Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình Tuổi Trẻ
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Tuổi Trẻ Gò Công :Tâm Tình Tuổi Trẻ
Message Icon Chủ đề: Ải Nam Quan Gởi trả lời Gởi bài mới
Người gởi Nội dung
Hoàng Dũng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 08/Nov/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 592
Quote Hoàng Dũng Replybullet Chủ đề: Ải Nam Quan
    Gởi ngày: 10/Jan/2009 lúc 9:25am


Ải Nam Quan !

Vào ngày 27/12/1999, Bộ Trưởng Ngoại Giao của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam CHXHCNVN) khi ấy là vc Nguyễn Mạnh Cầm bi mật ký Hiệp Ước Biên Giới Hoa-Việt với Bộ Trưởng Ngoại Giao Đường Gia Truyền của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc (CHNDTQ).

Sau đó, vào ngày 9 tháng 6 năm 2000, Hiệp Ước này được thông qua bởi Quốc Hội CHXHCNVN, có hiệu lực từ ngày bản Hiệp Ước này trong tay để đọc. Bộ Chinh Trị ĐCSVN trinh bày bằng miệng với Ban Thường Vụ của Quốc Hội CHXHCNVN, sau đó, Ban Thường Vụ đồng ý và làm áp lực để tất cả Quốc Hội của CHXHCNVN phải thông qua Hiệp Ước này. Trong Hiệp Ước này, CHXHCNVN nhường khoảng 789 km2 phần đất biên giới cho CHNDTQ bao gồm nhiều danh lam thắng cảnh, địa điểm lịch sử, và những trọng thế chiến lược quân sự. Nhiều người không biết chuyện này mãi cho đến ngày 27/12/2001, hai nhà nước CHXHCNVN va CHNDTQ chính thức làm lễ Cắm Cột Mốc Biên Giới.

Cột mốc đầu tiên được cắm là ở Móng Cái, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam. Ngoài Hiệp Ước này ra, vào ngày 25 tháng 12 năm 2000, NNCHXHCNVN còn bè phái cấu kết với nhau trong bí mật ký Hiệp Ước Phân Chia Lãnh Hải với CHNDTQ mà trong đo CHXHCNVN nhượng khoảng chừng 10 ngàn km2 cho CHNDTQ. Cả hai Hiệp Ước đã tạo một cơn sóng bất mãn ở Việt Nam và ở hải ngoại. Có rất là nhiều vấn đề liên quan đến hai Hiệp Ước này. Tôi đã có cơ may trình bày việc CHXHCNVN cắt đất dâng biển cho CHNDTQ trong Hội Luận Việt Nam ở Đại học Texas Tech, Lubbock, Texas, vào ngày 11 tháng 4 năm 2002. Tuy nhiên, tôi đang soạn lại bài viết để đi vào chi tiết những "tiểu vấn đề" giúp cho hiểu thấu hơn chuyện đang xảy ra. Ải Nam Quan là một trong những tiểu vấn đề quan trọng và phức tạp nhất trong chuyện này, do đó, tôi muốn ưu tiên dành thời giờ đào sâu chi tiết về vấn đề Ải Nam Quan.

Tôi sẽ dịch bài viết này sang tiếng Việt để gởi đến các độc giả Việt Nam. Chân thành cảm ơn sự quan tâm của quý vị trong vấn đề Quan Hệ Hoa Việt mà vấn đề này có một hệ quả sâu rộng đối với quyền lợi của Hoa Kỳ và các quốc gia Tây Phương tại Đông Nam Á./. Ls. Hoàng Duy Hùng, Soạn thảo và sửa chữa lại tiểu mục Ải Nam Quan vào ngày 25/5/2002 tại Houston Texas. Xưa kia, biên giới Việt Nam thời Văn Lang lên tới Hồ Động Đình, Núi Ngũ Lĩnh. Thời Triệu Đà, Nam Việt gồm một phần tỉnh Vân Nam, hai tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông và Đảo Hải Nam. Năm 43, Mã Viện ra lệnh dựng trụ đồng như một hình thức xác nhận biên giới hai nước, cột đồng này ở vùng Cổ Lâu, Núi Phan Mao, cách Khâm Châu khoảng 3 cây số. Thời anh hùng Ngô Quyền giành Độc Lập cho nước Việt năm 939, biên giới Việt gồm một phần tỉnh Vân Nam và cả tỉnh Quảng Tây. Trung Hoa nhìn thấy mỗi lần chiếm được đất Việt, người Việt vùng dậy thi họ có khả năng chiếm lại đất tổ, lên tới tận Quảng Tây va nhiều khi tới cả Quảng Đông luôn, hay ít nhất lên tới chỗ trụ đồng mà Mã Viện ra lệnh xây cất năm 43.

Từ thế kỷ thứ 10 đến 16, người ta gọi vùng biên giới này là Ải Pha Lũy hay Ải Ba Lụy. Vì thấy không có một bức tường thành kiên cố ngăn chận "sự chiếm đất này lại" của người Việt, nhân lúc Mặc Đăng Dung cắt đất dâng cho nhà Minh, thế kỷ thứ 16, vua Gia Tĩnh liền xây một cái cổng và một tường thanh kiên cố giống y các vua chúa bên Trung Hoa ngày xưa xây Vạn Lý Trường Thành chận đứng sự xâm lăng của quân Hung Nô và cac bộ tộc phía bắc. Từ đó, danh xưng Ải Nam Quan chính thức được ra đời với nhiều màn ly kỳ. Vua Quang Trung nhận ra âm mưu này của người Trung Hoa, năm 1792, sai Sứ Thần sang Bắc Kinh đòi lại hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, tìm cách phá hủy sự cản bước của cái Cổng này. Nhưng, tiếc thay, ngài đột ngột qua đời với nhiều nghi vấn là ngai đã bị vua Can Long của Nha Thanh đầu độc qua áo bào quý giá mà vua Càn Long giả vờ tặng cho ngài.

Bây giờ, vùng đất nay ĐCSVN đ? dang hiến hoan toan cho Cộng Hoa Nhan Dan Trung Quốc thi con đau la những gia trị oai hung của lịch sử nước Việt? ẢI NAM QUAN TRONG LONG LỊCH SỬ DAN TỘC VIỆT NAM Khi Tổng Thống Charles De Gaulle (1890-1070) , một anh hung cứu nước Phap khỏi ban tay Nazi của người Đức trong Đệ Nhị Thế Chiến va la người sang lập nen Đệ Ngũ Cộng Hoa Phap, qua đời vao thang 11 năm 1970 vi cơn nhồi tim, ong Georges Jean-Raymond Pompidou (1911-1974) luc đo đang lam Tổng Thống của nước Phap, đ? phat biểu: "Cai chết của Tổng Thống De Gaulle lam cho nước Phap trở nen bị goa bụa." Đối với toi, tren quan điểm lịch sử, văn hoa, va quan sự, Việt Nam trở thanh một đan ba goa bụa khi cả vung Ải Nam Quan bị mất vao tay Trung Quốc. Việt Nam co cau ngạn ngữ ma ai cũng học thuộc long từ hồi con lớp mẫu giao: "Nước Việt
Nam chạy dai từ Ải Nam Quan đến Mũi Ca Mau." Nếu chung ta nhin tren bản đồ, chung ta co thể dễ dang nhin ra đỉnh cao nhất của phia bắc Việt Nam giap ranh giới của Trung Hoa la thị trấn Đồng Văn, tỉnh Hạ Giang. Dẫu vậy, vi vai tro của Ải Nam Quan trong lịch sử, vi vị thế tự nhien, kien cường, va chiến lược của no để bảo vệ lấy sự xam lăng của quan Trung Hoa thẳng đến thủ đo Ha
Nội, Ải Nam Quan trở thanh một phần trong văn chương va đời sống hang ngay của người Việt, va, khi người Việt Nam nghĩ đến Ải Nam Quan, lập tức người Việt Nam tự nhien nghĩ đến no la "bien giới" giữa Trung Hoa va Việt Nam hơn la nghĩ tới Đồng Đăng. Khi người Việt Nam nhắc đến "Ải Nam Quan" thi họ am chỉ cả một vung ma trước đay ở những thế kỷ xa xưa thường được gọi la Ải Nam
Giao va sau nay vao thời Trung Cổ từ khoảng thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ thứ 16 gọi la Ải Pha Lũy hay la Ải Ba Lụy.

Khu vực Ải Nam nay kha rộng lớn gồm nhiều đồi nui hung vĩ, một con suối dai khoảng 40 cay số va những thung lũng dọc theo con suối nay. Ải Nam nay la một khoảng cach kha dai chạy dọc theo con suối ở giữa những ngọn nui uy m?nh đo. Hai ben phia trai va phia phải của Ải Nam nay đều co những "ải" nhỏ, nhưng những ải nay khong co tầm quan trọng chiến lược. Vao thế kỷ thứ 16, Nha Minh xay một cai cổng ở ngay Ải Nam, va từ ngay đo, khi người Việt Nam nhấn mạnh đến chủ quyền của họ tren "Ải Nam Quan" thi y của họ la noi đến chủ quyền phần đất từ phia nam của Cai Cổng nay. Nếu cả vung phia nam của Ải Nam Quan ma mất vao tay người Trung Hoa, no la một sự thiệt thoi lớn lao cho người Việt Nam tren nhiều phương diện, đặc biệt, no la một "cu đấm gục ng?" đối với niềm tự hao va tự quyết của dan tộc Việt Nam. Những thế kỷ đầu, khi người Việt Nam xac quyết chủ quyền của họ tren Ải Nam, co lẽ họ noi đến tất cả khu vực nơi con suối bắt đầu va nơi con suối kết thuc lam nen cai "Ải Nam" nay, va, bien giới của khu vực nay co lẽ la ở ngay tại cột
đồng lịch sử ma M? Viện ra lệnh dựng nen vao khoảng năm 43 sau Cong Nguyen. Vao năm 40 sau Cong Nguyen, dưới sự l?nh đạo của hai chị em cao quy ma Việt Nam gọi Nhị Trưng Vương, người Việt nổi dậy chống lại sự cai trị của người Trung Hoa va gianh được độc lập lại cho nước nha trong một thời gian ngắn, khoảng 3 năm.

Đại Đế Quang Vũ (cai trị 25-58 AD) của nha Đong Han (25-220 A.D) ben Trung Quốc liền cử Mã Viện (14 B.C - 49 A.D), một trong những tướng tai giỏi nhất của ong, với một số quan hung hậu đong hơn Hai Ba nhiều, đến Giao Chỉ (ten của Việt Nam thời bấy giờ) để đan ap cuộc nổi dậy. Năm 43, sau khi bị thất trận ở Hat Mon, hiện nay ở tỉnh Sơn Tay của Việt Nam, Hai Ba chọn một cai chết đang kinh ngưỡng bằng cach trầm minh ở ngay giao điểm của hai con song, song Hat Giang. Sau cai chết của Hai Ba Trưng, M? Viện để lại một số binh sĩ va giao cho một trong những thuộc hạ của ong cai trị Giao Chỉ, phần đất ma họ mới tấn chiếm, va M? Viện rut quan trở về với Triều Đinh Nha Han. Tren đường về, khi qua bien giới Hoa-Việt, M? Viện ra lệnh dựng một cột đồng để chứng tỏ quyền uy của Trung Quốc tren đất Việt, va tren cột đồng co khắc giong chữ: "Đồng Trụ Chiết (ng?),
Giao Chỉ Diệt." Sợ rằng một ngay nao đo cột đồng nay sẽ bị ng? tạo một hiện tượng tam ly xấu trong cac thế hệ Việt tương lai, tổ tien người Việt luc đo mỗi người đ? cầm một cục đa nem vao trụ đồng, cac cục đa cứ vậy ma đắp len chung quanh cột đồng thanh một ngọn đồi nhỏ, va trụ đồng vĩnh viễn bị chon trong cai "ngọn đồi" nay. (Xin xem hinh Hai Ba Trưng Chọn Cai Chết Anh Dũng Trầm Minh ở Song Hat Giang vao năm 43 ở trang 6 phần tiếng Anh ), Dầu một sự kiện lịch sử quan trọng xảy ra như vậy, cũng khong co ai chinh thức ghi nhận chinh xac nơi cột đồng đ? được dựng nen. Từ năm 43 trở đi, nhiều biến cố lịch sử diễn ra, nhiều sự thay đổi nhanh chong, bụi bậm bam vao che lấp ngọn đồi đa đ? chon sau cột đồng đo, va cay cỏ mọc len tren ngọn đồi nay lam cho cột
đồng nay trở thanh một di tich lịch sử bị mất. Năm 819, M? Tổng, con chau củaM? Viện, một quan chức của Nha Đường, được gởi đến lam thai thu Giao Chỉ, đ? gian lận cho dựng nen hai cột đồng khac ở miền trung Việt Nam, một ở tỉnh Nghệ An bay giờ va một ở phần đất nay la tỉnh Quảng Binh. M? Tổng noi rằng đo chinh la hai cột đồng do tổ tien M? Viện của ong dựng nen từ hồi trước.

Tuy nhien, chinh hai cột đồng nay vi ly do nao đo cũng đ? bị hủy diệt, va ngay hom nay khong con một dấu vết nao của hai trụ đồng nay nữa. Dựa len tren sự xảo tra nay của M? Tổng va những sự nhận định sai lầm khac, cho tới ngay hom nay, nhiều sử gia Trung Quốc cho rằng Việt Nam la một tỉnh phản loạn của Trung Hoa, vi, đối với họ, nơi đo chinh la "bien giới" của Trung Hoa. Song  le, cac sử sach Việt Nam như Đại Việt Sử Ky Toan Thư (1479) cho rằng cột đồng M? Viện được dựng nen ở tại "động" Cổ Lau, nui Phan Mao. Theo sử sach chinh thống của Nha Thanh (1644-1911), Đại Thanh Nhất Thống Chi, nui Phan Mao ở tại động Cổ Sam, một sắc dan thiểu số, va động nay cach xa thanh phố Kham Chau, tỉnh Quảng Tay, khoảng 3 cay số. Sự xac quyết của sử sach Việt Nam co ly hơn, vi trong bản đồ của Trung Hoa thế kỷ thứ 4, l?nh thổ Nam Việt gồm một phần tỉnh Van Nam, tỉnh Quảng Tay, tỉnh Quảng Đong, va Đảo Hải Nam. Cac bản đồ thế kỷ thứ 10, khi Việt Nam do anh hung Ngo Quyền gianh lại Độc Lập năm 939, r? rang l?nh thổ Nam Việt gồm một phần tỉnh Van Nam va tỉnh Quảng Tay. (Xin xem cac bản đồ ở trang 8 va trang 9 trong phần bai viết bằng tiếng Anh) Từ ngay Việt Nam gianh lại Độc Lập vao năm 939, nhiều cuộc chiến đ? diễn ra giữa Việt Nam va Trung Hoa, va nhiều cuộc đụng độ đẫm mau đ? diễn ra ở vung Ải Nam. Để thắng Việt Nam, Trung Hoa phải thắng trận chiến ở vung Ải Nam, va khi Trung Hoa thất trận va rut lui khỏi Việt Nam, một trong những trận địa quan sự cuối cung vẫn la ở vung Ải Nam nay. Từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ 16, bien giới Việt-Hoa phải la ở ngay cột đồng ma M? Viện ra lệnh dựng nen vao năm 43, nhưng, vao luc bấy giờ, khong ai tim ra đich xac chỗ chon cột đồng nay; do đo, vấn đề bien giới đ? khong được giải quyết. Hơn nữa, vao những thế kỷ đo, cac bộ tộc miền nui thường  hay "nhảy qua nhảy lại," luc thi xin quy phục triều đinh Đại Việt, luc thi xin quy phục triều đinh Trung Hoa. Một dữ kiện khac đo la vao thời điểm đo, dan số qua it, đất đai qua rộng, nen đối với cac chinh phủ, việc điều khiển va cai trị người mới la vấn đề tối quan trọng, chớ khong phải việc lam chủ quyền đất đai. Vi vậy, quả thật rất la kho khăn để quyết định chinh xac vị trị bien giới Việt-Hoa trong những thế kỷ đo. Vao năm 1400, Hồ Quy Ly cướp ngoi triều đinh Nha Trần.

Nha Minh ben Trung Quốc lập tức cong bố họ sẽ trừng phạt giong tộc Hồ để giup cho con chau nha Trần len ngoi trở lại. Nha Minh chuẩn bị đem quan vao Đại Việt. Hồ Quy Ly qua sợ h?i trước quan đội hung mạnh của Nha Minh, theo Đại Việt Sử Ky Toan Thư (1479), vao năm 1405, Hồ Quy Ly nhường cho Nha Minh phần đất Cổ Lau ở nui Phan Mao va 59 động ở bien giới Việt-Hoa như một hinh thức hối lộ để cho Nha Minh khong tấn cong hủy diệt giong tộc Hồ. Nha Minh chấp nhận sự nhượng đất nay, đem phần đất Cổ Lau va 59 động nhập vao Vương Quốc của Nha Minh dưới sự cai quản của Kham Chau , tỉnh Quảng Tay. Dẫu vậy, vao năm 1407, nha Minh vẫn đem quan đanh chiếm va cai trị Đại Việt (tức la Việt Nam thời bấy giờ) 20 năm trời. Khi Nha Minh đem quan đanh chiếm Đại Việt vao năm 1408, họ bắt va chuyển một số vua quan giong họ Hồ của Đại Việt về Kim Lăng, ở tỉnh Sơn Đong ben Trung Quốc để dễ bề kiểm soat. Nguyễn Phi Khanh, một trong những đại thần của vua Hồ cũng bị bắt đi theo nhom nay để bị chuyển về Kim Lăng.

Nguyễn Trải (1380-1442), con của Nguyễn Phi Khanh, theo cha đến tận Ải, va luc bấy giờ người ta gọi la Ải Pha Lũy. Nguyễn Trải rất buồn cho số phận của cha đến nỗi ong khong con muốn sống nữa. Đến một nơi, hai cha con Nguyễn Phi Khanh va Nguyễn Trải om nhau khoc, khoc rất nhiều, va Nguyễn Phi Khanh khuyen Nguyễn Trải h?y vững mạnh len, h?y trở về va tim đường cứu đất nước ra khỏi ban tay đo hộ của người Trung Hoa. Truyền thuyết theu dệt rằng những giọt nước mắt của họ đ? chảy xuống thanh giong suối ở ngay Ải, va, sau nay, để ton vinh long ai quốc của hai cha con, người ta đ? đặt ten cho con suối nay la Suối Phi Khanh. -- (Viet Nhan @ Filsons.Net), February 22, 2005 Answers Response to ẢI NAM QUAN TRONG L??NG LỊCH SỬ D??N TỘC VIỆT NAM Nguyễn Trải buồn rầu chia tay cha trở về Đại Việt, va, sau nay, ong gia nhập giup cho Le Lợi, một phu nong rộng lượng co một quả tim vĩ đại cho dan tộc vao năm 1418 đ? trở thanh vị anh hung cach mạng phất cờ l?nh đạo một cao trao chống lại sự cai trị của Nha Minh. Nguyễn Trải, một triết gia, đ? trở thanh bộ oc, ly thuyết gia, va chiến lược gia cho Le Lợi. Chinh ong đ? viết Binh Ngo Đại Cao với những lời hung mạnh, cao sieu, va đầy triết ly như sau: "Lấy chi nhan ma thay cường bạo; đem đại nghĩa để thắng hung tan." Sau 10 năm chiến đấu, Le Lợi va Nguyễn Trải đ? gianh lại được Độc Lập cho Đại Việt. Le Lợi va Nguyễn Trải cũng chiếm lấy lại được tất cả cac l?nh thổ ma Hồ Quy Ly đ? nhượng cho nha Minh trước đay, va đương nhien, Suối Phi Khanh, nơi ma Nguyễn Trải đ? chia tay với cha, đ? trở thanh một địa danh linh thieng từ ngay đo. Năm 1428, Le Lợi len ngoi trở thanh Le Thai Tổ, sang lập ra Triều Đại Nha Le.

Bien giới Hoa-Việt vao Triều Đại Nha Le vẫn thường la ở ngay cột đồng được dựng len do lệnh của M? Viện vao năm 43, bị chon sau trong đống đa đ? trở thanh một "ngọn đồi" ở đau đo tại vung Cổ Lau, nui Phan Mao, gần Kham Chau, tỉnh Quảng Tay. Thế rồi, vao năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngoi Nha Le. Tam (8) năm sau, năm 1535, gia đinh uy dũng họ Nguyễn đ? giup lại cho Vua Le lấy lại được quyền, đuổi giong họ Mạc ra khỏi Ha Nội. Sau một thời gian ngắn, gia đinh họ Trịnh, sui gia với nha Nguyễn, đ? cướp được quyền Chua của giong tộc Nguyễn, đuổi giong tộc Nguyễn ra khỏi kinh thanh. Giong tộc Nguyễn troi giạt xuống phia nam lập ra một vương quốc mới, va giong tộc Trịnh cai trị Ha Nội va vung phụ cận qua cac vua Le như la những kẻ bu nhin của họ. Trong khi ấy, giong tộc Mạc đi về phia bắc thanh lập một vương quốc rieng ở vung đất ngay hom nay la tỉnh
Cao Bằng - Lạng Sơn của Việt Nam va một phần đất ngay hom nay thuộc về tỉnh Quảng Tay của Trung Quốc. Năm 1537, dưới chieu bai ủng hộ con chau Nha Le trở về ngai vang, Nha Minh sai hai tướng Cừu Loan va Mao Ba On chuẩn bị đem tren 100 ngan quan tiến chiếm Đại Việt. Trước khi đến bien giới, cac tướng Nha Minh hu dọa rằng sẽ mang cả giong tộc Mạc ra hanh quyết. Để đổi lấy sự rut quan của Trung Hoa cũng như để đạt lấy sự bảo hộ của Nha Minh, theo sử sach Việt Nam,
giong tộc Mạc đ? 2 lần dang đất cho Trung Hoa. Lần thứ nhất xảy ra vao năm 1538, Mạc Đăng Dung dang hai chau Quy va chau Thuận, va lần thứ hai xảy ra vao năm 1540, Mạc Đăng Dung nhường 6 động Te Phu, Kim Lặc, Cổ Sam, Liễu Cat, An Lương, va La Phu của chau Vĩnh An, Yen Quảng cho Nha Minh va Nha Minh sat nhập cac phần đất nay trở thanh một phần của Kham Chau, tỉnh Quảng Tay. Sach sử của Trung Hoa co đoi chut khac biệt. Theo họ, luc đầu hai tướng Cừu Loan va Mao Ba On bao cao về cho Triều Đinh Nha Minh biết Mạc Đăng Dung đ? "trả lại" 4 động Cổ Sum, Te Lẫm, Kim Lặc, va Liễu Cat ma Đại Việt trước đay đ? "xam chiếm" của Trung Hoa.

Trong cuốn Kham Chau Chi của nha Thanh lại chep Mạc Đăng Dung nộp trả năm (5) động Ty Phu, La Phu, Cổ Sam, Liễu Cat, va Kim Lặc ma thoi, chớ khong thấy noi đến động An-Lương. Co lẽ dựa tren cuốn Kham Chau Chi của nha Thanh, nen sử gia Trần Trọng Kim của Việt Nam vao đầu thập nien 1970s cho rằng Mặc Đăng Dung chỉ co dang 5 động Te Phu, Kim Lặc, Cổ Xung, Liễu Cat, va La Phu. Sử gia Trần Trọng Kim bỏ động An Lương. Ngạc nhien hơn nữa, sử gia Trần Trọng Kim con cho biết Mặc Đăng Dung cắt dang đất "Kham Chau" cho nha Minh. Chung ta khong biết chắc "Kham Chau" ma sử gia Trần Trọng Kim nhắc đến co phải cũng la "Kham Chau" ở tỉnh Quảng Tay hom nay hay khong. Tuy nhien, nhiều người suy diễn khi sử gia Trần Trọng Kim nhắc đến "Kham Chau," sử gia Trần Trọng Kim am chỉ vung Cổ Lau, nui Phan Mao, nơi cột đồng M? Viện đ? ra
lệnh dựng nen năm 43, cach xa thanh phố Kham Chau khoảng 3 cay số. Rieng Bac Sĩ Trần Đại Sỹ, trong bai điều trần "Về Việc Đảng Cộng Sản Việt Nam L?nh Đạo Nha Nước Cắt L?nh Thổ, L?nh Hải Cho Trung Quốc," vao thang 11 năm 2001, ở phần "Lời Cẩn An," co ghi chu như sau: "Sử cũ chep đầu hang nha Minh, Mặc Đăng Dung xin nộp cac động Ty Phu, Kim Lặc, Cổ Sam, Liễu Cat, La Phu
va An Lương thuộc chau Vĩnh An ở Yen Quảng cho lệ thuộc vao Kham Chau. Nay xet Kham Chau Chi của nha Thanh, chỉ thấy chep đời Gia Tĩnh (1522-1566), Đăng Dung nộp trả năm động Ty Phu, La Phu, Cổ Sam, Liễu Cat, va Kim Lặc ma thoi, chớ khong thấy noi đến động An-Lương. Lại tra cứu đến Quảng Yen sach thi thấy động An Lương hiện nay la phố An Lương thuộc chau Vạn Ninh nước ta. Co lẽ về động An Lương, Đăng Dung chưa từng dang nộp, ma chỉ la do sử cũ chep sai sự thật đo chăng? Lại xet, trong năm Mạc Minh Đức thứ 2, tức la năm Minh Gia Tĩnh thứ 7 (1528), sử cũ chep Đăng Dung sợ nha Minh hỏi tội, ben tinh chuyện cắt đất đem dang hai chau Quy, Thuận, vua Minh Nhận. Từ đo, Nam, Bắc lại cho sứ giả đi lại thong hiếu. Nhưng nay tra cứu bản đồ trong nước ta thi co Quy-Hoa Chau va Thuận Chau. Hai chau nay hiện nay thuộc tỉnh Hưng Hoa.

Trong Đại thanh Nhất Chi tuy co chep chau Quy-Thuận nguyen thuộc phủ Trấn an tỉnh Quảng Tay nha Thanh đấy thật, nhưng hai chau ma sử cũ gọi la Quy, Thuận co lẽ la Quy-Hoa va Thuận Chau đo thoi." Dựa tren một số điểm khac biệt như vậy, nha sử học Marxist Trần Khue vao năm 1995 đ? viết một bai phe binh gắt gao sử gia Trần Trọng Kim la đ? chep sử sai, thay vi phải chep Mặc Đăng Dung cắt dang cho Nha Minh 6 động thi đ? "tự y bỏ mất đi động An Lương," va, "(sử gia Trần Trọng Kim đ?) bịa them cai gọi la 'Kham Chau'. Lam sao Mặc Đăng Dung lại co thể cắt đất dang nộp phần đất khong phải la của nước minh?" Nha Marxist Trần Khue viết bai nay benh vực việc Mạc Đăng Dung cắt đất dang cho Nha Minh để được sự bảo vệ sống con cho cả giong họ Mạc khong đến nỗi phải bị nguyền rủa giống y như những gi ma sử sach Việt Nam đ? từng lam trong nhiều thế kỷ qua. R? rang la co đoi sự khac biệt ngay cả sử sach Trung Hoa va sử sach Việt Nam, tuy nhien, một điều chắc chắn đo la Mặc Đăng Dung đ? nhường một phần l?nh thổ của Đại Việt cho Nha Minh để đổi lấy sự bảo hộ của họ cho sự sống tồn của giong họ Mạc, va, đối với đại đa số người Việt Nam, đay la hanh động phản quốc đang bị nguyền rủa qua muon thế hệ ở mọi thời đại. Sau (6) hay năm (5) động va hai chau Quy, Thuận ma Mạc Đăng Dung dang cho nha Minh đều chỉ la một sự am chỉ phần đất Cổ Lau, nui Phan Mao, gần Kham Chau, tỉnh Quảng Tay ma đối với người Việt Nam rất la linh thieng vi họ tin rằng nơi đay co cột đồng đ? dựng nen vao năm 43 do lệnh của M? Viện, va cột đồng nay đ? chon sau trong đống đa nằm ở đau đo trong vung nay.

Lợi dụng cơ hội nhượng đất nay, Hoang Đế Gia Tĩnh Nha Minh (cai trị 1522-1566) ra lệnh xay một cai cổng ở ngay Ải tạo một dấu chứng bien giới Hoa-Việt để từ đo người Việt Nam kho long ma co thể lấy lại đất tổ của họ ngay tới tận cột đồng đ? được dựng nen từ năm 43 như một hinh thức gay nen một tam ly hội chứng x? hội, một dấu hiệu xấu cho người Việt Nam qua nhiều năm thang. Vi cai Cổng huy hoang va đồ sộ nay, nen tự nhien người ta quen đi cac ten Ải Pha Lũy hay Ải Ba Lụy, va thay vao đo, người ta gọi no những cai ten khac như Đại Nam Quan hoặc Trấn Di Quan. Nha Minh chinh thức gọi no la Ải Nam Quan. Người Phap, vao thế kỷ thứ 19, đ? gọi no la Cổng Trung Hoa (Porte de Chine). Vao thập nien 1960s, Mao Trạch Đong đề nghị với Hồ Chi Minh đổi ten no thanh Mục Nam Quan như một dấu chứng "đan anh Trung Hoa" luc nao cũng ngo xuống phia nam để lo lắng cho "đan em Việt Nam" ng? hầu lam cho tinh hữu nghị quốc tế vo sản giữa hai quốc gia cang được trong sang hơn. Hồ Chi Minh đề nghị lại xin đổi thanh Hữu Nghị Quan. Cac hoang đế Nha Minh ra một chiếu chỉ rất nghiem khắc về việc điều hanh Cổng nay. Về sau, cac hoang đế nha Thanh cũng theo quy chế khắc khe đo. Theo như chỉ dụ, Cổng-Thanh chỉ được mở khi co phai đoan ngoại giao của hai nước, va no chỉ được mở khi co lệnh của hoang đế hay do quyết định "khon ngoan" của vị Quan Tổng Đốc Lưỡng Quảng trong những trường hợp thật khẩn cấp. Bằng cach ap dụng nguyen tắc hanh chanh kho khăn nay trong vấn để mở Cổng Thanh, Trung Quốc muốn chắc ăn Việt Nam sẽ rất kho ma co cơ hội dung vũ lực tiến chiếm lại những vung đất ma họ đ? mất như họ đ? từng lam nhiều thế kỷ trước.

Từ ngay Cổng Thanh được xay vao thế kỷ thứ 16, tren 200 năm, chưa co trường hợp nao Cổng Thanh được mở ra vi mục đich quan sự. Nhưng, vao năm 1788, Trung Quốc hồ hỡi mở Cổng Thanh đưa cac đạo quan vao nam, tổng cộng cac đường tiến quan len tới hơn 200 ngan, để tấn chiếm Việt Nam. Năm 1771, ba anh em họ Nguyễn ở Tay Sơn miền trung Việt Nam nổi len chống lại Chua Nguyễn ở phia nam va sau nay chống lại Chua Trịnh ở phia bắc. Ba anh em nay được sử sach Việt Nam gọi la Nha Tay Sơn. Năm 1777, anh em Tay Sơn lật đổ chinh quyền ở trong nam. Năm 1786, and em Tay Sơn, dưới quyền điều khiển của người em trai trẻ nhất la Nguyễn Huệ, tiến thẳng va đong chiếm Ha Nội. Sau khoảng 250 năm chia cắt, Việt Nam được thống nhất. Vua bu nhin của Việt Nam luc bấy giờ la Le Chieu Thống chạy sang Bắc Kinh vận động sự ủng hộ của Đại Đế Can Long (cai trị 1735-1796) giup ong ta trở về len ngai vang. Vua Can Long nhận ra đay la cơ hội để Trung Hoa co thể tai cai trị Việt Nam, vi thế, nup dưới danh nghĩa "ủng hộ con chau nha Le trở lại ngai vang va trừng trị những bay toi phản trắc của nha Le," Đại Đế Can Long sai tướng Ton Sĩ Nghị chỉ huy 200 ngan quan xam chiếm Việt Nam. Từ ngay ma Cổng Thanh được xay cất, đay la lần đầu tiền Ải Nam Quan được mở ra cho việc tiến cong quan sự, va qua r? rang, phần lợi thuộc về phia Trung Hoa. Quan đội của Trung Hoa tiến vao Ha Nội một cach dễ dang chỉ trong vong co vai tuần. Đứng trước hiểm họa nguy cập Việt Nam co thể bị Trung Hoa đo hộ lần nữa, vao năm 1788, tại Huế thuộc miền Trung Việt Nam, Nguyễn Huệ đăng ngoi Hoang Đế, lấy hiệu la Quang Trung (1752-1792). Hoang Đế Quang Trung la một nha thien tai về quan sự, với những đạo quan khoảng 100 ngan người, ong tiến từ Huế đến Ha Nội chỉ trong vong co vai tuần, thắng nhiều trận đanh oanh liệt, đanh bại quan đội hơn 200 ngan người của tướng Ton Sĩ Nghị một cach dễ dang, đuổi họ ra khỏi Ha Nội. Tướng Ton Sĩ Nghị phải rut về Trung Hoa va cai Cổng đ? được đong lại để ngăn chận sự tiến quan của Đại Đế Quang Trung. Nhận thấy Cai Cổng chinh la một cản trở vật để cho Việt Nam tiến chiếm lại cac phần đất của tổ tien, vao đầu năm 1792, tin rằng cac đạo quan của ong đ? được huấn luyện kỹ lưỡng va đủ hung mạnh để tiến vao Trung Hoa gay chiến tranh với Nha Thanh, Đại Đế Quang Trung cử ong V? Văn Dũng lam Sứ Thần trưởng phai đoan đến Bắc Kinh để đưa ra hai điều kiện:

1/ Trung Hoa phải trao trả lại cho Việt Nam những phần đất của tổ tien bao gồm 2 tỉnh Quảng Đong va Quảng Tay, hoặc, it nhất la phải trả lại tới phần đất ngay cay cột đồng đ? được dựng nen vao năm 43; 2/ Hoang Đế Nha Thanh phải đồng y gả cong chua cho Vua Quang Trung như một sự bay tỏ giao hảo lau dai giữa hai quy tộc. Khong may, Vua Quang Trung một cach kỳ bi bị tai biến mạch mau n?o (xưa gọi la chứng huyễn vận tức xuất huyết n?o) rồi qua đời khi ma ong mới được 40 tuổi. Nhiều tin đồn cho biết sau khi Đại Đế Quang Trung đanh thắng quan đội của Ton Sĩ Nghị vao năm 1788, Hoang Đế Can Long nhận ra ngay Vua Quang Trung la một thien tai về quan sự, va, khong bao lau sau, Vua Quang Trung sẽ la mối họa lớn cho Triều Đinh Nha Thanh. Do đo, Hoang Đế Can Long giả vờ ong ấy rất ai mộ Vua Quang Trung đến độ ong ấy vao năm sau, năm 1789, chinh thức gởi sắc phong cong nhận Vua Quang Trung la "An Nam Quốc Vương." Va, để đanh dấu biến cố đặc biệt nay, Hoang Đế Can Long trao gởi một ao bao lộng lẫy va mắc tiền như một "tặng vật" cho Vua Quang Trung. Vua Quang Trung khong biết ao bao đ? co nhuộm một loại thuốc độc đặc biệt thấm sau trong cac sợi chỉ của ao bao; vi thế, khi ong mặc vao, kết quả la chất độc từ từ thấm vao cac tế bao của ong, va vai năm sau, chất độc phản ứng gay nen một tai biến bất ngờ cướp lấy đi mạng sống của ong. Hung tin cai chết của Vua Quang Trung đến tai Sứ Thần V? Văn Dũng ở Bắc Kinh. Ông sứ thần mệt m? va lặng lẽ sửa soạn khăn goi trở về que hương. Ông khong dam he moi noi cho Triều Đinh Nha Thanh biết hai sự đoi hỏi của Vua Quang Trung. Sau cai chết của Vua Quang Trung, khong con ai co đủ khả năng để "hủy diệt" cai Cổng bị am ảnh đo cũng như theo đuổi cao vọng đoi lại đất tổ ở rất xa phia bắc của cai Cổng nay. -- (Viet Nhan @ Filsons.Net),
February 22, 2005.


Xin chân thành cảm ơn anh Henry Vũ đã chuyển bài viết Ai Nam Quan Trong Lòng Lịch Sử Dân Tộc Việt sang dạng UNICODE cho tôi. Kinh.

HDH
------------------------------------------

*****************************

KY SU NDS: Hình 14 - Mục Nam QuanĐối chiếu địa thế trong các tấm hình, chúng ta tự hỏi: Làm sao chỉ trong vòng 100 năm mà vùng Ải Nam Quan lại có thể bị san thành bình địa để từ đó cổng Đại Nam Quan bị biến mất đi, và cổng Mục Nam Quan được xây dựng lên từ lưu vực sông Kỳ Cùng, sát Đồng Đăng? Vùng cổng Đại Nam Quan với hai dãy núi đá hiểm trở không phải là một địa thế dễ san bằng. Theo hiệp ước Pháp Thanh, nó có công sự gồm cổng Nam Quan rất kiên cố, với đài kiểm soát của cả hai quốc gia nằm ở trên, nhà khách trọ phía VN làm bằng gạch ngói do Đốc Trấn Lạng Sơn Nguyễn Trọng Đang xây lên năm 1774, và hai cột mốc bằng đá do các nhà trắc lượng Pháp xây để đánh dấu khoảng cách 100 m đến biên giới chính thức là cổng Nam Quan. Ngoài ra, lại có trại lính trên đỉnh núi nữa, có lẽ do Pháp xây lên. Cho dù Trung Quốc có phá hủy các công sự của họ đi mà xây lại công sự mới, thì nhất định họ không thể có quyền phá hủy luôn Vọng Đức Đài do Việt Nam xây lên, nếu không có sự thỏa thuận của nhà cầm quyền Việt Nam. Vậy ai đã thỏa thuận cho vụ phá hủy một cách mờ ám các công trình phòng thủ của tiền nhân Việt Nam?

****************************************

 KY SU NDS: Hình 13 - Cổng Nam Quan, National Geographicc.- Tấm hình thứ ba cũng là một hình màu (hình 14), có vẻ mới nhất và rõ nhất, được phổ biến trên internet, có lẽ là Mục Nam Quan mà ông Lê Công Phụng đã nhiều lần nhắc đến trong các bài phỏng vấn ông ấy. Nhiều người lầm tưởng đó là cổng Nam Quan hiện nay. Sự thật không phải thế. Nếu quan sát kỹ, người ta sẽ nhận ra sự khác biệt nhau về kiến trúc và vị trí xây cất của công sự này đối với các công sự ở hai tấm hình kia. Toà công sự này có ba tầng lầu xây trên một quảng trường bằng phẳng, có cổng hình cầu vòng bằng ô xi-măng (cement blocks). Ba tầng lầu trên cổng được kiến trúc theo kiểu của người Tàu, với hành lang bên ngoài và hàng rào có chạm trổ mỹ thuật. Khác với hai tấm hình trước, cổng cầu vòng không có cánh cửa, người ta có thể nhìn thấy xuyên qua cổng cầu vòng, đàng sau là một toà nhà mái ngói đỏ tọa lạc trên một khoảng trống bằng phẳng, chứ không có núi non trùng điệp như vùng thung lũng chật hẹp của Ải Nam Quan. Trước mặt cổng cầu vòng là ba chữ "Mục Nam Quan" và trên mái là cột ang-ten, chứng tỏ một công sự thời hiện đại. Đây là công sự mới do Trung Quốc xây lên vào giữa thập niên 1960. So với vị trí đích thực nguyên thủy của cổng Nam Quan và căn cứ vào địa thế bằng phẳng không núi non, thì Mục Nam Quan nằm cách xa phía nam cửa ải, trong bình nguyên sông Kỳ Cùng. Đường biên giới mới bị lùi lại gần Đồng Đăng, chỉ còn cách Đồng Đăng vài cây số mà thôi. Đó là hậu quả của sự đồng thuận của CSVN bằng lòng nhượng toàn vùng các ải hiểm trở trong tỉnh Lạng Sơn, để đổi lấy tiếp liệu và quân trang vũ khí cho cuộc xâm chiếm miền Nam Việt Nam vào đầu thập niên 1960.

**********************************

KY SU NDS: Hình 15 - Bản đồ thời Pháp thuộc, trước năm 19544- Sự thật qua các bản đồ hiện đại

Đối chiếu các bản đồ vùng Đồng Đăng - Ải Nam Quan của Nha Địa Dư có từ trước 1950, với các bản đồ vào những năm 1964, 1976, 1998, và 2002, chúng ta sẽ thấy kinh ngạc trước sự di chuyển  không ngừng của đường biên giới dần về phía Nam.

Bản đồ Nha Địa Dư VNCH (hình 15) là bản đồ thời Pháp thuộc đến lúc đất nước bị chia đôi. Bản đồ này có hình màu được tìm thấy trong cuốn sách Nước Tôi Dân Tôi [20]. Trên bản đồ này ghĩ rõ các chữ "Ải Nam Quan" nằm trên đường biên giới được đánh dấu bằng chữ thập, hiển nhiên là một địa danh của Việt Nam, khác với các địa danh bằng tiếng Tàu trong lãnh thổ Trung Quốc, như địa danh "Long Tcheou" (Long Châu) chẳng hạn. Khoảng cách từ Đồng Đăng lên Nam Quan khoảng 8-9 km.

So sánh bản đồ Nha Địa Dư với bản đồ hội United States Geographic Society (hình 16) được tìm thấy trên internet năm 1967, thì có sự rút ngắn khoảng 4-5 km từ Đồng Đăng lên biên giới. Điều này cho thấy sự thay đổi đã xảy ra trong thời khoảng từ 1954 đến 1967. Một cách chính xác hơn, sự thay đổi bắt đầu từ khi Trung Quốc ào ạt viện trợ quân sự cho miền Bắc xâm chiếm miền Nam vào đầu thập niên 1960.

**********************************

KY SU NDS: Hình 16 - Bản đồ United States Geographic Society, 1967So sánh bản đồ USGS 1967 với bản đồ du lịch của nhà nước nhà nước CSVN (hình 17), thì có sự khác biệt là 2 km. Bản đồ du lịch của nhà nước đến nay vẫn chưa được điều chỉnh theo Hiệp Ước 1999, vẫn còn có thể được tìm thấy trên một web site có địa chỉ như sau:

**************************

KY SU NDS: Hình 18 - Bản đồ (được cho là) hiệp ước Việt-Trung 1999Có người cho rằng bản đồ mới được phổ biến trên các diễn đàn nghị luận vào tháng 3 năm 2002 là "ngụy tạo", nhưng họ lại không đưa ra bằng cớ ngụy tạo chỗ nào. Đã thế, người phổ biến bản đồ ấy còn bị "chụp mũ" là "cộng sản". Đó là một điều vừa khôi hài vừa ấu trĩ, vì CSVN không bao giờ tiết lộ những gì có thể phương hại cho họ. Mặt khác, bản đồ đó trông rất tinh vi, không thể nào ngụy tạo được. Người viết phỏng đoán rằng bản đồ "Hiệp Ước 1999" có lẽ được lấy từ các websites của Trung Quốc hoặc Đài Loan.

Bản đồ du lịch nhà nước CSVNKhoảng tháng 3 năm 2002, có một bản đồ vùng Ải Nam Quan được một người tên là Dieu Van đưa lên các diễn đàn nghị luận ảo (email groups) và quả quyết là bản đồ của Hiệp Ước 1999 (hình 18), mặc dù Hà Nội đang tuyệt đối giữ bí mật. Bản đồ này cho thấy toàn đường biên giới trong vùng đã đổi dời thêm về phía nam so với bản đồ trên internet của nhà nước CSVN. Căn cứ trên tỷ lệ khoảng cách 20 km từ Lạng Sơn đến Đồng Đăng [21], chúng ta có thể thấy ít nhất là 2 km đã bị nhượng cho Trung Quốc qua Hiệp Ước 1999 và đường biên giới đã đến sát Đồng Đăng, gần ngã ba Quốc lộ 1 và Quốc lộ 4. Như vậy đoạn đường của Quốc lộ 1 từ Quốc Lộ 4 lên ải Nam Quan dài gần 10 km đã mất khoảng 8-9 km, chỉ còn đoạn đường xuyên qua huyện Đồng Đăng mà thôi!

Cổng Hữu Nghị (chụp từ phía TQ), hình GS Trần Đại SỹTheo hình chụp của Giáo Sư Trần Đại Sỹ thì cổng Hữu Nghị (hình 20) hiện nay là trạm kiểm soát thông thương của Việt Nam. Cổng Hữu Nghị nằm sát ngoại ô Đồng Đăng, tại một vị trí hoàn toàn không có dấu vết của cổng Nam Quan, Vọng Đức Đài xây năm 1774, cũng như các rặng núi đá ở hai bên thung lũng. Theo một chính khách từng về VN và lên tham quan biên giới, thì tại vị trí cổng Hữu Nghị, người ta không thể nhìn thấy Mục Nam Quan vì cách Mục Nam Quan ít nhất 500 m.

Hiển nhiên, vị trí mới của biên giới hiện nay đã được di chuyển với sự thỏa thuận hay đổi chác ngầm giữa hai đảng cộng sản VN và TQ. Rất có thể trong thời gian từ 1958 đến 1960, song song với việc ký lá thư nhượng Biển Đông cho Trung Quốc, ông Phạm Văn Đồng cũng đã ký một văn thư tương tự, nhượng toàn vùng ải Nam Quan và thác Bản Giốc cho Trung Quốc. Chúng ta đã biết rằng "lá thư nhượng biển" mới bị TQ đưa ra, cùng với bản tuyên bố về lãnh hải Trung Quốc, để làm bằng chứng, đối phó với việc CSVN đổi giọng (nhưng rất yếu ớt) đòi dành lại chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Có lẽ vì lo sợ Bắc Kinh lại trưng thêm bằng cớ về việc Hà Nội đã nhượng bộ ải Nam Quan và thác Bản Giốc cho họ, mà Hà Nội đã không dám dành chủ quyền hai địa danh này. Do đó, vụ sang nhượng phần đất này không hề được Hà Nội xem là thuộc "những vùng tranh
chấp" của 227 km2.

V. Kết luận

THỨ NHẤT 8 THÁNG MƯỜI HAI 2002

Hiện nay, rất khó khăn để các chuyên gia từ hải ngoại về tìm hiểu vị trí đích thực của ải Nam Quan đã và đang bị CSVN ra sức ngăn chặn. Ngay cả người trong nước, từng liên hệ mật thiết với chế độ, vẫn gặp trở ngại và không ngớt bị hù họa, tù đày chỉ vì họ đã nói lên sự thật về sự mất mát lãnh thổ. Nếu một ngày nào đó, hai quốc gia thỏa thuận cho một toán chuyên gia quốc tế thông thạo về ngành công chánh và trắc lượng (Professional Civil Engineers and Land Surveyors) đến khảo sát bằng các dụng cụ tối tân hiện nay, chắc chắn họ sẽ tìm ra các dấu vết của cổng Đại-Nam Quan hiện hữu từ 100 năm trước, cho dù Trung Quốc đã phá hủy nó đi để phi tang. Thật là một mâu thuẫn cực kỳ phi lý khi ông Lê Công Phụng cho rằng trọn vẹn hai rặng núi đá, thung lũng, tòa công sự cổng Đại Nam xây bằng đá, và các đài canh xây bằng gạch, tất cả đã bị san thành bình địa sau 110 năm mà lịch sử không hề ghi lại biến cố thiên nhiên nào, rồi cùng lúc lại tuyên bố là cột mốc tý hon đã được tìm thấy để căn cứ vào đó mà xác định biên giới theo HĐ Pháp Thanh 1887.

Không sớm thì muộn, các bản đồ mới sẽ "xuất hiện" để được kiểm chứng và đối chiếu với các bản đồ cũ có trước khi Bắc Kinh và Hà Nội nắm chính quyền trên hai quốc gia. Những bản đồ cũ này chắc chắn còn được lưu trữ trong thư viện các quốc gia liên hệ đến Việt Nam trong quá khứ hay hiện tại, nhất là Trung Quốc, Pháp, và Hoa Kỳ. Hy vọng rằng khi các bản đồ đã được "công khai hóa", lúc bấy giờ sẽ không còn các tranh luận dai dẳng về việc CSVN sang nhượng bao nhiêu lãnh thổ VN cho TQ, mà sẽ có một cuộc thảo luận ý nghĩa và hữu ích hơn:

Nhân dân Việt Nam sẽ làm gì để giành lại đất đai đã mất?


Đó là một "ngõ bí" mà nhà nước đã và đang phải tìm mọi cách tránh né. Đó cũng là một vấn nạn mà nhân dân Việt Nam không dễ dàng có đối sách giải đáp. Bởi vì nhân dân Việt Nam đang phải đối phó với hai trở ngại lớn: một lân bang vô cùng nham hiểm luôn luôn tìm cách thôn tính Việt Nam, và một chế độ vô cùng tàn ác đối với nhân dân, mạt sát những người yêu nước là "phản động" chỉ vì họ muốn bảo vệ lãnh thổ của tổ tiên.



Tin-Tin sưu Tầm



Chỉnh sửa lại bởi Hoàng Dũng - 10/Jan/2009 lúc 9:27am
IP IP Logged
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.127 seconds.