![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Quê Hương Gò Công | |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
Người gởi | Nội dung |
gcvn95
Groupie ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jun/2007 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 60 |
![]() ![]() ![]() Gởi ngày: 09/Sep/2010 lúc 9:05am |
Chức vụ mới ở quê hương cũ, 'vừa vinh dự, vừa đặc ân'
Tổng Lãnh Sự Lê Thành Ân. (Hình: vietnamese.hochiminh.usconsulate.gov) Tôi thấy Việt Nam là “nhà” chỉ khi nào tôi ngoắc một chiếc taxi, nhờ người tài xế đưa tôi đến một địa chỉ khó tìm, rồi anh ta quay lại và nói: “Ông nói tiếng Việt giỏi quá!”
Tiffany Lê (NV): Gia đình ông sẽ thích ứng với “quê hương mới” ra sao? Tổng Lãnh Sự (TLS) Lê Thành Ân: Thành phố ************ sẽ là nhà của chúng tôi trong ba năm tới. Ðời sống ở Việt Nam mang lại nhiều thuận lợi về mặt văn hóa lẫn ngôn ngữ. Ðể đạt được đúng ý nghĩa là gia đình, chúng tôi sẽ phải hòa mình với quá khứ của quê cha đất tổ. Việt Nam trở nên một sân chơi của khai phá và cả phiêu lưu. Mỹ Anh, 16 tuổi, đứa con gái nhỏ tuổi nhất của tôi, để thỏa mãn tính tò mò, cháu tham gia mọi lễ nghi, hội hè và truyền thống Việt Nam. Cháu nhận thấy nói tiếng Việt ở nhà là một chuyện, nhưng ra đường thì lại hoàn toàn khác. Ðối với những việc thông thường như gọi món ăn hay hỏi đường thì biết nói tiếng Việt đúng là điều cần thiết. Từ lúc đặt chân đến thành phố này vài tuần trước, cho đến nay, chúng tôi khám phá được thành phố nhiều hơn. Thật sự chúng tôi bắt đầu thấy thích thú. Thành phố này rất sinh động. Con người, đủ mọi lứa tuổi, đều đi tản bộ. Thanh niên thì tụ tập đầy ở các quán cà-phê. Dù cần cẩu xây dựng vươn lên khắp nơi trong thành phố ************ mới, nét Sài Gòn cũ vẫn chưa xóa nhòa. Bên dưới những thép và kiếng, các khu phố Tây tầng thấp vẫn còn hiện hữu ở nhiều nơi. NV: Ông định thực hiện điều gì, trong 3 năm tới, trong tư cách một tổng lãnh sự? TLS Lê Thành Ân: Về lại Việt Nam sau 45 năm, về lại nơi chôn nhau cắt rốn, về lại một thành phố nơi tôi từng sống 10 năm đầu của đời mình, và thực hiện những điều ấy với tư cách tổng lãnh sự của Tòa Lãnh Sự Hoa Kỳ tại đây, quả là một vinh dự, lại vừa là đặc ân to lớn. Kỷ niệm thời thơ ấu của tôi ở Việt Nam chẳng có là bao, tuy nhiên tôi vẫn thấy như mình bị cuốn hút vào, vào văn hóa và con người của đất nước Việt Nam. Việt Nam và Hoa Kỳ đang có một quan hệ thân hữu khắng khít, công việc của chúng tôi ngày nay không còn phải hun đúc một quan hệ mới, vì quan hệ này vẫn đang tiếp tục phát triển, và mở rộng hơn thêm. Tôi đang cưu mang một vai trò cần phải thực hiện, tôi trông mong được nghe và cùng chia sẻ với cộng đồng nói chung, và với giới truyền thông nữa, về việc làm thế nào cổ động cho tình thân hữu được hoạt động mạnh