![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Chúc Mừng - Chia Buồn - Cảm Tạ | |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
Người gởi | Nội dung |
lo cong
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 30/Oct/2007 Đến từ: Canada Thành viên: OffLine Số bài: 2596 |
![]() ![]() ![]() Gởi ngày: 29/Mar/2013 lúc 12:45pm |
Thân chúc
tất cả mọi người
lễ Phục Sinh 2013
vui tươi
![]() Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 29/Mar/2013 lúc 12:46pm |
|
Lộ Công Mười Lăm
|
|
![]() |
|
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() Lễ Phục sinh có nguồn gốc trong lễ Vượt qua Do thái giáo. Người Kitô hữu nhận ra qua cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu hoàn thành những gì biến cố Xuất Hành biểu hiện trước: giải phóng con người khỏi sự dữ và đưa họ vào cuộc sống do Thiên Chúa trao ban. Lễ mừng Chúa Giêsu sống lại được cử hành vào mỗi ngày Chúa nhật. Kinh thánh Tân ước không có đoạn nào nói về lễ Phục sinh của Kitô giáo. Điều này chỉ xuất hiện vào thế kỷ thứ hai công nguyên. Các Giáo hội Đông phương thuộc miền Tiểu Á như Êphêxô, Smyrne... (từ chuyên môn Latinh gọi nhóm này là Quartodecimans = thứ 14) theo sát với truyền thống Do thái giáo, và họ mừng lễ Phục sinh theo ngày 14 tháng Nisan, cho dù ngày này rơi vào một ngày trong tuần chứ không bắt buộc phải là ngày Chúa nhật. Họ tưởng niệm ngày Đức Giêsu chịu chết. Ngược lại Giáo hội Tây phương tại Rome, bên Palestine, Ai cập, Hy Lạp và xứ Gaule (Pháp) lại mừng lễ Phục sinh vào ngày Chúa nhật vì Chúa Jesus sống lại ngày Chúa nhật. Ngày Chúa nhật này có thể rơi vào ngày 14 Nisan của Do thái, hay là Chúa nhật kế tiếp nếu như ngày 14 Nisan không là một ngày Chúa nhật. Cuộc tranh cãi về việc mừng lễ Phục sinh chứng giám việc cử hành phụng vụ đa dạng tại các vùng khác nhau và nêu lên sự hiểu biết khác biệt về lễ Phục sinh. Khi mừng lễ Phục sinh vào ngày 14 Nisan, các giáo hội Đông phương cũng mừng mầu nhiệm Đức Jesus chết và sống lại, nhưng họ đánh dấu trọng tâm vào cái chết của Người, trong khi đó bên Tây Phương nhấn mạnh vào sự sống lại. Cuộc tranh luận suýt gây ra đổ vỡ giữa hai bên. Vào năm 192, ĐGH Victor quyết định dứt phép thông công các Giáo Hội miền Tiểu Á. Thánh Irênê can thiệp ôn hoà và Đức Giáo hoàng rút lại vạ tuyệt thông. Tại Công đồng Nicêa năm 325 do hoàng đế Constantin triệu tập, các Giáo hội Kitô giáo đồng ý tách biệt lễ Vượt qua Do thái giáo và lễ Phục sinh Kitô giáo. Các nghị phụ chấp thuận mừng lễ Phục sinh vào ngày Chúa nhật tiếp theo tuần trăng tròn (14 Nisan) sau ngày Phân xuân. (Nguồn : Bách khoa toàn thư mở Wikipedia http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%85_Ph%E1%BB%A5c_Sinh ) Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 29/Mar/2013 lúc 9:18pm |
|
mk
|
|
![]() |
|
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
Trích trong bài viết "PHIM BEN-HUR" (Tác giả : Người-Lính-Già Oregon) MK ______________ PHIM BEN-HUR (người lính già oregon)
Tôi xem phim Ben-Hur lần đầu tại Sài Gòn, rạp Rex,
vào đầu thập niên 60, nhưng không nhớ hết chi tiết. Năm 1984, đến trại tỵ nạn
Bataan, Philippines, đúng mùa Phục sinh, tôi được xem nó lại tại nhà một anh
Phi nhân công của trại, chuyên tổ chức chiếu phim chui cuối tuần (đủ loại, thượng vàng
hạ cám, kể cả con heo), có bán vé cho dân tỵ nạn ghiền xi nê. Rồi đến Mỹ, từ
1985 cho đến bây giờ, theo truyền thống người Công giáo Mỹ, không năm nào vào dịp
lễ Phục Sinh mà tôi quên mang ra cái video
tape, băng nhão, cũ mèm, đã mua tại một tiệm Goodwill, lau bụi sạch sẽ,
và mở xem lại. Không biết chán. Thấy chuyện vẫn mới như ngày nào.
Chiều nay, Thứ Năm Tuần Thánh, vào
Wal Mart mua sữa và phó-mát, đi ngang qua những kệ DVD mới và cũ, từ 9.99 đến
34.99 đồng, tôi thấy có cuốn Ben-Hur
với giá hạ, bèn khuân về liền, và buổi tối đã bỏ hơn hai tiếng để xem nó, bên
ly cognac và dĩa olive chính hiệu miền Địa Trung Hải. DVD gồm hai disc, hình ảnh rõ nét, âm thanh trong trẻo, không đứng ngang xương,
hoặc thỉnh thoảng chìm trong màn tối, vì DVD còn mới tinh. Tôi chọn spoken language French (chỉ DVD mới có),
để có dịp trở về với những kỷ niệm Sài Gòn, Paris, Grenoble năm xưa... nay đã xa vời, và để chắc chắn không nghe sót hoặc hiểu
sai câu nói nào.
Phim của hãng Metro-Goldwyn-Mayer
do William Wyler đạo diễn, 1959, với các tài tử gạo cội Hollywood Charlton
Heston, Jack Hawkins, Stephen Boyd v.v... Được lãnh 11 giải Oscar, một kỷ lục. Nội dung dựa trên quyển tiểu thuyết Ben-Hur, the tale of the Christ của Lew
Wallace (1880). Sách dày, 488 trang, với lời văn mộc mạc, đều đều một giọng (monotone),
kể lể dông dài, không mấy hấp dẫn, khác hẳn với phim. Sau đây, tôi xin phép được giới
thiệu DVD Ben-Hur
cùng quý bạn nào chưa xem.
1. Chuyện phim kể rằng Ben-Hur, thuộc dòng dõi
quý tộc của xứ Judée (miền Cực Nam Palestine dưới thời Rome chiếm đóng, nay thuộc
Nam Do Thái và Tây Nam Jordan, và vào năm Chúa Giêsu ra đời là một vương quốc cai
trị bởi Hérode), có người bạn La Mã, tên Messala, chơi thân với nhau từ lúc năm tuổi.
Phim mở ra với cảnh diễn binh hùng tráng, năm 36 sau Thiên Chúa, tức cách đây
hai ngàn năm, dưới thời hoàng đế Tibère, của đoàn quân La Mã áo đỏ tiến vào Judée
dưới quyền chỉ huy của Messala cưỡi ngựa oai phong, nay lên chức “tribun” (“võ chấp chính quan”, phụ tá
cho viên “thái thú”, hoặc “tổng trấn”, procurateur,
lúc ấy là Gratus, chưa phải Ponce Pilate –tức Phi La Tô trong sách kinh tiếng
Việt, người sẽ xử án Chúa Giêsu sau này). Ben-Hur, còn gọi là Juda, và viên tribun Messala gặp lại nhau, hai lần, tại
dinh thự của anh ta, và trong bữa ăn tối tại nhà Ben-Hur có mẹ, Miriam, và em gái,
Tirzah, của chàng. Nỗi vui mừng, ít ra đối với Ben-Hur, sẽ trọn vẹn nếu Messala không
đề nghị, dụ dỗ, rồi hăm dọa, chàng theo đế quốc La Mã, làm “ăng ten” tố cáo những
kháng chiến quân Judée, phản bội dân tộc mình. Chàng nhất quyết từ chối.
