Người gởi |
Nội dung |
mykieu
Senior Member
Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
|
 Chủ đề: Thi sĩ Hữu Loan qua đời Gởi ngày: 18/Mar/2010 lúc 5:39pm |
Thi sĩ Hữu Loan qua đời
Vào lúc 19 giờ hôm qua 18.3, lão thi sĩ Hữu Loan đã từ trần tại nhà riêng ở thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, H.Nga Sơn (Thanh Hóa), thọ 95 tuổi. Thi sĩ Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh năm 1916 tại thôn Văn Hoàn, xã Nga Lĩnh, H.Nga Sơn (Thanh Hóa).
Ông đỗ tú tài năm 1943. Hữu Loan tham gia Mặt trận bình dân năm 1936, tham gia Việt Minh ở thị xã Thanh Hóa (nay là TP Thanh Hóa)... Trước năm 1945, ông từng là cộng tác viên trên các tập san văn học xuất bản tại Hà Nội. Sau Cách mạng tháng Tám, ông được cử làm Ủy viên Văn hóa trong Ủy ban Hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa. Kháng chiến chống Pháp, Hữu Loan tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam, phục vụ trong Đại đoàn 304.
Sau năm 1954, ông làm việc tại Báo Văn Nghệ trong một thời gian. Ông nổi tiếng với các bài thơ Màu tím hoa sim, Đèo Cả, Hoa Lúa... Từ hơn 1 năm nay, thi sĩ Hữu Loan bị chứng thấp khớp nặng, toàn thân đau nhức không thể đi lại được. Mặc dù đã được gia đình chăm sóc chu đáo, nhưng do tuổi cao, sức yếu, nhà thơ đã vĩnh biệt cuộc đời ở tuổi 95.
Ngọc Minh
Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 18/Mar/2010 lúc 5:56pm
|
mk
|
|
IP Logged |
|
mykieu
Senior Member
Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
|
 Gởi ngày: 18/Mar/2010 lúc 6:03pm |
Hữu Loan
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hữu Loan (02/04/1916-), là một nhà thơ Việt Nam.
//
[sửa] Tiểu sử
Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh tại quê ở làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông học thành chung ở Thanh Hóa sau đó đi dạy học và tham gia Mặt trận bình dân năm 1936, tham gia Việt Minh ở thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa). Năm 1943, ông về gây dựng phong trào Việt Minh ở quê và khi cuộc Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông làm Phó chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn. Trước năm 1945, ông đã từng là cộng tác viên trên các tập san Văn Học, xuất bản tại Hà Nội. Sau Cách mạng tháng Tám, ông được cử làm Uỷ viên Văn hóa trong Uỷ ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính. Kháng chiến chống Pháp, Hữu Loan tham gia quân đội Nhân dân Việt nam, phục vụ trong Đại đoàn 304. Sau năm 1954, ông làm việc tại Báo Văn nghệ trong một thời gian. Trong thời gian 1956-1957, ông tham gia Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm do nhà văn Phan Khôi chủ trương. Ông sáng tác những tác phẩm lên án thẳng thắn và quyết liệt đến những tiêu cực của các cán bộ cộng sản nịnh hót, đố kỵ, ám hại nhau v.v... như tác phẩm Cũng những thằng nịnh hót và truyện ngắn Lộn sòng. Trong tác phẩm của mình, ông coi mình là nạn nhân của xã hội cộng sản và phê phán xã hội này một cách kịch liệt. Sau khi phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bị dập tắt vào năm 1958, nhà thơ Hữu Loan phải vào trại cải tạo vài năm, tiếp đó bị giam lỏng tại địa phương. [cần dẫn nguồn] Hiện ông đang sống tại quê nhà.
Ông nổi tiếng với bài thơ Màu tím hoa sim do ông sáng tác trong thời gian tham gia kháng chiến chống Pháp và được lưu hành rộng rãi trong vùng kháng chiến. Có thông tin cho rằng, do nội dung bài thơ nặng nề tình cảm và ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý quân dân, nên ông bị giải ngũ [cần dẫn nguồn].
[sửa] Tác phẩm
Hữu Loan chưa xuất bản tập thơ nào, dưới đây là một số bài thơ đã được phổ biến của ông:
[sửa] Đánh giá
Thơ Hữu Loan thường làm theo thể tự do, có âm điệu giàu nhạc tính để chuyển tải tâm sự vì thế những bài thơ hiếm hoi đã được phổ biến của ông đều sống trong lòng độc giả. Nói đến Hữu Loan là người ta nhớ đến Màu tím hoa sim, bài thơ xuất phát từ là nỗi lòng của riêng ông nhưng gây xúc động và nhận được sự đồng cảm của người đọc. Bài thơ đã được các nhạc sỹ Dũng Chinh, Phạm Duy, Anh Bằng phổ nhạc. Vào tháng 10 năm 2004, Màu tím hoa sim đã được Công ty Cổ phần Công nghệ Việt (viết tắt: ViTek VTB) mua bản quyền với giá 100 triệu đồng. [1]
[sửa] Vài nét về gia đình
Hữu Loan kết hôn hai lần, lần thứ nhất vào đầu năm 1949 với bà Lê Đỗ Thị Ninh, là con gái của nguyên Tổng thanh tra nông lâm xứ Đông Dương Lê Đỗ Kỷ, Đại biểu Quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1946).Hữu Loan quen biết bà Ninh khi ông còn học college Đào Duy Từ, Thanh Hoá. Ông đã làm gia sư dạy mấy người anh trai và sau đó là bà Ninh. Tháng 5 năm đó bà Ninh mất (do chết đuối) khi mới 16 tuổi và bài thơ Màu tím hoa sim ra đời. Sau đó ông kết hôn với bà Phạm Thị Nhu, một nông dân, bài thơ Hoa lúa (1955) chính là bài thơ viết tặng người vợ thứ hai này. [2]
[sửa] Chú thích
- ^ Theo Thông tấn xã Việt nam
- ^ Hữu Loan trả lời phỏng vấn Nhà xuất bản Kim Đồng
[sửa] Liên kết ngoài
|
mk
|
IP Logged |
|
mykieu
Senior Member
Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
|
 Gởi ngày: 18/Mar/2010 lúc 6:58pm |
|
|
|
Nhà thơ Hữu Loan - "Tình đẹp, tâm thiêng, thơ sẽ sống mãi" |
|
“Kể cũng lạ, tôi là anh học trò nghèo từ đồng cói Nga Sơn tự học, thi đậu tú tài rồi đi làm gia sư trong gia đình cô Ninh để kiếm gạo, khi cô ấy đã đẹp nổi tiếng trường nữ sinh Thanh Hóa. Không ngờ cô con gái nhà giàu nhưng lại đem lòng anh giáo nghèo là tôi.”
Lần theo sự kiện Màu tím hoa sim - một trong những bài thơ tình hay nhất thế kỷ vừa có tác quyền trị giá 100 triệu đồng, chúng tôi tìm về làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn (Thanh Hóa) để mong gặp được nhà thơ Hữu Loan. Trái với mọi lời đồn thổi “ông già ấy lập dị lắm, không hề tiếp ai đâu”, nhà thơ đã dành cho chúng tôi hơn nửa ngày không chỉ với Màu tím hoa sim nổi tiếng, mà còn dốc bầu tâm sự về chữ “tâm”, chữ “tình” trong thơ ông.
Trong căn nhà cấp bốn đơn sơ tại làng Vân Hoàn, thi sĩ Hữu Loan ngồi im lìm như một pho tượng sống trên chiếc ghế nhựa, sát chiếc tivi để nghe tiếng cho rõ nhưng mắt ông lại nhìn đau đáu ra khoảng vườn li ti bóng nắng, bóng dừa, bóng nhãn. Mái tóc trắng bạc xòa lên hai bờ vai làm cho khuôn mặt hào hoa, đẹp lão của ông thêm vẻ trầm lắng. Chiếc áo bông khoác xuề xoà trên vai không giấu nổi một vóc hình vốn to cao, vạm vỡ.
Tình và tâm trong thơ
- Được hỏi chuyện, thi sĩ nhớ lại cảm xúc khi ông Lê Văn Chính, giám đốc Công ty Vitek VTB, đến đặt 100 triệu đồng xin mua tác quyền bài thơ Màu tím hoa sim:
- Trước khi trao bản quyền bài thơ tôi suy nghĩ nhiều lắm. Phải mấy tuần sau tôi mới quyết. Lâu nay có nhiều người trong Nam ngoài Bắc kể cả người nước ngoài tìm gặp xin tôi chép lại bài thơ, nay nó được tung hẳn ra một cách đàng hoàng cũng là một điều vui. Một điều vui khác, lần đầu tiên vợ chồng tôi có tiền chia đều cho mười đứa con mỗi đứa một ít. Đặc biệt chu cấp vốn cho những đứa con nghèo làm ăn, thứ đến sẽ trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài sẽ mang tên Thơ Hữu Loan.
Nói đoạn, ông đọc lại cho tôi nghe toàn bộ bài Màu tím hoa sim bằng giọng quê mạch lạc, giàu cảm xúc và trầm ấm của người tỉnh Thanh. Đến những từ cuối cùng của bài thơ, khóe mắt ông hoe đỏ. Không dám bàn luận gì nhiều về những câu chữ tài hoa, tôi hỏi ông một chi tiết rất dễ thương của bài thơ:
- Nàng không đòi may áo mới trong ngày hợp hôn có thật hay không lời của cô gái 16 tuổi?