mẽ nhất giữa hai quốc gia. Với thính giả, công cụ và phương pháp truyền thông mới, tôi tin là hình ảnh của Hoa Kỳ ở Việt Nam đã cải thiện rất nhiều suốt 15 năm qua, và ngày nay, tinh thần Mỹ Quốc là đồng nghĩa với cởi mở và tiến bộ. Sáng kiến đặc biệt tôi dự định nhắm đến gồm việc khuyến khích trao đổi mua bán và đầu tư của Hoa Kỳ khiến cho ở Mỹ tạo thêm được công việc làm, gia tăng cơ hội học vấn đối với sinh viên có đủ điều kiện, được sang Mỹ du học, cũng như tìm cách khuyến khích những ai tốt nghiệp nên trở về để xây dựng cho nền kinh tế Việt Nam. Hòa giải với đồng bào ở hải ngoại dĩ nhiên là vấn đề cá nhân. Tôi hy vọng tìm hiểu về nhận thức của Việt Nam, lúc trước và bây giờ, dưới nhãn quan của cả hai phía Việt Nam và Hoa Kỳ. Trong tiến trình này, tôi hy vọng cải thiện được quan hệ ngoại giao giữa đôi bên. Mục tiêu cá nhân của tôi gồm cả việc khuyến khích làm từ thiện, giúp đỡ các cô nhi viện, bệnh viện và trường học. NV: Người ta nói, ông được nhận làm con nuôi từ hồi nhỏ? TLS Lê Thành Ân: Nói theo nghĩa thông thường, thì không phải tôi được nhận làm con nuôi. Tôi là một trong chín anh chị em trong gia đình, và tôi thứ bảy. Tôi rời Việt Nam lúc còn bé và sống với bà dì và mẹ của dì. Dì tôi là người giám hộ hợp pháp nên tôi thường coi bà như là mẹ “nuôi” của tôi. Bà về hưu sau hơn 30 năm tận tụy phục vụ cho chính phủ Hoa Kỳ, trong cương vị chủ bút (editor) Việt ngữ và làm phát thanh cho Ðài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA). Về phần cha mẹ và anh chị em. Cha tôi mất năm 1972, mẹ và hai anh cùng hai chị tôi kẹt lại Việt Nam cho đến khi chúng tôi được đoàn tụ vào năm 1986 theo chương trình ODP. Ðồng thời, những người khác trong gia đình tôi hoặc đi Pháp hoặc sang Mỹ. NV: Là di dân gốc Việt, ông thấy công việc và chức vụ mới ra sao? Ông có cảm thấy Việt Nam là “quê nhà” không? TLS Lê Thành Ân: Công tác ở hải ngoại của tôi trong vai trò một nhà ngoại giao Hoa Kỳ đưa tôi và gia đình đi khắp nơi, Bắc Kinh, Tokyo, Kuala Lumpur, Singapore, Seoul và Paris, trong suốt hai thập niên qua. Tiếp xúc với đủ sắc dân, ngôn ngữ và tín ngưỡng, mang lại cho tôi tài sản vô giá về khả năng nhận thức về chính sách quốc tế và quốc nội đương thời. Ði chu du nhiều, các cộng sự của tôi cũng như những liên lạc viên địa phương đã giúp tôi đến với các định chuẩn, thực hành và ý tưởng quốc tế. Sự tương tác với những nền văn hóa dị biệt giúp tôi loại bỏ được thành kiến, và quen với sự tổng quát hóa. Tôi thấy Việt Nam là “nhà” chỉ khi nào tôi ngoắc một chiếc taxi, nhờ người tài xế đưa tôi đến một địa chỉ khó tìm, rồi anh ta quay lại và nói: “Ông nói tiếng Việt giỏi quá!” NV: Ông có gặp khó khăn khi di chuyển tại Việt Nam? TLS Lê Thành Ân: Ấn tượng đầu tiên của tôi đối với TP ************ là hàng hàng lớp lớp xe đạp và xe gắn máy. Ðiều này gợi tôi nhớ đến Bắc Kinh vào thập niên 1990. Vì ít hệ thống đèn giao thông, việc băng qua đường là cả một chuyện lớn. Trong dòng xe cộ, gồm xe con, xe buýt, xe đạp và xe gắn máy, khó lòng tìm được một khoảng trống để chen chân vào. Ðiều cần thiết là tư duy: bạn phải chấp nhận lối suy nghĩ rằng bạn phải qua được bên kia đường một cách an toàn. Hãy bước từ từ, và quan trọng nhất là chớ mà dừng lại, vì làm thế sẽ gây bối rối cho tài xế, lại còn gây nguy hiểm thêm cho bạn nữa. Ðiều đáng ngạc nhiên là dòng xe sẽ cuộn quanh bạn như nước chảy quanh một hòn đá. Mẹo vặt của tôi dành cho khách du lịch là: cứ bước tới, trong khi mắt vẫn nhìn vào dòng xe đang tiến về phía mình. NV: Ông thích món ăn Việt Nam nào nhất? TLS Lê Thành Ân: Tôi thích nhiều món ăn Việt Nam, chẳng hạn chả giò, gỏi cuốn, chạo tôm, súp măng cua và bánh xèo. Nếu phải chọn món khoái khẩu nhất thì tôi chọn cơm tấm bì thịt nướng ăn với đồ chua. Chúng tôi sang Việt Nam đúng vào dịp Trung Thu, đi đâu cũng có thể mua được bánh Trung Thu. NV: Ông thích nhạc sĩ Việt Nam nào nhất? Và ông thích thể loại nhạc nào nhất? TLS Lê Thành Ân: Phải nói là Trịnh Công Sơn! Ông quá sức phổ thông trong quảng đại quần chúng, là một nhạc sĩ kiêm ca sĩ tầm cỡ mà chính nữ ca sĩ Joan Baez còn mệnh danh ông là “Bob Dyland của Việt Nam.” Ông từng là mục tiêu để cả hai miền Nam và Bắc trấn áp. Ông sáng tác những tập nhạc chất chứa nỗi hy vọng cho hòa bình và bình yên. Mới gần đây, vợ chồng tôi đến chơi ở một phòng trà địa phương, nay thu hút đông dân trong vùng lẫn “Việt Kiều” đến nghe nhạc Việt và do một số nghệ sĩ trẻ Việt Nam trình bày. Chúng tôi rất cảm kích tài năng của những người trẻ này. Ðể thấy tôi “lão làng,” bạn có biết rằng tôi thích đi xem hát “Cải Lương.” Cải Lương là một hình thức kịch nghệ dân gian của Việt Nam, pha lẫn giữa dân ca Nam bộ với cổ nhạc. Cải Lương có thể so với một loại thoại kịch có thêm thắt phần Vọng Cổ. Vọng Cổ (diễn giải cho văn vẻ có nghĩa là “nghĩ tưởng đến quá khứ”) là một lối hát với nhạc nền thường phụ họa bằng đàn tranh. Cải Lương thường ca ngợi giá trị đạo đức. Vở kịch được biểu thị đặc biệt bằng y phục rực rỡ đầy màu sắc; những mái tóc đẹp điểm tô sặc sỡ, những bộ chiến bào và nón trận tinh vi nghệ thuật. Lớn lên ở Việt Nam từ bé, vở tuồng tôi ưa thích nhất là Lương Sơn Bá-Chúc Anh Ðài, được viết phỏng theo truyện Tàu, nói về đôi tình nhân ưa thích bắt bướm. NV: Xin ông cho biết đôi nét về học vấn? TLS Lê Thành Ân: Giáo dục chính thức của tôi ở Hoa Kỳ mang đến cho tôi nhiều thuận tiện lẫn cơ hội. Quanh tôi là vô số lãnh vực chuyên môn khiến tôi tha hồ chọn lựa. Tôi lấy xong bằng kỹ sư điện vào năm 1976, rồi bằng Cao Học về Khoa Học Quản Trị năm 1978, cả hai đều từ trường George Washington University ở Washington D.C. Tôi gia nhập ngành ngoại giao vào năm 1991 sau khi làm công chức dân chính cho Bộ Hải Quân Hoa Kỳ được 15 năm. Theo thời gian, nhờ có kiến thức về ngành kỹ thuật, tôi có khả năng hiểu được sâu hơn và có thể bàn về những vấn đề liên quan đến lãnh vực kinh doanh nói chung. NV: Xin cám ông đã dành thời gian cho chúng tôi. Trích nguồn từ nguoi-viet.com
|
|
![]() |
|
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
"Ông Lê Thành Ân, người gốc Gò Công, vừa trở thành tổng lãnh sự gốc Việt đầu tiên của Tòa Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Ông Lê Thành Ân sinh năm 1955, sang Mỹ từ năm 1965, từng làm việc cho Bộ Hải Quân Hoa Kỳ trước khi chuyển sang ngành ngoại giao. Ông từng có nhiệm sở tại các thành phố Bắc Kinh, Tokyo, Kuala Lumpur, Singapore, Seoul, và Paris, trước khi đến Việt Nam. Trong bài phỏng vấn dưới đây, dành cho phóng viên Tiffany Lê của Người Việt, ông Ân nói rằng trở thành Tổng Lãnh Sự tại nơi chôn nhau cắt rốn, đối với ông, “vừa là một vinh dự, vừa là một đặc ân to lớn.” Phái đoàn Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ đến thăm nghĩa trang Quân Đội Biên HòaTổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã đến thăm nghĩa trang Quân Đội Biên HòaChiều nay, ngày 7 tháng 3 năm 2013, một phái đòan thuộc Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã đến thăm nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa . Phái đoàn do ông TLS Lê Thành Ân dẫn đầu. Đây là lần đầu tiên có sự kiện quan trọng này kể từ khi Hoa Kỳ thiết lập bang giao với Việt Nam dưới chế độ CS.. Dưới đây là một số hình ảnh về cuộc viếng thăm này Việt Nam: Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã đến thăm nghĩa ...Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 09/Mar/2013 lúc 10:58am |
|
mk
|
|
![]() |
|
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI BIÊN HÒA,CHUYỆN KỂ TỪ ĐẦU(Bài viết của nhà văn Giao Chỉ, cựu đại tá Vũ Văn Lộc, về Nghĩa trang Quân Đội VNCH Biên Hòa ) http://namrom64.blogspot.com/
Nghĩa Dũng Ðài và bia mộ chiến sĩ vô danh số một. (Hình: IRCC, Inc. cung cấp)
Bức tượng Thương Tiếc, hình chụp trước và sau 1975. (Hình: IRCC, Inc. cung cấp)
Nhưng sao trong gió ta nghe có tiếng thì thào!! "
LTS:
Lần đầu tiên, chính quyền cộng sản Hà Nội có một thông cáo chính thức liên quan
đến nghĩa trang Quân Ðội Biên Hòa. Thông báo phổ biến cuối năm 2006. Nghĩa
trang này được Công Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà khởi công từ năm 1965,
giành đất mai táng cho 30 ngàn tử sĩ. Sau các trận Mậu Thân 1968, đến Mùa Hè
1972, rồi các trận đánh giành dân lấn đất kỳ Hiệp Ðịnh Paris, nghĩa trang này đã
chôn cất 16 ngàn tử sĩ. Khoảng 8,000 mộ phần đã có bia; một nửa kia chỉ mới đắp
đất. Ðó là tính đến ngày 30 Tháng Tư, 1975.
Quá trình xây cất nghĩa
trang Biên Hòa
Lịch sử nghĩa trang Quân Ðội Biên Hòa
Từ 1965, nghĩa trang Quân Ðội Biên Hòa được thành lập, dự trù 30,000 mộ phần. Các trận Mậu Thân 1968, Mùa Hè 1972 đã chôn trên 10,000 tử sĩ. Tính đến 1975 đã có 16,000 tử sĩ chôn tại đây. Tên gọi đầu tiên: nghĩa trang Quân Ðội; về sau gọi là nghĩa trang Quốc Gia. Nơi đây chôn cất không riêng tướng lãnh, sĩ quan và chiến binh mà dành làm nơi yên nghỉ cho các thành viên chính phủ hành pháp, lập pháp và tư pháp. Trước 1970: Hoàn tất bang đất làm đường, tượng Thương Tiếc, Cổng Tam Quan, Ðền Tử Sĩ. Giai đoạn 1975, Nghĩa Dũng Ðài với ngọn tháp cao đã làm xong, Vành Khăn Tang vĩ đại chung quanh gần đến giai đoạn cuối. Tháng
Mười Một, 1974: Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu thăm công trình và tuyên bố rằng đây là công trình ông
để lại cho quân đội.Dự trù hoàn tất để khánh thành đợt đầu vào ngày Quân Lực 19
Tháng Sáu năm 1975. Ðiều này đã không thực hiện được. Bắt đầu từ năm 1980: thân nhân, đặc biệt những người chuẩn bị “vượt biên,” bắt đầu thăm và tảo mộ. Thập
niên 1990:
các chiến binh cải tạo được tự do bắt đầu trở lại thăm viếng bạn đồng ngũ, và
từ giã trước khi lên đường sang Hoa Kỳ theo diện “H.O.” Năm
1994,
cơ quan IRCC, Inc. bắt đầu cho người về thăm lại nghĩa trang và ghi nhận phần
lớn còn tồn tại nhưng rất hoang phế. Một trung tá công binh đã đi một vòng đem
về các báo cáo sơ khởi.
Ta
như người lính thua trận
Nghĩa Trang Quân Ðội tại
Biên Hòa có khá nhiều công trình xây cất đáng kể. Trước hết là bức tượng Thương Tiếc, người lính Việt Nam Cộng Hòa ngồi nghỉ chân trên bệ đá, súng để ngang trên đùi, nét mặt buồn và rất Việt Nam. Câu chuyện về bức tượng này đã được kể lại nhiều lần. Sau ngày 30 tháng 4, tượng này bị cộng sản lật đồ. Phóng viên ngoại quốc có chụp được hình. Tin sau cùng cho biết bức tượng đã đưa vào kho tại quận Dĩ An và sau cùng có thể bị nấu ra lấy đồng và không còn vết tích. Một ngày nào đó có được tài liệu về dấu vết pho tượng này, chúng tôi sẽ loan báo sau. Tác giả của pho tượng này là điêu khắc gia Nguyễn Thiên Thu, lấy hình người mẫu là một binh sĩ nhảy dù. Hiện nay ông Thu, nguyên là một sĩ quan Quân Nhu, theo đặc san của ngành này cho biết, đã trở về Việt Nam để tìm cách thực hiện lại bức tượng Thương Tiếc. Ngoài bức tượng kể trên, trên đường vào nghĩa trang đi theo con đường chánh xuyên tâm, lên dốc cao, phải qua Cổng Tam Quan, một công trình xây cất giản dị, bề thế và rất chân phương. Giữa cảnh hoang tàn rêu phong hiện nay, Cổng Tam Quan vẫn giữ được đường nét vững vàng và gần như còn nguyên vẹn. Qua Cổng Tam Quan, con đường dẫn đến ngôi Ðền Tử Sĩ trên một ngọn đồi nhỏ có 4 lối lên bốn phía. Ðây là nơi để linh cữu các vị tướng lãnh trước khi chôn cất. Ðây cũng là nơi khi tổng thống, thủ tướng hay các giới chức cao cấp chủ tọa các buổi lễ chiêu hồn tử sĩ. Tháng 3-1975, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm lên thăm viếng và làm lễ đặt vòng hoa. Không ai biết rằng đây là lần sau cùng. Cũng tại đây và tại Vành Khăn Tang của Nghĩa Dũng Ðài là nơi các toán quân danh dự canh gác theo nghi lễ. Các quân nhân từ các quân binh chủng mặc sắc phục được điều động về theo đơn xin và có đủ điều kiện. Vóc dáng trẻ trung, khỏe mạnh, cao lớn, đoàn quân này được huấn luyện để canh gác và biểu diễn các thao tác nghi lễ như các đoàn quân danh dự tại nghĩa trang Arlington Hoa Kỳ. Sau Ðền Liệt Sĩ sẽ phải đi một đoạn rất dài mới đến đỉnh một giải đất cao, chính giữa trung tâm là Nghĩa Dũng Ðài. Ðây là một công trình quan trọng nhất mà Công Binh Việt Nam đã thực hiện. Cục Công Binh sau khi khởi công xây cất nghĩa trang, song song với việc bang đất, giúp Cục Quân Nhu chôn cất thì bắt đầu nhận công tác từ Bộ Tổng Tham Mưu, Tổng Cục Tiếp Vận để xây cất Nghĩa Dũng Ðài vào tháng 11-1967. Một kỳ thi được thực hiện phối hợp giữa Công Binh và Trường Ðại Học Kiến Trúc Sài Gòn. 54 đồ án dự tuyển. Ban chấm thi gồm Ðại Học Kiến Trúc, Tổng Cục Tiếp Vận, Chiến Tranh Chính Trị, Cục Quân Nhu, Cục Công Binh và sau cùng chọn được một đồ án đem ra thực hiện.Trên nền đất phẳng, Công Binh cho đổ 10,000 thước khối đất làm thành một ngọn đồi nhân tạo. Ðại đội xe Benne phải làm việc gần hai tháng. Trên ngọn đồi nhỏ này Công Binh xây bệ tròn với chính giữa là ngọn kiếm hướng mũi lên trời. Cây kiếm có thân bốn cánh hình chữ thập cao 43 thước. Chân của chữ thập đường kính 6 thước rưỡi và trên mũi nhọn là ba thước rưỡi. Có bậc thang để leo lên đỉnh và đứng trên này sẽ nhìn thấy thành phố Sài Gòn. Cây kiếm đúc bằng Ciment cốt sắt từng tảng trồng lên nhau chịu được sức gió trên 120km/giờ. Phía dưới bệ đài xây Ciment vòng chung quanh thành một vành khăn được gọi tên rất xúc động là Vành Khăn Tang. Trên Vành Khăn này dự trù sẽ có các công trình điêu khắc về các chiến công của Quân Ðội Việt Nam qua các thời đại. Từ thời Hùng Vương lập quốc đến các vị anh hùng chống xâm lăng phương Bắc rồi đến các chiến công của Việt Nam Cộng Hòa. Tất cả công trình xây cất Nghĩa Trang Quân Ðội gần như hoàn tất và riêng Nghĩa Dũng Ðài thì đã xong phần kiến trúc căn bản. Cho đến ngày 30 tháng 4-1975, những đơn vị kiến tạo của TÐ54 Công Binh vẫn còn hiện diện tại công trường. Một toán đặc phái công tác về sửa chữa Dinh Ðộc Lập vẫn còn thấy các vị cao cấp ra vào trước khi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu rời Việt Nam. Ngoài sự hy sinh đổ máu của Công Binh Chiến Ðấu, thêm bao nhiêu công thự, cầu đường cho Công Binh Kiến Tạo góp phần trên toàn thể miền Nam thì công trường Dinh Ðộc Lập và công trường Nghĩa Trang Quân Ðội là các di sản hãnh diện của ngành Công Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sau hơn 30 năm, cả hai công trình này và đặc biệt là Nghĩa Dũng Ðài vẫn tồn tại và hy vọng sẽ tồn tại vĩnh viễn. Nghĩa Dũng Ðài suốt 30 năm qua đã được bảo vệ bởi 16 ngàn tử sĩ ở lại Nghĩa Trang Quân Ðội. Dù sau này, chính quyền cộng sản Hà Nội có bất cứ hành động nào thì các di sản anh hùng này vẫn phải tồn tại và ghi vào lịch sử. Trong tương lai rất gần, có thể chỉ trong vòng 5 năm, khu vực Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hòa