Messala hầm hầm bỏ đi, không thèm ăn uống. Tình bạn đổ vỡ. Trong sách, không kể cảnh
đấu khẩu này.
Vài
ngày sau, có lễ diễn binh mừng viên tân tổng trấn Gratus nhậm chức. Đoàn quân đi
qua những đường phố chật hẹp, ngang nhà Ben-Hur. Ben-Hur, mẹ, và em gái lên sân
thượng xem. Tirzah tì tay vào mái hiên đã cũ mục và vài viên ngói từ trên cao rơi
xuống trúng đầu của Gratus khiến ông ngả ngựa, nhưng không chết. Mặc dù biết rõ
ràng đó chỉ là một tai nạn, và Ben-Hur nhận hoàn toàn trách nhiệm và xin tha mẹ
và em, Messala vẫn lạnh lùng tuốt gươm, sai lính bắt cả ba người. Một cách trừng phạt Ben-Hur đã từ chối cộng tác. Hai người đàn
bà bị giam vào ngục tối, Juda Ben-Hur bị tống đi làm tù nhân chèo các thuyền
chiến La Mã (galérien). Trên đường di chuyển, đoàn tù khát nước được dân làng cho
uống, trừ Ben-Hur bị lệnh cấm. Chúa Giêsu, lúc ấy còn ẩn dật dưới danh nghĩa con
của ông thợ mộc Giuse và bà Maria, đem nước cho chàng uống, nhưng bị lính canh
hất gáo xuống đất, đuổi đi.
Trên một chiến thuyền, viên “consul”(tổng tài, một trong những người
quyền thế nhất tại Rome, chỉ sau hoàng đế) chỉ huy trưởng chiến hạm La Mã, tên Quintus
Arrius, để ý Ben-Hur, vì ánh mắt đặc biệt và sự đề phòng và phản ứng nhanh nhẹn
của chàng (khi ông bất ngờ quật roi vào tấm lưng trần của chàng). Ông nói với
chàng: “Tôi thấy trong mắt anh rực lên một sự căm thù. Tốt lắm! Sự căm thù cho người ta sức mạnh,
để sống còn.” Trong sách của Wallace không có đoạn kể và câu nói bất hủ
này.
Chiến hạm La Mã đụng độ với “tàu lạ” thù
nghịch, một số chiến thuyền La Mã bị cháy và Arrius bị đẩy rơi xuống biển. Tù nhân
Ben-Hur, đang chiến đấu rất dũng cảm, thấy được, bèn nhảy theo, cứu ông, đặt nằm
trên một chiếc bè, và mấy lần ngăn ông tự tử. Sáng hôm sau, tàu La Mã đi tìm ông,
và báo tin thắng trận. Cùng với Ben-Hur trong xe tứ mã trở về Rome, Arrius được dân chúng tiếp đón trọng thể và hoàng đế
Tibère trao vòng hoa chiến thắng. Ông nhận Ben-Hur làm con nuôi, thay cho người
con trai đã chết của ông, trong một bữa tiệc mừng long trọng. Từ đó, Ben-Hur đeo
chiếc nhẫn mấy đời của dòng họ Arrius được ông trao tặng.
Hận thù canh cánh bên lòng, Ben-Hur xin
cha nuôi cho rời Rome
về quê hương. Tại đây, qua trung gian của Balthazar,
một trong ba vị đạo sĩ đã theo ngôi sao dẫn đường đi tìm Chúa Giêsu vừa
sinh ra để thờ lạy Ngài, chàng gặp một người Ả-Rập, tên Sheik Ilderim,
chuyên nuôi
ngựa đua và tổ chức đua xe ngựa tại các đấu trường (arène). Ben-Hur nhận
đua, đại
diện cho Judée, sau khi được biết Messala sẽ đua dưới lá cờ của Rome
trong cuộc thi sắp tới. Nhưng trước hết, chàng phải
trở về mái nhà xưa, gặp người yêu Esther, con gái của một nô lệ già, đã
được chàng
trả tự do và mặc nhiên làm quản gia khi ba mẹ con bị bắt. Ben-Hur và
Esther vui
mừng khôn siết, ôm hôn nhau, kể lể khúc nôi. Chàng hỏi nàng tin tức về
mẹ và
em. Muốn chàng quên việc trả thù, và sợ chàng bị Messala hãm hại nữa,
nàng nói
rằng hai người đã chết trong tù rồi. Chàng không tin, và trong tư cách
con nuôi của
tổng tài Arrius chàng đến dinh Messala để gặp tra hỏi và anh này trả lời
“không biết”,
khiến chàng tức giận, buộc anh ta phải tìm cho bằng được mẹ và em chàng.
Lo sợ,
Messala sai lính đi kiếm hai mẹ con –bị lãng quên năm năm trong căn hầm
dưới đáy ngục thất. Hai người mắc bệnh cùi, được thả ra, nhưng bị chỉ
định sống trong
Thung Lũng Người Cùi (Vallée des Lépreux) xa thành phố. Nhưng lúc ấy
Ben-Hur không
biết gì hết.
Chàng
đến gặp tổng trấn Pilate, vốn là bạn
của cha nuôi Arrius mà chàng đã gặp tại Rome trong bữa liên hoan mừng
chiến thắng, để hỏi về số phận của mẹ và em, và một lúc nào đó chàng đã
kịch liệt lên án
chính sách đô hộ hà khắc của Rome đối với dân chàng. Gay cấn đến độ
chàng cởi
nhẫn nhờ Pilate gửi lại cho cha nuôi.
Cuộc đua xe ngựa được diễn ra một cách
“hoành tráng” (mượn đỡ chữ Việt Cộng) dưới sự chủ tọa của Ponce Pilate, và đây
là một cảnh đoạn, theo thiển ý, hấp dẫn nhất của cuốn phim. Tại đấu trường
không có luật, nghĩa là ai cũng có thể xài luật rừng thoải mái. Hai bánh xe của
Messala, vì vậy, được gắn hai mũi khoan bằng sắt to tướng, khi kè sát với bánh xe
đối thủ đã cưa gọn trục gỗ và, dĩ nhiên, xe đổ và người rơi, bị thương nặng.
Bánh xe của Ben-Hur cũng bị cưa, chàng bị tụt xuống, nhưng may với nắm được thành
xe trồi lên lại. Và Messala liên tiếp dùng roi quật mạnh vào tay Ben-Hur, cuối
cùng chàng bắt được roi, kéo mạnh khiến anh ta mất thăng bằng, lọt xuống đường, và
bị những ngựa và xe sau cán lên, mình mẩy, mặt mũi đầm đìa máu. Ben-Hur toàn thắng,
được Pilate trao vòng nguyệt quế và dân chúng Judée
hoan hô nhiệt liệt.
Sau đó, Ben-Hur đến trạm cứu thương, gặp
Messala, chỉ để hỏi một câu: “Où sont-elles? (Mẹ và em tôi ở đâu?)”. Trước khi
thở hắt ra chết, Messala cho biết họ đang ở Thung Lũng Người Cùi.
Hôm sau, theo lời Messala, chàng đến
thung lũng, và bất ngờ bắt gặp Esther đang mang lương thực tiếp tế cho họ. Nàng
đứng xa, đặt rổ lương thực xuống đất và hai mẹ con lầm lũi bước ra lấy. Còn chàng giấu
mình sau phiến đá. Khi nghe mẹ hỏi Esther: “Juda có khoẻ không con?”, chàng khóc
nấc lên, trong lặng lẽ. Rồi, tức giận, chàng vặn hỏi Esther, tại sao nàng nói dối
với chàng. Nàng trả lời, đó là ý muốn của mẹ, không muốn chàng thấy thân xác ghê
tởm của bà và Tirzha bây giờ, để chàng luôn nghĩ về họ trong dung nhan yêu kiều
ngày xưa. Và sau đó, chàng miễn cưỡng theo Esther lên núi nghe Chúa Giêsu giảng
bài Tám Mối Phúc Thật. Nhưng chưa bị thuyết phục. Thù nhà đã trả xong phần nào
với cái chết của Messala, phần nào vì mẹ và em đang mang bịnh cùi do tội ác của Messala, nhưng còn nợ nước,
tức giải phóng quê hương và nỗi hờn vong quốc, làm sao có thể quên?
Qua hôm sau, chàng cùng đi với Esther đến
thung lũng, nhưng chưa dám gặp mẹ -còn đứng xa, như thường lệ, phủ kín dưới lớp
quần áo và khăn che. Chàng nghe tiếng mẹ nói với Esther rằng Tirzha đang đau nặng,
sắp chết. Lúc bấy giờ, chàng thấy Esther, như thúc đẩy bởi một phép nhiệm mầu nào làm nàng không còn sợ lây bệnh, tiến đến
ôm bà, và chàng cũng xuất hiện, đối diện mẹ sau năm năm trời cách biệt, vuốt ve
và hôn má bà. Sau đó, và đoạn này rất cảm động, chàng đi khắp hang, lùng tìm Tirzha,
bế em vào lòng, và cả bốn bước ra khỏi thung lũng, hướng về thành phố Jérusalem.
Đúng lúc Pilate đang xử Chúa Giêsu. Ngài
bị án tử hình, phải vác thập giá ra pháp trường. Người đi xem đông như kiến, và
lính La Mã giữ trật tự, hung dữ, cản không cho ai đến gần Ngài. Khi Ngài ngả lần
thứ ba, Ben-Hur nhìn thấy mặt Ngài, và nhận ra Ngài chính là người đã cho chàng
uống nước trên đường đi đày năm xưa. Chàng bèn múc nước ở giếng gần đó, mang
đến, kề gáo vào miệng Ngài. Một tên lính đá đổ gáo nước, chàng chống cự, và cuối
cùng bị xô ra ngoài.
Chúa Cứu Thế bị đóng đinh trên thập giá.
Khi Ngài chết, mưa gió, sấm sét nổi lên, những tia chớp sáng lòa giữa bầu trời
bỗng nhiên tối tăm. Esther đã dẫn hai mẹ con ra trú mưa trong một cái hang trước
đó. Tại đây, Chúa đã làm phép lạ: mặt mày, da dẻ của hai mẹ con bỗng trơn tru,
mịn màng trở lại. Chúa đã chữa họ khỏi bệnh cùi. Những chi tiết này không có
trong sách của Wallace.
Chúa chết, Ben-Hur trở về nhà.
Nói với Esther chờ đón chàng: “Em biết đó, lòng anh luôn sôi sục hận thù, nhưng
khi anh nhìn mặt Ngài, anh thấy cây kiếm rơi khỏi tay anh (l'épée est tombée de ma main).”
Esther vui sướng,
ngả vào lòng chàng, biết lòng chàng được thấm nhuần ơn Chúa, quên hết
hận thù. Mẹ và em đứng chờ chàng ở đầu cầu thang, tươi cười, xinh đẹp,
và không cần ai nói, chàng hiểu hết mọi việc. Chàng ôm hôn ba người đàn
bà trong cùng một vòng tay.
Và phim kết thúc với hình bóng mờ nhạt, như một biểu tượng, tôi nghĩ là của Ben-Hur trong bộ quần áo mục đồng băng lướt trên một thửa ruộng. Một kết thúc có hậu. Trong một thoáng mơ nào, tôi
nghĩ đến Truyện Kiều, với một không
gian khác, một bối cảnh khác, một triết lý khác. Cả hai tác phẩm đều làm tôi say mê.
....... ....... người lính già oregon Portland, Thứ Sáu Tuần Thánh
2013/3/29
|
|
mk
|
|
![]() |
|
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |