![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Thơ Văn | |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
Trang of 2 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | ||||
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 16/Jan/2008 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 1332 |
![]() ![]() ![]() Gởi ngày: 20/May/2008 lúc 7:34am |
||||
hoangngochung@ymail.com
|
|||||
![]() |
|||||
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 16/Jan/2008 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 1332 |
![]() ![]() ![]() |
||||
|
|||||
hoangngochung@ymail.com
|
|||||
![]() |
|||||
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 16/Jan/2008 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 1332 |
![]() ![]() ![]() |
||||
|
|||||
hoangngochung@ymail.com
|
|||||
![]() |
|||||
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 16/Jan/2008 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 1332 |
![]() ![]() ![]() |
||||
|
|||||
hoangngochung@ymail.com
|
|||||
![]() |
|||||
gcvn95
Groupie ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jun/2007 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 60 |
![]() ![]() ![]() |
||||
Sẳn có bài đọc và có hình minh họa cũng nên có Nhạc, Bài hát Tình Cầm do nữ danh ca Thái Thanh trình bài :
|
|||||
![]() |
|||||
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
||||
TÌNH CẦM
Nhạc : Phạm Duy
Lời : thơ Hoàng Cầm (Nếu anh còn trẻ)
Trình bày : Ca sĩ Đinh Ngọc
Lời bài nhạc :
Nếu anh còn trẻ như năm cũ... Có mây bàng bạc gây thương nhớ
Có ánh trăng vàng soi giấc mơ... Có anh ngồi lại so phím cũ Mong chờ em hát khúc xuân xưa!!! Nhưng thuyền em buộc trên sông hận... Anh chẳng quay về với trúc tơ! Ngày tháng tỳ bà vương ánh nguyệt Mộng héo bên song vẫn đợi chờ! Nếu có ngày nào em quay gót Lui về thăm lại bến thu xa... Thì đôi mái tóc không còn xanh nữa... Mây bạc trăng vàng vẫn thướt tha” Lời bài thơ :
Nếu anh còn trẻ như năm ấy
Quyết đón em về sống với anh Những khoảng chiều buồn phơ phất lại Anh đàn em hát níu xuân xanh Nhưng thuyền em buộc sai duyên phận Anh lụy đời quên bến khói sương Năm tháng… năm cung mờ cách biệt Bao giờ em hết nợ Tầm dương? Nếu có ngày mai anh trở gót Quay về lãng đãng bến sông xa Thì em còn đấy hay đâu mất? Cuối xóm buồn teo một tiếng gà…
Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 22/Aug/2010 lúc 8:24pm |
|||||
mk
|
|||||
![]() |
|||||
trankimbau
Moderator Group ![]() Tham gia ngày: 02/Jun/2007 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 424 |
![]() ![]() ![]() |
||||
"...Ai biết mẹ buồn vui khi mẹ kêu cậu tới gần, biểu cậu ngồi, mẹ nhổ tóc sâu, hai chị em tóc bạc như nhau..."
|
|||||
kb
|
|||||
![]() |
|||||
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
||||
vào năm 2007, mk gửi lên <K7Forum> bài nhạc "Tình Cầm" (Phạm Duy) và bài thơ "Nếu anh còn trẻ" (Hoàng Cầm).
Anh Phạm Văn Bân, một người bạn cùng lớp với mk , khi đọc câu "Bao giờ em hết nợ Tầm Dương" trong bài thơ , cảm hứng viết bài "Khảo cứu về trường thi Tỳ Bà Hành" cùng gửi lên K7Forum . Giải thích thêm điển tích Bến Tầm Dương . Bài viết công phu và khá dài , mk xin mời các anh chị và các bạn yêu thích thể loại văn học này dành chút thời gian thưởng lãm . Trân trọng, mk * Không biết sao lần nầy phần Hán Tự không hiện được !?
Khả o cứu về trường thi Tỳ Bà Hành(Phạ m Văn Bân )![]() Bạch Cư Dị
1.Tổng quát:
Cùng v ới các thi nhân trước và sau thời của mình, Bạch Cư Dị 1 , một nhà thơ nổi tiếng đời nhà Đường bên Trung quốc, đã đặt nền tảng nghệ thuật, phong cđến ngày nay.Vào th ời của ông, triều Đường bị suy tàn do hai vụ loạn An-Sử (An Lộc Sơn và Sử Tư Minh 755-763), dân chúng phải gánh chịu nhiều tai họa thê thảm, đời sống vô cùng cực khổ vì sưu cao thuế nặng, quan lại tham nhũng, hoạn quan sách nhiễu; do đó hậu quả là sau khi Bạch Cư Dị qua đời, hai vụ nổi loạn lớn khác xảy ra (Vương Tiên Chi năm 874 và HSào năm 875). Lẽ tất nhiên Bạch Cư Dị không thể không mtả thảm kịch xã hội qua thi ca.Thi ca là m ột sản phẩm mang tính chất tình cảm do con người xúc cảm một cái gì đó mà viết ra. Bạch Cư Dị nói, "Con người có cảm xúc trước sự việc thì tất nhiên tình cảm sẽ bị kích động, rồi sau đó mới cảm hứng hoặc cảm thán phát ra lời ngâm vịnh mà hình thành thi ca." 2 Xuất phát từ tư tưởng thực tế, cận nhân tình như vậy nên thơ của Bạch Cư Dị luôn luôn tả chân, lời lẽ bình dị nhưng ý tứ rất sâu:"Tác ph ẩm của họ Bạch rất nhiều, viết đủ các thể cách: thi, ca, hành. Thơ văn ông lời lẽ phong cách bao giờ cũng thắm thiết, bình dị, mạnh mẽ nên có một sức truyền cảm rất sâu xa trong tâm hồn người đọc. 3![]() Bạch Cư Dị (772-846)
--------------------------------
1 Chương Bồi Hoàn và Lê Ngọc Minh, Văn học sử Trung quốc, NXB. Phụ Nữ, 2000, pp. 306-328. Tóm lược: "Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) tự là Lạc Thiên 樂天, hiệu: Hương Sơn cư sĩ 香山居士 và Túy ngâm tiên sinh 醉吟先生, thụy: Văn 文 nên còn gọi là Bạch Văn Công 白文公. Ông sinh tại Hạ Quê (nay là Vị Nam, Thiểm Tây). Năm 800, ông thi đậu Tiến Sĩ, giữ nhiều chức quan to nhưng năm 816, ông bị biếm làm Tư Mã ở quận Cửu Giang; các thăng trầm trong đời ông xảy ra vào thời vua Hiến Tông (憲宗 806-820), niên hiệu Nguyên Hòa 元和." Thể thơ Đường luật (luật thi 律詩: ngũ ngôn bát cú, thất ngôn bát cú) là tinh hoa của nền văn hóa thi ca Trung quốc. Trong gần 300 năm đời nhà Đường (618-907) có rất nhiều thi nhân nổi tiếng như: Lý Bạch 李白 (701-762), Đỗ Phủ 杜甫 (712-770), Đỗ Mục 杜牧, Mạnh Hạo Nhiên 孟浩然, Vương Duy 王維, Bạch Cư Dị 白居易, Lý Thương Ẩn 李商隱, Nguyên Thận 元稹, v.v. sau này, hàng ngàn bài thơ Đường đã được nhà Thanh thu tập vào cuốn Toàn Đường Thi 全唐詩. 2 Chương Bồi Hoàn và Lê Ngọc Minh, Văn học sử Trung quốc, NXB. Phụ Nữ, 2000, pp. 308-309 3 Phạm Văn Diêu, Việt Nam Văn Học Giảng Bình, NXB. Hoành Sơn, 1969, p. 230 4 Nhạc phủ là tên của một cơ quan lo về ca nhạc tế lễ do Hán Vũ Đế lập. Cơ quan này có trách nhiệm thu thập thi ca lưu truyền trong dân chúng, do đó sau này, dân ca cũng gọi là nhạc phủ. Bạch Cư Di là một trong các nhà tiền phong chủ xướng một phong cách mới trong nhạc phủ, gọi là phong trào tân nhạc phủ - tương tự như phong trào thơ mới của Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ XX. 5 Kỳ từ chất nhi kinh, dục kiến chi giả dị dụ dã; kỳ ngôn trực nhi thiết, dục văn chi giả thâm giới dã. ---------------------------------------------------------
Các tác phẩm của Bạch Cư Dị có thể chia thành ba loại như sau:
-Loại phúng dụ, tức là dùng lời lẽ khéo léo để khuyên giải: Trong lời tựa về Tân Nhạc Phủ 4, Bạch Cư Dị viết, "Muốn đạt mục đích phúng dụ thì về mặt văn tự phải cố gắng viết cho đơn giản dễ hiểu, nói thẳng vấn đề, chứ không dùng cách hàm súc ẩn dụ, khó hiểu." 5 Thí dụ như các bài: Ông già Đỗ Lăng, Thuế nặng, Ông bán than, Ông què tay ở Tân Phong, Mua hoa (Đỗ Lăng tẩu, Trọng phú, Mại than ông, Tân Phong chiết tí ông, Mãi hoa), v.v. Trong bài Ông già Đỗ Lăng viên Trưởng Lại dù biết bá tánh đang bị thiên tai hủy hoại nông sản nhưng vẫn cứ "cấp liễm bạo trưng cầu khảo khóa (thu gấp, thu ngang bao thuế khóa), dồn dân vào chỗ phải bán ruộng để nộp thuế, Bạch Cư Dị phẫn nộ viết: Bác ngã thân th ượng bạchĐ oạt ngã khẩu trung túcNg ược nhân hại vật tức sài langHà t ất câu trão cự nha thực nhân nhục!Nghĩa: Lột áo ta đang mặc, Giật bắp ta đang ăn. Hại người hại vật ấy sài lang Hà tất giương móng nhe răng ăn thịt người! -Loại nhàn thích: Năm 816 ông bị trích đi làm Tư Mã Cửu Giang. Ông viết thư gửi cho bạn Dương Ngu Khanh: "Nay tạm sống yên theo số mệnh, tiêu khiển với tháng năm. Có thể sau khi thôi giữ chức sẽ được tự do để sống hòa mình với giang hồ, từ đó sẽ đi khắp nơi." Đây là khoảng thời gian mà ông thiên về Thiền và đạo Phật, sáng tác khá nhiều thơ nói về thú hưởng nhàn, vui với thiên nhiên. Thí dụ bài Tuế Mộ: Danh ho ạn ý dĩ hỉLâm tuy ền kế hà như?Ngh ĩ cận Đông Lâm tựKhê biên k ết nhất lưNgh ĩa:Ý công danh đã hết Lâm tuyền tính sao đây? Đị nh đến Đông Lâm tựC ất nhà tranh bên khe.--------------------------------------------------
4 Nhạc phủ là tên của một cơ quan lo về ca nhạc tế lễ do Hán Vũ Đế lập. Cơ quan này có trách nhiệm thu thập thi ca lưu truyền trong dân chúng, do đó sau này, dân ca cũng gọi là nhạc phủ. Bạch Cư Di là một trong các nhà tiền phong chủ xướng một phong cách mới trong nhạc phủ, gọi là phong trào tân nhạc phủ - tương tự như phong trào thơ mới của Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ XX.
5 Kỳ từ chất nhi kinh, dục kiến chi giả dị dụ dã; kỳ ngôn trực nhi thiết, dục văn chi giả thâm giới dã. -Loại cảm thương:Có l ẽ đây mới là loại thơ biểu hiện tài năng cao nhất của Bạch Cư Dị! Nổi bật là hai bài thơ dài theo kiểu kể chuyện là Trường Hận Ca và Tỳ Bà Hành.Bài Trường Hận Ca viết vào năm 806, đại ý kể câu chuyện của Đường Minh Hoàng, vốn là một minh quân, nhưng đến khoảng cuối đời thì yêu thương Dương Quý Phi, bỏ bê việc nước, suốt ngày chìm đắm trong yến tiệc cùng nàng, dân chúng ta thán khắp nơi. Bối cảnh này thuận tiện nên An Lộc Sơn và Sử Tư Minh khởi loạn. Đường Minh Hoàng phải bỏ kinh đô Trường An mà chạy nhưng vẫn mang theo Dương Quý Phi. Tuy một lòng một dạ yêu thương Dương Quý Phi nhưng trước áp lực của quân sĩ, Đường Minh Hoàng buộc lòng phải ban cho Dương Quý Phi một dải lụa để tự tử mà vẫn nặng lòng thương tiếc: Th ục giang thủy bích thục sơn thanhThánh chúa triêu triêu m ộ mộ tìnhHành cung ki ến nguyệt thương tâm sắcD ạ vũ văn linh trường đoạn thanhNgh ĩa:Sông Thục nước biếc, núi Thục xanh Sớm chiều thánh chúa tình quẩn quanh Hành cung ánh trăng thương tâm lắm Mưa đêm chuông gió đoạn trường thanh Sau này, khi xong giặc, trở về cố cung, Đường Minh Hoàng vẫn mơ được gặp lại Dương Quý Phi (du du sinh tử biệt kinh niên, hồn phách bất tằng lai nhập mộng: tử sinh vằng vặc đã bao năm, hồn phách vẫn chưa vào giấc mộng). Vì thế Bạch Cư Dị kết luận: Thiên tr ường địa cửu hữu thời tận,Th ử hận miên miên vô tuyệt kỳ!(Trời đất lâu dài còn có lúc tận, nhưng hận này mãi mãi không nguôi!). (còn tiếp)
Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 22/Aug/2010 lúc 6:41pm |
|||||
mk
|
|||||
![]() |
|||||
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
||||
2.Khảo cứu về Tỳ Bà Hành
Bài Tỳ Bà Hành nguyên bản chữ Hán là một bài trường thi tân nhạc phủ, gồm có 88 câu, mỗi câu có bảy chữ, viết vào năm 816. Hoàn cảnh sáng tác bài này được Bạch Cư Dị viết trong lời tựa dưới đây:Hán t ự:元和十年,予左遷九江郡司馬。明年秋,送客湓浦口,聞船中夜彈琵琶者,聽其音,錚錚然有京都聲;問其人,本長安倡女,嘗學琵琶於穆曹二善才。年長色衰,委身為賈人婦。遂命酒,使快彈數曲,曲罷憫然。自敘少小時歡樂事,今漂淪憔悴,轉徙於江湖間。予出官二年 恬然自安, 感斯人言, 是夕, 始覺有遷謫意, 因為長句歌以贈之, 凡 六 百 一 十六言,命曰琵琶行。 Hán Vi ệt:Nguyên Hoà thập niên, dư tả thiên Cửu Giang quận Tư Mã. Minh niên thu, tống khách Bồn phố khẩu, văn thuyền trung dạ đàn tỳ bà giả, thính kỳ âm, tranh tranh nhiên hữu kinh đô thanh; vấn kỳ nhân, bản Trường An xướng nữ, thường học tỳ bà ư Mục, Tào nhị thiện tài. Niên trưởng sắc suy, ủy thân vi cổ nhân phụ. Toại mệnh tửu, sử khoái đàn sổ khúc, khúc bãi mẫn nhiên. Tự tự thiếu tiểu thời hoan lạc sự, kim phiêu luân tiều tụy, chuyển tỷ ư giang hồ gian. Dư xuất quan nhị niên điềm nhiên tự an, cảm tư nhân ngôn, thị tịch, thủy giác hữu thiên trích ý, nhân vi trường cú ca dĩ tặng chi, phàm lục bách nhất thập lục ngôn, mệnh viết Tỳ Bà hành. Dịch nghĩa: Nguyên Hoà năm thứ 10, ta bị giáng về làm Tư Mã quận Cửu Giang. Mùa Thu sang năm, tiễn khách ở cửa bến sông Bồn, giữa đêm nghe có người đờn tỳ bà, (ta) nghe tiếng soeng soẻng (như phong cách) của tiếng đờn ở kinh đô; hỏi người đó (thì trả lời) tôi vốn là người nữ hát ở Trường An, (từng) học tỳ bà với hai thầy giỏi họ Mục, Tào. Tuổi lớn, nhan sắc tàn, (tôi) trao thân làm vợ một người buôn bán. (Ta) thỏa ý, ra lệnh đãi rượu, khoan khoái bảo nàng đờn vài khúc, khúc đờn xong thì cảm thấy thương xót. (Ta) tự tỏ bày thời trẻ của ta thì vui sướng, nay trôi nổi lưu lạc, xoay đổi ở chốn giang hồ. Ta ra làm quan đã hai năm yên ổn an bình, cảm xúc lời nàng, (vì thế) đêm nay, do có bị giáng chức, trách phạt vì sơ ý mới hiểu được, nương theo đó mà (ta) làm một bài thơ dài tặng nàng, có 616 chữ, gọi là Tỳ Bà hành. 6 Trong c ảm thông với xướng nữ tài hoa nhưng vì tuổi cao, nhan sắc tàn tạ phải trao thân cho một gã lái buôn, rồi nghĩ đến thân phận bị biếm của mình, Bạch Cư Dị đã nương theo đó mà làm một bài thơ dài tặng nàng, tức là do bị giáng chức vì ý tứ không đúng cách nên hiểu được nỗi buồn đau của người ca kỹ. 7 Ám chỉ là một cách của cổ nhân để bày tỏ tâm trạng khi họ không thể công khai.Bài Tỳ Bà hành được giới văn học Việt Nam đặc biệt yêu thích. Nội dung và nguồn gốc của bản chữ Hán không có nghi vấn, còn bản dịch ra tiếng Hán Việt cũng không bởi lẽ đơn giản tiếng Hán Việt chỉ là dịch âm mà thôi, ai cũng đều dịch giống y như nhau. Tuy nhiên, bản dịch ra tiếng Việt có một số việc cần xem xét. Thứ nhất, có bản dịch mà một số người cho đó là của Phan Huy Vịnh. Xem kỹ nội dung vài bản dịch ra tiếng Việt thì thấy có vài sai sót về nghĩa mà tôi không tin là do Phan Huy Vịnh hoặc bất cứ ai đã dịch sai mà chỉ vì người ta tam sao, thất bổn. Các cụ ngày trước không bất cẩn để dịch sai nghĩa đâu, chỉ có hậu bối không biết chữ Hán nên phỏng đoán và lưu truyền sai nghĩa từ bản dịch gốc. Dưới đây là nhận xét đúng đắn của học giả Phạm Văn Diêu 8 : ------------------------------------
6 Lời tựa do người viết dịch qua tiếng Hán Việt và giải nghĩa ra tiếng Việt. 7 Khi tể tướng Vũ Nguyên Hành bị thích khách giết, Bạch Cư Dị dâng biểu xin tình nguyện đi bắt thích khách; vì vậy bị buộc tội là nói những lời vượt quá mức quyền hạn và biếm đi làm Tư Mã quận Cửu Giang. 8 Phạm Văn Diêu, Việt Nam Văn Học Giảng Bình, NXB. Hoành Sơn, 1969, pp. 230-232 (Còn tiếp)
Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 22/Aug/2010 lúc 6:44pm |
|||||
mk
|
|||||
![]() |
|||||
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
||||
"V ề vấn đề dịch giả, người ta bàn cãi qua lại với nhau khá nhiều nhưng đến nay, ta đã tìm được chứng cứ để có thể quyết nhận hẳn bản dịch Nôm là của Phan Huy Thực. Trước đây, ông Hoa Bằng cho rằng đấy là văn của Nguyễn Văn Siêu; ông Lê Thước thì nói là Nguyễn Công Trứ; vài nhà học giả khác lại bảo là của Phan Huy Vịnh. Thiếu chứng cớ xác thực, lời của Hoa Bằng không thể tin được. Còn ông Lê Thước thì không vững lẽ vì văn cách ngang tàn, phóng dật trong toàn bộ thơ văn Nguyễn Công Trứ đâu có giống lối văn Tỳ Bà hành với một điệu buồn đài các; bảo là của Phan Huy Vịnh thì lại không thấy có chứng cớ gì. Ta nay căn cứ trong gia phả họ Phan thì thấy chú ghi rằng Phan Huy Thực đã diễn Nôm Tỳ Bà hành. Điều này đáng tin cậy vì dòng dõi họ Phan đều nổi tiếng giỏi Hán và Nôm. Huy Thực với thân phụ là Huy Ích, với em là Huy Chú, với con là Huy Vịnh. Ông Hoàng Xuân Hãn cũng cho rằng tác phẩm này là của Phan Huy Thực, người đã viết tập Bần nữ thán.""N ăm Gia Long thứ 10 (1811), Phan Huy Thực được nhà vua nghe tiếng vời ra trọng dụng, bổ làm Thị Tào. Năm Gia Long thứ 16 (1817) lại được cử làm Phó Sứ sang triều Thanh. Năm Minh Mệnh thứ nhất (1820) được bổ nhậm Hiệp Trấn Lạng Sơn, rồi làm Lễ Bộ Thượng Thư, lại được cử khảo cứu về lễ nhạc và làm Tổng Tài bộ Thực lục. Đến năm 1841 thì ông xin về hưu trí và mất năm 1842. Ông có tài văn thơ, gia phả họ Phan từng ghi ông là tác giả các tập Hoa thiều tập vịnh, Nhân ảnh vấn đáp, thơ Tỳ Bà hành diễn âm. Ông còn là tác giả tập Tình thiều kỷ hành và Mộng dương tập tự. Trong đời làm quan, Huy Thực đã ba lần lên xuống chức Thượng Thư bộ Lễ. Vì lẽ đó ông đã cảm thông sâu xa với Bạch Lạc Thiên mà phiên diễn Tỳ Bà hành chăng? Điều này dẫu chưa có chứng cớ gì đích thực nhưng cũng không hẳn thiếu lý do, không hẳn hoàn toàn võ đoán. Ta nên nhớ rằng trong xã hội phong kiến phương Đông, người đàn bà thường vẫn là kẻ thiệt thòi, kẻ thiếu hoàn cảnh, phương tiện nhất để tự phát triển. Càng sắc, càng tài, càng tình cảm bao nhiêu thì họ càng chuốc lấy thương đau, mà thoát ly ra khỏi thông lệ thế thường thì lại càng bị ruồng rẫy, đọa đày. Coi như trường hợp ca nhi, xướng nữ thì đủ rõ, đời họ không có gì là bảo đảm cả ngoài cái "duyên trời" mà cũng nằm lọn trong tay làng xa mã, khách tài hoa.""H ơn nữa, ta cũng nên ghi nhớ rằng trong kho thi văn Trung quốc, Tỳ Bà hành là một bài thơ trong những áng thơ hay có tiếng. Vì lòng ham mộ nghệ thuật nhà thơ Đường trứ danh này, Phan Huy Thực tài hoa đã đem diễn Nôm bản Tỳ Bà hành, việc ấy suy ra cũng xác đáng. Song ngoài bấy nhiêu nguyên nhân, ta còn thấy rằng đối với nhà thơ họ Phan, trước biết bao chán ngán eo sèo về thời cuộc chông chênh từ Minh Mệnh, hẳn nhiên việc dịch văn Tỳ Bà hành vẫn là một nhu cầu khả dĩ thỏa mãn cái tâm hồn nghệ sĩ phóng khoáng của thi nhân vốn có khuynh hướng thoát ly "thực tại" để tìm về một "thế giới kỳ ảo xa xưa vậy."
Thứ hai, bản dịch ra tiếng Việt quả thực là một sáng tác trên một sáng tác! Từ 88 câu thơ chữ Hán viết theo lối văn văn ngôn thịnh hành thời Bạch Cư Dị, bản diễn ra tiếng Việt là một tác phẩm trường thi, cũng 88 câu nhưng diễn theo thể thơ thất ngôn bát cú của Việt Nam rất đặc sắc, giữ đúng nghĩa của bản gốc mà đọc lên như một sáng tác mới bằng tiếng Việt thuần của người diễn!
Dười đây là cả ba bản thơ được trình bày theo ba cột riêng biệt:
Tầm dương giang đầu dạ tống khách
Phong diệp dịch hoa thu sắt sắt Chủ nhân há mã khách tại thuyền Cử tửu dục ẩm vô quản huyền Túy bất thành hoan, thảm tương biệt Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt Hốt văn thủy thượng tỳ bà thanh Chủ nhân vong qui, khách bất phát Tầm thanh ám vấn đàn giả thùy ? Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì Di thuyền tương cận yêu tương kiến Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến Thiên hô vạn hoán thủy xuất lai Do bão tỳ bà bán già diện Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh Vị thành khúc điệu, tiên hữu tình Huyền huyền yểm ức, thanh thanh tứ Tự tố bình sinh bất đắc chí Đê mi tín thủ tục tục đàn Thuyết tận tâm trung vô hạn sự Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu Sơ vi " Nghê thường", hậu "Lục yêu" Đại huyền tào tào như cấp vũ Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ Tao tao thiết thiết thác tạp đàn Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt U yết tuyền lưu thủy hạ than Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt Ngưng tuyệt bất thông thanh tạm yết Biệt hữu u sầu ám hận sinh Thử thời vô thanh thắng hữu thanh Ngân bình sạ phá thủy tương bỉnh Thiết kỵ đột xuất đao thương minh Khúc chung thu bát đương tâm hoạch Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung Tự ngôn Bản thị kinh thành nữ Gia tại Hà mô lăng hạ trú Thập tam học đắc tỳ bà thành Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ Khúc bãi tằng giao Thiện tài phục Trang thành mỗi bị Thu nương đố Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu Nhất khúc hồng tiêu bất tri số Điền đầu ngân tì kích tiết toái Huyết sắc la quần phiên tửu ố Kim niên hoan tiếu phục minh niên Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ Đệ tẩu tòng quân, a di tử Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố Môn tiền lãnh lạc xa mã hi Lão đại giá tác thương nhân phụ Thương nhân trọng lợi, khinh biệt ly Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ Khứ lại giang khẩu thủ không thuyền Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thủy hàn Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự Mộng đề trang lệ hồng lan can Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức Hựu văn thử ngữ trùng tức tức Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân Tương phùng hà tất tằng tương thức Ngã tòng khứ niên từ đế kinh Trích cư ngọa bệnh Tầm Dương thành Tầm Dương địa tịch vô âm nhạc Chung tuế bất văn ty trúc thanh Trú cận Bồn Giang địa đê thấp Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh Kỳ gian đán mộ văn hà vật Đỗ quyên đề huyết viên ai minh Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh Khởi vô sơn ca dữ thôn địch Ẩu á trào triết nan vi thính Kim dạ văn quân Tỳ bà ngữ Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh Mạc từ cánh tọa đàn nhất khúc Vị quân phiên tác tỳ bà hành Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập Khước tọa xúc huyền huyền chuyển cấp Thê thê bất tự hướng tiền thanh Mãn tọa trùng văn giai yểm khấp Tọa trung khấp hạ thùy tối đa? Giang châu tư mã thanh sam thấp!
(Còn tiếp)
|
|||||
mk
|
|||||
![]() |
|||||
Trang of 2 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |