. Ta dỗ dành:
-          Không đâu. Em hãy tin ta đi. Chỉ cần hai hay ba ngày sau thôi thì phép màu đã hiển bày rồi. Bình an em nhé.
Và cứ thế, trong đôi tay mênh mông của ta, em đã chìm vào giấc ngủ. Trong đêm, sâu sâu lắm, ta nghe tiếng đất nứt vỡ ra vì hạnh phúc, và những điều màu nhiệm chảy tràn ra như cơn suối…
Độ ba ngày sau, em đã chủ động, nắm lấy tay ta để đi thăm đồng cỏ. Em nôn nao lắm. Và kìa, cuộc sống có bao giờ làm em thất vọng đâu. Những ngọn cỏ non, còn trĩu nặng sương đêm, đang long lanh trong nắng mới. Đám cỏ may mắn trốn nơi bóng râm ngày nào, thì giờ đây, lá đã căng tràn nhựa sống. Em bước chân đi trên những đám cỏ thật chậm, thật chậm vì em biết đó là cả một sự màu nhiệm của cuộc sống.
-          Cỏ đã ở đâu? _em quay lại nhìn ta đầy thắc mắc
-          Trong đất.
-          Đất đã chứa cỏ ?
-          Không hẳn chỉ có cỏ không thôi. Đất chứa vạn pháp. Nhưng chính nắng mưa quyết định sự hiển bày của vạn pháp trên đất_ ta đáp lời em, khi đưa tay khẽ chạm một hạt sương trên lá cỏ.
Ta mỉm cười mình. Em đáng yêu quá. Em đã khóc, đã buồn giận khi cỏ dần biến mất trên đất, rồi trở nên vui mừng hạnh phúc khi cỏ bắt đầu phủ xanh những đồi trọc. Cũng giống như người thế gian ngoài kia, họ đã khóc cười xoay vần như thế giữa những sanh tử. Nhưng em và họ có biết đâu rằng, cái sống chết đó cũng giống như đồng cỏ này vậy. Chúng héo úa, và tàn lụi đi dưới ánh nắng khắc nghiệt của đất trời. Nhưng rồi lại bừng sống dậy sau những đêm mưa dầm. Em có thấy, thân xác này giống như rơm rạ, cỏ khô không? Cứ sống sống, chết chết lay lất theo nắng mưa. Nhưng thật sự, cỏ đâu có chết. Cỏ chỉ trở về với đất và đợi một hình hài khác. Em và chúng sanh cũng có chết bao giờ đâu. Chúng ta chỉ trở về với tự tánh, rồi từ nơi đó đợi đủ nhân duyên lại trồi lên dưới một hình hài mới. Giống ruộng cỏ ngày hôm nay vậy.
Đồng cỏ hôm nay, đã một lần nữa thị hiện vô thường để cho em, ta và chúng sanh có được cái thấy vượt ra ngoài hai bờ bến của tử sanh, của nhị nguyên. Và cái thấy đó, được gọi là Trí Tuệ của chư Bụt. Chính khả năng thấy biết không bị kẹt chấp vào sống và chết ấy, mới hiểu được hết cái khả năng tàng chứa vô lượng và vô biên của tự tánh. Cũng nơi ấy mới thấy rõ được sự tạo hình tài tình và ảo diệu của nhân duyên. Cho nên, ta thể nói rằng, nhân duyên chính là mẹ của vạn pháp, và tự tánh là chất liệu để người mẹ ấy nhào nặn nên hình hài những đứa con.
Ta có thể gọi, nắng mưa là nhân duyên, nhưng đó cũng chính là vô thường. Vậy nhân duyên cũng chỉ là tên gọi khác của vô thường. Bởi vì bản chất của chúng là một. Khi chết đi, tức là không còn nhân duyên với hình hài này nữa. Nhưng cũng có thể nói rằng, thân này là vô thường, do muôn duyên hợp lại. Vậy trong sự hợp tan của nhân duyên đã hiển bày lý vô thường rồi.
Và giờ em hãy cùng ta nhớ lại những dòng đầu tiên của kinh Địa Tạng xem:
“Một thuở nọ, tại cung trời Đao Lợi, đức Bụt vì Thánh Mẫu mà thuyết pháp”
Và bài pháp mà Ngài thuyết ấy chính là kể về Bồ tát Địa Tạng.
Chúng ta hay nói về vô thường khi không thể nắm giữ được bất cứ điều gì trong cuộc sống. Từ cái thấy còn chưa trọn vẹn về vô thường, nên chúng ta sanh ra rất nhiều những tư tưởng lúc thì buông xuôi tất cả, lúc thì cố gắng lao mình vào tận hưởng cuộc sống để quên đi nỗi đau khổ ấy. Từ sự đối trị trong tuyệt vọng với vô thường mà chúng ta đã sanh ra tham, sân, si. Tham tức là bấu víu vào sự có mặt của ta và vạn pháp, sân tức là đẩy ra xa, cũng vì chấp vào sự có mặt ấy. Chính trong lúc chúng sanh đắm chìm trong tham và sân thì si mê cũng được sanh ra. Vì si mê mà ta không thể thấy rõ được cái tự tánh không đến đi của vạn pháp. Cho nên những đau khổ của thế gian đều nằm ở tham sân si nhưng kỳ thực chính là chủng tử sợ hãi vô thường mà chúng ta ôm ấp gieo trồng từ muôn vạn triệu kiếp về trước. Cũng vì nỗi sợ ấy, mà ta tạo ra Tôn giáo để cầu xin,van vái. Ta nương vào tha lực mà cứ tin rằng ta sẽ thoát được vô thường. Nhưng không đâu. Không bao giờ đâu em ạ. Chưa một pháp nào trong muôn ngàn thế giới có thoát khỏi vô thường được, dù chỉ trong một sát na mà thôi. Tuy nhiên, vô thường chỉ có thể xây nên cái hình hài tứ đại này. Chúng ta đến từ tự tánh và cũng trở về với tự tánh. Tức Kinh Địa tạng này không phải là một bản kinh để tụng đám ma, đám giỗ. Mà là do chư Bụt nơi trí tuệ từ bi vĩ đại giảng thuyết để chỉ cho chúng sanh thấy một con đường giải thoát. Sanh tử vô thường vẫn còn đó, nhưng không còn người sanh tử nữa. Hay rõ ràng hơn là Hình ảnh của Địa Tạng là biểu tượng cho NHƯ LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM, một tên gọi khác của Tự tánh.
Và càng sai lầm và gần như là phỉ báng chư Bụt, nếu em nghĩ rằng vị Bồ tát này có công năng cứu độ siêu bạt vong linh. Và càng đau khổ hơn nữa, nếu em cố gắng làm cho giống với tượng của Địa Tạng rồi múa may vẽ vời những ấn chú đòi mở cửa địa ngục. Đó có khác gì là em mang danh của Bụt mà lại khước từ giáo lý giải thoát tối thượng của Bụt đâu chứ? Vậy danh hiệu em niệm trong những nghi lễ ấy đâu phải là Bụt, đâu phải là Bồ tát mà chỉ là niệm cái nỗi sợ hãi vô thường của chính em và chúng sanh mà thôi.
Tự Tánh thì không có đến đi, không dáng hình mà nơi Kinh này, Bụt dùng tên gọi Địa tạng bồ tát để chỉ cho tự tánh thì làm sao có thể tạc được tượng Ngài? Dù cho em đốt nhang nghi ngút đến ám vàng mặt tượng cũng không hề có một khói nhang nào đến với Địa Tạng đâu. Dù cho em có lạy dập trán, rướm máu trước tượng Địa Tạng thì em cũng vẫn sẽ còn trôi lăn trong sanh tử bởi vì em đang lễ lạy cơn ác mộng vô thường của chính em. Dù cho em có đọc tụng kinh Địa tạng hàng vạn lần mà không thấy được Địa Tạng chính là tự tánh thì chỉ làm rát cổ, hao hơi của em thôi, chứ không phước đức chi đâu, vì trong tiếng đọc của em vẫn còn là tiếng thở dài chán ngán vì vô thường kia mà. Em đừng tin họ, những người diễn đạt sai lệch lời Bụt, ý Kinh để rồi cho rằng dát vàng lên tượng Địa Tạng là phước đức vô lượng. Bởi vì em có thể dùng vàng mà mua chuộc vô thường sao? Khi Bụt dạy rằng hãy lấy vàng mà dát tượng Địa tạng tức là hành giả khi đã thấy được tự tánh, thì liền được hỷ lạc vô lượng tưới tẩm thân tâm ví như vàng sẽ tôn giá trị của tượng lên. Vậy hỡi người con Bụt, sao em còn mải ngủ mê mà tin vào những tà thuyết vô dụng, hoang đường ngoài kia, mà bỏ lời chư Bụt vì từ bi mà giảng nói?
Trên đời sống, ai có thể hiểu và thấy được vô thường là đã rất may mắn rồi. Do đó, Bụt thuyết kinh này ở cõi trời Đao Lợi tức là chỉ dành cho những chúng sanh đã có căn bản về vô thường. Giống như ta, trước khi dám dẫn em vào khai hội Địa Tạng thì cũng phải cho em thấy sự vô thường thực sự của đồng cỏ giữa duyên nắng mưa.
Hình ảnh của Thánh Mẫu là lý do để Bụt thuyết kinh. Có nghĩa là hình ảnh ấy sẽ chi phối và chủ đạo toàn bộ bản kinh. Trong vô thường thì có nhân duyên trong nhân duyên thì có vô ngã, bởi vì cái này sanh vì cái kia sanh, cái này diệt vì cái kia diệt. Mà VÔ NGÃ chính là KHÔNG của Bát Nhã, là Trái Tim cùa Đạo Bụt Đại Thừa. Các pháp là không bởi vì không tồn tại trong các pháp một cái ngã riêng biệt nào. Giống như lá cỏ chứa đựng đám mây, mặt trời, cơn gió, mùn đất. Giống như em và ta cũng có gió là hơi thở, nước, hơi ấm và đất là thân xác. Pháp giới giống như lưới nhện đẫm sương ngày xưa, mỗi hạt sương lại phản chiếu vô vàn hạt sương còn lại. Cho nên, lời kinh có thể diễn thành:
Vì quán chiếu tánh KHÔNG của vạn pháp (thánh mẫu) mà trí tuệ (Bụt) hiển bày hình tượng hóa CHÂN NHƯ, TỰ TÁNH (Bồ tát Địa Tạng).
Như Lai tự tánh là Bụt, còn hình tượng hóa tự tánh ấy tức là Bồ tát. Vậy sự khác nhau giữa Bụt và Bồ tát chỉ như một sợi chỉ. Bụt là sự vật, và hiện tượng còn Bồ tát chính là những pháp biểu thị cho sự vật và hiện tượng ấy. Đơn giản hơn là Bụt là mặt trời, và Bồ tát là ánh sáng. Nhờ ánh sáng, ta mới biết sự có mặt của mặt trời. Cũng giống vậy, tự tánh sẽ được diễn bày hết sức cụ thể qua hình ảnh Địa Tạng trong bản kinh này.
Pháp quán âm thanh là nương theo vạn pháp mà sanh diệt là pháp tu của Bồ tát Quán Âm. Từ khi không còn kẹt chấp vào âm thanh nữa, thì ngay lúc đó hành giả nghe được âm ba của vạn pháp đang vang lên bất tận, muôn trùng đó cũng chính là âm thanh của TỰ TÁNH vậy.
Do đó, phẩm Bồ tát Quán Âm nơi Pháp Hoa kinh được gọi là PHỔ MÔN, tức là cánh cửa để về Chân Như, về Niết Bàn. Mà đó chính là pháp Quán về Không. Nên muốn tiếp xúc với Địa Tạng thì phải bước qua cánh cửa ấy. Nhưng thật ra, cánh cửa chỉ là một khung cửa chơ vơ giữa đồng không mông quạnh, tức là pháp quán về Không cũng chỉ là một ý niệm mà thôi. Hay rộng ra, khổ và pháp diệt khổ hay kể cả những điều ta đang vu vơ với em cũng chỉ là ý niệm mà thôi. Do vậy, Bụt nói rằng 49 năm không thuyết một lời nào bởi vì ý niệm thì giả tạm như hoa đốm giữa hư không. Em đâu cần phải quay về với Địa Tạng, với Tự Tánh mà tự tánh đang ở ngay đây, trong em, từ vô thủy vô chung.
Em đâu cần phải thắp hương, gõ chuông, rồi mặc quần lụa áo là, tràng phang bảo cái uy nga mới có thể gọi được Địa tạng. Những thứ ấy vô ích lắm. mà chỉ cần em liểu ngộ được :
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc
Sắc bất dị không, không bất dị sắc
Thọ, tưởng, hành, thức diệt phục như thị”
Thì đó là căn bản để hiểu về Địa Tạng, để tỏ ngộ được Tự tánh.
Em đã thấy, em hao phí thời gian chưa? Bao nhiêu năm con đi tìm Bụt, đến đầu bù tóc rối, thân thể hao mòn vậy mà Bụt ở ngay trong con mà con không hề hay biết. Em không đáng trách đâu. Mà đáng trách, chính là những người mượn tiếng Phương Tiện để giảng nói sai lệch lời của chư Bụt, giảng ra thành một Địa Tạng tà mị, chuyên “bẻ” luật nhân quả mà cứu chúng sanh, tạo thành một Quán Âm đa sầu đa cảm, nhàn rỗi cứu người mà không màng nhân quả. Những hình ảnh hoang đường ấy, như đã nói, chính sản phẩm của tâm sợ hãi và khiếp đảm trước vô thường.
Trong quyển kinh mà bị người thế gian phủ kín bằng màu sắc của mê tín, ta sẽ xé nát những lớp màn tà kiến ấy để chỉ em thấy KHO TÀNG PHÁP TỐI THƯỢNG của Như Lai chính là Bồ tát Địa Tạng. Nếu thật sự đến đây, em vẫn lờ mờ chưa hiểu rõ về cánh cửa Phổ Môn, xin mong em hãy rời cánh đồng Địa Tạng mà quay lại với cánh đồng Phổ Môn. Bởi vì, chỉ khi nào thực sự như một hóa thân của Quán Âm là Quán Tự Tại Bồ tát nơi kinh Bát Nhã, quán chiếu ngũ uẫn giai không thì vượt qua được tất cả những đau khổ. Chỉ khi nào, ta thực sự là Quán Tự Tại rồi thì mới có thể hiểu hết được biển trí tuệ của Chư Bụt nơi Địa Tạng Bổn Nguyện Công Đức kinh.
Trước khi bắt đầu chuyến đi dạo này, ta đã hỏi em có thể cưỡi mây mà đến không, tức là em đã cởi hết khổ chưa ? nếu em vẫn còn kẹt chấp vào khổ, thì cánh đồng này không dành cho em. Còn ta và đứa em này vẫn sẽ đi tiếp, bông hoa thì phải nở, chim thì phải hót, và mặt trời thì phải sáng.
Quán về Vô thường sẽ dẫn đến quán về Không
Pháp quán về Không cũng tức là quán vô thường vậy.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Bụt
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ tát
Nam Mô Shantideva Bồ tát
Nguyện những điều con viết ra đều từ nơi Chánh niệm và vì lẽ đó mà lợi lạc hữu tình

Thomas Cao Hồng Ân

---------------------------------------------------------

Con trai !

Phật đạo là con đường trí tuệ, con đường ấy không chỉ dạy hành giả phải thờ lạy, tụng đọc, van xin … làm phước !

Đức Phật dạy Tám điều người theo Phật nên làm

1-     Chánh Kiến

Mừng cho con được chánh kiến.
Những bài viết con gởi đến bên giường bệnh để mẹ xem, là những liều thuốc vô giá cứu mẹ thoát qua bệnh tật, tử sanh một kiếp người.

Cám ơn con về bài viết rất nhiều, con trai ạ !

Cao Thệ
IP IP Logged
cao the
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 15/Jul/2011
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 589
Quote cao the Replybullet Gởi ngày: 29/Jan/2014 lúc 8:54pm
Ba mẹ
con thêm vào một số chi tiết ở đoạn sau khi Mary rời nhà Elizabeth. Đây mới thật sự là bài viết mà con muốn viết và truyền tải

DỌN ĐƯỜNG CHO HÀI NHI
(lược dịch, tổng hợp và phóng tác từ chương 1 của Tin Mừng theo Thầy Matthew và thầy Luke)
Vào thời của vua Herod trị vì, có một thầy tư tế tên là Zach-a-ri-as thuộc về dòng A-bi-a, và vợ thầy ấy tên là Elizabeth. Bà vốn là con gái của Aaron. Họ là những người thờ phụng Thiên Chúa rất tín tâm và không bao giờ bê trễ trong công việc phụng sự cho nhà Chúa. Tuy nhiên, họ lại là những người già nua và đơn chiếc. Niềm ao ước duy nhất của hai vợ chồng là một mụm con để vui vầy. Cả hai vẫn hay cầu nguyện với Chúa và lắng nghe ý Ngài về điều này.
Cho đến một hôm kia, thầy Zach-a-ri-as đang bước vào đền thờ Chúa để đốt hương trầm cung phụng Ngài theo sự phân công của những vị tư tế quản đền. Cũng cùng lúc đó, cả nhóm người cầu nguyện đang lễ lạy và ngợi ca Chúa ở bên ngoài trong lúc suốt thời gian hương được đốt lên. Và kìa từ đâu, một thiên sứ của Chúa đã hiện đến với ông, vị ấy đứng bên phải của bàn hương. Ông sợ và hoảng hốt lắm, ông phủ phục xuống và run rẩy. Khi ấy, Thiên sứ bảo ông rằng:
-          Này Zach-a-ri-as, người tôi tớ của Chúa, người đừng sợ. Ta đến để mang tin mừng cho người đây. Chúa đã chấp nhận lời nguyện cầu của hai vợ chồng, và rồi vợ người sẽ có mang. Vì là ân huệ của Chúa nên hãy gọi con trẻ ấy là John. Nó là sẽ niềm hoan hỷ không chỉ riêng cho gia đình mà còn cho tha nhân nữa. Rồi đây, khi con trẻ ấy lớn lên, nó sẽ nên người công chính trong sự soi sáng của Chúa, nó sẽ không lạc lối trong những dục lạc thậm chí là vi tế nhất. Con trẻ sẽ được tắm trong sự soi sáng của Chúa ngay cả khi chưa chào đời. Vì trí tuệ được hun đúc ấy, mà con trẻ khi lớn lên sẽ khiến cho rất nhiều con cái của Israel trở về sự công chính của Chúa. Và nó sẽ là sự dung hòa và thấu hiểu của tiền nhân đối với hậu bối, mang kẻ ngỗ nghịch bị lạc đường trong rừng thẳm của dục lạc, ác kiến và nghi hoặc trở về nẻo chánh đường ngay, và chuẩn bị cho dân chúng tư thế để đón nhận Thiên Chúa. Như vậy con trẻ này, sẽ dọn đường cho Chúa và những kế hoạch của Ngài.
Thầy tư tế lắp bắp thưa với Sứ giả rằng:” Lạy Chúa, con không còn tin vào những gì tai con nghe thấy. Vì con đã già yếu rồi, mà vợ con cũng có khá hơn gì mấy so với con đâu? Sao chúng con đủ sức để thực hiện việc trọng đại này cho Chúa chứ ?” Vị Thiên thần nhíu mày tỏ ý thất vọng:
-          Ta là Gabriel, ta đến đây theo ý Chúa, để truyền tin cho người. Vì sự còn hoang mang ấy nên ta sẽ khiến người vắng bặt những hý luận, và ngữ ngôn cho đến khi sự kỳ diệu ấy xảy ra.
Thiên thần Chúa biến mất giữa hư không. Zach-a-ri-as bước ra khỏi đền thờ, và mọi người hỏi ông sao chỉ đốt hương lâu đến thế. Ông không thể trả lời, chỉ ra dấu là mình bị câm. Khi ông đã đi khuất, người ta nói với nhau rằng, Chúa đã cho ông một dấu lạ ở đền thờ.
Sau những sự kiện ấy, ông trở về nhà và suy niệm về dấu lạ. Ít lâu sau, vợ ông có mang, và suốt 5 tháng, bà cũng như chồng sống trong thinh lặng để chiêm nghiệm về dấu lạ ấy. Bà hoan hỷ mà tự nhủ rằng:” Lạy Chúa, Chúa hiểu nỗi khổ của con và ban con trẻ này như ban mưa trời xuống vùng hạn hán. Lạy Chúa, tâm hồn con đang reo vang vì hạnh phúc”.
Sau khi bà Elizabeth mang thai được 6 tháng, thì một dấu lạ nữa lại được gửi đến Nazareth thuộc về thành phố Galilee. Lần này, người nhận tin là Mary. Cô là một thiếu nữ được hứa gả cho Joseph, dòng dõi của vua David. Khi Thiên thần đến với cô, đã cất tiếng ngợi ca rằng:
-          Này cô ơi, hãy vui và hoan hỷ lên, cô là người được ân phước trên tất cả những người nữ khác. Lành thay vì cô luôn có Thiên Chúa ở trong mọi suy nghĩ của cô.
Mary vừa sợ vì sự hiện thân của Thiên sứ, mà lại còn rất ngạc nhiên về những lời Ngài nói. Cô cố gắng vận dụng hết suy nghĩ để tìm xem, sao Thiên sứ lại nói những điều lạ lùng ấy. Ngài nhìn cô bằng đôi mắt trìu mến và pha lẫn ngưỡng mộ, Ngài xoa dịu:
-          Cô Mary ơi, cô đừng sợ, cô có phúc lắm vì nay những niệm lành của cô khi nghĩ về Chúa và tha nhân đã đến hồi nảy mầm rồi. Cô sẽ mang thai một hài nhi, và cô nhớ đặt tên con trẻ là Jesus nhé. Đứa trẻ này rồi sẽ tuyệt vời lắm, và sẽ được thế gian tán danh như CON CỦA ĐẤNG TỐI CAO, và rồi sẽ ngồi lên ngai vàng còn vĩ đại hơn của David, sẽ trị vì nhà Jacob trong sự yêu thương và sáng suốt đến muôn đời. Vì lẽ ấy, triều đại của con trẻ sẽ trải dài ra vô cùng trên đất này, và sẽ bền vững vô tận với thời gian. Cô hãy hoan hỷ lên nhé.
-          Lạy Chúa lòng lành và thấy biết mọi sự. Con không dám có ý kiến hay chối từ gì trước ý Chúa cả. Nhưng con chỉ mới được hứa hôn thôi, sao lại có thai được. Làm sao con có thể vẹn toàn ý Chúa bằng một thân một mình đây.
Sứ giả của Chúa lại mỉm cười và nói:
-          Này cô ơi, cô an tâm đi. Chúa sáng suốt lắm, Ngài sẽ chu toàn mọi sự cho cô. Rồi đây, thần khí sáng suốt, yêu thương, bình an và định tĩnh của Chúa sẽ tràn đầy trong cô. Cô tin tôi đi, không có gì mà Chúa không làm được đâu. Cô cứ việc giữ tâm trong sạch như từ trước đến giờ vậy và con trai sẽ vì một phần sự thuần khiết ấy mà nên là CON CỦA CHÚA. Cô biết không, người chị bà con xa của cô là bà Elizabeth, bà đã lớn tuổi và hiếm muộn vậy mà vẫn có mang được 6 tháng rồi. Đối với Chúa, không có gì là vượt qua được khả năng của Ngài cả.
Trước những lời ấy, Mary rơi lệ vì hạnh phúc và lạ chưa, cô không còn thấy nghi hoặc, và lo lắng nữa. Đưa tay áo lau những giọt nước mắt trong niềm hoan hỷ, cô thưa với Thiên Sứ rằng:
-          Xin Ngài hãy chuyển lời với Chúa rằng. Tâm con đang rất hạnh phúc. Thứ niềm vui mà trước nay con chưa bao giờ có được. Con thấy những âu lo đã vắng mặt đi rồi. Con hoan hỷ lắm, vì giờ con nhìn đâu cũng chỉ thấy Chúa và sự màu nhiệm của Ngài mà thôi. Con không lo lắng về mọi chuyện của tương lai nữa. Mà giờ con chỉ biết lắng nghe Thánh thần Chúa đang ôm ấp và phủ kín tâm hồn con thôi. Lạy Chúa là Đấng thấy biết mọi sự, soi thấy mọi tâm ý dù là nhỏ nhặt nhất, CON XIN VÂNG THEO Ý NGÀI. Và con hoàn toàn hạnh phúc với lời xin vâng ấy mà không có mảy may gợn bóng của sự bất an nào. Xin Ngài hãy nói với Chúa những lời này, con biết rõ hơn ai hết, là lòng con VÂNG PHỤC Chúa.
Sau khi Thiên Sứ đi rồi. Mary trong tâm hoan hỷ như được soi sáng bởi trí tuệ và thần khí của Chúa, cô thu xếp hành trang và lên đường đi thăm người chị bà con là Elizabeth. Cô khởi hành sớm lắm, và vì hạnh phúc dâng tràn nên con đường từ Nazareth đến xứ Juda không còn xa đối với những bước chân đang reo vui. Cô không thấy sự mệt mỏi vì phải đi nhiều, mà cô cứ ngắm nhìn những cánh đồng lúa mì đang chín vàng đợi tay thợ gặt. Có bầy chim bay sà xuống lạc thỏm giữa những thân lúa. Cô thấy sao mà những đóa hoa dại bên đường lại đẹp đến vô cùng. Thỉnh thoảng cô vẫn ngồi nghỉ dưới những tán cây, nghe chim kêu và ngắm những bông hoa dại. Cô thấy trong sâu thẳm của chúng là quyền năng của Chúa. Và cô nhìn lại chính cô, nhìn ra xung quanh có nơi nào mà không có sự hiện diện của Chúa đâu chứ. Chúa bao la và mênh mông quá. Nước mắt cô cứ trào ra như hồi Thiên thần đến truyền tin, cô đưa tay lên ngực trái ngay nơi tim rồi nhắm mắt lại để trong thinh lặng mới cảm nhận được hết tình yêu của Chúa trong cô và khắp thế gian này. Bất chợt, tay cô xoa xoa lên bụng. Cô mỉm cười trong hạnh phúc, và không còn lo lắng gì về những lề luật, định kiến của xã hội. Chúng chỉ là những ý niệm thôi, trong khi cô đã có Chúa là Đấng thấy biết mọi sự trong tim rồi. Cô khẽ nói:” con ơi, mẹ hân hoan lắm. Con hiểu lòng mẹ mà”. Cứ như thế, những bước chân an lạc đã dẫn người thiếu nữ Mary đến trước cửa nhà của thầy tư tế Zach-a-ri-as vừa lúc trưa. Thầy mở cửa cho cô vào. Cánh cửa vừa mở ra, những tia nắng đã chiếu rọi vào khắp nhà, cô trao cho vợ chồng Elizabeth một nụ cười bình an, rồi hỏi thăm sức khỏe của họ. Và cô chưa cập gì đến chuyện những dấu lạ, vậy mà bà Elizabeth đã cất tiếng ngợi khen:
-          Em ơi, em là người mang Chúa trong mình. Em có phúc hơn biết bao nhiêu người khác. Chị vừa trông thấy em, nghe tiếng em chào mà tim chị đã được bình an, và con trẻ chị đang mang đây cũng như đang nhảy cẫng vì vui sướng. Cảm ơn em đã ghé đến thăm chị, và bình an mà em mang đến tuyệt vời biết dường nào. Điều đó chỉ có được nơi người, mà tất cả tâm ý chỉ hướng về Chúa trong tim mà thôi.
Mary nghe những lời ấy, thì bước đến ôm lấy chị. Và thưa với chị rằng:” Chị cũng có Chúa trong tim đấy thôi, vì chỉ có như vậy, chị mới cất lên được những lời đầy yêu thương và thấu hiểu em tường tận như chính mình vậy”. Khi nói những lời ấy rồi, thì tâm trí của Mary được mở rộng ra hơn nữa, và cô cất tiếng ngợi ca Chúa rằng:
-          Cả tâm hồn con đang run lên vì hạnh phúc, con xin dùng niềm vui này để ngợi ca Chúa. Cả thần trí con và tất cả mọi thứ con nghĩ đến, nhìn thấy, tiếp xúc và nói năng đều vui mừng vì con đã có Chúa nơi con. Thân phận con là thấp hèn, với những đau khổ về ý niệm vui-sướng của thế gian, Chúa ơi, con hạnh phúc lắm, thứ mà sẽ không ai có thể cảm nhận được nếu không thấy Chúa trong lòng và trong vạn pháp. Con biết rồi đây thế gian sẽ ca ngợi con vì con diễm phúc như thế. Nhưng họ có biết đâu rằng, Chúa cũng yêu họ như yêu con. Tình yêu Chúa cho nhân loại này như Đất yêu cỏ cây vậy có phân biệt chi đâu. Chỉ những ai biết quay về với Chúa, mới thấy được Chúa thôi.
Bà Elizabeth nhìn em mà lòng đầy ngưỡng mộ, bà khẽ ngồi xuống giường cho đỡ mỏi vì bào thai đang trở nên nặng dần. Bà và con trẻ đều thấy hạnh phúc khi nghe những lời của Mary nói. Không biết nơi vô thức, hay trong thứ ánh nắng chói chang rọi vào nhà từ phía cánh cửa chưa đóng kín, mà bà thấy gương mặt Mary rạng rỡ vô cùng. Ông Zach-a-ri-as dợm đứng lên để đóng lại cửa, thì bà nắm lấy tay ông ra hiệu hãy khoan, đừng làm Mary bị gián đoạn. Hãy lắng nghe những lời của cô ấy nói, trong tâm hạnh phúc vô ngần:
-          Nếu mình còn những thành quách của tự ngã thì Chúa bằng sức mạnh của Ngài sẽ lấy đi từng viên gạch chấp ngã mà mình vốn tự hào. Nếu mình còn mê đắm vào những quyền lực và danh vọng hư ảo của thế gian thì mình sẽ không tiếp xúc được với Chúa đâu. Chúa sẽ chỉ ở bên những ai khiêm nhường, biết buông bỏ tất cả để lắng nghe Chúa. Anh chị biết không, những người đã thực sự biết buông bỏ hết như thế, mới thấy được dung nhan của Chúa, còn những ai mà đang còn kẹt vào những ý niệm của thế gian sẽ mãi chẳng thể thấy Chúa đâu. Chúa có bao giờ bỏ thành Israel đâu, và bỏ con cái Chúa đâu, tại vì mình quên mất Chúa thôi. Chứ Ngài vẫn yêu mình, vẫn luôn ôm lấy tất cả trong vòng tay từ ái và bao dung. Bời vì, làm sao chúng có thể chạm đến ta khi trong ta là Chúa uy quyền. Anh ơi, chị ơi, chúng ta hãy cất tiếng mà ngợi khen Chúa đi.
Nói xong những lời tràn đầy trí tuệ và yêu thương ấy, Mary đã ở lại với anh chị mình trong suốt 3 tháng ròng. Họ đã dành trọn vẹn thời gian ấy để đi vòng quanh những cánh đồng vào mỗi ban sớm,và họ cũng ngắm nhìn những hạt sương đang lấp lánh trong ánh bình minh trên những mầm non mơn mởn và căng tràn nhựa sống. Mary và hai vợ chồng Elizabeth đã bước những bước rất vững chãi trên con đường trở về với nước Chúa trong tâm thức. Trong ngôi nhà được ban phước ấy, không lúc nào thôi những tiếng cười và ái ngữ. Đến nỗi, những con chim trời vốn sợ hơi người, cũng bay đến làm ổ trên mái nhà. Vì bình an và yêu thương cũng giống như bếp lửa mùa đông, có sức lan tỏa và ủi an.
3 tháng sau khi Mary rời khỏi, thì bà Elizabeth đã mãn nguyệt khai hoa và cho ra đời một con trẻ. Xóm giềng cũng tụ tập đến chúc mừng ông bà, vì giờ đã có mụm con để hủ hỉ lúc về già. Bà nằm trên giường, ôm con trẻ vừa chào đời, nhìn chồng mỉm cười mãn nguyện. Người ta cứ nghĩ ông bà vì vui mừng theo thói thường, chứ đâu biết được ý nghĩa thật của nụ cười ấy.
Cũng trong lúc ấy, thì Mary không thể che giấu sự tăng trưởng của bào thai mãi được. Lúc đầu, cô còn dễ dàng phủ kín bằng những lớp áo dày, nhưng dần dà những tiếng dị nghị bắt đầu vang lên. Những lời ong tiếng ve ấy bay đến tai của Joseph. Chàng vốn là người nhân hậu, nên chàng định sẽ dùng sự im lặng để cho Mary hiểu về sự hủy hôn giữa hai người vì chàng không muốn trách cứ, hay nặng lời gì với Mary cả. Chàng tự nghĩ: “Cô ấy là người rất thánh thiện và trong sáng, nay lại như thế chắc cũng đã có ý trung nhân khác rồi. Ta nên im lặng thôi”
Sự lặng im của Joseph và lời điều tiếng vẫn không làm cho Mary sợ hãi hay đau khổ. Cô vẫn mỉm cười khi bước đi trên phố, cô vẫn thấy cả phố phường và con người rất dễ thương và đáng yêu. Những ánh nhìn soi mói cứ thế mà tăng dần lên, nhưng trong ánh mắt của Mary đâu còn bận tâm gì nữa, cô chỉ thấy Thiên Chúa là Đấng lòng lành đang ở trong vạn pháp mà thôi. Mỗi hôm, cô vẫn lấy bàn tay xoa lên bụng mà thủ thỉ với hài nhi đang lớn dần:” Con ơi, con đừng lo lắng chi hết. Con có mẹ đây, và mẹ con ta có Chúa trong tim. Mẹ tin vào Chúa và mẹ đã thật sự đẫm mình trong hồng ân của Chúa. Mẹ nghe hết và thấy hết những gì ngoài phố, nhưng mẹ đã dâng trọn cho ý Chúa rồi, con ạ. Mọi thứ đều đang diễn ra đúng như cái mà chúng phải là. Chúa sẽ an bày tất cả theo ý của Ngài. Nè con, con chim sâu bé nhỏ ấy nó cứ hạnh phúc mà ca hát dẫu biết rằng tiếng hát ấy sẽ đánh động cho những loài chim ăn thịt đến bắt nó đi, vì nó sanh ra là để bay và để hát. Và mẹ con ta, hay tất cả mọi người cũng thế, chúng ta sanh ra là chỉ để yêu thương, tìm kiếm, và ca ngợi Chúa trong ta và tha nhân thôi. Mẹ yêu con lắm, Jesus của mẹ”
Tuy nghĩ là vậy, nhưng sự im lặng của chàng Joseph lại khiến cho chàng đau khổ lắm, vì đối với chàng thì Mary là người con gái tuyệt vời nhất vì nàng trong sáng và mát mẻ như ánh trăng vào những hôm trời quang mây tạnh. Chàng đã mất ngủ cả mấy đêm liền. Cứ thế, mỗi sáng thì chàng phải đóng giả một gương mặt dửng dưng ra phố, nhưng đêm về, khi chỉ còn ở một mình thôi thì nội tâm lại ray rứt chàng và như thế chàng cứ ra sau vườn mà bày biện đóng thành những những món đồ gỗ thật khéo léo. Bao nhiêu tâm sự, nỗi niềm chàng cứ trút vào chúng. Chàng cũng cứ chờ một vị hôn phu nào đó sẽ đứng ra chính thức đón Mary về nhưng nào có ai đâu. Tất cả im lặng như tờ vậy ngoại trừ kế hoạch những người quá khích. Họ định sẽ chọn một ngày nào đó, bắt Mary ra giữa phố và ném đá cho đến chết.
Chiều nay, chàng mang những món đồ gỗ ra giao cho một cửa hàng trên phố. Mọi việc đã xong thì trời cũng đã hoàng hôn rồi, đường phố vùng Nazareth hôm nay sao vắng vẻ quá. Chợt chàng nghe những tiếng hò reo, nghe những tiếng đá rơi, tiếng la hét, như quán tính, chàng bước vội theo hướng có âm thanh lạ ấy. Và từ xa, chàng đã nhìn thấy những đám bụi mịt mù. Bước chân chàng trở nên nhanh hơn, và huyết quản tự nhiên co thắt lại, trong vô thức chàng biết có một người phụ nữ đang bị ném đá. Đám người ấy đông lắm, có đến độ 20 người đều là những người đàn ông và trai tráng, và giữa họ là một người phụ nữ đang oằn mình trước những viên đá của lòng nhẫn tâm. Bên cạnh có một người lớn tuổi đang cầm luật của Moses, ông này đang đọc lớn luật ấy và nhân danh sự công chính của Chúa cho những viên đá. Phía ngoài là những người khác nữa đang hò reo vì luật công chính đã được thực thi. Joseph đứng giữa họ, lòng chàng lặng đi. Bất chợt, chàng bắt gặp ánh mắt của người phụ nữ ấy đang nhìn chàng. Thứ ánh nhìn không còn chỉ để biểu thị đau đớn, mà đang như ai oán, chua xót cho số phận. Trong ánh mắt, có chứa đựng sự vụng dại của thiếu nữ, sự cam chịu của đàn bà, sự cay đắng tủi nhục của kẻ bị cho là phạm tội. Nó như cứa vào trong tim của chàng trai trẻ, những vết cắt đau buốt và sâu hoắm. Người phụ nữ lịm đi, đất cát xung quanh đã loang đầy những vệt máu người. Những viên đá bị ném đi vơi dần, rồi đám đông cũng bỏ đi trong tiếng cười nói hả hê vì đã giữ cho luật Moses được thuần khiết và công chính. Khi đám đông đã đi khuất, Joseph chạy đến, quỳ bệt trên đất, tay chân chàng trở nên luống cuống quá. Chàng phủi đi những bụi cát trên mặt người phụ nữ, vuốt nhẹ mái tóc bị quện chặt với cát và máu mà mới đây còn óng vàng như màu nắng. Chị không đủ sức để mở cả hai mắt nữa, mà chỉ gượng nhìn người đàn ông xa lạ bằng con mắt bên phải đang khép hờ. Như đây không phải là người mà lòng chị mong đợi, chị nhắm mắt lại và thế là chúng không bao giờ mở ra nữa. Joseph bất lực nhìn người phụ nữ đáng thương chết trên tay mình. Phía trên những bức tường cao, đám chim ăn tử thi đã chực chờ. Joseph dùng tiền có được khi nãy do bán những món đồ gỗ mà thuê một người nọ. Họ cùng nhau mai táng người phụ nữ không quen biết. Kẻ ấy cho chàng biết, sáng mai đây cũng sẽ có một người nữa bị xử theo luật. Mà trong thành này, thì có ai khác ngoài Mary chứ.
Trên đường từ nơi mai táng trở về nhà, thần trí chàng rợn ngộp bởi những hình ảnh ban chiều. Khủng khiếp quá, tàn nhẫn quá. Luật lệ được đặt ra là để khiến người ta sống tốt hơn, an ninh hơn. Chẳng lẽ Đấng Chúa tối cao cũng thấy hạnh phúc như đám đông ấy hay họ đã hiểu sai về ý Ngài? Tại sao nói những đứa trẻ được thụ thai và sanh ra là do ý Chúa, nhưng sao đứa con của người ấy phải chết trong lúc chưa kịp nhìn đời? Nếu Chúa đã cho việc ấy là tội lỗi, dơ bẩn thì sao Ngài lại cho người ấy có mang? Rồi tình thương ở đâu trong những viên đá ấy? Chúng chỉ mang lại máu, nước mắt và chết chóc chứ công chính gì đâu? Bao nhiêu câu hỏi mâu thuẫn giữa nhân tính và luật định cứ như thế bám riết lấy chàng. Chàng biết rằng có thứ gì đó không thỏa đáng trong niềm tin của mọi người về ý Chúa và luật Moses. Nhưng chàng không dám nghĩ xa hơn nữa? Vì chàng biết, nó sẽ dẫn đến việc phủ định tất cả những quan niệm về Đấng Tối Cao có thể chi phối con người thông quan việc phán xét đúng-sai.
Và đêm ấy, trăng sáng lắm, soi rọi thứ ánh sáng mát lành trên thế gian. Joseph nhìn lên bầu trời đêm. Chàng nhìn trăng đang từ từ bị che khuất bởi một đám mây vô tình bay ngang qua và tự dưng trong chàng nảy ra một suy nghĩ mà theo chàng rất là điên cuồng.
“Cái đám mây đó thấy thì có thể che mờ trăng được, nhưng kỳ thực trăng vẫn sáng kia mà. Ta không thể vì đám mây ấy mà ghét bỏ hay ruồng rẫy trăng được. Mây thì có đấy, nhưng trăng vẫn có khi nào thôi sáng đâu chứ. Không được, Joseph à, Mary nàng ấy sáng như trăng vậy, ngươi không thể mất nàng được”.
Chàng vẫn còn miên man suy nghĩ:” Ta dứt khoát không vì những áng mây tâm thường ấy mà cho rằng trăng đã hết sáng được. Ta phải đến hỏi thẳng nàng thôi, và nếu được ta sẽ tha thứ cho nàng, ta sẽ đứng ra nhận đó là tác phẩm của ta và ta… ta sẽ thương yêu nàng”.
Tâm hồn thánh thiện, nhân hậu và tràn đầy sự say đắm của người trẻ ấy đã khiến chàng rời nhà trong đêm. Trên đường đi, bao nhiêu câu hỏi cứ vây lấy chàng như những đám mây từ đâu kéo về như đông hơn, như dầy hơn che lấp lấy ánh trăng, và suy nghĩ của Joseph. Bao nhiêu nghi vấn, câu hỏi được đặt ra, rồi dòng dõi của ta, cha ông ta vốn là tổ phụ Abraham, là vua David họ ở trên thiên đàng đang nhìn ngắm ta, họ sẽ nghĩ gì đây? Ta có đang làm dơ xấu dòng họ không? Ta sẽ đối xử với đứa con hoang như thế nào đây? Mary sẽ nói gì? Như vậy có phải là trái luật của Moses đã giao ước với Chúa không? Chúa có bắt tội ta không? Rồi những bước chân của anh tự nhiên chậm lại, và chúng dường như muốn quay về. Nhưng rồi anh lại nghe lương tâm cất tiếng: “Ngày mai trên phố, họ sẽ ném đá Mary, Mary sẽ chết và con nàng cũng chết. Ta không yêu nàng vì sự gợi cảm của xác thịt, mà thứ tình yêu ấy tim ta biết rõ. Đã bao nhiêu lần ta ngắm nàng trên phố, dẫu đã đính ước với nhau rồi, nhưng ta luôn yêu nàng và kính trọng nàng. Ta yêu sự thanh khiết của nàng như ánh trăng vậy. À, mà không đâu, phải như trăng mới đúng chứ, ánh trăng còn có lúc bị che bởi những đám mây, mà trăng có bao giờ thôi sáng đâu. Mary cũng vậy, những tội lỗi kia có thể làm dơ bẩn thân xác của nàng. Nhưng ta yêu nàng là vì chính nàng mà. Chỉ cần ngắm nàng lòng ta đã thanh thản rồi”. Những bước chân xen lẫn với những ý niệm đưa chàng đến trước nhà Mary tự lúc nào không biết. Chàng đứng đó rất lâu. Tâm trí chàng đang lưỡng lự và cánh đóng im ỉm như muốn xua đuổi chàng. “Ta cứ quay về đi, không ai biết việc ta đến đây đâu. Đừng vướng vào những rắc rối này”. Chợt ánh mắt của cam chịu của người đàn bà trên phố hiện ra giữa tâm can Joseph, đôi mắt đang nài van sự lắng nghe, thấu hiểu, cảm thông và tha thứ.
“Không, ta dứt khoát không thể để điều tệ hại ấy tiếp diễn, Mary phải được sống. Ta không thể ngăn được luật ấy và đám đông trong thành này để cứu tất cả những người phụ nữ lầm lỗi. Và nếu họ có trốn đi thì nơi nào có thể dung chứa khi mà luật Moses là luật chung cho tất cả dân Israel. Nhưng ít ra ta cũng cứu được một người trong số họ. Mary cần và đang đợi ta che chở như người đàn bà ấy đến chết vẫn chờ đợi sự bao dung” Nghĩ vậy, tay anh đưa ra thật dứt khoát và gõ vào cửa nhà cô những tiếng gõ thật trầm ấm.
Mary không giấu nổi sự ngạc nhiên về chuyến viếng thăm kì lạ này, cô mỉm cười với Joseph và mời chàng vào nhà. Trong thứ ánh sáng không rõ mấy của ngọn nến, Joseph thấy Mary vẫn như ngày nào, vẫn đẹp thánh thiện vô ngần. Mà dường như nàng còn đẹp hơn khi xưa nữa, bởi gương mặt ấy ánh lên thứ hạnh phúc của tràn đầy và viên mãn mà kể cả những công chúa hay con cái nhà quyền quý cũng không thể nào sánh bằng. Vẻ đẹp ấy như một cơn mưa đang tưới tẩm lên tâm hồn khô cạn vì đau khổ của Joseph. Và lạ chưa, bao nhiêu suy nghĩ, bao nhiêu luận cứ mà chàng định sẽ hỏi, sẽ nói cứ như biến đâu mất vậy. Chàng cứ nhìn Mary thôi, với chàng đó là đủ lắm rồi.
Cô nhìn chàng mỉm cười rồi cất lời:
-          Chàng ơi, sao lại đến đây vào đêm khuya thế này ?
-          Ta… Ta cũng không biết nữa. Ta chỉ muốn thấy nàng thôi_ Joseph trả lời mà thật sự là chàng cũng có biết tại sao chàng đến đây đâu vì tâm trí đã phủ đầy sự mâu thuẫn.
-          Lúc này, em nghe trên phố họ nói chàng bắt đầu làm nghề mộc, và họ khen rằng những sản phẩm từ đôi tay khéo léo của chàng đã đạt đến độ tinh xảo rất cao.
Joseph nghẹn lời, chàng không thể hiểu nổi vì Mary đủ thông minh để thừa biết kết cuộc đang đợi chờ nàng ngoài kia là những viên đá của người đời. Sao nàng lại có thể bình thản đến vậy, lại còn đủ tâm trí để khen ngợi người khác nữa? Mary trước mặt chàng, tại sao không lo lắng, không mang vẻ mặt rầu rĩ của những người phụ nữ dễ dãi sau khi bị kẻ tình lang ruồng bỏ sau những cuộc vui. Ánh trăng mà chàng hay nhìn ngắm để vơi nỗi nhớ về Mary, giờ đây hình như không thể sáng và an tịnh bằng người con gái đang ngồi diện. Joseph ấp úng:
-          Nàng có biết ngoài phố người ta đang bàn tính gì về nàng không? Nàng không lo lắng à?
Mary khẽ lắc đầu, trên môi vẫn nở nụ cười bình an. Nàng giống như là đang chấp nhận hết mọi sự vậy.
-          Nàng không lo cũng được, nhưng mà ta lo lắm nàng có biết không? Họ đến nhà, hỏi ý xem, ta có muốn tham gia vào đội sẽ ném đá trị tội nàng giữa phố không. Ta không thể để việc đó xảy ra được Mary à. Ta không cho phép mình nhìn thấy nàng trong cảnh tượng ấy. Ta… Ta vẫn còn yêu nàng lắm. Ta định sẽ im lặng mà lìa xa cho nàng được hạnh phúc bên gã ấy. Nhưng giờ đã đến lúc này rồi, ta không thể để sự im lặng của ta giết chết nàng.
Hai bàn tay của Joseph nắm chặt lấy nhau. Giữa đêm khuya mà đôi tay ấy ướt đẫm, và gương mặt của chàng cũng ướt đẫm. Mary khẽ đặt tay mình lên đôi tay của Joseph,” Chàng nói tiếp đi, em đang nghe đây”.
-          Nàng… Nàng lấy ta đi. Ta sẽ đứng ra nhận con trẻ nàng đang mang là kết quả của ta. Ta sẽ đối tốt với nàng như vợ ta, còn với con trẻ ấy như là con của ta vậy. Đó là cách duy nhất, ta có thể cứu nàng khỏi sự phán xét của luật Moses. Ta không cần biết đúng hay sai, mà ta chỉ nghe con tim bảo ta phải đến đây với nàng. Không cần biết, người đó là ai, và nàng đã làm gì, trong mắt Chúa nàng tội lỗi thế nào, tình yêu này không thể để ta đứng yên được. Ta không trách tội nàng như người đời đâu, ta không yêu nàng nơi những ý niệm về nàng mà là chính nàng, Mary à.
Những giọt nước mắt bắt đầu rơi xuống từ khóe mắt của Mary. Cô thấy người đàn ông đối diện mình sao lại bao dung và rộng lớn quá. Anh ta đã dám bước ra những ý niệm về danh dự, về bản chất chiếm hữu thường thấy ở những người đàn ông khác. Và kìa, Joseph giờ đây không phải là Joesph con cháu vua David hay Abraham nữa mà chỉ còn là Joseph thôi. Một Joseph với trái tim mênh mông của tình yêu vô phân biệt. Mary chợt thấy con trẻ trong người, đang run lên vì hạnh phúc. Cô biết, đây người là Chúa đã gửi đến để che chở cho hài nhi. Người đang tin và sống bằng tình yêu vượt khỏi những khái niệm như cô đang tin và sống. Mary nhìn chàng thật lâu, rồi khẽ nói:
-          Chàng có tin nơi chàng và tin nơi em không ?
-          Ta tin chứ Mary. Chính niềm tin ấy đã đã dẫn ta đến đây. Dọc đường, đã bao nhiêu lần ta đứng lại định quay về. Nhưng niềm tin ấy đã xách tấn ta. Ta đã bỏ hết những câu hỏi, những nghi vấn, ngờ vực ở trước cửa rồi. Ta tin nàng và ta ở đây để bảo vệ nàng và con.
Trong nước mắt của hạnh phúc, Mary đã kể cho Joseph nghe những màu nhiệm đã xảy ra. Đêm hôm ấy, sau khi mây đen đã tan đi, trăng sáng vằn vặc. Chỉ có niềm tin nơi trái tim của người đàn ông trẻ ấy vào ánh trăng mới xuyên qua được những áng mây của nghi hoặc và vô minh mà mắt thường không thể thấy. Và chỉ có trái tim đầy bao dung và mạnh mẽ ấy mới đủ sức chở che cho hài nhi.
Sáng hôm sau, khi đám người toan tính bắt Mary đi xử tội, còn đang dọ thám ở xung quanh, thì họ thấy cánh cửa nhà cô mở ra, và Joseph đang nắm tay cô bước đi. Tay anh như đang cầm nắm thứ báu vật duy nhất của đất trời. Và như thế, đám đông đã lặng lẽ bỏ đi…
Lại nói về con trẻ vừa sanh của bà Elizabeth, khi họ mang bé đến làm lễ cắt bì, theo phong tục của đạo Chúa lúc bấy giờ thì bé sẽ được chính thức đặt tên trong lễ ấy. Người ta hỏi bà Elizabeth rằng, bà muốn đặt tên gì cho con trẻ. Bà đáp, hãy gọi bé là John. Những người họ hàng lấy làm thắc mắc và không đồng ý về việc ấy vì tên của con trẻ phải được đặt trùng tên với những người trong gia phả. Và họ bắt đầu lên tiếng phản đối bà. Ông Zach-a-ri-as ra hiệu cho họ im lặng, ông lấy một cành cây và viết lên trên đất: JOHN. Ngay khi viết xong tên ấy thì miệng ông được mở ra và hết lời tôn vinh Chúa. Thế là con trẻ được đặt theo tên ấy. Cả xóm làng chứng kiến sự kỳ lạ, bèn nói với nhau rằng, hãy chờ xem con trẻ ấy vì Chúa ở trong em. Trong những lời chúc tụng Chúa của ông Zach-a-ri-as, có lời rằng:
“ Này con trai ơi, con hãy vui lên
Vì con đã được chọn như là một Ngôn sứ
Con được vinh quang đi trước
Mà dọn đường cho Chúa “
Con trẻ ấy khi lớn lên thì lại ưa thích sự thanh vắng và đạm bạc. Đến khi đủ lớn, thì anh liền rời bỏ nhà cửa, phố thị mà vào nơi hoang địa để lắng nghe tiếng Chúa trong tâm hồn. Anh ta cứ ẩn dật như thế cho đến ngày ra mắt dân xứ Israel.

“Lạy Thầy, con biết là con yêu mến Thầy”

Thomas Cao Hồng Ân
IP IP Logged
cao the
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 15/Jul/2011
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 589
Quote cao the Replybullet Gởi ngày: 11/Feb/2014 lúc 9:40am
câOn 10/02/2014 7:55 PM, "An Cao" <ancao1990@gmail.com> wrote:
người ta nói bánh ích đi thì bánh quy lại.. hihihi... coi hình xong thì gửi tặng dad và mom bài mới,

[ QUÁN VỀ CHÂN-VỌNG ]

“Con cào cào bé xíu
Bay vượt bờ tử sanh
Đậu trên nhành chân-vọng
Trời, rồng trên cánh mỏng
Bỗng hóa bày chân như”


Hôm nay ta lại cùng em ra dạo chơi trên đồng cỏ. Mùa này, trời đã thôi nắng và thỉnh thoảng lại có những cơn mưa phùn lất phất đủ làm ngàn y, nội cỏ ẩm ướt và mát rượi. Em nhẹ nhàng đi giữa những lá cỏ mới đây đã cao quá gối, đẹp thanh thoát như một đóa hoa. Những bước chân của hạnh phúc pha lẫn niềm thích thú, em nắm lấy tay ta, lôi ta vào lại những chuyến đi rong của ngày xưa…
Một hồi, dường như đã mỏi, em rủ ta ngồi bệt trên một thảm cỏ bé xíu, dệt bằng thân của những bông hoa cúc dại. Ta ngồi nhìn trời cao, em thì ngắm hoa. Rồi em reo ngạc nhiên:
- Nhìn kìa, nhìn kìa_em đưa tay chỉ về phía bông hoa. Một con ong đang lấy mật. Trên lá thì có con bọ cánh cam tròn xoe đang nằm im thin thít. Rồi thỉnh thoảng có những loài cào cào, châu chấu bay nhảy qua lại giữa những ngọn cỏ.
Chúng dễ thương và thanh bình quá.
“Em có muốn nghe câu chuyện về chúng không ?”. Ta hỏi khẽ và em gật đầu khi mắt vẫn còn mãi miết ngắm nhìn một cánh bướm vàng nhỏ xíu, đang thơ thẩn bay lượn giữa những bông hoa cúc bé tí cũng vàng ươm.
Những loài côn trùng bé nhỏ ấy thật sự không ở cố định trên đồng cỏ. Khi mùa nắng hạn đến, chúng sẽ bay đi trú vào những khu rừng rất xa trên đồi, nơi đó dưới những tàn cây lớn, thảm cỏ được che chở và vẫn sống lay lất qua những cơn lửa trời. Đồng cỏ sau nhà mình, chỉ là một điểm dừng chân của chúng thôi. Mà thật sự, chúng cũng không có nơi để về, vì cứ di cư đi lang bạt kỳ hồ khắp những cánh đồng, và đồi núi như thế. Mấy ngày trước, khi đồng cỏ khô hạn, thì mình không thể thấy chúng, bởi vì chúng đã đi rồi. Nhưng hôm nay, đủ duyên để cỏ mọc lại, chúng đến để tạm trú ngụ một thời gian, rồi sẽ lại đi tiếp.
Hôm trước, ta đã nói với em về cách quán chiếu vô thường dựa trên duyên nắng mưa tác động vào đồng cỏ. Hôm nay một lần nữa, ta lại mượn hình ảnh những con côn trùng bé nhỏ cũng từ nơi cỏ cây mà nói về một thành quả đầu tiên của của việc quán chiếu về vô thường. Nếu như không có duyên, không có mưa trời tưới tẩm thì đồng cỏ không xanh mát và cũng không gọi được những bầy côn trùng ấy quay về. Thì cũng như vậy, nếu tâm thức của chúng ta không có duyên tưới tẩm bằng những pháp phương tiện chân chánh thì cũng không thể nào nhận diện được những phiền não, kiếp trược và vọng tưởng. Thế nào là những pháp phương tiện chân chánh? Là khi em và chúng sanh lìa được tha lực. Thôi cầu cúng, lễ lạy, van xin. Và thôi chạy rong tìm một vị minh sư để nương nhờ, thì đó là chánh pháp. Tức là em chịu ngồi yên xuống đây giữa đồng cỏ, núi đồi, giữa thế gian đang cuồn cuộn sanh diệt mà đối diện trực tiếp với phiền não của chính em. Em đã thấy gì sau lần ngồi yên ấy?
Em đã thấy vọng tưởng, thấy phiền não đến dày đặc. Ta cũng đã thấy từng đàn cào cào, châu chấu bay đầy đồng cỏ. Cứ ngày nào đồng cỏ còn xanh thì chúng sẽ đến và cư trú. Cứ ngày nào, em còn mang thân tứ đại này thì ngày ấy, em còn thấy phiền não, vọng tưởng. Vậy làm sao em có thể diệt được phiền não đây? Người ta đã nói rất nhiều về cảnh giới thiền, là một cõi vắng bóng của phiền não, của vọng tưởng. Nhưng kỳ thực, họ chỉ đang vẽ vời, hý luận về một trạng thái tâm thức mà họ chưa bao giờ cảm nhận được mà chỉ mượn tạm bợ những kiến thức từ kinh điển của Như Lai. Nên từ lâu, ta đã nói với em, có rất nhiều người tu tập đang lạc trong tưởng. Bởi lẽ, chỉ có tưởng tức là không thực, mới có một cảnh giới không động đậy và gần như tê liệt như thế. Em hãy thử nhìn đóa hoa dại màu tím biếc đang ẩn mình trong góc vườn kia xem. Nó có bao giờ dừng lại sanh diệt đâu. Tất cả vạn pháp này có bao giờ thôi sinh diệt đâu. Thì vọng tưởng, phiền não cũng như thế, có bao giờ dừng lại đâu?
Vì vậy, các pháp môn như thiền, tịnh, mật đều không phải dừng lại ở việc diệt phiền não cho đến sạch trơn như chúng ta và một số người dạy về thiền vẫn lầm tưởng. Tất cả các pháp môn đều như một một chiếc neo ta thả giữa dòng sông, nước thì luôn trôi đi, nhưng nhờ có sự neo đậu ấy mà ta không bị trôi đi. Nó cung cấp cho ta một giây phút đứng lại tạm thời để có thể thấy được dòng chảy. Những pháp môn cũng tặng ta một sát na chánh niệm để nhận thấy phiền não là vô tận, và não phiền thì muôn đời vẫn vậy, vẫn trôi như một dòng sông.
Chính bởi sự trôi đi, không thể nắm bắt ấy, nên ta gọi phiền não có tính chất của vô thường. ta không thể giữ tất cả những loài cào cào, bươm bướm, ong và bọ cánh cam ở lại đồng cỏ mãi được, chúng phải đi nơi khác để thị hiện đúng trách nhiệm của chúng là thị hiện vô thường. Em không thể bắt ai sống mãi được vì vạn pháp sanh ra thì trách nhiệm lớn nhất và quan trọng nhất cũng là thị hiện vô thường. Có một độ, người ta vì niềm tin mê lầm, đã níu kéo Bụt ở lại trong những viên xá lợi, họ không muốn Bụt trở về với tự tánh mà vẫn hy vọng Ngài ở trong những viên be bé, trăng trắng ấy. Đó là một tình cảm rất con người, nhưng ta vẫn không hiểu sao có rất nhiều bậc thượng nhân vẫn chạy theo phong trào sưu tập xá lợi. Cái hạt ấy là minh chứng cho sự có mặt của thân xác Bụt Thích Ca trong quá khứ, nhưng nó không thể diễn tả sự hằng hữu của chư Bụt trong ba đời, nó cũng không có bất cứ giá trị nào về sự giác ngộ. Cho nên, nếu em đã bỏ được sự ham thích về kim cương, hạt xoàn thì khi vào đường tu, em hãy mạnh dạn mà từ bỏ luôn cái viên xá lợi ấy đi.
Bỏ được viên xá lợi, xả được sự ham thích về tượng Bụt từ bi, bàn thờ trang nghiêm, xả được cả lòng ham nương náu nơi các cao tăng thì em mới bắt đầu buông tay ra khỏi chiếc neo đã thả giữa dòng. Từ lúc này, em đi giữa sanh diệt, tắm mình trong phiền não mà bụi sanh tử không thể bám được em, và nước biển ái hà cũng chẳng thể cấu bẩn được em.
Biển thì có bao giờ thôi dậy sóng, trời thì bao giờ mà không có mây bay? Và tâm thức ta thì bao giờ mà thôi có bóng hình của phiền não đâu? Do vậy, như đã nói, sự vắng bặt hết phiền não, vọng tưởng cũng chỉ là ý niệm chấp nhặt về sự không có vọng tưởng mà thôi. Em đã thấy sự sai lạc của những người dạy về thiền mà không biết thiền chưa? Cũng như vậy, niệm Bụt Di Đà thì tiếng niệm cũng chỉ là một vọng tưởng tích cực mà ta dùng nó để thôi bị cuốn trôi theo dòng sông ý thức, nói rằng niệm Bụt để diệt vọng tưởng là một sai lầm vô cùng tai hại của đa số những hành giả theo pháp môn Tịnh Độ, bởi vì không có một pháp nào có thể ở ngoài vô thường. Và chính tiếng niệm Bụt cũng là một vọng tưởng rồi. Từ rất nhiều đám mây vọng tưởng trắng, xám, đen nay đem hòa lại chỉ còn một loại mây là tiếng niệm Bụt, để hành giả dễ quán chiếu, dễ tư duy hơn mà thôi. Ngày hôm nay, ta chỉ dừng lại với em về sự hiện bày đến vô tận của phiền não, vọng tưởng dưới ánh sáng của sự quán chiếu và chúng ta không thể diệt trừ chúng và cũng không có một chánh pháp nào đưa đến một trạng thái diệt sạch được phiền não. Một ngày gần đây, ta sẽ lại nói với em về thực tướng của chúng.
Sau khi đã hiểu về bầy cào cào châu chấu, hiểu về sự có mặt của phiền não, vọng tưởng, ta lại quay về, giở tiếp trang kinh Địa Tạng.

Kinh chép như vầy:
“Khi Bụt Thích Ca đã phát ra những tiếng, và ánh sáng vi diệu như thế rồi, thì các trời, rồng, quỷ thần, dạ xoa ở khắp 10 phương thế giới lần lượt tụ họp về cung trời Đao Lợi”

Giờ em đã hiểu tại sao ta phải dẫn em ra đồng cỏ, chỉ em về những loài côn trùng nhỏ bé và rủ rê em ngồi xuống để ngắm nhìn phiền não đến đi. Trời, rồng, quỷ thần, dạ xoa mà Bụt nhắc đến, có khác gì những phiền não khi em ngồi yên đâu. Từ rất lâu rồi, ta đã hiểu và diễn kinh theo từ ngữ tức là bám lấy văn tự mà giảng dạy. Từ sự ngô nghê đó, mà ta đã vô tình làm thui chột khả năng giác ngộ của ta và chúng sanh. Bụt không giảng dạy về thế giới vô hình để huyễn hoặc và gây hoang mang, thế giới vô hình trong kinh điển Đại Thừa là chỉ để diễn tả về những trạng thái tâm thức, thiền định, hạnh nguyện của hành giả mà thôi, chứ kỳ thực không hề có tồn tại những quỷ, thần, trời rồng như bao đời nay em và chúng sanh vẫn thắp hương quỳ lạy van xin. Ngay đến cả những đại Bồ tát, chư Bụt 10 phương cũng không hề tồn tại dưới một thể tướng vật lý cụ thể nào để rồi từ đó trở thành một đối tượng lắng nghe và thỏa mãn lời cầu xin. Giống như Quán Thế Âm thật không hoàn toàn là hình ảnh của lòng từ bi như người ta vẫn tưởng tượng, Ngài chỉ là một đại diện cho pháp môn Quán Thực Tướng của Âm Thanh mà từ đó thể nhập Như Lai Tạng mà thôi. Thì trong kinh Địa Tạng, vị Đại Bồ tát này cũng không phải là một người phá địa ngục, cứu chúng sanh như em và mọi người nghĩ tưởng mà chính là một pháp môn tu tập. Do vậy, pháp là để hành trì, mà em cứ lấy ra để lẩm nhẩm cầu xin. Như thế có đáng thương lắm không?
Một lần nữa, lời kinh ở trên có thể diễn thành:
Nơi trí tuệ sáng suốt của hành giả quán chiếu vô thường, thì khởi đầu là những phiền não, vọng tưởng được hiện bày rõ rệt và cụ thể đến đi nhiều không kể xiết.
Chúng hình như không thuộc về tâm thức, vọng tâm và chân tâm hình như là hai. Cũng như những con cào cào, châu chấu như không thực sự thuộc về đồng cỏ, chúng chỉ là những kẻ du mục rày đây mai đó. Vậy những phiền não, vọng tưởng đâu phải là em. Chúng đâu có gì đáng sợ đâu? Chúng đến đó, rồi đi như một chuyến rong chơi. Sao ta lại phải đau khổ vì những cái không thực sự thuộc về nơi này? Sao ta lại phải tất bật, lo toan vì những cái đến đi như giấc mộng? Ngay cả cái khổ về thân này, nó thực đau đấy nhưng nó cũng chỉ là một cảm thọ mà thôi. Cảm thọ là một dạng phiền não đến từ cảm giác. Em có thể thấy cái đau, hỷ nộ với cái đau nhưng xin em nhớ rằng, cái đau không phải là em. Ngày hôm nay, ta chỉ dừng lại nơi đây về sự phân biệt vọng tâm và chân tâm. Trời, rồng, quỷ thần trong kinh Địa Tạng là vọng tâm đến đi như cào cào châu chấu, còn chân tâm là cung trời Đao lợi, là cánh đồng em và ta đang ngồi thơ thẩn. Bụt là trí tuệ của hành giả đang thấy biết, quán chiếu tất cả những hiện tượng chuyển biến của tâm. Từ đó, ta biết rằng Bụt Thích Ca trong kinh điển Đại Thừa cũng không hẳn là một nhân vật cụ thể, mà thường là đại diện cho trí tuệ dùng để hiển bày Như Lai Viên Giác Diệu Tâm.
Thấy và hiểu được chân vọng cũng đã là một màu nhiệm giữa thế gian rồi.
Chiều nay trên đồng cỏ, với tiếng tách lách, loẹt xoẹt phát ra từ những đôi cánh xanh biếc be bé của những con cào cào, ta đã vẽ vời cho em cả một tạng pháp khởi đầu của Như Lai, đó là lý về chân tâm và vọng tâm. Lý ấy đã được dùng để thành lập nên một dòng thiền khá nổi tiếng là “biết vọng liền buông”. Phương pháp ấy giúp hành giả nhận ra được bản chất thực của chân tâm, xa lìa những phiền não, ái dục, cám dỗ, sống trọn vẹn và an lạc với chân tâm hằng hữu. Nhưng đó chỉ mới là cánh cửa để thể nhập Bất Nhị Pháp Môn mà thôi, chứ chưa phải là pháp tối thượng của Như Lai, bởi vì còn chỗ phân biệt chân và vọng. Một lần nữa, ta phải nhấn mạnh rằng, kinh Địa Tạng không phải để tụng ma chay rồi người âm người dương hưởng phước như bao đời nay em và chúng sanh vẫn lầm tưởng. Kinh cũng không phải để giảng nói cho người mới vào đạo. Vì lẽ đó, Kinh được hiển bày ở cõi trời, tức là dành cho những bậc thượng nhân đã giác ngộ được lẽ vô thường của vạn pháp, và hôm nay là lìa được vọng tâm và thường trụ nơi chân tâm.
Người ta hay nói, Phật pháp vô biên. Nó không có nghĩa là chúng ta không thể hiểu hết Phật pháp, mà chính là phiền não, nghiệp chướng vô tận thì cũng sẽ có được sự vô tận của Phật pháp vậy.
Mặt trời đã mấp mé bên kia dãy núi phía xa. Trời đã về chiều. Ta nắm lấy tay em lững thững quay về. Ngày mai, trong ánh sáng bình, ta sẽ nói với em về nét đẹp của phiền não và vọng tâm…
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Bụt
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ tát
Nam Mô Shantideva Bồ tát
Nguyện những điều con viết từ nơi Tự tánh đều làm lợi lạc chúng hữu tình
Cao Hồng Ân

On Mon, Feb 10, 2014 at 12:46 PM, caothe caothe <caothe@hotmail.com> wrote:
----------------------------------------------------------------------
Con trai yêu !
Mỗi bước chân đầu đời của Thái Tử Tất Đạt Đa nở một đóa sen
Lời người dạy chỉ duy nhất một con đường đưa đến giác ngộ gồm 8 bước đi cho người phật tử chân chánh
-     Chánh Kiến
-     Chánh Tư Duy
Ba mẹ rất mừng con trai bước được bước thứ nhì trên con đường Phật dạy
Cám ơn con bài viết đầy hoa cỏ, cào cào, chuồn chuồn, bọ xít và bướm của con

Cao Thệ


Sent from my Windows Phone


Chỉnh sửa lại bởi cao the - 11/Feb/2014 lúc 11:14am
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 14 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.221 seconds.