Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình
Message Icon Chủ đề: Điều đáng ngẫm trong cuộc sống Gởi trả lời Gởi bài mới
Trang  of 4 phần sau >>
Người gởi Nội dung
lo cong
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
Quote lo cong Replybullet Chủ đề: Điều đáng ngẫm trong cuộc sống
    Gởi ngày: 29/Feb/2012 lúc 5:52pm
 
Ai đó

Kitagaki, thống đốc bang Kyoto , đến viếng đền Tofuku để thăm Keichu -
vị sư trưởng đền này.
Đệ tử của Keichu vào báo:
- Kitagaki, thống đốc Kyoto muốn diện kiến thầy.
- Ta không biết thống đốc nào cả - Sư trưởng trả lời.
Đệ tử chạy ra nói với Kitagaki:
- Thầy tôi yêu cầu ngài lui gót vì không quen thống đốc nào cả.
Kitagaki hiểu ra:
- Nếu vậy, hãy báo với thầy anh có Kitagaki
muốn diện kiến.
- Để tôi thử lần nữa.
Lần này, sư trưởng ra đón tận nơi:
- Ồ, Kitagaki đấy à. Mời vào nhà.

Lời bình
Danh vọng, địa vị, sự thành công và sự giàu có thường có khuynh hướng
gia tăng cái tôi của người ta. Vì vậy, người ta sẽ lạc lối, giống như
người lạc đường không thể về nhà được.

 


Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 29/Feb/2012 lúc 5:53pm
Lộ Công Mười Lăm
IP IP Logged
lo cong
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
Quote lo cong Replybullet Gởi ngày: 29/Feb/2012 lúc 10:16pm
 
Sống trong hiện tại

Phật hỏi đệ tử:
- Cuộc sống người ta được bao nhiêu?
Các đệ tử thay nhau trả lời:
- 80 năm.
- Sai.
- 70 năm.
- Còn sai.
- 60 năm.
- Sai.
- Vậy người ta sống bao lâu?
Phật mỉm cười đáp:
- Đời người chỉ thuộc trong vòng hơi thở.

Lời bình
Đừng ỷ vào quá khứ và cái sắp tới, hãy sống với thực tại.

 

 


 
Lộ Công Mười Lăm
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 02/Mar/2012 lúc 6:37pm


Tuệ ngữ của Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso



Tuệ ngữ (ngôn ngữ trí tuệ) của Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso (Đăng Châu Gia Mục Thố) (1933-nay)



Hãy bố thí cho kẻ khác, không mong đợi sự hồi đáp và cũng không tính toán gì hết; bố thí để tìm lấy sự sung sướng và để yêu thương, chính đấy là cách tạo ra những phúc hạnh lớn lao nhất. Đạo đức chính là những gì căn cứ trên lòng quyết tâm giúp đỡ kẻ khác.



http://phatgiaohoahaohaingoai.com/showthread.php?351-Tu%E1%BB%87-ng%E1%BB%AF-c%E1%BB%A7a-%C4%90%E1%BA%A1t-Lai-L%E1%BA%A1t-Ma-th%E1%BB%A9-14-Tenzin-Gyatso





Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 24/Mar/2012 lúc 9:01pm
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 02/Mar/2012 lúc 7:35pm

THẬT  TUYỆT  VỜI !
THẬT MẦU NHIỆM !
MK





Mẹ cứu sống con nhờ 2 giờ âu yếm, vuốt ve


Dưới đây là phiên bản cache tại địa chỉ: http://www6.vnmedia.vn/newsdetail.asp?NewsId=199322&CatId=10


Mẹ%20cứu%20sống%20con%20nhờ%202%20giờ%20âu%20yếm,%20vuốt%20ve%20
Kate và David đang âu yếm, thủ thỉ với cậu con trai bé bỏng.
 

Một phụ nữ Australian đã kể lại câu chuyện hết sức kỳ diệu về việc cô đã đem lại sự hồi sinh cho cậu con trai sinh non của mình như thế nào sau khi các bác sĩ khẳng định cậu bé đã chết.

 

Jamie Ogg đã không còn bất kỳ dấu hiệu nào của sự sống khi bé chào đời cùng với một người chị gái sinh đôi trong một ca sinh sớm ở tuần thứ 27 tại một bệnh viện ở Sydney. Ogg chỉ nặng có 0,9kg.

 

Các bác sĩ thông báo họ đã mất cậu bé và trao lại Ogg cho mẹ cậu là Kate. Người mẹ này đã cởi tấm chăn tã quấn quanh Ogg và đặt cậu bé lên ngực của mình. Cô cùng với người chồng David đã ôm ấp và liên tục âu yếm, vuốt ve cũng như trò chuyện với Ogg để nói lời tạm biệt với đứa con bé bỏng tội nghiệp của họ. Và điều kỳ diệu đã đến....

 

Sau hai giờ được cha mẹ âu yếm và trò chuyện, Ogg bắt đầu ngáp. Ban đầu các bác sĩ không tin vào điều kỳ diệu này mà khẳng định đó chỉ là một phản xạ thông thường. Tuy nhiên, sau đó, cậu bé bắt đầu ngáp liên tục rồi từ từ mở cặp bé nhỏ đáng yêu của mình để nhìn mọi người.

 

Gia đình bé Ogg đã lần đầu tiên kể lại câu chuyện kỳ diệu và hết sức cảm động trên sau khi Ogg đã được 5 tháng tuổi. "Tôi đã nghĩ, 'Ôi Chúa ơi, chuyện gì đang xảy ra thế này?’. Một lúc sau, Ogg từ từ mở mắt. Đó là một điều thần kỳ. Tôi đã kêu lên với mẹ tôi đang đứng ở đó rằng bé vẫn còn sống”, Kate kể lại.

 

Cả Kate và David đã cảm động đến nghẹn ngào khi cậu con trai Ogg "giơ tay ra và nắm chặt lấy ngón tay” của mẹ. "Bé mở mắt và quay đầu từ bên này sang bên kia".

 

Sự hồi sinh của Ogg đã khiến các bác sĩ hoàn toàn kinh ngạc. Bố Ogg cho biết: “May mắn là tôi có một người vợ mạnh mẽ và rất thông minh. Cô ấy đã làm việc đó một cách rất bản năng. Nếu Kate không làm thế thì Ogg có thể sẽ không còn được ở đây với chúng tôi". David đang nói đến tầm quan trọng của sự tiếp xúc giữa những đưa trẻ mới sinh với da thịt của người mẹ hay còn gọi là “phương pháp kangoroo”.

 

Các bà mẹ ở Anh được khuyến khích nên tiếp xúc với trẻ sơ sinh bằng chính làn da của mình càng nhiều càng tốt vì điều đó sẽ giúp em bé ăn tốt hơn, gắn kết với mẹ hơn và tinh thần bé cũng tốt hơn. Tuy nhiên, điều này thường không thể áp dụng trong trường hợp em bé được sinh non vì những em bé này thường phải được chăm sóc trong lồng ấp.


Kiệt Linh - (theo Telegraph)

http://www.tin247.com/me_cuu_song_con_nho_2_gio_au_yem%2C_vuot_ve-13-21639866.html





mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 07/Mar/2012 lúc 7:34am

ĐI  TÌM  CÕI NGÀN  TRÙNG
         

Nỗi Sợ Vẩn Vơ

        Nguyễn Hữu Chi

                 (Tiến sĩ tâm lý)         

                                                                                                                   


 
Ðời này ai dại, ai khôn?
Sống mặc áo rách, chết chôn áo lành.

Ca dao

Ðược tin ông bạn già bất thình lình “ra đi”, tôi vội mang vòng hoa đến chào từ biệt. Ông bạn tôi mặc bộ đồ rất đẹp, bình thản nằm đó. Tôi mừng thầm cho ông bạn đã “ra đi” một cách nhẹ nhàng trong lúc đang ngủ ngon lành. Sau đó, trên đường lái xe về nhà, tôi suy tư về khoảng thời gian còn lại trong đời tôi. Dù sao năm nay tôi đã trên bẩy chục tuổi đầu rồi. Theo thống kê ở Canada, người đàn ông trung bình có thể sống tới năm 76 tuổi mới được phép “ngao du vùng tiên cảnh”. Có nghĩa là tôi còn có thể sống được chừng 5 năm nữa. Vì thế, tôi nghĩ rằng đã đến lúc tôi phải phác họa ngay một “chương trình ngũ niên” cho tôi, kẻo lúc “ra đi” lại tiếc rẻ khôn nguôi.
http://1funny.com/wp-content/uploads/2009/04/old-couple.jpg
Cũng may hiện nay tôi vẫn còn khỏe mạnh, tiền hưu trí cũng đủ để “phè phỡn với đời”. Vấn đề quan trọng bây giờ là phải “phè phỡn” làm sao cho “phải đạo”? Chuyện “ong bướm” ư? Mục này tôi không còn khả năng để “đụng” tới. Những người đến tuổi sắp “ra đi” như tôi không nên quá tham lam. Chúng ta hãy để đám con cháu có dịp “thi thố tài năng”, không nên tranh dành với thế hệ trẻ. Biết nhường nhịn như vậy mới được người đời kính nể.

Ðối với tôi, ăn uống cũng không còn là một mục khoái lạc đáng để ý tới. Có mấy cái răng hàm thì rụng gần hết, huyết quản thì bị mỡ bám đầy, máu thì ngọt như mật ong. Theo tôi nghĩ, ông Trời cho mỗi người một số lượng đồ ăn nhất định để sinh sống trong suốt cả cuộc đời của mình. Người nào dùng hết “khẩu phần” của mình là phải “ra đi”. Ông Trời đâu có cho phép chúng ta kéo dài cuộc sống để “ăn ké” vào khẩu phần của người khác. Nói tóm lại, “ăn nhiều, ăn nhanh, ăn mạnh, vét cho sạch nồi cơm”, không phải là bí quyết trường sinh. Các bác sĩ ở các nước Âu Mỹ cũng đã nhận ra điều này, nên đã luôn luôn khuyên già trẻ cũng như nhớn bé phải ăn uống chừng mực. Hơn nữa, chúng ta cũng đã từng được nghe các cụ nhắc nhủ nhiều lần: “Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn”, hoặc “tham thì cực thân, Phật đã bảo thầm thì chớ có tham [ăn]”.

Thế là tôi đã mất hai trong bốn mục khoái lạc mà người đời gọi là “tứ khoái”. Sau cùng, tôi chỉ còn thấy có hai thú vui hợp với túi tiền và sức lực của tôi: đó là đọc sách, và đi du lịch. Tôi thấy, đi ngao du những nơi danh lam thắng cảnh là thuận tiện nhất: ban ngày thì đi tham quan đó đây, tối về khách sạn ngồi đọc sách. Ðối với người có tuổi như tôi, thời giờ rất là cấp bách, làm “công đôi ba việc” như vậy mới “tranh thủ được thời gian”. Thế là hai vợ chồng tôi bàn nhau đi ngao du vùng nắng ấm để trốn mùa lạnh ở Canada. Ôi, mùa đông ở xứ “tình nồng” này, sao mà lạnh thế! Càng về già, tôi càng cảm thấy lạnh, lạnh từ ngoài vào tới tận đáy lòng con người.

Tối hôm đó, tôi chui vào mền nằm nghĩ đến ngày mai tới Miami sưởi nắng... Ðang say sưa mơ màng thì vợ tôi đánh thức:
– Dậy đi anh. Ðến giờ ra phi trường rồi, máy bay không đợi anh đâu. Em đã chọn cho anh một bộ quần áo rất đẹp để mặc đi đường.

Bỗng nhiên tôi nhớ đến ông bạn già của tôi đã được Nhà Ðòn mặc cho một bộ quần áo rất đẹp trước khi lên xe “ra đi”. Tôi nhìn vợ tôi xếp quần áo của tôi vào va-li, tôi vội hỏi:
– Ủa, em không đi cùng với anh hay sao?

– Em còn bận công việc nên đành phải ở lại. Anh đã đến tuổi có quyền được đi ngao du, nay đây mai đó. Anh cứ đi chơi thanh thản là em mừng rồi.

Cuối cùng tôi đành phải lên xe taxi ra phi trường một mình. Tôi quay đầu nhìn lại mái nhà thân yêu của tôi cho đến khi nó mờ dần sau màn tuyết trắng, mầu trắng tang tóc làm tôi khẽ rùng mình. Phải chăng kẻ “ra đi” thường nghĩ tới kẻ “ở lại”?

Quả thiệt máy bay không đợi tôi. Tôi vừa ngồi xuống ghế thì máy bay bắt đầu cất cánh. Lòng tôi buồn rời rợi vì tôi đang bay về vùng nắng ấm trong khi họ hàng thân yêu tôi còn phải ở lại vật lột với băng tuyết từ Bắc Cực ù ù thổi về. Khi máy bay hạ cách xuống phi trường Miami, xe của hãng du lịch đã chờ sẵn để đưa tôi về khách sạn R.I.P (“Resort of International Peace”, mà tôi tạm dịch là “Lưu Xá Hòa Bình Thế Giới”). Mới nhìn thoáng qua tôi đã nhận thấy phong cảnh thành phố này quả có đẹp, đúng như những bích chương quảng cáo du lịch đã trình bày. Hai bên đường là những cây cao vời vợi, cành lá um tùm. Xung quanh khách sạn của tôi là những biệt thự xinh xắn nằm sau những hàng rào hoa đủ mầu đủ loại.

Ngồi uống trà trong vườn của khách sạn, tôi thoải mái nghe chim hót líu lo và nhìn mấy con bướm bay tung tăng trong nắm ấm. Một lát sau, người hướng dẫn du lịch mời tôi lên xe đi xem phong cảnh thành phố. Ðó là một chiếc xe buýt chở chừng 50 du khách đủ loại người. Ða số là người có tuổi như tôi, nhưng cũng có vài người rất trẻ. Ngoài một số người Mỹ ra, tôi còn nhận thấy vài người ngoại quốc mặc quần áo cổ truyền của nước họ. Ông tài xế cho biết là xe sẽ dừng nhiều nơi nổi tiếng trong thành phố, du khách có thể xuống bất cứ chỗ nào để tham quan, một giờ sau đó xe sẽ trở lại đón để đưa đi thăm viếng nơi khác, hoặc chở về khách sạn R.I.P.

Xe đi vòng vòng trong thành phố và vùng ngoại. Xe ngừng nhiều nơi nổi tiếng của vùng này: có những khu biệt thự sang trọng lộng lẫy, có những bãi cát vàng óng ả chạy dài xuống biển xanh mầu ngọc thạch, có những trung tâm thương mại xầm uất, v.v... Mỗi khi xe ngừng lại, thì có vài du khách tíu tít xuống xe. Khi xe tới Tropical Garden (Vườn Bách Thảo Nhiệt Ðới), tôi bèn xuống xe vì muốn sống lại trong khung cảnh xanh tươi của đất nước tôi khi xưa. Tôi sung sướng khi thấy lại những cây đa cổ thụ cao ngất từng mây, những cành hoa phượng vĩ rực rỡ dưới nắng chan hòa, những con chuồn chuồn vui đùa giữa những cụm bông sen trên mặt hồ phẳng lặng...
http://images.yume.vn/blog/201011/23/1290445434_4.jpeg
Tôi đang thẩn thơ hưởng khung cảnh tĩnh mịch gần như thoát tục, thì bỗng nhiên nghe có tiếng người gọi tên tôi. Quay lại thì thấy anh Tùng, người bạn chí thân của tôi từ ngày học đệ thất. Ðả hơn bốn chục năm rồi bây giờ mới lại gặp nhau. Chúng tôi bắt tay nhau thiệt lâu, mừng mừng tủi tủi. Chúng tôi dạo chơi dưới bóng mấy cây liễu già bên hồ, kể lại cho nhau nghe những kỷ niệm vui buồn khi xưa. Sau khi học hết bậc trung học, anh Tùng đi động viên, nay đây mai đó, theo tiếng súng của thời cuộc ở nơi tiền tuyến. Còn tôi được may mắn được đi ngoại quốc du học. Tuy vậy, chúng tôi vẫn liên lạc mật thiết với nhau bằng thư từ. Lá thư cuối cùng của anh tôi nhận được hồi cuối năm 1967. Trong thư anh cho tôi biết là anh đang hành quân ở Quảng Trị, và trong vài tuần nữa anh được nghỉ phép để về Cần Thơ ăn tết và nhân tiện cưới vợ luôn một thể. Thế rồi trận Mậu Thân bất thình lình xẩy ra. Từ đó tôi không nhận được tin tức gì về anh. Tôi cho rằng anh đã bị tử trận. Bây giờ lại gặp được anh, tôi mừng muốn khóc. Trong khi đi bách bộ trong vườn, chúng tôi nói chuyện huyên thuyên, không để ý đến thời gian. Ðến lúc xe buýt tới, chúng tôi đành phải chia tay nhau. Tôi lên xe ra đi. Anh ở lại vì anh muốn tiếp tục cuộc du ngoạn trong vườn mà anh ví “như vườn Tao Ðàn ngày xửa ngày xưa, nơi mà chúng mình thường tới chơi trong những giờ trốn học”. Bắt tay anh, tôi hẹn với anh ngày tái ngộ. Anh cười vui vẻ, rồi thốt ra một câu triết lý bâng quơ:
– Vũ trụ này thực ra bé nhỏ lắm, chúng mình đi loanh quanh, luẩn quẩn, mãi rồi sẽ có ngày cũng lại gặp nhau.
Ðến lúc lên xe chạy ra ngoài phố, tôi mới sực nhớ là đã quên hỏi địa chỉ của anh. Tuổi già lẩm cẩm, hay quên. Thiệt là vô tích sự!

Xe chạy vào khu ăn chơi buôn bán nổi tiếng trong vùng. Tôi tò mò xuống xe đi xem cảnh “ngựa xe như nước, áo quần như nêm.” Ðường phố đông nghịt những người. Họ đi ngắm nhau, hoặc ngắm những hàng hóa đắt tiền bầy trong tủ kính. Tôi mỉm cười nhìn một bà Mỹ to béo đang chăm chú nhìn một bộ áo dạ hội mỏng dính với bảng giá “Special Sale: 299.95 dollars.” Tôi cảm thấy tội nghiệp cho cái “cái cối xay” đang bị thôi miên bởi cái áo “hớ hênh,” vừa hở lưng đằng sau, vừa hở rún đằng trước. Ðã thích ăn cho mập xù, lại còn thích mặc quần áo khiêu gợi! Ðang ngẫm nghĩ về cái ham muốn quá đáng của con người, thì tôi đã bước tới trước cửa một tiệm kim hoàn. Tôi đứng ngắm những vòng ngọc đủ mầu, những dây chuyền vàng chạm trổ tinh vi, những chuỗi hạt trai sáng rực dưới ánh đèn trong tủ kính. Bỗng nhiên có tiếng ồn ào trong tiệm, rồi có bóng một thanh niên chạy vọt ra ngoài, đằng sau là những tiếng hô hoán ầm ĩ. Hai tiếng súng nổ liên tiếp làm tôi giật mình quay lại. Tôi thấy một cô cảnh sát cầm súng thản nhiên đứng nhìn người thanh niên đang nằm quằn quại trên vũng máu, tay còn nắm chiếc đồng hồ vàng nạm kim cương. Khách bộ hành tò mò nhìn cảnh chết chóc như đang xem chương trình Miami Vice trên ti-vi. May sao vừa lúc đó thì xe buýt của hotel tới, tôi vội chạy lên xe, để trốn cảnh si mê và tàn bạo.

Xe ngừng bánh nhiều nơi cho du khách xuống du ngoạn. Nhưng tôi vẫn ngồi yên trên xe vì tôi thấy mất hết cảm hứng đi ngắm cảnh phồn hoa giả tạo. Cuối cùng xe cũng về tới khách sạn R.I.P khi thành phố bắt đầu lên đèn. Tôi mệt mỏi xuống xe và rất ngạc nhiên khi thấy bố mẹ tôi mừng rỡ chạy ra đón tôi, và ôm tôi vào trong lòng. Mẹ tôi vỗ về tôi, rồi nhẹ nhàng trách tôi:
- Con mải đi chơi ở đâu mà mãi bây giờ mới về, làm bố mẹ mong chờ.

Tôi cảm thấy hối hận vô cùng, tôi gục đầu vào vai mẹ tôi khóc nức nở như ngày tôi còn bé...
http://files.myopera.com/vodoanmy/blog/me1.jpg

Bỗng nhiên tôi nghe văng vẳng có tiếng gọi tôi:
- Dậy đi anh. Anh nằm mơ cái gì mà khóc lóc thảm thê vậy?

Tôi chợt bừng tỉnh, nước mắt hãy còn rỏ xuống gối. Sau đó, tôi nghĩ nhiều lắm. Tôi nghĩ đến ông bạn già của tôi mặc bộ quần áo rất đẹp đang nằm trong nhà quàn. Tôi nghĩ đến chuyến du ngoạn mà tôi đã thực hiện được trong giấc mơ. Tôi nghĩ đến giờ phút kỳ lạ cho phép tôi gặp lại những thân nhân của tôi đã bỏ tôi “ra đi” lâu lắm rồi. Tôi nghĩ đến cái sống và cái chết. Sau khi tôi “ra đi,” tôi sẽ đi về đâu? Là “người trần mắt thịt,” làm sao tôi biết được. Chỉ những “chuyên gia” nghiên cứu về linh hồn hay duyên kiếp mới “biết rõ ràng” những chuyện gì “chắc chắn” sẽ xẩy ra khi chúng ta sang “bên kia thế giới.” Những vị này thường cho chúng ta biết rằng: sau khi chết đi, con người sẽ khốn khổ lắm nếu không biết thành kính thờ phụng Chúa hoặc ra chùa tụng kinh giải oan. Có người lại nghĩ rằng sau khi chết đi, con người sẽ trở thành cát bụi, chứ không đi đâu hết. Trái lại, giấc mơ kỳ lạ mà tôi đã trình bày ở trên làm cho tôi nghĩ rằng cuộc sống cũng như sự chết không khác gì một cuộc ngao du. Linh hồn chúng ta có thể là một hành khách trên một chuyến xe buýt du ngoạn. Xe buýt tới thì ta phải lên xe “ra đi.” Làm sao mà biết được xe sẽ ngừng ở nơi nào. Khi xe tới trạm, ta phải xuống. Trạm xe bus có thể là một khu “Vườn Nhiệt Ðới,” có thể là một trung tâm thương mại phồn thịnh giả tạo đầy si mê và tội lỗi, có thể là một khu tối tăm, nghèo nàn, có thể là một ổ trộm cướp đầy sì ke, ma túy...



Nếu cho sự chết là một du ngoạn, tại sao chúng ta không sửa soạn cuộc “ra đi” của chúng ta cho chu đáo. Khi chúng ta vượt biên, chúng ta sửa soạn rất kỹ càng. Nhưng khi chúng ta đến tuổi phải “ra đi,” chúng ta lại không tính toán như người vượt biên, dù rằng chúng ta vẫn còn đủ tỉnh táo để sửa soạn cuộc “ngao du” của chúng ta. Chúng ta không chịu sửa soạn trước khi “ra đi” vì chúng ta sợ chết, nên chúng ta không dám nghĩ đến cái chết cho đến khi chúng ta thở hơi cuối cùng. Thế là chúng ta “đẩy” trách nhiệm đó cho những người thân thiết có nhiệm vụ cáng đáng thân xác của chúng ta. Trong lúc “tang gia bối rối,” người nào càng thân thiết với chúng ta bao nhiêu, thì lại càng bối rối bấy nhiêu. Khi bối rối như vậy, làm sao họ có thể tính toán một cách hợp lý được. Kết quả là người thương yêu của chúng ta sẽ bị các Nhà Ðòn lợi dụng triệt để.

Chuyện này rất dễ hiểu: vì thương tiếc “người ra đi,” nên những người thân thích tưởng rằng càng tiêu nhiều tiền cho chuyện ma chay bao nhiêu, thì “người ra đi” càng sung sướng bấy nhiêu. Thiệt là nhầm to. Những bài kinh giải thoát, những sớ cầu siêu không hóa giải được những tội lỗi của con người. Một cuộc mai táng huy hoàng không làm cho “người ra đi” được “mát mặt” thêm một chút nào. Tuy vậy, những người thân thích luôn luôn muốn có một đám tang thiệt là linh đình và tốn kém để tỏ lòng thương tiếc của mình đối với “người ra đi.” Trong trường hợp này, “người ra đi” chỉ còn biết thở dài (sau khi thở hắt ra). Rồi người đến viếng cũng muốn mua một vòng hoa thiệt to, thiệt đắt tiền để tỏ tình bạn hữu với “người ra đi” và nhất là để chứng minh cho bà con lối xóm biết rằng mình là “người đàng hoàng, có thủy, có chung.” Thấy cảnh này, “người ra đi” cũng lại thở dài, chỉ muốn thốt ra câu từ biệt: “Này bạn ơi, đã quá trễ rồi. Sẽ có ngày tái ngộ,” và “tức cảnh” làm bài thơ như sau:

Khi một thằng nằm xuống
Lại có thằng luống cuống đứng lên
Vái lạy thằng nằm xuống
Hy vọng khi mình nằm xuống
Lại có thằng khác luống cuống đứng lên.
Vái lạy thằng nằm xuống

Ðiều mà chúng ta biết chắc là đa số những người sắp “ra đi” đều lo lắng thiết tha cho “người ở lại,” và nghĩ rằng mình còn có thì giờ thu xếp mọi việc trước khi “ra đi.” Tiếc thay, khi xe buýt bất thình lình tới đón đi “ngao du,” chúng ta vội vàng lên xe nên không giúp gì cho những “người ở lại.” Trong khi đó, “người ở lại” đau đớn muôn phần. Khi bố mẹ tôi lần lượt qua đời, một mình tôi “ở lại,” tôi lịm người đi vì thương tiếc. Rồi khi tôi loáng thoáng được tin anh bạn chí thân của tôi bị tử thương, tôi buồn ngẩn ngơ, tội nghiệp cho số phận long đong của người trai thời loạn. Tôi bối rối vì tôi cảm thấy hối hận vì tôi cho rằng mình đã cư xử không đầy đủ tình nghĩa đối với “người ra đi,” không có dịp tổ chức một đám táng trọng thể đưa người quá cố sang “Bên Kia Thế Giới.” Ngoài ra, trong thâm tâm, tôi cảm thấy lo sợ vì không biết những thân nhân của tôi sẽ đi về đâu: có được “về với Chúa không”? có thoát khỏi “vòng nghiệp chướng” hay không? Ðó là những phản ứng tự nhiên của những “người ở lại.” Vì thế, chúng ta thường thấy những vụ ma chay linh đình để “người ở lại” có dịp “trả nghĩa” đối với “người ra đi” (thà “trả nghĩa” trễ hạn, còn hơn là bị mang tiếng “bạc tình, bạc nghĩa”). Chúng ta lại còn thấy trong những cuộc cúng lễ nguy nga, mọi người thiết tha cầu xin Trời hay Phật giúp “người ra đi” được lên Thiên Ðàng hay vào Cõi Niết Bàn. Mọi tín đồ đều “biết chắc chắn” rằng một linh hồn đầy tội lỗi khó có thể siêu thoát được nếu thân nhân không thành khẩn cầu xin Ðấng Tối Cao nhủ lòng khoan hồng đại lượng với “người ra đi”! Phải chăng vì chúng ta nghĩ rằng cái quá khứ của “người ra đi” thiếu đạo đức, nên chúng ta mới phải làm lễ cầu siêu cho “người ra đi” như vậy? Thiệt là tội nghiệp cho người “ra đi”: Ðã “nằm xuống” rồi mà còn bị người đời gán cho cái tội “thiếu đạo đức.”


Nói cho cùng, “người ở lại” đáng thương hơn “người ra đi.” Trong khi “người ra đi” thản nhiên nằm đó, thì “người ở lại” không những bị xúc động tinh thần mà còn phải xả thân cáng đáng công việc tiễn đưa “người ra đi.” Vì thế, tôi không thắc mắc về việc tôi sẽ “ra đi,” nhưng tôi nghĩ rất nhiều, và lo lắng rất nhiều cho “người ở lại.” Tôi muốn “người ở lại” khỏi phải quàng lên vai một gánh quá nặng nề về tinh thần cũng như vật chất khi tôi “nằm xuống.” Có lẽ ít người nghĩ như tôi và làm như tôi, vì đến lúc gần ngày tận số, mỗi người nghĩ một kiểu, và người nào cũng cố gắng làm những việc mà mình cho rằng thỏa đáng nhất. Do đó, tôi không dám khuyên ai. Những điều tôi trình bày sau đây chỉ là một thí dụ không điển hình, một lối nhìn đời “không giống ai.”

Trước hết, tôi không muốn những bạn bè thân thuộc tôi quá u sầu về chuyến “ngao du” của tôi. Do đó, tôi đã trình bày cho mọi người biết rằng khi “chuyến xe buýt” tới, tôi sẽ thản nhiên “ra đi” như tất cả mọi người khác đã từng “ra đi.” Tôi sẽ “đi” về đâu? Có lẽ tôi sẽ về với bố mẹ tôi. Có lẽ tôi sẽ ngao du vùng tiên cảnh cùng với bạn bè tôi. Dù sao đi chăng nữa, tôi không cần biết tôi sẽ “đi” đâu, vì có biết hay không biết thì tôi và những người thân thuộc của tôi cũng chẳng làm được gì cả.

Sau đó, việc tôi phải làm trước khi “ra đi” là sửa sang lặt vặt trong nhà, vì vợ tôi không phải là một người khéo tay biết sửa chữa nhà cửa. Ngoài ra, những gì của tôi mà tôi thấy không cần dùng cho bản thân tôi hoặc cho “người ở lại,” tôi mang đi cho người khác, hoặc đổ vào thùng rác. Khi tôi quẳng đi gần hai ngàn quyển sách của tôi, tôi cảm thấy nhẹ nhõm trong người. Trái lại, vợ tôi rất xúc động, và hỏi tôi:
– Những cuốn sách này là kỷ niệm gần 40 năm dạy học, tại sao anh vất đi?

– Anh không cần nữa.

– Thì cứ để đấy, đôi khi anh muốn đọc lại thì sao?

– Ðọc đi, đọc lại làm gì? Người ta lại tưởng rằng anh dốt, học mãi mà chưa thuộc bài.

Sau khi dọn dẹp nhà cửa, tôi bắt đầu nghĩ đến phí tổn chôn cất. Tôi thấy ở Ottawa mấy gia đình mà tôi quen biết đã chi phí trên 15 ngàn dollars cho mỗi vụ ma chay. Tôi tính nhẩm trong đầu thì thấy rằng chỉ trong vài chục năm nữa, cộng đồng người Việt ở Ottawa (hơn bốn ngàn nhân mạng) sẽ phải chi cho Nhà Ðòn và nghĩa địa một tổng số vào khoảng 60 triệu dollars (không kể tiền chi cho các vị tu sĩ cúng lễ, cùng tiền bạn bè bỏ ra mua hoa phúng viếng). Như vậy, phí tổn ma chay cho nửa triệu người Việt đang sinh sống ở Bắc Mỹ sẽ lên tới gần 8 tỷ dollars – bằng tiền viện trợ mà những nước tư bản kiêm tài phiệt đã cấp cho “Ðảng ta” trong một khoảng thời gian kéo dài hơn bốn năm trời. Thiệt là oai hùng! Thiệt là vĩ đại!

Ðể biết rõ chi tiết của vấn đề, tôi bèn mời một đại diện Nhà Ðòn quen biết ở Ottawa tới bàn chuyện ma chay cho tôi. Ông “tiếp thị” (salesman), quần áo chỉnh tề, mặt trang nghiêm và đầy kính cẩn, ăn nói nhẹ nhàng và từ tốn trong khi trình bày giá cả cho tôi nghe. Tập tài liệu về giá biểu in rất đẹp như tờ thực đơn của một tiệm ăn sang trọng ở Paris (năm sao). Ðiều quan trọng mà mọi người nên biết là “người mua” không được kỳ kèo về giá cả, vì Nhà Ðòn làm ăn đàng hoàng “trước sau như một,” không khác gì “Bác và Ðảng” đã đối xử với dân ta hơn nửa thế kỷ nay.

Tôi đọc kỹ tờ giá biểu, rồi tham khảo với các bạn bè, tôi thấy rõ phí tổn nặng nề mà “người ở lại” phải chi cho Nhà Ðòn ở Canada (có lẽ cũng tương tự như ở bên Mỹ). Ðể có một thí dụ cụ thể, tôi xin liệt kê sau đây các “món hàng” căn bản mà Nhà đòn Tubman đã trình cho tôi:

(1) Dịch Vụ Chuyên Môn (Professional Services)
• 900$ – dịch vụ do các chuyên viên Nhà Ðòn cung cấp (professional and support staff services);
• 250$ – giấy tờ lên quan đến vấn đề khai tử (documentation);
• 125$ – dịch vụ ở nghĩa địa hoặc công việc trao lọ đựng tro cho thân nhân (gravesides service or delivery of urn as arranged).

(2) Dịch Vụ Chăm Lo “Người Ra đi” (Prrofessional Care of Deceased)
• 200$ – tắm rửa và làm vệ sinh cho “người ra đi” (sanitary care of deceased);
• 570$ – ướp xác và trang điểm “người ra đi” (embalming and cosmetology of deceased).

(3) Phòng Ốc Và Dụng Cụ
• 400$ – xử dụng Nhà Ðòn (basic use of funeral home);
• 990$ – xử dụng phòng thăm viếng, phòng làm lễ và những dụng cụ (visitation room, chepel, and/or service equipment);
• 225$ – xử dụng phòng sửa soạn và gìn giữ xác “người ra đi” (use of facilities for preparation of deceased and/or shelter of remains).

(4) Xe Cộ Và Vận Chuyển (Automotiles and Transportation)
• 295$ – chuyển xác về Nhà Ðòn (transfer from place of death ố radius 40 km);
• 200$ – xe cộ cần dùng cho các nhân viên Nhà Ðòn (vehicles required for administrative tasks, clergy, funeral director);
• 270$ – xe chở quan tài ra nghĩa địa (funeral coach);
• 125$ – xe limousine chở thân nhân.
Chi phí căn bản cho Nhà Ðòn là $5,604.03 (gồm cả thuế)

http://www.funeralcars.com/InvntryFS/CarH470/H470B.jpg

(5) Chi Phí Cho Thành Phố
• 75$ – khám nghiệm tử thi.
• 52$ – thuế vệ sinh cho thành phố.

(6) Phí Tổn Mai Táng
• 3,700$ (trung bình) – Tiền mua quan tài tùy theo loại sang hay hèn, đúng theo giai cấp: từ thứ rẻ nhất là vải quấn xác (890$) cho tới quan tài rẻ tiền bằng gỗ ván ép (1,695$), tới loại quan tài vừa đẹp vừa bền dành cho các nhà giầu thích sài sang (11,000$);
• 5,500$ – Tiền mua chỗ “An Nghỉ Ngàn Thu” (R.I.P - Rest In Peace ) tại nghĩa địa: miếng đất to hơn cái giường đáng giá khoảng chừng 5,500$;
• 1,000$ – Tiền dựng mộ bia tùy theo túi tiền của mỗi người (từ 1,000$ cho tới 5,000$, hoặc nhiều hơn nữa).
Chi phí mai táng trung bình khoảng chừng $13,000

Tôi đọc tờ giá biểu thấy nhân dân ta bị Nhà Ðòn và Nhà Nước làm tiền một cách rất là quy củ. Không những thế, ông “tiếp thị” lại còn khuyến khích tôi “mua” nhiều món “hàng” khác vừa đắt tiền, vừa... vô dụng. Tôi bèn chặn lại với một câu hỏi rất ư là “rẻ tiền”:
– Mai táng kiểu nào rẻ tiền nhất?

Hắn ngỡ ngang vì đang “rao hàng” thì bị cụt hứng. Nhưng ngay sau đó, hắn mỉm cười, rồi nhìn tôi một cách rất ư là đại lượng:
– Ông thích chơi trò rẻ tiền thì ông nên chọn con đường hỏa táng, vì ông sẽ không mất tiền chi phí chôn cất và mua đất ở nghĩa địa.

– Ngoài tiền hỏa táng ra, còn có mục chi phí nào khác nữa không.

– Có chứ. Thân xác của ông sẽ được tắm rửa, thoa son đánh phấn, và được đặt trong một cỗ quan tài thiệt đẹp. Chúng tôi sẻ tổ chức linh đình cho ông. Ai trông thấy nằm đó cũng phải thèm cái địa vị của ông.

– Nếu tôi thích đi con đường hỏa táng, thì tôi đâu có cần mua quan tài làm gì cho tốn tiền?

Lần này hắn nhìn tôi một cách khinh thường ra mặt, và nói với một giọng mỉa mai:
– Ông cũng cần phải được trang điểm và nằm trong một cỗ quan tài đàng hoàng khi bạn bè thân thuộc đến thăm viếng ông lần cuối cùng. Trưng bày thân xác ra như vậy mới là người đàng hoàng chứ! Tuy nhiên, nếu ông thích bủn xỉn, thì cũng không sao. Chúng tôi cũng có thể chiều ông được. Ðáng lẽ ông mua một cỗ quan tài rẻ tiền, ông có thể thuê một cỗ quan tài sang nhất hạng. Cỗ này đáng giá 11,000$. Những người giầu sang mua loại này, rồi mang đi chôn hay đốt cùng với cái xác của họ. Nhưng nếu ông mướn cỗ quan tài này, để nằm vài ba bữa, lấy le với bà con lối xóm, thì ông chỉ phải trả tiền thuê là 2,850$. Thiệt là rẻ mạt! Làm sao mà người đời biết được rằng ông là người hà tiện, đến lúc “nằm xuống” mà còn không dám bỏ tiền ra mua một cỗ quan tài để nằm cho thoải mái.

– Nhưng tôi không muốn “trình làng nước” cái thân thể xám ngắt của tôi cho mọi người chiêm ngưỡng thì sao?

Hắn thở dài đến sượt một cái như một thầy giáo làng nhìn thằng học trò bướng bỉnh lại còn có tật cù nhầy:
– Làm như vậy cũng bớt được vài ngàn: tiền son phấn, tiền thuê quan tài, tiền thuê Nhà Ðòn v.v.. Mà ông cũng không cần phải chi cho các vị tu sĩ đến tụng kinh gõ mõ tùm lum trong Nhà Ðòn của chúng tôi làm gì. Thế là ông đỡ thêm được vài ba trăm nữa. Ðối với hạng người “rẻ tiền” như ông, đỡ được trăm nào hay trăm đó, có phải không?

Thằng cha “tiếp thị” cho tôi là người bủn xỉn nên có vẻ bực mình lắm. Hắn chỉ muốn thu được nhiều tiền cho chủ Nhà Ðòn để được ăn nhiều tiền hoa hồng do gia đình “người ra đi” cung phụng. Vì thế, mỗi lần tôi bớt được món chi phí nào là hắn có vẻ đau đớn như đang bị bà nha sĩ nhổ một cái răng hàm bự trong mồm. Cuối cùng, tôi chọn một chương trình hỏa táng hợp với ý tôi. Tổng số tiền tôi phải chi ra là 2,709.24$ cho những mục như sau:
• tiền giấy tờ (khám nghiệm xác chết, giấy khai tử, v.v.);
• tiền xe đưa xác tôi từ nhà xác đến Nhà Ðòn;
• tiền hòm bằng giấy cứng (50$) đựng xác chết để mang đi hỏa táng;
• tiền đưa hòm xác tới lò đốt (không có vụ bầy biện thân xác ra cho mọi người “dòm ngó”);
• tiền đốt xác;
• tiền hộp đựng tro để trao cho vợ tôi mang đi thả xuống biển (tôi mua loại rẻ tiền nhất nên chỉ tốn có 20$; còn loại sang và đẹp thì lên tới 500$);
• tiền thuế trả cho thành phố, tiểu bang, và liên bang.

Người “tiếp thị” đại diện Nhà Ðòn Tubman và tôi cùng ký vào tờ khế ước (bốn bản). Sau đó, tôi hân hoan trao cho hắn tấm ngân phiếu 2,709.24$. Tôi phải trả tiền trước. Ðối với tôi, điều này rất thuận tiện, vì sau này giá cả có gia tăng thì Nhà Ðòn ráng mà chịu, chứ những “người ở lại” không còn phải lo lắng điều gì cho “người ra đi.”

Khi vợ tôi đi làm về, tôi hý hửng đưa cho cô nàng xem tờ khế ước. Thế là cô nàng khóc bù lu bù loa, rồi hỏi tôi một câu mà tôi cho là lãng nhách:
– Trong cả cuộc đời của anh, anh chỉ thích chơi sang. Tại sao đến cuối cuộc đời, anh lại định chết một cách rẻ tiền như vậy?

– Em hỏi một câu thiệt là lãng nhách! Thế nào là chết rẻ tiền? Chết sang thì đi đến đâu? Mang tiền ra cúng Nhà Ðòn và Nhà Nước làm gì? Chúng nó làm gì có quyền cấp visa cho anh vào Thiền Ðàng, hay vào Vùng Cực Lạc. Việc gì mình phải “đút lót” chúng nó? Dù sao anh cũng “save” hơn 12,000$, chứ đâu có phải là ít.

– Em không cần món tiền đó đâu!

– Nếu em không cần số tiền đó, thì em mang nó đi giúp người nghèo, có sao đâu? Ða số dân ta hiện đang sống trong cảnh nghèo túng. Em có biết rằng nếu em mang 12,000$ về Việt Nam, em có thể nuôi hơn 60 em mồ côi trong một năm. Như vậy, anh là người “chết sang” hay là người “chết rẻ tiền”?
Thấy tôi lý luận như vậy, cô nàng vừa lau nước mắt vừa cười đùa:
– Thôi, anh muốn chết kiểu nào cũng được. Cái đó tùy anh. Nếu anh “ra đi” trước em, em sẽ chúc anh theo kiểu Tàu: “Thượng Lộ Bình An,” và xin anh “Bảo Trọng.”

– Vậy, trước khi “ra đi,” anh sẽ chào em theo kiểu Mỹ: “Hẹn Ngày Tái Ngộ” – “See You Later.”

 




mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 10/Mar/2012 lúc 8:11pm



Chuyện về cây thông duy nhất còn lại sau thảm họa sóng thần Nhật

(Dân trí) - ”Người sống sót” duy nhất trong rừng thông 70.000 cây từng hiên ngang đứng trước biển ở Rikuzentakata đã trở thành biểu tưởng của hi vọng tại Nhật Bản, khi đất nước này vật lộn trong thảm họa 11/3 năm ngoái. Song giờ đây, “cây thông của hi vọng” đang dần chết.
 >> Gặp người phụ nữ là biểu tượng trong sóng thần Nhật
 
"Cây thông của hi vọng" đứng vững giữa ngổn ngang tàn phá.

Rất ít thứ còn có thể đứng vững tại thành phố Rikuzentakata sau khi trận đại hồng thủy quét qua một năm trước. Thậm chí với cả rừng thông bên bờ biển tồn tại nhiều thế kỷ nay, rừng thông đã trở thành biểu tượng của thành phố, cũng bị xóa sổ.

 

Song giữa sự tàn phá rộng khắp, làm 1/12 dân số thành phố thiệt mạng, một cây thông duy nhất trong tổng số 70.000 cây đã bám trụ được với cuộc sống. Cây thông trở thành biểu tượng cho hi vọng của người dân về ngày mai tươi mới.

 

“Lúc đó, chúng tôi không còn chút hi vọng nào. Vì vậy, có một thứ còn sống sót giống như là còn một tia sáng le lói giữa bóng tối”, Seiko Handa, 47 tuổi, cho hay.

 

Nhưng giờ đây cây thông 250 tuổi lại đang chết dần, do trận sóng thần đã để lại nước muối biển trên mặt đất.

 

“Ngay từ đầu khi chúng tôi chăm sóc cây, chúng tôi cũng đã lo ngại nó sẽ chết dần”, Kazunari Takahashi, quan chức thuộc phòng Rừng, Nghề cá và Nông nhiệp thành phố cho hay.

 

Được trồng với mục đích là rừng chắn cát và muối biển, bảo vệ mùa màng trong thành phố, rừng thông rậm rạp được biết đến với tên gọi Takata-Matsubara trải dài khoảng 2km dọc bờ biển và đã trở thành một trong những địa điểm nổi tiếng ở miền bắc Nhật.

 

Nhưng bức tường nước cao gần 10m ầm ầm đổ vào sau trận động đất 9,0 richter vào ngày 11/3 năm ngoái đã xóa sổ cả vùng đất nơi rừng thông này đứng cùng với hơn 3.000 ngôi nhà trong thành phố.

 

Gần 2.000 người đã thiệt mạng tại Rikuzentakata. Và tổng cộng khoảng 20.000 người đã chết trong thảm họa ở đông bắc Nhật.


Giờ đây giới chức thành phố đã bỏ hi vọng cứu sống “cây thông của hi vọng”.

 

Đã có cuộc bàn luận về việc lưu giữ lại cây thông ở nơi nó đang đứng, thậm chí là cả khi nó đã chết, như một đài tưởng niệm. Song việc lưu giữ cây thông có thể phải tốn kém tới 300 triệu Yên (tức khoảng 3,7 triệu USD) và điều đó khó có thể xảy ra trong bối cảnh thành phố đang rất cần tái thiết.

 

Cái chết nhãn tiền của cây thông đã khiến rất nhiều người nỗ lực tìm cách cứu, ít nhất là một phần của nó để cho những thế hệ tương lai.

 

“Chúng tôi đã chiết một nhánh nhỏ của cây thông và đây là cách để giữ cho cây thông được sống mãi”, Takahashi cho hay. “Chúng tôi cũng thu thập quả thông còn trên cây và một vài hạt còn sót lại để trồng”. Một công ty đã dùng những hạt này để ươm giống mà giới chức thành phố hi vọng một ngày nào đó có thể dùng để trồng một khu rừng mới.

Nhưng dù điều gì có xảy ra đi chăng nữa, cây thông biểu tượng sẽ sống mãi trên các đồng xu tưởng niệm thảm họa động đất/sóng thần mà chính phủ sắp phát hành, để gây quỹ tái thiết.

 
Một cách lưu giữ "cây thông của hi vọng" (trái ngoài cùng)

Những đồng xu 1.000 yên(silver) và 10.000 yên(gold) sẽ có hình ảnh của cây thông với đàn bồ câu sải cánh bên trên.

”Chúng tôi đã quyết định dùng thiết kế này với hi vọng phục hồi lại miền đông Nhật”, Bộ trưởng tài chính Nhật Azumi cho biết khi công bố đồng xu mới.

 

Cây thông Rikuzentakata không phải là biểu tượng duy nhất của sự tái sinh dọc bờ biển bị sóng thần tàn phá. Đi dịch về phía nam, tại thành phố Kesennuma bị tàn phá nặng nề, một cây thông đã bắt đầu mọc lên giữa kẽ nứt bê tông. Vươn mình giữa những ngôi nhà bị tàn phá và cách không xa một rừng thông khác bị cuốn trôi, cây thông mới này đã thu hút được rất nhiều sự chú ý, bởi cách nó đứng thẳng giữa bầu trời. “Nó vẫn còn khá nhỏ, nhưng nó đang vươn mình hết sức”, Katsushi Sato, một người dân, cho biết. “Tôi muốn nói đến sự dũng cảm thường trực”.
 
 Phan Anh, Theo Reuters


mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 14/Mar/2012 lúc 6:29pm

PHIÊN TÒA CẢM ĐỘNG

http://a6.sphotos.ak.fbcdn.net/hphotos-ak-snc7/419237_263417607074334_154873517928744_595292_548453237_n.jpg

CÂU CHUYỆN TÔI KỂ ĐÂY LÀ MỘT CÂU CHUYỆN CÓ THẬT 100% Ở INDONESIA.

Trong phòng xử... án, chủ tọa trầm ngâm suy nghĩ trước những cáo buộc của các công tố viên đối với một cụ bà vì tội ăn cắp tài sản. Bà bị buộc phải bồi thường 1 triệu Rupiah. Lời bào chữa của bà lý do ăn cắp vì gia đình bà rất nghèo, đứa con trai bị bênh, đứa cháu thì suy dinh dưỡng vì đói.

Nhưng ông chủ quản lý khu vườn trồng sắn nói bà ta cần phải bị xử tội nghiêm minh như những người khác.

Thẩm phán thở dài và nói :” Xin lỗi, thưa bà...” Ông ngưng giây lát, nhìn ngắm bà cụ đói khổ “Nhưng pháp luật là pháp luật, tôi là người đại diện của Pháp luật nên phải xử nghiêm minh. Nay tôi tuyên phạt bà bồi thường 1 triệu Rupiah cho chủ vườn sắn. Nếu bà không có tiền bồi thường, bà buộc phải ngồi tù 2 năm rưỡi.”


Bà cụ run run, rướm nước mắt, bà đi tù rồi thì con cháu ở nhà ai chăm lo. Thế rồi ông thẩm phán lại nói tiếp

“Nhưng tôi cũng là người đại diện của công lý. Tôi tuyên bố phạt tất cả những công dân nào có mặt trong phiên toàn này 50.000 Rupiah vì sống trong một thành phố văn minh, giàu có này mà lại để cho một cụ bà ăn cắp vì cháu mình bị đói và bệnh tật.”Nói xong , ông cởi mũ của mình ra và đưa cho cô thư ký “Cô hãy đưa mũ này truyền đi khắp phòng và tiền thu được hãy đưa cho bị cáo”

Cuối cùng, bà cụ đã nhận được 3,5 triệu Rupiah tiền quyên góp, trong đó có cả 50.000 Rupiah từ các công tố viên buộc tội bà, một số nhà hảo tâm khác còn trả giúp 1 triệu Rupiah tiền bồi thường, bà lão run run vì vui sướng. Thẩm phán gõ búa kết thúc phiên toà trong hạnh phúc của tất cả mọi người.

Đây là một phiên tòa xử nghiêm minh và cảm động nhất mà tôi được biết, vì tất cả chúng ta đều phải chịu trách nhiệm với cuộc sống xung quanh chúng ta, vị thẩm phán đã không chỉ dùng luật pháp mà còn dùng cả trái tim để phán xét.


http://www.facebook.com/photo.php?fbid=263417607074334&





mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 24/Mar/2012 lúc 8:46pm

Thứ ba, 20 Tháng 3 2012 01:16

Phép màu giá bao nhiêu?

Ngoc Nga
 


Hình thật của cô bé- và em trai cùng vị bác sĩ giàu lòng nhân ái :
click 
Phép màu giá bao nhiêu?



Một cô bé tám tuổi nghe cha mẹ mình nói chuyện về đứa em trai nhỏ. Cô bé chỉ hiểu rằng em mình đang bị bệnh rất nặng và gia đình cô không còn tiền. Chỉ có một cuộc phẫu thuật rất tốn kém mới cứu sống được em trai cô bé, và cha mẹ em không tìm ra ai để vay tiền. Do đó, gia đình em sẽ phải dọn đến một căn nhà nhỏ hơn vì họ không đủ khả năng tiếp tục ở căn nhà hiện tại sau khi trả tiền bác sĩ.
Cô bé nghe bố nói với mẹ bằng giọng thì thầm tuyệt vọng: “Chỉ có phép màu mới cứu sống được Andrew”. Thế là cô bé vào phòng mình, kéo ra một con heo đất được giấu kỹ trong tủ. Em dốc hết đống tiền lẻ và đếm cẩn thận.
Rồi cô bé lẻn ra ngoài bằng cửa sau để đến tiệm thuốc gần đó. Em đặt toàn bộ số tiền mình có lên quầy.
Người bán thuốc hỏi: “Cháu cần gì?”
Cô bé trả lời: “Em trai của cháu bệnh rất nặng và cháu muốn mua phép màu.”
- Cháu bảo sao? – Người bán thuốc hỏi lại.
- Em cháu tên Andrew. Nó bị một căn bệnh gì đó trong đầu mà ba cháu nói chỉ có phép màu mới cứu được nó. Phép màu giá bao nhiêu ạ?
- Ở đây không bán phép màu, cháu à. Chú rất tiếc – Người bán thuốc nở nụ cười buồn và tỏ vẻ cảm thông với cô bé.
- Cháu có tiền trả mà. Nếu không đủ, cháu sẽ cố tìm thêm. Chỉ cần cho cháu biết giá bao nhiêu?
Trong cửa hàng còn có một vị khách ăn mặc thanh lịch. Sau khi nghe câu chuyện, ông cúi xuống hỏi cô bé: “Em cháu cần loại phép màu gì?”
- Cháu cũng không biết nữa – Cô bé trả lời, rơm rớm nước mắt. “Nhưng em cháu rất cần phép màu đó. Nó bị bệnh nặng lắm, mẹ cháu nói rằng nó cần được phẫu thuật, và hình như phải có thêm loại phép màu gì đó nữa mới cứu được em cháu. Cháu đã lấy ra toàn bộ số tiền để dành của mình để đi tìm mua phép màu đó.”
- Cháu có bao nhiêu? – Vị khách hỏi. Cô bé trả lời vừa đủ nghe: “Một đô la mười một xu.”
Người đàn ông mỉm cười: “Ồ! Vừa đủ cho cái giá của phép màu”.
Một tay ông cầm tiền của cô bé, tay kia ông nắm tay em và nói: “Dẫn bác về nhà cháu nhé. Bác muốn gặp em trai và cha mẹ cháu. Để xem bác có loại phép màu mà em cháu cần không.”
Người đàn ông thanh lịch đó là Bác sĩ Carlton Armstrong, một phẫu thuật gia thần kinh tài năng. Ca mổ được hoàn thành mà không mất tiền, và không lâu sau Andrew đã có thể về nhà, khỏe mạnh.
Mẹ cô bé thì thầm: “Mọi chuyện diễn ra kỳ lạ như có một phép màu. Thật không thể tưởng tượng nổi. Thật là vô giá!”. Cô bé mỉm cười. Em biết chính xác phép màu giá bao nhiêu. Một đô la mười một xu, cộng với niềm tin chân thành của một đứa trẻ, và lòng tốt của người bác sĩ.



http://gocgio.blogspot.com/2012/03/phep-mau-gia-bao-nhieu_20.html






Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 24/Mar/2012 lúc 8:58pm
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 23/Apr/2012 lúc 3:21am

TÂM CHAY


Bùi Kim Sơn

Họ là hai anh em, tuổi đã cao, trên dưới tuổi về hưu. Người anh sống ở Sài Gòn còn người em sống ở một thành phố lớn miền Trung. Do tuổi tác cũng kề nhau, cùng trong một thế hệ, nên hai anh em rất đồng cảm và thường xuyên điện thoại thăm hỏi nhau.

Một hôm, trong lúc chuyện trò với người anh, người em vui miệng kể rằng ra chợ lựa mua trái cây về cúng Phật thường hay bị người bán lợi dụng lúc mình lơ là, tráo trái cây hư vào. “Anh biết không, mấy cô bán hàng cứ tưởng em ngu ngơ không để ý, đâu biết rằng chẳng có gì qua được mắt mình, tuy nhiên do thấy tội cho họ phải gánh chịu nhiều trái cây hư nên em phải giả đò không biết để chia sẻ bớt!”. Và người em nghĩ rằng người anh nghe chuyện lòng sẽ vui vì hành động biết nghĩ tới người khác của mình.

Nhưng không, người anh nghe xong điềm tĩnh bảo người em: “Không được, em làm vậy là sai rồi, vì khi em làm vậy tưởng là mình giúp người nhưng thực ra lại làm cho họ mang tội lừa đảo, không trung thực. Như vậy không phải là giúp người mà chính là hại người! Anh cũng giống em, chỉ khác một chút là khi mua đồ, anh luôn tự mình chọn lấy một vài trái cây hư, đồ hộp móp để cùng chia sẻ chút hư hao với người, không để cho người mắc phải tật gian dối”. Người em nghe xong, ngậm ngùi.

Một thời gian sau, nhân lúc rảnh rỗi, người em lại điện thoại thăm hỏi người anh. Và trong cuộc trò chuyện, người em kể rằng trong những lúc trà dư tửu hậu, có đem câu chuyện trao đổi hôm trước ra kể cho các bạn bè thân hữu nghe, và một người bạn thân nghe xong đã phát biểu rằng, “Tâm đó mới đúng là tâm chay!”.
Người anh chỉ cười và cũng chẳng quan tâm gì lắm. Vì, một là, chuyện trò đã qua xong rồi thì thôi, chẳng lưu giữ trong lòng làm chi. Hai là, người anh cũng chẳng tin tưởng gì lắm về lời phát biểu cùng buổi họp mặt của người em, tất cả đều có thể có và cũng có thể không. Có thể chỉ là phịa ra một chút cho vui. Và ba là, chỉ có chân tâm diệu hữu chớ làm gì có tâm chay.
Thế nhưng, một ngày nọ, nhân dịp thuận tiện, người anh về thăm người em. Trong buổi cà phê hàn huyên cùng các thân hữu, có mặt cả “tác giả” của hai chữ “Tâm chay”. Người bạn này kể lại chuyện và lúc đó người anh mới biết rằng em mình kể chuyện tâm chay là thật. Người anh rất vui và lòng vô cùng cảm ơn người bạn này vì nếu trong những lúc trà dư tửu hậu anh ta cứ kể chuyện này thì ít ra cũng nhắc nhớ được cho nhau về cách sống làm sao cho đúng với đạo làm người, cho dù chỉ bằng những hành vi nhỏ nhặt nhất.

Chợt nhớ đọc trong sách xưa, có kể chuyện một vị đạo sĩ mang ơn một người nên muốn tặng cho thuật biến than thành vàng ròng. Người này ngẫm nghĩ một chút rồi hỏi thuật này có giá trị trong bao lâu. Vị đạo sĩ cho biết là 500 năm. Nghe vậy, không chút đắn đo, người này lập tức trả lời rằng: “Vậy là sau 500 năm nữa vàng sẽ trở lại thành than, và người ôm số vàng đó sẽ vô cùng khổ đau vì mất mát và tiếc của. Cảm ơn tiên sinh, nhưng tôi không nhận thuật này vì tôi không muốn cho người khác phải khổ đau, cho dù là sau 500 năm!”.
Chao ôi, đọc chuyện mà thấy vô vàn kính mộ cho tấm lòng của người xưa.

Thật sự thì đời nay cũng không phải là không có những tấm lòng như vậy. Như Leon Tolstoi, nhà đại văn hào Nga, với câu nói bất hủ “Hạnh phúc của một người là làm cho người khác được hạnh phúc”. Hay như một tác giả Pháp với câu: “On ne peut donner son bien, mais on peut donner une partie de son coeur” (tạm dịch: Dẫu ta không thể đem cho người tài sản của cải, nhưng ta vẫn có thể trao cho người một phần của trái tim mình).
Mong sao cho mọi người chúng ta hôm nay đều có được “Tâm chay” và biết trao cho người một phần của trái tim mình.



Bùi Kim Sơn




mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 21/Mar/2013 lúc 10:07pm

Thứ năm, 21/03/2013


 " Tôi kết tội ! "


20.03.2013

“Tôi kết tội!” là đầu đề nổi bật của một bài viết trên nhật báo Pháp L’Aurore (Bình Minh), ra sáng ngày 13 tháng 1 năm 1898 ở Paris, của nhà văn kiêm nhà báo Emile Zola. Bài báo dài 4.500 chữ, chiếm hoàn toàn trang nhất và phần lớn trang 2 của số báo này.
 
Đã hơn một thế kỷ qua, bài báo này vẫn được truyền tụng như một dẫn chứng về sức mạnh xã hôị của một bài báo bênh vực hữu hiệu cho những kẻ bị đối xử oan ức, bất công, có thể đảo ngược một vụ án phi lý, giải oan cho một sỹ quan lương thiện bị kết tội tù chung thân, sau khi nhà báo Emile Zola bỏ công điều tra tỷ mỷ vụ việc và trình bày mạnh mẽ chính kiến ngay thật của mình trên mặt báo, buộc nhà nước phải xem xét nghiêm minh lại vụ án lớn này.
 
Tất cả các giáo trình đào tạo các nhà báo trẻ ở phương Tây đều lấy bài báo này làm một tài liệu học phụ sinh động về hiệu quả xã hội của nền báo chí dân chủ, đấu tranh cho công bằng xã hội, chống độc đoán và bất công, từ dó khẳng định sức mạnh của thông tin báo chí là quyền lực thứ tư của quốc gia.
 
Tóm tắt câu chuyện như sau: Vào năm 1894, viên sỹ quan pháo binh Pháp gốc Do Thái Alfred Dreyfus  làm việc taị Bộ Tham mưu bị tố cáo phản bội tổ quốc, cung cấp bí mật quốc gia cho một tùy viên quân sự trong đại sứ quán Đức ở Paris. Alfred Dreyfus bị tòa án quân sự kết tội phản quốc, tuyên án tù chung thân, và đày đi L’Ile du Diable (Đảo Quỷ) tại Guyane thuộc Pháp.

Một bằng chứng để tòa kết tội là thẩm định chữ viết của anh ngoài bì thư gửi cho tòa đại sứ Đức. Trước tòa, anh một mực kêu oan. Em trai anh là Mathieu Dreyfus và vợ anh Lucie cũng một lòng kêu oan cho anh.

Trước khi bị đi đày, tại sân Trường Quân sự anh buộc phải chịu lễ tước quân hàm và tước vũ khí , thanh kiếm của anh bị bẻ gãy, tiêu biểu cho sự ô nhục của kẻ phản bội.
 
Hơn hai năm sau, năm 1887, Trung tá Georges Piquart, trưởng ban điều tra, nắm được chứng cứ xác minh kẻ phạm tội chính là Đại úy Walsin Esterhazy chứ không phải là Alfred Dreyfus. Nhưng vì sợ trách nhiệm, cả Bộ Quốc phòng, Bộ Tham mưu và toà án quân sự không muốn thay đổi kết luận vụ án, buông thả theo xu hướng chống Do Thái còn khá mạnh hồi ấy. Trung tá Georges Piquart bị điều sang Phi Châu xa xôi để giữ kín chuyện mới phát hiện. Các vị chức sắc còn dựng lên một phiên tòa quân sự chớp nhoáng để xét xử qua loa kẻ tội phạm thật sự là Đại úy Walsin Esterhazy và tuyên bố trắng án, tha bổng cho viên sỹ quan này vào ngày 11/1/1898.

​​
Hai ngày sau, bài báo của Emile Zola xuất hiện, bán vèo 200 ngàn số một buổi sáng, một kỷ lục chưa từng có . Tít chỉ có 3 chữ, “Tôi kết tội!” -  Thư ngỏ gửi Tổng thống Félix Faure  -  gây ấn tượng mạnh. Nhưng không phải có kết quả ngay.
 
Thế lực quân đội còn mạnh. Họ phản kích, lu loa là bị vu cáo vô căn cứ, có lúc Emile Zola phải lánh sang London,  Anh Quốc. Tháng 2/1898, họ mở tòa án xử nhà báo Emile Zola về tội vu khống,  nhưng ngay sau đó, trưóc sự phẫn nộ của công luận, chính quyền đành phải lùi bước, đưa ra xét lại toàn vụ án bởi một tòa án dân sự tối cao vào tháng 6/1899, theo đúng yêu cầu của nhà báo.

Công bằng đựơc thực hiện, pháp luật được tôn trọng, người oan được phục hồi danh dự, tội phạm bị trừng phạt, sau 5 năm diễn biến phức tạp, do sự can thiệp của một nhà báo, công dân Emile Zola.
 
Sỹ quan công dân Alfred Dreyfus được tự do, được cứu khỏi chết thảm trong tù, được phục hồi danh dự khi vừa tròn 40 tuổi, đoàn tụ với cô vợ Lucie từng vận động hết mình cho ngày trở về của chồng.
 
Emile Zola viết bài báo này trong 2 ngày, khi ông 59 tuổi, điểm lại một cách trung thực toàn bộ diễn biến của vụ án, với lương tâm nghề nghiệp trong sáng, trên tinh thần công dân có trách nhiệm.

Ông  viện dẫn bộ Luật về tự do báo chí 29/7/1881 để xác định nghĩa vụ và quyền hạn của người làm báo và viết báo. Ông truy cứu tỷ mỷ thận trọng bộ Luật hình sự để nhận định mỗi nhân vật liên quan đến vụ án và đến việc xử án, cuối cùng ông lên tiếng đanh thép kết tội 10 người có trách nhiệm trong việc xử án không công minh, từ Tướng Mercier, Tướng Boisdeffre và Tướng Gonse thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ Tham mưu, đến Tướng de Pellieux, Tư lệnh Rewary và Trung tá Paty de Clam khi tham gia xét xử, cho đến 3 chuyên viên Belhomme, Varinard và Couard khi giám định chữ viết của tội phạm.

Ông cũng kết tội 2 báo L’Éclair (Ánh chớp)  và  L’Echo de Paris (Tiếng vang Paris), đã cố tình thông tin sai lạc về vụ án. Cuối cùng ông kết tội gắt gao Hội dồng xử án của giới quân sự đã không ngang tầm trách nhiệm và yêu cầu vụ án phải được xét xử lại từ đầu bởi một tòa án dân sự có trách nhiệm và có trình độ cao.
 
Trong bài viết, Emile Zola đã chỉ rõ nền tư pháp độc lập xét xử công bằng mọi công dân chỉ chiếu theo luật, không theo chỉ thị của một cá nhân nào, là kết quả xương máu của biết bao chiến sỹ hy sinh cho nền cộng hòa, không cho phép ai tước đoạt. Để tạo thêm sức mạnh cho bài báo, bạn bè đồng nghiệp đã thu được 1.482 chữ ký dưới bài báo của ông để công bố và gửi cho Tổng thống Félix  Faure. Việc này đã thúc đẩy công lý.
 
Mong rằng gần 20 ngàn đồng nghiệp trong làng báo Việt Nam có dịp đọc bài báo này để hiểu rõ thêm trách nhiệm công dân của người làm báo, trách nhiệm bảo vệ cuộc sống của bạn đồng nghiệp Nguyễn Đắc Kiên vừa bị đuổi việc vì có ý kiến khác với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Không ai có thể ngồi yên trước những chuyện phi lý, người vô tội bị bịt miệng, giam cầm, kẻ phạm tội chồng chất vẫn ung dung tung hoành trong tự do.








Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 21/Mar/2013 lúc 10:08pm
mk
IP IP Logged
Trang  of 4 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.125 seconds.