![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Lịch Sử - Nhân Văn | |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
Người gởi | Nội dung | |
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() Gởi ngày: 14/Dec/2013 lúc 8:27pm |
|
Khảo về Trà
Phạm Văn Bân
Hàng ngàn năm nay, trà là thức uống phổ thông ở Trung quốc và trong vài trăm năm gần đây, trà trở nên thức uống được ưa chuộng khắp nơi trên thế giới. Đi kèm với sự phát triển tột bực này là các lời đồn đải "thêu hoa, dệt gấm" về trà trên nhiều phương diện, từ xuất xứ, chế biến, phong cách uống trà, trà đạo của Nhật Bản cho đến tác dụng chữa bệnh của trà hiện đang thu hút nhiều cuộc khảo cứu của giới Tây y. Thêm vào các điều trật có, trúng có, trào lộng hoặc nghiêm chỉnh là dưới động cơ mua bán trà khiến cho sự thật về trà bàng bạc đâu đó. Nói về trà có phần khó do phạm vi quá rộng, tài liệu nhiều như núi, và sở thích uống trà của mỗi người đều khác nhau. Do đó, bài viết này giới hạn trong một ít chủ đề căn bản về trà như sau:
-Nguồn gốc, -Tiến trình phát triển của trà ở Trung quốc, -Tiến trình phát triển của trà ở Nhật Bản, -Tiến trình phát triển của trà ở Ấn Độ và Anh quốc, -Cách chế biến trà, -Cách pha trà, và -Lợi ích của trà.
1.Nguồn gốc của trà
Trà là một loại cây nhỏ, có hoa thơm màu vàng trắng. Cây trà - có tên khoa học là Camellia Sinensis - chữ Latin camellia sinensis nghĩa là sơn trà Trung quốc [1] - xuất phát từ biên giới Ấn Độ, Trung quốc và Myanmar, các vùng nóng và ẩm của phía Đông Himalayas, rồi từ đó lan ra các vùng có khí hậu nhiệt đới và gần nhiệt đới (tropical or sub-tropical climates). Cách nay bốn hay năm ngàn năm, cây trà là một loại cây hoang dã, dân của các bộ lạc ở đấy ăn và uống lá trà, dần dần trà được người Trung quốc phổ biến thành một thức uống thú vị, và ngày nay khắp nơi trên thế giới đều thưởng thức trà. [1] http://fr.wikipedia.org/wiki/Camellia_sinensis: Camellia sinensis signifie mot à mot "camellia chinois."
và ngày nay khắp nơi trên thế giới đều thưởng thức trà. Trong kỹ nghệ trà, người ta thường tỉa cây trà cho cao không quá hai mét để dễ ngắt lá. Lá trà dài từ 4–15 cm và rộng từ 2–5 cm. Thông thường, chỉ đọt trà và hai hoặc ba lá trà được hái để chế biến thành trà - và cứ độ 7 đến 10 ngày thì cây trà mọc ra đọt mới. Để có trà ngon, cây trà phải trồng ở độ cao trên 5,000 feet (1,500 mét), bởi vì càng cao thì cây càng sinh trưởng chậm và càng chậm thì càng đậm đà hương vị.
2.Tiến trình phát triển của trà ở Trung quốc
Trà là một thức uống phổ biến ở Trung quốc từ hàng ngàn năm nay và là một trong những mục sinh hoạt căn bản nhất của đời sống. Người Trung quốc có thành ngữ: mỗi ngày thức dậy (mở cửa ra) là phải lo bảy chuyện: củi, gạo, dầu ăn, muối, tương, giấm, và trà (khai môn thất kiện sự: sài 柴, mễ 米, du 油, diêm 鹽, tương 醬, thố 醋, trà 茶).
Tài liệu về việc chế biến và uống trà có vào năm 350 khi Kuo P’o’ cập nhật hóa một cuốn tự điển Trung quốc xưa với mô tả về trà như là "một loại nước uống do nấu sôi các lá." Vào thời này, lá trà được nấu sôi chung với gừng, cam hoặc gia thêm các chất khác vào. Mặc dù trà chính yếu được dùng để trị các chứng tiêu hóa và thần kinh nhưng người Trung quốc đã ép trà thành các bánh "tiền tệ" để đổi chác với các bộ lạc khác. [1]
Có nhiều giai thoại chung quanh nguồn gốc của Trà, trong đó người ta hay nhắc đến câu chuyện vua Thần Nông bên Trung quốc [2] Một tài liệu lý thú khác: [3]
"Theo truyền thuyết, trong một lần tuần thú phương Nam, vua Thần Nông vô tình uống một nồi nước đun sôi có lá cây trà rơi vào. Ông uống rồi khen là trà "làm cho cơ thể phấn chấn, tinh thần thoải mái, sáng suốt."
Một câu chuyện khác thì lại viết rằng Đạt Ma tổ sư vì ngủ quên trong một buổi tọa thiền nên bực tức cắt mí mắt vứt đi. Chỗ ông vứt mí mắt mọc lên cây trà, và trở thành một thức uống thông dụng cho những nhà sư để tỉnh táo khi tu tập. Từ chùa chiền, món uống này truyền ra dân gian.
Lẽ dĩ nhiên, những câu chuyện này chỉ là huyền thoại. Người Trung Hoa cái gì không rõ nguyên do thường bịa ra một dật sự từ thời cổ sử gán cho Thần Nông, Hoàng Đế [1]
http://en.wikipedia.org/wiki/Chinese_tea_ceremony:
"The first written reference of tea made and consumed appeared in
350 A.D. Kuo P’o’ updated an old Chinese dictionary to include the description
of tea as “a beverage made from boiled leaves.” Tea during this time was made
of leaves boiled in water with ginger, orange or other produce added to it.
Although tea was mostly consumed for medicinal purposes to treat digestive and
nervous conditions, people living in the interior part of China pressed tea
into brick “currency” to barter with other tribes." [2] Lục Vũ (733-804), Trà Kinh, chương 6: Lục chi ẩm: xem phần dịch trọn chương ở phía dưới.
[3]
http://quangio.com: Nguyễn Duy Chính, Trà Tầu và Ấm Nghi Hưng,
Quán Gió 2001.
như người Việt bắt đầu một thần tích bằng "ngày xưa, đời vua Hùng Vương thứ ..." để câu chuyện thêm li kỳ, vừa khiến cho những chứng cớ đưa ra có chỗ dựa. Chính thức theo lịch sử thì trà chỉ mới được đề cập đến từ thời Tam Quốc, và đến tận đời Đường, người Tàu vẫn chỉ dùng các loại trà mọc hoang chứ chưa trồng và chế biến thức uống này. Trà cũng chỉ lưu hành trong giới thượng lưu miền Nam Trung Hoa chứ dân dã cũng chưa uống và tục uống trà chưa được coi như một thú thanh cao. Quả thực thời kỳ đó hai miền nam bắc Trung Hoa đời sống cách biệt như hai thế giới. Đến đời Tùy nước Tàu thống nhất thì những sinh hoạt mới lan truyền ra những vùng khác. Người Tàu pha trộn cách uống trà với sữa của người Hồ (tức các dân tộc vùng Tây Vực) là những dân tộc sống du mục. Tuy việc uống trà đã phổ thông nhưng vẫn có một số đặc điểm khác ngày nay:
Vào đời nhà Đường (618-907), trà là thức uống thông dụng từ trong triều đình ra đến đại chúng. Chính vào thời gian này phát sinh tập tục tuyển lựa loại trà ngon nhất để tiến vua. Lúc đó, trà được chế biến theo dạng thỏi bánh (brick form), nghĩa là lá trà được sấy khô và nén lại trong các khuôn. Các trà thất bắt đầu xuất hiện để thưởng thức trà; và nghề làm đồ sứ thành hình. Một bánh trà hạng tốt có thể trị giá vài lượng vàng và loại thượng hạng thì vô giá. Khi uống thì bẻ bánh trà và nghiền thành bột, rồi đổ nước nóng vào và dùng thanh tre quậy lên. [1]
Đến đời nhà Tống (960-1279), trà được cải thiện nhiều mặt, từ thời điểm hái trà, cách hái đến cách chế biến và pha trà. Nhà Tống sáng chế ra loại trà có dạng lá rời (loose-leaf styles) vì triều đình muốn lưu giữ mùi vị và cũng vì mục tiêu thương mại. Thay vì hấp, trà được sấy khô và làm cho cuộn lại. Về sau, người ta chế ra dạng trà đọt từ các lá trà xanh. Trong thời kỳ này, các Thiền sư Nhật Bản du nhập trà từ Trung quốc vào Nhật Bản khi họ trở về bản xứ. Vì vậy, tại Nhật Bản, người ta chế biến trà theo phương pháp của nhà Tống. Cùng với trà, Thiền tông lan rộng qua Nhật Bản và trà đạo bắt rễ từ đấy.
Tuy nhiên, trà không còn là một thức uống được cổ võ dưới đời Nguyên Mông Cổ (1271-1368) vì các lãnh chúa Mông Cổ xem việc uống trà như một biểu tượng của sự suy đồi. Nhưng lại trở nên phổ biến dưới đời nhà Minh (1368-1644).
Nhà Minh xét thấy cần phải khôi phục tất cả tinh túy của Trung quốc, và chắc chắn trà là một trong các tinh túy đó. Lúc bấy giờ, người Âu châu lần đầu tiên biết đến trà và muốn uống thử bằng cách ngâm lá trong nước sôi; vì thế mà cách pha trà này trở nên phổ biến ở phương Tây mãi cho đến ngày nay. Dưới đời nhà Minh, người ta biết đến nhiều loại trà khác nhau, lục trà không lên men (unfermented green teas), hắc trà lên men (fermented black teas), và các loại trà lên men trong một chừng mực nào đó như ô long trà. Nhà Minh ra lệnh chỉ có trà lá rời mới được đem cống triều đình khiến việc sản xuất trà lá rời phát triển mạnh. Không bao lâu, loại trà còn nguyên lá trở nên phổ thông.
Đến đời nhà Thanh (1644-1840), trà trở nên đại chúng. Tất cả mọi người giàu nghèo đều có thể uống trà, ở Trung quốc cũng như Âu châu. Trong giai đoạn này, trà được pha bằng các lá trà ngâm trong nước nóng. Nhiều phương pháp chế biến trà nảy ra, tạo ra bốn loại chính yếu: bạch trà, lục trà, ô long trà và hắc trà.
* * *
Có thể nói đời nhà Đường (618-907) là giai đoạn trà được qui củ hóa với sự ra đời của cuốn Trà Kinh do Lục Vũ soạn.
Người ta không biết nhiều về Lục Vũ. Sách ghi lại rằng Lục Vũ (733-804) vốn là một trẻ mồ côi, được một
thiền sư đưa vào chùa nuôi lúc ba tuổi, nhưng ông bỏ trốn lúc 12 tuổi. Trải qua nhiều trôi nổi, đến năm 21 tuổi, Lục
Vũ bắt đầu khảo cứu và sưu tập về các mẫu trà và nước để nấu trà. Ông đi khắp miền hoang dã, nhất là vùng Triết
Giang và Giang Tây để khảo cứu tại chỗ cách trồng và chế biến trà, cũng như đồ
sành sứ để uống trà (trà cụ). Trà Kinh chỉ dẫn điều kiện tinh thần và khung cảnh thích hợp cho việc uống trà, nâng cao nghi thức uống trà gần như một nghi thức tôn giáo. Điều này phù hợp với quan điểm của đạo Lão vốn [1]
http://en.wikipedia.org/wiki/Chinese_tea_ceremony: "A cake of high grade tea could
be worth several pieces of gold while one of the highest grade would be
priceless. Tea during this time was made by breaking a piece off a tea brick
and grinding it into a powder. This powder was then added to hot water and
whipped with a bamboo whisk."
là trọng tâm văn hóa vào thời gian này, trong đó xác định rằng mỗi chi tiết của đời sống đều đáng được tôn trọng, và rằng con người nên cố gắng tìm đến sự thanh tịch ở khắp mọi nơi. Vì thế, khi truyền bá Thiền từ Trung quốc vào Nhật Bản, việc các sư Nhật Bản nhấn mạnh vào những nguyên tắc: hòa đồng, tôn kính, thanh bạch và tịch mịch khi chuẩn bị pha trà và uống trà chính là sự khai triển triết lý đạo Lão vậy.
*The Cl***ic of Tea; Lu, Yu; Intro & Translation By Francis Ross Carpenter, Illustrated by Hitz, Demi; Boston, MA: Little, Brown & Co. 1974
*The Cl***ic of Tea: Origins & Rituals; Lu, Yu; Translated by Carpenter, Francis Ross. Preface by Carpenter; New York, New York, U.S.A.: Ecco Press. 1995
Dưới đây là phần tóm lược và trích văn từ 10 chương Trà Kinh căn cứ theo bản chữ Hán của Project Gutenberg [1]
Nhất chi nguyên: nguồn gốc (一之源) Định nghĩa chữ trà, phân loại, mô tả các đặc điểm của cây trà và lá trà. Lợi ích của trà tốt và các loại trà xấu nên tránh dùng. Ảnh hưởng của phong thổ, mùa hái trà và phương pháp trồng trà cho có hiệu quả tốt. Theo Lục Vũ, "Về chữ thì trà hoặc thuộc loại cỏ, hoặc thuộc loại cây, hoặc đều thuộc cả cỏ và cây. Về tên thì thứ nhất là trà, thứ hai là cây giả, thứ ba là cây thiết, thứ tư là đọt trà, thứ năm là trà hái muộn." [2]
Thực vậy, các tên gọi cây trà đều hoặc viết với bộ thảo 艸 (茶,蔎,茗,荈) hoặc bộ mộc 木(檟), trong đó: -chữ 茶 chá-trà xuất hiện trước nhất để gọi lá của cây trà (茶樹 trà thụ) -chữ 蔎 shè-thiết là tiếng của người Tứ Xuyên gọi tên một loại rau đắng 荼 (tú-đồ) -chữ 茗 míng-mính: đọt trà, vẫn còn dùng để chỉ trà |
||
mk
|
||
![]() |
||
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
|
Tiếp theo .... ============== -chữ 荈 chuan-suyễn: trà hái muộn -chữ 檟 jia-giả do 周公 Châu Công dùng để gọi cây trà đắng (檟苦荼 jiakutu-giả khổ đồ) Nhị chi cụ: trà cụ (二之具) Mô tả 15 dụng cụ dùng để trồng, gặt hái, sản xuất và chế biến trà.
Tam chi tạo: làm ra trà (三之造) Thời điểm trong ngày, mùa và khí hậu đúng để hái lá trà. Sấy và trữ trà. Phương pháp chế biến trà. Theo Lục Vũ, lá trà thượng hạng phải có "nếp nhăn như giày da của kỵ sĩ Thát Đát, xoắn như yếm bò, trải ra như mưa bụi từ trong khe núi, ánh lên như mặt hồ bị gió nhẹ phớt qua, và ướt mềm như mặt đất mới bị mưa."
Tứ chi khí: đồ dùng (四之器)
rằng chén trà bằng sứ màu xanh da trời là tốt nhất vì nó hỗ trợ màu xanh cho nước trà - phổ biến ở miền Nam Trung quốc, còn ở miền Bắc Trung quốc lại ưa chuộng màu trắng nhưng Lục Vũ cho rằng màu trắng khiến nước trà trông ra màu hồng và làm mất khẩu vị.
Ngũ chi chử: nấu trà (五之煮) Phương pháp nấu, tồn trữ các bánh trà. Loại nước và phẩm chất nước cùng thời gian nấu trà. Phương pháp pha trà. Lục Vũ không chấp nhận pha trà với bất cứ gia vị nào, ngoại trừ muối. Lục Vũ nói, "Cứ tin đi! Về nước thì dùng nước núi ở trên nguồn, nước sông phải là nước ở giữa sông, và nước giếng phải là nước ở dưới đáy giếng." [1] Theo ông, chọn nước rỉ ra từ trong khe đá trên núi là tốt nhất; nếu nước bay ra từ trên thác núi thì không nên dùng vì uống vào sẽ đau cần cổ. Nước sông thì lấy ở chỗ mà người ta thưa thớt và nước giếng thì lấy ở chỗ có nhiều người lấy nước. Ông cũng nói về ba giai đoạn nấu sôi nước: sôi lần thứ nhất là khi bong bóng nước nhỏ như mắt của con cá nổi lên; sôi lần thứ nhì khi bong bóng nước to bằng hột đậu; và sôi lần thứ ba khi nước nổi sóng to trong ấm. Bánh trà phải sấy cho mềm trước khi nấu. Bỏ muối vô khi nước sôi lần thứ nhất, trà ở lần thứ nhì và một giá nước lạnh vào lần thứ ba. Sau đó, chế nước từ ấm nấu trà vào chén trà để uống.
Lục chi ẩm: uống trà (六之飲): Toàn văn chương 6: Hán: [2] 茶經 陸羽撰 六之飲 翼而飛,毛而走,去而言,此三者俱生於天地間。飲啄以活,飲之時,義遠矣哉。 至若救渴,飲之以漿;蠲憂忿,飲之以酒;蕩昏寐,飲之以茶。茶之飲, 發 乎 神農氏,間于魯周公,齊有晏嬰,漢有揚雄、司馬相如,吳有韋曜,晉有劉琨 、 張載遠、祖納、謝安、左思之徒,皆飲焉。滂時浸俗, 盛于國朝, 兩 都 並 荊 俞 間,以比屋之飲。飲有粗茶、 散茶、 末茶、 餅茶者, 乃斫, 乃熬, 乃煬, 乃 舂,貯於瓶缶之中,以湯沃焉,謂之茶。或用蔥、 薑、 棗、 橘皮、 茱萸、 薄 荷 之等,煮之百沸 , 或揚令滑, 或煮去沫, 斯溝渠間棄水耳,而習俗不已。於 戲! 天育萬物皆有至妙, 人之所工,但獵淺易。所 庇 者 屋 屋 精 極, 所 著 者 衣 衣 精 極,所飽者飲食。食與酒皆精極之。茶有九難:一曰造,二曰別,三曰器,四曰火,五曰水,六 曰 炙,七 曰 末,八 曰 煮, 九 曰飲 。陰采夜焙非造也, 嚼味嗅香非別也, 膻鼎腥甌非器也, 膏 薪 庖 炭非火也, 飛湍壅潦非水也, 外熟內生非炙也, 碧粉縹塵非末也, 操 艱 攪 遽 非煮也, 夏興冬廢非飲也。 夫珍鮮馥烈者, 其碗數三; 次之者碗數五。若坐客數至,五行三碗,至七行五碗。若六人已下,不約碗數,但闕一人而已,其雋永補所闕人。
Dịch ra Hán Việt: Trà Kinh Lục Vũ soạn Lục chi ẩm
Dực nhi phi, mao nhi tẩu, khứ nhi ngôn, thử tam giả câu sinh ư thiên địa gian. Ẩm trác dĩ hoạt, ẩm chi thì, nghĩa viễn hĩ tai. Chí nhược cứu khát, ẩm chi dĩ tương; quyên ưu phẫn, ẩm chi dĩ tửu; đãng hôn mị, ẩm chi dĩ trà. Trà chi ẩm, phát hồ Thần Nông thị, gian vu Lỗ Châu Công, Tề hữu Yến Anh, Hán hữu Dương Hùng, Tư Mã Tương Như, Ngô hữu Vi Diệu, Tấn hữu Lưu Mân, Trương Tái Viễn, Tổ Nạp, Tạ An, Tả Tư chi đồ, giai ẩm yên. Bàng thì tẩm tục, thịnh vu quốc triều, lưỡng đô tịnh kinh du gian, dĩ bỉ ốc chi ẩm. Ẩm hữu thô trà, tán trà, mạt trà, bính trà giả, nãi chước, nãi ngao, nãi dương, nãi thung, trữ ư bình phữu chi trung, dĩ thang ốc yên, vị chi trà. Hoặc dụng thông, khương, tảo, quất bì, thù du, bạc hà chi đẳng, chử chi bách phí, hoặc dương lệnh hoạt, hoặc chử khứ mạt, tư câu cừ gian khí thủy nhĩ, nhi tập tục bất dĩ. Ư hí! Thiên dục vạn vật giai hữu chí diệu, nhơn chi sở công, đãn liệp thiển dịch. Sở tí giả ốc ốc tinh cực, sở trứ giả y y tinh cực, sở bão giả ẩm thực. Thực dữ tửu giai tinh cực chi. Trà hữu cửu nan: nhất viết tạo, nhị viết biệt, tam viết khí, tứ viết hỏa, ngũ viết thủy, lục viết cứu, thất viết mạt, bát viết chử, cửu viết ẩm. Âm thải dạ bồi phi tạo dã, tước vị khứu hương phi biệt dã, đản đỉnh tinh âu phi khí dã, cao tân bào thán phi hỏa dã, phi thoan ung lạo phi thủy dã, ngoại thục nội sinh phi cứu dã, bích phấn phiếu trần phi mạt dã, thao gian giảo cự phi chử dã, hạ hưng đông phế phi ẩm dã. Phu trân tiên phức liệt giả, kỳ oản số tam; thứ chi giả, oản số ngũ. Nhược tọa khách số chí, ngũ hành tam oản, chí thất hành ngũ oản. Nhược lục nhơn dĩ hạ, bất ước oản số, đãn khuyết nhứt nhơn nhi dĩ, kỳ tuyển vĩnh bổ sở khuyết nhơn.
Nghĩa tiếng Việt: Trà Kinh Lục Vũ soạn Chương 6: Uống trà
Loài có cánh thì bay, loài có lông thì chạy, loài biết đi thì nói, cứ thế mà cả ba loài cùng sinh sống trong khoảng trời đất. Lấy uống mổ để mà sống, lúc uống thì việc đó hãy còn nhiều rắc rối. Để giải khát thì uống, cái gì uống được thì lấy làm nước uống; buồn rầu giận dữ thì lấy rượu uống; ngủ say suốt tối lấy trà uống. Việc uống trà xuất phát từ Thần Nông, khoảng Lỗ Châu Công, nước Tề có Yến Anh, Hán có Dương Hùng, Tư Mã Tương Như, Ngô có Vi Diệu, Tấn có Lưu Mẫn, Trương Tái Viễn, Tổ Nạp, Tạ An, Tả Tư cả đám đó đều uống trà vậy. Dần dần thấm thành phong tục, thịnh hành tới triều đình, cả hai kinh đô đều lấy nhà làm chỗ uống trà. Uống có trà thô, trà tán, trà vụn, trà làm thành từng bánh, bèn đẵn cây, bèn sấy (tức rang khô), bèn nấu chín, bèn giã, rồi chứa trong bình bằng sành, lấy nước nóng rót vào, đó là pha trà. Hoặc dùng hành, gừng, táo, vỏ quýt, thù du, bạc hà, nấu tất cả sôi lên, hoặc nấu cho bốc lên trơn nhẵn bên ngoài, hoặc nấu cho bọt nổi lên mặt nước như đường mương thoát bỏ nước dơ vậy, thực ra không cần phải theo tập tục đó. Thật là một trò đùa vui! Trời nuôi vạn vật đều có cái kỳ diệu, cái giỏi của loài người là chỉ chụp điều dễ để làm. Nhà để che chở thì tinh tế, y phục để mặc thì đẹp đẽ, muốn no đủ thì ăn uống. Ăn cùng rượu thảy đều chu đáo. Có chín điều khó về trà: một là chế tạo, hai là phân biệt, ba là dụng cụ, bốn là lửa, năm là nước, sáu là cứu (thời xưa đắp trà lên huyệt, rồi đốt lên để trị bệnh, gọi là cứu), bảy là đọt trà, tám là nấu, chín là uống. Sấy trà hái ban đêm không phải là chế tạo trà, nhấm nhai, ngửi mùi không phải là cách phân biệt trà, cái bồn nhỏ không phải là trà cụ, củi sáp và than bếp không phải là lửa nấu trà, nước chảy xiết hòa ngập đất không phải là nước pha trà, bên ngoài chín quá, bên trong còn sống không phải là cứu, vật tán nhỏ màu xanh như bụi không phải là đọt trà, quấy trà gấp gáp khó khăn không phải là nấu trà, cao điểm của mùa hè và lúc tàn mùa đông không phải là lúc uống trà. Trà mới hái rất quý, nấu lên thơm phức, lấy ba chén, kế đó mới lấy năm chén. Còn như đếm số khách đến, sắp năm hàng, mỗi hàng ba chén cho đến bảy hàng, mỗi hàng năm chén. Còn nếu có sáu người trở xuống thì không bắt buộc tính số chén, nếu thiếu một người thì lấy lời ngọt ngào sâu sắc mà bù vào chỗ thiếu người.
Thất chi sự: việc uống trà (七之事) Danh sách các nhân vật có ảnh hưởng vào thời Đường, các điển tích về trà, truyện, thi phú, lợi ích y khoa của trà.
Bát chi xuất: xuất xứ (八之出) Các vùng sản xuất trà ở Trung quốc, xếp hạng và so sánh phẩm chất trà ở các vùng này.
Cửu chi lược: phương lược (九之略) Các trà cụ và phương pháp có thể miễn trừ khi trồng hay chế biến trà trong điều kiện bất thường. Trà cụ và phương pháp pha chế trà có thể đơn giản hóa hoặc cải thiện khi uống ngoài trời và khung cảnh bất thường.
Thập chi đồ: đồ hình, bản đồ (十之圖) Cách trích Trà Kinh thành các câu ngắn để dễ tham khảo và để làm liễn treo trên tường.
* * *
Trà là một trong các sản phẩm then chốt của Trung quốc, vừa tiêu thụ trong nước, vừa để xuất cảng. Do đó, có rất nhiều hãng trà ở khắp nơi trong nước và nhiều loại trà khác nhau. Tùy theo sở thích cá nhân mà người thích uống loại trà này hay loại trà kia trong Trung quốc thập đại danh trà. Tuy nhiên, ngoài loại lục trà thường uống mỗi ngày, có một loại trà đặc biệt mà tôi thích nhất là Phổ Nhị trà.
Định chế Trà Lục Vũ của hãng trà Thiên Nhân được thiết lập năm 1970 ở Đài Loan nhằm phát triển và cải thiện văn hóa trà Trung quốc. Định chế này dẫn đầu các cuộc nghiên cứu, hệ thống hóa, và khai triển trà cụ và kỹ thuật pha trà, giúp huấn luyện phương pháp và kỹ thuật đúng về văn hóa trà Trung quốc ở Đài Loan, Nhật Bản, Đại Hàn, và các nơi khác. [3]
3.Tiến trình phát triển trà ở Nhật Bản
Cuốn sách của Lục Vũ chẳng những gây ảnh hưởng có tính chất căn bản ở Trung quốc mà còn tác động mạnh mẽ ở Nhật Bản. Tài liệu cho thấy vào năm 805, sư Tối Trừng (最澄 767-822) và sư Không Hải (空海 774-835) du nhập hạt giống trà vào Nhật Bản. Sau đó, Tha Nga Thiên Hoàng (嵯峨天皇) tán thưởng và khuyến khích khiến việc nhập cảng hạt giống và trồng trà bắt đầu xảy ra ở Nhật Bản. Từ đó, việc uống trà phổ biến ra ngoài vòng tôn giáo, triều đình và giới thượng lưu.
Thoạt đầu, uống trà ở Nhật chẳng có qui củ nào cả. Người ta uống trà tràn lan trong mọi hoàn cảnh giống như người Tây phương ngày nay: đánh bạc, đấu võ, hội họp, v.v. Năm 1191, sư Vinh Tây (栄西 1141-1215) mang hạt giống trà từ Trung quốc về trồng tại Kyoto và đó chính là gốc của trà Uji nổi tiếng ngày nay. Sư Vinh Tây viết cuốn Khiết Trà Dưỡng Sanh Ký (喫茶養生記 Kissa Yojoki) được xem là cuốn sách xưa nhất về trà ở Nhật Bản, mô tả tác dụng hữu hiệu của trà vào ngũ tạng, đặc biệt là tim, giải rượu, cải thiện đường tiểu và các chức năng của não. Phần I giải thích hình dạng lá trà, hoa trà, cách trồng và biến chế trà. Phần II bàn về liều lượng và phương pháp dùng trà chữa một số bệnh.
Sau một thời gian, dần dần việc uống trà được sàng lọc lại, phần lớn nhờ ở ảnh hưởng của các thiền sư mà đáng lưu ý nhất là sư Sen No Rikyu (1522 - 1591), sống ở Kyoto. Sư Sen No Rikyu đưa quan điểm Thiền vào các buổi trà hội, khai triển thành Trà Đạo ngày nay, [4] và tiếp theo là Takeno Joo đưa ra nguyên tắc trân trọng mỗi một buổi trà đạo bởi lẽ buổi đó sẽ không bao giờ tái tạo được. Ông cũng đưa ra các nguyên tắc then chốt mà ngày nay vẫn còn duy trì, đó là bốn chữ: hòa, kính, thanh và tịch (和 wa: hòa, hòa khí, không trái với ai; 敬 kei: kính, cung kính; 清 sei: thanh, thanh bạch, trong sạch; và 寂 jaku: tịch, tịch mịch: im lặng).
Trà Nhật có vài loại chính như sau: [5]
- Lục trà (緑茶 Ryokucha): có khắp nơi ở Nhật Bản đến nỗi được gọi luôn là Nhật Bản trà (日本茶 nihoncha). Lục trà được phân hạng theo phẩm chất và phần nào của cây trà được biến chế. Giá cả và phẩm chất biến thiên rất lớn. Lục trà ngon nhất là ở vùng Uji của Kyoto.
- Quán Trà (冠茶 Kabusecha): còn gọi là Tiên Trà (煎茶) là loại trà phổ biến tại Nhật ngày nay, do Soen Nagatani sáng chế vào năm 1738. Quán trà là một loại trà sấy không trải qua quá trình oxy-hóa, lá trà được nuôi trong mát trước khi hái, nhưng không lâu bằng Ngọc Lộ trà.
- Ngọc Lộ (玉露 Gyokuro): lựa chọn từ loại lục trà có tên là Thiên Trà (天茶), trong đó cây trà được che nắng vài tuần lễ trước khi hái lá, do Kahei Yamamoto sáng chế vào năm 1835. Vào cuối thời Minh Trị Thiên Hoàng (1868-1912), việc dùng máy móc để sản xuất lục trà được du nhập và bắt đầu thay thế cách làm thủ công.
Giống như việc pha và uống trà được Lục Vũ mô tả trong cuốn Trà Kinh, các buổi trà đạo ở Nhật Bản có nhiều nghi thức hơn là một thức uống đơn thuần. Việc uống trà được làm theo một số quy ước rõ ràng từ trang phục, thư pháp trang trí, bày biện hoa trong trà thất, trà cụ, nhang đèn, v.v. Trà đạo phản ảnh tư tưởng đạo Lão về việc tìm kiếm cái đẹp hiện hữu chung quanh kết hợp với quan điểm Thiền về sự nhận thức trực tiếp, sự bình thường vô vị và riêng biệt của vạn vật; tất cả đều đóng một vai trò chủ yếu. Nghi thức pha trà Nhật Bản cũng thể hiện con đường tìm kiếm cái vĩ đại ngay trong các chi tiết nhỏ nhặt nhất của đời sống. Lòng biết ơn và phép lịch sự được hội nhập vào nghi thức trà hội, và đó là hình thức bên ngoài của niềm tin bên trong về sự quan trọng trong hòa hợp giữa con người và vạn vật.
Thư pháp (zenga) giữ vai trò trọng tâm trong buổi trà hội và được trình bày qua các tấm liễn bằng vải hay giấy treo trên tường. Liễn được lựa chọn sao cho phù hợp với mùa, ngày giờ, hoặc chủ đề của buổi trà hội, VÔ thông thường là thủ bút của các nhà thư pháp nổi tiếng. Tranh, thơ hoặc các câu nói liên quan đến buổi trà hội có thể được chọn. Tuy nhiên, tiêu biểu và phổ biến nhất vẫn là bốn chữ của sư Sen-no Rikyu: 和, 敬, 清, 寂. Đôi khi chỉ treo có một chữ, thí dụ như chữ Phong (gió, kaze) được xem là thích hợp nếu trà hội xảy ra vào mùa hè. Người Nhật hay trang trí hoa (chabana) trước các tấm liễn. Đây là cách cắm hoa đơn giản, hoàn toàn trái ngược với các bó hoa đủ màu, đủ loại của Tây phương. Ngày nay họ vẫn còn giữ tinh thần trang trí hoa do sư Sen-no Rikyu đề ra: chỉ một hoặc vài nhánh hoa mà thôi, nhưng thường chỉ có một hoa đang nở, được hướng về phía khách, và cắm trong các bình cao, hẹp làm bằng vật liệu tự nhiên như: tre, sành sứ nhưng hiếm khi bằng thủy tinh.
Để chủ trì một buổi trà hội, người ta thường tốn nhiều năm theo học trong các trường dạy về trà đạo cũng như thực tập cho đúng phong cách được quy ước. Học viên mới sẽ bắt đầu bằng cách quan sát các học viên cũ thực hành nghi thức và sẽ do các học viên cũ huấn luyện; còn vị thầy chỉ dạy các học viên cũ mà thôi.
Các điều học đầu tiên là cách đúng để mở và đóng cửa kéo (sliding doors), để đi trên tấm tatami để đi vô và đi ra trà thất, cách cúi chào (bow), chào ai, cách rửa và chăm sóc trà cụ, cách rửa và xếp khăn lau nước trà, v.v. Khi học xong các điều căn bản này, học viên sẽ được dạy cung cách cư xử tại buổi trà hội về lời ăn, tiếng nói cho đúng, cách cầm chén trà, cách uống trà, v.v. Khi nào tập thuần thục các điều căn bản xong, học viên sẽ được thực tập làm trà hội và được cấp bằng.
Dưới đây là phần mô tả tổng quát về một buổi trà đạo ngày nay ở Nhật Bản: Buổi trà hội nào dài, có nhiều nghi thức và khách mời là nhân vật quan trọng thì hầu chắc sẽ được tổ chức trong nhà, trên các tấm rơm rạ đệm chắc như tấm gỗ, gọi là tatami. Chủ nhân mặc kimono, trong khi khách có thể mặc kimono hay trang phục đúng đắn thông thường. Tuy nhiên, khi đi học về trà đạo thì kimono vẫn còn là loại y phục bắt buộc bởi vì một số động tác trong nghi thức trà hội xuất phát từ trang phục kimono.
Nếu trà được phục vụ trong một trà thất riêng thì khách sẽ chờ ở ngoài vườn. Khách sẽ làm vệ sinh cơ thể bằng cách rửa tay và súc miệng trước khi đi băng ngang qua vườn để vào trà thất. Giày dép bỏ bên ngoài trà thất và đi vào qua một cửa nhỏ. Kế đó, khách sẽ thưởng thức các tranh vẽ, câu liễn treo trong nhà và được mời ngồi trên tatami theo trật tự lớn nhỏ, và ngồi theo kiểu Nhật, gọi là seiza (quỳ gối xuống, mông đặt trên gót chân, hai tay đặt trên đùi).
[1] 信哉!其水,用山水上,江水中,井水下: Tín tai! Kỳ thủy, dụng sơn thủy thượng, giang thủy trung, tỉnh thủy hạ [2] Trích từ http://www.gutenberg.org/etext/7406. Người viết dịch ra tiếng Hán Việt và chú nghĩa tiếng Việt. [3] TenRen’s Lu Yu Tea Institute in Taiwan was established in 1970 with the goal of developing and refining Chinese tea culture. The Lu Yu Tea Institue has been the leader in the research, systemization, and development of tea equipment and tea brewing techniques. It has helped to educate many in Taiwan, Japan, Korea, and elsewhere in the proper methods and techniques of Chinese tea culture.
[4] http://en.wikipedia.org/wiki/Chado: Sen No Rikyu là thầy dạy về trà cho Hideyoshi nhưng do ganh tỵ của các thuộc hạ khác của Hideyoshi nên cuối cùng ông phải mổ bụng tự sát. Ngày nay, trường dạy trà đạo lớn nhất Nhật Bản, Urasenke, do truyền nhân thế hệ thứ 16 của Riyku tên là Zabosai Sen Sosh*tsu XVI điều khiển.
[5] http://en.wikipedia.org/wiki/Green_tea Còn tiếp ... Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 15/Dec/2013 lúc 7:23am |
||
mk
|
||
![]() |
||
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
|
tiếp theo.... ======
Khách có thể sẽ được mời dùng bữa với món ăn nhẹ, và uống rượu đế Nhật (sake). Sau đó họ quay trở về phòng chờ đợi. Nếu không có ăn nhẹ, khách sẽ được phục vụ bánh ngọt.
Tất cả trà cụ như: ấm trà, cây quậy trà, chén trà, v.v. sẽ được rửa trước mặt khách theo một số động tác được qui định rõ ràng. Khi xong nghi thức rửa và sắp xếp trà cụ, chủ nhân sẽ lấy trà bỏ vào chén, đổ nước sôi vào và quậy trà. Suốt thời gian này, nói chuyện được giảm thiểu tối đa. Khách thả lỏng và thưởng thức không khí chung quanh tạo ra bởi âm thanh của nước và lửa, hương thơm của nhang và trà, nét đẹp đơn giản của trà thất cùng sự hài hòa của trang trí với thời tiết và màu sắc.
Kế đó, chủ nhân mời người khách danh dự uống trà. Hai bên sẽ trao đổi chén trà, rồi người khách danh dự sẽ cúi chào người khách kế và cứ thế mà tiếp tục cúi chào và mời trà lẫn nhau. Họ có thể chỉ dùng một chén trà, hoặc mỗi người dùng riêng chén của mình.
Sau khi phục vụ trà, chủ nhân lau rửa trà cụ để dọn dẹp. Người khách danh dự sẽ yêu cầu chủ nhân cho phép các khách xem xét trà cụ, và mỗi người khách sẽ thay phiên nhau nâng niu, xem xét, và khen ngợi trà cụ. Sau đó chủ nhân cúi chào mọi người và chấm dứt buổi lễ trà. Tùy theo tầm quan trọng và thức ăn phục vụ mà một buổi trà hội có thể kéo dài từ một đến bốn giờ đồng hồ.
4.Tiến trình phát triển của trà ở Ấn Độ và Anh quốc
Người Anh mới biết đến trà khoảng 350 năm nhưng ngày nay, trà là một thức uống hầu như tối cần thiết trong mọi hoàn cảnh ở Anh quốc: người ta thưởng thức trà bất kể sáng trưa chiều tối.
Đi ngược dòng thời gian, vào giữa thế kỷ XVII, các thương gia Bồ Đào Nha nhập cảng trà từ Trung quốc vào nước và rất nhanh chóng, trà trở nên một loại nước uống phổ thông được ưa chuộng mà thoạt đầu chỉ phổ biến trong triều đình và giới quý tộc Bồ Đào Nha, rồi sau đó lan ra các nước lân cận. Thế nhưng vì một lý do nào đó, dân Anh vẫn chưa biết đến trà:
Nhà văn Anh nổi tiếng Samuel Pepys - sau khi thảo luận công việc ngoại thương xong- lần đầu tiên nói đến việc uống trà ở trang nhật ký ngày 25-9-1660, 'Sau đó họ gửi cho tôi một loại nước uống của Trung quốc mà tôi chưa bao giờ uống qua.' Bởi vì Pepys là một người giàu có và rất thời trang ở London nên sự không biết về trà của ông cho thấy trà hãy còn là chuyện lạ vào thời điểm đó." [1]
Năm 1660, Charles II lên ngôi vua Anh quốc trong tình trạng chính phủ mang nợ nghiêm trọng. Giải pháp được bàn đến là Charles II cưới một công chúa ngoại quốc giàu có nhằm kiếm của hồi môn để trả nợ. Sau các cuộc thương thảo với Bồ Đào Nha, điều được thỏa thuận là Charles II sẽ cưới công chúa Catherine, và cha cô là vua John IV sẽ đi lễ bằng vài chiếc tàu đầy lễ vật sang trọng để có thể trả hết nợ cho Charles II, trong đó có bộ ấm trà của triều đình Bồ Đào Nha, và kể cả thành phố Bombay, Ấn Độ mà sau này là một hải cảng quan trọng trong giao dịch thương mại trà và cũng là trụ sở trung ương của Công Ty Đông Ấn.
Catherine đến Portsmouth, Anh quốc, ngày 13-5-1662 và một tuần lễ sau đó thì thành hôn với vua Charles II. Lúc đầu, Catherine, một tín đồ Thiên chúa nền nếp, cảm thấy khó mà thích ứng với một triều đình Anh đầy thô tục và dâm ô. Nhưng qua thời gian, Catherine biến cải môi trường sinh hoạt xung quanh và trở thành một kiểu mẫu cho mọi người noi theo. Mặc dù Bà sống ở Anh nhưng vẫn ăn uống theo kiểu Bồ Đào Nha, trong đó trà là thức uống bắt buộc phải có. Dần dần, trà lan rộng ra giới quý tộc và triều đình Anh quốc. Có thể không đúng khi nói rằng Hoàng Hậu Catherine đã du nhập tập quán uống trà vào nước Anh quốc nhưng chắc chắn Bà đã giữ một vai trò then chốt để trà trở thành một thức uống phổ biến ở mọi tầng lớp dân chúng Anh.
Nói đến tiến trình phát triển trà ở Anh quốc không thể không đề cập đến Công Ty Đông Ấn Anh, thường gọi tắt là Công Ty Đông Ấn (British East India Company), do ảnh hưởng rất lâu dài, sâu rộng cùng tính chất độc quyền đầy uy thế của nó. Chính trong thời đại vua Charles II, trà đã được phổ biến rộng rãi, đặt nền móng cho việc nhập cảng trà vào Anh thể hiện qua các đặc ân ban cho Công Ty Đông Ấn. Trong thực tế, Charles II nới rộng đặc quyền cho Công Ty Đông Ấn, và nếu cần thiết, được sử dụng quân đội để yểm trợ an ninh các cơ sở thương mại ở Ấn Độ. Vào đầu thế kỷ XIX, lực lượng quân sự của Công Ty Đông Ấn đã cùng với quân đội Anh chinh phục khoảng một nửa nước Ấn Độ.
Vào năm 1664, Công Ty Đông Ấn đặt mua lần đầu tiên 100 lbs trà Trung quốc chở từ Java nhập cảng vào Anh. Nguồn cung cấp này tiếp tục đều đặn cho đến năm 1678 thì tràn ngập thị trường với 4,713 lbs và năm 1685, lại tràn ngập thị trường với 12,070 lbs trà nhập cảng. Cái đà này cứ thế mà tiếp tục cho đến cuối thế kỷ XVII. Nhưng thế kỷ XVIII thì thay đổi hẳn. Việc uống trà thực sự trở thành một sinh hoạt toàn dân, và lượng trà nhập cảng của Công Ty Đông Ấn tăng vọt như hỏa tiễn. Vào năm 1750, trà nhập cảng hàng năm lên đến 4,727,992 lbs. [2]
Vào thế kỷ thứ 18, tất cả trà nhập cảng vào Mỹ đều xuất phát từ Anh, và tất cả trà nhập cảng vào Anh đều qua cửa ải của Công Ty Đông Ấn. Vào thập niên 1770, Công Ty Đông Ấn gặp phải nhiều khó khăn tài chính do nạn buôn lậu trà khiến trà tồn kho bị ứ đọng. Để giải quyết, Công Ty xin phép chính phủ Anh xuất cảng trà trực tiếp qua Mỹ, lúc đó là thuộc địa của Anh . Vì Công Ty đang nợ chính phủ một triệu bảng Anh nên để tránh Công Ty khai phá sản, chính phủ thông qua đạo luật Trà (Tea Act) vào năm 1773, cho phép Công Ty xuất cảng trà đã đánh thuế qua Mỹ. Chính phủ Anh đã không dự trù được sức phản ứng của dân Mỹ khi trà bị đánh thuế. Đúng ra, vấn đề thuế trà đã là đề tranh luận sôi nổi tại Mỹ từ nhiều năm. Vào các năm cuối của thập niên 1760, dân Mỹ tẩy chay các hàng hóa bị đánh thuế, và hoặc là mua hàng lậu, hoặc là mua các sản phẩm địa phương để thay thế. Nhiều người Mỹ không tán thành trên nguyên tắc bị đánh thuế bởi một quốc hội không đại diện cho họ. Mặc cho các phản đối, Công Ty Đông Ấn chở trà đến Boston bằng bốn chiếc tàu Dartmouth, Eleanor, Beaver và William. Trong khi các tàu này còn lênh đênh ngoài biển, dân Mỹ đã phản đối dữ dội. Tờ The M***achusetts Gazette đăng tin rằng dân Boston không chấp nhận nhập cảng trà bị đánh thuế và bất cứ ai giúp Công Ty Đông Ấn sẽ bị coi là kẻ thù của Mỹ. Khi tàu Dartmouth đến Mỹ ngày 28-11-1773, dân chúng không chịu cho mang trà lên bờ nếu trà không được miễn thuế. Nhưng nhân viên quan thuế vẫn hoàn tất thủ tục giấy tờ cần thiết để nhập cảng trà. Vài ngày sau, tàu Eleanor cặp bến, còn tàu William bị kẹt gần Cape Cod. Cả ba tàu đều nằm chờ giải quyết. Ngược lại, Thống Đốc M***achusetts, Thomas Hutchinson (có các con làm nhân viên phân phối trà cho Công Ty Đông Ấn) không cho phép tàu rời bến nếu không đóng thuế. Một đội dân quân Mỹ có võ trang đóng tại bến tàu để chặn không cho tàu cặp bến, nhưng về phía chính phủ thì dựng một hàng rào cản để chặn tàu lại, không cho ra khơi. Nhóm phản đối yêu cầu Thống Đốc Thomas Hutchinson cho phép tàu rời bến với trà ở trên tàu nhưng bị từ chối. Chiều tối ngày 16-12, một nhóm người giả dạng làm dân da đỏ (Mohawk American Indians), tụ họp ở bến tàu và trèo lên các tàu, mở tung 342 kiện trà và liệng trà xuống biển trong vòng ba giờ đồng hồ. Trà gửi đến New York và Philadelphia bị gửi về lại London, trong khi trà đã bốc dỡ ở Charleston thì bị để cho hư trong kho hàng. Để trả thù, chính phủ Anh thông qua năm đạo luật vào đầu năm 1774, gọi là các đạo luật không tha thứ (Intolerable Acts). Các phản đối dẫn đến cuộc cách mạng Mỹ (American Revolution) và bản tuyên ngôn độc lập (Declaration of Independence) ký vào ngày 4-7-1776.
Sức cầu trà gia tăng nhưng sức cung bị Công Ty Đông Ấn độc quyền nhập cảng cùng thuế đánh quá nặng khiến giá trà lên cao. Điều này tạo ra áp lực đòi hỏi giá trà cần được hạ xuống, và một khi đòi hỏi này không được đáp ứng một cách hợp pháp thì hiện tượng buôn lậu trà tất nhiên xảy ra. Buôn lậu trà nảy ra như nấm, trà được nhập cảng không qua Công Ty Đông Ấn và không đóng thuế. Do đó, giá trà lậu rẻ hơn và gây thiệt hại nặng cho Công Ty Đông Ấn. Đối phó lại, Công Ty vận động chính phủ cho hạ thuế trà. Khi William Pitt the Younger trở thành Thủ Tướng năm 1783, ông cắt thuế suất trà một phát từ 119% xuống còn 12.5% qua đạo luật Commutation Act năm 1784. [3] Buôn lậu không còn sinh lợi nữa, chấm dứt ngay lập tức; và từ đó, chỉ còn duy nhất Công Ty Đông Ấn nhập cảng trà một cách hợp pháp. Nhưng giá trà vẫn chưa rẻ nên dẫn đến hiện tượng pha chế lá trà với các lá cây khác để có thể giảm giá trà. Có người không ngần ngại tẩm hóa chất vào "trà" để có đúng màu xanh của trà. Để tránh uống trà hóa chất, người ta thiên về việc uống trà đen, đồng thời pha thêm sữa tạo thành một phong cách uống trà ở Tây phương. Có lẽ việc pha chế lá trà là nguồn gốc dẫn đến việc sản xuất loại "trà dược thảo" (herbal tea: hoàn toàn không có một tý trà nào cả) khá thông dụng ngày nay.
Đấu Giá Trà London (London Tea Auction) là một tập quán xảy ra hàng năm, bắt đầu từ năm 1679 mãi cho đến ngày cuối, 29-6-1998. Chính nhờ Đấu Giá Trà London mà London trở thành trung tâm thương mại quốc tế về trà. [4] Các buổi đấu giá đầu tiên do Công Ty Đông Ấn điều khiển, lúc đó độc quyền nhập cảng trà từ Trung quốc và Ấn Độ. Trà được đấu giá bằng "đèn cầy," nghĩa là khi khởi sự đấu giá, người ta đốt một cây đèn cầy và khi cháy còn lại một inch thì gõ búa để chấm dứt đấu giá. Nhưng khi Công Ty Đông Ấn giải thể (năm 1834) thì việc đấu giá trà cũng thay đổi. Trà được gửi đến từ nhiều nơi như: Ấn Độ, Trung quốc, Tích Lan (Sri Lanka) và Phi châu để đấu giá nhưng dần dần bớt đi vì các nhà sản xuất trà muốn bàn trà ngay khi vừa sản xuất xong - thay vì phải chờ đấu giá. Do đó, phương pháp bán đấu giá trà không còn hữu hiệu nữa và người ta quyết định ngày 29-6-1998 là buổi đấu giá cuối cùng. * * *
Khi trà mới du nhập vào Anh vào khoảng năm 1660, việc uống trà trở nên phổ thông ở các quán cà-phê London (London coffee houses), nơi giới giàu có và thương gia thường tụ họp để bàn bạc công việc. Vào giữa giai đoạn 1660-1689, trà bị đánh thuế theo lượng nước được pha ra. Người ta pha trà vào sáng sớm, đóng thuế, rồi chứa trà trong các thùng gỗ lớn, và khi bán thì hâm trà cho nóng. Vì vậy, nếu uống trà vào buổi chiều thì phẩm chất trà đã giảm xuống rất nhiều. Đến năm 1689, thuế không đánh theo lượng nước trà mà theo số lá. Vài tiệm cà-phê bắt đầu bán lá trà để người ta có thể pha trà ở nhà riêng. Tuy nhiên, lúc đó giá trà khá mắc, chỉ có người giàu mới có thể uống trà tại nhà hoặc tổ chức các tiệc trà, đi kèm với các ấm, chén trà bằng sứ Trung quốc hoặc nhôm sang trọng. Cả lục trà và hắc trà đều phổ biến, và đường thường được thêm vào (đường cũng khá mắc); nhưng lúc đó, người ta chưa có thói quen thêm sữa vào trà.
Mặc dù giá trà vào thế kỷ XVII còn quá tầm tay tiêu thụ nhưng đại đa số dân chúng Anh quốc vẫn thích uống trà một cách nồng nhiệt. Giá trà rất đắt đỏ, một phần do sự độc quyền của Công Ty Đông Ấn và phần khác là mức thuế quá cao đánh vào trà. Do đó, nạn buôn lậu trà xuất hiện. Trà lậu thì khỏi đóng thuế, vì thế có thể bán với giá thấp hơn thị trường rất nhiều. Các hệ thống buôn lậu được tổ chức ngày càng tinh vi với các thủ đoạn tàn bạo nhưng đại chúng làm ngơ vì nhu cầu trà quá khẩn thiết. Vào thế kỷ XVIII, người ta ước đoán số trà lậu nhập vào Anh nhiều hơn số nhập hợp pháp. Điều này gây ra hai hậu quả: giá trà rẻ nên mọi tầng lớp dân chúng có thể thưởng thức uống trà và vì dân buôn lậu ở ven biển và phân phối trà lậu vào khắp nơi trong đất liền nên trà được phổ biến rất sâu rộng. Phụ nữ kéo nhau đi ra quán trà để giết thì giờ là hiện tượng phổ biến. Nhưng vấn đề phân chia giai cấp nổi lên: không phải mọi người đều đồng ý đối với việc công nhân uống trà:
Thực vậy, từ thế kỷ XVIII dài cho đến XIX, các nhà bình luận thuộc giới trung lưu và thượng lưu tranh luận về lợi ích của việc uống trà - và đặc biệt là giới công nhân có nên được phép uống trà hay không. Điều này một phần do sự xem xét rằng trà có gây tổn thương cho sức khỏe hay không (phải mất một thời gian trước khi các lợi ích của trà được chứng minh một cách khoa học) nhưng một phần cũng do sự phân biệt giai cấp và niềm tin rằng người nghèo sinh ra là để phục vụ các nhu cầu của người giàu. [5]
Vào thế kỷ XX, vai trò quan trọng của trà đối với người Anh rất rõ ràng. Chính phủ nhìn nhận điều này trong WW I. Trước hết trà được chia theo khẩu phần, và giá trà tăng vọt do các tàu chở trà bị Đức đánh đắm, vì thế chính phủ đảm nhận trách nhiệm nhập cảng và kiểm soát giá cả trà. Trong WW II, chỉ hai ngày trước khi bùng nổ chiến tranh, chính phủ can thiệp sâu hơn bằng cách chiếm quyền quản trị trà và lượng trà dự trữ ở London phải phân tán ra các kho hàng ngoài thủ đô để tránh bị bỏ bom. Trong năm 1940, khi kẻ thù phong tỏa đường biển, Bộ Lương Thực (Minstry of Food) áp dụng khẩu phần 2oz trà cho mỗi đầu người trên năm tuổi/tuần lễ. 2oz trà không phải là nhiều, chỉ đủ cho hai hay ba tách trà pha nhợt nhạt nhưng quân đội thì được chia nhiều hơn. Chiến tranh chấm dứt vào năm 1945 vẫn chưa chấm dứt chế độ khẩu phần, và trà còn được chia mãi cho đến tháng 10-1952.
Đến năm 1953, các túi trà (tea bag) do Mỹ sáng chế bắt đầu thay đổi tận gốc rễ tập quán uống trà của người Anh: Không cần phải nói, do ưa chuộng dùng dụng cụ thay cho sức lao động nên Mỹ chính là nơi đầu tiên sáng chế túi trà. Năm 1908, Thomas Sullivan, một thương gia trà ở New York, bắt đầu gửi cho khách hàng các mẫu trà trong túi tơ nhỏ. Rồi vài khách hàng đề nghị ngâm nguyên cả túi tơ trà vào ấm thay vì phải lấy trà ra. Do đó, túi trà ngẫu nhiên thành hình! Đáp ứng lời nhận xét của khách hàng về túi tơ có mắt lưới rất tiện dụng, lần đầu tiên Sullivan chế ra bọc vải sa với mục đích làm túi trà. Trong thập niên 1920, các túi bọc vải này được dùng như sản phẩm thương mại, và trở nên phổ biến ở Mỹ. Đầu tiên làm bằng vải sa và sau đó bằng giấy, các bọc này có hai khổ cỡ: cỡ lớn dành cho cả ấm trà và cỡ nhỏ hơn để pha một tách. [6]
Các đặc điểm như một sợi chỉ nhỏ treo lủng lẳng ở đầu túi trà một chút trang trí chung quanh đã có sẵn ngay từ lúc mới sáng tạo và vẫn còn giữ cho đến ngày nay, ngay cả các chỉ dẫn cách dùng cũng được in rõ ràng trên bao túi trà. Thí dụ chỉ dẫn sau đây của túi trà Chinese White Tea:
Chỉ dẫn pha trà: Dùng một túi trà cho một tách. Nấu sôi nước, rồi để nguội từ 1 đến 2 phút. Đổ nước vào túi trà. Để có hiệu quả tốt nhất, nước nên nóng ở 176 độ F (tức 80 độ C) khi đổ nước vào trà. Ngâm trà từ 2 đến 5 phút - tùy ý thích - trước khi lấy túi trà vất bỏ. [7]
Túi trà đáp ứng tin tưởng rằng để vị trà được ngon nhất thì sau khi ngâm trong nước nóng, các lá trà phải được lấy ra khỏi ấm hay tách nước để tránh vị trà trở nên đắng do ngâm lâu hơn năm phút. Ngoài ra, túi trà còn thêm phần tiện lợi là có thể pha trong một tách nước hoặc ấm trà, và như vậy, có thể giữ sạch sẽ một cách dễ dàng. Trà ở Ấn Độ phát triển rất nhanh và mạnh nhờ Anh quốc và ngày nay là một quốc gia xuất cảng trà lớn nhất thế giới. Trong thập niên 1960, chỉ có 3% túi trà trên thị trường Anh quốc nhưng tỷ lệ này gia tăng đều đặn; người ta ước tính năm 2007, tỷ lệ này sẽ lên đến 96% tổng số trà được bán ra. [1] http://www.tea.co.uk/: "The famous English diarist Samuel Pepys first mentioned drinking tea in his diary entry for 25 September 1660. He wrote that he had been discussing foreign affairs with some friends, 'And afterwards did send for a Cupp of Tee (a China drink) of which I never drank before'. Since Pepys was a member of the wealthy and fashionable London set, his failure to mention tea earlier suggests that it was still unusual at this time."
[2] http://www.tea.co.uk/: "In 1664 the East India Company placed its first order for tea - for 100lbs of China tea to be shipped from Java for import into Britain. This steady supply continued until 1678, when an import of 4,713lbs swamped the market until 1685, when 12,070lbs was imported, swamping the market again. This pattern continued until the end of the century. But the eighteenth century was very different. Tea drinking really took hold as an activity for the whole population, and the East India Company's imports rocketed. By 1750, annual imports had reached 4,727,992lbs."
[3] http://www.tea.co.uk/: "The Commutation Act of 1784 at one stroke reduced the tax on tea from 119 per cent to 12.5 per cent." [4] http://www.tea.co.uk/: "From the very first event in 1679, until the last sale on 29 June 1998, the London Tea Auction was a regular event that made London the centre of the international tea trade."
[5] http://www.tea.co.uk/http: "Indeed, from the early eighteenth century well into the nineteenth century a debate raged among middle- and upper-cl*** commentators about the benefits or otherwise of tea drinking - and particularly about whether the lower cl***es should be allowed to drink tea at all. This was partly based upon a consideration of whether tea might be injurious to health (it was a long time before the benefits of tea to health would be scientifically proven) but also partly based upon snobbery and a belief that the poor existed essentially to serve the needs of the rich." [6] http://www.tea.co.uk/ "Needless to say, it was in America, with its love of labour-saving devices, that tea bags were first developed. In around 1908, Thomas Sullivan, a New York tea merchant, started to send samples of tea to his customers in small silken bags. Some ***umed that these were supposed to be used in the same way as the metal infusers, by putting the entire bag into the pot, rather than emptying out the contents. It was thus by accident that the tea bag was born! Responding to the comments from his customers that the mesh on the silk was too fine, Sullivan developed sachets made of gauze - the first purpose-made tea bags. During the 1920s these were developed for commercial production, and the bags grew in popularity in the USA. Made first of all from gauze and later from paper, they came in two sizes, a larger bag for the pot, a smaller one for the cup."
[7] Recommended Brewing Instructions: Use one tea bag per cup. Boil water then allow water to cool for 1 to 2 minutes. Pour water over tea bag. For best results water should be 176 F (80 C) when poured over tea. Allow tea to steep for 2 to 5 minutes as desired before removing bag. Còn tiếp .... Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 15/Dec/2013 lúc 7:29am |
||
mk
|
||
![]() |
||
mykieu
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
![]() ![]() ![]() |
|
Tiếp theo... =============== 5.Cách chế biến trà
Căn bản chỉ có bốn loại trà mà thôi. Tất cả các loại trà đều chế biến từ một lá trà nhưng khác nhau là do diễn trình chế biến, nghĩa là lá trà được oxy-hóa nhiều hay ít. Dưới đây là sơ đồ chế biến: [1]
Nghĩa: Làm khô Sấy Bạch trà
Sấy (ướp thêm hoa lài hoặc Làm khô Rang Cuốn tròn Lục trà Lá trà tươi Lựa (thường) Hấp hoặc nấu tạo hình Rửa
Làm khô Lắc hay cuộn Lên men Rang Sấy Ô long trà trong giỏ để dập lá trà vừa
Làm khô Cuốn thành Lên men Nấu rẻo nhỏ hay hoàn toàn (Sấy) Hắc trà cắt vụn
Sau khí hái, nếu không được sấy khô nhanh chóng thì lá trà sẽ bị héo và oxy-hóa; lá dần dần sậm màu vì chất lục diệp tố (chlorophyll) tan rã. Danh từ lên men (fermentation) được dùng để mô tả diễn trình này mặc dù không thực sự có men. Nếu không cẩn thận kiểm soát nhiệt độ và độ ẩm, nấm trà sẽ xảy ra; đó là lúc mà trà thực sự lên men và nhiễm độc. Tùy theo mức độ oxy-hóa hay lên men mà có các loại trà sau đây:
Bạch trà (白茶): Lá trà non hay đọt trà không trải qua diễn trình oxy-hóa; búp trà được che nắng để tránh bị lục diệp hóa. Vì thế, bạch trà không sản xuất được nhiều, giá mắc hơn các loại trà khác. Lục trà (綠茶): Nước trà có màu xanh lẫn màu vàng nên gọi là lục (green tea). Diễn trình oxy-hóa tối thiểu bằng cách hấp theo phương pháp cổ truyền Nhật Bản hoặc sấy khô trong chảo theo kiểu cổ truyền Trung quốc.
Ô long trà (烏龍茶): Diễn trình oxy-hóa ngưng ở giữa giai đoạn làm lục trà và hắc trà, thường mất từ hai đến ba ngày.
Hắc trà/Hồng trà (紅茶) : Lá trà được oxy-hóa hoàn toàn. Hắc trà rất phổ biến ở phía Nam Á châu (India, Sri Lanka, Bangladesh, Pakistan, v.v.) và Phi châu (Kenya, Burundi, Rwanda, Malawi và Zimbabwe). Người Trung quốc gọi loại trà này là hồng trà bởi vì nước trà thực sự có màu đỏ, trong khi người Tây phương gọi là hắc trà vì các lá trà được dùng để chế loại trà này có màu đen.
Hoàng trà (黃茶) : Nước trà có màu vàng. Đây là loại trà thượng hạng để triều đình uống, diễn trình chế biến giống như lục trà nhưng sấy chậm hơn nhiều. Ngoài ra còn có một loại trà rất đặc biệt và đắt tiền là Phổ Nhị trà (普洱茶).
Có hai loại trà Phổ Nhị: loại sống (sanh 生) và loại chín kỹ (thục 熟). Người sành điệu chuộng mua loại trà làm từ các vùng núi Vân Nam (lục đại trà sơn 六大茶山), và phải từ cây trà được trồng trên núi thật cao, lá trà phải lớn (大葉 đại diệp) và không được pha trộn với các lá trà khác. Trà Phổ Nhị thường được nén thành nhiều hình dạng như thỏi bánh, đĩa, hình tròn hoặc hình nấm. Tùy theo diễn trình chế biến mà có bốn loại trà Phổ Nhị như sau:
-Mao trà (毛茶): là loại lá trà Phổ Nhị để rời ra mà bán. Đây là loại trà Phổ Nhị sống trước khi được chế biến thành bánh hay viên tròn. -Lục trà Phổ Nhị: là mao trà được ép lại thành bánh hay viên tròn. -Thục trà Phổ Nhị: Ép mao trà lại, cho lên men trong thời gian có thể lên tới một năm. -Thục trà Phổ Nhị lâu năm: là mao trà trải qua một quá trình oxy-hóa lần thứ nhì.
Hầu hết trà đều nên sử dụng trong vòng một năm kể từ ngày sản xuất nhưng trà Phổ Nhị có thể được lưu trữ lâu hơn, càng lâu mùi vị càng ngon: 30 đến 50 năm đối với trà Phổ Nhị sống và 10 đến 15 năm đối với trà Phổ Nhị chín. Trà Phổ Nhị để lâu năm có thể bán tới vài ngàn đô la một bánh. Người ta tin rằng trà Phổ Nhị có thể dùng để chữa trị chứng khó tiêu, giải rượu, ho, bao tử, cao huyết áp, cân bằng khí âm dương và giảm cân. Trà Phổ Nhị thường được người Trung quốc gọi là hắc trà (黑茶), không nên lộn với tiếng Anh black tea, tức là hồng trà trong tiếng Hán (red tea 紅茶).
6.Cách pha trà:
Lượng trà bao nhiêu hiển nhiên là quan trọng; tùy theo sở thích đậm hay lạt mà ấn định lượng trà. Đã gọi là sở thích thì không thể bàn được.
Tùy theo từng loại trà mà ngâm trong nước nóng, từ 30 giây đến 5 phút, và cũng tùy theo khẩu vị của từng người và tình trạng tâm lý cũng như sức khỏe lúc uống trà của cá nhân mà ngâm trà lâu hay mau. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là không nên ngâm lâu quá để tránh uống nước trà đắng. Nguyên tắc là nước trà để lâu quá thì các hóa chất trong trà sẽ thay đổi. Theo báo cáo của J. M. T. Hamilton-Miller, "hợp chất polyphenols bị oxy-hóa trong trà thường được gọi là tannin. Tuy nhiên, nên nhấn mạnh là không giống như vài hợp chất từ các cây khác cũng được gọi bằng tên chung này, hợp chất tannins của trà không độc hại. Trái với tin tưởng phổ biến, trà không chứa tannic acid." [2]
Việc thêm sữa, đường, hay ngay cả kem vào nước trà xuất phát từ các thuộc địa của Anh quốc như Hong Kong và Ấn Độ vào thế kỷ XIX và XX. Thông thường người ta cho sữa từ từ vào tách trà, khi nào thấy màu trà ưng ý thì ngưng. Người ta cũng thêm mật ong, chanh hoặc mứt trái cây, hoặc ở các xứ lạnh như: Mông Cổ, Tây Tạng và Nepal còn cho cả bơ vào trà.
Trà cần được tích chứa ở nơi tối, khô ráo, và có nhiệt độ thấp. Hắc trà có thể giữ trong vòng hai năm, lục trà trong một năm. Chỉ có loại trà Phổ Nhị là để được nhiều năm (10 đến 50 năm), càng lâu uống càng ngon. Dưới đây là cách pha trà của hãng Thiên Nhân [3]:
2.Tráng bằng nước sôi để cho ấm
chén nóng đều, trà pha ngon hơn.
Khi châm nước vào ấm, cũng nên quá tay một chút để nước tràn ra ngoài và khi đậy vung vào, nước lại trào ra một lần nữa. Lúc đó mới tưới thêm cho ướt cả ấm. Nhìn những giọt nước bên ngoài bốc hơi nghi ngút cũng là một cái thú và cũng là một cách để lượng định thời gian chờ ngấm trà. Nước đầu tiên rửa trà phải đổ đi, nước thứ hai và nước thứ ba ngon hơn cả. Trà ngon có thể uống đến nước thứ bảy, thứ tám. Khi uống xong làm thế nào phải còn đủ nước để rửa ấm, rửa ly một lần nữa trước khi cất. Pha trà là một công việc mà ngưòi ta phải tiết độ, nhịp nhàng. Nếu nói rằng ngoại vật ảnh hưởng đến tâm hồn thì đây cũng là lúc để cho lòng mình lắng dịu. Về trà, trà ngon bao giờ hơi lên cũng đượm. Có loại thì thơm ngát, nhẹ nhàng thanh thoát như mùi lan, có loại lại thơm nồng như da thịt một đứa trẻ bụ bẫm (theo mô tả của Lâm Ngữ Đường). Trà ướp thường là thứ phẩm, dẫu là ướp sâm. Uống trà cũng ít ai ăn thêm đồ khác như bánh kẹo. Trà đắt tiền, bán tại những tiệm trà lớn thường có cái hương vị riêng độc đáo. Loại thượng phẩm, trăm rưỡi hai trăm một pound, tính ra cũng không phải là quá đắt.
Các luật pha trà nghiêm ngặt của Lục Vũ và nghi thức trà đạo của Nhật Bản dường như quái lạ đối với người Tây phương, nhưng trong cách nào đó họ không khác nhau mấy. Lục Vũ quan tâm đến việc pha trà trong một khung cảnh tĩnh lặng và cách uống trà lại càng nên tĩnh lặng. Trà đạo cũng vậy. Trong khi hầu hết người uống trà Tây phương ngày nay đồng ý rằng cách pha trà tương tự như thế có thể mang đến sự yên bình vào lúc bị căng thẳng - và rằng chính ngay thức uống có thể gia tăng cảm giác tĩnh lặng. Chúng ta có thể không cần đến 24 tiết mục, cũng không phải lấy nước suối ở núi nhưng một chén trà ngon vẫn là một cách thưởng thức thú vị trong giây lát bình yên.
7.Lợi ích của trà
Trà có các chất: catechins, caffeine, theobromine, theophylline và fluoride. Tác dụng dược lý của các hóa chất nêu trên được nói đến rất nhiều - chưa hẳn đã đúng mà cũng chưa hẳn đã sai - thôi thì cứ liệt kê như sau để tham khảo:
- Chống lão hóa, lá trà tươi chứa tới 30% catechins, giữ được nhiều trong bạch trà và lục trà còn hắc trà và ô long trà thì bị giảm đi nhiều do quá trình oxy-hóa. - Fluoride: giúp chống bị sâu răng. - Ngăn chặn một số chứng bệnh về thần kinh như Alzheimer và Parkinson. - Ngừa và chữa ung thư. - Giảm tác dụng tiêu cực của LDL cholesterol và tăng HDL cholesterol. - Gia tăng khẩu vị nhờ chất catechins trong trà. - Đốt từ 70 đến 80 calories dư thừa nếu uống năm tách lục trà mỗi ngày. -Giảm cân.
Trên quan điểm phân chất của J. M. T. Hamilton-Miller thì "các hóa chất của trà rất phức tạp và chưa được hiểu biết đầy đủ. Các cuộc điều tra chi tiết đã thực hiện chính yếu nhằm tìm hiểu mùi vị đặc biệt của trà; kết quả của các nghiên cứu này có thể áp dụng cho việc nghiên cứu về vi trùng học và các nguyên tắc tác động dược lý. Con đường áp dụng trà vào việc chữa bệnh hãy còn dài, nhưng có nhiều dẫn chứng hứa hẹn trong lãnh vực răng." [4] Ngày 30-6-2005, khi trả lời bài "Lục trà và tuyên bố về tác dụng giảm nguy cơ ung thư," cơ quan Quản Trị Thuốc và Thực Phẩm Mỹ (US Food and Drug Administration - FDA) viết:
"FDA kết luận rằng không có bằng chứng khả tín để hậu thuẫn cho các tuyên bố bảo vệ sức khỏe qua việc uống lục trà và giảm nguy cơ ung thư dạ dày, phổi, ruột già, thực quản, lá lách, tử cung, và các chứng ung thư khác. Vì vậy, FDS bác bỏ các tuyên bố này. Tuy nhiên, FDA kết luận rằng có rất ít bằng chứng đáng tin và rất giới hạn đối với các tuyên bố bảo vệ sức khỏe của lục trà đối với ung thư vú, của lục trà đối với ung thư nhiếp hộ tuyến, bởi lẽ các tuyên bố bảo vệ sức khỏe đã được viết một cách chừng mực để không bị cho là dối trá người tiêu thụ." [5]
Dưới đây là một số nghiên cứu khoa học tìm thấy trên internet, và lẽ tất nhiên chúng ta rất khó biết được trúng trật ra sao! Tuy nhiên, tôi vẫn liệt kê ra đây để tham khảo:
Theo WebMD Medical News, April 23, 2002, lục trà có thể giúp ngừa thất bại khi ghép gan. Hiện nay, có nhiều bệnh nhân cần được ghép gan (liver transplant) nhưng vấn đề là gan được biếu tặng thường liên quan đến các tai nạn, và hầu hết tai nạn lại liên quan đến rượu khiến các gan này không thể sử dụng được. Zhi Zhong, PhD, từ University of North Carolina, và các cộng sự viên lưu ý đến các chất chống oxy-hóa có trong lục trà để giúp rửa lá gan bị nhiễm rượu. Trước hết, họ cho chuột uống rượu. Sau đó, con chuột bị say sẽ bị giết để lấy gan ra. Lá gan nhiễm rượu này được giữ lạnh trong 24 giờ, và vài lá được rửa với một hợp chất có chứa tinh chất của lục trà. Sau đó, họ thực hiện ghép gan cho một nhóm chuột với các lá gan được rửa và một nhóm chuột khác với các lá gan bình thường. Kết quả: với các lá gan nhiễm rượu, chỉ có 13% chuột sống so với 88% chuột sống với các lá gan bình thường. Nhưng tỷ lệ chuột sống tăng lên 77% đối với các chuột được ghép với các lá gan đã được rửa với tinh chất của lục trà. [6]
Một nghiên cứu đăng trong số tháng 1-2005 của tờ American Journal of Clinical Nutrition kết luận "Tiêu thụ trà có chứa 690 mg catechins mỗi ngày trong 12 tuần lễ sẽ giảm bớt mỡ, nghĩa là uống catechins vào có thể có ích lợi cho việc phòng ngừa và cải thiện nhiều chứng bệnh, nhất là bệnh béo phì."
Theo một nghiên cứu đăng trong số tháng 4-2005 của tờ Proceedings of the National Academy of Sciences, các chất chống oxy-hóa trong lục trà có thể phòng ngừa và giảm bệnh đau thấp khớp. Cuộc nghiên cứu này thử nghiệm tác dụng của chất polyphenols trong lục trà trên chứng đau thấp khớp của chuột, tương tự như của người. Trong ba nhóm chuột khác nhau thì nhóm chuột được cho uống chất polyphenols của lục trà giảm chứng thấp khớp thấy rõ. Trong 18 con chuột uống lục trà, chỉ có tám con (44%) bị thấp khớp. Trong 18 con chuột không uống lục trà, tất cả 17 con (94%) bị thấp khớp. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu ghi nhận trong tám con chuột bị thấp khớp thì chỉ bị loại thấp khớp loại nhẹ.
Web site của tổ chức American Chemical Society đăng trong số tháng 5-2005 một báo cáo rằng trà có thể giúp ngừa bệnh tiểu đường và cườm mắt. Các nhà khảo cứu cho các con chuột bị bệnh tiểu đường uống lục trà và hắc trà và sau đo, theo dõi máu và mắt của chuột. Ở mức khoảng năm chén trà mỗi ngày, sự thành lập cườm mắt ở nhóm chuột được uống trà đã bị ngăn chặn so với nhóm chuột không uống trà. Họ tìm thấy rằng cả hai loại trà giảm mức đường glucose, qua đó ảnh hưởng đến các hóa chất làm gia tăng chứng tiểu đường.
Tháng 5- 2006, các nhà nghiên cứu ở Đại học Y khoa Yale (Yale University School of Medicine) lưu ý đến một bảng duyệt xét trên hơn 100 nghiên cứu về lợi ích sức khỏe của lục trà. Họ nêu rõ một "nghịch lý Á châu" ("Asian paradox") liên quan đến tỷ lệ thấp về bệnh ung thư và tim trong khi tỷ lệ hút thuốc lá lại cao. Họ lý luận rằng đó là nhờ một lượng lớn chất polyphenols và các chất chống oxy-hóa có trong 1.2 lít nước lục trà mà người Á châu tiêu thụ mỗi ngày. Trong Journal of the American Medical ***ociation, số tháng 5-2006, họ cho rằng các hợp chất này có thể tác động trong cách nào đó để cải thiện tình trạng tim, bao gồm việc ngăn chặn máu đóng cục với nhau và cải thiện mức cholesterol. Nói cụ thể, lục trà có thể ngăn chặn hiện tượng oxy-hóa của loại cholesterol xấu LDL, và qua đó mà giảm tắc nghẽn mạch máu.
Năm 2006 một nghiên cứu đăng trong Journal of the American Medical ***ociation, số ngày 13 tháng 9 kết luận rằng "Uống lục trà có tác dụng đến việc giảm tử vong vì mọi lý do hay vì chứng đau tim nhưng không giảm tử vong vì ung thư." [7] Nghiên cứu này do Tohoku University School of Public Policy ở Nhật Bản thực hiện vào năm 1994 trên một mẫu có 40,530 người Nhật, lứa tuổi 40-79, chưa từng bị các chứng bệnh về tim hoặc ung thư. Những người uống mỗi ngày từ năm tách lục trà trở lên có tỷ lệ tử vong thấp hơn những người không uống lục trà. Cuộc nghiên cứu cũng khẳng định, "Nếu lục trà không bảo vệ con người chống các chứng bệnh tim (cardiovascular diseases - CVD) hoặc ung thư, thì có thể hy vọng rằng việc uống trà sẽ đóng góp to lớn vào việc kéo dài tuổi thọ, dựa trên dữ kiện CVD và ung thư là hai nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử vong."
8.Kết luận
Dưới đây là các điểm then chốt về trà do cơ quan Quản Trị Thuốc và Thực Phẩm Mỹ (US Food and Drug Administration - FDA) viết:
1. Các chất chống oxy-hóa có trong trà - gọi là catechins - có thể ngăn chặn sự phát triển ung thư.
2. Trong các thí nghiệm sử dụng thú vật, catechins vét các chất oxy-hóa trước khi tế bào bị hư hại, giảm số lượng và khổ cỡ của ung bướu, và ngăn chặn sự phát triển tế bào ung thư.
3. Tuy nhiên, trong các thí nghiệm trên con người thì kết quả mâu thuẫn hơn, có thể do nhiều yếu tố như sự khác nhau trong ăn uống, môi trường và dân số.
4. Các nhà nghiên cứu của cơ quan NCI (National Cancer Institute) của chánh phủ Mỹ đang điều tra phương pháp trị liệu và phòng ngừa qua sử dụng chất catechins có trong trà để chống một số bệnh ung thư.
Uống trà là một tập quán cả 5,000 năm qua ở Trung quốc và Ấn Độ. Từ lâu, họ xem trà như một trợ lực cho sức khỏe, và ngày nay, các nhà nghiên cứu đang tìm hiểu xem trà có thể được dùng để chống các chứng ung thư hay không. Họ đặc biệt quan tâm đến các chất chống oxy-hóa có trong trà - gọi là catechins. Tuy nhiên, mặc dù các cuộc nghiên cứu trong phòng thí nghiệm trước đây có vẻ hứa hẹn nhưng cho đến nay, các nghiên cứu trên con người không đạt được kết quả nào. [8]
California, April 2007 Phạm Văn Bân [1] http://en.wikipedia.org/wiki/ [2] J. M. T. Hamilton-Miller, Antimicrobial Properties of Tea (Camellia sinensis L.), Department of Medical Microbiology, Royal Free Hospital School of Medicine, London NW3 2QG, United Kingdom: The complex of oxidized polyphenols in tea is often called "tannin" (20). It should be stressed, however, that unlike some compounds from other plants also given this generic name, tea tannins are not harmful. Contrary to widespread belief, tea does not contain tannic acid (39).
Reference (20): Kirk, R. E., and D. F. Othmer. 1980. Encyclopedia of chemical technology, 3rd ed., vol. 22. p. 628–648. John Wiley & Sons, Inc., New York. Reference (39): Stagg, G. V. 1980. Tea—the elements of a cuppa. Nutr. Bull. 29:233–245.
[3] Nguyễn Duy Chính, Trà Tàu và Ấm Nghi Hưng, http://www.quangio.com, mục Quán Gió 2001.
[4] J. M. T. Hamilton-Miller, đã dẫn: "The chemical composition of tea is complex and not completely understood. The detailed investigations which have been made were done mainly to understand how tea gets its characteristic flavor and appearance; the results can be applied to the search for the antimicrobial and pharmacologically active principles. The use of tea is clearly still a long way from clinical application, but there are promising leads in the dental context."
[5] On June 30, 2005, in response to "Green Tea and Reduced Risk of Cancer Health Claim", they stated: "FDA concludes that there is no credible evidence to support qualified health claims for green tea consumption and a reduced risk of gastric, lung, colon/rectal, esophageal, pancreatic, ovarian, and combined cancers. Thus, FDA is denying these claims. However, FDA concludes that there is very limited credible evidence for qualified health claims specifically for green tea and breast cancer and for green tea and prostate cancer, provided that the qualified health claims are appropriately worded so as to not mislead consumers."
[6] http://www.physorg.com [7] A 2006 study published in the September 13 issue of the Journal of the American Medical ***ociation concluded "Green tea consumption is ***ociated with reduced mortality due to all causes and due to cardiovascular disease but not with reduced mortality due to cancer."
[8] http://www.cancer.gov/cancertopics/factsheet/tea-and-cancer-prevention. Key Points:
1. The antioxidants found in tea--called catechins--may selectively inhibit the growth of cancer.
2. In laboratory studies using animals, catechins scavenged oxidants before cell damage occurred, reduced the number and size of tumors, and inhibited the growth of cancer cells.
3. However, human studies have proven more contradictory, perhaps due to such factors as variances in diet, environments, and populations.
4. NCI researchers are investigating the therapeutic and preventive use of tea catechins against a variety of cancers.
Tea drinking is an ancient tradition dating back 5,000 years in China and India. Long regarded in those cultures as an aid to good health, researchers now are studying tea for possible use in the prevention and treatment of a variety of cancers. Investigators are especially interested in the antioxidants-called catechins-found in tea. Despite promising early research in the laboratory, however, studies involving humans so far have been inconclusive.
|
||
mk
|
||
![]() |
||
lo cong
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 30/Oct/2007 Đến từ: Canada Thành viên: OffLine Số bài: 2596 |
![]() ![]() ![]() |
|
Uống Trà và Đọc KinhNgười tu có nhiều niềm vui giản dị. Uống trà chẳng hạn. Pha ấm trà ngon là cả một công phu. Có người có trà thơm, ấm tốt, nhưng không biết cách pha. Phải học. Không phải học cách pha trà. Mà là học cách uống. Trước tiên cần tập ngồi cho yên. Vừa cầm chén trà, vừa đi tới đi lui lăng xăng thì trà ngon cách mấy cũng uổng phí. Tập ngồi yên, tức là tĩnh tọa, hay ngồi thiền. Đến chùa, đôi khi ta được thầy đãi trà. Uống trà với thầy, ta học từ thầy cách ngồi yên. Đôi khi, một sư chú phải học ngồi uống trà với sư anh đến mấy năm, mới bắt đầu được sư anh cho pha trà. Ngồi yên thì tâm cũng yên. Tâm yên rồi thì rửa bình, rửa chén và bắt đầu pha trà đi! Nhiều khi trà không ngon lắm, nhưng biết cách pha thì vẫn thưởng thức được trọn vẹn hương và vị của nó. Ngược lại, trà ngon mà tâm còn đầy bụi trần thì pha ra vẫn lạt phèo. Một thú vui khác của người tu là đọc kinh. Đọc kinh cũng không khác uống trà gì mấy. Cuốn kinh vẫn nằm đó. Nhưng không phải ai lật kinh ra đều thấy chữ. Chữ trong kinh khác với chữ nghĩa nơi các cuốn sách thường. Chữ trong kinh là hoa trái của công phu. Người nào có công phu tu tập, nhìn vào kinh, chữ nghĩa đổi mới hoài. Mỗi lần đọc là một lần khám phá. Như vậy ta cần học đọc kinh, cũng như học cách pha trà. Có một thầy cho rằng thời buổi này giảng dạy các vị cư sĩ khó quá. Họ thuộc kinh còn giỏi hơn các thầy nữa. Tôi nói: ‘Đúng chớ. Đâu phải là tu sĩ mới hiểu kinh đâu. Nhưng không phải ai đọc kinh cũng hiểu nghĩa. Phải có tu tập. Không có tu tập thì đọc kinh càng nhiều, càng có nhiều hiểu lầm.’ Tuy vậy, ta vẫn phải giảng. Tại vì khi giảng kinh, ta nói từ những khám phá của chính ta. Những khám phá đó, có công năng làm cho người nghe thấy ra hướng thoát khổ. Nhiều khi người ta tụng một bài kinh thôi. Tụng hoài cả mấy chục năm nhưng không hiểu nghĩa. Hoặc có hiểu nghĩa thì cái hiểu đó không tiến thêm được chút nào. Như vậy đọc kinh cần phải học. Không phải học hiểu từng chữ, mà là học khám phá. Đọc kinh như vậy thú vị vô cùng. Buổi sáng, uống một ấm trà, đọc một trang kinh. Đó là thú vui tao nhã của người tu hành. Ngoài ra, giữa uống trà và đọc kinh còn có một điểm giống nhau. Đó là sự thảnh thơi. Phải thảnh thơi thì mới thưởng thức được một bình trà. Phải thảnh thơi thì mới khám phá ra những cái mới mẻ trong kinh. Không gian trong tâm giúp ta có khả năng sáng tạo. Cho nên uống trà là một pháp môn tu mầu nhiệm vô cùng. Ngồi cho thật yên để uống một ấm trà, ta phải có khả năng buông bỏ. Có bao nhiêu việc cần làm phải không? Làm sao mà ta có thể ngồi yên mà thưởng thức một chung trà cho được? Nếu tâm ta đầy dẫy những niệm như vậy thì không bao giờ ta có thể hiểu được ý kinh cả. Tụng đi tụng lại hàng ngày không phải là điều kiện thuận lợi giúp ta hiểu kinh. Ta phải có không gian. Đọc một câu thôi, nhưng nếu tâm ta có không gian thì ta sẽ khám phá nhiều hơn tụng cả bài kinh trong tâm niệm hấp tấp, bất an. Như vậy uống trà tức là đọc kinh. Biết uống trà, thì mới biết đọc kinh. Nhìn một thầy pha trà, ta có thể thấy không gian ở trong lòng thầy. Cũng như nhìn vào cách bày biện trong một căn phòng, ta thấy được tâm của chủ nhân. Không gian giúp ta buông bỏ được những cái gì không thuộc về ta. Trở về được với chính mình, nhận diện đâu là mình, đâu là những cái thuộc về mình, tự nhiên ta có rất nhiều thảnh thơi. Ta biết ranh giới của ta. Những gì ta nên làm và những gì ta không nên làm. Ta sẽ bỏ được khuynh hướng muốn ôm vào lòng đủ thứ việc của thiên hạ. Đạo Bụt có tương lai hay không, tùy thuộc vào nghệ thuật pha trà và uống trà của người tu. Có một sư chú, tu học với thầy mình đã lâu mà vẫn không thấy thầy dạy mình học kinh. Một hôm, trong lúc uống trà với thầy, mới rụt rè hỏi: ‘Thưa thầy, tại sao con thấy thầy ít dạy con học kinh quá vậy?’ Thầy trả lời: ‘Khi nào con biết uống trà cho đàng hoàng thì thầy mới dạy con học kinh. Dạy sớm, thầy sợ con hiểu lầm lời giảng của thầy.’ Thật là một vị thầy xuất sắc. Trà Sen và phong cách uống trà Việt NamTrà SenMuốn có trà ngon người ta phải ướp từ những loại trà khô như là trà mộc (black tea), trà xanh (green tea) hay trà Ô long có màu nâu sẫm. Ướp trà là một kỳ công phối hợp tinh tế giữa phong cách tao nhã, sành điệu và "ỷ thuật vi tế”. Ướp trà thường dùng các loại hoa sen, hoa cúc, hoa ngâu, hoa lài, hoa sói. Mỗi loại hoa làm cho trà có một hương vị khác nhau. Ðôi khi người ta ướp với cam thảo hay sâm để khi uống trà cảm thấy vị ngọt ở cổ họng và tinh thần phấn chấn. ![]() Trà ướp hoa là hội tụ đỉnh cao của cái tinh tế, phong cách tao nhã, thanh lịch và sành điệu của người Tràng An. Trong đó, hoa sen là thứ hoa thông dụng nhất mà cũng quý nhất, ướp trà ngon nhất. Ðiều này được nhiều nhà trà học lý giải "bởi quan niệm về hoa sen trong đạo Phật của người Á Ðông. Hoa sen vốn dĩ là thứ hoa rất thanh cao mọc lên từ bùn lầy, điều đó tương tự như chữ Danh mà người quân tử rất coi trọng vậy". Hương hoa sen là những gì tinh tuý của trời đất tụ lại. Vì vậy, trà ướp sen là vật phẩm quý giá, xưa kia chỉ dành cho những hàng vương tôn công tử và những gia đình quyền quý. Còn theo Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720-1791) thì "Cây sen hoa mọc từ dưới bùn đen mà không ô nhiễm mùi bùn, được khí thơm trong của trời đất nên củ sen, hoa sen, tua, lá... đều là những vị thuốc hay". ![]() Sen để ướp trà phải dùng loại sen bách hoa, phía bên trong các cánh hoa lớn có hàng trăm cánh nhỏ ôm sát vào nhau, che úp nhụy hoa, gạo sen và gương sen. Mua sen bách hoa về,(hoa sen phải hái trước lúc bình minh, phải lựa những ngày nắng ráo, tránh sau ngày mưa ) bóc từng lớp cánh sen, kế đến tẽ những hạt trắng ở đầu nhụy hoa (gạo sen), trộn chung với trà, ủ trong vò kín từ một đến hai ngày cho gạo sen quắn lại rồi mới đưa trà lên sấy khô bằng than hay bằng nước nóng cách thuỷ. Phải giữ cho nhiệt độ vừa phải và điều hoà để không mất mùi hoa. Ứơp một kí-lô trà phải dùng tới hàng trăm bông sen, và phải làm nhiều lần như thế mới dùng được. Công phu là thế nên một ấm trà sen có thể uống hàng chục tuần trà. Nước trong rồi, hương sen còn ngan ngát. Uống một tách trà vào thấy tinh thần tỉnh táo, thoải mái làm sao! Nhiều nghệ nhân về trà còn tiết lộ: "Muốn có trà ngon, chỉ hái những búp trà loại "một tôm hai lá" và phải hái nhanh, nhẹ nhàng, không để búp bị nhàu nát. Loại trà ngon là sau khi sao phải còn lại một lượng nước nhất định từ 5-7%. Trà hái xong không ướp hương ngay mà phải để trong chum đất, trên ủ lá chuối, để từ 2-3 năm nhằm làm giảm độ chát và để cánh trà phồng lên hút được nhiều hương. Một cân trà ướp hương sen cần có 800-1000 bông sen, mà phải đúng loại sen ở đầm Ðồng Trị, Thuỷ Sứ, làng Quảng Bá, Hồ Tây hoặc là sen ở hồ Tịnh Tâm-Huế (sen ở đây to và thơm hơn sen những nơi khác)." ![]() Cụ Nguyễn Tuân ca ngợi kiểu ướp hương trà bằng cách bỏ trà mạn vào bông sen mới nở, buộc lại. Thực ra, cách chơi ngông đó của Cụ Nguyễn vừa rất cầu kỳ vừa không để trà được lâu (hay bị mốc) và hay bị mất hương, chỉ có thể dùng cho lượng trà rất ít và phải uống ngay. Trà Phong Việt Nam (Phong cách uống trà Việt Nam)Người Nhật có lối uống trà rất khác biệt với các dân tộc khác, khi uống trà họ phải tuân giữ một vài nghi thức nên gọi là Trà đạo. Ðối với Trung Hoa và Việt Nam, lối uống trà chỉ được coi như là nghệ thuật mà thôi, nghệ thuật thì không cần phải khuôn sáo hay công thức. Phong cách uống trà của Việt Nam không hề bị ảnh hưởng của Tàu hay Nhật như quan niệm cuả nhiều người. Nghệ thuật uống trà phản ảnh phong cách văn hoá ứng xử của người Việt Nam.Trong gia đình truyền thống, người nhỏ pha trà mời người lớn, phụ nữ pha trà mời các ông. Người ta có thể uống trà trong yên lặng suy gẫm như để giao hoà với thiên nhiên, như để tiếp cận giữa con người với môi trường, như để nhận xét, để thảo hoạch những dự án phúc lợi cho đại chúng. Khi đã trở thành thói quen rồi thì khó mà quên được.Trà đồng nghĩa với sự tỉnh thức, sáng suốt, mưu cầu điều thiện, xa điều ác. Theo truyền tụng, hình thức uống trà được khởi nguồn từ các chùa chiền gọi là Thiền Trà. Các nhà Sư thường uống trà trước các thời công phu sớm chiều. Cuộc đời trần tục nhiều hệ lụy, trà giúp cho con người tỉnh được mộng trần, rửa được lòng tục, xoá tan cảm giác tĩnh mịch chốn thiền môn. Ngày nay chỉ còn ngôi chuà Từ-Liêm ngoài Bắc là giữ được nghi thức Thiền Trà này. Sau đó, trà được ưa chuộng trong giới quý tộc, trong cung đình như là một bằng chứng của sự quyền quý, để phân biệt với giai cấp thứ dân trong xã hội phong kiến. Kế đến, trà chinh phục các tầng lớp trung lưu, nhất là các nhà Nho, các chú học trò "dài lưng tốn vải ăn no lại nằm", mượn bộ ấm trà để bàn luận văn chương thi phú, để tiêu khiển giải trí sau những giờ điên đầu vật vã với tứ thư ngũ kinh. Do đó, dần dà uống trà là một lối tiêu khiển thanh đạm được tất cả mọi giới ưa chuộng. Pha trà mời khách cũng phải tốn nhiều công phu hàm dưỡng và trở thành một nghi thức. Trà-phong Việt Nam thật là trân trọng ở cách dâng mời nhiều ngụ ý. Dù mưa nắng, sớm chiều, buồn vui khách không thể từ chối một chung trà trong khi gia chủ trang trọng hai tay dâng mời. Mời trà là một hành vi biểu hiện phong độ thanh nhã và hiếu khách của hầu hết các gia đình Việt Nam. Kỵ nhất là tiếp khách bằng những tách trà còn đóng ngấn hoen ố nước trà cũ. Cũng không bao giờ tiếp khách bằng một ấm nước trà nguội. Tách trà tiếp khách là thể hiện những tình cảm tối thiểu nhất, không thể tuỳ tiện coi thường, dù không nhất thiết phải là loại trà thượng hảo hạng. Uống trà cũng phải uống từ ngụm nhỏ, để cảm nhận hết cái dư vị thơm ngon cuả trà, cái hơi ấm cuả chén trà tỏa vào hai bàn tay ấp ủ nâng chén trong muà đông tháng giá, làm ấm lòng viễn khách. Uống trà là một cách biểu thị sự tâm đắc, trình độ văn hoá và cảm tình cùng người đối thoại. Trong ấm trà ngon, người cùng uống tâm đầu ý hợp, dưới ánh trăng thanh gió mát, ngắm khung cảnh tĩnh mịch của núi rừng mà luận bàn thế sự thì không còn gì thú vị hơn nữa. Chỉ có những tao nhân mặc khách mới thưởng thức được trọn vẹn cái phong vị cuả cách uống trà này, chứ không phải như kẻ phàm phu tục tử bưng ly trà to tổ bố lên uống ừng ực, người ta gọi là "ngưu ẩm" hay là uống như trâu uống nước. Ngoài các lối uống trà đơn giản đến cầu kỳ trong các gia đình Việt Nam, các cụ ngày xưa còn có những hình thức hội trà. Ðó là uống trà thưởng xuân, uống trà thưởng hoa, uống trà ngũ hương. Hội trà là tụ họp những người bạn sành điệu cùng chung vui trong các dịp đặc biệt hoặc có hộp trà ngon, hay có một chậu hoa quý hiếm trổ bông, hay trong nhà có giỗ chạp. Thưởng trà đầu xuân là thói quen cuả các cụ phong lưu, khá giả. Trước tết, các cụ tự đi chọn mua các cành mai, đào, thuỷ tiên hay các chậu hoa lan, hoa cúc ở tận các nhà vườn, và chuẩn bị đầy đủ các thứ cần thiết, nhất là một hộp trà hảo hạng. Sáng mồng một, cụ pha một bình trà và ngồi chỗ thích hợp nhất, thường là giữa nhà. Cụ ngồi tĩnh tâm, ngắm nhìn những đoá hoa nở rộ, thưởng trà. Khoảng 8 giờ sáng, cả đại gia đình sum họp quanh bàn trà chúc thọ cụ và nghe những lời dặn dò của Cụ. Trẻ con thì chờ lì xì. Uống trà thưởng hoa quý như hoa Quỳnh, hoa Trà, cũng là cái thú của nhiều người. Khi nhà cụ nào có một chậu hoa trổ, cụ chuẩn bị và mời các bạn già sành điệu tới ngắm hoa, luận bàn thế sự, hay dặn dò con cháu. Hội trà ngũ hương chỉ giới hạn có năm người thôi. Trên khay trà có năm lỗ trũng sâu, dưới các lỗ trũng đó để năm loại hoa đang độ ngát hương : Sen, Ngâu, Lài, Sói, Cúc. Úp chén trà che kín các hoa lại rồi mang khay để trên nồi nước sôi cho hương hoa bắt đầu xông lên bám vào lòng chén. Pha bình trà cho thật ngon rót đều vào từng chén, mỗi người tham dự sau khi uống trà phải đoán hương trà mình đã uống và nhận xét. Sau mỗi tuần trà lại hoán vị các chén trà để mọi người đều thưởng thức được hết tinh tuý của năm loại hoa. |
||
Lộ Công Mười Lăm
|
||
![]() |
||
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |