Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chúc Mừng - Chia Buồn - Cảm Tạ
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Tổng Quát :Chúc Mừng - Chia Buồn - Cảm Tạ
Message Icon Chủ đề: CHIA SẼ VUI BUỒN CUỐI NĂM Gởi trả lời Gởi bài mới
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 24117
Quote Lan Huynh Replybullet Chủ đề: CHIA SẼ VUI BUỒN CUỐI NĂM
    Gởi ngày: 26/Dec/2010 lúc 7:12pm
 
 

 

CÂU CHUYỆN BÁT MÌ

Khuyết Danh

 
 
Trong cuộc sống ngày nay, xin đừng quên rằng còn tồn tại lòng nhân ái. Đây là một câu chuyện có thật, chúng tôi gọi là "Câu chuyện bát mì".Chuyện xảy ra cách đây năm mươi năm vào ngày 31/12, một ngày cuối năm tại quán mì Bắc Hải Đình, đường Trát Hoảng, Nhật Bản.
o O o
Đêm giao thừa, ăn mì sợi đón năm mới là phong tục tập quán của người Nhật, cho đến ngày đó công việc làm ăn của quán mì rất phát đạt. Ngày thường, đến chạng vạng tối trên đường phố hãy còn tấp nập ồn ào nhưng vào ngày này mọi người đều lo về nhà sớm hơn một chút để kịp đón năm mới. Vì vậy đường phố trong phút chốc đã trở nên vắng vẻ.
Ông chủ Bắc Hải Đình là một người thật thà chất phát, còn bà chủ là một người nhiệt tình, tiếp đãi khách như người thân. Đêm giao thừa, khi bà chủ định đóng cửa thì cánh cửa bị mở ra nhè nhẹ, một người phụ nữ trung niên dẫn theo hai bé trai bước vào. đứa nhỏ khoảng sáu tuổi, đứa lớn khoảng 10 tuổi. Hai đứa mặc đồ thể thao giống nhau, còn người phụ nữ mặc cái áo khoác ngoài lỗi thời.
- Xin mời ngồi!
Nghe bà chủ mời, người phụ nữ rụt rè nói:
- Có thể... cho tôi một… bát mì được không?
Phía sau người phụ nữ, hai đứa bé đang nhìn chăm chú.
- Đương nhiên… đương nhiên là được, mời ngồi vào đây.
Bà chủ dắt họ vào bàn số hai, sau đó quay vào bếp gọi to:
- Cho một bát mì.
Ba mẹ con ngồi ăn chung một bát mì trông rất ngon lành, họ vừa ăn vừa trò chuyện khe khẽ với nhau. “Ngon quá” - thằng anh nói.
- Mẹ, mẹ ăn thử đi - thằng em vừa nói vừa gắp mì đưa vào miệng mẹ.
Sau khi ăn xong, người phụ nữ trả một trăm năm mươi đồng. Ba mẹ con cùng khen: “Thật là ngon ! Cám ơn !” rồi cúi chào và bước ra khỏi quán.
- Cám ơn các vị ! Chúc năm mới vui vẻ - ông bà chủ cùng nói.
Công việc hàng ngày bận rộn, thế mà đã trôi qua một năm. Lại đến ngày 31/12, ngày chuẩn bị đón năm mới. Công việc của Bắc Hải Đình vẫn phát đạt. So với năm ngoái, năm nay có vẻ bận rộn hơn. Hơn mười giờ, bà chủ toan đóng cửa thì cánh cửa lại bị mở ra nhè nhẹ. Bước vào tiệm là một người phụ nữ dẫn theo hai đứa trẻ. Bà chủ nhìn thấy cái áo khoác lỗi thời liền nhớ lại vị khách hàng cuối cùng năm ngoái.
- Có thể… cho tôi một… bát mì được không?
- Đương nhiên… đương nhiên, mời ngồi!
Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai như năm ngoái, vừa nói vọng vào bếp:
- Cho một bát mì.
Ông chủ nghe xong liền nhanh tay cho thêm củi vào bếp trả lời:
- Vâng, một bát mì!
Bà chủ vào trong nói nhỏ với chồng:
- Này ông, mình nấu cho họ ba bát mì được không?
- Không được đâu, nếu mình làm thế chắc họ sẽ không vừa ý.
Ông chủ trả lời thế nhưng lại bỏ nhiều mì vào nồi nước lèo, ông ta cười cười nhìn vợ và thầm nghĩ: “Trông bà bề ngoài khô khan nhưng lòng dạ cũng không đến nỗi nào!”
Ông làm một tô mì to thơm phức đưa cho bà vợ bưng ra. Ba mẹ con ngồi quanh bát mì vừa ăn vừa thảo luận. Những lời nói của họ đều lọt vào tai hai vợ chồng ông chủ quán.
- Thơm quá!
- Năm nay vẫn được đến Bắc Hải Đình ăn mì thật là may mắn quá!
- Sang năm nếu được đến đây nữa thì tốt biết mấy!
Ăn xong, trả một trăm năm mươi đồng, ba mẹ con ra khỏi tiệm Bắc Hải Đình.
- Cám ơn các vị! Chúc năm mới vui vẻ!
Nhìn theo bóng dáng ba mẹ con, hai vợ chồng chủ quán thảo luận với nhau một lúc lâu.
Đến ngày 31/12 lần thứ ba, công việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn rất tốt, vợ chồng ông chủ quán bận rộn đến nỗi không có thời gian nói chuyện. Đến 9g30 tối, cả hai người đều cảm thấy trong lòng có một cảm giác gì đó khó tả. Đến 10 giờ, nhân viên trong tiệm đều đã nhận bao lì xì và ra về. Ông chủ vội vã tháo các tấm bảng trên tường ghi giá tiền của năm nay là “200đ/bát mì” và thay vào đó giá của năm ngoái “150đ/bát mì”. Trên bàn số hai, ba mươi phút trước bà chủ đã đặt một tờ giấy “Đã đặt chỗ”. Đúng 10g30, ba mẹ con xuất hiện, hình như họ cố chờ khách ra về hết rồi mới đến. Đứa con trai lớn mặc bộ quần áo đồng phục cấp hai, đứa em mặc bộ quần áo của anh, nó hơi rộng một chút, cả hai đứa đêu đã lớn rất nhiều.
- Mời vào! Mời vào! - bà chủ nhiệt tình chào đón.
Nhìn thấy khuôn mặt tươi cười của bà chủ, người mẹ chậm rãi nói:
- Làm ơn nấu cho chúng tôi…hai bát mì được không?
- Được chứ, mời ngồi bên này!
Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai, nhanh tay cất tờ giấy “Đã đặt chỗ” đi, sau đó quay vào trong la to: "Hai bát mì”
- Vâng, hai bát mì. Có ngay.
Ông chủ vừa nói vừa bỏ ba phần mì vào nồi.
Ba mẹ con vừa ăn vừa trò chuyện, dáng vẻ rất phấn khởi. Đứng sau bếp, vợ chồng ông chủ cũng cảm nhận được sự vui mừng của ba mẹ con, trong lòng họ cũng cảm thấy vui lây.
- Tiểu Thuần và anh lớn này, hôm nay mẹ muốn cảm ơn các con!
- Cảm ơn chúng con? Tại sao ạ?
- Chuyện là thế này: vụ tai nạn xe hơi của bố các con đã làm cho tám người bị thương, công ty bảo hiểm chỉ bồi thường một phần, phần còn lại chúng ta phải chịu, vì vậy mấy năm nay mỗi tháng chúng ta đều phải nộp năm mươi ngàn đồng.
- Chuyện đó thì chúng con biết rồi - đứa con lớn trả lời.
Bà chủ đứng bên trong không dám động đậy để lắng nghe.
- Lẽ ra phải đến tháng ba năm sau chúng ta mới nộp hết nhưng năm nay mẹ đã nộp xong cả rồi!
- Hả, mẹ nói thật đấy chứ?
- Ừ, mẹ nói thật. Bởi vì anh lớn nhận trách nhiệm đi đưa báo, còn Tiểu Thuần giúp mẹ đi chợ nấu cơm làm mẹ có thể yên tâm làm việc, công ty đã phát cho mẹ một tháng lương đặc biệt, vì vậy số tiền chúng ta còn thiếu mẹ đã nộp hết rồi.
- Mẹ ơi! Anh ơi! Thật là tốt quá, nhưng sau này mẹ cứ để con tiếp tục nấu cơm nhé.
- Con cũng tiếp tục đi đưa báo. Tiểu Thuần chúng ta phải cố gắng lên!
- Mẹ cám ơn hai anh em con nhiều!
- Tiểu Thuần và con có một bí mật chưa nói cho mẹ biết. Đó là vào một ngày chủ nhật của tháng mười một, trường của Tiểu Thuần gửi thư mời phụ huynh đến dự một tiết học. Thầy giáo của Tiểu Thuần còn gửi một bức thư đặc biệt cho biết bài văn của Tiểu Thuần đã được chọn làm đại diện cho Bắc Hải đảo đi dự thi văn toàn quốc. Con nghe bạn của Tiểu Thuần nói mới biết nên hôm đó con đã thay mẹ đến dự.
- Có thật thế không? Sau đó ra sao?
- Thầy giáo ra đề bài: “Chí hướng và nguyện vọng của em là gì?” Tiểu Thuần đã lấy đề tài bát mì để viết và được đọc trước tập thể nữa chứ. Bài văn được viết như sau: “Ba bị tai nạn xe mất đi để lại nhiều gánh nặng. Để gánh vác trách nhiệm này, mẹ phải thức khuya dậy sớm để làm việc”. Đến cả việc hàng ngày con phải đi đưa báo, em cũng viết vào bài nữa. Lại còn: “Vào tối 31/12, ba mẹ con cùng ăn một bát mì rất ngon. Ba người chỉ gọi một tô mì, nhưng hai vợ chồng bác chủ tiệm vẫn cám ơn và còn chúc chúng tôi năm mới vui vẻ nữa. Lời chúc đó đã giúp chúng tôi có dũng khí để sống, khiến cho gánh nặng của ba để lại nhẹ nhàng hơn”. Vì vậy Tiểu Thuần viết rằng nguyện vọng của nó là sau này mở một tiệm mì, trở thành ông chủ tiệm mì lớn nhất ở Nhật Bản, cũng sẽ nói với khách hàng của mình những câu như: “Cố gắng lên ! Chúc hạnh phúc ! Cám ơn !”
Đứng sau bếp, hai vợ chồng chủ quán lặng người lắng nghe ba mẹ con nói chuyện mà nước mắt lăn dài.
- Bài văn đọc xong, thầy giáo nói: anh của Tiểu Thuần hôm nay thay mẹ đến dự, mời em lên phát biểu vài lời.
- Thật thế à? Thế lúc đó con nói sao?
- Bởi vì quá bất ngờ nên lúc đầu con không biết phải nói gì cả, con nói: “Cám ơn sự quan tâm và thương yêu của thầy cô đối với Tiểu Thuần. Hàng ngày em con phải đi chợ nấu cơm nên mỗi khi tham gian hoạt động đoàn thể gì đó nó đều phải vội vả về nhà, điều này gây không ít phiền toái cho mọi người. Vừa rồi khi em con đọc bài văn thì trong lòng con cảm thấy sự xấu hổ nhưng đó là sự xấu hổ chân chính. Mấy năm nay mẹ chỉ gọi một bát mì, đó là cả một sự dũng cảm. Anh em chúng con không bao giờ quên được… Anh em con tự hứa sẽ cố gắng hơn nữa, quan tâm chăm sóc mẹ nhiều hơn. Cuối cùng con nhờ các thầy cô quan tâm giúp đỡ cho em con.”
Ba mẹ con nắm tay nhau, vỗ vai động viên nhau, vui vẻ cùng nhau ăn hết tô mì đón năm mới rồi trả 300 đồng, nói câu cám ơn vợ chồng chủ quán, cúi chào và ra về. Nhìn theo ba mẹ con, vợ chồng ông chủ quán nói với theo:
- Cám ơn! Chúc mừng năm mới!
Lại một năm nữa trôi qua.
Bắc Hải Đình vào lúc 9g tối, bàn số hai được đặt một tấm giấy “Đã đặt chỗ” nhưng ba mẹ con vẫn không thấy xuất hiện.
Năm thứ hai rồi thứ ba, bàn số hai vẫn không có người ngồi. Ba mẹ con vẫn không thấy trở lại. Việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn như mọi năm, toàn bộ đồ đạc trong tiệm được thay đổi, bàn ghế được thay mới nhưng bàn số hai thì được giữ lại y như cũ.
“Việc này có ý nghĩa như thế nào?” Nhiều người khách cảm thấy ngạc nhiên khi nhìn thấy cảnh này nên đã hỏi. Ông bà chủ liền kể lại câu chuyện bát mì cho mọi người nghe. Cái bàn cũ kia được đặt ngay chính giữa, đó cũng là một sự hy vọng một ngày nào đó ba vị khách kia sẽ quay trở lại, cái bàn này sẽ dùng để tiếp đón họ. Bàn số hai “cũ” trở thành “cái bàn hạnh phúc”, mọi người đều muốn thử ngồi vào cái bàn này.
Rồi rất nhiều lần 31/12 đã đi qua.
Lại một ngày 31/12 đến. Các chủ tiệm lân cận Bắc Hải Đình sau khi đóng cửa đều dắt người nhà đến Bắc Hải Đình ăn mì. Họ vừa ăn vừa chờ tiếng chuông giao thừa vang lên. Sau đó, mọi người đi bái thần, đây là thói quen năm, sáu năm nay. Hơn 9g30 tối, trước tiên vợ chồng ông chủ tiệm cá đem đến một chậu cá còn sống. Tiếp đó, những người khác đem đến nào là rượu, thức ăn, chẳng mấy chốc đã có khoảng ba, bốn chục người. Mọi người rất vui vẻ. Ai cũng biết lai lịch của bàn số hai. Không ai nói ra nhưng thâm tâm họ đang mong chờ giây phút đón mừng năm mới. Người thì ăn mì, người thì uống rượu, người bận rộn chuẩn bị thức ăn… Mọi người vừa ăn, vừa trò chuyện, từ chuyện trên trời dưới đất đến chuyện nhà bên có thêm một chú nhóc nữa. Chuyện gì cũng tạo thành một chuỗi câu chuyện vui vẻ. Ở đây ai cũng coi nhau như người nhà.
Đến 10g30, cửa tiệm bỗng nhiên mở ra nhè nhẹ, mọi người trong tiệm liền im bặt và nhìn ra cửa. Hai thanh niên mặc veston, tay cầm áo khoác bước vào, mọi người trong quán thở phào và không khí ồn ào náo nhiệt trở lại. Bà chủ định ra nói lời xin lỗi khách vì quán đã hết chỗ thì đúng lúc đó một người phụ nữ ăn mặc hợp thời trang bước vào, đứng giữa hai thanh niên.
Mọi người trong tiệm dường như nín thở khi nghe người phụ nữ ấy nói chầm chậm:
- Làm ơn… làm ơn cho chúng tôi ba bát mì được không?
Gương mặt bà chủ chợt biến sắc. Đã mười mấy năm rồi, hình ảnh bà mẹ trẻ cùng hai đứa con trai chợt hiện về và bây giờ họ đang đứng trước mặt bà đây. Đứng sau bếp, ông chủ như mụ người đi, giơ tay chỉ vào ba người khách, lắp lắp nói:
- Các vị… các vị là…
Một trong hai thanh niên tiếp lời:
-Vâng! Vào ngày cuối năm của mười bốn năm trước đây, ba mẹ con cháu đã gọi một bát mì, nhận được sự khích lệ của bát mì đó, ba mẹ con cháu như có thêm nghị lức để sống. Sau đó, ba mẹ con cháu đã chuyển đến sống ở nhà ông bà ngoại ở Tư Hạ. Năm nay cháu thi đỗ vào trường y, hiện đang thực tập tại khoa nhi của bệnh viện Kinh Đô. Tháng tư năm sau cháu sẽ đến phục vụ tại bệnh viện tổng hợp của Trát Hoảng. Hôm nay, chúng cháu trước là đến chào hỏi bệnh viện, thuận đường ghé thăm mộ của ba chúng cháu. Còn em cháu mơ ước trở thành ông chủ tiệm mì lớn nhất Nhật Bản không thành, hiện đang là nhân viên của Ngân hàng Kinh Đô. Cuối cùng, ý định nung nấy từ bao lâu nay của chúng cháu là hôm nay, ba mẹ con cháu muốn đến chào hỏi hai bác và ăn mì ở Bắc Hải Đình này.
Ông bà chủ quán vừa nghe vừa gật đầu mà nước mắt ướt đẫm mặt. Ông chủ tiệm rau ngồi gần cửa ra vào đang ăn đầy miệng mì, vội vả nhả ra, đứng dậy nói:
- Này, ông bà chủ, sao lại thế này? Không phải là ông bà đã chuẩn bị cả mười năm nay để có ngày gặp mặt này đó sao ? Mau tiếp khách đi chứ. Mau lên!
Bà chủ như bừng tỉnh giấc, đập vào vai ông hàng rau, cười nói:
- Ồ phải… Xin mời! Xin mời! Nào bàn số hai cho ba bát mì.
Ông chủ vội vàng lau nước mắt trả lời:
- Có ngay. Ba bát mì.
o O o
Thật ra cái mà ông bà chủ tiệm bỏ ra không có gì nhiều lắm, chỉ là vài vắt mì, vài câu nói chân thành mang tính khích lệ, động viên chúc mừng. Với xã hội năng động ngày nay, con người dường như có một chút gì đó lạnh lùng, nhẫn tâm. Nhưng từ câu chuyện này, tôi đi đến kết luận rằng : chúng ta không nên chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh xung quanh, chỉ cần bạn có một chút quan tâm dành cho người khác thì bạn có thể đem đến niềm hạnh phúc cho họ rồi. Chúng ta không nên nhỏ nhoi ích kỷ bởi tôi tin trong mỗi chúng ta đều ẩn chứa một tấm lòng nhân ái. Hãy mở kho tàng ấy ra và thắp sáng nó lên dù chỉ là một chút ánh sáng yếu ớt ,nhưng trong đêm đông giá rét thì nó có thể mang lại sự ấm áp cho mọi người.
Câu chuyện này xuất hiện làm xúc động không ít độc giả Nhật Bản. Có người nhận xét rằng : "Đọc xong câu chuyện này không ai không rơi nước mắt." Đây chỉ là lời nhận xét mang tính phóng đại một chút nhưng nó không phải là không thực tế. Quả thật, nhiều người đọc xong câu chuyện đã phải rơi lệ, chính sự quan tâm chân thành và lòng nhân hậu trong câu chuyện đã làm cho họ phải xúc động.
 




Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 26/Dec/2010 lúc 7:15pm
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 26/Dec/2010 lúc 7:51pm
 
 
CÂU CHUYỆN THIÊN ĐÀNG
 
 
Có một người đến gặp thượng đế.
Anh ta hỏi thượng đế:
- Thượng đế, xin ngày chỉ cho con biết đâu la thiên đàng và đâu là địa ngục.
Thượng đế khẽ mỉm cười và nói:
- Hãy đi theo ta.

Đoạn, thượng đế dẫn anh chàng nọ đến một gian phòng rộng lớn. Trong gian phòng có rất nhiều người trông rất tiều tụy vì đói. Ở chính giữa phòng có một nồi súp rất lớn đang bốc khói nghi ngút và tỏa mùi thơm ngào ngạt... Trong tay mổi người đói khổ đó ai cũng có một chiếc thìa để múc súp. Có điều chiếc thìa lại dài quá khổ, dài đến nổi những người này không cách gì đưa súp vào miệng được. Gian phòng tràn ngập tiếng than thở và khóc lóc. Thượng đế nói với người đàn ông:
- Đây chính là địa ngục.

Thượng đế dẫn anh chàng nọ tới một gian phòng khác. Gian phòng này cũng giống hệt như gian phòng trước đó. Cũng vẫn có vô số người nghèo đói, cũng vẫn nồi súp bốc khói nghi ngút và cũng vẫn những chiếc thìa dài quá cỡ. Chỉ có một khác đó là trong gian phòng này tràn ngập tiếng cười đùa, tiếng xuýt xoa khen ngon... Thượng đế mỉm cười:
- Thiên đàng là đây!

Người đàn ông rất lấy làm ngạc nhiên. Anh ta nhìn kỹ trong gian phòng và phát hiện ra rằng những người ở đây rất vui mừng bởi vì họ không tự đút súp cho mình mà họ đút cho nhau....

... Hãy chia sẽ một chút hạnh phúc của bạn để bạn được hạnh phúc hơn,
và hãy chia sẽ một hạnh phúc của bạn cho những người đang đau khổ để bạn được hạnh phúc hơn nữa...
 
 
(nguồn: Bạn gửi)
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 27/Dec/2010 lúc 8:46pm
 
LTS Dân trí -Với ngôn ngữ phong phú của Việt Nam, lại dùng phong cách trào lộng của dân tộc, quả thật tác giả viết bài trên đây tha hồ mà phiếm đàm về chữ Ăn và Chuyện Ăn của người đời. Ngoài việc tạo không khí trào lộng góp phần vui xuân, tác giả còn mạnh mẽ phê phán những thói hư tật xấu của người đời sinh ra từ cái triết lý thực dụng “sống để mà ăn”!
 
 
 
 
 

ĂN TẾT

PHIẾM ĐÀM VỀ CÁI SỰ ĂN!
(Trần Huy Thuận)


Đối với động vật và thực vật, ăn là để tồn tại và phát triển. Không ăn thì…”Thánh cũng không sống nổi!”. Cây cỏ cũng phải ăn, cho dù thức ăn là đất, là phân – Vậy hiển nhiên: “Ăn để mà sống” rồi! Ấy thế mà vẫn có người nói “sống để mà ăn!”. Đúng, sai thế nào, đến nay, cuộc tranh luận vẫn chưa ngã ngũ.

Ăn tưởng là việc đơn giản, ấy vậy mà phải học đấy. Người xưa dậy rồi: Miếng ăn được coi là “ngọc thực”, nhưng cũng có khi là “miếng nhục”! Ăn uống phải cho đàng hoàng, không nhai nhồm nhoàm, càng không “phùng mạng trợn má” ăn lấy được. Phải chín chắn ngay cả trong việc ăn, đừng có “ăn sổi ở thì”, “ăn không nghĩ đến ngày mai”. Có kẻ “ăn hoang phá hại”; lại có người có tiền có của đấy, nhưng vẫn ăn dè ăn sẻn, dành dụm phòng lúc khó khăn. Con trẻ lên hai lên ba “háu ăn” thì cha mẹ, ông bà ai cũng mừng; nhưng thành người lớn rồi, mà trông thấy miếng ăn, mắt cứ “hau háu” thì xấu lắm! Miếng ăn còn phải sạch sẽ, “ăn chín uống sôi”, chớ “ăn sống ăn sít”. Có kẻ “ăn như mèo ăn”, nhưng cũng có người “ăn hùng hục như hổ đói”. Có người mời “gẫy đũa, gẫy bát” không chịu ăn; nhưng có kẻ cứ thấy đâu có ăn là sa vào liền, “tự nhiên như ruồi”! Bên cạnh người “phàm ăn”, bạ gì cũng ăn; thì cũng có kẻ “kén cá chọn canh”. Có người khi ăn cũng luôn nghĩ đến người khác: “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, thấy nồi cơm đã vơi, thì dẫu bụng còn đói, vẫn hạ bát “vô phép các cụ, cháu ăn đủ rồi ạ!”; nhưng cũng không ít kẻ mặc thiên hạ, cứ một mình “chén tì tì”, “chén thủng nồi trôi rế”… “Ăn” cũng có nhiều cách: lịch sự thì gọi là “xơi” (“Kính mời cụ xơi cơm”), cùng trang lứa thì có thể nói là “nhậu”, là “đánh chén”. Không lịch sự thì có nhiều cách gọi lắm: nào là “hốc” “nhồi”, “tọng”. Ví dụ: “Hốc (hoặc nhồi, tọng) cho lắm vào!”; là “gặm” , “liếm”, “đớp” – ba từ này bắt chước động thái ăn của loài chó! Ví dụ: “Tiền trợ cấp các gia đình khó khăn, bị các “quan” địa phương nọ gặm (hoặc liếm, đớp) tới quá nửa!”,…– Tất thảy đều do tính cách, đạo đức, lối sống con người tạo nên cả.

Lại có cả cảnh “kẻ ăn không hết, người lần không ra” nữa. Một gia đình nông dân, suất ăn hàng ngày chỉ đáng mươi ngàn đồng Việt Nam; ấy vậy mà có những “đại gia” sang Căm-Pu-Chia đánh bạc, mất một lúc vài chục ngàn đô la Mỹ, vẫn thản nhiên tiếp tục đi chơi… gái để giải hạn!

“Ăn”, cũng có sự phân biệt đẳng cấp đấy: Cùng ăn chung một bữa tiệc, vậy mà nhiều khi vẫn có kẻ “ăn trên ngồi trốc” – mâm của người thường gọi là “đại trà”, mâm của kẻ quyền chức, gọi là “vip”. Thế cho nên đã từng xẩy ra chuyện, có thực khách đã xô ghế, văng tục bỏ về, khi phát hiện ra mình bị xếp ngồi mâm đại trà – “một miếng giữa làng” mà!
Cũng gọi là “Ăn”, nhưng lại không hề … nhai bằng răng. Không dùng răng nên ăn rất khỏe, rắn mấy cũng ăn, to mấy cũng ăn. Đó là cách dân chúng “hình tượng hóa” cái tệ nhận hối lộ. Kiểu ăn này thì diễn ra quanh năm, nhưng sôi nổi nhất, táo tợn nhất, vẫn là dịp Tết, từ Tết Tây đến Tết Ta. Kinh tế suy thoái ở đâu, chứ không thấy ở cái kiểu “ăn” này! Về nguyên lý, thì người ta chỉ ăn khi đói. Nhưng rất nhiều quan ăn cả lúc no (mà họ thì có lúc nào không no?), thế mà chả bao giờ bị bội thực cả! Cổ nhân có câu này khuyên mọi người, chí lý lắm, nhưng chả mấy ai chịu nghe: “ăn cơm mắm cáy thì ngáy o o – ăn cơm thịt bò thì lo ngay ngáy”. Họ lý luận rằng, cứ ăn đi, rồi lại mời kẻ khác ăn, nghĩa là đừng có ăn một mình, thì vẫn ngáy o o, chả việc gì phải lo cả! Quan có chức lớn thường ăn “sang”; không sang, một vài triệu, thậm chí một vài trăm triệu, không ăn. Không ăn không phải là không ăn. Cứ chịu khó lo liệu đưa thật nhiều hơn nữa, thể nào quan cũng ăn. Quan không ăn, kẻ kể chuyện này xin cứ đi đầu xuống đất! Quan cỡ nhỏ và quan sắp về vườn có nhiều vị phàm ăn và tạp ăn lắm. Bạ gì cũng ăn; sạch bẩn, to nhỏ, sang hèn; ăn tuốt! Ăn của thằng có tóc đã đành, nhưng thằng đầu trọc có việc tìm đến quan, thì dù nó chỉ có cái khố rách, mà rơi vào đúng lúc cần “tận thu”, quan cũng ăn. Các quan tham thường ngậm miệng mà ăn, nhiều khi ăn rất lớn mà vẫn “kín như bưng”. Thánh lắm! Người thường không dễ gì bắt chước được đâu. Cơ quan phòng chống tham nhũng cũng không dễ gì có được chứng cớ quả tang (trừ khi chỉ muốn kiếm chứng cớ để… “đánh quả” tống tiền, thì chắc là dễ!).

Trong cuộc sống, còn tồn tại khá nhiều kiểu “ăn mà không phải ăn” khác, như “ăn hiếp”, “ăn chặn” – kiểu hành xử bắt nạt người yếu (yếu lực hoặc yếu thế) của bọn côn đồ; như “ăn không nói có” hoặc “ăn có nói không” nhằm mục đích hại người lương thiện. Các quan tham hay có thói “ăn có nói không” lắm. Chứng cứ rõ mười mươi, quan vẫn chối bỏ…
không “ăn”. Bí quá thì đổ tội đó cho phu nhân (đã có vị dùng cách ấy mà thoát mọi tội lỗi đấy, bởi “ai làm nấy tội”, quan tuy là chồng nhưng từ lâu đã ly thân, nên không thể chịu trách nhiệm! Đúng quá đi chứ, trường hợp như thế mà bắt quan chịu trách nhiệm thì oan ức cho quan quá, còn đâu là sự công minh chính trực nữa?!.)

Ngoài ra, người ta còn dùng hình tượng “ăn” để nói về một trong những cái đạo làm người, đó là sống ở trên đời phải luôn ghi nhớ công ơn người đã giúp đỡ mình, “làm ơn không nên nhớ, chịu ơn chớ có quên”; kẻ quên ơn, bị xã hội sỉ vả là đồ “ăn cháo đá bát”!

“Ăn để mà sống” hay “sống để mà ăn”?–Phải chăng, chính là hai quan niêm này đã chi phối những hành vi “ăn” kể trên, của mỗi người chúng ta? Ngày Xuân, trước mâm cỗ Tết, xin lạm bàn đôi điều quanh cái sự ăn, cũng chỉ nhằm góp chút hương vị trào lộng cho không khí bữa ăn. Tuyệt không có ý gì khác, xin thưa!.. ■

(Trần Huy Thuận)
http://tintuc.xalo.vn/00141255399/Nhan_dip_Tet__Phiem_dam_ve_cai_su_an.html


Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 27/Dec/2010 lúc 8:48pm
mk
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 24117
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 29/Dec/2010 lúc 11:01pm

CHUYẾN XE LỬA CUỐI NĂM

Hà Bạch Trúc

Chỉ còn vài ngày nữa là đến Tết Nguyên Ðán.  Năm nay tết đến sớm, chỉ mới ba tuần sau tết tây là đã đến tết ta. Ðứng co ro trên thềm ga, tôi bỗng nhớ đến không khí se se lạnh của Sài Gòn trong những ngày cận Tết. Tôi thấy tôi, con bé nhỏ xiú, chạy chơi quanh cột đèn trước sân trường vắng lặng, đợi nhà đến đón trễ hôm đó vì mẹ tôi phải đi chợ Tết.

Bước lên xe lửa, tôi tìm một chỗ vắng người để yên tĩnh ngồi hoạch định trong đầu những điều phải làm cho việc chuẩn bị tết. Hình như xe lửa chiều nay vắng hơn mọi hôm, hay là người ta đã bắt đầu nghỉ làm để chuẩn bị tết? Nghĩ xong tôi mới biết mình lẩn thẩn, sắp đến tết ta chứ có phải tết tây đâu mà bảo tây nó nghỉ làm để chuẩn bị. Mình đang ở Hòa Lan chứ có phải ở VN đâu, tôi tự nhủ. Trên cả toa xe lửa 62 chỗ ngồi này, chắc gì có ai khác ngoài mình ra biết được sắp đến ngày Tết Nguyên Ðán Việt Nam?

Cởi áo choàng ra, tôi theo thói quen vừa ngồi xuống là nhắm mắt lại ngay, buổi sáng là để tiếp tục giấc ngủ đang ngon mà phải thức dậy đi làm, buổi chiều là để lấy lại sức chút đỉnh trước khi về đến nhà cơm nước cho chồng con. Hôm nay thì khác, nhắm mắt lại là để tính chuyện tết. Tôi nghe loáng thoáng tiếng mấy người khách Hòa Lan bước lên xe lửa, trò chuyện với nhau và lục đục ngồi xuống mấy băng ghế chung quanh. Chuyến xe lửa cuối ngày này thường chỉ toàn Hòa Lan người thì đi làm về kẻ thì đi học về. Phần lớn họ cũng như tôi đều làm việc trong thành phố Amsterdam nhưng nhà ở ngoại ô hay ở các tỉnh kế cận Amsterdam. Ðể tránh nạn kẹt xe trầm trọng trên khắp các nẻo đường dẫn đến Amsterdam vào buổi sáng và rời khỏi thành phố vào buổi chiều, phần đông chọn giải pháp xe lửa, đỡ bị stress và đến sở cũng như về đến nhà đúng giờ giấc.

Ðang lơ mơ sắp xếp nào là thứ Tư đặt thịt, lỗ tai heo, lưỡi heo (chắc ông hàng thịt Hòa Lan lại tròn mắt nhìn tôi kinh dị tự hỏi không biết cô này mua mấy thứ phế thải này để làm gì, cho ai ăn hay cho con gì ăn đây), thứ Sáu lấy thịt, thứ Bảy làm giò thủ, Chủ nhật  gói bánh tét, thứ Hai làm dưa món, dưa giá, thứ Ba đi tiệm Tàu ở Amsterdam mua mứt, mua hột dưa, thứ Tư kho thịt, hầm giò heo, xào miến, cúng ông bà ... bỗng nhiên tôi nghe có ai nói tiếng Việt Nam loáng thoáng bên tai. Tôi mở bừng mắt ra, vừa ngạc nhiên vừa mừng thầm trong bụng. Tiếng Hòa Lan thì ngày nào tôi cũng nghe ra rả bên tai từ sáng tới chiều, chứ tiếng Việt Nam thì ngoại trừ ở nhà với ông xã và hai thằng con trai còn ra ngoài đường hầu như không bao giờ tôi được nghe hết.

Thì ra có ba cô gái Việt Nam vừa đến ngồi đối diện với tôi. Người nào cũng kệ nệ mấy cái túi xách đầy ắp đồ ăn, đồ hộp mua ở mấy cái tiệm tàu Amsterdam. Không biết ba cô này ở đâu, chắc chắn không phải ở chỗ tôi rồi, vì trông ba cô lạ lắm. Hai cô dáng người đầy đặn, vẻ mặt nghiêm chỉnh và có vẻ lớn tuổi hơn. Còn lại một cô trông còn trẻ, dáng người thon thả xinh xắn, vẻ mặt sáng sủa và đặc biệt đôi mắt tinh nghịch vô cùng. Ba người ngồi phịch xuống ghế, mấy túi đồ ăn ngổn ngang chung quanh, chưa kịp cởi áo choàng ra thì xe lửa đã kéo còi rời ga và bắt đầu xình xịch chuyển bánh.

Bụng tôi tự nhiên thấy vui vui. Gần ngày cuối năm, chiều đi làm về mệt, trên một chuyến xe lửa toàn người bản xứ, gặp được người đồng hương, đồng ngôn ngữ, đồng phong tục, thử hỏi còn gì hơn? Tôi nhỏe miệng cười làm quen, vừa định hỏi “Mấy cô đi chợ mua đồ ăn Tết hả?” thì tôi nghe cô trẻ tuổi cất tiếng hỏi hai người bạn:

- “ Mấy bà có mệt không?”

Một trong hai người kia chầm chậm trả lời:

- “ Mệt thấy mồ. Thấy cái gì cũng ham, mua nhiều quá xách mệt muốn chết!”

Cô gái trẻ nhanh nhẩu đối đáp liền:

- “Mệt thì lấy thạch dừa ra ăn cho đở mệt!”.

Nói xong không đợi ai trả lời, cô ta liền moi trong giỏ xách ra một keo thạch dừa và một cái muỗng nhỏ không biết đem theo từ lúc nào. Bằng một cử động gọn gàng thuần thục cô ta vặn nắp kéo bật mở một cách dễ dàng. Rồi một tay cầm keo thạch dừa, một tay cầm muỗng, cô ta múc thạch ăn một cách ngon lành, bất kể mấy người Hòa Lan ngồi gần đó nhìn cô một cách lạ lùng ngộ nghĩnh. Hai người bạn cũng theo gương cô gái trẻ mỗi người một keo thạch dừa, múc ăn ngon lành, vừa ăn vừa trò chuyện với nhau bằng tiếng Việt Nam thật tự nhiên, không đếm xỉa gì đến mọi người chung quanh. Xe lửa đã qua mấy trạm rồi mà ba cô vẫn còn ăn uống và chuyện trò như pháo nổ.

Thấy mấy cô ăn uống say sưa thoải mái quá, tôi không muốn phá vỡ không khí riêng tư của các cô bằng cách chen vào câu chuyện, vả lại cũng không biết phải mở đầu như thế nào, cho nên tôi ngồi yên nhìn ra cửa sổ theo đuổi những ý nghĩ của mình. Bỗng tôi nghe cô gái trẻ cất giọng thật chua:

- “ Tôi đố mấy bà vậy chứ bà này người gì?”

Không cần nhìn không cần suy nghĩ, tôi cũng biết cô ta đang nói về tôi. Trong toa xe lửa, ngoại trừ tôi và ba cô gái ra không có ai khác là người Á đông cả.

Không chờ hai người bạn phản ứng, cô gái trẻ trả lời tiếp luôn:

- “ Tôi dám cá bà này là người Nhật Bổn đó. Không đúng tôi cho mấy bà đánh tôi đó. Mấy bà nghĩ bả là người gì?”.

Một trong hai cô thận trọng trả lời:

- “Ai mà biết. Chắc là người Á Ðông thôi”.

Lại giọng nhí nhảnh của cô gái trẻ:

- “ Tôi nói là người Nhật Bổn đó. Tướng của bả sang như vậy chắc chắn là người Nhật thôi”.

- “ Nhỏ này nhiều chuyện thật” tôi nghĩ, vừa bất ngờ trước sự bạo dạn quá lố của cô gái trẻ, vừa tức cười hết sức trước tình cảnh khôi hài và đột ngột mà tôi bị đặt vào. Bây giờ thì tôi không thể mở miệng được nữa rồi. Chẳng lẽ mở miệng nói “ Không, tôi không phải là người Nhật. Tôi là người Việt Nam” thấy nó vô duyên làm sao ấy. Tôi thấy tốt nhất là mình ngồi yên luôn, làm bộ như không hiểu không biết gì hết, thử coi cô bé này còn dở trò gì nữa đây.

Thế là tôi tỉnh bơ tiếp tục nhìn ra cửa sổ, xe lửa chạy băng băng qua mấy cánh đồng vắng chỉ thấy bò và nông trại ở xa xa. Cho đến lúc người soát vé bước vô, cất tiếng chào và kêu mọi người xuất trình vé, tôi trình cạt xe lửa nguyên năm của tôi cho ông gìa soát vé xem, và khi ông ta nói “Cám ơn” thì tôi tự động phát ra câu trả lời “Alstublieft” (You’re welcome).  Tức thì bên kia hàng ghế tôi nghe giọng nói chanh chua của cô gái trẻ cất lên, lại cái cô gái trẻ này:

- “Ðó mấy bà thấy chưa. Tôi nói có sai đâu. Bả là người Nhật mà, nói tiếng Hòa lan hay dễ sợ”.

Phải cố gắng hết sức tôi mới nín cười được. Thật tình cái cô gái xí xọn này làm tôi khó xử hết sức. Gặp người đồng hương, trong một buổi chiều cuối năm cận Tết, nhớ nhà, nhớ quê mà cứ mỗi lần muốn bắt chuyện lại bị chận miệng một cách vô duyên như thế này thì thật là trớ trêu hết sức. Thôi thì nhắm mắt lại, tập trung tinh thần lo chuyện Tết của mình đi là hơn, đừng thắc mắc xía vô chuyện của người khác nữa. Nghĩ là làm, tôi ngồi yên nhắm mắt được một lúc, cảm thấy hơi thở bắt đầu đều đặn và thoải mái.

Tôi giật mình khi nghe giọng nói của cô gái trẻ lại cất lên:

- “ Mặt bà này khó chịu thiệt”.

Trời ơi nhỏ này xí xọn quá đi thôi. Tôi cứng họng không biết phải nói gì bây giờ. Nãy giờ mình không nói gì hết, bây giờ người ta nói mình như vậy mình mới mở miệng thì quê quá. Tôi loay hoay với những ý tưởng trong đầu, tự hỏi không biết phải phản ứng như thế nào đây, nói hay không nói và nói cái gì bây giờ. Thật chưa bao giờ tôi bị đặt trong một tình cảnh  khôi hài như vậy. Ðể che dấu sự bối rối của mình và cũng để nín cười, tôi mở bóp lấy cai kẹo bỏ vô miệng nhai.

Tức thì bên kia hàng ghế lại cất lên giọng nói chua thật là chua của cô bé:

- “ Xấu thiệt, ăn một mình hổng mời ai hết”.

Ðến nước này thì không thể nhịn được nữa rồi. Ðây chính là lúc mà tôi chờ đợi.

Tôi chìa phong kẹo ra trước mặt cô gái trẻ. Nheo mắt, nở nụ cười thật tươi, tôi cất tiếng mời cô một cách rất lịch sự: - “Ăn không?” bằng tiếng Việt Nam thật ngọt ngào và thật rõ ràng.

Cô bé mở to đôi mắt kinh hoàng, ôm mặt rú lên một tiếng “Ồ” thảng thốt. Rồi cứ thế cô ta ôm mặt trong hai bàn tay che kín, không thốt ra được một lời nào nữa mặc dù miệng mở tròn vo. Hai người bạn gái thì rú lên cười nắc nẻ, vừa cười vừa xiả sói cô gái trẻ:

-  “Chết mày chưa, cho mày chết luôn, cái tật nhiều chuyện”.

Vừa lúc đó xe lửa đỗ lại ở ga Purmerend. Ba cô gái Việt Nam vơ vội mấy cái túi xách đồ ăn rồi vừa cười vừa xô nhau chạy nhanh ra khỏi xe lửa. Tôi còn thấy dáng cong cong của ba cô gập người vừa chạy vừa cười trên thềm ga nhỏ.

Xe lửa xình xịch chuyển bánh. Còn hai trạm nữa là đến ga tôi xuống. Tôi nghĩ bụng: “Tết này sẽ có chuyện vui để làm quà đầu năm cho chồng con và bạn hữu”.
 



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 29/Dec/2010 lúc 11:02pm
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 24117
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 01/Jan/2011 lúc 11:46pm
Tình Người
--------------------------
Huyên Chương Quý




“ Em vì hiếu thuận với cha mẹ nên không trọn được tình với anh . Anh thứ lỗi cho em …. ” Câu nói này của Huyền tôi nghe hình như quen tai lắm , đâu đó trong các phim bộ Tàu , hay trong các vở tuồng cải lương của người Việt mình !. Nhưng thấy cũng rất đúng trong trường hợp của tôi với Huyền . Cha mẹ Huyền không bằng lòng cho Huyền lấy tôi , cho rằng tôi nghèo , không thân , không thế , không thể nào đem lại đời sống hạnh phúc cho Huyền ! . Chúng tôi chia tay trong nước mắt ! . Lần đầu tiên trong đời tôi khóc vì một cuộc tình buồn !. Tôi phải rời khỏi Quận Cam này ngay . Tôi phải đi đâu thật xa . Thật xa . Để không còn nhìn thấy lại những con đường quen thuộc có tôi với Huyền cùng tay trong tay chung bước . Để không còn nhìn thấy lại căn tiệm cà phê của cha mẹ Huyền , có bóng dáng xinh đẹp của Huyền với đôi mắt bồ câu đen lay láy và nụ cười duyên dáng nở trên môi mỗi khi thấy tôi đến . Tôi hy vọng ở một nơi xa khuất , lạ chổ , lạ người , tôi có thể dần quên đi Huyền . Vậy là tôi lên đường , với hành lý chỉ có một va li nhỏ quần áo và vỏn vẹn 300 đồng trong túi …
….
Trên đường phiêu lãng , tôi ghé San Jose để thăm một anh bạn sơ giao tên Phan , quen năm ngoái ở quán cà phê Dễ Thương , Quận Cam . Sẵn nhà còn trống một phòng nên ảnh bảo tôi hãy ở lại và kiếm việc làm , có tiền lương cuối tháng thì trả tiền nhà cho ảnh . Nghe theo lời ảnh , tôi vào làm bồi bàn cho một nhà hàng , lương 6 đồng một giờ . Ngày đầu làm việc , tôi bị mấy bạn làm chung đố kỵ vì nghe chị chủ khen tôi nhanh nhẹn . Họ đâm thọc với mấy chị trong bếp , khiến mấy chị thấy ghét tôi . Trong lúc đứng trong bếp chờ bưng thức ăn , có chị đứng quay lưng về phía tôi và nói móc :
- Đứng chật chổ thêm !.
Một chị khác nói hùa theo :
- Có làm được gì đâu mà cũng khen !
Ngày hôm sau , trong lúc đang dọn bàn , tôi nghe vài bạn chụm lại nói với nhau :
- Nó chỉ lãnh tiền giờ , không có chia típ đâu . Coi chừng nó ăn cắp tiền típ của tụi mình đó .
Tôi biết cái nạn “ ma cũ ăn hiếp ma mới “ ở đâu cũng có , nên tôi cố gắng nhẫn nhịn , không đôi co với ai . Nhưng , một bạn khác còn chơi xấc hơn , trong lúc tôi bưng thau chén dĩa dơ đi ngang , đã thình lình đưa chân ra chặn bước chân tôi . Tôi ngã chúi về phía trước , nhưng may kịp lấy được thăng bằng , không bị té . Tôi không trách móc gì , chỉ lẳng lặng bưng thau chén dĩa vào trong bếp , nghe sau lưng có tiếng chị chủ la anh bạn đó :
- Mày còn chơi vậy lần nữa là tao đuổi mày ngay !
Cố gắng làm đến giờ đóng cửa , tôi xin nghỉ việc . Hai ngày sau , tôi vào làm cho môt nhà hàng khác , cũng bị nhiều chuyện phiền phức bởi sự sân si , ganh ghét . Tôi lại xin nghỉ . Tôi nghĩ , San Jose là thành phố đông người Việt nhất trên xứ Mỹ này , cả trăm ngàn người Việt đang được an cư lạc nghiệp , sao tôi có thể không được ? Nghĩ vậy , tôi lại tìm việc làm . Bà bạn thân của anh Phan kêu tôi đi phụ bán chợ trời 2 ngày cuối tuần cho bả . Một người làm khác được bả trả 60 đồng một ngày . Riêng tôi , hai ngày qua cũng khuân vác , phụ bán hàng , rồi dọn dẹp , rất mệt , nhưng lại không được trả tiền công . Tôi hỏi , bả trả lời :
- Có ăn , có uống cả ngày là may rồi . Đang thất nghiệp mà đòi hỏi !
Tôi nói lại cho anh Phan biết , ảnh lại binh vực bà bạn của ảnh :
- Bả nói vậy không đúng sao ? Nếu không , thì Quý chết đói . Tôi đâu có nuôi cơm Quý được . Nếu Quý không thích vậy thì đi đâu thì đi .
Chán cho tình đời ! Tôi quyết định rời khỏi nhà anh Phan , đi San Francisco . Bấy giờ là đầu tháng 10 , 1996 .
……
Từ bến xe Grey house , tôi kéo va li đi dọc theo đường 4 TH , hướng về những tòa nhà cao ngất ngưỡng . Tôi biết chỉ có Downtown mới có nhiều tòa nhà cao như vậy . Tôi nhìn đồng hồ , đã 9 giờ tối rồi . Khí trời mát mẻ . Bầu trời thăm thẳm, ngàn sao lấp lánh , có Chị Hằng sáng tỏ đang bay theo bước chân phiêu lưu của tôi . Phiêu lưu thật , vì tôi chỉ còn 100 đồng và chẳng quen biết ai ở San Francisco mà cũng cứ đâm sầm đến , để tìm một lãng quên tình cảm !
Trước mặt tôi là đại lộ Market , có nhiều cây cao dọc hai bên đường . Xe cộ chạy qua lại dập dìu . Ở giữa đại lộ có tuyến đường sắt dành cho xe điện . Một chiếc xe điện từ xa đang chạy đến . Tôi hỏi một người Mỹ đen đang đứng ở góc đường xe điện đó chạy đi đâu, anh cho biết chạy về Castro , khu dân Gay . Không phải chổ của tôi . Tôi nhờ anh chỉ đường đi đến Chinatown rồi tiếp tục kéo chiếc va li đi .Từ lâu , tôi vẫn nghe bạn bè cho biết nước Mỹ có hai khu Chinatown lớn nhất , lâu đời nhất của người Hoa . Một ở New York và một ở San Francisco . Tôi nghĩ thầm , đến ở khu người Hoa chẳng ai biết mình , sống và làm việc với họ chắc dễ chịu hơn.
Đi theo đường Kearny qua khỏi đường California , tôi biết mình đã đi vào Chinatown , vì trước mắt là những cửa tiệm sáng trưng có bảng hiệu chữ Tàu . Tôi mừng rỡ bước nhanh hơn về phía trước . Cả khu phố Broadway sáng rực ánh đèn . Người Mỹ , người Hoa qua lại tấp nập ở hai bên đường . Tôi dừng lại , châm một điếu thuốc hút , nhìn ngó cảnh trời Chinatown về đêm thật đẹp , thật rộn ràng sức sống . Trước mặt tôi , nhiều tiệm Showgirl chạy đèn chớp chớp , có nhiều cô Mỹ trắng trẻ đẹp mặc quần áo hở hang đứng trước cửa , uốn éo thân mình mời khách qua đường . Một chị Mỹ đen thấy tôi hút thuốc thì đi đến xin . Tôi móc ra ngay 3 điếu đưa cho chị . Hai anh Mỹ đen khác đứng gần đó thấy vậy cũng chạy lại xin . Tôi cũng đưa mỗi anh 3 điếu . Một anh nói :
- You good men !. Can you give me one dollar ?
Tôi lại móc túi lấy cho mỗi anh một đồng , rồi hỏi chổ nào có hotel rẻ tiền . Nhờ sự chỉ dẫn của họ , tôi có được một giấc ngủ thật ngon lành trong một hotel của người Hoa với giá 35 đồng một đêm . Hôm sau tôi đi tìm việc làm ngay . Khu chợ Tàu mới 9 giờ sáng đã đông nghẹt người Hoa qua lại hai bên đường . Đi không khéo có thể dẫm chân nhau hoặc đụng vào nhau . Tôi vào từng cửa tiệm để hỏi việc , nhưng đều bị từ chối . Chổ thì chê tôi ốm yếu không làm được việc nặng . Chổ đòi phải biết nói tiếng Hoa mới nhận . Nhiều chổ khác cho biết đã đủ người rồi , kêu tôi cho số phone nhà , khi cần sẽ gọi . Tôi làm gì có phone nhà ! Lại đi lòng vòng hỏi việc cho đến chiều , tối về lại hotel ở thêm một đêm nữa . Tôi bắt đầu lo lắng . Chỉ còn có 20 đồng , ngày mai mà không tìm ra việc làm thì biết ăn đâu , ở đâu ? ! …
Thêm một ngày tìm không ra việc làm , tôi trở thành người Homeless !. Buổi tối đầu tiên của đời không nhà , tôi ngủ trên lề đường 4 TH gần bến xe Grey house . Nửa đêm , trời trở lạnh , khí lạnh từ nền xi măng bốc lên thấm vào da thịt lạnh buốt khiến tôi phát run . Tôi ngồi dậy mặc thêm 5 cái áo vào người rồi nằm co ro cố ngủ tiếp . Giấc ngủ chập chờn nửa tỉnh , nửa mê !. Đến sáng , ăn cái bánh ngọt xong tôi lại kéo chiếc va li đi vào Chinatown tìm việc làm . Các chủ tiệm thấy tôi kéo theo vali thì biết tôi là dân Homeless nên đều lắc đầu . Còn có 5 đồng , tôi vào một tiệm “ food to go “ ăn trưa , mua thêm vài cái bánh để tối ăn . Thế là cạn túi !. Ăn xong , tôi hỏi chị chủ tiệm có cần thêm người làm không . Chị cũng lắc đầu và chỉ đường cho tôi đến hỏi việc ở khu thương mại của người Việt . Người Việt ở San Francisco không nhiều , khoảng mười mấy ngàn người , nên khu thương mại chỉ tập trung trên đường Larkin . Tôi kéo va li đi qua các cửa tiệm người Việt , chỉ nhìn nhìn mà không dám vào hỏi việc , vì mặc cảm đang bị homeless !. Hoàng hôn đến , tôi lại về bến xe . Tôi bắt chước mấy người Mỹ homeless khác , tìm vài thùng carton ở thùng rác lót làm chổ nằm . Dù đã mặc thật nhiều áo , tôi cũng bị thức dậy lúc nửa đêm vì khí trời lạnh rét . Một chiếc xe dân chơi về đêm chạy ngang , không hiểu sao chạy chậm lại , ném lon bia đang uống vào người tôi rồi cười ha ha và vọt xe chạy nhanh . Trời đất ơi ! Tên nào ác ôn thế ?! Sao mà khốn kiếp vậy ?! Tôi lầm bầm rủa thầm rồi cởi cái áo ướt nước bia ra , mặc thêm vài áo khác vào . Tôi không ngủ được nữa , ngồi co ro chịu đựng cơn lạnh đến sáng .
Tôi vẫn cứ ngồi co ro vậy cho đến mặt trời lên trên đỉnh đầu . Đói bụng quá ! Làm sao đây ?. Một thời làm Bầu show ca nhạc , vui sướng tận cùng , bây giờ phải đi ăn xin sao ?! Tôi nghĩ thầm rồi bất chợt nước mắt tuôn trào . Khóc một hồi , tôi nằm dài ra trên tấm carton ngủ một giấc đến tối thì thức dậy . Tôi nhớ lại Quang , người bạn tốt thâm niên của tôi ở Houston , có dặn nếu bị gì thì phone cho Quang để Quang gửi tiền cấp cứu . Tôi đến một trạm phone công cộng , mấy lần nhấc phone lên rồi đặt xuống . Tôi thấy xấu hổ với bạn , nên thôi . Cái đói lại cồn cào bao tử tôi suốt đêm . Trưa hôm sau , thật may mắn , một anh Mỹ đen , cũng dân Homeless , đến ngồi bên tôi , hỏi :
- Are you hungry ?
Tôi mau mắn trả lời :
- Yes . I am very hungry !
Anh Mỹ đen kéo tay tôi đứng dậy :
- Ok , go with me .
- Where are we go ?
- Go to The Church for eat .
Tôi mừng quá đi theo anh . Đến nơi , tôi đã thấy một hàng dài mấy trăm người Mỹ homeless đang chờ vào nhà thờ để ăn bửa cơm từ thiện . Đứng vào hàng rồi , nước mắt tôi tự nhiên lại ứa ra ! Tôi đã thật sự là dân Homeless ở thành phố xa lạ này !.
Nhờ có nhà thờ ở đường Jones giúp cho ăn bửa trưa , tôi tạm thời giải quyết được cái bao tử lây lất qua ngày . Cứ ngày thì đến nhà thờ ăn trưa , tối về bến xe , nhịn đói , và ngủ trong trời giá lạnh . Tính ra đã bị homeless nửa tháng rồi . Một hôm , sau khi ăn trưa ở nhà thờ , tôi đến công viên ở khu Civic Center trên đường Larkin , ngồi trên ghế đá nhìn trời mây bao la mà buồn cho thân phận . Anh Mỹ trắng ngồi gần bên thấy tôi có chiếc va li mới hỏi :
- Are you Chinese ? Where are you come from ?
Tôi nhìn anh một lúc rồi trả lời :
- Yes , I am Chinese . I came from Orange County , South California . I have been here for 3 weeks . Now , I am homeless . No home , no money !
Anh cũng nhìn tôi một lúc rồi nói :
- Why you don’t go to Social Office ? They’ll help you Food Stamps emergency and Voucher hotel for seven days .
Trong hoạn nạn , vì quá buồn , tôi đã quên mất chương trình An sinh Xã hội giúp người khốn khổ. Tôi cũng không ngờ ở thành phố San Francisco này lại có thêm chương trình giúp Voucher hotel cho người lỡ đường không có chổ ở . Mừng quá , tôi nói :
- I don’t know where Social Office . May you help me ?
- Ok . I help you . Go !
Thần may mắn đã mỉm cuời với tôi !. Anh Mỹ trắng tốt lòng dẫn tôi đến trước cửa Sở Xã hội, dúi vào tay tôi tờ giấy 10 đồng rồi bỏ đi ngay . Tôi cảm ơn anh nhiều lần . Anh đi đã hơi xa nhưng còn ngoái đầu lại nói : Good luck ! . Tôi thấy xúc động , nước mắt lại ứa ra . Từ khi thất tình Huyền đến những ngày homeless vừa qua , tôi trở thành “ mít ướt “!. Trời sinh ra con người cũng ngộ : Buồn khổ , đau thương thì khóc đã đành ; cảm động , vui mừng cũng khóc !.
Điền các thứ giấy tờ xong , tôi ngồi chờ khoảng một tiếng thì được gọi vào gặp cán sự phỏng vấn . Người tiếp tôi là một chị người Việt , tên Tường , khoảng 45 tuổi . Chị nói chuyện nhỏ nhẹ , dịu dàng . Nghe tôi kể hoàn cảnh cha mẹ , anh chị em ruột thịt đã chết hết trong chiến tranh Việt Nam , qua Mỹ một mình , bị thất tình rồi trải qua những ngày homeless , chị tỏ ra cảm thông :
- Tội nghiệp em quá !. Chị ở San Fran này 20 năm rồi , lần đầu tiên mới thấy một người Việt bị homeless như em . Trông em ốm quá ! Có bị bệnh không ?
- Dạ , trong hơn nửa tháng qua , mỗi ngày em chỉ ăn có một bửa trưa ở nhà thờ . Tối lại lạnh quá nên ngủ không được . Nhiều hôm bị cảm sốt , cũng phải rán chịu đựng . Em bị khủng hoảng tinh thần , cảm thấy chán đời lắm ! .
Chị Tường thở dài rồi tiếp tục ghi chép hồ sơ . Sau đó , chị bảo tôi ký tên vài chổ trên hồ sơ và nói :
- Em được trợ cấp Food Stamps mỗi tháng 145 đồng để ăn uống . Còn đây là phiếu ở tạm Shelter 3 ngày . Nơi đó có tắm rửa , ăn uống , giường ngủ đàng hoàng , lại có bác sĩ MD mỗi chiều đến khám bệnh cho thuốc uống . Em hãy xin bác sĩ làm giấy chứng nhận em có bệnh . Sau 3 ngày , em trở lại đây để nhận Voucher ở Hotel 7 ngày , và cán sự phụ trách y tế sẽ phỏng vấn em lần nữa . Nếu được họ thông qua , em sẽ được trợ cấp tiền mỗi tháng 345 đồng để tiêu xài và mướn chổ ở lâu dài , không còn lo homeless nữa .
Nóí xong , chị móc ví lấy ra tờ giấy 20 đồng đặt vào tay tôi . Chị nói :
- Đây là chút tấm lòng riêng của chị . Trong khi chưa có tiền trợ cấp , em giữ để tiêu xài lặt vặt . Chị chúc em từ nay về sau sẽ luôn gặp nhiều may mắn .
Tôi cảm động quá , chẳng biết nói gì , chỉ biết cảm ơn chị rồi đứng dậy . Chị tiển tôi ra tới ngoài cửa văn phòng .
….
Shelter là nơi tạm trú ngắn hạn dành cho người Homeless . Mỗi Shelter có quy định riêng . Shelter dành cho phụ nữ thì cho ở từ một tháng trở lên , đến khi nào phụ nữ đó có đời sống ổn định . Shelter dành cho nam giới , tùy theo trường hợp , cho ở 3 ngày , một tuần , tối đa là một tháng . Có Shelter còn trống một số giuờng thì cho xổ số hàng đêm để người Homeless nào trúng số thì được vào ngủ , chỉ một đêm , hôm sau là phải đi . Shelter tôi ở có hai tầng , tọa lạc trên đường 10 TH gần đại lộ Market . Buổi chiều , người Homeless đã tụ về đông đảo , tụm năm tụm ba nói chuyện ồn ào trong phòng sinh hoạt . Đa số là Mỹ đen . Tôi làm thủ tục nhận giuờng ở tầng 2 xong là vội vàng đi tắm . Sau hơn nửa tháng dơ bẩn ngoài đường , giờ được tắm , cảm giác vui sướng không thể tả hết được !. Tắm xong cũng vừa tới giờ ăn chiều . Đến 7 giờ tối , có bác sĩ và y tá đến khám bệnh . Vị bác sĩ và cô y tá trẻ đều có nụ cười luôn nở trên đôi môi , ân cần hỏi han từng bệnh nhân . Tôi cũng được khám và được cho thuốc uống . Tôi xin bác sĩ viết giấy chứng nhận bệnh cho tôi , ông vui vẻ làm ngay .
Tôi đã có 3 ngày sống thật an vui trong Shelter . Hết hạn , tôi lại kéo va li đến Sở Xã Hội . Lần này , người phụ trách hồ sơ của tôi là chị Liên , trông trẻ hơn chị Tường . Sau khi đưa cho tôi Voucher hotel 7 ngày , chị dẫn tôi qua phòng cán sự phụ trách về y tế cho họ phỏng vấn bệnh trạng của tôi . Thật may mắn , tôi được thông qua . Tôi trở lại bàn làm việc của chị Liên . Chị cười thật tươi và nói :
- Như vậy là anh Quý được hưởng tiền trợ cấp mỗi tháng 345 đồng rồi đó . Tiền này anh không phải trả lại . Tiền trợ cấp chỉ ngưng khi anh khoẻ mạnh và đi làm , có lợị tức sinh sống . Tôi có nghe chị Tường nói lại , về hoàn cảnh của anh . Tôi cũng thấy xót xa cho anh lắm . Anh ngồi chờ tôi hoàn tất hồ sơ cho anh nhé .
- Vâng , cảm ơn chị nhiều .
Khoảng nửa tiếng sau , chị Liên bảo tôi ký vài chổ trong hồ sơ rồi cười thật vui vẻ :
- Chúc mừng anh qua cơn hoạn nạn ! Anh đạo gì vậy ?
- Tôi đạo Phật .
- Tôi thì đạo Công giáo . Đạo nào cũng tốt thôi . Tôi có cái này tặng anh .
Chị mở túi xách lấy ra một bao thư , rồi mở bao thư lấy ra một thánh giá nhỏ bằng vàng đưa cho tôi , chị nói :
- Đây là thánh giá vàng thật . Anh cất vào bóp để có được sự may mắn . Chúa sẽ luôn phù hộ anh . Còn 20 đồng trong bao thư là tấm lòng tôi , cũng giống như chị Tường vậy . Để anh tiêu lặt vặt . Vì một tuần sau anh mới nhận được tiền trợ cấp của chính phủ . Anh nhận cho tôi vui .
Tôi lại thêm một lần xúc động , nhưng cố gắng kềm nén không cho nước mắt trào ra . Một lúc sau , tôi mới nói được nên lời :
- Tôi thật không biết nói như thế nào để tỏ lòng biết ơn chị Liên và chị Tường . Tôi thật may mắn gặp được hai chị tốt quá . Một miếng khi đói bằng một gói khi no . Tôi sẽ luôn nhớ đến tình cảm tốt lành của hai chị dành cho tôi . Tôi kính chúc chị và gia đình luôn mạnh khoẻ , an vui . Tôi cảm ơn chị nhiều .
Chị Liên cũng tiển tôi ra tới cửa . Chị dặn :
- Tôi phụ trách hồ sơ của anh , nếu có gì thắc mắc thì anh cứ gọi phone đến Sở Xã Hội, bấm thêm mã số của tôi thì sẽ nói chuyện được với tôi . Chúc anh nhiều may mắn .
Tôi cảm ơn chị và cúi đầu chào chị rồi kéo va li đi . Vừa ra khỏi Sở Xã Hội , tôi giơ thẳng cánh tay trái lên và hét lớn :
- Vui quá Trời ơi ! Ông Bà , Ba Mẹ , Anh Chị Em của Quý ơi ! Con vui sướng quá ! Con hết homeless rồi !...Hết homeless rồi !...
Sau một tuần ở hotel , cũng vừa lúc tôi nhận được tiền trợ cấp 345 đồng và Food Stamps 145 đồng . Tôi lại may mắn xin được trợ cấp Housing của City San Francisco dành cho người lợi tức thấp , và tìm được một building cho mướn phòng theo chương trình Housing , chỉ 98 đồng một tháng Cuộc sống ổn định , tôi có lại những ngày tháng an vui , lo học hành thêm để có được sự thăng tiến đời sống cho những năm tháng về sau này .
….
Trong những ngày tháng êm đềm về sau này , tôi nhớ lại … Có lần trong giấc ngủ dưới gầm cầu xa lộ gần bến xe , tôi chợt cảm thấy một luồng hơi ấm từ dưới đôi chân chạy dần lên tới ngực , rồi tới đầu , giúp cho tôi chống lại được tiết trời San Francisco giá lạnh . Và Mẹ tôi hiện ra bên cạnh tôi , đẹp rạng rỡ như nàng tiên trong chuyện cổ tích tôi thường đọc thời thơ ấu . Mẹ âu yếm vuốt tóc tôi và dịu dàng nói : “ Con đừng bao giờ chán nản cuộc sống dù có gặp muôn ngàn cay đắng , khổ đau . Con phải dũng cảm vươn lên , vượt qua những phong ba , bão tố để sẽ tìm thấy được bờ bến yên lành , hạnh phúc . Cuộc đời có lấy ở con cái này thì sẽ cho con có được cái khác . Con hãy luôn ghi nhớ ở hiền thì sẽ gặp lành . Số con có Ơn Trên Thiêng Liêng phù hộ . Sẽ có rất nhiều người tốt thương mến , giúp đỡ con trên những bước gian nan của cuộc đời . Sau này , khi có được sự thành công , con hãy trả ơn đời bằng cách luôn yêu thương tất cả mọi người , làm thật nhiều việc thiện cứu giúp những người bất hạnh , khổ đau khác . Và con còn phải lo giúp Dân giàu Nước mạnh ..” Ví thử cuộc đời bằng phẳng cả , Anh hùng hồ dễ có mấy ai ?...”
Mẹ tôi ngâm khe khẻ hai câu thơ trên rồi biến mất . Tôi chìm vào giấc ngủ , một giấc mơ khác lại đến . Tôi thấy tôi bay bay trong không gian trong lành tràn ngập ánh sáng dìu dịu . Hồn tôi lâng lâng vui sướng . Tôi thấy thế giới này trở thành một Thiên Đàng . Tôi bay đi khắp cùng trái đất . Đâu đâu cũng có cảnh sắc đẹp tuyệt vời , cỏ cây tươi xanh , ngàn hoa khoe sắc thắm tỏa hương thơm ngát , và chim muông nhảy nhót , líu lo bên cạnh con người . Con người ở khắp năm Châu đều có cuộc sống an bình , phồn vinh , thịnh vượng . Không còn có sự đe dọa của bom nguyên tử và những vũ khí độc hại tàn sát loài người . Không còn có những kỳ thị màu da , sắc tộc , tôn giáo . Không còn có những tranh chấp lợi quyền , hận thù , ganh ghét giết hại nhau . Nhân loại sống với nhau thật hiền lành , hòa ái , yêu thương , giúp đỡ lẫn nhau cùng có được đời sống an lạc , vui sướng , hạnh phúc vĩnh cửu . Thiên hạ thái bình !...
Giấc mơ đó bao giờ sẽ trở thành sự thật ??? …
….
Như trăng có khuyết , có tròn , như ngày có mưa , có nắng , như khí hậu có thời lạnh , thời nóng ; ý nghĩa “ tình người “ cũng có hai mặt tương phản : xấu và tốt . Nhưng thường , người ta hiểu hai chữ “ tình người “ theo ý tốt : Lòng Bác Ái . Trường hợp tôi ở San Francisco , cũng vậy . Tôi đã gặp được những con người xa lạ không có tình thân thuộc , nhưng đã hết lòng giúp đỡ tôi vượt qua nghịch cảnh . Và , nhớ lại thời hoạn nạn vượt biển , vượt rừng của mấy triệu người Việt tỵ nạn , có tôi trong đó , cũng nhờ có Tình Người của hàng tỉ người dân nhiều nước trên thế giới , thể hiện Lòng Bác Ái thông qua Cao Ủy Liên Hiệp Quốc , Hồng Thập Tư Quốc Tế , đã cứu giúp tất cả chúng ta có được cơm no, áo ấm ở trại tỵ nạn , và nhận hưởng ánh sáng tự do , dân chủ ở các nước thứ ba , để từ đó được thăng hoa đời sống , hình thành Cộng đồng người Việt hải ngoại phát triển lớn mạnh như ngày nay . Riêng tại Mỹ , đã có hơn một triệu rưởi người Việt đang có được cuộc sống thành công , vui sướng . Xin trân trọng biết ơn nhân dân Mỹ , chính phủ Mỹ , Cao Ủy Liên Hiệp Quốc , Hồng Thập Tự Quốc Tế , cùng hàng tỉ con người có Lòng Bác Ái trên trái đất này . Và , xin được tuyên vinh hai chữ : Tình Người !.






Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 02/Jan/2011 lúc 12:02am
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 24117
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 16/Jan/2011 lúc 8:40pm
CÁI XE GỖ
 Phương Lan
 

Trời đã quá trưa rồi mà ông Năm vẫn chưa chịu dừng tay để nghỉ ngơi, ông vẫn cặm cụi làm việc ở dưới mái hiên phía sau nhà, để hết tâm trí vào việc đẽo gọt cái xe bằng gỗ do chính tay ông làm ra. Nó chẳng đáng giá gì, thế mà trông cách ông thận trọng nâng niu, người ta tưởng như ông đang nâng niu một báu vật.

Cả tháng nay, ngày nào ông cũng say mê làm việc quên cả thì giờ, hôm nay cái xe đã thành hình đúng như ý ông mong muốn. Ông hài lòng ngắm nghía chiếc xe có cái mui bằng vải bố màu ka ki có thể xếp lại như cái mui của xe xích lô dùng để che nắng. Trông toàn thể, nó giống như một cái xe kéo thời xưa với hai cái càng, nhưng lại có tới bốn cái bánh xe bằng cao su, ông đã khổ công tháo gỡ từ cái xe cắt cỏ bị hư bỏ ở sau vườn. Ông đang chăm chú gắn các bánh xe vào hai cái trục bằng sắt, vừa làm ông vừa lẩm bẩm một mình:

- Bánh xe bằng cao su đặc, êm là phải biết, lại bền nữa.

Cho nhớt vào trục xe xong xoay thử mấy cái bánh xe thấy êm rồi, ông xoa hai tay vào nhau một cách hài lòng:

- Bây giờ chỉ còn sơn phết và đánh bóng nữa là hoàn tất. Tết này đem về làm quà cho các cháu, hai anh em thằng Nghĩa chắc là thích mê.

Ông sung sướng ngồi thẳng người lên, đưa tay ra sau lưng đấm đấm vài cái cho đỡ mỏi rồi lại cúi xuống tiếp tục làm việc, ông chợt nhớ ra là chiếc xe còn thiếu mấy cái vành dùng để chắn bùn ông phải cố gắng làm cho xong.

Khi đồng hồ ở trong nhà vừa điểm một tiếng thì đứa cháu nội của ông từ trong nhà chạy ra gọi:

- Grandpa! trễ rồi, đi vào nhà ăn lunch.

Nó nói bằng một giọng lơ lớ như người ngoại quốc nói tiếng Việt. Ông ngẩng lên mỉm cười, trán ông lấm tấm mồ hôi, trời sắp vào thu rồi mà còn nắng gớm, đuợc cái hiên nhà có mái che nên cũng đỡ, ông đưa tay lên quệt mồ hôi rồi bảo cháu:

- Ông không đói, cháu và cả nhà cứ ăn trước đi!

- Ông đang busy à? What are you doing?

- Ừ! ông đang bận, ông cố làm cho xong cái xe này, cháu xem có đẹp không?

Ông dơ lên cho nó coi cái xe đã thành hình dạng hẳn hòi, chỉ chưa sơn phết. Đứa bé reo lên thích thú:

- Ồ, trông nó giống như cái xe pick up truck, nhưng sao lại có cái này, ông nội?

Nó trỏ hai cái càng kéo xe, ông lúng túng giải thích:

- Xe truck thì chạy bằng động cơ, à run by motor ấy mà. Ông cố dùng từ tiếng Anh để cho cháu hiểu, còn cái xe này không có motor thì phải có người kéo, đây là hai cái càng để cho người kéo.

- Ông ơi! cái xe này dùng để làm gì vậy?

- Đây là đồ chơi ông làm cho Nghĩa, cousin của cháu ở Việt Nam.

- Việt Nam là đâu vậy ông nội?

- Là quê hương mình đó mà.

Thấy nó ngơ ngác có vẻ không hiểu, ông dịu dàng cắt nghĩa:

- Là birthplace của ông và bố mẹ cháu đó.

- Xa không, ông nội?

- Xa lắm cháu ạ, đi máy bay phải nửa ngày mới tới.

- No wonder, I’ve never seen him.

- Ừ, ở xa quá nên cháu chưa bao giờ gặp Nghĩa cả. Ông hy vọng một ngày nào đó, bố mẹ cháu sẽ đưa cháu về thăm quê hương và cháu sẽ gặp Nghĩa, nó ngoan lắm và cũng dễ thương như cháu vậy. Bố cháu và mẹ của Nghĩa là hai anh em ruột, tiếng Mỹ là brother và sister…

- Cháu hiểu rồi, thế ở Việt Nam không có đồ chơi hả ông nội?

- Có chứ, thiếu gì... Nhưng, ông ngập ngừng, đây không hẳn là đồ chơi, mà còn là đồ dùng.

- Đồ chơi hay đồ dùng cho trẻ con đều có bán ở tiệm. Sao ông không mua cho Nghĩa ở Toy-R-US?

- Ông muốn tự tay làm lấy, Nghĩa chỉ thích cái xe bằng gỗ to như thật để có thể chở em nó đi chơi.

- Nghĩa crazy, ông cũng crazy!

Nó toác miệng ra cười và bảo ông điên, ông chỉ cười và không giận, ai lại giận những lời lẽ ngây thơ cua trẻ con.

Tới đây thì trong nhà có tiếng lao xao rồi Trung, con trai ông xuất hiện ở nơi cửa:

- David! sao lâu thế? mẹ đang chờ.

- Grandpa nói he’s not hungry.

Trung quay sang cha:

- Bố không đói hả bố? Vậy con cho tụi nhỏ ăn trước nhé? ăn xong còn chở chúng nó đi shopping.

- Ừ, có đi đâu thì nhớ ghé mua cho bố vài hộp sơn nhỏ.

- Để sơn cái xe thổ tả này hả?

- Đừng nói thế được không? Ông cau mày, nếu con biết cái xe này là cả tâm huyết của bố?

Ông Năm vừa nói vừa ngắm nghía tác phẩm của mình, phải công nhận trông nó chẳng đẹp đẽ lắm, nhưng cần gì, có phải để đem đi triển lãm đâu? Ông làm cho cháu ông, thằng Nghĩa đã viết thơ khẩn khoản xin ông, và ông muốn tự tay làm cho cháu. Chiếc xe đã gần xong, chỉ cần thêm vài nước sơn… Trung tắc lưỡi:

- Thôi được rồi, thế bố muốn màu gì?

- Mua cho bố ba màu: nâu, xanh lá cây và xám bạc, à quên, còn một hộp vẹc ni nữa.

- Con thấy bố mất thì giờ vì nó nhiều quá!

- Bố có việc gì làm đâu? ngoài việc đi loanh quanh trong nhà cả ngày… Ông thở dài, bố bây giờ chỉ là một lão già vô dụng, không giúp ích gì cho ai được cả.

Ông nói một cách thật lòng, thấy con cái vất vả, còn ông thì ở không suốt ngày, dư thừa thì giờ mà không giúp gì cho chúng nó, ông cảm thấy áy náy và thấy mình quả thật là một người thừa. Nhưng ông không biết nấu nướng, cũng không biết lái xe để có thể đưa đón các cháu đi học và có thể tự mình đi đây đi đó. Ở Mỹ không biết lái xe thật khổ, đi đâu cũng phải nhờ con, mà chúng nó bận đi làm cả ngày, về đến nhà còn công kia việc nọ lu bù đủ thứ chuyện, ông đâu dám mở miệng nhờ vả, thành thử ông cứ phải ở nhà suốt ngày suốt tháng chẳng khác chi người ở tù.

Hồi vợ ông còn sống, có bà bầu bạn nên còn đỡ, từ khi bà chết đi, ông thui thủi một mình. Sống giữa bầy con cháu nhưng ông vẫn cảm thấy cô đơn vô cùng, con ông đầu tắt mặt tối suốt ngày đâu có thì giờ hỏi han đến ông. Đứa con dâu mặt mũi lúc nào cũng lạnh tanh, khinh khỉnh, mấy đứa cháu thì chỉ trừ đứa bé nhất biết lõm bõm vài câu tiếng Việt, mấy đứa kia, ông không tài nào nói chuyện được với chúng nó. Thấy ông quê mùa lại không biết tiếng Anh, chúng nó phá ra cười chế diễu, với những cái nháy mắt đồng lõa của mẹ chúng. Trẻ con ở bên này hình như không biết lễ phép, không biết kính trọng các bậc trưởng thượng, ông chẳng thèm chấp, nhưng sao khỏi tủi thân cho kiếp sống nhờ, số phận chung của những người già ở nơi xứ người. Không rành tiếng Mỹ, có miệng cũng thành câm, có tai cũng thành điếc, có mắt cũng chẳng thể đọc được sách báo, ông thấy cuộc đời hết còn sinh thú và ông có mặc cảm của một người bị bỏ rơi, bị xã hội gạt ra bên lề đường, bơ vơ lạc lõng giữa một tập thể toàn là những người xa lạ, ông cô đơn, buồn rầu và chán nản vô cùng.

Trung không nhìn thấy khía cạnh tiêu cực đó của bố, hắn cứ nghĩ rằng bố không phải làm việc, được ở không ăn chơi là sướng rồi, có gì mà phải phàn nàn? phàn nàn là không biết điều. Trung chau mày khẽ gắt:

- Thôi xin bố đừng cay đắng nữa, bố khỏi cần phải mặc cảm như vậy, bố cứ khoẻ mạnh cho con nhờ là được rồi.

Ừ nhỉ, còn vấn dế sức khoẻ nữa, ông đã bảy mươi tuổi rồi, mấy lúc gần đây ông cảm thấy mệt mỏi lắm và tim thỉnh thoảng lại đau nhói, ông cũng lờ đi chẳng thèm đi khám bác sĩ, để làm gì chứ? ông đâu có muốn kéo dài kiếp sống tủi nhục của một người thừa? vả lại ông không biết lái xe, ông đâu có thể tự mình đi được. Trung bận rộn suốt tuần, week end phải để cho nó nghỉ ngơi và đưa vợ con đi chơi, ông đâu dám phá đám, ông sợ nhất phải nghe những lời bóng gió, chì chiết của con dâu và những cái ra lườm vào nguýt. Thôi thì mặc kệ tới đâu hay tới đó, ông không muốn là nguyên nhân của những cuộc cãi vã giữa hai vợ chồng nó. Khổ quá, ở Mỹ mà không biết lái xe, thật chẳng khác gì người què… A nói đến què, ông lại nghĩ đến hai đứa cháu ngoại khốn khổ của ông còn ở quê nhà. Con Lễ bị bệnh tê liệt què cả hai chân từ khi mới lên một tuổi, tội nghiệp thằng Nghĩa, anh nó, mới lên tám tuổi đã bị giao nhiệm vụ giữ em cho mẹ nó đi làm. Cha chúng nó đã chết trong một tai nạn xe cộ từ khi Nghĩa mới lên năm và em nó mới lên hai. Dạo đó bà Năm còn sống, hai ông bà thương cháu nên đã đem cả ba mẹ con nó về ở chung để trông cháu cho mẹ chúng đi làm. Cho tới ngày hai ông bà được đi đoàn tụ, thằng Nghĩa đã phải thay ông bà để trông em. Tội nghiệp nó còn bé quá, đâu có thể cõng được em nó đi chơi, thành ra con bé cứ bị nhốt ở trong nhà cả ngày, nó chỉ biết đến thế giới ở bên ngoài qua lời kể của anh nó. Nó mơ ước được ra công viên hóng mát, ngắm hoa lá, chim, bướm và nhìn những đứa trẻ cùng tuổi nó nô đùa, nó mơ ước được đi sở thú, được đi xem hang đá ở nhà thờ Đức Bà dêm giáng sinh… Những ước mơ nhỏ nhoi đó, nhưng thật là vĩ đại đối với con bé, sẽ thực hiện được nếu Nghĩa có một cái xe, nó có thể chở em nó đi chơi trong lúc mẹ nó bận đi làm kiếm sống…

Ông Năm nói:

- Con phải hiểu cái xe tầm thường này lại quan trọng đến mức nào đối với hai đứa bé tội nghiệp đó.

Trung gật gù hỏi cho qua chuyện:

- Thế bao giờ bố định gởi nó về Việt Nam?

- Bố không gởi, mà chính tay bố sẽ đem về làm quà cho hai đứa nhỏ vào dịp Tết. Cũng sắp tới rồi, vì vậy bố phải cố gắng làm cho xong.

- Bố định về Việt Nam thật à?

- Thật chứ, bố đã để dành đủ tiền dể mua vé máy bay rồi, con khỏi lo.

- Bố định ở chơi bao lâu?

- Chưa biết, tới chừng nào hay chừng đó, càng lâu càng tốt cho con phải không? Ông trầm giọng xuống, bố hiểu vợ con khó chịu vì sự có mặt của bố ở trong gia đình này…

Trung cúi đầu xấu hổ, nhưng còn vớt vát:

- Đời sống ở bên này khó khăn, mà lòng người thì hẹp hòi, nhất là lòng dạ đàn bà…

- Bố hiểu và bố không trách gì con cả.

Đúng ra ông chỉ tự trách mình thôi, ông trách mình đã không sáng suốt, chưa suy nghĩ kỹ càng đã vội quyết định ra đi để rồi bây giờ dở dở dang dang, đi không được mà ở thì bực mình.

Hồi còn ở nhà, hai ông bà cứ tưởng được đi Mỹ thì sẽ sướng lắm. Phải mà, nghe nói lương tối thiểu cũng sáu, bảy đô một giờ, mà thức ăn lại rẻ mạt, ông âm thầm làm một con tính nhẩm, chỉ cần đi làm một tuần thôi cũng đủ ăn cả tháng, còn thì dành dụm, trở nên giàu có mấy hồi? Không giàu sao những Việt kiều về quê người nào cũng sênh sang áo gấm về làng, làm ai cũng thèm thuồng, ước mơ được đến cái xứ thiên đàng… Ông tưởng tượng đến cảnh đoàn tụ, con cháu xum vầy một nhà, hiếu thuận hòa hảo, ấm êm hạnh phúc, mọi người đều vui vẻ sống trong cảnh giàu sang sung sướng.

Nào ngờ thực tế lại khác hẳn, mọi người chen chúc trong một căn nhà chật hẹp, bảo là nhà mua nhưng cũng đâu thuộc về mình, mà là thuộc về chủ nợ là nhà băng. Thấy dâu, con vất vả đầu tắt mặt tối suốt ngày mà cũng chỉ đủ ăn, hai ông bà chưng hửng, thì ra tất cả nhà cửa, xe cộ, đồ đạc, bàn ghế, TV, tủ lạnh v..v.. thậm chí đến cả quần áo nữa, tất cả đều là mua nợ. Mà đã mua nợ thì phải trả lãi, hàng tháng những hoá đơn đòi nợ gởi đến ùn ùn đòi phải thanh toán. Ngoài ra còn cả trăm thứ linh tinh khác, nhiều món theo ông thấy vô lý hết sức, không dùng, hoặc chỉ để phòng hờ thôi, mà vẫn phải trả, đó là các thứ bảo hiểm: bảo hiểm nhà, bảo hiểm xe, bảo hiểm sức khoẻ… Thứ nào cũng đắt tiền cả, đóng thì tiếc nhưng không đóng không được, lái xe mà không có bảo hiểm là bất hợp pháp, không trình giấy bảo hiểm, nha lộ vận không cấp bằng lái. Mua nhà phải mua luôn bảo hiểm, không thì nhà băng không cho vay nợ, bởi vì rủi ro cháy nhà mà không có bảo hiểm thì lấy chi mà xiết nợ? Còn bảo hiểm y tế thì lẽ dĩ nhiên phải mua, có ai dám chắc là mình sẽ không bao giờ đau ốm? nếu có chuyện gì thì tiền đâu ra để trả bệnh phí?

Đời sống ở Mỹ là thế, đã cho chân vào guồng máy thì cứ phải theo nó mà xoay tròn, không tài nào rút chân ra được. Chẳng ai than phiền, vì vất vả mà có việc làm là may rồi, mất việc mới là thê thảm, mà ở Mỹ, mất việc là chuyện thường lắm, hôm nay đi làm chủ còn vui vẻ, ngày mai tới sở, chủ chìa ra cái giấy cho thôi việc. Thế là khốn khổ cái thân đời, tiền nợ hai tháng không trả, nhà cửa, xe cộ sẽ bị nhà băng tịch thu, lấy lại hết, lo điên người, lo đến phát ốm…

Thương con cháu vất vả, bà tình nguyện làm một chân vú em, ở nhà coi cháu, với những công việc cho ăn, thay tã, ẵm bế, kiêm luôn nấu ăn cho cả nhà, ông thì phụ bếp, làm vườn và lau chùi nhà cửa… Vô hình trung, hai ông bà trở thành những người làm không công cho các con của mình, thôi cũng được đi, coi như để trả tiền ăn nhờ ở đậu.

Hàng ngày, khi dâu, con đi làm về, và những ngày cuối tuần là những lúc ông bà được nghỉ ngơi, ông đưa bà đi dạo mát ở mấy khu phố chung quanh nhà cho đỡ buồn, đôi khi nổi hứng, ông đưa bà đi xa hơn, tới khu chợ Việt Nam ở cách nhà khoảng non một tiếng. Dần dà con dâu lấn lướt, coi việc đi chơi rong của ông bà là phí phạm thì giờ, nó khó chịu ra mặt, tuy không nói ra, nhưng nó tìm cách giao thêm công việc. Những ngày cuối tuần, khi con trai ông phải đi làm phụ trội để kiếm thêm, thì con dâu cũng giao con cho ông bà giữ để đi mua sắm, ông bà thương cháu nên đành phải chịu. Những đứa trẻ ông bà ẵm bế từ nhỏ, khi lớn lên lại trở thành xa cách, chúng được đến trường, học nói tiếng Anh, quên dần tiếng mẹ đẻ, quên luôn cả nguồn gốc và hình như chúng xấu hổ với bạn bè vì có ông bà nội quê mùa, xấu xí.

Sang Mỹ đuợc ba năm, ông bà xin được tiền trợ cấp cho những người già, vừa lúc đó Trung bị thất nghiệp, thấy mọi người lo lắng chỉ sợ không có tiền trả, nhà băng sẽ lấy lại căn nhà, ông bà đã đưa hết tiền già để giúp cho gia đình con qua cơn túng thiếu. Tám tháng sau, Trung mới tìm được việc làm mới. Thấy tình hình tài chánh của vợ chồng nó đã ổn định rồi, ông bà mới rút bớt tiền, chỉ đưa có một nửa, thế là sinh chuyện, con dâu xưng xỉa nói ra nói vào chưa đủ, lại nói riêng với chồng nhưng nói rõ to, cốt để cha mẹ chồng nghe thấy:

- Hai ông bà già rồi mà còn tham quá, giữ tiền để làm gì chứ? không lẽ để khi chết dem theo xuống mồ?

Ông bà nhìn nhau, bà tủi thân ứa nước mắt, nào phải ông bà tham dâu, tiền này ông bà dành dụm để gởi về Việt Nam giúp gia đình đứa con gái nghèo khổ của ông bà, anh nó không dư giả gì lại có người vợ ích kỷ, hẹp hòi nên chẳng bao giờ giúp đỡ em gái. Sống ở Mỹ lâu năm, hình như không nhiều thì ít, mọi người đều có quan niệm “ kiến giả nhất phận ”, người nào cũng phải tự lo lấy thân, đùm bọc nhau quả là chuyện hiếm.

Ông an ủi vợ:

- Bà đừng buồn, cứ nhắm mắt bỏ qua. Chúng ta cố dành dụm lấy một món tiền kha khá để mai mốt sẽ về dưỡng già ở Việt Nam, cuộc sống ở bên này không hạp với vợ chồng mình.

Bà lặng lẽ gật đầu. Nhưng cái ngày mong đợi đó không bao giờ tới, năm ngoái bà qua đời đột ngột vì chứng xuất huyết não. Bà ra đi thật bất ngờ, không có dấu hiệu gì báo trước, buổi chiều hôm đó tắm xong, bà than nhức đầu và bỏ vào giường nằm. Tưởng bà chỉ bị cảm xoàng, ông đem cho bà một chén cháo hành, gừng thật ngon, nhưng bà lắc đầu nói không muốn ăn, bà mệt chỉ muốn ngủ. Ông khép cửa, đi thật nhẹ ra khỏi phòng, rón rén không dám gây tiếng động để yên cho bà ngủ, và bà đã ngủ luôn không bao giờ dậy nữa. Bẩy giờ chiều không thấy bà trở ra, ông vào phòng xem sao thì thấy bà nằm im lìm, mắt khép kín, ông rờ thử thấy người bà còn ấm, nhưng chân tay đã lạnh. Hốt hoảng, ông lay gọi nhưng bà không tỉnh, ông vội vã gọi xe cứu thương nhưng vô ích, bà tắt thở trên đường đến bệnh viện.

Trước cái chết bất ngờ của vợ, ông Năm thẫn thờ như kẻ mất hồn, ông ra ngẩn vào ngơ một mình nhìn chỗ nào cũng gợi lại hình bóng của vợ . Ông nhớ bà, ông xọm đi trông thấy, Trung thương cha nhưng không có thì giờ an ủi cho cha vơi sầu, hắn còn phải đi cày tới hai job để trả nợ cơm áo, vợ hắn lại vừa sanh thêm một đứa con nữa. Khi đứa bé vừa được ba tháng thì phải đem gởi nhà trẻ để mẹ nó đi làm, vướng nhà, vướng xe, phải hai income mới đủ. Ông tự giận mình vô tích sự, ở không cả ngày mà không trông nổi cháu, nhưng dạo này ông yếu lắm rồi, huyết áp lúc lên, lúc xuống không thể kiểm soát, nhiều lúc ông cảm thấy xây xẩm mặt mày, tim đập nhanh một cách khác thường và thỉnh thoảng lại đau nhói, làm ông phải ôm ngực thở hổn hển một lúc mới hết.

Ông không đi bộ nữa vì chỉ một quãng ngắn đã thấy mệt, làm việc gì hơi nặng một chút là thấy chóng mặt hoa cả mắt. Sức khoẻ đã đến lúc suy tàn, ông mỏi mệt chẳng muốn tiếp tục bước tới, thất thập cổ lai hy, sống đến bẩy mươi đã là thọ rồi, ông chẳng ham sống lâu thêm nữa. Nhưng trước khi chết, ông muốn được nhìn mặt người con gái út và hai đứa cháu ngoại của ông, trao tận tay cho chúng món quà mà chúng mơ ước: cái xe bằng gỗ do chính ông làm ra, chiếc xe mà ông đã đặt vào đó bao nhiêu tình thương, ông muốn được nhìn thấy những nụ cười rạng rỡ của hai đứa cháu. Ôi nụ cười của trẻ thơ mới thần tiên làm sao! đó là một món quà của Thượng đế ban cho những người già, nó sẽ làm tim ông ấm lại. Hai đứa bé đã từng mơ ước Đức Mẹ sẽ ban phép lạ cho con bé được chữa lành đôi chân, thằng Nghĩa hứa với em nó, nếu nó có một cái xe, nó sẽ chở em nó đi nhà thờ để cầu nguyện. Ôi chiếc xe! chiếc xe có thể giúp hai đứa bé đáng thương đó thực hiện được ước mơ kỳ diệu, ai dám bảo việc ông làm chiếc xe cho chúng là một việc điên rồ?

Gần đến Tết, trời bỗng trở lạnh, ông ho xù xụ, nhưng khỏi lo, về Việt Nam sẽ hết vì bên đó ấm lắm, ông nhủ thầm. Vé máy bay đã mua rồi, hành lý đã được sửa soạn, ông không đem gì nhiều, chỉ một cái va ly nhỏ quần áo và cái xe! Cái xe đã được ông o bế kỹ lưỡng, sơn phết thật đẹp đẽ, thùng xe được đánh vẹc ni láng coóng, ông còn cẩn thận dùng vải mềm quấn kỹ chung quanh đề phòng khỏi bị trầy sát, sau cùng ông ràng cái xe vào một dụng cụ có bánh xe để có thể dễ dàng kéo đi trong phi trường.

Ông đã sẵn sàng để lên đường, chỉ còn hai ngày nữa thôi, ông nôn nao lắm, thời gian đi sao mà chậm hơn rùa, mãi mà chẳng hết một ngày, sốt cả ruột.

Trung cười mỉm:

- Từ từ thôi bố! Bố cứ đi ra đi vào cả trăm lần, thấy mà chóng cả mặt.

Ông cũng cười trả lại nhưng không nói gì cả, đâu phải chỉ mình Trung chóng mặt? ông cũng đang chóng mặt đây, người ông bừng bừng, hai tay ông run rẩy và ông còn cảm thấy hơi buồn nôn nữa. Cố dằn xuống đi, đừng ốm nhé! ốm bây giờ là không phải lúc đâu, ai lại ốm trước một chuyến đi quan trong như thế bao giờ? Ông cố hít vào một hơi thật sâu và cảm thấy dễ chịu hơn, có thế chứ, ai dám bảo thể thao là không có ích? Ông nghĩ đến ba mẹ con thằng Nghĩa ở bên nhà, giờ này chắc cũng đang sốt ruột chờ ông về. Ở bên đó đồng hồ đi nhanh hơn bên này tới mười bốn tiếng, mười bốn tiếng chớ có ít đâu? tính ra thì chỉ còn có ba mươi sáu giờ nữa thôi, ba mươi sáu giờ tức là một ngày ruỡi… Nghĩa viết trong thơ:

“ Cháu còn nhớ ông ngoại thích ăn bắp nướng nên cháu đã xin mẹ mua sẵn vài cái thật ngon, chờ ông về sẽ nướng cho ông ăn…” Ông mỉm cười cảm động, thằng nhỏ thật ngây thơ và có lòng, nhưng thời gian qua, mọi việc đã đổi khác rồi cháu ạ, răng ông bây giờ đã rụng gần hết, những cái còn lại thì lung lay, làm sao ông ăn được bắp nuớng?

Ông chậm chạp đi vào nhà, lấy cái hình mới nhất của Nghĩa ra ngắm nghía, thằng nhỏ cũng thay đổi nhiều, khi ông đi nó mới lên năm, bây giờ thì đã lên chín. Trong mấy đứa cháu, ông thương nhất anh em thằng Nghĩa, mấy đứa cháu nội ông không lo, vì chúng còn cha mẹ đầy đủ, nhưng thương thì ông vẫn thương. Nhiều lúc ông muốn tỏ tình thương với cháu, nhưng chúng nó chỉ nhìn ông bằng những cặp măt dửng dưng.

Đời sống ở bên này quá bận rộn, và thiếu tình cảm, con cháu chẳng ai để ý đến những nỗi đau tinh thần lẫn thể xác của những người già. Phải chi bà còn sống, bà sẽ chia xẻ với ông, nhưng bà đã chết rồi…

Bỗng ông nhăn mặt đau đớn, tim ông vừa nhói lên, một cơn đau chợt đến bất ngờ làm ông phải nín thở đến vài giây, cơn đau lan từ ngực lên tới vai rồi cả cánh tay trái. Ông lảo đảo đi vào giường nằm xuống, rõ ràng là ông ốm rồi, ốm nặng rồi, ông ôm ngực thở hổn hển, tim ơi! đừng dở chứng ra đó nhé? hãy chịu khó làm việc thêm một chút nữa, chỉ một ngày ruỡi nữa thôi, à không, còn cần nửa ngày đi đường nữa là hai ngày mới đủ, cho ta có thể sống tới khi được gặp hai đứa cháu dáng thương của ta, trao cho chúng món quà mà chúng mơ ước. Ta chỉ yêu cầu có thế, sau đó mi sẽ được nghỉ ngơi, cả ta cũng vậy, ta đâu có muốn sống thêm làm gì? Nhưng ta không muốn làm tan đi cái ước mơ nhỏ bé của hai đứa cháu tội nghiệp, ta muốn được nhìn thấy những ánh mắt reo vui, những nét mặt sung sướng của chúng nó, và giữ mãi cái ấn tượng đẹp đẽ đó như một hình ảnh cuối cùng trước khi đi vào cõi chết… Ông mệt mỏi thiếp đi.

Buổi chiều, ông cố gắng ăn được nửa chén cơm rồi vào giường đi ngủ sớm. Nhưng không tài nào ngủ được, ông trăn trở một mình trong đêm khuya, có cái gì đó chặn nơi ngực làm ông khó thở, ông ho không ra tiếng, mồ hôi toát ra ướt đầm mặc dù trời đang lạnh và ông đang rét run. Ông muốn lấy cái mền để ở chân giường nhưng không sao với tới, ông muốn gọi con nhưng rồi lại thôi, chúng nó cần ngủ để mai còn đi làm sớm, ông ngại không muốn làm phiền con cái. Ông cố gắng nhích tới từng chút một, khi tay ông vừa chạm vào cái mền thì cả người ông lẫn cái mền đều rơi xuống đất. Ông cố gượng ngồi dậy để bò lên giường, nhưng không thể được, tứ chi của ông không chiu theo sự điều khiển của khối óc ông nữa rồi, mặc dù ông vẫn tỉnh táo. Ông đành cứ nằm ngửa trên sàn, lắng nghe những cảm giác tê rần rật chạy tới đầu các ngón tay, ông mệt lắm, có cảm tưởng như bao nhiêu sinh lực của ông đang từ từ thoát ra khỏi cơ thể. Ý nghĩ mình sắp chết làm ông kinh sợ, không phải ông sợ chết, nhưng ông không thể chết bây giờ được, ông cần phải sống để gặp cháu, đem quà cho cháu… Lậy trời cho tôi sống thêm một ngày, chỉ một ngày nữa thôi!

Sáng hôm sau không thấy ông ra ăn sáng, tưởng ông ngủ quên, Trung vào phòng để đánh thức, thấy cha nằm co quắp trên sàn nhà, Trung hoảng sợ kêu lên:

- Trời ơi! chuyện gì thế này? bố có sao không? con chở bố đi nhà thương nhé?

- Khỏi cần! Ông xua tay, bố có sao đâu, chỉ hơi mệt một tị, để bố nghỉ ngơi hôm nay cho khoẻ, sáng mai còn lên đường.

Trung nhìn cha thương xót, đỡ ông nằm lên giường xong rồi mới nói:

- Bố không biết lượng sức mình, tình trạng này mà còn nói chuyện đi đứng gì nữa? bố cứ nằm nghỉ, để con ra hãng du lịch xin hoãn chuyến bay cho bố.

- Còn có một ngày nữa hoãn đâu có kịp, thôi để bố cố gắng.

- Bố không dậy nổi thì làm sao đi?

- Mày cứ nói thế chứ đâu đến nỗi, cứ để bố thử xem sao.

Ông chống tay ngồi lên, nhưng chỉ được vài phút, một cơn đau ập đến làm ông nhăn mặt, lại nằm vật xuống. Ông ôm ngực thở hổn hển, mắt ông mờ đi, một niềm thất vọng sâu xa in hằn lên nét mặt đau khổ, ông chịu thua số phận rồi, trời không thương, không để ông sống cho tới khi được trở về quê hương. Ông lẩm bẩm:

- Con nói đúng, không kịp nữa rồi.

Biết rằng giây phút cuối cùng cùa đời mình sắp tới, ông muốn những dự tính của ông phải được thi hành, ông nằm yên chờ cho qua cơn đau rồi mới vẫy tay ra hiệu cho Trung lại gần:

- Bố biết bố sắp chết, bố có mấy lời dặn con… Trung này! sau khi bố chết đi, con phải cưu mang em con, đừng bỏ mặc mẹ con nó, tội nghiệp hai đứa bé mồ côi cha…

Ông ngừng một lúc để thở rồi mới tiếp tục:

- Bố có dành dụm được một số tiền là mười ngàn đô, để trong cái túi xách tay treo ở đầu giường bố kia kìa, cái túi bố định đem theo khi về Việt Nam. Con dùng tiền đó để làm đám ma cho bố, nhớ làm hết sức đơn giản thôi, số tiền còn lại con gởi hết về Việt nam cho mẹ con thằng Nghĩa…

Trung rơm rớm nước mắt:

- Bố chỉ nói dại, bố chết sao được?

- Bố biết trong mình bố, con không cần phải an ủi, vì bố có sợ chết đâu? Ông mỉm cười mệt nhọc, bố sắp di theo ông bà, bố sắp gặp lại mẹ con, bố sung sướng lắm, bố không ân hận gì cả. Nhưng bố chưa yên tâm ra đi vì bố có một tâm nguyện…

Ông Năm ngừng nói, nhắm mắt lại một lúc, một cơn đau dữ dội dâng lên nơi trái tim. Khi ông mở mắt ra, ông không còn nhìn thấy gì nũa, nhưng câu chuyện cần phải kết thúc. Ông mệt nhọc nói tiếp, giọng đã khản đặc:

- Tâm nguyện cuả bố là… bố muốn làm thoả mãn ước mơ của hai đứa trẻ thơ, một ước mơ rất giản dị, tầm thường nhưng đối với chúng là một giấc mơ thần tiên… Bố muốn nói cái xe, con nhớ nhé? cái xe, tuy nó không đáng giá gì nhưng bố đã làm với tất cả tâm huyết của bố cho Nghĩa, cho em của Nghĩa, hai đứa bé đáng thương… Con nói với Nghĩa rằng ông ngoại gởi cho nó cái xe, nó có thể chở em nó đến nhà thờ để cầu nguyện… Con phải gởi

ngay cho nó, con hứa với bố đi!

Ông ngưng một lúc chờ cho con trả lời, không thấy nó nói gì cả, ông lại dục:

- Con hứa đi!

Trung gật đầu:

- Thôi được rồi, con hứa! Bố dừng nói nhiều mất sức, bố cứ an tâm nghỉ ngơi đừng lo lắng gì cả, bố cố ngủ đi một giấc cho khoẻ.

- Bố yên tâm rồi, cám ơn con.

Ông Năm thở ra một hơi dài sung sướng, ông nhắm mắt lại, một dòng lệ ứa ra nơi khoé, nhưng môi ông nở một nụ cuời mãn nguyện. Khuya hôm đó, ông Năm trút hơi thở cuối cùng, hai tiếng đồng hồ trước khi chuyến bay về Việt Nam cất cánh.

Một tuần sau đám tang của cha, Trung dọn dẹp nhà cửa, tom góp những đồ đạc của ông Năm đem cho các hội thiện. Chợt nhìn thấy cái xe gỗ nằm trơ trọi ở góc nhà, Trung tần ngần đứng ngắm nghía nó một lúc rồi chậc lưỡi:

- To quá, làm sao đóng thùng để gởi về Việt Nam được đây?

Vợ chàng đứng bên cạnh nhăn mặt, giọng bực bội:

- Gởi làm quái gì vừa mất công vừa mất thì giờ, đem cho phứt đi cho rồi.

- Ai mà lấy cái của nợ này? vừa nặng vừa cồng kềnh, trông lại chẳng ra cái gì cả, đồ chơi chẳng ra đồ chơi, đồ dùng chẳng ra đồ dùng, không biết để xài vào việc gì? Thật đúng là ông già lẩm cẩm…

- Mình nói phải, hay là ta cứ liệng đại nó vô thùng rác?

- Đâu được! Trung nhăn mặt, anh đã hứa với ông già là sẽ gởi cái xe này về cho thằng Nghĩa.

- Ông già chết rồi, làm sao biết được mình có gởi hay không gởi?

Thấy Trung không trả lời, biết chồng còn ngần ngại, vợ chàng suy nghĩ một lúc rồi bàn:

- Em có ý kiến này, mình xem có được không? Cái xe này chỉ đáng giá vài chục bạc, gởi về tiền cước cũng tốn hơn bạc trăm. Thôi thì mình cứ đưa phứt cho họ tròn hai trăm đồng, đỡ phải lôi thôi, rắc rối. Như vậy là sòng phẳng, rộng rãi lắm rồi, mình thấy sao?

Trung đồng ý liền, chàng reo lên mừng rỡ:

- Được lắm! có thế mà không nghĩ ra. Rồi chàng lẩm nhẩm tính toán, số tiền mười ngàn của ông cụ để lại, lo tang ma mất hết năm ngàn, còn năm ngàn cộng với tiền cái xe nữa là năm ngàn hai, mình gởi tất cả về Việt Nam cho má con thằng Nghĩa, chẳng phải là thực tế hơn hay sao? Có tiền tiêu là sướng rồi, con nhà nghèo đâu cần phải có đồ chơi?

Bàn bạc, tính toán xong xuôi, hai vợ chồng thở phào sung sướng, thế là giải quyết xong mọi vấn đề một cách hợp tình, hợp lý theo ý họ, lương tâm họ ngủ rất yên.

Ngay buổi chiều hôm đó, hai vợ chồng hì hục khiêng cái xe gỗ, liệng tọt ngay vào thùng rác, rồi kéo ra để trên lề đường ngay trước cửa nhà. Ngày mai là ngày đổ rác, xe rác của thành phố sẽ đến lấy đi tất cả các rác rưởi của mọi nhà để đem đi thiêu hủy.

Ôi! tâm nguyện của một ông già, ôi hy vọng của hai đứa trẻ thơ! tất cả sắp bị hủy diệt cùng với các thứ rác rưởi khác. Linh hồn của ông Năm nếu có linh thiêng, chắc sẽ đau lòng lắm khi chứng kiến món quà lưu niệm của ông dành cho hai đứa cháu ngoại mồ côi cha, món quà tự tay ông làm lấy và ông đã để hết tâm hồn, đặt hết cả tình thương vào đó, bây giờ đang nằm gọn lỏn trong thùng rác, dơ hai cái càng lên như diễu đời.

 





Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 23/Jan/2011 lúc 10:12am
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 23/Jan/2011 lúc 10:10am




Thư ngoại gửi đừng về quê ăn Tết
Giờ xóm làng tràn ngập cảnh đau thương
Giặc rót pháo rơi sát vách giáo đường
Đang lúc ấy bầy con chiên hành lễ

Tối hôm qua, giặc giật cầu Cái Khế
Nhà gần cầu đành hóa kiếp thành tro
Kẻ không nhà về tá túc bến đò
Người lối xóm gom góp tiền giúp đỡ

Bác Hai Ròm từ bao năm quét chợ
Chạng vạng ra đìa dở cá giăng câu
Sáng dân làng phát giác chết trên cầu
Cổ bị cắt, tay còn cầm xâu cá

Bóng thần chết về trong đêm lạnh giá
Dân phập phồng gặp phải những tin hung
Tai nạn ai cũng là nỗi buồn chung
Không ruột thịt cũng tình người lối xóm

Sống với ngoại từ lúc còn để chỏm
Cháu học xa, ngày lễ mới về thăm
Cuối mùa Đông vào trước Tết mỗi năm
Hoa nỡ rộ, én phương xa trở lại

Ngoại để dành trái cây cho cháu hái
Chờ cháu về cắt mấy nhánh mai vàng
Bình pha lê cắm bông điệp, bông trang
Quét dọn lại ngôi miếu thờ Thổ Địa

Cây bùm sụm uốn rồng chờ cháu tỉa
Mấy đứa ở nhà vốn chẳng khéo tay
Cuối gốc sân hoa đơm trắng khóm lài
Chờ cháu hái để ép vào trang giấy

Bánh phồng nếp nướng lửa rơm vàng cháy
Mứt gừng cay, bánh tráng cuốn chuối ngào
Nến chập chờn ánh lửa dưới trời sao
Nhang cháy đỏ, hương lan trong gió lốc

Cháu thương ngoại, thương vòm trời tuổi ngọc
Đôi guốc sơn, quần áo lụa mới may
Nón vải xanh có nơ bướm bông cài
Làm quà Tết, đẹp lòng cô cháu nhỏ

Cháu vô tư như hoa đồng, bướm cỏ
Lớn khôn dần trong nhịp sống thôn quê
Niềm vui riêng mỗi độ đón Xuân về
Được thư ngoại, lòng ơi buồn biết mấy!

Dư Thị Diễm Buồn
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 24117
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 26/Jan/2011 lúc 8:13pm
TRƯỚC NHỮNG NGÀY TẾT
 
 
   Sáng nay ghé ngôi chợ gần nơi tôi ở . Giựt mình mới thấy như vừa thức dậy sau một giấc ngủ vùi . Đã gần 20 năm trên xứ người , cái tết đầu tiên còn háo hức để mặc vào người chiếc áo dài màu tím cùng các con đưa nhau đi dạo chợ tết của cộng đồng người Việt Nam tổ chức tại đây . Rồi thời gian đi qua chậm rãi nhưng bước chân của tôi thì hối hả chạy theo những tiện nghi cần phải có trên đất nước của người ta . Cho nên bao mùa xuân đến rồi xuân đi vẫn ngồi ở nơi làm việc, bởi mùa xuân của mình thì đâu có can dự vào cảm giác của người khác chủng tộc . Ngày tết thiêng liêng cũng đi cày bừa như con trâu hùng hục đúng 8 tiếng . Tối 30 cúng giao thừa xong rồi cũng vội đi ngủ để mai còn phải đi làm . Cuộc sống như cái máy  ấn định giờ giấc đã làm thay đổi con người đến lạnh lùng vô cảm . Đứng trước những gian hàng chuẩn bị cho những ngày tết , tôi thấy hình như cũng thưa thớt người mua sắm bởi kinh tế hiện giờ đang tuột dốc thảm hại . Một nỗi buồn chợt chùng xuống , trãi dài trên lối đi và theo tôi về đến tận nhà .
...
Cũng vào những ngày trước tết  , thằng em trai từ Long Khánh tay xách lưng mang cho cô chị ở trong thành phố Sài Gòn , hai con gà tre ốm đói  tong teo , một bịch đậu phụng trúng mùa , vài ký nếp thơm . Nhớ  như in cái dáng ốm nhách của nó cũng giống hệt như hai con gà tre , tôi cười nói : " người sao thì nuôi ra gà đó hỉ " . Nhìn cái miệng móm sọm thiếu cả hàm răng tiền đạo cười cười ra điều mắc cở vì không có đồ ngon hơn , tốt hơn để mang lên biếu cho chị  .
Nói là thằng em , thực ra chỉ là vai vế chứ nó lớn tuổi hơn cô chị họ của nó . Nhìn bộ dạng của nó loay hoay giúp gia đình kêu bằng O , dượng , lo dọn dẹp nhà cửa thật nhanh và tươm tất để chuẩn bị ăn tết . Đâu ai có thể hình dung ra đó là một người lính kiêu hùng trong binh chủng mũ đỏ ngày nào . Đó là kẻ sống sót trong trận Hạ Lào , chiến dịch Lam Sơn 719 . Một chiến dịch kinh hoàng trong Mùa Hè Đỏ Lửa của nhà văn Phan Nhật Nam .
Thằng em được sinh ra và lớn lên tại Quảng Trị , thuở ấu thơ gia đình nghèo phải  hàng ngày đội cái thúng trên đầu đi bán rao trong chợ và trên hè phố bằng nghề bán kẹo kéo , một loại kẹo nấu bằng đường vàng với gừng . Lúc nào đi ngang nhà của cô chị cũng mở thúng dúi vô tay chị một nhúm kẹo bòn mót dư ra . Có khi năn nỉ rũ chị đi theo tập buôn bán , cô chị tánh tình thích  ham chơi nên lang thang , lê la khắp cả đường trên xóm dưới . Đi không đội nón làm cho  mái tóc vàng hoe như râu bắp còn nước da thì bị ăn nắng đen dòn .
Cuộc sống cứ thế êm đềm như một dòng sông , hiền hòa như nương khoai , nương sắn . Quê hương bỗng gánh nhiều thiên tai  lũ lụt . Gia đình cô chị đành phải rời bỏ nơi chôn nhau cắt rún để tìm con đường mưu sinh ở một nơi chốn khác .Khi cô chị rời quê hương vô Sài Gòn sinh sống , thằng em trong ngày đưa tiễn nơi sân ga nước mắt sụt sùi như con gái , cô chị phải nghiêm mặt nói nhưng khóe mắt cũng rơi lệ :" nữa mi lớn thì vô Sài Gòn tìm tau " . Thằng em mở mắt to như vừa tìm thấy một điều thật dễ dàng vậy mà cái đầu óc thiệt thà quê mùa của nó cũng không sao nghỉ ra được . Trong mắt thằng em ,cô chị họ của nó thiệt là vừa đẹp lại vừa thông minh nó thiệt  phục lăn ra đất . Thế giới của nó chỉ là dãy núi xa  mờ trong những ngày cơn mưa phùn dai dẳng , chỉ là đầu con sông Thạch Hãn này chảy về cuối dòng sông mà thôi  . Có xa lắm thì những con đường đi về dưới Sãi hay xa nữa thì chỉ tới hai chữ Đông Hà là gói trọn nhiêu đó trong cái bộ óc mà cô chị hay mắng yêu là cái đồ óc heo .
Mười năm sau ... cô chị đang đứng phơi đồ trên lầu thượng ngó xuống thấy một anh chàng mặc đồ rằn ri đội mũ đỏ đang đứng trước cửa nhà . Ngó cái tướng cao cao là cô chị chưa kịp chạy xuống đã kêu " thằng Đình hả "  . Chị em gặp lại nhau mừng vui cũng chảy nước mắt như khi chia ly ở sân ga năm nào . Rồi từ đó mỗi lần được về phép nơi thành phố  hai chị em lại đi dạo phố bên nhau , thân thiết như hồi còn ấu thơ . Tướng thằng em càng ngày dềnh dàng , con nhà lính mà lại là lính nhảy dù mới thiệt là oai phong , thằng em nổi tiếng là gan lì một cây nhưng bản tính thiệt thà thì cho dầu có vào sanh ra tử cũng không hề đổi thay . Trong đầu óc thằng em , cô chị của nó luôn là người không ai có thể thay thế được .
....
Năm 1972 , nó từ trận Hạ Lào sống sót trở về , với cái đầu óc khờ khạo của nó cũng biết thốt ra cửa miệng cùng với sự phẩn uất làm cô chị tròn xoe mắt kinh ngạc . Thằng em cho biết khi quân được thả xuống nơi nào thì coi như tất cả đã bị rơi vào lưới của địch quân đang chờ  . Thằng em cho biết đây giống hệt  một ván cờ tướng mang con chốt đi thí mạng . Phải nói thằng em số to mạng lớn mang thương tích đầy mình vượt thoát ra từ hỏa ngục  ...
Chiến tranh chấm dứt , với cấp bậc binh nhì nên chuyện học tập cải tạo cũng không bao lâu , thằng em về Long Khánh nơi có con bồ vẫn ngày đêm trông ngóng thủy chung . Bỏ áo lính để khoác vào manh áo cơ hàn lam lũ cùng ruộng nương . Vậy mà năm nào nó cũng lên Sài Gòn để thăm cô chị vào những ngày trước tết , trúng được mùa nào thì mang cho cô chị thứ ấy . Lại thêm con số mười năm cô chị lại bỏ Sài Gòn để đi qua một đất nước khác . Lần này  thằng em biết nơi cô chị đến đã nghìn trùng xa cách , nó có đưa mắt bao xa cũng không sao thấy tới được nữa . Nhưng nó đã làm chồng , làm cha của người ta , thằng em không còn quê mùa như hồi còn nơi quê nhà Quảng Trị  . Ngày đưa cô chị ra phi trường với áo quần tươm tất , lần này nó nắm tay cô chị nói :" nhớ biên thơ cho em nghe , để em biên lại thăm chị ". Cả nhà vô bên trong cửa kiếng , cô chị quay lại đưa tay lên vẩy thấy cái dáng cao cao , cái miệng móm mất hàng tiền đạo hình như đang mếu xệch . Cô chị ra dấu , một dấu hiệu của tuổi ấu thơ  chỉ giữa hai người mới hiểu . Cô chị đưa tay vô ngực đấm  ba cái  với ý nghĩa ... hẹn gặp lại  .
Hình ảnh thằng em với bộ rằn ri , với chiếc mũ đỏ tươi như màu máu đang hiện ra thật rõ ràng trước mắt . Có lẽ thằng em đang ở một nơi xa xôi cũng đang nhớ về những ngày trước tết , nó luôn  muốn mang về những món quà từ chính bằng đôi bàn tay cực nhọc của nó làm ra để  cho cô chị thú vị  ăn tết  . Đó là người mà suốt cả cuộc đời nầy nó vẫn mãi quí mến kính yêu ...
... "tau nhớ mày lắm Đình ơi "
Mầu Hoa Khế
Jan2011


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 26/Jan/2011 lúc 8:22pm
IP IP Logged
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.137 seconds.