- Thật chứ. Cô ấy tên là Lê Đỗ Thị Ninh quê ở làng Đình Hương, nay là vùng Sặt thuộc huyện Đông Sơn. Kể cũng lạ, tôi là anh học trò nghèo từ đồng cói Nga Sơn tự học, thi đậu tú tài rồi đi làm gia sư trong gia đình cô Ninh để kiếm gạo, khi cô ấy đã đẹp nổi tiếng trường nữ sinh Thanh Hóa. Không ngờ cô con gái nhà giàu nhưng lại đem lòng anh giáo nghèo là tôi. Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không “môn đăng hộ đối” một chút nào. Mãi sau mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ cô ấy ngấm ngầm “soạn kịch bản”. Một lần tôi bàn việc may áo cưới cô ấy gạt đi, rằng: Yêu nhau, thương nhau cốt cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả.
- Còn bốn từ anh chồng độc đáo là sao ạ?
- Cũng là câu nói của cô ấy. Vì hồi đó tôi học giỏi, làm thơ hay và lại đẹp mã nữa. Độc đáo quá đi chứ! - ông cười vui, rung rung cái miệng móm mém.
Như sống lại với một thời trai trẻ, thi sĩ Hữu Loan thổ lộ:
- Cô Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi cô bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa năm 16 tuổi cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi mới viết nổi những câu chiều hành quân/ qua những đồi hoa sim /những đồi hoa sim/ những đồi hoa sim dài trong chiều không hết /màu tím hoa sim /tím chiều hoang biền biệt và chiều hoang tím có chiều hoang biết/ chiều hoang tím tím thêm màu da diết.
Bài thơ được anh lính Vệ quốc quân viết rất nhanh bởi “nỗi nhớ, niềm đau và tình thương người vợ trẻ đã tự “viết” sẵn từng quãng thơ trong đầu anh rồi. Đặt bút là câu thơ hiện hình lên. “Làm thơ phải có cái tâm mà phải là cái tâm linh thật thiêng liêng thì mới có thơ hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì”. Nghe ông nói, bất chợt tôi ngước nhìn chữ “Tâm” do ông viết bằng Hán tự khá đẹp treo trên bức tường chính giữa bàn thờ đang thoảng bay mùi hương thơm.
Thơ trong đời
- Dù sao thì chuyện cũ Hữu Loan đã lùi về quá khứ. Tôi đã trải đủ nghề kiếm sống từ nghề đi xe thồ, xe cút kít, vác đá, mò cua, bắt ốc. Không thể từ nan việc gì mới đủ sức nuôi mười đứa con sáu trai, bốn gái sau khi tôi làm bạn với bà Nhu đây này.
Bà Phạm Thị Nhu (kém chồng 20 tuổi) ngồi cạnh thi sĩ quay sang hỏi tôi:
- Thế chú đã nghe bài thơ Hoa lúa ông ấy viết nịnh tôi chưa?
Tôi thưa mới chỉ nghe loáng thoáng qua một bản nhạc đã lâu lắm rồi, còn nguyên gốc bài thơ thì bây giờ mới xin nghe.
Ông đọc:
- Em là con gái đồng xanh tóc dài vương hoa lúa đôi mắt em mang chân trời quê cũ giếng ngọt, cây đa anh khát tình quê ta trong mắt em thăm thẳm nhạc quê hương say đắm trong lời em từng lời tiếng quê hương muôn đời và tiếng em là một em ca giữa đồng xanh bát ngát anh nghe quê ta sống lại hội mùa có vật trụi, đánh đu, kéo hẹ, đánh cờ có dân ca quan họ trai thôn Thượng, gái thôn Đoài hai bên gặp gỡ cầm tay trao một miếng trầu yêu nhau cởi áo cho nhau về nhà dối mẹ qua cầu gió bay Quê hương ta núi ngất, sông đầy bát ngát làng tre, ruộng lúa em gái quê hương mang hình ảnh quê hương xa em năm nhớ, gần em mười thương còn bàn tay em còn quê hương mãi em mang nguồn ân ái căng ngực trẻ hai mươi và trong mắt biếc nhìn anh em gái quê si tình chưa bao giờ được yêu đương trọn vẹn…
Anh yêu em muôn vàn như quê ta bất diệt quê hương ta ơi từ nay càng đẹp
tình yêu ta ơi từ nay càng sâu Ta đi đầu sát bên đầu
mắt em thăm thẳm đựng màu quê hương.
Hoa lúa được ông xem là bài thơ tặng bà vợ sống, viết năm 1955, sáu năm sau bài thơ Màu tím hoa sim tặng bà vợ đã qua đời.
Sau khi cắm thêm một nén hương trên bàn thờ, thi sĩ tiếp tục câu chuyện:
- Tôi làm thơ không nhiều, toàn bộ gia tài thơ có khoảng 40 bài nhưng bài nào cũng được khen hay. Thơ tôi không giống ai, ngắt câu, lên xuống dòng tùy ý. Vậy mà lạ: đọc nghe lúc nào cũng mới.
Nói rồi ông đọc bốn câu về lúa, về trăng, về người du kích và đồn giặc Pháp trong bài Yên Mô dài 37 câu viết năm 1947:
-...Đêm nhúng sương trăng soi
ngày phơi bông vàng nắng...
Anh làm du kích Yên Mô
nửa đêm trăng mọc đỏ như cháy đồn.
Hồi còn sống cụ Đặng Thai Mai yêu những câu này lắm nhé…
Thường ngày thi thoảng căn nhà vắng lặng giữa vườn cây trái của ông bà Hữu Loan lại vui lên bởi những đoàn học sinh giỏi trường chuyên Lam Sơn về hỏi chuyện thơ văn kim cổ. Hè năm 2003 dân làng Vân Hoàn tưởng nhà ông bà Hữu Loan có đám cưới vì thấy hơn 30 xe máy, mỗi xe hai người về dựng chật cổng.
Hóa ra đó là 60 thầy cô giáo và sinh viên Đại học Quốc gia từ Hà Nội rủ nhau về nghe tác giả Màu tím hoa sim nói chuyện văn học và một số chi tiết trong bài thơ nổi tiếng. Hôm ấy thầy trò ngồi chật nhà, chật sân nghe ông già ngồi nói chuyện suốt hơn hai giờ. Mới đây có một cô giáo nghèo cuối huyện “đi vòng thúng hết xã này sang xã khác hỏi nhà ông Hữu Loan không chỉ để tặng quà mà còn vì nghe tiếng nhà thơ ở cùng huyện nhưng chưa được biết mặt”.
Hôm nay tôi cũng như cô giáo nghèo ấy rời quốc lộ 1A, rời đường 13, men theo khúc sông Bó Văn, rẽ dưới chân núi Vân Hoàn, khẽ tay nhấc hai cánh cổng tre phía ngoài và hai cánh cổng sắt phía trong để vào nhà thi sĩ Hữu Loan; để được nghe bài Màu tím hoa sim do chính tác giả đọc cùng bầu tâm sự của một nhà thơ gần bước sang tuổi 90 mà vẫn có những phút giây rung động của chàng trai trẻ tuổi đôi mươi…
Nàng có ba người anh đi bộ đội những em nàng có em chưa biết nói khi tóc nàng xanh xanh. Tôi người vệ quốc quân xa gia đình yêu nàng như tình yêu em gái ngày hợp hôn nàng không đòi may áo mới tôi mặc đồ quân nhân đôi dày đinh bết bùn đất hành quân nàng cười xinh xinh bên anh chồng độc đáo. Tôi ở đơn vị về cưới nhau xong là đi từ chiến khu xa nhớ về ái ngại lấy chồng đời chiến chinh mấy người đi trở lại lỡ khi mình không về thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê... Nhưng không chết người trai khói lửa mà chết người gái nhỏ hậu phương tôi về không gặp nàng má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối chiếc bình hoa ngày cưới thành bình hương tàn lạnh vây quanh. Tóc nàng xanh xanh ngắn chưa đầy búi em ơi giây phút cuối không được nghe nhau nói không được trông nhau một lần. Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím áo nàng màu tím hoa sim. Ngày xưa đèn khuya bóng nhỏ nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa... Một chiều rừng mưa ba người anh từ chiến trường Đông Bắc được tin em gái mất trước tin em lấy chồng gió sớm thu về rờn rợn nước sông. đứa em nhỏ lớn lên ngỡ ngàng nhìn ảnh chị khi gió sớm thu về cỏ vàng chân mộ chí. Chiều hành quân qua những đồi hoa sim những đồi hoa sim những đồi hoa sim dài trong chiều không hết màu tím hoa sim tím chiều hoang biền biệt có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa: “áo anh sứt chỉ đường tà Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu”. Ai hát vô tình hay ác ý với nhau chiều hoang tím có chiều hoang biết chiều hoang tím tím thêm màu da diết nhìn áo rách vai tôi hát trong màu hoa: “áo anh sứt chỉ đường tà vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...”. Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm tím tình ơi lệ ứa ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím. Tôi ví vọng về đâu? Tôi với vọng về đâu? áo anh nát chỉ dù lâu...
HỮU LOAN
(*) Bài thơ do chính nhà thơ Hữu Loan đọc tại nhà ông, Vũ Toàn ghi lại ngày 12-12-2004 |
| |
|
|
|
Ngày đưa tin: 09/12/2005 15:38:00 Nguồn tin: Theo TTO |
Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 18/Mar/2010 lúc 7:01pm
|
mk
|
IP Logged |
|
lo cong
Senior Member
Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
|
 Gởi ngày: 19/Mar/2010 lúc 10:15am |
Xin gởi tiếp một bài nữa
 |
Nhà thơ Hữu Loan và vợ – bà Phạm Thị Nhu năm 2009. Ảnh: Hồ Trần |
Vào lúc 19g00 tối nay 18.3.2010, nhà thơ Hữu Loan, tác giả của bài thơ "Màu tím hoa sim" đã vĩnh viễn từ giã cõi đời khi chuẩn bị bước sang tuổi 95 (12.4.1916 – 18.3.2010). Trong lúc chờ đợi con cái về đông đủ, bà Nhu, vợ ông và 4 người con ở quê đã khâm liệm đặt ông vào quan tài yên nghỉ vào lúc 23g cùng ngày.
Nhà thơ Hữu Loan tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Loan, quê làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông đậu tú tài nhưng về quê mở trường dạy học và hoạt động phong trào Mặt trận Bình dân. Năm 1943 , ông gây dựng phong trào Việt Minh. Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông làm Phó chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông được cử làm Uỷ viên Văn hóa trong Uỷ ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính. Kháng chiến chống Pháp ông thuộc Đại đòan 304. Sau năm 1954, ông làm việc tại báo Văn Nghệ
Bài thơ "Đèo cả" mở đầu sự nghiệp thi văn của ông đã vang danh khắp chiến trường kháng chiến chống Pháp. Tiếp đó, người vợ đầu tiên Nguyễn Thị Ninh mất (1949) và ông nghe tin dữ khi đang trên đường hành quân khiến ông đã viết lên những vần thơ bất hủ "Màu tím hoa sim" đi sâu vào lòng người cho đến tận bây giờ và có lẽ cũng là mãi mãi.
Lấy người vợ thứ hai vào năm 1954, bà Nguyễn Thị Nhu, ông tiếp tục làm ở báo Văn Nghệ cho đến khi bị đi tù với nỗi oan nghiệt dính vào nghiệp văn chương. Ra tù, ông trở về quê đục đá kiếm sống nuôi 10 người con và sống với những ký ức vừa đẹp đẽ vừa đau thương cho đến ngày hôm nay, bên cạnh người vợ tần tảo, thủy chung.
Đêm nay, xin thắp một nén hương thiêng vĩnh biệt linh hồn người thi sĩ đáng kính.
Ngân Hà >
> Điều ít biết về 'Màu tím hoa sim' của Hữu Loan > > Đến nay, "Màu tím hoa sim" được xem là một trong những bài thơ tình hay nhất của thế kỷ 20 và là bài thơ đầu tiên được mua bản quyền bởi một doanh nghiệp với giá 100 triệu đồng. Nhưng quanh sự kiện này, cũng không ít độc giả còn thắc mắc về bản cũ và bản mới chỉnh sửa sau này của bài thơ. Tại Sài Gòn, trước năm 1975, giới văn nghệ sĩ cũng như đông đảo bạn đọc yêu thích thơ nhạc đều rất quen thuộc với bài Màu tím hoa sim của nhà thơ Hữu Loan. Tuy bấy giờ tác giả đang sống ngoài Bắc, nhưng tác phẩm ấy đã chiếm một chỗ đứng trong lòng người yêu thơ miền Nam. Bài thơ được giới thiệu không những qua sách báo, mà còn được phổ nhạc, hát rộng rãi trên đài phát thanh, các buổi trình diễn văn nghệ trên sân khấu đương thời, nhất là vào những năm thập niên 60 của thế kỷ 20. Bản Màu tím hoa sim thời ấy ngắn hơn bản tác giả công bố sau này. Nghĩa là dừng lại, chấm hết ở mấy câu: "Tôi hát trong màu hoa. Áo anh sứt chỉ đường tà. Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu" chứ không có thêm “Tôi ví vọng về đâu. Tôi với vọng về đâu. Áo anh nát chỉ dù lâu...” ở cuối bài như sau này. > So với bản Màu tím hoa sim "nay" thì bản "xưa" tuy ngắn hơn nhưng ý thơ đi rất trọn nghĩa, trọn tình, không trúc trắc, không khiến người đọc phải dừng lại suy nghĩ. Nhà thơ có quyền sửa thơ của mình, hoặc thêm vào những đoạn mới. Song về phía những độc giả đã cảm nhận, yêu thích, hoặc có những kỷ niệm gắn bó với Màu tím hoa sim theo bản cũ thì khó "làm quen" với những đoạn mới, chữ mới, với hơi thơ có vẻ xa lạ với bài thơ từng biết. Do vậy, một số độc giả đã tỏ ra tâm đắc với bài Màu tím hoa sim trước kia. Nhưng dù Màu tím hoa sim bản "xưa" hay "nay" vẫn chỉ để viết về một người, một mối tình. > Đó là người vợ trẻ Đỗ Thị Lệ Ninh đã mất sau ngày cưới không lâu vì chết đuối. Các anh của “nàng”, theo tài liệu của Hàn Anh Trúc là 3 người có thực ở chiến trường Đông Bắc. Đó là Đỗ Lê Khôi - tiểu đoàn trưởng hy sinh trên đồi Him Lam, Đỗ Lê Nguyên nay là Trung tướng Phạm Hồng Cư và Đỗ Lê Khang - nguyên Thường vụ Trung ương Đoàn. Hữu Loan kể và Hàn Anh Trúc ghi lại trong một cuốn biên khảo văn học rằng, bố vợ ông trước kia làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên “vợ mình sinh ở trong ấy, quen gọi mẹ bằng má”, bài thơ mới có câu “má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối”. Hàn Anh Trúc viết là Hữu Loan sáng tác bài thơ ngay tại mộ người vợ trẻ, rồi: "ghi vào chiếc quạt giấy để lại nhà một người bạn ở Thanh Hóa. Bạn anh đã chép lại và chuyền tay nhau suốt những năm chiến tranh". Điều đó đã được chính nhà thơ Hữu Loan xác nhận. >
(Theo Thanh Niên)
 > > Nhà thơ Hữu Loan (hình chụp năm 2004) > > |
|
Nàng có ba người anh đi bộ đội > Những em nàng > Có em chưa biết nói > Khi tóc nàng đang xanh > Tôi người vệ quốc quân > xa gia đình > Yêu nàng như yêu người em gái. > Ngày hợp hôn > Nàng không đòi may áo mới > Tôi mặc đồ quân nhân > đôi giày đinh bết bùn > Đất hành quân > Nàng cười xinh xinh > bên anh chồng độc đáo > > Tôi ở đơn vị về > Cưới nhau xong là đi > Từ chiến khu xa > Nhớ về ái ngại > Lấy chồng thời chiến binh > Mấy người đi trở lại > Lỡ khi mình không về > thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê...... > Nhưng không chết > Người trai khói lửa > Mà chết > Người gái nhỏ hậu phương. > Tôi về không gặp nàng > Má ngồi bên mộ con đầy bóng tối > Chiếc bình hoa ngày cưới > thành bình hương > tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh > ngắn chưa đầy búi > Em ơi giây phúp cuối > Không được nghe nhau nói > Không được nhìn nhau một lần > Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím > áo nàng màu tím hoa sim > Ngày xưa > một mình > đèn khuya > bóng nhỏ > Nàng vá cho chồng tấm áo > ngày xưa...
Lời tự thuật của HỮU LOAN > > Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa,chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà . Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung, tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học . Đến năm 1938 , lúc đó cũng đã 22 tuổi, tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốân quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn .Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy , trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn , Đỗ Thiện và ...Tôi - Nguyễn Hữu Loan. > > Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất ,bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ , tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên . Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới. > > Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà .Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ' Em chào thầy ạ'Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằng sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu ấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một 'bà cụ non'. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt ... > > Có lần tôi kể chuyện ' bà cụ non' ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền em nằm lì trong buồn trong, không chịu học hành... Một hôm, bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ...Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: ' mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu' Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi ..... > > Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. bất chợt em hỏi tôi: > > -Thầy có thích ăn sim không ? > Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuốn sườn đồi, còn tôi vì mệt qúa nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ... Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những qủa sim đen láy chín mọng. > -Thầy ăn đi. > > Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ: “Ngọt qúa.” > Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, qủa sim đối với chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những qủa sim ngọt đến thế! > Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác.Tôi nhìn em, em cười. hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì... tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo! > > Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi...Tôi quay đầu nhìn lại...em vẫn đứng yên đó ...Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa... > > Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ .... > > Chín năm sau, tôi trở lại nhà, về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em , hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp... > > Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sơ,ï vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm'soạn kịch bản'. > Một tuần sau đó, chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là:'yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả'. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay...lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long,huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói , hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết! > > Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, Em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ giờ em không còn cô bé Ninh nữa, mà là người bạn đời yêu qúy của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại...Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mát thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống. > > Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn( thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi nỗi đau không gì bù đắp nổi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sau thẳm trong trái tim tôi . > > Tôi phải giấu kính nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn... Dường như càng kèm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, Tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra: > > Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội > Những em nàng có em chưa biết nói > Khi tóc nàng đang xanh ... > ...Tôi về không gặp nàng.... > > Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa.. Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim. > > Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang 'ở nhà trông vườn' ở làng Nguyên Hoàn - nơi tôi gọi là chỗ 'quê đẻ của tôi đấy' thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa. > > Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay, nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu : > > Chiều hành quân, qua những đồi sim > Những đồi sim, những đồi hoa sim > Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết > Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt > Và chiều hoang tím có chiều hoang biếc > Chiều hoang tim tím thêm màu da diết. > > Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi' hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi'. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi qúa! với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ qúa rồi! > Đó là thời năm 1955 - 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút cam tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cặn. Làm thơ phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng...Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông ...Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động.. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc? > > Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu qúy, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi....Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi ! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi. > > Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mết chuộng. sau năm 1956 , khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ qúa, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm! > > Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954- 1955. > > Lúc đó còn là chính trị viên của tiểu đoàn, tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học , lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản qúa, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền. > Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn ,nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông . Thế rồi, một hôm, Tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố . Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó, cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó , cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng . > > Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ ,nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. > > Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Qúa xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi ; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói. > > Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ. > > Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó , bữa đói bữa no....Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con - 6 trai , 4 gái- và cháu nội ngoại hơn 30 đứa! > > Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ. Thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm ra nhập làm gì. > Năm 1988, tôi ' tái xuất giang hồ' sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gío. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí - xuất bản và đổi mới thực sự. > > Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với gía 100 triệu đồng. Họ bảo, đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia 'lộc' cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi gìa, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan. > > Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán./.
* Hữu Loan.
|
Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 19/Mar/2010 lúc 10:23am
|
Lộ Công Mười Lăm
|
IP Logged |
|
mykieu
Senior Member
Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
|
 Gởi ngày: 19/Mar/2010 lúc 6:52pm |
Xin gửi thêm "vài dòng" về tác giả Màu Tím Hoa Sim.
Có những phần trùng lấp với những bài đã gửi lên DĐ , vui lòng lướt qua.
Vì mk tôn trọng nguyên bản bài viết.
mk
Nguyễn Xuân Hoàng và Bạn hữu
Thi sĩ Hữu Loan: Tác giả 'Màu Tím Hoa Sim' đã ra đi…
(12.4.1916 – 18.3.2010 )
Nguyễn Xuân Hoàng
Thứ Sáu, 19 tháng 3 2010
Nhà thơ Hữu Loan, tác giả của bài thơ “Mầu tím hoa sim” đã vĩnh viễn từ giã cõi đời khi chuẩn bị bước sang tuổi 95
Hôm thứ Năm 18 tháng Ba, 2010, hộp thư tôi tràn ngập mail bạn bè gửi về với tiêu đề Tác Giả Màu Tím Hoa Sim Đã Ra đi… Thư của nhạc sĩ Hoàng Thi Thao từ Quận Cam, thư của nhạc sĩ Trần Nhật Hiền từ San Jose, thư của Lê Tấn Lộc từ Canada… tất cả thư từ về tin thi sĩ Hữu Loan vừa ra đi đều có kèm theo hình của thi sĩ chụp bên người vợ.
Bức hình đi kèm ghi chú:
Nhà thơ Hữu Loan và vợ – bà Phạm Thị Nhu năm 2009. Tác giả bức ảnh là Hồ Trần.
Bản tin ngắn ký tên Ngân Hà có nội dung như sau:
Vào lúc 19g00 tối nay 18.3.2010, nhà thơ Hữu Loan, tác giả của bài thơ "Màu Tím Hoa Sim" đã vĩnh viễn từ giã cõi đời khi chuẩn bị bước sang tuổi 95 (12.4.1916 – 18.3.2010). Trong lúc chờ đợi con cái về đông đủ, bà Nhu, vợ ông và 4 người con ở quê đã khâm liệm đặt ông vào quan tài yên nghỉ vào lúc 23g cùng ngày. Nhà thơ Hữu Loan tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Loan, quê làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông đậu tú tài nhưng về quê mở trường dạy học và hoạt động phong trào Mặt trận Bình dân. Năm 1943 , ông gây dựng phong trào Việt Minh. Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông làm Phó chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông được cử làm Uỷ viên Văn hóa trong Uỷ ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính. Kháng chiến chống Pháp ông thuộc Đại đòan 304. Sau năm 1954, ông làm việc tại báo Văn Nghệ. Bài thơ "Đèo cả" mở đầu sự nghiệp thi văn của ông đã vang danh khắp chiến trường kháng chiến chống Pháp. Tiếp đó, người vợ đầu tiên Nguyễn Thị Ninh mất (1949) và ông nghe tin dữ khi đang trên đường hành quân khiến ông đã viết lên những vần thơ bất hủ "Màu Tím Hoa Sim" đi sâu vào lòng người cho đến tận bây giờ và có lẽ cũng là mãi mãi.
Lấy người vợ thứ hai vào năm 1954, bà Nguyễn Thị Nhu, ông tiếp tục làm ở báo Văn Nghệ cho đến khi bị đi tù với nỗi oan nghiệt dính vào nghiệp văn chương. Ra tù, ông trở về quê đục đá kiếm sống nuôi 10 người con và sống với những ký ức vừa đẹp đẽ vừa đau thương cho đến ngày hôm nay, bên cạnh người vợ tần tảo, thủy chung.
Đêm nay, xin thắp một nén hương thiêng vĩnh biệt linh hồn người thi sĩ đáng kính.
Sự ra đi của Hữu Loan, tác giả bài thơ được nhắc nhở cả hai miền Nam Bắc trong suốt cuộc chiến Việt Nam và cả những năm sau cuộc chiến, có lẽ còn nói và viết nhiều.
Nhưng có một vài chi tiết bên lề có lẽ rồi đây sẽ được nói rõ:
Bài viết của Ngân Hà cho biết tên người vợ đầu tiên của thi sĩ là Nguyễn thị Ninh và người vợ sau là Nguyễn thị Nhu, thế nhưng bản tin trên tờ Thanh Niên cho biết người vợ trẻ có tên là Đỗ Thị Lệ Ninh “đã mất sau ngày cưới không lâu vì chết đuối. Các anh của “nàng”, theo tài liệu của Hàn Anh Trúc là 3 người có thực ở chiến trường Đông Bắc. Đó là Đỗ Lê Khôi - tiểu đoàn trưởng hy sinh trên đồi Him Lam, Đỗ Lê Nguyên nay là Trung tướng Phạm Hồng Cư và Đỗ Lê Khang - nguyên Thường vụ Trung ương Đoàn” và ngay tên người vợ sau của thi sĩ cũng khác họ. bài viết ghi bà tên Nguyễn Thị Nhu trong khi chú thích ảnh thì ghi là Phạm Thị Nhu.. Nhưng trong bài Tự Thuật của thi sĩ thì người con gái trong bài thơ Màu Tím Hoa Sim tên thật là Lê Đỗ Thị Ninh con ông Lê Đỗ Kỳ. Thi sĩ viết: “Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.
Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà .Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: 'Em chào thầy ạ' Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằng sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu ấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một 'bà cụ non'. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt ...”
Trong một email của nhạc sĩ Hoàng Thi Thao tôi được đọc bài trả lời phỏng vấn của báo Nhịp Cầu Thế Giới ở Hungary, nhạc sĩ Phạm Duy cho biết ông quen Hữu Loan từ ngày ông vào Khu 4 trong năm 1948 và làm văn nghệ trong Trung Đoàn 9. “Khi đó anh Hữu Loan là cán bộ trong Ủy Ban Kháng chiến tỉnh Thanh Hoá, ngày ngày cưỡi ngựa đi công tác khắp nơi trong tỉnh, trông rất oai nghiêm khiến tôi bái phục.. Biết anh cũng làm thơ, tôi cùng anh đàm đạo về thơ, được nghe anh đọc bài Màu Tím Hoa Sim, Đèo Cả, Tò He, Chiếc Chiếu, Những Làng Đi Qua, Hoa Lúa… Tôi đã có ý định phổ nhạc bài Màu Tím Hoa Sim ngay từ lúc đó…”
Phạm Duy cũng cho biết năm 2006, khi trở về nước, ông có đi xe ôm trong một ngày mưa lạnh đến Thanh Hoá thăm Hữu Loan và có tặng Hữu Loan một video trong đó có phần ông trả lời phỏng vấn về bài Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà…
Trả lời câu hỏi "Màu Tím Hoa Sim" của Hữu Loan đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc, như "Những đồi hoa sim" (Dzũng Chinh), "Chuyện hoa sim" (Anh Bằng) và nhất là "Áo anh sứt chỉ đường tà" (Phạm Duy). Mỗi ca khúc một vẻ, đều tôn vinh thi phẩm, nhưng ca khúc của bác đã phản ánh một cách bi hùng nhất những đau thương, mất mát của con người trong chiến trận. Tại sao bác lại chọn hình thức phổ nhạc như thế?” Phạm Duy nói: Hai nhạc sĩ Dzũng Chinh, Anh Bằng phổ nhạc bài thơ Màu Tím Hoa Sim một cách rất tốt nhưng dùng hình thức ‘tiểu khúc’ bình dân ngắn ngủi chỉ có một đoản khúc Pop Bolero, Slow Rock, giản dị dễ nghe, dễ hiểu… Và cũng vì các ông này không có kinh nghiệm đi kháng chiến nên không đem được nhiều cảm xúc buồn thương hay hùng vĩ vào trong nét nhạc. Còn tôi thì muốn soạn một “đại khúc” (grand music) bi hùng dài tới 5, 7 đoạn, một “chant patriotic. Có thế thôi!”
Trong bài Tự Thuật của Hữu Loan, thi sĩ cho biết “…cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với gía 100 triệu đồng. Họ bảo, đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia 'lộc' cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi gìa, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan. Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.”
“Thơ tôi làm ra không phải để bán!”
Hữu Loan đã viết như thế trong bài tự thuật.
Thi sĩ Hữu Loan ra đi, nhưng bài thơ Màu Tím Hoa Sim của ông sẽ còn ở lại mãi mãi với chúng ta.
*
* *
Hữu Loan -
Người đi bộ ngược chiều
Tác giả: Nguyễn Thụy Kha
Tin buồn mà một người bạn xứ Thanh nhắn vào máy di động của tôi ngày 18/3: "Nhà thơ Hữu Loan đã ra đi" khiến lòng tôi xao xác. Vậy là thêm một nhà thơ đàn anh đầy hoạn nạn đã chuyển cõi.
Vợ anh mất sớm...
Chỉ ít lâu sau ngày Hải Phòng và miền Bắc hoàn toàn giải phóng (13/5/1955), tôi đã nghe chị em mình ngâm nga: "Nàng có ba người anh đi bộ đội/ Những em nàng - có người chưa biết nói/ Khi tóc nàng xanh xanh/ Tôi người Vệ quốc quân/ Xa gia đình/ Yêu nàng như tình yêu em gái/ Ngày hợp hôn nàng không may áo cưới..."
Chị tôi đã bật khóc khi đọc: "Nhưng không chết người trai khói lửa/ Mà chết người em nhỏ hậu phương/ Tôi về không gặp nàng/ Má tôi ngồi bên nàng đầy bóng tối/ Chiếc bình hoa ngày cưới/ Thành bình hương tàn lạnh vây quanh". Chị nói đấy là thơ khóc vợ của nhà thơ Hữu Loan.
Cái tên Hữu Loan đã ám ảnh tôi từ đó. Sang mùa xuân sau, tôi lại nghe bài hát Hoa lúa của Trần Chung phỏng thơ Hữu Loan hay đến xao xuyến. Tôi vừa phục nhạc sĩ vừa phục nhà thơ. Thế rồi thời gian bẵng đi, rồi chiến tranh...
Màu tím hoa sim qua giai điệu của Phạm Duy trở thành Áo anh sứt chỉ đường tà. Không hiểu sao nhiều người lính cứ thầm nghêu ngao câu nhạc "Áo anh sứt chỉ đường tà, Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu..."
Bài hát Áo anh sứt chỉ đường tà (Nhạc sĩ Phạm Duy phổ thơ Hữu Loan; Ca sĩ Đức Tuấn)
< id=audiop1 =application/x-shockwave-flash height=20 width=200 =/_manager/code/mp3/p.swf>>
Hóa ra "màu tím hoa sim" là cảnh ngộ của nhiều người lính trên trái đất này trong chiến tranh. Có một bài dân ca Grudia mà nữ liệt sĩ Đặng Thùy Trâm đã từng rất thích cũng mang tứ như thế. Sau Màu tím hoa sim, ta còn đọc Núi đôi của Vũ Cao, Quê hương của Giang Nam đều có cái tứ ấy. Vậy là bi kịch này sẽ còn mãi nếu còn chiến tranh.
Ở Việt Nam, Hữu Loan là người phát ngôn bi kịch ấy bằng thơ đầu tiên. Một bài thơ xuất thần được trả giá bằng cái chết đau thương của chính vợ nhà thơ - bà Lê Đỗ Thị Ninh. Và với việc phát ngôn bi kịch này, ngược với cách tuyên truyền tụng ca ngày đó, Hữu Loan đã chính thức là "người đi bộ ngược chiều" trong nhiều năm tháng của lịch sử văn học Việt Nam.
Thống nhất đất nước, tôi trở về Hà Nội. Qua tiếp xúc với Đặng Đình Hưng, Phùng Quán, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần... và nhất là Văn Cao, tôi mới biết được khí phách của "người đi bộ ngược chiều" này. Văn Cao kể rằng sau vụ "Nhân văn Giai phẩm", Hữu Loan có quyết định giống như Nguyên Hồng là về quê. Nguyên Hồng về ấp Cầu Đen là để viết tiếp những dự định tiểu thuyết của mình. Còn Hữu Loan thì đoạn tuyệt hẳn với nghề viết. Ông sắm xe đạp đi thồ đá ở Nga Sơn (Thanh Hoá quê ông).
Đêm trước khi về quê, Hữu Loan và Văn Cao đã đi bên nhau trắng đêm quanh hồ Thuyền Quang. Bao nhiêu nỗi niềm, bao nhiêu tâm sự, họ đã trút sang nhau cạn kiệt đến thanh thản.
Đêm ấy đã gợi cho Văn Cao viết bài thơ "Cạn": "Những tiếng gà lên/ Rụng hết, những ngôi sao cuối/ Tiếng kêu ở trong tôi/ Có xót xa có cả vui mừng/ Tiếng kêu của một khúc thép đỏ/ Trong chậu nước..."
(Vào link dể nghe nhạc và xem hình :
Bài hát Áo anh sứt chỉ đường tà (Nhạc sĩ Phạm Duy phổ thơ Hữu Loan; Ca sĩ Đức Tuấn) |
Nhà thơ Hữu Loan và nhạc sĩ Phạm Duy, Ảnh: Nhipcauthegioionline )
|
Mùa thu 1987 là mùa thu Hữu Loan ra Hà Nội. Chính mùa thu ấy, tôi mới thực kiến diện "người đi bộ ngược chiều". Hữu Loan vui mừng với thời đổi mới bằng việc mang ra một tập thơ mang tên "Màu tím hoa sim" với những bài thơ lừng danh một thời như "Đèo cả", "Hoa lúa", "Những làng ta đi qua", "Nguyễn Sơn", "Quách Xuân Kỳ"... Những cuộc rượu đầm đìa nước mắt của cố nhân gặp cố nhân. Những ngày ấy, khi ông ở nhà tôi, khi ông ở nhà anh Chu Thành (tức Tú Sót). Anh em hàn huyên bao chuyện không dứt. Hữu Loan cũng là một "tiên tửu". Càng say, ông càng vuốt những sợi râu cước oai phong và đọc vang Đường thi. Ông có lối dịch thơ Đường cũng khác người. Ông ngông đến mức không biết giữa ông với tiên sinh Tản Đà, ai hơn ai kém. Chất chứa trong lòng bao nhiêu ẩn ức, vậy mà tiếng cười Hữu Loan vẫn trong vang, sảng khoái. Tiếng cười của người thồ đá.
Có một đêm uống rượu khá say ở nhà ông Chu Thành, tôi dìu ông ra vỉa hè đường Bà Triệu và sau đó đi bộ về Hàng Bông. Vừa đi tôi vừa ngẫu hứng từng câu thơ trong cuộc "đi bộ ngược chiều" đó:
Khoác vai nhau đi/ngược đường Bà Triệu/Người ba mươi năm trước/người hôm nay/Không khoảng cách/Anh thầm thì sợ lạc/như từng lạc/Khiến tôi đang say/chợt tỉnh/rồi lại say/Nếu là ôtô/Là môtô/Là xe đạp/sẽ bị tuýt còi ngay/Nhưng ngược chiều là hai người đi bộ/Những bước chân chẳng nói được gì về tốc độ/Trong đầu họ những tứ thơ vụt bay/Hai người/hai thế hệ/cách nhau ba mươi năm/vẫn đang cùng sóng đôi/Đi ngược chiều đường Bà TriệuTrong đêm ai dõi nhìn có hiểu/Họ sẽ cùng đi tới sáng bằng lối này/Ngỡ ông say không nghe, vậy mà hết bài thơ, ông nắm chặt tay tôi. Không nói/ Lại bước tiếp.
Cứ thế, ông đã là "người đi bộ ngược chiều" cho đến hôm nay khi bước vào tuổi 95. Giống như mẹ tôi khi mất, ông đã sống thọ theo cách nói của hôm nay là "đá bù giờ sau phút", đã ngừng hành trình của "người đi bộ ngược chiều", tạc lại đời một khí phách Hữu Loan.
Màu tím hoa sim Hữu Loan
Nàng có ba người anh đi bộ đội Những em nàng Có em chưa biết nói Khi tóc nàng xanh xanh Tôi người Vệ quốc quân xa gia đình Yêu nàng như tình yêu em gái Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo mới Tôi mặc đồ quân nhân đôi giày đinh bết bùn đất hành quân Nàng cười xinh xinh bên anh chồng độc đáo Tôi ở đơn vị về Cưới nhau xong là đi Từ chiến khu xa Nhớ về ái ngại Lấy chồng thời chiến binh Mấy người đi trở lại Nhỡ khi mình không về thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết người trai khói lửa Mà chết người gái nhỏ hậu phương Tôi về không gặp nàng Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối Chiếc bình hoa ngày cưới thành bình hương tàn lạnh vây quanh Tóc nàng xanh xanh ngắn chưa đầy búi Em ơi giây phút cuối không được nghe nhau nói không được trông nhau một lần Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím áo nàng màu tím hoa sim Ngày xưa một mình đèn khuya bóng nhỏ Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa...
Một chiều rừng mưa Ba người anh trên chiến trường đông bắc Được tin em gái mất trước tin em lấy chồng Gió sớm thu về rờn rợn nước sông Đứa em nhỏ lớn lên Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị Khi gió sớm thu về cỏ vàng chân mộ chí Chiều hành quân Qua những đồi hoa sim Những đồi hoa sim những đồi hoa sim dài trong chiều không hết Màu tím hoa sim tím chiều hoang biền biệt Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa Áo anh sứt chỉ đường tà Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau Chiều hoang tím có chiều hoang biết Chiều hoang tím tím thêm màu da diết Nhìn áo rách vai Tôi hát trong màu hoa Áo anh sứt chỉ đường tà Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm Tím tình ơi lệ ứa Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím Tôi ví vọng về đâu Tôi với vọng về đâu Áo anh nát chỉ dù lâu...
(1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh) |
Thi sĩ hải ngoại phân ưu trước sự ra đi của Hữu Loan
Nhà thơ Hữu Loan, tác giả bài thơ mà nhiều thế hệ người Việt thuộc lòng đã ra đi tối thứ Năm, 18 tháng 3 tại Thanh Hóa.
Từ Quận Cam California, nhà thơ Du Tử Lê cho biết:
“Tôi cho rằng đây là một mất mát to lớn, không chỉ đối với gia đình mà còn cả văn học Việt Nam nói chung. Anh Hữu Loan đối với văn học mình có hai di sản. Di sản thứ nhất là số thơ của anh để lại. Dù số thơ anh chỉ ít thôi nhưng đó là những bài mà tôi cho là sẽ ở vĩnh viễn với văn học của chúng ta, thí dụ Màu Tím Hoa Sim hoặc Đèo Cả. Di sản thứ hai, cá nhân tôi cho là rất to lớn. Tôi muốn nói đó là di sản về nhân cách, cái cách mà anh ấy ứng xử với đời sống, sau khi anh gặp những khó khăn, như bị trù dập khi anh tham dự phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, và anh đã rút về quê hương Nga Sơn của anh, sau đó anh trải qua rất nhiều năm, tôi nhớ là khoảng 5 tới 10 năm; anh đi thồ đá ở trong núi để nuôi con. Tôi cho đó là một tấm gương, một di sản về sĩ khí của kẻ sĩ, cũng là một di sản rất to lớn.”
Từ thành phố Houston của Texas, nhà thơ Tô Thùy Yên chia sẻ:
“Tôi rất ngậm ngùi, bồi hồi tưởng nhớ một bực tài hoa đã ra đi. Quá trình lâu dài của ông trong trần gian này thì ông đã trải qua một cuộc đời rất vất vả, đau khổ, bầm dập; rất là thương tội cho một bực tài hoa như ông. Lúc tôi còn ở Việt Nam, có lần ông Hữu Loan có dịp vào Sài Gòn chơi, ông có ghé thăm tôi cùng với nhà thơ Hà Thượng Nhân. Lúc đó ông và ông Hà Thượng Nhân đã 80 tuổi rồi, từ nhà ông Hà Thượng Nhân đâu ở Phú Thọ, đạp xe đạp vào tận đất Gò Vấp của tôi một buổi tối để thăm tôi. Tôi rất cảm động về sự xuất hiện của hai vị đàn anh đó. Lúc đó tôi nhìn thấy ông là người đàn anh lớn tuổi hơn tôi rất nhiều, người rất khỏe mạnh, quắc thước, giọng nói sang sảng; biểu hiện một tâm hồn, tính tình cương trực, thẳng thắn. Tôi rất quý trọng ông qua những kỷ niệm khi tôi còn niên thiếu, khi đọc các bài thơ của ông như Màu Tím Hoa Sim, nhất là Đèo Cả. Tôi đã bày tỏ cảm tình của tôi đối với ông, qua những kỷ niệm về các bài thơ tuyệt tác đó của ông. Tôi rất động lòng khi nghe tin cụ Hữu Loan rời bỏ anh em chúng ta ra đi. Mặc dù sinh tử là việc bình thường của mọi sinh vật, nhưng khi nghĩ đến một bực tài hoa, suốt đời có tấm lòng cho văn chương, nhất là cho thơ; có một cuộc đời khổ sở, vất vả, bầm dập về tinh thần và vật chất. Nghĩ đến điều đó tôi rất ngậm ngùi, đau xót, và xin có lời chia buồn gởi đến gia đình và cầu chúc cho cụ yên vui nơi cõi vĩnh hằng.”
Từ thành phố Montreal của Canada, nhà thơ Luân Hoán cho biết: “Khi nghe tin nhà thơ Hữu Loan mất, tôi đã loan tin trên trang web của tôi http://luanhoan.net/nhatky/nhatky.htm để anh em biết. Cũng ngay đêm thứ Sáu, tôi có viết tặng ông Hữu Loan theo kiểu nhật ký trong ngày như thế này: Rừng sim tồn tại muôn đời Riêng nụ thơm nhất vừa rời thế gian Xác di cư về suối vàng Danh người và nốt nhạc vàng thiên thu Trời đêm không quá âm u Nhưng nhìn bốn hướng gió mù mịt bay Vẩn vơ hát nhẩm vài giây: “Áo anh sứt...”(cả đường may) mất rồi!
Màu Tím Hoa Sim
Trịnh Hội Thứ Sáu, 19 tháng 3 2010
Đêm hôm qua tôi nhận được tin nhà thơ Hữu Loan vừa qua đời mà lòng bỗng cảm thấy luyến tiếc, hụt hẫng. Cứ ngỡ như là mình vừa mất một người thân mà mình hằng thương mến. Dẫu biết rằng tuổi ông đã cao, gian khổ đã nhiều. Và đời người phù du, ai sinh ra cũng sẽ không tránh khỏi câu sinh, lão, bệnh, tử. Thế nhưng tôi vẫn có cảm giác như ông chưa nên vội ra đi trong lúc này. Vì thế gian vẫn còn rất nhiều người mến mộ ông. Có thể học được từ ông rất nhiều về tình người và sự trung trực. Và đất nước vẫn còn nợ ông một lời xin lỗi. Cho dù là nó có muộn màng bao nhiêu hay chẳng giúp được gì cho chính ông. Khi sinh thời hay trong hiện tại. Tôi tiếc là vì vậy. Còn nhớ năm nào tôi may mắn tìm ra được nhà ông ở thôn Vân Hoàn, Xã Nga Lĩnh, Huyện Nga Sơn ở Thanh Hóa. Và bên hiên nhà ông đã chia xẻ với tôi biết bao câu chuyện về quãng đường mà ông và gia đình đã nhọc nhằn bước qua kể từ ngày ông quyết định rũ áo từ quan ở Hà Nội để trở về quê sinh sống. Vì ông không thể nào chấp nhận một chế độ hà khắc và một chính sách tàn bạo của thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm và Cải Cách Ruộng Đất. Để ai cũng có thể bị cho là phản động. Để người có thể hại người. Anh có thể giết em. Con cái sẵn sàng đấu tố cha mẹ. Lúc ấy ông đã ăn thọ 90 tuổi. Thế nhưng tinh thần ông vẫn còn rất minh mẫn, đôi mắt ông vẫn sáng ngời mỗi khi nhắc lại những kỷ niệm vui buồn của ngày xưa. Lúc ông cãi tay đôi với ông ************ ngay tại Quốc Hội về những sai phạm của chế độ đương thời. Hay khi ông phải về quê tự làm nông, đẽo đá nuôi nấng gia đình trong cơn túng thiếu và sự trù dập của chế độ. Đến một chiếc xe cút kít kéo tay, ông bảo, họ cũng không cho ông sử dụng. Và lẽ ra ông đã bị họ giết mất lâu rồi nếu như người công an được giao cho nhiệm vụ phải xử ông không nỡ ra tay vì ông đã làm một bài thơ rất hay nói về làng quê của chính người công an đó. Ông bảo cuối cùng cũng nhờ làm thơ mà ông mới sống đến bây giờ. Cũng như chỉ cần một bài thơ duy nhất mà nay ai cũng biết đến tên ông: … Từ chiến khu xa Nhớ về ái ngại Lấy chồng thời chiến binh Mấy người đi trở lại Lỡ khi mình không về Thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê… Nhưng không chết Người trai khói lửa Mà chết người gái nhỏ hậu phương Tôi về không gặp nàng Má ngồi bên mộ con đầy bóng tối Chiếc bình hoa ngày cưới Thành bình hương Tàn lạnh vây quanh Tóc nàng xanh xanh Ngắn chưa đầy búi Em ơi giây phút cuối Không được nghe nhau nói Không được nhìn nhau một lần Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím … Ông đã kể cho tôi nghe nhiều lắm về nỗi đau để mất người vợ đầu tiên của ông. Chiều hôm ấy sau khi trò chuyện xong ông đã bảo đứa cháu gái ông dắt tôi lên ngọn đồi gần nhà để tìm lại màu hoa sim tím của năm nào. Nhưng chúng tôi tìm mãi chỉ thấy đây đó lác đác một vài cành hoa sim chưa nở rộ. Nó cũng cùng một màu tím đấy nhưng không biền biệt như trong thơ ông: Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt… Trở về nhà ông trên con đường làng vắng lặng trong buổi chiều tàn, tôi cũng chợt nhận thức ra được rằng chắc phải lâu lắm tôi mới có dịp gặp lại ông. Vì thế trước khi chia tay từ giã tôi đã xin ông viết cho tôi đôi chữ để tôi có thể giữ lại làm kỷ niệm cho riêng mình. Đưa cánh tay gầy guộc khẳng khiu để cầm lấy cây viết tôi đưa cho ông, ông cười lớn, mắt vẫn sáng ngời bảo rằng ông đâu biết viết gì để tặng tôi. Tôi vội đáp thưa ông điều gì cũng được. Thế là cầm trên tay mảnh giấy học trò tay run run ông đã nguệch ngoạc viết tặng cho tôi một dòng duy nhất: Chữ Tâm Kia Mới Bằng Ba Chữ Tài.
Và đấy cũng là những gì mà tôi sẽ luôn nhớ mãi về ông. Xin gửi đến ông lời cảm ơn chân thành. Cùng với những lời cảm phục sâu sắc nhất.
|
mk
|
IP Logged |
|
lo cong
Senior Member
Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
|
 Gởi ngày: 20/Mar/2010 lúc 4:11pm |
Vừa nhận được bài nầy qua email. Đọc xong đưa lên đây cho các bạn đọc.
(Cám ơn người bạn đã gởi bài nầy)
-----------------------------------------------------------
Úc châu, 20/3 Kính Thân Hữu Quí Mến, Chúc Thân Hữu Vui vẻ trong Cuối tuần. Nhân nhà Thơ lớn Hữu Loan qua đời, NNS xin gởi đến Thấn Hữu bài Phỏng vấn Bác Phạm Duy về Hữu Loan. Kèm theo pps : Áo Anh sứt Chỉ Đường Tà...(Mẹ Anh mới mất mẹ già chưa khâu..). Nhạc Phạm Duy, Thơ Hữu Loan..như là nén Tâm Nhang của NNS đến Bậc Tiền Bối trong làng Văn Nghệ Vietnam Cận kim. Tình Thân, Kính, NNS LÃO THI SĨ HỮU LOAN TỪ TRẦN 18.03.2010
(NCTG) Theo tin từ Việt Nam, vào hồi 19 giờ ngày 18-3-2010, thi sĩ Hữu Loan, tác giả bài thơ nổi tiếng “Màu tím hoa sim”, thành viên phong trào Nhân văn - Giai phẩm, đã từ trần tại nhà riêng ở thôn Vân Hoàn (xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa), thọ 95 tuổi.

Thi sĩ Hữu Loan trên sân gạch trước nhà ông (2006) - Ảnh: Văn Khoa
Ngay sau khi được tin về sự ra đi của lão thi sĩ, NCTG đã có một cuộc trao đổi nhanh với nhạc sĩ Phạm Duy từ TP HCM - đã phổ nhạc rất thành công thi phẩm “Màu tím hoa sim” - về mối giao tình giữa hai người bạn văn nghệ.
Nói về cảm xúc trước tin thi sĩ Hữu Loan qua đời, nhạc sĩ Phạm Duy cho biết: “Lẽ tất nhiên, sự buồn rầu của tôi là phải có, khi được tin anh Hữu Loan từ trần. Nhưng anh mất đi khi đã gần một trăm tuổi thì tôi không phải tiếc thương quá đỗi vì sự thương tiếc của tôi cũng như của mọi người đã dành cho người vợ trẻ của anh qua đời trong kháng chiến rồi...”.
- Nhạc sĩ có thể cho biết những kỷ niệm cũ với nhà thơ Hữu Loan?
Nhạc sĩ Phạm Duy (PD): Tôi quen anh Hữu Loan từ ngày tôi vào Khu 4 năm 1948 và làm công tác văn nghệ trong Trung đoàn 9. Khi đó anh Hữu Loan là cán bộ trong Ủy ban Kháng chiến tỉnh Thanh Hóa, ngày ngày cưỡi ngựa đi công tác khắp nơi trong tỉnh, trông rất oai nghiêm khiến tôi bái phục...
Biết anh cũng làm thơ, cùng anh đàm đạo về thơ, được nghe anh đọc bài “Màu tím hoa sim”, “Đèo cả”, “Tò he”, “Chiếc chiếu”, “Những làng đi qua”, “Hoa lúa”, v.v... Tôi đã có ý định phổ nhạc bài “Màu tím hoa sim” ngay từ lúc đó...
- Sau khi hồi hương, nhạc sĩ có dịp gặp lại thi sĩ Hữu Loan?
PD: Tôi có cơ hội về Thanh Hóa thăm Hữu Loan vào năm 2006 trong một ngày mưa lạnh và ngồi xe ôm để vào con đường nhỏ hẹp dẫn tới nhà ông...

Thấy nhà của thi sĩ rất khang trang, sạch sẽ. Vợ chồng Hữu Loan và người con cả tiếp đón tôi rất ân cần.

Tôi tặng thi sĩ một cuốn video trong đó tôi được phỏng vấn về bài “Áo anh sứt chỉ đường tà”.
Thế rồi chúng tôi chia tay nhau trong khi trời đã tạnh mưa...

- “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc, như “Những đồi hoa sim” (Dzũng Chinh), “Chuyện hoa sim” (Anh Bằng) và nhất là “Áo anh sứt chỉ đường tà” (Phạm Duy). Mỗi ca khúc một vẻ, đều tôn vinh vẻ đẹp của thi phẩm, nhưng ca khúc của nhạc sĩ đã phản ánh một cách bi hùng nhất những đau thương, mất mát của con người trong chiến trận. Tại sao nhạc sĩ lại chọn hình thức phổ nhạc như thế?
PD: Hai nhạc sĩ Dzũng Chinh và Anh Bằng phổ nhạc bài thơ “Màu tím hoa sim” một cách rất tốt, nhưng dùng hình thức “tiểu khúc” bình dân, ngắn ngủi chỉ có một đoản khúc Pop Boléro, Slow Rock giản dị, dễ nghe, dễ hiểu...
Và cũng vì lý do các ông không có kinh nghiệm đi kháng chiến nên không đem được nhiều cảm xúc buồn thương hay hùng vĩ vào âm nhạc.
Còn tôi, tôi muốn soạn một “đại khúc” (grand music) bi hùng dài tới 5-7 đoạn, một “chant patriotic”. Có thế thôi!...".
Kính,
TB:
Gởi Nàng:
Huệ nhớ thương Lan, héo vàng xác Huệ Anh quá thương Nàng, trối kệ thị phi
(Ca Dao)
NNS
Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 20/Mar/2010 lúc 4:13pm
|
Lộ Công Mười Lăm
|
IP Logged |
|
lo cong
Senior Member
Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
|
 Gởi ngày: 21/Mar/2010 lúc 1:10pm |
Thêm một bài nữa
Kỷ Niệm Với Nhà Thơ Hữu Loan
Đoàn Thanh Liêm (LTS: Nhà thơ Hữu Loan, tác giả của bài thơ "Màu tím hoa sim," đã từ trần vào lúc 19g00 tối Thứ Năm 18.3.2010 tại Việt Nam khi chuẩn bị bước sang tuổi 95 (12.4.1916 – 18.3.2010). Sau đây là một bài viết từ năm 2009, ghi lại một kỷ niệm với nhà thơ Hữu Loan do luật sư Đoàn Thanh Liêm ghi lại.) Hai nhà thơ Hữu Loan và Hà Thượng Nhân là bạn cùng lứa tuổi và cùng xuất thân từ quê hương Thanh Hóa, nên rất gắn bó thân thiết với nhau. Hai ông vẫn xưng với nhau là “Mày/Tao” như cái hồi còn nhỏ tuổi có đến trên dưới 80 năm rồi. Ngày nay cả hai đã ở vào cái tuổi “cửu thập’ sắp sửa bước tới “bách tuế” rồi. Trước năm 1945, tại Thanh Hóa người ta vẫn gọi hai ông là Tú Loan (Nguyễn Hữu Loan), Tú Trinh (Hòang Trinh = Phạm Xuân Ninh sau này) với sự trọng nể kính phục, vì vào thời đó những người có bằng Tú tài ở địa phương thì rất hiếm, có thể đếm trên đầu ngón tay được. Sau 1954, thì Hữu Loan ở lại miền Bắc, còn Hà Thượng Nhân thì vào miền Nam. Và cả hai đều có sự nghiệp thơ văn đáng kể, mỗi người mỗi vẻ. Tôi có cái duyên được gần gũi quen biết với cả hai nhà thơ nổi danh này. Năm ngóai 2008, tôi đã viết về nhà thơ Hà Thượng Nhân, năm nay tôi xin viết về những kỷ niệm vui vui với nhà thơ Hữu Loan. Vì đã có nhiều tác giả phân tích chi tiết về các bài thơ của Hữu Loan, nên tôi sẽ không lạm bàn về lãnh vực văn chương thơ phú, mà chỉ ghi lại cái kỷ niệm riêng tư khó quên giữa nhà thơ và tôi ở Saigon vào năm 1988-89. Sau năm 1975, qua Trương Hùng Thái (chú Thái) là một nhà thơ trẻ ở miền Nam, tôi có dịp gặp gỡ làm quen được với mấy nhà thơ ở miền Bắc như Trần Dần, Hữu Loan. Các bạn trẻ ở Saigon hay tổ chức những buổi sinh họat văn nghệ tại tư gia, vừa gọn gàng kín đáo mà lại vừa thân mật ấm cúng như trong phạm vi một gia đình. Anh Trần Dần hồi đó đã đau bệnh nên đi lại khó khăn. Nhưng anh Hữu Loan dù đã ở tuổi “thất thập” rồi, mà vẫn còn tráng kiện lắm, anh cỡi xe đạp rong ruổi khắp nơi trong thành phố, ra cả ngọai ô. Tôi thường dẫn anh đi ăn phở nơi các quán “Phở gánh” trong mấy đường hẻm khu Ngã Ba ông Tạ hay khu Nhà ga Phú Nhuận. Cũng như dẫn anh đi uống cà phê ở mấy quán bình dân, khuất nẻo như quán cóc trong lối xóm. Anh Loan rất thích cái phong cách cởi mở, hồn nhiên của người miền Nam, mặc dầu họ đã phải sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa trên 10 năm rồi. Nhiều gia chủ khi được giới thiệu anh là tác giả bài thơ nổi danh “Màu tím hoa sim”, thì đã vui vẻ khỏan đãi món ăn, thức uống, mà không hề lấy tiền của Hữu Loan. Dịp này, anh tâm sự với tôi: “Bà con miền Nam thật là cởi mở hào phóng, đày ắp tình người…” Và trong nhiều buổi tối, chú Thái và cô Tú còn hay tổ chức bữa nhậu để khỏan đãi Hữu Loan, dịp này bằng hữu tha hồ chuyện trò tâm sự với nhà thơ được tiếng là “bất cần đời”, chuyên môn đi thồ những phiến đá đẽo từ khu đồi núi tại vùng quê Thanh Hóa. Có lần chúng tôi tổ chức cho mấy bạn trẻ đi thăm mấy địa điểm khảo cổ về văn minh “Óc Eo Phù Nam” tại quận lỵ Đức Hòa hồi đó đã được sát nhập vào tỉnh Long An, thì Hữu Loan cũng tham gia và anh rất phấn khởi được biết nơi đây hồi trên 1500 năm trước đã là thủ phủ của Vương quốc Phù Nam. Chuyến đi này được thực hiện là do sự sắp xếp của anh Võ Sĩ Khải là một chuyên gia khảo cổ, trước kia là một môn sinh của vị Giáo sư nổi danh Nghiêm Thẩm. Phái đòan đi tham quan gồm nhiều bác sĩ, nha sĩ, y tá trẻ vốn tham gia công tác thiện nguyện để chăm sóc y tế cho bà con người thiểu số tại miệt Túc Trưng, Định Quán. Có cả cựu Dân biểu Phan Xuân Huy cùng mấy tu sĩ Phật giáo, Công giáo và một số nhà giáo cũng đi theo nữa. Là một chuyên gia lâu năm trong ngành khảo cổ, anh Khải đã giải thích tường tận cho chúng tôi về những khám phá những cổ vật tại một số địa điểm được đào bới, mà xưa kia là các đền thờ của người thuộc Vương quốc Phù nam theo đạo Bà La Môn, rồi bị người Khmer từ phía Cambodia đến chiếm đóng và xua đuổi họ tản mát đi lên phía rừng núi hay ra biển khơi mất dạng luôn. Nhà thơ Hữu Loan rất tò mò ngắm nghía các cổ vật còn được lưu trữ tại Bảo tàng viện tạm thời ở thị xã Long An, mà trên đường về lại Saigon, chúng tôi lại được anh Võ Sĩ Khải hướng dẫn đến thăm viếng để hiểu biết chi tiết hơn về cái nền văn minh Óc Eo Phù Nam đã bị sụp đổ từ trên 14-15 thế kỷ trước. Anh Khải cho biết, theo ý kiến của linh mục Trần Tam Tỉnh vốn là một giáo sư về Khảo cổ học lâu năm ở Canada, thì nên xây dựng Viện bảo tàng chính thức ngay tại Đức Hòa là nơi được xác nhận trước kia là thủ phủ của vương quốc Phù Nam, vì xung quanh đó tập trung rất nhiều di tích đền đài, dinh thự của nhà vua. Và đặc biệt là còn tìm thấy được tấm lắc bằng vàng có chạm trổ “Lệnh Rút quân” của nhà vua ban ra, lúc quân Khmer kéo tới rất đông để chiếm đóng lãnh thổ của vương quốc vào thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên. Cổ vật này là một bằng chứng xác thực nhất về sự tồn tại của vương quốc Phù Nam, mặc dầu nó đã bị xóa sổ từ gần 1500 năm nay rồi. Anh Loan cứ tấm tắc khen ngợi công trình nghiên cứu khoa học của anh Khải và các chuyên viên khảo cổ trong khu vực miền Nam ở đây. Vào thời gian đó, nhà thơ Hữu Loan còn được Báo Tuổi Trẻ tặng cho một Giải thưởng về một bài báo mới nhất do anh viết, với số hiện kim lên đến mấy trăm ngàn là một món tiền lớn lúc bấy giờ. Nhưng không may cho anh, là sau đó anh bị kẻ bất lương tước đọat gần hết món tiền này, khi tụi chúng giật được cái cặp da anh cột ở phía sau yên xe đạp mà anh vẫn chạy đi trong thành phố. Đây quả là cái mặt trái đen tối của cái thành phố xô bồ, vàng thau lẫn lộn. Chúng tôi thật thông cảm bùi ngùi xót xa với anh trước cái tai nạn thật đáng tiếc ở dọc đường phố Saigon như thế ấy. Nhân tiện cũng xin nhắc lại là trong dịp vào thăm miền Nam năm 1988 -89, Hữu Loan đã tham gia với phái đòan của mấy “Dũng sĩ Đalat” gồm nhà thơ Bùi Minh Quốc, nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự đi khắp các tỉnh từ Nam ra Bắc để vận động các văn nghệ sĩ cùng ký thư thỉnh nguyện yêu cầu phải có Tự do sáng tác, Tự do xuất bản, báo chí theo tinh thần “Đổi Mới – Mở rộng Dân chủ” mà Nhóm Văn Nghệ Đalat đã chủ trương và công bố trong một Bản Tuyên ngôn, khiến gây chấn động dư luận khắp nơi hồi đó. Quả thật nhà thơ lão thành Hữu Loan đã tiếp sức thật đúng lúc, đúng chỗ cho các bạn dũng sĩ trẻ ở miệt Cao nguyên Langbian vào cái thời hé mở “Đổi Mới” sau năm 1986. Chi tiết vụ này đã được nhà văn Bảo Cự ghi đày đủ trong cuốn sách “Hành trình cuối Đông” xuất bản ở hải ngọai mươi năm trước đây. Hồi cuối năm 1989, tôi có việc phải đi từ Saigon ra Hanoi và nhân tiện ghé thăm anh chị Trần Dần tại nhà ở gần Ga Hàng Cỏ. Anh Dần cũng cho biết Hữu Loan mới ra đây, đang đi thăm bạn hữu ở Hanoi. Đúng lúc đó thì xảy ra Đại hội các Nhà văn và có sự tranh luận sôi nổi về tự do sáng tác văn nghệ theo trào lưu Đổi mới. Anh Dần phấn khởi cho tôi hay là: “Nhìn chung, thì phe tiến bộ dân chủ đã thắng thế trong Đại hội này”. Nhưng tôi lại không được gặp lại Hữu Loan trong dịp cả hai chúng tôi cùng ở Hanoi vào cuối tháng 11 năm 1989 đó. Theo tôi biết thì Hữu Loan đã tự ý rời bỏ cả đảng cộng sản, cũng như bỏ hết mọi sinh họat với Hội Nhà văn, nên đã không hề tham dự với đại hội này. Nhưng chắc chắn là anh cũng như anh Trần Dần đã rất phấn khởi trước sự can đảm bày tỏ ý kiến của một số bạn văn nghệ sĩ của các anh trong dịp đại hội vừa kể. Nhân tiện cũng xin ghi lại một câu đối mà chính Hữu Loan đã đọc cho tôi ghi lại như sau : Đã lâu có một văn nghệ sĩ (hình như là Chu Thành, vì tôi không nhớ rõ Hữu Loan xác định tên tác giả này) ra câu đối : “Bác bôi tôi không bằng tôi bôi bác”, thì Hữu Loan đối lại là : “Mày ăn dân hết nước dân ăn mày”. Tôi mới được đọc trên internet là Hữu Loan còn làm rất nhiều câu đối vào lọai khó đối đáp, như câu : “Da trắng vỗ bì bạch” Chính tôi thì chưa được biết câu đối lại của Hữu Loan riêng cho vế này ra sao. Mong có bạn nào sưu tầm được các câu đối này để cho bạn đọc bốn phương được thưởng thức, thì hay lắm vậy. Và kể từ đầu năm 1990 lúc tôi bị công an bắt giữ cho đến khi qua định cư ở Mỹ năm 1996, thì tôi không có dịp trực tiếp liên lạc với anh Hữu Loan nữa. Nhưng qua nhà thơ Hà Thượng Nhân ở San Jose và mới đây qua nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự cũng qua thăm bà con ở Mỹ, thì tôi lại được biết thêm chi tiết về cuộc sống của anh Loan. Ông lão nay đã ngòai 90 tuổi rồi, mà vẫn còn minh mẫn, cương nghị như hồi nào. Đọc trên internet, tôi thật phấn khởi được biết anh vẫn sống thanh thản nơi quê hương Thanh Hóa cùng với đại gia đình rất đông con, cháu, chắt và đặc biệt người vợ đã tận tình chia sẻ cay đắng, ngọt bùi với anh trên nửa thế kỷ nay. Đối với tôi, Hữu Loan là một nhân cách thật lớn lao, kiên cường đã giữ vững được tiết tháo liêm sỉ của người sĩ phu trí thức theo đúng với truyền thống tốt đẹp của dân tộc chúng ta. Tôi thật may mắn được quen biết thân thương với những bậc đàn anh vừa có tài năng, vừa có tư cách đáng quý, đáng trọng như Hữu Loan, như Hà Thượng Nhân, như Dõan Quốc Sĩ … Xin cầu chúc Anh và Gia quyến luôn được mọi sụ An Lành Tốt Đẹp./ California, Tháng Tám 2009 Đòan Thanh Liêm
|
Lộ Công Mười Lăm
|
IP Logged |
|
lo cong
Senior Member
Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
|
 Gởi ngày: 21/Mar/2010 lúc 4:16pm |
Chào người Mầu Tím Hoa Sim
Chào chòm râu bạc đi tìm ban sơ
Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 21/Mar/2010 lúc 4:21pm
|
Lộ Công Mười Lăm
|
IP Logged |
|
mykieu
Senior Member
Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
|
 Gởi ngày: 21/Mar/2010 lúc 8:23pm |
BIỀN BIỆT MÀU TÍM... -
thơ NGUYỄN NGỌC TUYẾT
22.03.2010 01:31
(KÍNH VIẾNG HƯƠNG HỒN NHÀ THƠ HỮU LOAN)
Tiếng hát lênh đênh “trong chiều hoang” Ông hát cho mình hay hát cho ai? (Trích)
Ông đi rồi, vần thơ bay cùng gió Bay về những đồi sim tím ngắt một thời Một thời tuổi trẻ chúng tôi ngậm ngùi thổn thức Thương làm sao “nụ cười tươi” cô gái trẻ ngày hợp hôn Thương đất nước gian lao tuôn trào nước mắt Khi “ba người anh trên chiến trường Đông Bắc Được tin em gái mất Trước tin em lấy chồng”…
Những vần thơ chúng tôi ép vào trang vở Đi cùng những cuộc tình vui, những cuộc tình buồn Vẫn man mác cái màu tím ấy Biền biệt những chiều hoang… Để nhận ra tình yêu dài vô tận Giọt nước mắt ứa từ trái tim quý giá vô ngần.
Tiếng hát lênh đênh “trong chiều hoang” Ông hát cho mình hay hát cho ai? Âm hưởng buồn vọng vào thời gian trôi mãi Chiếc bình hoa- bình hoa cưới- hoa tang! Màu tím thơ ông tím cả tâm hồn.
Ông đi rồi màu tím xưa ở lại “Biền biệt chiều hoang”, biền biệt vần thơ cũ Giờ còn ai biết hát khúc tình sầu!
|
mk
|
IP Logged |
|