sẽ trở thành một nơi thăm viếng không chính thức của khách du lịch gốc Việt. Dù không có thân nhân trực hệ hy sinh nằm tại đây, nhưng nếu nghĩ rằng, những tử sĩ này là ông bà, cha mẹ, chú bác, anh em của chúng ta, chuyến trở về thăm viếng sẽ có nhiều ý nghĩa. Ðứng trên khu vực dưới chân Nghĩa Dũng Ðài nhìn xuống cả cánh đồng mộ chí bát ngát còn ít nhất là 8,000 tử sĩ nằm lại. Xa xa là Ðền Tử Sĩ. Quanh cảnh càng tiêu điều, càng hoang vu lại càng thêm xúc động. Mặc dù các phần đất bao quanh khu Nghĩa Trang bát ngát chưa được xử dụng nhưng sau này vật đổi sao rời, có thể là khu cư xá hay công nghệ, nhưng chúng ta vẫn kỳ vọng các ngôi mộ nằm chung quanh Nghĩa Dũng Ðài vẫn còn ở lại để bảo vệ ngọn kiếm 46 thước cao vươn lên trời xanh.Dinh Ðộc Lập dù sao cũng là di tích còn lại từ thời Pháp thuộc. Nhưng Nghĩa Dũng Ðài, một công trình rất quan trọng và tiêu biểu của Công Binh Việt Nam sẽ vẫn còn mãi với lịch sử. Lịch sử luôn luôn suôi chiều, không thể chính quyền nào đi ngược lại được dù là chính quyền cộng sản Hà Nội khi mà nhân loại đã bước vào buổi bình minh của thế kỷ 21. Hiện nay tại hải ngoại không một gia đình nào là không có liên hệ đến thuyền nhân và chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Mỗi năm đã có cả trăm ngàn người về thăm thân quyến và quê hương. Chỉ cần một phần mười lên thăm Nghĩa Trang Quân Ðội. Hãy tìm đường đi vào đứng một lần dưới Nghĩa Dũng Ðài. Dù trên ngọn kiếm có lá cờ đỏ hay không có cờ đỏ. Lá cờ vàng vẫn mãi trong tim chúng ta. Du khách gốc Việt bốn phương tìm về lịch sử, phải đứng dưới Nghĩa Dũng Ðài ít nhất một lần. Việc thăm viếng sẽ mở ra dịch vụ, sẽ nảy sinh ra người hướng dẫn. Với những hành động đơn giản nhưng vô cùng cao quý. Nghĩa Dũng Ðài mãi mãi sẽ vẫn còn là của chúng ta. Ðiều ghi nhớ sau cùng là hãy hành động vì tâm linh, hãy thật lòng nghĩ đến những người nằm trong lòng đất lạnh là thân quyến của chúng ta. Hãy đem theo một nén hương lòng và đừng để công việc thăm viếng chỉ là ngụy trang của một hành vi chính trị. Không cần phải làm thành phái đoàn ồn ào, khua chiêng đánh trống. Chỉ cần bước những bước cô đơn về thăm ngôi mồ vô chủ của người lính vô danh là đã quá đủ rồi. Ðối với các cựu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa, đừng tưởng rằng ta không có người thân nằm tại đây. Hãy tìm tìm đến, mở đường trên cây lá che phủ trên từng mộ bia sẽ tìm thấy anh em. Thấy tên chiến hữu tưởng đã đi đâu, ai ngờ vẫn nằm ở đây. Gần 10 ngàn tử sĩ nằm chờ các bạn đã hơn 30 năm rồi. Ðược như vậy thì chuyến về quê năm nay mới thực sự có ý nghĩa và đó là giải pháp để bảo vệ sự tồn tại của Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hòa. Giao Chỉ - San Jose
Nguồn : http://www.quehuongngaymai.com/forums/showthread.php?p=1040206#post1040206
http://motgoctroi.com/NghiatrangQD/NghiatrangQDBH_02.htm Nghĩa trang Quân Đội VNCH Biên Hòa - Chánh Huỳnh stChỉnh sửa lại bởi mykieu - 17/Mar/2013 lúc 10:36pm |
|
mk
|
|
![]() |
|
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |