Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Tâm Tình Tuổi Trẻ | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Tuổi Trẻ Gò Công :Tâm Tình Tuổi Trẻ |
Chủ đề: MẸ VIỆT NAM ƠI DÂN TA CÓ TỘI TÌNH GÌ | |
<< phần trước Trang of 3 |
Người gởi | Nội dung |
Hoàng Dũng
Senior Member Tham gia ngày: 08/Nov/2008 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 592 |
Gởi ngày: 21/Dec/2008 lúc 10:27pm |
Chương 20CHƯƠNG HAI MƯƠI NHỮNG TRÒ CHƠI VÔ VỊ CUỐI CÙNG Thứ Sáu, ngày 25 tháng Tư Hôm nay Tổng Thống Hương lại tiếp ông M. Mérillon trong vòng 80 phút và sau đó lại họp với ông M. Martin, Đại sứ Hoa Kỳ . Cả hai nhà ngoại giao nầy người nào cũng cố thuyết phục Tổng Thống Hương là nên cấp tốc đưa ra một phương thức khả dĩ có thể mở đường cho một cuộc thương thảo với những người "cách mạng" (nguyên văn: révolutionnaires") Cả hai đều nói "phương thức nầy nên gạt ra ngoài Hiến Pháp năm 1967,.... cần có sự từ chức của Ngài, và giao lại cho một toán nào đó mà "phía bên kia" có thể chấp nhận được " Vị Tổng Thống già đồng ý chấp thuận mục đích của các đề nghị, nhưng khăng khăng muốn tìm một giải pháp theo đúng với Hiến Pháp .. Ông Mérillon càu nhàu: - "Ông ta cứng đầu lắm! như một con lừa vậy ! Lúc nào cũng "Tôn trọng hình thức hợp Hiến"., ông ta chỉ nói hoài có bấy nhiêu đó . Như một người nghèo sắp sửa bị cháy nhà mà cứ từ chối không chịu kêu lính chữa lửa, vì nghĩ rằng mình đang có trong túi một hợp đồng bảo hiểm đúng cách." Trong cuộc tiếp xúc nầy, Ông Hương đọc lại một bài thơ trào phúng của văn hào Pháp Sully Prud'homme tuyên dương hành động anh hùng của một người chỉ huy Ba Lan, khi ông nầy muốn chận đứng đoàn quân Nga trước một con rạch cạn , bằng cách làm cho họ tin tưởng rằng con rạch nầy khó có thể lội qua được . Để chứng minh điều nầy người Ba Lan lội xuống nước và gập hai chân lại đi bằng đầu gối, rồi sau đó nằm sấp xuống, trước khi giả bộ chìm hẳn và bị chết đuối. Jean M. Mérillon trợn tròn đôi mắt lên nhìn thẳng Tổng Thống Hương và vừa nhún vai vừa sốt ruột nói: - "Chúng ta không còn ở thế kỷ 19 nữa, thưa Ngài Tổng Thống , và những tên cộng sản bây giờ đã có những chiến xa lội nước và đã có cầu nổi được kéo theo để qua sông dễ dàng " Những ngày vừa qua, đã có nhiều nhân sĩ Việt Nam đến gặp Đại Sứ Pháp. Đó là : Đức Tổng Giám Mục Bình , Thượng Tọa Thích Trí Quang, thuộc chùa Ấn Quang, và Chủ Tịch Luật sư đoàn. Tất cả đều có một đề nghị: " Ông hãy có một hành động nào đó để tránh những trận đánh nhau trên dường phố trước khi đã quá muộn. " Nhưng Tổng Thống Hương cứ ôm cứng Hiến Pháp không lay chuyển nổi !. Cuối cùng, sau khi làm việc rất lâu với những người thân cận của mình, ông mới quyết định triệu tập phiên họp đặc biệt của Lưỡng Viện Quốc Hội vào sáng ngày mai thứ bảy 26/4. * * * Một tiểu đoàn chánh quy cộng sản Bắc Việt từ Đồng Tháp Mười định tiến đánh bất ngờ tỉnh lỵ Tân An , một thành phố nằm cách Sài Gòn khoảng 30 cây số về hướng Tây Nam . Cuộc tiến công nầy được diễn ra trên một cánh đồng lúa quá trống trải nên đã bị Không quân đập tan. Tiểu đoàn cộng sản đã bị diệt gọn. Nhưng cuộc tấn công nầy được xem như một cuộc hành quân của một đơn vị tiền phương, đã cho thấy là các đại đơn vị Bắc Việt từ Cam Bốt đang chuẩn bị tràn sang Việt Nam để siết chặt vòng vây Thủ đô Sài Gòn của Miền Nam Việt Nam . Từ hôm thứ hai vừa rồi, thiên hạ đua nhau xin hộ chiếu. Đi ra khỏi Việt Nam từ đầu tháng đã là một chuyện rất khó rồi, còn bây giờ thì gần như không còn thế nào được nữa. Trừ một vài trường hợp được ân huệ riêng là thân nhân hay bạn rất thân của giới lãnh đạo Miền Nam Việt Nam Từ hai tuần nay, có người đã phải trả thật đắt (đến 15 triệu đồng bạc) cho một chiếu khán. Bây giờ thì chiếu khán đó không còn dùng vào đâu được nữa rồi. Có một số người Việt Nam đến phi trường Tân sơn Nhứt với một hộ chiếu (giấy thông hành) và một chiếu khán "đã mua", mới được biết là có một cú điện thoại từ Bộ Nội Vụ (Bô Trưởng đã được thay rồi) báo cho họ biết là những giấy tờ đó đã không còn giá trị nữa. Đồng đô la trong ba ngày đã vọt từ 1200 lên đến 2500 đồng. Và cái giá phải trả cho những "biện pháp ân huệ" cũng tăng theo nhịp độ đó. Do vậy số người được xuất ngoại "hợp pháp" càng ngày càng ít đi. Hầu hết những người Việt Nam có cơ may rời khỏi nước đều nhờ vào cầu không vận cùa Hoa Kỳ . Cầu không vận nầy hoạt động suốt ngày đêm và khả năng bốc người đi được tăng lên gấp 3 lần. Mục đích đầu tiên của Hoa Kỳ là nhằm đưa về nước khoản 800 công dân Mỹ còn đang kẹt lại ở Việt Nam ..Công tác nầy chỉ đến cuối tuần nầy là hoàn tất. Cùng đi với người Mỹ mỗi ngày, có từ ba đến bốn ngàn người Việt Nam được tháp tùng, những ai được ghi danh trong "danh sách ưu tiên", gồm có những người làm việc cho các công ty Mỹ , những công chức hay công nhân làm việc cho văn phòng thuộc sứ quán hay các sở Mỹ, các nhân viên tình báo, các cấp thuộc chương trình bình định và gia đình của họ. Sự việc được phép mang cả gia đình theo đã mở toang cửa cho tất cả mọi sự móc nối làm tiền. Có những người khi đã được ghi tên vào danh sách được đi rồi thì cho ghi thêm thân nhân của chính mình càng ngày càng nhiều ra và đã cho họ cùng đi với mình với một số tiền thù lao rất là hậu hĩ. Nhịp độ ra đi càng ngày càng nhanh hơn. Những người di cư được các xe buýt to có lưới thép bọc bên ngoài cửa kiến chở đến Tân sơn Nhứt. Ngay ở cổng phi trường đã có nhiều thảm cảnh rất đau lòng giữa kẻ đi người ở. Sau đó họ được đưa vào các gian nhà lớn ở trong khuôn viên của Phòng Tùy Viên Quân Lực Mỹ, nằm trong khu vực sân bay Tân sơn Nhứt. Ở đây không thiếu chỗ và có đầy đủ tiện nghi: có gần 1000 chiếc giường bố xếp cho họ nghỉ ngơi chờ đợi chuyến bay, có phần ăn nóng sốt 3 bữa mỗi ngày. Khi được kiểm điểm lý lịch xong, họ lại được xe buýt đưa thẳng ra phi đạo lên các phi cơ vận tải quân sự để đi đến Phi luật Tân, Đài Loan hay tới đảo Guam, và Honolulu (Hạ uy Di). Thỉnh thoảng cũng có một vài cô chiêu đải viên hàng không mảnh khảnh và duyên dáng trong chiếc áo dài xanh lơ đã tìm cách được kín đáo đưa lên các chuyến bay nầy. Những người không có một mối liên hệ nào với người Mỹ hay với những người được Mỹ "bảo trợ" đã cố gắng tìm hết mọi cách và mọi phương tiện để được đi ra khỏi Miền Nam Việt Nam : - Những nhà buôn khá giả bỏ tiền ra mua hay mướn các chiếc tàu, thuyền máy đánh cá của dân chài ngoài biển hay những chiếc thuyền đi biển để đưa họ đến Malaysia hay Thái Lan, nếu dọc đường họ không bị cướp hay giết chết để đoạt sạch tài sản vòng vàng tiền bạc mà họ dấu đút mang theo trong người . - Có những người lanh lợi hơn liên lạc thẳng với các phi công của "câu lạc bô hàng không" và đề nghị mười ngàn đô la (10.000) cho mỗi hành khách nếu họ chịu chở những người nầy ra ngoại quốc. - Có nhiều người bạn Pháp của tôi được mấy người Việt Nam lớn tuổi , đạo mạo khả kính, đến gạ với họ ngay ngoài đường phố, với đề nghị cưới giùm các cô con gái của họ với một số tiền hồi môn kếch sù lên đến hai chục triệu đồng cho mỗi người (khoản 80.000 quan Pháp), để mang các cô nầy về Pháp, với cam kết là khi đến nơi rồi họ sẽ làm thủ tục "ly dị ngay" - Có một người Mỹ vừa mới bị bắt và bị trục xuất, vì anh ta đòi bảy ngàn đô la (7000) mỗi người để nhận họ là "thân nhân trong gia đình". Anh Mỹ nầy đã thành công trong việc đưa đi 18 người Việt Nam đến đảo Guam qua trung gian của người vợ Việt Nam của anh ta. - Ở quán rượu Impérial của ông già Bonelli, một bà giám đốc cơ sở bào chế thuốc Tây (Bà Anh) đang tìm cách bán nhà của bà. Bà nói với tôi : - "Đây là một biệt thự tuyệt đẹp, ở một địa điểm rất tốt, nằm trên đầu đường Paul Blanchy. Tám phòng, với hai nhà xe và 800 thước vuông vườn. Ba tháng trước tôi đã không bán với giá 30 triệu đồng. Bây gìờ thì tôi sẵn sàng nhượng lại với giá 3 triệu thôi (chưa đến 12.000 quan Pháp với hối đoái chánh thức). , và tôi sẽ để lại tất cả đồ đạc trong nhà gồm có bàn tủ ghế, quần áo, chén bát, máy lạnh và hai tủ lạnh...." Ba ta móc bóp lấy một xấp giấy tờ ra và nói thêm : - " Đây là giấy bán nhà, tôi đã ký sẵn rồi, chỉ còn ghi tên người mua vào là xong hết." Ông già Bonelli trầm ngâm suy nghĩ và mỉm cười, ngẫng đầu lên mệt mỏi nhún vai và nói: - "Ít nhất bà là người thứ hai đã đến đây gặp tôi từ hai hôm nay. Làm gì còn có người muốn mua nhà trong lúc nầy ? Bà Anh lại quay sang tôi : - " Tôi cũng có một chiếc xe Mercédès chạy dầu gần như mới toanh, 5000 cây số thôi, có đủ cả ra diô và cát sét. Tôi muốn bán nó với giá rẽ 500 đô la - Chừng nào bà sẽ đi ? - Trưa nay - Bà làm sao có được chiếu khán xuất cảnh hay vậy ? - Ông nghĩ xem. bà vừa trả lời cho tôi vừa cười rộ lên , các chiếu khán bây giờ vô giá. Tôi tự xoay sở với người Mỹ. Tôi đã giao dịch với họ từ 15 năm nay rồi và con gái tôi là một nhà sinh vật học ở Cựu Kim Sơn. Nếu ông muốn dùng chiếc xe tôi, ông hãy điện thoại cho tôi trước 15 giờ, Đây là số điện thoại của tôi . Tôi không có ý định mua xe Mercédès của bà Anh, nhưng vì tò mò tôi đã điện thoại đến nhà bà vài phút sau 15 giờ. Một người làm cho bà đã trả lời cho tôi là bà ta đã đi ngoại quốc rồi và bà ta cũng không thèm ghé lại nhà để lấy chiếc va ly của bà nữa ! * * * Vào chiều tối, hành khách của chiếc phi cơ "ca ra ven" thuộc hãng Hàng Không Việt Nam đi Băng Cốc (Thái Lan) đã được chứng kiến một cảnh rất não lòng. Trong chiếc phi cơ, ông tướng Trần văn Đôn, Phó Thủ Tướng kiêm Tổng trưởng Quốc Phòng của nội các vừa từ nhiệm, nhưng vẫn còn là Xử Lý Thường Vụ, đang mơn trớn vuốt ve một người đàn bà đẹp rất duyên dáng trong bộ đồ mỏng mùa hè, có đeo một nhẫn hột xoàn lớn bên tay trái. Vừa mới ngày hôm qua đây, tướng Đôn đã cổ võ quân đội Quốc Gia phải bảo vệ đất nước đến hơi thở cuối cùng, thì hôm nay ở đây ông ta đang vừa rót vào tai của người bạn gái của ông ta những lời êm ái vừa vuốt ve hai bàn tay của cô ta. Sau đó ông trao cho cô ta một tấm ngân phiếu mà ông ta ký ngay tại ghế ngồi, và từ giã cô nàng với vẻ mặt vồn vã và đau khổ của những cặp tình nhân ở lứa tuổi sinh viên. Ngay trong lúc đó hẳn nhiên là vị tướng lãnh nầy chỉ dán cặp mắt và tâm tư của mình vào người đẹp sắp đi đến một nơi yên ổn. Các quân nhân đang chết trong các hầm chiến đấu của họ, chỉ cách nơi nầy có vài cây số, chắc hẳn không bao giờ ngờ được rằng họ đang hy sinh để giữ an ninh cho những sự trao đổi tình cảm yêu đương vụn vặt của một vị tham mưu lớn tuổi như vầy, một vị mà tên tuổi của ông ta đã từng được nêu lên như là một Thủ Tướng tương lai của một Chánh Phủ Liên Hiệp ! Thứ Bảy, ngày 26 tháng Tư Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu đã bay đi Đài Loan tối nay rồi. Có những lời đồn đãi từ "đài phát thanh Catinat" quả quyết là ông ta đã "mang theo 16 tấn hàng gồm có cả một bộ sưu tầm đá quý và đồ cổ đánh cắp ở Viện Bảo Tàng Quốc Gia và 4 tỷ vàng nén." Một đại úy Dù đã tức giận nói với tôi : - "Ông Thiệu ra đi không có một lời nói. Ông ta đã tuyên bố trên truyền hình là ông ta sẽ ở lại với chúng tôi và sẽ chiến đấu bên cạnh chúng tôi cho đến cùng. Tất cả dân chúng trong nước đều có thấy và có nghe. Và giờ đây ông ta trốn đi như một tên hèn, lợi dụng ban đêm để mọi người không trông thấy ông ta Bọn Tàu ở Đài Loan đã trải thảm đỏ để đón ông ta. Chỉ có một cách để chào đón ông ta, đó là để vào đầu ông ta một viên đạn !" Tờ báo Pháp Le Courrier d'Extrême - Orient và báo chí Việt Nam đã cho hành động của TổngThống Giscard d'Estaing có một "tầm quan trọng rất lớn", khi ông đã nói chuyện rất lâu qua điện thoại với ông Đại sứ Pháp tại Sài Gòn . Làm như là Ba Lê đã thay thế Hoa Thạnh Đốn trong vấn đề tìm kiếm một giải pháp bằng thương thuyết cho Miền Nam Việt Nam rồi vậy . Ông nghị sĩ Paul d'Ornano, đại diện cho người Pháp ở Việt Nam , đã đến Sài Gòn tối hôm qua bằng phi cơ. Ông đã có tuyên bố như sau : - "Tôi rất sung sướng được trở lại với những người Pháp ở Sài Gòn , những người mà tôi thấy là đã rất trầm tĩnh và rất là xứng đáng như lúc tôi còn ở đây 3 tuần lễ trước . Tôi cũng rất lấy làm sung sướng để được nói với họ rằng Tổng Thống của nước Cộng Hòa Pháp đã có tiếp tôi ngay trước khi tôi rời khỏi Ba Lê, để bày tỏ tất cả sự ân cần của Ngài đối với cộng đồng người Pháp ở Sài Gòn mà Ngài đã biết và đánh giá cao lòng can đảm và phẩm chất...." Nghị Sĩ Paul d'Ornano là một kỹ sư hầm mỏ, thuộc một gia đình quý phái lâu đời ở đảo Corse, đã từng phục vụ ở Đông Dương 22 năm. Là một cựu giám đốc đồn điền, ông là một người rất cứng cỏi và nhã nhặn, môt người biết rất rõ đất nước nầy.. Sự có mặt của ông ta làm yên lòng cộng đồng người Pháp ở đây, mà nếu có chuyện gì xảy ra thì họ sẽ trông cậy vào ông ta hơn là vị Đại Sứ, một người quá bận rộn với những sự theo dõi và suy nghĩ tới các giai đoạn biến chuyển chánh trị của Việt Nam Và cũng ngay trong lúc đó, phần đông các nhà báo ngoại quốc đang dự buổi họp báo hàng tuần của sĩ quan Việt Cộng và của Bắc Việt, thành viên của Ủy Ban Kiểm Soát và Thi Hành Lệnh Ngừng Bắn đã được Hiệp Định Ba Lê ấn định. Lại thêm một chuyện rời rạc nữa, và không phải chuyện nhỏ đâu, vì cái chuyện "chấm dứt chiến tranh" nầy đã trở thành rất khó hiểu, và trên bình diện chánh trị nó là một vở kịch quá nực cười. Kể từ tháng 3 năm 1973, 200 Việt Cộng và 500 cộng sản Bắc Việt đã đóng quân ở ngay giữa sân bay Tân sơn Nhứt, chiếm mấy dãy nhà có rào kẽm gai chung quanh, bên trong thì cộng sản tự canh gác với súng A.K.47 còn bên ngoài thì được quân cảnh Miền Nam bảo vệ. Cách doanh trại nầy chừng vài trăm thước, các phóng pháo oanh tạc cơ của Miền Nam cất cánh ầm ĩ mang bom đến đánh các đơn vị Bắc Việt trên đường tiến về thủ đô Sài Gòn Đại tá Võ đông Giang, phát ngôn viên của Việt Cộng ngồi dưới bức ảnh cụ Hồ với chòm râu dưới cằm. Cũng giống như các cuộc họp báo trước, anh ta tố cáo những "hành động tội ác" của Tổng Thống Hoa Kỳ và của "Ngụy quyền" Sài Gòn - lời của ông ta thường xuyên bị ngắt quãng do tiếng gầm thét của các phản lực - nhưng lần nầy thì anh ta nhấn mạnh rằng chiến tranh giải phóng ngày càng tốt hơn cho "lực lượng cách mạng" . Để kết thúc ông ta nhắc lại dai dẳng những điều kiện do "lực lượng cách mạng" đặt ra cho Chánh Phủ Sài Gòn để bắt đầu những cuộc thương lượng nghiêm chỉnh : " - chấm dứt sự hiện diện của Hoa Kỳ - Thành lập một tân Chánh Phủ, với tuyên ngôn "cho hòa bình, độc lập, dân chủ và hòa giải quốc gia" - Thi hành Hiệp Định Ba Lê - Loại bỏ tất cả những người đã từng nằm trong guồng máy của Thiệu - Từ bỏ đường lối hiếu chiến, phát xít, áp bức và đàn áp đối với nhân dân - Hủy bỏ tất cả các luật lệ phản dân chủ. Bảo đảm tôn trọng tự do dân chủ. Trả tự do cho tất cả những người bị giam giữ vì đã tranh đấu cho hòa bình và độc lập quốc gia." Một phần lớn các điều kiện đó đang trên con đường được thực hiện. Nhưng đại tá Võ đông Giang muốn nói gì khi ông ta đặt điều kiện "phải thi hành Hiệp Định Ba Lê" ? trong lúc 23 sư đoàn Bắc Việt tràn vào chiếm hai phần ba lãnh thổ của Miền Nam Việt Nam ? Và trong lúc ông vừa nói vừa đang đập bàn rầm rầm ở đây thì hàng trăm người Mỹ đang xếp hàng chạy lên chiếc phi cơ vận tải khổng lồ "Galaxie" đang chuẩn bị cất cánh.. Chuyến ra đi hấp tấp của người Mỳ nầy đang diễn ra không xa vị trí đồn trú của cộng sản bao nhiêu, nơi mà người Mỹ gọi là "Trại Davis" để kỷ niệm cho một người binh sĩ Hoa Kỳ tên Davis bị tử trận đầu tiên ở Miền Nam Việt Nam * * * Về phía Sài Gòn , tiến trình giải thể Chánh Phủ đang được xúc tiến. Chỉ còn một vài hình thức bề ngoài cần phải xem xét lại mà thôi. Hồi 10 giờ sáng nay, chiếc xe Mercédès dài của Phủ Tổng Thống đến đậu trước cửa Thượng Viện. Tổng Thống Hương, một ông lão đáng kính, bước xuống xe, chống gậy, chậm rãi đi duyệt qua hàng binh mặc lễ phục trắng đang dàn chào Ông. Các dân biểu và nghị sĩ thuộc lưỡng viện Quốc Hội tập họp đầy đủ đang đứng chờ ông trong sảnh đường lớn của tòa nhà. Họ đến như vậy là khá đông đấy: 183 trên 219 người dân cử thuộc lưỡng viện Quốc Hội . Vì còn phải tính đến mọi sự khó khăn trong vấn đề di chuyển, nào là đường sá bị cắt đứt, nào là các tỉnh và thành phố đang bị cô lập hay đã bị cộng sản chiếm. Như vậy cho thấy là Quốc Hội rất quan tâm đến phiên họp đặc biệt quan trọng nầy. Tổng Thống Hương mở đầu phiên họp với một bản tường trình về những biến cố đã xảy ra từ khi ông lên nắm quyền.. Sau khi nói về những "khó khăn gặp phải trong các cuộc tiếp xúc" và những "áp lực liên tục mà ông phải chịu với những nhà ngoại giao ngoại quốc và với một số chánh trị gia của Miền Nam ", ông tuyên bố: - " Tôi không muốn dấu quý vị lâu hơn nữa rằng cần phải và bắt buộc phải thương thuyết với phía bên kia. Nhưng vẫn còn có dân tộc và đất nước.Tôi không mong muốn Sài Gòn trở thành một Nam Vang thứ hai. Tôi không muốn thủ đô của chúng ta bị xóa tên trên bản đồ và cũng không muốn dân chúng của chúng ta bị bom đạn tàn sát.. Nhưng tôi muốn chứng tỏ sự kính trọng của tôi đối với đất nước cho đến cùng. Những trọng trách mà tôi đang gánh vác đây được gắn liền vơi tính cách hợp pháp của Việt Nam Cộng Hòa, của Lưỡng Viện Quốc Hội và của quý vị dân cử. Tôi thấy tôi không có quyền đơn phương từ bỏ trọng trách đó. Tôi phải trông chờ vào quyền lực của Quốc Hội vì chỉ có Quốc Hội mới có đủ tư cách để quyết định phải xúc tiến việc thương thuyết và chỉ có Quốc Hội mới có quyền chỉ định cá nhân nào mà Quốc Hội xét thấy có đủ khả năng nhất để thi hành nhiệm vụ thương thuyết nầy.. " Và sau đó ông Hương không có nêu thẳng ra tên tuổi của ai cả, nhưng ông giải thích chi tiết rõ ràng về những sự điều đình của ông với tướng Dương văn Minh: - "Trước hết tôi đã đề nghị trên giấy trắng mực đen với "người đó" về chức vụ Thủ Tướng Chánh Phủ với đầy đủ quyền hành. Ông ta đã từ chối. Tôi đã phải mời ông ta đến gặp tôi tại Dinh Độc Lập. Ông ta cũng lại từ chối. Với một thiện ý muốn giải quyết vấn đề, tôi bất chấp hết mọi thủ tục và mặc dầu tuổi già sức yếu, tôi đã phải chấp nhận di đến nhà một người bạn để gặp "người đó". Tôi đã đề nghị với "ông ta" chiếc ghế Phó Tổng Thống nhưng một lần nữa "người đó" chẳng những đã khước từ đề nghị của tôi mà còn nói với tôi rằng: "Phải có tất cả hay không có gì hết ", có nghĩa là "phải là Tổng Thống của Việt Nam Cộng Hòa". Tôi có lưu ý như vậy là ông ta đòi hỏi tôi phải vi phạm Hiến Pháp, và ông ta đã trả lời rằng "Đó không phải là việc của ông ta ". Sau đó tôi đã đặt cho ông ta một câu hỏi: " Có gì bảo đảm rằng phía bên kia sẽ chấp nhận thương thuyết với ông ?". Người đó đã trả lời rất gọn : " Tôi đã nhận được từ phía bên kia đầy đủ những bảo đảm để tôi làm tròn vai trò của tôi ". Mặc dầu tôi đã có nhấn mạnh nhưng tôi không thể có thêm một giải thích nào khác về những lời nói úp mở của ông ta và tôi thú thật là tôi không tin vào những lời nói đó.Tôi sẽ không bao giờ gánh lấy trách nhiệm về việc trao quyền hành một cách bất hợp hiến , vì lẽ đó nên ngày hôm nay tôi xin quý vị hãy trao quyền hành pháp lại cho người đó bằng lá phiếu hợp pháp của lưỡng viện Quốc Hội . Đó là phương thức duy nhât vừa để cứu Sài Gòn khỏi một thảm họa vừa không làm mất thể diện của quốc gia và chế độ." Nói xong những lời đó, ông Hương rời phòng họp và trở về Dinh. có 2 xe hộ tống mở dường qua các phố đang đông nghẹt dân chúng. Ông Trần văn Lắm, Chủ tịch Thượng Viện đề nghị ngay sau đó là các trưởng nhóm thảo luận ở các tiểu ban trước khi trở lại hội nghị khoáng đai . Sự bàn thảo của các trưởng nhóm đã được nhanh chóng tổ chức. Trưởng nhóm "Dân Tộc Xã Hội" thuận cho tướng Minh nên muốn "Tổng Thống Hương phải từ chức một cách đơn giản". Trưởng nhóm Cộng Hòa lớn tiếng : " Chúng tôi không có một tín nhiệm nào đối với tướng Minh. Ông ta đã thường thay đổi màu áo của ông ta, và không có gì để chứng minh rằng ông ta đã có xúc tiến bàn thảo với phía bên kia. Ông ta có thể đưa ra được một chứng từ nào không ? Ai là người đã liên lạc với ông ta và người đó ở vào đẳng cấp nào ? Trưởng nhóm "Độc Lập" vỗ bàn : "Chúng ta không thể đặt tương lai của đất nước trên những giả thuyêt suông !" Chủ tịch Thương Viện nhắc lại một liên lạc điện thoại của ông M.Graham Martin, đại sứ Hoa Kỳ. Ông nói : "Người Mỹ đã mạnh dạn khuyên chúng ta đừng nghĩ đến Hiến Pháp. Thời giờ đã quá cấp bách rồi . Không còn phải lúc để cho chúng ta tự trói buộc vào những lý sự cùn nữa " Tướng Trần văn Đôn đang làm việc ngoài hành lang, tâm tình nhỏ to với các nghị sĩ : "Người Pháp là những người duy nhất có thể nói chuyện với Bắc Kinh , Mạc tư Khoa, Hoa thạnh Đốn, Hà Nội và CPLTCHMN, họ ủng hộ triệt để tướng Minh. Họ đoan chắc là cộng sản chỉ muốn bàn thảo với ông ta mà thôi." Cuộc thảo luận công khai đã diễn ra lúc 14 giờ.Và nó kéo dài cho đến 22 giờ. Các diễn giả thay phiên nhau lên diễn đàn. Các cuộc thảo luận vô vị cứ kéo dài. Họ cãi vã, xô đẩy nhau, trao đổi nhau những lời đe dọa, nhưng cuối cùng rồi họ cũng đi đến thỏa thuận cho một bản văn quyết nghị vô thưởng vô phạt không giải quyết được gì cả : - " Quốc Hội nhìn nhận Tổng Thống Hương có đầy đủ tư cách và thẩm quyền để chọn người thay thế ông. Người nầy sẽ được ủy thác để tiến hành các cuộc thương thuyết." Tên của tướng Minh Dương không thấy nêu lên trong bản văn của quyết nghị. Chủ Nhật, ngày 27 tháng Tư Vào lúc 4 giờ sáng có nhiều tràng rốc kết được nã vào Sài Gòn . Những tiếng nổ làm rung chuyễn các cửa sổ. Sau đó chừng vài phút tôi nghe thấy tiếng còi hụ của các xe cứu hỏa và xe cứu thương. Từ trên sân thượng của mình tôi nhìn thấy ánh lửa và những cột khói đen quyện vào lửa đỏ trên nền trời.Có cháy ở về hướng nhà ga Sài Gòn , một khu vực có nhiều nhà gạch và nhà cây nhỏ. Nhưng phải đợi đến hết giờ giới nghiêm mới biết được chính xác là các quả rốc kết rơi ở khu vực nào, và gây thiệt hại ra sao cho dân chúng. Đến 7 giờ sáng tôi mới đi săn tin được. Một quả đánh trúng khách sạn Majestic, nằm ở cạnh bờ sông Sài Gòn . Quả thứ hai nổ trên lề đường gần chợ Sài Gòn. Sáu quả khác đã nổ trong khu đông dân cư nằm bên kia đường đối diện với Bộ Tư Lệnh Cành Sát. Hàng trăm lều trại, xưởng nhỏ đang bốc cháy với những tiếng nổ như pháo. Mặt đất có cả một lớp tro đen phủ lên trên nhầy nhụa vì nước của các anh cứu hỏa. Những tấm tôn cong vẹo nằm vắt vưởng lên các bức tường đổ nát, và các bàn tủ ghế chỉ còn là những que củi cháy dở dang. . Các bà đang ngồi xổm , im lặng bới đám tro tàn. Các trẻ em bất động đứng nhìn chần chầm vào mấy bà mẹ.Các anh khiêng cáng đang chuyển lên xe cứu thương ba thây người co rúm, chỉ còn khoảng nửa thân mình, ba con người mà giống như những hình nộm bị cháy đen. Tổng kết của cuộc pháo kích và của đám cháy : chín chết và 36 bị thương, Hai ngàn người không nơi cư trú. . . . Trong những khu khác trong thành phố, cuộc sống vẫn tiêp tục rất bình thường. Bạn hàng trong chợ vẫn bày hàng trên sạp của mình. Các tiệm buôn vẫn kéo màn mở cửa . Lưu thông vẫn tấp nập nhưng đôi khi bị nghẽn vì có đoàn xe tang năm sáu chiếc của quân đội có trang hoàng vòng hoa đang chở các binh sĩ bị tử thương từ mặt trận về. Trong một vài quán rượu còn sót lại hay những phòng "đấm bóp" trên đường Catinat, các cô gái xinh đẹp chuyên buôn hương bán phấn đã thay đổi hoàn toàn . Họ đã búi tóc lên và không còn sơn móng tay đỏ nữa và không còn mặc cũn lẳng lơ hay quần bó sát thân mình nữa mà đã mặc lại chiếc áo dài truyền thống của Việt Nam . Có tin nói là các cô đang tìm cách trữ thuốc ngừa thai dự kiến là cộng sản vào họ sẽ tịch thu hết. Giá dồng đô la lên xuống giữa 3500 đến 4000 đồng. Các tay buôn bán ngoại tệ người Ấn đang trúng mối to với sự đầu cơ giấy 100 đô la (người cầm đầu là Ali Ismael nhìn nhận rằng đã kiếm lời trong mười năm qua được trên hai triệu đô la) 6000 người Mỹ đã rời khỏi Việt Nam , bỏ lại trên 8000 chiếc xe bừa bãi khắp nơi, tạm thời được coi như vô chủ. * * * Cũng vào ngay chúa nhật đó, lúc 12 giờ trưa, ông Chủ Tịch Thượng Viện nhận được một văn thư của Tổng Thống VNCH do mô tô mang đến trao tận tay. Đại ý: " Theo các điều khoản của Hiến Pháp thì Quốc Hội phải ra quyết định thay thế tôi và phải chỉ định người kế vị tôi với tên họ đầy đủ. Do đó tôi đòi hỏi Quốc Hội phải nhanh chóng bày tỏ ý kiến của mình." Vào lúc 14 giờ đài phát thanh đã kêu gọi tất cả các nghị sĩ và dân biểu phải có mặt ở Quốc Hội đúng 17 giờ để dự một "phiên họp khoáng đại vì quyền lợi quốc gia" Vào giờ ấn định, các nghị sĩ và dân biểu đến Thượng Viện cũng đông đủ như ngày hôm qua. Chủ tịch Thượng Viện thông báo với họ là trước khi mở khoáng đại hôi nghị, tướng Trần văn Đôn, xử lý thường vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng, sẽ thuyết trình về tình hình quân sự . Tướng Đôn mặc thường phục có 3 vị tướng lãnh và một đề đốc tháp tùng: Tổng Tham mưu Trưởng, Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô,Tư Lệnh Không Quân và Tư Lệnh Hải Quân. Ông yêu cầu sự có mặt của các vị nầy để chứng thật tin tức trong bài thuyết trình của ông ta. Tướng Đôn đưa ra một hình ảnh quá đen tối: " Mười bốn sư đoàn Bắc Việt được trang bị pháo binh thật hùng hậu đang bao vây thủ đô Sài Gòn . Biệt kích và đặc công cộng sản đang xâm nhập vòng đai. Trận chiến ờ Xuân Lộc vẫn còn đang tiếp diễn chung quanh thị xã, ờ đó các đơn vị của Chánh Phủ đang hăng say chiến đấu, nhưng họ bị phân tán và pháo binh của họ bị pháo binh cộng sản vượt trội về tầm xa. Họ pháo ta từ xa nên không bị thiệt hại gì. Không quân của ta được xử dụng liên tục ngày đêm không ngơi nghỉ trong nhiều tuần lễ nay, nên cả anh em phi công và phi cơ đều đã quá sức chịu đựng. Ngoài ra còn bị thiệt hại khá nặng do phòng không địch và hỏa tiễn địa không của họ. Căn cứ Không quân Biên Hòa dưới hỏa lực của địch đã gần như bị tê liệt. Trong vài ngày nữa, mà cũng có thể là trong vài giờ nữa không chừng, có thể sẽ đến lượt Sài Gòn phải bị tàn phá vì đạn pháo 130 ly tầm xa của Bắc Việt . Nhất định cần phải thương thuyết với họ để ngừng bắn càng sớm càng tốt..." Một số dân biểu trẻ hung hăn chen vào la lối om sòm một cách giận dữ và mỉa mai : "Bị bán đứng rồi ! Đồ hèn nhát, chủ bại, tướng phòng ngũ !" Tiến sĩ Vũ quốc Thúc trưởng nhóm "Độc Lập" vừa tiến tới tướng Đôn vừa hét to lên nhiều lần : " phản bội, đồ phản bội, anh chỉ là một tên phản bội, đáng được đem ra xử bắn ". Khi nghe chửi như thế, Tướng Đôn mặt tái mét im thin thít không nói được một tiếng nào . Các tướng lãnh đi theo ông sửng sốt về những phản ứng dữ dội của cử tọa nên cũng cúi đầu im thin thít.Chủ tịch Trần văn Lắm cố gắng trấn tĩnh mọi người nên khuyên can : " Các anh em nên đặt câu hỏi là phải hơn, các vị tướng lãnh sẽ trả lời cho mình." Các câu hỏi được đưa lên loạn xà ngầu : " Ông chỉ nói về hành động và sáng kiến của địch mà về phần ông ông đã có biện pháp nào chưa? Ông đã có đi lên mặt trận mấy lần rồi?" Nghị sĩ Vũ văn Mẫu đứng lên và chẩm rải nói gằn từng tiếng : "Ông là Tổng Trưởng Quốc Phòng phải không ? Vậy tôi lập lại câu hỏi của tôi : Ông đã có những sáng kiến và những biện pháp nào để lo phòng thủ Sài Gòn chưa ? Và để chận đứng sức tiến của địch ? Tướng Đôn lắc đầu và trả lời lạc giọng : "Các sự chuyển quân và các biện pháp chiến thuật đều thuộc về bí mật quân sự" Cuộc điều trần coi như được chấm dứt. Tổng trưởng Quốc Phòng và những quân nhân tháp tùng đi ra khỏi phòng họp dưới những tiếng la ó. Cuộc tranh luận của Quốc Hội kéo dài 4 tiếng đồng hồ. Còn sôi động và dữ dội hơn ngày hôm qua nữa, bị ngắt khoảng bởi các sự chửi mắng và những cuộc ấu đả ngắn . Tay chân đôi khi thay cho lời nói. Nhưng rồi lần lần sự mệt mỏi đã có tác dụng. Cuối cùng rồi những đề kháng quyết liệt nào cũng phải bị chìm xuống vì cảm giác bất lực và uể oải, vì ai cũng thấy rõ là những lời nói dù có nóng bỏng đến đâu cũng không có một chút cân lượng nào đối với những biến cố quân sự . Lúc bấy giờ Chủ tịch Trần văn Lắm mới can thiệp vào : "Chúng ta phải kết thúc thôi ! và phải nhìn thẳng vào sự việc. Than van cũng vô ích thôi. Chúng ta đã thua rồi. Mình phải chấp nhận sự nhục nhã nầy bằng một lời an ủi là dầu sao họ cũng cùng một dân tộc với chúng ta, vẫn còn đỡ hơn là đối với những người ngoại quốc." Rồi sau dó ông lại nói thêm, hình như để tìm cách xóa tan những ý nghĩ ngại ngùng của chính ông vừa nói ra: Tôi chỉ mong sao những kẻ chiến thắng hiểu rằng người Miền Nam Việt Nam cũng là những người anh em của họ... Chúng ta không còn sự lựa chọn nào khác là giao hết quyền hành cho tướng Minh Dương. Đây là văn bản mà tôi đề nghị với quý vị : " Quốc Hội với đầy đủ quyền tự do của chế độ, thấy rằng phải mở ngay các cuộc thương thuyết không thể tránh được . Tướng Dương văn Minh được chỉ định thay thế Tổng Thống Trần văn Hương để lãnh đạo Quốc gia, là người có nhiệm vụ phải tiến hành công tác thương thuyết nầy." Lưỡng viện Quốc Hội đã đưa tay bỏ phiếu, chấp thuận bản quyết nghị với đa số 120 phiếu thuận, 32 phiếu chống và 20 phiếu trắng. Lúc đó là 9 giờ đêm. Vào lúc chủ tịch Thượng Viện rời phòng họp, ông Nguyễn hữu Thống, một dân biểu trẻ thuộc nhóm Cộng Hòa đã buông ra một câu đầy khinh bỉ : " Ông Trần văn Lắm có thể rất là bằng lòng. Ông ta đáng được người Mỹ vàViệt Cộng khen thưởng!". Cách ông ta vài bước nghị sĩ Trần trung Dung bàn cãi với cựu Tổng Trưởng Trần chánh Thành : "Thật là khó hiểu được thái độ của người Mỹ. Họ đã áp lực ông Thiệu để ông nầy phải ra đi, viện cớ đó là biện pháp duy nhất để Quốc Hội Hoa Kỳ bỏ phiếu chấp thuận ngân khoản viện trợ. Cuối cùng ông Thiệu phải từ chức. Tổng Thống Hương, người kế vị cho ông Thiệu lại được nghe một câu nói của đại sứ Martin ngay sau đó: "Đã quá trể rồi, Quốc Hội Hoa Kỳ không còn bỏ phiếu cho ngân khoản viện trợ nữa.Ông phải nhường ghế Tổng Thống lại cho một người khác đi, người đó phải "được phía bên kia chấp nhận". Ông già Hương đã bảo vệ Hiến Pháp đến cùng, Hiến Pháp mà chính những người làm luật của Hoa Kỳ đã tham gia tạo dựng nên.. Nhưng tới giai đoạn nầy người Mỹ thông thường là những người rất tôn trọng luật pháp, lại thấy rằng như vậy sẽ làm mất quá nhiều thì giờ. Cuối cùng, trước khi chúng ta bỏ phiếu chấp thuận trao toàn quyền cho tướng Minh , đại sứ Martin đã mời ông Hương chuẩn bị để cùng ra đi với những người Mỹ cuối cùng. Ông Hương đã thẳng thắng trả lời : - " Tôi không đi đâu hết, Chỗ của tôi phải là ở trong nước của tôi . " Người Mỹ thật sự đã tưởng chúng mình là những người không biết đến hai chữ danh dự là gì chắc !!!!. " Trần chánh Thành nhúng vai và nói : "Anh sẽ thấy là họ sẽ đòi hỏi tướng Minh phải ra lệnh cho họ rời khỏi nước Việt Nam ... và họ sẽ ra đi không kèn không trống cho mà xem !. " Một vị trưởng tòa đưa tay tắt ngọn đèn xanh đang chiếu sáng chiếc bàn hình móng ngựa ở Dinh Độc Lập. Nơi đây sẽ tổ chức buỗi lễ bàn giao quyền hành ngày mai. Tướng Minh sau đó sẽ nói chuyện với quốc dân đồng bào qua hệ thống truyền thanh và truyền hình. |
|
IP Logged | |
Hoàng Dũng
Senior Member Tham gia ngày: 08/Nov/2008 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 592 |
Gởi ngày: 21/Dec/2008 lúc 10:28pm |
Chương 21CHƯƠNG HAI MƯƠI MỐT ÔNG DƯƠNG VĂN MINH LÀ AI ? Hình ảnh của tướng Dương văn Minh do các ủng hộ viên của ông đưa lên ở Việt Nam cũng như ở ngoại quốc đã được rút ngắn gọn lại chỉ còn một vài nét ca tụng cá nhân, nhưng thường không đúng và có quá nhiều sự việc, chi tiết quan trọng thì đã bị bỏ lửng trong bóng tối. Hình ảnh đó được tóm gọn trong một vài phẩm cách căn bản cần thiết và có lợi cho những người lãnh đạo như : đó là một người chủ trương "hòa bình", liêm chính, trung trực, bình dân và được kính nể,v.v... Cộng sản Bắc Việt xem ông ta như một "người đối thoại có giá trị". Tờ Kinh Tế Viễn Đông còn trịnh trọng xác nhận ông ta đã tốt nghiệp trường Des Charles của Pháp nữa. Nhân vật nầy có thể không cần phải có những nhận xét quá đơn thuần như thế đâu, nếu người ta nghĩ tới động cơ nào đã thúc đẩy ông đi tới hành động và nếu chịu khó nghiên cứu kỹ về tiểu sử của ông người ta sẽ thấy là các phẩm tính đã gán cho ông không được chính xác lắm đâu. Những biến cố mà ông đã dính vào, sự bất nhất và những mâu thuẫn của những người chung quanh ông đã cho thấy rằng ông thường là công cụ của những khuynh hướng chánh trị khác nhau hoặc của những nhân vật có tham vọng cá nhân nhưng sau đó họ đã bỏ rơi ông ta trong sự bối rối không biết phải làm gì . Ông sanh ngày 19 tháng 2 năm 1916 tại Mỹ Tho, ngay thị xã của một tỉnh cũ của người Khờ me, một giang cảng quan trọng thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Ông đã lớn lên ở Miền Tây Nam Bộ trong vùng đồng ruộng mênh mông có nhiều sông rạch rộng và sâu. Thân phụ ông là một người cao lớn hiền lành , thông phán của Chánh Phủ, giỏi về văn chương thơ phú Việt Nam và triết học Lão Giáo, chỉ sống cho bạn bè. Thân mẫu ông cũng to con, đen đúa có giòng máu Cam pu chia. Từ hệ gia tộc như vậy, ông Minh là một mẫu người đặc biệt, thích có bạn bè, không sợ cái chết, thường có sự kính trọng các quan chức, và cũng có một màu da ngâm đen. Ông học hết bậc trung học ở trường Pháp Ch***eloup-Laubat và có tú tài đôi, khoa học. Ông ta gần như là một lực sĩ , bơi lội giỏi và là một tay chơi quần vợt rất có hạng. Năm 1939 ông bị động viên vào bộ binh của người Pháp. (nguyên tác: infanterie coloniale). Vào thời đó, các binh sĩ bộ binh nầy thường có biệt danh là những con "cá heo", là những tay đấm đá, dân xâm mình, hay nhậu nhẹt và lúc nào cũng sẵn sàng đánh nhau. Không như các bạn Việt Nam yếu đuối khác thường tránh gây sự, ông Minh to mồm và hiếu chiến, không bỏ qua chuyện gì hết, cứ húc thẳng mỗi khi bị khiêu khích và húc mạnh. Năm 1940, ông ra trường với cấp bậc chuẩn úy ở Thủ dầu Một, đứng hạng 3. Năm 1945 được thăng trung úy và là sĩ quan thể thao của đồn quân Vũng Tàu. Cũng vào năm đó, ngày 9 tháng 3 khi quân Nhật tấn công các đơn vị Pháp, ông chiến đấu mãnh liệt suốt đêm, nhưng khi cuộc chiến chấm dứt, ông đã ngả theo Nhật, đó là một điểm quá yếu. Khi Nhật đầu hàng, để tránh ra hội đồng quân pháp, ông lui về quê nhà ở Mỹ Tho sống với môt quan chức, ông Nguyễn ngọc Thơ, bạn của thân phụ ông. Trong vòng mấy tuần lễ với sự sảng khoái của nền độc lập vừa mới tìm lại được, ông lại ngồi vào "ủy ban hành chánh Việt Minh" của tỉnh Mỹ Tho. Đến tháng 10 năm 1945, khi đoàn quân thiết giáp của đại tá M***u vào Mỹ Tho, ông tự để cho họ bắt mà không kháng cự. Được hộ tống về Sài Gòn , nơi ông bị truy tầm như một quân nhân đào ngũ, chánh quyền đưa ông sang Cảnh Sát đặc biệt ở đường Catinat đễ điều tra. Ở đó ông bị qua một cơn hành xác quá khủng khiếp. Các nhân viên điều tra đã đánh ông bằng gót giầy làm gãy hết hàm răng trên chỉ còn lại một chiếc. Từ lúc đó ông mới có biệt danh là "Minh sún" (nguyên tác :"L'Édenté"). Mãi đến năm 1947 ông mới được trở vào quân đội Pháp lại với cấp bậc cũ .Là một sĩ quan tốt, rất chịu khó chiến đấu không mệt mỏi, ông được binh sĩ trực thuộc thương mến. Năm 1951, ông được thăng cấp đại úy và đảm nhiệm chức vụ sĩ quan tùy viên cho ông Trần văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam . Năm 1952 ông được thăng Thiếu tá và được gời đi thụ huấn lớp Chỉ Huy Tham Mưu ở Pháp. Đến 1953, ông ra trường và trở về Miền Trung Việt Nam với cấp bằng Chỉ Huy Tham Mưu cao cấp. Ở đây ông chỉ huy nhiều cuộc hành quân trong vùng rừng thiêng nước độc của "dãy phố buồn hiu". Sau Hiệp ước Genève 1954, ông được gọi về Sài Gòn. Thủ đô Sài Gòn lúc bấy giờ như một thùng thuốc súng sấp nổ, không người nào tin vào khả năng đứng vững của tân Chánh Phủ của ông Diệm. Ở Miền Nam Việt Nam các giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài và Bình Xuyên rất hùng mạnh. Lực lượng quân sự của họ nếu tính chung lại được lên quá con số 50.000 người và những vùng ảnh hưởng của họ trải rộng khoản 1/3 đất nước. Bảy Viễn, lãnh tụ Bình Xuyên từ một cựu thảo khấu đã trở thành một tướng lãnh, là một người hung bạo và gan dạ như một con trâu rừng, làm chủ cả thủ đô mà không còn ai nghi ngờ gì nữa. Ông ta nắm cảnh sát, nắm sòng bạc Đại Thế Giới, kiểm soát bọn con buôn người Tàu, các lò sát sinh, và mọi sự lưu thông đường bộ cũng như đường thủy . Do đó ông ta rất giàu mạnh, dân chúng ai cũng sợ. Nhưng ông Diệm có quyết tâm cần phải phá bỏ tập đoàn phong kiến và chứng tỏ uy quyền của Chánh Phủ mình. Do đó ông cho thăng cấp ông Minh lên đại tá, trao cho ông quyền chỉ huy tiểu khu Sài Gòn Chợ Lớn với toàn quyền hành động. Lúc bấy giờ ông Minh mới kêu gọi đến sự hợp tác của các sĩ quan thâm niên thuộc các tiểu đoàn Dù. Ngày 28 tháng 4 năm 1955 hồi 4 giờ sáng có tiếng bách kích pháo nặng nổ trong thành phố. Một cột khói đen khổng lồ bốc cao trên nền trời. Cuộc chiến chống các giáo phái bắt đầu. Cuộc chiến nầy kéo dài 2 năm. Một cuộc nội chiến đẫm máu , không khoan nhượng, nếu không muốn nói đến hai chữ "tàn nhẫn", từ chiến đấu trong đường phố đến các trận tập kích của đặc công trong vùng sình lầy, các trận xung kích của thiết giáp suốt cả Miền Tây Nam Bộ. Ông Minh có mặt khắp nơi khi có chạm súng nặng. Người của ông ta đã phạm vào một vài hành động "thất nhân tâm", cướp một xe hàng hóa gọi là chiến lợi phẩm trị giá 8 triệu đồng, chia cả kho bạc của Bảy Viễn trên 100 triệu đồng (tương đương với 1 tỷ quan Pháp cũ lúc bấy giờ). Thanh toán Bình Xuyên xong là đến lượt Hòa Hảo, một cuộc đuổi bắt với đủ loại cạm bẩy, xuyên qua các đồng ruộng mênh mông ngập nước, xuyên qua các giồng cát, các kênh rạch hay các rừng đước rừng tràm. Hàng loạt cuộc săn lùng người khắp nơi, không nhân chứng, được diễn ra trên hàng trăm cây số từ Đồng Tháp Mưồi đến núi Thất Sơn qua tận biên giới Việt Miên. Cho đến khi với hành động phản trắc bắt được tướng Ba Cụt, một nhân vật nổi tiếng, một vị chỉ huy trưởng gầy gò để tóc dài của kháng chiến quân Hòa Hảo mà cả người Pháp lẫn cộng sản không hạ được và cũng không khuất phục được .Ba Cụt bị xử tử bằng máy chém và cả Hoà Hảo không bao giờ tha thứ cho ông Minh về chuyện nầy. Lúc bấy giờ ông Minh là một quân nhân và sự thù hận nầy không làm cho ông quan tâm lắm. Sự chống đối triền miên của giáo phái Hòa Hảo được ăn sâu trong cả 11 tỉnh đông dân cư của đồng bằng sông Cửu Long đã làm suy giảm một cách đáng kể đến tầm vóc của người lãnh đạo Miền Nam khi ông Minh thật sự bước vào con đường chánh trị . Nhưng đây là một việc khác... Năm 1958, tướng Minh về Sai Gon trong chiến thắng. Lễ lạc, tràng hoa, vinh thăng trung tướng.... diễn hành, duyện binh, kèn trống .... Nhưng bà Ngô đình Nhu cố vấn chánh trị và em dâu của ông Diệm lại không tin tưởng những tướng lãnh quá bình dân. Bà nói với ông Diệm : -" Không nên để cho lớn mạnh dưới trướng của mình một quân nhân có quá nhiều ảnh hưởng trong quân đội . Với khuynh hướng thông thường thích các cuộc đảo chánh kiểu Nam Mỹ của người Anh, đã là một người chiến đấu giỏi, nhưng dễ bị mua chuộc, không thông minh lắm và nhất là không biết gì lắm về chánh trị , tướng Minh không khéo rồi sẽ trở thành một tướng lãnh để cho người ta nhắm vào. Chỉ cần có một đường giây nhỏ nào đó của tòa đại sứ hay Bộ Ngoại Giao Mỹ và một cố vấn có hạng của bọn Trung ương tình báo Hoa kỲ ( CIA ) là đủ rồi. Cho nên tốt hơn hết là chúng ta nên giữ một khoảng cách nào đó đối với ông ta." Mặc dầu các phe phái đã bị đập tan, các cán bộ cộng sản không có được bao nhiêu, nhưng chế độ của ông Diệm cũng chưa được tự tại cho lắm. Là một người ngoan đạo lại thấm nhuần tập quán của Khổng Mạnh, vị Tổng Thống của Miền Nam Việt Nam là một người quốc gia cực đoan và đến giờ nầy vẫn còn độc thân, sống khắc khổ, nên có một đường lối chánh trị đặt trên nền tảng "tập trung quyền hành", với một tinh thần đạo đức khắc nghiệt, tôn trọng và bảo vệ triệt để tôn ti trật tự trong gia đình, cùng với một sự hướng dẫn chánh trị cho dân chúng và một sự nâng đỡ vô điều kiện đối với khối giáo dân di cư từ Miền Bắc. Các vũ trường và tiệm hút đều bị đóng cửa, cờ bạc bị cấm, vợ chồng phải có cưới hỏi hợp pháp, tội ngoại tình phải bị xử tù và học tập chánh trị bắt buộc. Hầu hết các vị trí then chốt trong chánh quyền đều do trí thức Miền Trung nắm giữ. Tướng Minh vốn là người Nam , gốc Miền Nam Việt Nam , rất sợ những sự gò bó, nghi lễ và những mánh khóe chia rẽ bạn bè. Ông mạnh mẽ chỉ trích các trí thức Miền Bắc và Trung hèn hạ, thượng đội hạ đạp, tự cho mình là "những con mọt sách". Ông không cần biết đến "dịch rửa tội" nó đang tàn phá hàng ngũ các cấp tá đang chạy lo cho vấn đề thăng thưởng của họ. Khi có dịp đi thăm miền quê với Tổng trưởng quốc phòng , ông tự tách rời khỏi đoàn quan khách, đi lẫn lộn trong đám nông dân, có khi lội xuống ruộng sình lầy mà không cần phải xăn quần hay cởi giầy., còn có đổ mồ hôi thì tự kéo tay áo lên chùi trán. Với hàng binh sĩ thì ông nói công khai :"Nên để thì giờ chạy theo tán gái còn hay hơn là chạy theo mấy ông cố đạo" Trong các cuộc tiếp tân thì ông từ chối tán tỉnh để kiếm điểm với bà Nhu, chỉ trích công khai các công chức và các sĩ quan xin vào đảng "Cần Lao" (chú thích của tác giả: dưới chiêu bài của "đảng Cần Lao", đây là một sự tuyển chọn một đội ngũ cán bộ và những người được gọi là ưu tú để phục vụ chánh quyền hiện tại) Vị thế của ông lần lần bị lu mờ. Vào cuối năm 1959, ông được cử làm thanh tra các Quân Đoàn I và Quân Đoàn II (Vùng Hué và Cao Nguyên Trung Phần). Nhưng thật sự ông không rời khỏi Sai Gon và cứ ngồi ỳ trong văn phòng của mình. Vì các đặc quyền của ông đã được ông Ngô đình Cẩn làm hết rồi, ông nầy là người em "út" của ông Diệm, một vị lãnh chúa xảo quyệt và bí mật, một ủy viên chánh trị và thủ quỹ của Miền Trung Việt, một người nắm hết cả vùng với một mạng lưới cán bộ đảng viên đảng Cần Lao, từ cảnh sát đến binh sĩ và điềm chỉ viên, một người tự cho mình là thấy hết, biết hết, mua chuộc và bảo đảm sự trung thành của mọi người bằng tiền bạc hay bằng một sự giúp đỡ nào đó... một người không chịu bỏ qua bất cứ một chuyện lớn nhỏ nào cả. Ngày 11 tháng 11 năm 1960, hai vị đại tá thuộc binh chủng Nhảy Dù đã làm một cuộc đảo chánh ở Sai Gon với 3 tiểu đoàn Dù, họ đã chiếm hết các điểm trọng yếu trong thủ đô, đánh vào Liên đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống gần vườn Bách Thảo và bao vây Dinh Độc Lập. Các sĩ quan nầy đã mời ông Minh lãnh đạo cuộc binh biến nầy nhưng ông từ chối, không tham gia. Cuộc đảo chánh thất bại. Các sĩ quan chạy qua Cam Bốt. Tướng Minh cũng không được ân huệ gì hơn. Đến năm 1961, ông nhận một chức vụ mới :"Tư Lệnh Bộ Tư Lệnh Hành Quân" của quân đội. Nhưng cũng chỉ là một chức vụ tượng trưng "ngồi chơi sơi nước" mà thôi. Bởi vì trong những cuộc hành quân chống du kích đầu tiên và thành lập các "Khu trù mật", ít khi mà quân đội can dự vào. Bất bình vì coi như đương nhiên bị gạt ra ngoài vòng, ông ta càu nhàu, gậm nhấm mối hận nầy, nhưng vẫn giữ một thái độ hết sức thận trọng. Năm 1963 ông lại được chỉ định làm "Cố vấn quân sự cho Phủ Tổng Thống", một chức vụ hoàn toàn có tánh cách danh dự và thụ động. Dù sao thì ông vẫn là người rất bình dân trong quân đội nên có một nhóm tướng lãnh và đại tá đã tiếp xúc với ông để chuẩn bị cho một cuộc đảo chánh, Ông Ngô đình Nhu nhờ cảnh sát mật vụ của ông cho biết nên đã cảnh giác đề phòng. Nhưng ông không tin là ông Minh có đủ tài cán, nên bỏ qua việc nầy với một câu nói có vẻ khinh bỉ : - " Anh ta có sức như một con voi nhưng có bộ óc của một con chim muỗi. Không có quản tượng thì voi không thể làm gì được đâu. ". Ông Nhu nói cũng đúng lắm nhưng ông đã lầm. Tướng Minh và "nhóm đảo chánh" của ông không thiếu quản tượng đâu : - Tướng Maxwell Taylor, cố vấn quân sự đặc biệt của Tổng Thống Kennedy là người đầu tiên đã tiếp xúc và khuyến khích những người tạo phản. - Đại sứ lỗi lạc của Hoa Kỳ ông Henry Cabot-Lodge, nhà quý tộc của thành phố Boston, một người biết tính toán và rất lạnh lùng... đã làm gạch nối với sự trợ giúp của một kỹ thuật gia thuộc Cục Trung Ương Tình Báo : đại tá Lou Conein (18 năm ở Việt Nam ), một bợm rượu có hạng, một kẻ phiêu lưu rất nên thơ nhưng rất dữ dằn, cha là người Nga mẹ là người Pháp, vợ là người lai Âu Á, anh là cựu chiến binh của OSS (tiền thân của CIA ) ở bưng biền Bắc Việt , cựu huấn luyện viên của những toán đặc công Việt Minh đầu tiên vào năm 1945... ( chú thích thêm của tác giả :Có một chuyên viên CIA khác làm việc chung với Lou Conein. Đó là đại tá Spera, người sau nầy được nổi tiếng là đã thanh toán Che Guevera ở Bolivie). Tướng Minh và Lou Conein đã biết nhau từ chiến dịch đánh Bình xuyên, một chiến dịch đã gây ra những sự đụng chạm nặng giữa sĩ quan Phòng Nhì của Pháp và cố vấn quân sự của CIA . Người Pháp thì ủng hộ Bình Xuyên, những người đồng minh cũ trung thành với Pháp. Người Mỹ thì ủng hộ ông Diệm và tướng Minh trong việc nắm lại thị trấn Sài Gòn - Chợ Lớn. Cộng tác chung quanh tướng Minh và Conein trong việc chuẩn bị lật đổ ông Diệm, còn có cả một nhóm chuyên viên: tướng Lê văn Kim, một sĩ quan tham mưu quan trọng (trước thế chiến 2 ở Paris là người đạo diễn đã làm việc với Marcel Pagnol), tướng Trần thiện Khiêm (sau nầy là Thủ Tướng và là cánh tay mặt của Tổng Thống Thiệu), tướng Mai hữu Xuân, (cựu tư lệnh Cảnh Sát Đặc Biệt, một người có tánh dứt khoát, hung dữ và thù hận, biết rất nhiều chuyện bí mật và có dưới trướng nhiều toán sát thủ trung thành và phục vụ vô điều kiện.), Đại tá Đỗ Mậu, Giám Đốc Nha An Ninh Quân Đội, cựu trung sĩ vệ binh Việt Nam thời Pháp, một con người mưu sĩ đầy mánh khóe nhưng không biết ngại ngùng là gì. Con bài chủ của nhóm người nầy là tướng Trần văn Đôn, Tham mưu trưởng QLVNCH, người được bà Nhu vừa đẹp vừa say mê bảo vệ đặc biệt. Tướng Đôn là người được Tổng Thống Diệm và ông Nhu tín nhiệm hoàn toàn, sẽ là người phối hợp không bị nghi ngờ cho toàn nhóm. Ngày 1 tháng 11 năm 1963, chế độ bị lật đổ, Cả hai ông Diệm và Nhu đều bị đại úy Nhung thanh toán bằng mấy phát súng lục 12 ly và bị đâm thêm nhiều nhát dao găm. Đại úy Nhung, sĩ quan cận vệ của tướng Minh, là người thi hành tất cả lệnh của tướng Minh một cách mù quáng. Sau khi thành công, nhóm đảo chánh thành lập "Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng" và tướng Minh được giao cho chức Chủ tịch nắm lấy chánh quyền. Nhưng không phải chỉ hạ bệ một ông Tổng Thống bằng đại bác là đã chứng minh được là mình có khả năng trị quốc. Tướng Minh lúc nào cũng trung thành với bạn bè nên đã chỉ định người bạn cũ trong kháng chiến và cũng là bạn trong tù là vị quan lại Nguyễn ngọc Thơ vào chức vụ Thủ tướng Chánh Phủ , và giao Bộ Thể Thao cho một người bạn khác của ông, một kiến trúc sư ốm yếu bệnh hoạn , một người suốt cả đời chưa bao giờ biết làm một động tác thể dục nào. Hội đồng Quân Nhân quá bận tâm với hồ sơ về "sự độc tài của chế độ Diệm" nên không có đưa ra được một chương trình hành động về chánh trị hay kinh tế nào . Tướng Minh đã có những lời tuyên bố làm cho các nhà báo sửng sốt : "Chúng tôi cũng đã nghĩ tới học thuyết. Nhưng trong hiện tại, có rất nhiều việc quan trọng hơn: nắm vững lại công việc để đi tới chiến thắng." Ngoài ra, vì các đơn vị ưu tú của quân đội cứ tập trung và đóng mãi ở thủ đô, cũng như có nhiều tướng lãnh mải lo tìm chức vụ và bổng lộc, nên đã có một khoảng trống trầm trọng trong lãnh thổ. Các "ấp chiến lược" từng được xem là xương sống của hệ thống phòng thủ của dân chúng chống lại Việt Cộng lại bị phá tan. Có nhiều vị tổng bộ trưởng và công chức cao cấp bị bắt giam hay lưu đày, và có nhiều vị tỉnh trưởng bị cách chức. Cộng sản lợi dụng tình trạng hỗn loạn trong quân đội , lợi dụng khoảng không chánh trị và sự thiếu vắng của nền hành chánh trong lúc nầy để tiến hành những hành động qui mô hơn trong tất cả vùng quê thuộc đồng bằng sông Cửu Long . Còn nói về việc "nắm chặt tình hình" của các tướng lãnh thì đó thường được diễn dịch ra là những cuộc ''làm tiền". Trước tiên, các "ông đảo chánh" bắt đầu là "đánh vào" các kỹ nghệ gia, họ cho đó là những người đã làm giàu dưới trào chế độ cũ. Cố vấn tài chánh của ông Nhu, một nhà tư sản có hạng ở Hué. đã bị bắt buộc phải nộp 60 triệu đồng. Theo lệnh của tướng Minh, vị linh mục từng làm lễ rửa tội cho ông Diệm bị bắt . Bị hăm dọa xử tử hình, linh mục nầy phải giao lại cho vị nguyên thủ quốc gia 35 triệu đồng, số tiền đã được Tổng Thống Diệm giao cho nhà thờ thuộc Dòng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng.. Sau đó, các "ông đảo chánh" tự chia nhau khoản 500 triệu tiền công quỹ còn lại sau cái chết của ông Diệm. Ở Dinh Độc Lập, chán nản và phiền phức vì cứ phải cứu xét các hồ sơ, tướng Minh tiếp hết mọi người . . làm cho các cơ quan an ninh muốn điên lên. Có một ngày nào đó, trên 20 người mặc quần ngắn không cà vạt đi giầy bố, đến trính diện ở cổng. Tất cả đều là bạn quần vợt của ông Minh, những ông thông ông phán, những thầy thơ ký, những người gác cửa, lục sự và có cả những người lượm banh nữa. Tất cả đều vào công viên và chơi ở sân quần vợt của Phủ Tổng Thống luôn trong suốt hai giờ đồng hồ với tướng Minh. Ngay ở nhà ông Minh ở đường Ch***eloup Laubat, các cửa vào ra cũng không có người canh gác. Còn Bà tướng Minh thì cũng đẹp, lớn con, lúc nào cũng tươi cười, không kiểu cách, mời tất cả bạn bè. Nhà luôn luôn có bạn bè khách khứa, nhạc sĩ, các chiêm tinh gia, và mấy tay tứ sắc... Nhưng dân chúng thì không ai chú ý nữa. Cách đây mấy tuần, dân chúng Sài Gòn rất mừng rỡ hoan nghênh tận tình sự sụp đổ của một chế độ mà họ chán ghét. Các tướng lãnh thấy được hoan hô nhiệt liệt, ngây thơ tưởng rằng dân chúng hoan hô mình. Thật không còn cái lầm nào hơn !. Đám đông dân chúng chỉ vui mừng vì tìm lại được sự tự do và nhất là lời hứa là Miền Nam Việt Nam có triển vọng chấm dứt được trận giặc đã kéo dài quá lâu rồi. Dân chúng thật thà tưởng rằng sự sụp đổ của chế độ Diệm là có thể dàn xếp được tất cả. Nhưng giờ đây họ thấy là cuộc chiến chẳng những vẫn tiếp tục mà còn bành truớng mạnh thêm lên, họ thấy là khó mà có được thanh bình và cánh cửa Tự Do vừa thấy mở ra được một lúc thì lại được đóng lại ngay rồi. Một luật sư Việt Nam được ra khỏi nhà tù, không bị tình nghi là có cảm tình với chế độ cũ, đã tâm sự với một đặc phái viên của một tờ báo lớn ở Paris : "Ông biết bây giờ có một sự khác biệt nào với "lúc trước" không ? Các cô gái điếm có thể níu kéo khách rất là tự do trên đường Tự Do. Còn ở các quán rượu thì người hầu bàn không còn bị bắt buộc phải mặc chiếc áo bờ lu trắng theo lệnh của bà Nhu nữa, mà họ được phép ăn mặc theo sở thích và theo khuynh hướng riêng của họ. Tôi quên nói là kể từ nay được nhảy tuýt một cách hợp pháp nữa.. Thật là quá yếu !" Thật ra thì không còn có vấn đề hứa hẹn gì về Tự Do đâu. Các cuộc phổ thông đầu phiếu coi như được dời lại sau khi chiến tranh kết thúc.Một "Hội Đồng Nhân Sĩ" được thành lập với nhiệm vụ rất khiêm nhường là soi sáng Chánh Phủ trong mọi quyết định. Nhưng rồi Hội Đồng nầy cũng không đi đến đâu cả. Người ta ghi nhận có một số người mới tự thiêu. Thật khó mà tin được . Theo luận điệu chánh thức của chánh quyền thì "họ chỉ tỏ thái độ vui mừng vì cuộc đàn áp Phật Giáo đã chấm dứt". Các đảng phái chánh trị tái hoạt động một cách khó khăn. Báo chí thì tràn ngập (trên 50 tờ báo được xuất bản sau ngày đảo chánh, và chỉ cần có một lá thơ giới thiệu của một tướng lãnh nào đó là giấy phép ra một tờ nhật báo có thể được phê chuẩn ngay). Báo chí được phép tố cáo chế độ cũ. Nhưng nếu tờ báo nào tự do chỉ trích hành động của các tướng lãnh thì sẽ bị tịch thu ngay và vĩnh viễn bị đóng cửa. (việc này đã xảy ra ba lần trong vòng không đến một tuần). Chế độ của ông Diệm dĩ nhiên phải có những lỗi lầm (lỗi lầm chính yếu nhất là đã làm phật lòng người Hoa Kỳ), nhưng chế độ nầy đã góp công vào sự ra đời và tồn tại của chánh quyền Miền Nam Việt Nam. Chế độ đó cũng đã thiết lập được một hàng rào ngăn chặn bọn Việt Cộng, có thể là chưa hữu hiệu lắm, nhưng cũng là một rào cản. Bây giờ thì không còn gì cả. Miền Nam Việt Nam là một đất nước đang trong thời nội chiến mà lại không thấy có chánh quyền nào hết! Dưới thời ông Diệm, đã có một ý kiến, một cán bộ xã hội và kinh tế, một đường lối chánh trị và một niềm tin. Đã có được một người : Nhu, người biết làm cho người ta nghe lời, và mọi người đều run sợ trước người đó. Những mệnh lệnh của ông ta nói ra đều được thi hành. Nhưng bây giờ thì là một nền Cộng Hòa của những người bạn nhỏ . Người nào cũng là chỉ huy hết mà không có ai là người tuân hành. Thật là cả một sự hỗn độn. Tất cả quyền hành quân sự lẫn hành chánh đều nằm trong tay "Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng".. Nhưng rất rõ ràng là những người lãnh đạo của nhóm đảo chánh hình như không biết phải làm gì với quyền bính đó. Dân chúng đã tin tưởng rằng các tướng lãnh khi nắm được chánh quyền rồi thì phải có quyết định đi đến hành động, sau khi đã suy tính về kế hoạch của họ, dù là có quá lâu. Không có gì không đúng ! Cuộc đảo chánh không phải là một cuộc hành quân "vì" một chuyện chơi nào đó! mà là để "chống" một chế độ hiện hành: chế độ gia đình trị của nhà họ Ngô. Và hành động bằng vũ lực nầy kéo theo 2 án mạng đã tõ ra thật sự vô nghĩa. Rất mau chóng những người không được chuẩn bị cho việc nầy thấy là mình bị đứng trước một nhiệm vụ là phải soạn thảo một chương trình hành động mới , một nhiệm vụ quá cao đối với họ. Nhưng thay vì phải hoạch định một học thuyết, họ chỉ cần cho bộ máy hành chánh cũng như kinh tế chạy lại, và cho dân chúng tham gia.... Các tướng lãnh cứ tự giam mình trong văn phòng của bộ tham mưu với những cuộc thương nghị dài dòng vô ích mà cuối cùng chỉ thấy có một quyết định cụ thể duy nhất được thông báo cho dân chúng. Đó là "lệnh tịch thu" tài sản của tất cả thành viên thuộc gia đình họ Ngô, còn sống hay đã chết cũng vậy, và của tất cả những người cộng sự thân cận của họ. Bây giờ chỉ còn trông chờ ở người Mỹ mà thôi. Nhưng đại sứ Cabot Lodge, nản lòng vì những sự cãi vã và bất lực rõ ràng của các tướng lãnh, đã giữ khoảng cách xa trở lại. Không còn những buổi chơi quần vợt, không còn những cuộc tiếp tân thân mật ở tòa đại sứ Mỹ nữa, tất cả những gì để cho dân chúng thấy được , nhất là gia đình họ, những người quân nhân đó bị thất vọng phần nào vì không quen lễ nghi danh dự cho những nhân vật quan trọng. Không đầy 3 tháng sau sự thành công nổi bật của cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11, vì tuyên bố "trung lập" và "thân Pháp", tướng Minh đã bị tướng Khánh bắt giữ và đuổi ra khỏi chánh quyền , Tướng Khánh là một nhân vật béo tròn, hung tợn và để râu cầm, là người được Cabot Lodge đưa vào quỹ đạo để dễ điều khiển. Nhưng tướng Minh bị giữ không bao lâu và chính tướng Khánh đã nài nỉ để ông Minh trở lại với chức vụ nguyên thủ quốc gia . Sau vài ngày lưỡng lự, tướng Minh cuối cùng đã chấp nhận. Ông ở chức vụ đó cho đến ngày 15 tháng 9 1964, nhưng thực tế cũng không có quyền hành gì . Vào cuối tháng 10 năm đó, tướng Khánh lại bị tướng Không quân lật đổ. Tướng Minh bị đày sang Thái Lan dưới danh nghĩa là "đại sứ lưu động", chức vụ thì giả định, nhưng lương bổng thì đầy đủ. Trong khoảng 4 năm sống lưu vong ở Bangkok, tướng Minh liên tiếp được các Chánh Phủ sau nầy ở Sài Gòn cho hưởng lương đại sứ rất đầy đủ. Biệt thự của ông nằm ở vùng ngoại ô Bangkok, những người dân Thái ở gần ông thường gọi là "ông Việt Nam to con", nhưng ở đây ông buồn, vì ông nhớ nhà. Để giết thì giớ, ông đọc hàng loạt sách loại trinh thám (Proudhon và Mémorial de Sainte-Hélène), nuôi cá và trồng lan. (ông có cả một bộ sưu tập lan rất đẹp). Các bạn bè có dịp ghé lại Bangkok đều có đến thăm ông. Ông muốn trở về Việt Nam nhưng Sài Gòn vẫn làm lơ giả điếc.. . Vào một ngày tốt trời nào đó trong năm 1965, ông chịu hết nổi nên đáp máy bay hàng không Thái về Sài Gòn .Tướng Nguyễn cao Kỳ, lúc bấy giờ là Thủ Tướng, cấm không cho phi cơ đáp xuống và cho một phi tuần phóng pháo cơ hộ tống chiếc phi cơ hàng không đến tận biên giới Thái Lan, Chiếc phi cơ phải trở về Bangkok với tất cả hành khách của nó . Vào tháng 5 năm 1967, vốn muốn về lại Sài Gòn hơn là muốn hoạt động chánh trị trở lại, Tướng Minh tuyên bố sẽ về ứng cử Tổng Thống vào tháng 9. Nhưng tên ông bị gạt ra ngoài danh sách ứng cử viên Tổng Thống và tướng Nguyễn văn Thiệu đắc cử. Cuối cùng mãi đến ngày 5 tháng 10 năm 1968 tướng Minh mới được phép về Việt Nam .. Ông đến gặp ngay Tổng Thống Thiệu, người đã cầm quyền từ 3 năm rồi, được Tổng Thống đề nghị giữ chức vụ cố vấn cho Tổng Thống. Ông vừa từ chối.vừa càu nhàu: - "Tôi đã biết quá về cái món nầy ở Phủ Tổng Thống rồi ! Tôi đã có lần ở chức vụ nầy rồi. Tôi không muốn làm chiếc bình chưng bông bày trên kệ nữa" Với các nhà báo thì ông chỉ tuyên bố nhẹ nhàng:"Tôi muốn đứng ngoài mọi hoạt động chánh trị , trong vị trí của một quan sát viên." Một vài tuần lễ trôi qua, sau đó trong những ngày đầu tháng 11, tướng Minh nêu lên một phản đối "chống lại việc Hoa Kỳ ngưng dội bom ngoài Bắc Việt vô điều kiện" một điều mà ông coi như một sự "đầu hàng" và một "hành động khuyến khích kẻ xăm lăng" . Một năm sau, ngày 1 tháng 11 năm 1969, ông tập họp các cựu tướng lãnh trong cuộc đảo chánh để "kỷ niệm ngày lật đổ chế độ độc tài của ông Diệm". Báo chí đối lập đã ghi nhận một cách hiểm độc rằng :"một người duy nhất có giá trị lại vắng mặt trong buổi họp mặt thân mật nầy là Tổng Thống Thiệu, một người đã có một vai trò chính yếu trong cuộc đảo chánh nầy." . Lo âu sợ thua kém các đồng nghiệp, một bình luận gia thân Chánh Phủ nghiêm khắc nhận xét là - "lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam nơi mà sự kính trọng người chết là một điều thiêng liêng, thì những người có trách nhiệm trong hai án mạng lại dám trân tráo lăng nhục linh hồn của các nạn nhân của họ bằng cách uống rượu ăn mừng hành động tội ác của mình." Kế tiếp, ngày hôm sau, chúa nhật 2 tháng 11, Tổng Thống Thiệu cho phép cử hành một buổi lễ "Tưởng Niệm" cầu siêu cho linh hồn của ông Diệm và ông Nhu, một buổi lễ đạo rất long trọng tại nhà thờ Chánh Tòa ở Sài Gòn, có sự tham gia của Tổng Trưởng Thông Tin, đại diện của Chánh Phủ. Sau buổi lễ, một đoàn khoản 2000 giáo dân mang hoa đi trong vòng trật tự đến nghĩa trang Mạc đỉnh Chi, nơi hai anh em Diệm Nhu được an táng trong hai ngôi mộ cạnh nhau cùng chung dưới một tấm xi măng đúc. Được phỏng vấn sau đó, ông Tổng trưởng Thông Tin trả lời cho các phóng viên là "sự có mặt của ông nơi đây là "để tỏ lòng tưởng nhớ đến ông Diệm, một vị anh hùng dân tộc, một gương mặt lịch sử của nước Việt Nam độc lập". Tức khắc các tờ báo theo Phật Giáo cho đó là một sự "khêu khích". Tướng Minh phá vỡ thình lình sự im lặng của chính mình bằng hai bản thông cáo đặt vấn đề tính cách đại diện của Tổng Thống Thiệu. Đồng thới ông tuyên bố chủ trương tổ chức trưng cầu dân ý về "một hình thức chánh trị" thật sự cho nền độc lập quốc gia về sự giải ước của quốc gia Việt Nam là "không thể ngả theo bên tả hay bên hữu mà phải ở vị trí trung lập, ở giữa hai thế giới tư bản và cộng sản" Tổng Thống Thiệu xẵng giọng cãi lại ngay: "Chánh Phủ VNCH được thành lập từ "tự do phổ thông đầu phiếu" . Tôi thi hành sứ mạng do dân chúng phó thác cho tôi. Chúng ta đã đi gần đến chiến thắng rồi. Trung lập là môt điều phi lý, là một hình thức ngụy trang đi đến đầu hàng cộng sản . Có nhiều chánh trị gia bực tức chỉ vì với mục đích thỏa mãn dục vọng cá nhân, đe dọa sự đoàn kết quốc gia trước kẻ thù". Thế là cuộc so kiếm đã bắt đầu. Nhưng đó chỉ là một màn chạm trán nhỏ thôi. Cuộc chiến thật sự sẽ được diễn ra trong tương lai. Tướng Minh lại giữ im lặng, mỗi năm chỉ đi ra khỏi nhà đôi ba lần để chua chát chỉ trích chế độ mỗi lần một nhiều hơn. Biệt thự ở đường Ch***eloup Laubat không vì thế mà thiếu vắng người lui tới : bạn bè, khách khứa, thân hữu, sư sãi, thầy bói, sứ giả mang tin tức đến từ Pháp, Nhật hay Hoa Kỳ , các tướng lãnh khác hay Tổng Bộ trưởng bị lưu đày. Người ta trò chuyện, đánh bài, và uống trà. Khi ông không tiếp khách thì ông đến "Câu lạc bộ thể thao Sài Gòn " với cây vợt trên tay. Ông đánh quần vợt với mấy ông nghị sĩ, dân biểu, các tướng lãnh, các giáo sư, với người Mỹ, với nhân viên ngoại giao của các sứ quán ngoại quốc.. Ở vùng Đông Nam Á, chơi quần vợt có một đặc điểm là tạo được sợi dây thân ái giữa các đấu thủ không phân biệt chánh kiến. Và tướng Minh là một đấu thủ chơi không biết mệt. Tất cả những người đến với ông ta đều nhấn mạnh là viên cựu tướng lãnh đáng sợ này đã già dặn hơn trước nhiều, và đã thay đổi rõ nét là một người tranh đấu cho "hòa bình". Ông chỉ nổi giận lên khi người ta nói đến "người Bắc kỳ" (nguyên tác "Tonkinois" ) Tuy nhiên dần dần ông Minh cũng thành lập một nhóm chánh trị, mở rộng thêm ra và cố gắng hướng dẫn các lực lượng đối lập. Những người của ông ta và những người hợp tác với ông được phân ra thành 4 nhóm rõ rệt : - những ông đốc phủ, chủ sự hành chánh và cựu tỉnh trưởng, những công chức già nổi bật với nền văn hóa Pháp, những người được kính trọng qua nhiều thể chế. - Những sư sãi cốt cán của chùa Ấn Quang và của nghị sĩ Vũ văn Mẫu, tiến sĩ luật, chủ tịch Phong Trào Hòa Giải Quốc Gia (phần đông là Phật Tử), được người Mỹ tài trợ và thao tác từ lâu. - một số sĩ quan trẻ, giáo sư, nhà báo đối lập, và những công chức chuyên nghiệp có khuynh hướng tiến bộ được đào tạo ở trường Quốc Gia Hành Chánh có liên lạc với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam , những người cấp tiến chủ trương cải cách xã hội Việt Nam , và chủ trương một Chánh Phủ Liên hiệp với cộng sản . - Những cựu tướng lãnh của cuộc đảo chánh 1 / 11, đã từ lâu đứng ngoài chánh quyền và không có một trách vụ quân sự nào, vừa chống ông Thiệu vừa chống cộng sản . Sự khác biệt nhau của các nhóm nầy, tuy cùng đồng ý với nhau về sự ra đi của Tổng Thống Thiệu nhưng có nhiều bất đồng về phương pháp áp dụng, và đường lối chánh trị phải theo để đi đến mục đích, đã giải thích phần nào những cuộc vận động bất thần và những lập trường mâu thuẩn của tướng Minh, thường hay ngả theo kẻ đối thoại nào ăn nói thuyết phục nhất . Vì thế mà sau nhiều lần tránh né, bàn bạc, rụt rè... tuớng Minh mới bất thần loan báo là sẽ ra ứng cử Tổng Thống vào năm 1971. Cuộc vận động bắt đầu, lúc đó tôi còn ở Sài Gòn. Các quan sát viên ngoại quốc nhận xét là tướng Minh có vài lợi thế trong chuyện tranh cử: ngoài những nhóm đã nói ở trên, ông còn được sự ủng hộ của Đức Giám Mục Bình của địa phận Sài Gòn, và của Phong Trào Trung Lập ở Paris của cựu Thủ Tướng Trần văn Hữu, người đỡ đầu cũ của ông, Ngoài ra ông cũng có một người em út là tướng cộng sản Dương văn Nhật (1) thuộc "quân đội nhân dân Bắc Việt", điều nầy giải thích tại sao đài Hà Nội và đài Mặt Trận không bao giờ tấn công tướng Minh trên hệ thống truyền thanh. Có 4 người lo vận động tranh cử cho ông . Hai nhân sĩ là ông Tôn thất Thiện và ông Nguyễn ngọc Thơ. Hai dân biễu trẻ là ông Lý quý Chung và Ngô công Đức. Trong thời gian nầy tôi đã có gặp tất cả 4 người nầy nhiều lần. - Ông Tôn thất Thiện sống trong một căn nhà rất đẹp với đầy đủ tiện nghi được xây cất trong một miếng vườn được phát họa rất là chu đáo. Ông là người miền Trung, ốm yếu và nóng tánh, có gương mặt quí phái, thuộc một gia đình quý tộc ở Hué. Là một con người kiêu kỳ và kiên quyết, ông nói thành thạo tiếng Anh và tiếng Pháp. Một vài chỉ dấu đặc biệt :ông có một người anh em là tướng trong Không Quân Bắc Việt; ông có liên lạc chặt chẻ với cơ quan tình báo Anh, và không thích người Miền Bắc (nguyên tác: Tonkinois). Ông bắt đầu đi vào con đường chánh trị trong chức vụ Tùy Viên Báo Chí và thông dịch viên chánh thức của Tổng Thống Diệm. Không đồng ý với những phương pháp và mục tiêu của Tổng Thống , ông từ chức và đi Thụy Sĩ để hoàn tất học vị tiến sĩ về khoa học chánh trị . Sau đó ông là Bộ trưởng của Phó Tổng Thống Hương, nhưng nhận thấy ông nầy quá lạc hậu và thiển cận nên lại từ nhiệm một lần nữa và nhảy sang phía đối lập. Bây giờ thì số phận của ông được gắn liền với số phận của tướng Minh Dương, ông tổ chức các buổi phỏng vấn và thu xếp các buổi tiếp xúc với dân chúng cho tướng Minh, đồng thời ông cũng đi dạy ở trường đại học Phật Giáo ở Sài Gòn và cộng tác với tờ báo Kinh Tế Viễn Đông của Hong Kong. Ông nói với tôi : -"Tôi chấp nhận yểm trợ cho ông Minh vì ông là một tướng lãnh biết chấp nhận uy quyền hành chánh đối với quân nhân . Ông hiểu rõ về tính cách pháp lý, và biết tôn trọng dân chúng. Ông ta muốn chấm dứt cuộc chiến và nói chuyện với "Mặt Trận". Còn ông Thiệu lại là người của chiến tranh. Ông chỉ tồn tại và sống đượclà nhờ vào chiến tranh và sự yểm trợ của người Mỹ, cố vấn và trả lương cho ông ta và áp đặt cuộc chiến đối với chúng ta. Nước Việt Nam phải chấm dứt không còn là một "trại lính" hay một nhà kho khổng lồ chứa đầy dụng cụ chiến tranh do một bọn côn đồ đần độn mặc quân phục điều hành, một bọn người chỉ có một công tác chính yếu là "đếm xác chết" . Các tướng lãnh của chúng ta thường hay quên rằng những xác chết lạnh cứng mà họ xếp lên bàn như những con thỏ mà họ đã đi săn được, không phải là những con thú vật mà chính là những người Việt Nam như chúng ta ." Khi tôi lưu ý với ông là "trong cuộc đời binh nghiệp của mình, tướng Minh cũng thường phải làm những bản tổng kết tương tự, và lúc ông có chánh quyền trongtay các tổng bộ trưởng dân sự của ông không thể làm gì được nếu không có ý kiến của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng gồm toàn là tướng lãnh . Hơn nữa bọn Việt Cộng mỗi ngày cũng đều có thông báo nêu lên con số hàng trăm binh sĩ và những viên chức Chánh Phủ bị họ giết..." thì ông Tôn thất Thiện cương quyết ngăn tôi lại ngay và nói : - " Chỉ có những người ngu xuẩn mới không chịu thay đổi quan điểm hoặc không có khả năng rút tỉa những bài học từ những sự thất bại của họ. Tướng Minh đãtừng bị thất sủng và lưu đày, nên có thì giờ suy gẫm. Bây giờ thì ông đã biết rõ là không phải chỉ tăng thêm các sư đoàn, không phải chỉ khóa mồm báo chí, hay tăng quân số cho cảnh sát là có thể cai trị đất nước được đâu. Dĩ nhiên là ông không hiểu nhiều về kinh tế và chưa có một ý kiến nào chính xác về các bài toán quốc tế. Nhưng đã có chúng tôi ở đây để giúp đỡ và hướng dẫn cho ông. Điều quan trọng là ông ta có thể tái lập lại sự Tự Do cho nền Dân Chủ và khóa các họng súng lại. " - Một vị cố vấn khác mà tướng Minh thường nghe theo là ông Nguyễn ngọc Thơ, một người khôn khéo và ít đanh thép hơn. Là con của một đại điền chủ ở Miền Nam , ông là một quan chức già, khuôn mẫu, khôn ngoan, lịch lãm, luôn tươi cười . Dưới thời Pháp, ông là một "chức sắc" của giáo phái Cao Đài, và bí thư của vị toàn quyền Đô đốc Decoux, kế đó là cộng sự viên của người Nhật và đã nhiều lần ở chức vụ tỉnh trưởng trước khi đi tập sự một khóa trong bưng biền với Việt Minh. Tổng Thống Diệm rất quý trọng ông nên đã đưa ông đi nhận chức đại sứ đầu tiên của Việt Nam ở Nhật Bản, sau đó lại gọi ông về giao cho chức vụ Tổng trưởng Bộ Kinh Tế, và cuối cùng là Phó Tổng Thống . Sau đó nhờ hợp tác với những người đảo chánh ông Diệm ngày 1/11/63 ông lại kế nghiệp người đã bảo trợ và nâng đỡ ông trong chức vụ lãnh đạo Chánh Phủ không khó khăn gì ! Qua những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời nghiệp vụ của mình, ông Nguyễn ngọc Thơ đã giữ được một số lớn kinh nghiệm cho những chuyện công cộng, một hệ thống tin tức rất tốt, một sự ủng hộ đắc lực của các hội viên hội Tam Điểm và những người tư bản ở Paris, một vài bạn bè còn sót lại trong nhóm lãnh đạo cộng sản, những liên hệ rất tốt với các trung tâm dịch vụ và một vài nhóm chánh trị Nhật Bản, và những tài liệu mật được cập nhật rất cẩn thận. Tính ông vốn người thận trọng, lại thêm dè dặt vì hoàn toàn bị lãng tai, ông ở xa thành phố trong một ngôi nhà kín đáo nhưng sang trọng, có khá nhiều người phục dịch tuy luôn mặc áo bỏ ngoài nhưng khó che dấu được súng lục đeo ở thắt lưng , ngay cả lúc mời trà . Khác hẳn với ông Tôn thất Thiện thường thích trình bày dài dòng kiểu triết lý - sử học, với những lý luận biện chứng, ông Nguyễn ngọc Thơ hay dùng những câu ngắn gọn nhưng đầy thuyết phục. Với một nụ cười ranh mãnh, ông nói: - "Từ hai năm nay người Mỹ và người Tầu đã kín đáo gặp nhau . Cách đây 2 tháng họ đã công khai hóa những mối quan hệ giữa họ với nhau. Bây giờ thì họ liên lạc điện thoại với nhau hằng ngày. Rồi đây họ sẽ ăn chung với nhau một bàn . Ông Thiệu là hòn sỏi trong tô canh của họ. Dĩ nhiên là họ cần phải vứt bỏ hòn sỏi đó nếu họ muốn ăn chén súp đó một cách yên lành.Đối với "kế hoạch 7 điểm" của Mặt Trận đưa ra, người ta chỉ nêu lên 2 chủ đề không đồng ý : - chuyện rút quân tức khắc của Hoa Kỳ và chuyện ra đi của ông Thiệu. Điểm thứ nhất sẽ được giải quyết không xa. Người Mỹ ra đi, việc nầy không có gì phải bàn cãi nữa. Chỉ còn lại điểm thứ hai. Chương trình và đề tài tranh cử của chúng tôi được đặt trên sự vãng hồi hòa bình với 2 lý do : Trước hết bởi vì bắt buộc các cuộc chiến phải được chấm dứt . Ngưới ta không thể vừa nói chuyện ích lợi với nhau mà vừa bắn nhau. Thứ đến bởi vì chúng tôi chắc chắn rằng ông Thiệu không thể cưỡng lại nền hòa bình bao lâu nữa . Ông ta là một người chống cộng sản nhưng thiển cận còn hơn cộng sản nữa. Và chế độ của ông nói là chống cộng sản nhưng hành sử cũng máy móc giống y như họ vậy. Lực lượng quân sự , hành động tâm lý chiến, và cảnh sát có mặt khắp nơi... Tất cả kết cấu chánh trị của ông Thiệu đều dặt trọng tâm vào chiến tranh. Và chiến tranh giải thích tất cả, và chứng minh cho tất cả. Những sự hy sinh, đòi hỏi ngân khoản, sự lạm phát, các sự trấn áp, khủng bố những người đối lập ... Chấm dứt được chiến tranh là tất cả kết cấu đều sụp đổ theo hết. Không có gì giản dị cho bằng !" - Ông Lý quý Chung, trưởng nhóm trẻ, là một người có cử chỉ lanh lợi và ăn nói dễ dàng. Xuất thân từ một gia đình khá giả ở Đồng Bằng sông Cửu Long, tuổi vào khoảng trên 30, tốt nghiệp trường Quốc Gia Hành Chánh, tiên khởi ông là giáo sư sinh ngữ (Anh và Pháp), trước khi nhảy vào làng báo như một tổng biên tập viên cho nhiều tờ báo. Sau đó ông ra một tờ nhật báo cho chính mình: tờ "Tiếng Dân". Chính trong tờ báo nầy ông đặt lại rõ ràng "tấn bi kịch của những người Việt Nam đứng ngoài cuộc chiến" , bị kẹt giữa 2 khối đối kháng, và từ đó ông đưa ra ý kiến thành lập "lực lượng thứ ba". Năm 1966 ông đắc cử dân biểu, và nhanh chóng nổi tiếng qua những cuộc can thiệp gay gắt và liên tục với "chánh quyền quân sự" , đồng thời tập hợp và thành lập một nhóm 18 dân biểu đối lập rất năng nổ. Lúc nào không có mặt trong Quốc Hội thì ông thích ngồi ở phòng trà Givral ở đường Tự Do, nơi hẹn hò thích nhất của các nhà báo Mỹ mà ông tìm cách nhập bọn. Ông thường nói với tôi : -"Các nhà báo ngoại quốc là phương tiện duy nhất của chúng tôi để mở nắp nồi "sốt de" đầy hơi mà Tổng ThốngThiệu đã đặt trên đầu của chúng tôi cho ra bớt hơi nóng. Những câu chuyện và những tin tức mà chúng tôi trao đổi với họ thường là khởi điểm của các cuộc điều tra giúp đưa ra ánh sáng những vụ tai tiếng và những chuyện buôn lậu mà Chánh Phủ muốn ém nhẹm." - Cựu dân biểu Ngô công Đức , 39 tuổi, đẹp trai, trác táng, tính hơi ngông và rỡm, là một nhà doanh nghiệp và anh có một chỗ đứng riêng biệt trong sinh hoạt chánh trị ở Miền Nam. Anh là cháu của Đức Cha Bình Giám Mục ở địa phận Sài Gòn, cha anh là một người công giáo bị Việt Cộng hành quyết vào thập niên 50 ở vùng Trà Vinh, một tỉnh cũ của Cam Bốt bên bờ sông Cửu Long. Anh có tài hái ra tiền nhưng cũng xài tiền ra như nước . Anh đã tuần tự là chủ báo, thầu khoán , và cả bốc rỡ hàng có giao kèo cho người Mỹ, đắc cử dân biểu năm 1967. Sau khi thất cử năm 1971. thình lình anh trở thành người của thời cuộc khi anh sang Paris (Pháp) và trình bày kế hoạch "hòa bình" của anh : -" Việt Nam Hóa" là độc tài cộng (+) với chiến tranh". Từ đó giới quân sự đã liệt anh vào loại "bồi bút" của cộng sản, và anh đã trở thành kẻ thù của chế độ ông Thiệu.Tờ "Tin Sáng" của anh nhiều lần bị tịch thu, nhà của anh bị cho nổ bom và xe của anh bị đốt. Anh viết nhiều bài theo nhu cầu của báo chí Mỹ và Pháp. Bị cảnh sát quấy rầy quá mức , anh đành phải chạy sang Pháp tỵ nạn, trong lúc tờ Tin Sáng của anh vẫn tiếp tục đánh phá không ngừng chống sự độc tài của ông Thiệu. Từ Paris nơi anh đã tăng thêm sự liên lạc với các phái đoàn của cộng sản Bắc Việt, của Mặt Trận, và của nhóm trung lập, anh đã gởi về những bản tường trình dài nhằm phân tách tình hình giúp tướng Minh . Những người chống đối anh thường biết về anh rất rõ, nên rất ngạc nhiên khi thấy anh viết trên diễn đàn của tờ Le Monde những bài rất đặc sắc với một cú pháp quá điêu luyện, trong khi bản thân anh thường nói tiếng Pháp gần như không có quy tắc nào hết. Sự thật là khi nói chuyện với anh ta nhiều lần, tôi nhận thấy trình độ học vấn của anh chỉ ở cấp tiểu học mà thôi. Trong vấn đề chánh trị , kinh nghiệm cho thấy là thường chỉ cần có gan, vài ý kiến hay .. và một ít tiền. Sau đó những cây viết hay sẽ tìm đến không khó lắm.. (sau đó anh phát động phong trào "phản chiến" mạnh mẻ ngay bên Mỹ và Pháp tiếp tay cho kế hoạch xâm chiếm Miền Nam Việt Nam của cộng sản Bắc Việt). Cuộc tranh cử năm 1971 khởi đầu bằng dục vọng và sự náo nhiệt. Hai bên hiện diện đối chọi nhau mãnh liệt..Không khí căng thẳng lại tăng thêm gấp bội khi một ứng cử viên thứ ba nhảy vào cuộc : tướng sáng giá Nguyễn cao Kỳ. Có nhiều phòng trà bị đánh bằng chất nổ, 15 chiếc xe Mỹ bị đốt chỉ trong vòng 10 ngày, Hòa thượng Thích thiện Hoa kêu gọi "một triệu đoàn viên" thuộc phong trào Phật Giáo đấu tranh của Ấn Quang hãy đoàn kết lại, hàng ngàn thương phế binh đội nón lá vẽ đủ mọi khẩu hiệu chống Mỹ tập trung trước tòa đại sứ Hoa Kỳ , thượng nghị sĩ Mc Govern, người chủ trương "hòa bình" tình cờ ghé ngang Sài Gòn bị vây trong một nhà thờ và bị một đám đông giáo dân chống cộng hăm dọa treo cổ; sinh viên và cảnh sát đụng nhau, bom xăng chống lựu đạn cay, Nhà kiếng, trụ sở của Tổng Liên Đoàn Lao động, thân Chánh Phủ bị các cựu chiến binh đốt phá và tấn công bằng cốt mìn.... Chánh trị Việt Nam đang xuống đường ! Một nhóm đại tá trẻ thân Tổng Thống Thiệu đổ hết trách nhiệm cho đối lập và đặc biệt là tướng Dương văn Minh. Một vị trong nhóm nói với tôi : - " Ông Minh Dương bình dân thật vì ông không có làm gì hết. Ông là một người tốt, không ai nghi ngờ điều đó, nhưng trong quân đội ông không đại diện cho ai cả. Khi ông sang Thái Lan năm 1964, cuộc chiến thật sự chưa bắt đầu. Trong suốt 7 năm liền, ông chỉ chơi quần vợt và trồng hoa lan. Trong lúc đó thì ở đây chúng tôi phải chiến đấu và chiến đấu rất khốc liệt. Một thế hệ chỉ huy khác trẻ hơn và tân tiến hơn đã thành hình nhờ được trui rèn trong lửa đạn, trong chiến đấu. Đối với các sĩ quan đó, lịch sử cũ coi như không còn nữa! " Còn Tôn thất Thiện thì lại khác. Ông ta là một người thông minh thật nhưng có quá nhiều tham vọng và bất mãn vì thấy không ai biết đến tài năng của ông. Thậtlà một người đối lập cố chấp.. Đối với ông ta tướng Minh chỉ là một cái đầu để cho ông quảng cáo thôi không hơn không kém ! Cái mà ông Thiện nhắm vào trên hết chỉ là cái ghế Thủ Tướng. Lúc nào cũng thấy ông nói đến dân chúng, nhưng ông có biết dân chúng là ai không đã ? Ông xuất thân từ một gia đình hoàng tộc, triều thần và chuyên chạy áp phe, Chân ông không bao giờ lấm, tay ông không bao giờ dính bùn. Ông cũng không bao giờ ở trong quân đội . Những người trí thức Việt Nam cỡ ông đó hay học lực còn cao hơn ông gấp bội ăn nói vanh vách còn có cả ngàn người , ở Mỹ cũng như ở Pháp... Hàng chục ông trong số nầy họp nhau lại âm mưu chuyện nầy chuyện nọ, nghĩ rằng chỉ có mình mới có một công thức duy nhất khả dĩ mang lại "hòa bình" . Các ông đó không đồng ý nhau chuyện gì hết, trừ một chuyện, đó là "nhu cầu thay đổi chế độ", dĩ nhiên với điều kiện là họ phải có được ghế Tổng bộ trưởng nào đó trong thành phần mới của Chánh Phủ . Nhưng chúng tôi không muốn như vậy . " Họ là những người chưa từng biết sống chết như chúng tôi . Họ chưa từng bao giờ chia xẻ nỗi đau khổ của chúng tôi . Họ chưa bao giờ biết trả giá bằng máu như chúng tôi . Dân chúng không bận tâm đến những lý thuyết đồ sộ của những người huênh hoang nói với họ từ trên cao và từ ngoài xa. Dân chúng chỉ muốn được bảo vệ, muốn được vĩnh viễn thoát khỏi vòng khủng bố và hổn độn như địa ngục. Chúng tôi đã đem lại cho họ sự an ninh, sự tự do lưu thông, và họ được gặt lúa một cách thực tế. Họ sẽ theo chúng tôi. "Các nhóm chánh trị gia trưởng giả đó của Sài Gòn vẫn biết rằng họ không tác động được đất nước . Nhóm Phật Giáo đấu tranh của chùa Ấn Quang làm gì có "hằng triệu tín đồ" sau lưng họ ? Khoảng 30 ngàn là cùng , và phần đông các sư sãi đang rất bận rộn trong công tác quyên góp tiền bạc hay đang đầu cơ trong việc mua bán đất đai. Khi quả quyết là họ có một lực lượng chánh trị mới, không màng quyền lợi, thì hoặc họ chỉ là những người không tưởng, hoặc họ là những người chuyên nghiệp không có niềm tin. " Nhưng rồi tất cả đều phải tin chắc điều nầy : Nếy quân nhân chúng tôi buông súng xuống, thì đối mặt với cộng sản họ không đáng một gram nào hết. Hoặc họ sẽ chịu khuất thân làm bù nhìn hay tôi tớ cho cộng sản , hoặc họ sẽ bị cộng sản thanh toán. Và đến ngày đó thì không còn một người phóng viên báo ngoại quốc nào để đăng giùm những lời kêu ca hay chỉ trích cho họ !" Chuyện tranh cử Tổng Thống giữa hai ông Thiệu và Minh cuối cùng không có nữa. Ngày 23 tháng 10 năm 1973, một tháng rưỡi sau đợt vận động rất ồn ào sôi động, tướng Minh cho là "cuộc bầu bán sắp tới chỉ là một trò hề" nên thình lình rút tên ra khỏi danh sách ứng cử. Ngay sau đó tướng Kỳ cũng rút tên không ứng cử nữa. Ông Thiệu đương nhiên không còn ai là đối thủ nữa và trở thành "độc diễn" Cuộc bầu cử Tổng Thống bị phá hoại ngầm nên đương nhiên trở thành một cuộc biểu quyết thông qua của dân chúng mà thôi. Sự rút lui của tướng Minh làm cho mọi người đều ngạc nhiên, bè bạn, thân hữu, và kể cả đối thủ. Ai cũng đồng ý là tướng Minh có một quyết định quá hời hợt. Những nhóm sinh viên từng ủng hộ hành động của người lãnh đạo Miền Nam đều giận dữ vì quá thất vọng. Một trong những trưởng nhóm, anh Ngọc, 26 tuổi, sinh viên năm thứ năm ngành Y, chưa hết giận : -"Chúng tôi đã vận động mấy tháng nay cho cuộc bầu cử này, chúng tôi đã bỏ cả học hành, suốt đêm đi gõ cửa từng nhà, đã in truyền đơn vận động, lo soạn từng tấm biểu ngữ, tổ chức các buổi họp... Chúng tôi đã bị cảnh sát đánh đập. nhiều em đã bị bắt. Tất cả công việc làm của chúng tôi đều nhắm vào ông Minh Dương, Ông ta đã cam kết đi cho đến cùng và thình lình, không báo trước gì cả, ngay trong lúc cuộc vận động đang thực sự bắt đầu thì ông lại buông bỏ chúng tôi ". Thượng nghị sĩ Đông, một Phật Tử ôn hòa, cử nhân khoa học còn nghiêm khắc hơn, rất chẩm rải nhưng đắn đo, ông nói : -"Tôi không thích Tổng Thống Thiệu và phương pháp làm việc của ông ta . Nhưng tôi từ chối không ủng hộ tướng Minh. Về phương diện sức khỏe ông to con mạnh khỏe thật đấy nhưng hoàn toàn kém thông minh trên phương diện chánh trị. Nhìn bề ngoài thì thấy ông có vẻ ung dung và bình tĩnh đâu ngờ lại có những phản ứng mạnh không chính chắn như vậy. Ông ta vừa mới chứng minh điều đó hôm nay đây" Ông Võ văn Hải, cựu chánh văn phòng của ông Diệm, vừa mới chạy theo tướng Minh mấy tháng nay đã xác nhận : -"Tướng Minh là một người can đảm và trung trực, có đầy đủ lương tri. Chúng tôi là bằng hữu và bạn tranh đấu của ông, chúng tôi là những người đầu tiên lấy làm tiếc về sự rút lui của ông ta. Chung quanh ông toàn là những nhân vật hàng đầu ở Việt Nam nầy, ông lại được tài trợ rất mạnh và hy vọng có thể tập trung tất cả các lực lượng đối lập để thành lập một đảng chánh trị lớn. Tôi đoan chắc là qua sự rút lui nầy ông đã mất hết cơ may. Trong vòng 4 năm nữa chắc chắn sẽ là quá muộn. Nhưng ông rất chán vì những áp lực của Tổng Thống Thiệu đối với người của ông, đối với báo chí, đối với hành chánh cũng như đối với quân đội. Và dù sao chúng tôi cũng không thể nói hết được những lý do thật sự thầm kín của sự rút lui nầy. Ông Thiệu có vô số phương tiện để cho ông được thắng cử. Ông có biết là ở Việt Nam có một câu tục ngữ nầy không? "Vai mang túi bạc kè kè Nói bậy nói bạ người nghe thiếu gì " Những "lý do thầm kín" mà ông Hải vừa nói đó quả nhiên đã có một vai trò không nhỏ trong quyết định bỏ cuộc của tướng Minh. Vừa mở màn chiến dịch tranh cử, người Mỹ lo lắng muốn cho cuộc tranh cử Tổng Thống phải có một vẽ dân chủ nên đã tiếp xúc với tướng Minh. Đại sứ Bunker theo người ta nói đã mong muốn có một cuộc tranh cử tay đôi giữa hai ứng củ viên nên đã tài trợ cho tướng Minh để ông nầy có phương tiện vận động tranh cử. Việc nầy được thực hiện vài ngày sau đó bằng một tín dụng thư 200 triệu đồng gởi vào chương mục được mở ra cho ông ở Đông Kinh Ngân Hàng (qua trung gian của một kỹ nghệ gia Nhật Bản). Ông Minh đã lãnh ra 100 triệu trước để cho các chi phí đầu tiên. Tòa Đại sứ Hoa Kỳ ước tính là tướng Minh sẽ được một tỷ lệ vào khoản 30 đến 40 phần trăm trong tổng số phiếu bầu. Như vậy là đã quá đẹp và quá tốt cho cuộc bầu cử rồi. Ông Thiệu sẽ được đắc cử không có gì khó khăn lắm và tướng Minh sẽ có một tầm vóc chánh trị khả quan hơn để giúp ông lãnh đạo một đối lập vững chắc. Tuy nhiên trong những ngày đầu của tháng 10 năm đó, một chỉ thị mật của Hà Nội (văn phòng trung ương trong Bộ Tham mưu cộng sản phối hợp đấu tranh chánh trị và quân sự ở Miền Nam Việt Nam ,) do cơ quan kiểm thính của Mỹ giải mã được, ra lệnh cho "tất cả cán bộ đảng viên thuộc mọi cơ cấu của Việt Cộng ở Miền Nam phải dồn phiếu cho tướng Minh." Tỷ lệ số phiếu bầu do Việt Cộng kiểm soát được ước tính khoảng 15 % của tổng số , như vậy kết quả bầu cử sẽ có thể bị hiện tượng "ngựa về ngược", phần thắng có thể ngã về tướng Minh thì Sài Gòn sẽ có nguy cơ có một Chánh Phủ trung lập, Chánh Phủ nầy sẽ đặt lại vấn đề "sự có mặt của quân đội Mỹ ở Việt Nam " . Do đó ông Bunker báo động ngay cho Hoa Thạnh Đốn . Ở đây sau khi tham khảo lại với ông qua điện thoại đã quyết định bớt phương tiện tài trợ cho tướng Minh. Và khi ông Minh đến Ngân Hàng Đông Kinh để rút tiền thêm lần thứ hai, thì ngân hàng từ chối và người ta đã trả lời cho ông là chương mục đã được kết toán. Ngày thứ năm 19 tháng 10 vào buổi sáng vài giờ trước khi ông tiếp xúc với ông Bunker, lúc ông nầy vừa từ Hoa Thạnh Đốn trở về thì tướng Minh lại bị một đòn đau nữa: Một thông cáo từ chùa Ấn Quang đã báo cho ông biết là sau 3 giờ thảo luận, tất cả 7 vị sư đại diện cho phong trào Phật Giáo Cải Cách (Phật Giáo đấu tranh mà tướng Minh nghĩ rằng sẽ hoàn toàn đứng sau lưng mình), đã quyết định chấm dứt sự ủng hộ ứng cử viên Dương văn Minh (với 6 phiếu thuận 1 phiếu chống của thượng tọa Thích thiện Minh). Trong văn thư thông báo quyết định nầy cho tướng Minh, các Sư đồng thời cũng cho ông biết những lý do đưa đến quyết định chấm dứt sự ủng hộ nầy như sau : "Phong trào tranh đấu của Ấn Quang đã bỏ ra 4 năm để tái lập lại đội ngũ cán bộ, vì tổ chức và các phương tiện của họ đã bị đập tan trong thời kỳ tranh đấu chống Chánh Phủ năm 1966. Chúng tôi xét thấy tướng Minh không có một cơ may nào được đắc cử và chúng tôi không muốn bị lôi cuốn vào những hành động cực đoan quá khích nữa để chúng tôi bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và phải hứng chịu những đòn trả thù nặng nề của chánh quyền lúc đó. Phong trào khước từ không vận dụng bộ máy vận động của mình, để dồn hết phương tiện và ngân khoản vào cuộc bầu cử dân biểu Quốc Hội , ở đó Phong Trào mới mong thành lập được một khối đối lập quan trọng như đã có ở Thượng Viện, khả dĩ có thể cân bằng với hành động của chánh quyền trong khuôn khổ hợp hiến." Như vậy lực lượng chánh trị trong khối cử tri ở Miền Nam Việt Nam được chia ra như sau: Quân Đội , Công chức hành chánh , những Phật Tử ôn hòa, những Phật Tử đấu tranh của Ấn Quang, những người di cư từ Miền Bắc 1954, những người công giáo, Mặt Trận Giải Phóng và thân hữu của họ , và các Giáo Phái. Quân đội thì đã là một khối sau lưng Tổng Thống Thiệu, và Hành chánh thì dĩ nhiên phải tuân theo ông rồi. Các Phật Tử ôn hòa vẫn có mối giao hảo tốt với Chánh Phủ và lúc nào cũng đứng ngoài mọi tranh chấp chánh trị; Những người Bắc di cư thì ủng hộ tướng Kỳ. Còn phần lớn giáo dân ở Miền Nam từ sau cuộc đảo chánh 1963 và cái chết của Tổng Thống Diệm thì chống hẳn tướng Minh. Giáo phái "Hòa Hảo" rất đông và rất mạnh ở các tỉnh giàu có của Miền Tây thuộc vùng Đồng Bằng sông Cửu Long thì không bao giờ quên các cuộc hành quân giết người của tướng Minh đối với họ vào những năm 1955 và 1956 trong "chiến dịch diệt giáo phái". Phong trào Phật Giáo Ấn Quang, rất mạnh ở miền Trung và ở nhiều thành phố lớn trong nước đương nhiên là một lực lượng tôn giáo và chánh trị có tổ chức, một lực lượng duy nhất mà tướng Minh có thể dựa vào. Sự rút lui bất thình lình và không ai chờ đợi, đã giảm xuống đến con số không tất cả mọi hy vọng của ông ta, làm cho ông không có một con đường nào khác ngoài một kết quả bầu cử tệ hại nhờ vào phiếu bầu của cộng sản . Không còn đủ phương tiện tài chánh (ông không muốn phiêu lưu với tiền riêng của mình vả lại cũng không đủ), lại bị một vố đau của người Mỹ, và bị những đồng minh tốt nhất bỏ rơi, tướng Minh đành phải chọn con đường bỏ cuộc "rút lui " mà thôi. Ngày 3 tháng 11 năm 1971, Tổng Thống Thiệu không có đối thủ, đắc cử với 94 % số phiếu bầu. Tướng Minh cho ra một thông cáo theo đó ông tuyên bố :"không hợp tác với một chế độ đã mất hết danh dự và tất cả phẩm cách." Thế là lần đó coi như tướng Minh đã mất tất cả. Dù sao thì ông cũng bắt đầu đi qua sa mạc một lần thứ hai nữa. Hầu hết các người ủng hộ ông - ngoại trừ một vài bạn thật thân thiết- không biết được những lý do thật sự và thầm kín khiến ông phải rút lui... đã tránh xa ông. Ông nói đi nói lại với những người thân :" Chánh trị là cả một cơn ác mộng !" Ông lại đọc sách trở lại. Nhân vật De Gaulle làm ông bị quyến rũ.. Theo gương ông nầy tướng Minh gần như tự đặt mình ngoài vòng của chế độ Cộng Hòa. Ông sống như vậy suốt trên 3 năm, giới hạn trong các tố cáo hành động của chế độ với những ngôn từ gay gắt, kêu gọi một sự tái lập một nền dân chủ thật sự và sự thi hành nghiêm chỉnh Hiệp Định Ba Lê. Các nhóm khác nhau thuuộc lực lượng thứ ba lại bắt đầu dựa vào ông trở lại. Ông cũng thường tiếp vị cố vấn chánh trị của tòa đại sứ Pháp, ông Brochand, một người dân miền Nam nước Pháp, lanh lợi nhưng ranh mãnh, rất khôn khéo trong việc dựng lên những tổ hợp chánh trị , là người của ông Froment-Meurisse, Giám đốc Á Châu Sự Vụ ở Quai D'Orsay (Phủ Thủ tướng Pháp) Ông Brochand đã tin chắc chiến thắng tất yếu của Miền Bắc từ nhiều năm rồi . Những sự giao thiệp của ông ta với tướng Minh kèm theo với một đại diện của tòa đại sứ Pháp đã làm cho người Việt Nam lầm tưởng rằng tướng Minh được Ba Lê ủng hộ sẽ là một ứng viên được CPLTCHMN chấp nhận . Chỉ mới cách đây vài tháng thôi., các thành viên của phái đoàn điều tra thuộc Quốc Hội Hoa Kỳ đã có tiếp xúc rất lâu với ông Minh và động viên ông ta nên hoạt động chánh trị trở lại . Ông cũng chỉ nghe vậy thôi. Người cố vấn lão thành của ông là ông Nguyễn ngọc Thơ đã qua đời rồi vì bệnh ung thư. Còn ông giáo sư chánh trị của ông Minh, là ông Tôn thất Thiện lỗi lạc kia, sau khi bắt được ngọn gió từ tòa đại sứ Anh và xét thấy chiến thắng của Bắc Việt đã gần kề và không sao tránh khỏi .. nên ông ta thu xếp và vọt đi êm trên một chiếc phi cơ của Hội Hồng Thập Tư Riêng về phía các tướng lãnh bạn của ông Minh thì luôn luôn lúc nào cũng nghi ngờ đối với cộng sản Bắc Việt , nên đã khuyên ông ta nên cẩn thận. Chỉ riêng có nghị sĩ năng động Vũ văn Mẫu, người hay tiếp xúc với ông rất thường, và nhóm "tranh đấu trẻ" của Lý quý Chung đã thúc hối ông hãy nắm lấy chánh quyền và "đưa ra những điều kiện". Trên thực tế, tướng Minh không phải là một nhà chánh trị .Lúc nào ông cũng chỉ mong muốn là một người hòa giải và chỉ muốn đóng vai trò hoà giải! Và hiển nhiên từ lúc ông thất bại năm 1971, ông có thể sẽ có một vai trò nào đó khi nào Miền Nam Việt Nam đứng trước một thảm họa. Quả nhiên, bây giờ chính là lúc chuyện đó đang xảy ra. Đồng ý nhận thấy là tai họa mà Tổng Thống Thiệu phải gánh một phần lớn trách nhiệm, bạn bè của tướng Minh và một phần của các đối thủ của ông muốn ông phải cứu lấy những gì còn có thể cứu được . Sau nhiều ngày mặc cả gay go và đôi khi cứng rắn với ông Tổng Thống Hương già nua, cuối cùng tướng Minh cũng đã nhận được đầy đủ quyền hành. Chánh Phủ của ông đã được thành lập. Trong vài giờ sắp tới đây, ông Minh sẽ vào chiếm lĩnh Dinh Độc Lập. Bạn bè thân hữu của ông vui mừng hớn hở. Sau nhiều năm bị lưu đày, ở thế đối lập và bị hất hủi, cuối cùng tướng Minh cũng lại trở lại là vị nguyên thủ quốc gia ... và những người đã thúc đẩy và đưa ông ta lên như một món hàng rồi đây sẽ có thể được ngồi vào các ghế dựa nhung đỏ.... Nhưng liệu sẽ được bao lâu đây? |
|
IP Logged | |
Hoàng Dũng
Senior Member Tham gia ngày: 08/Nov/2008 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 592 |
Gởi ngày: 21/Dec/2008 lúc 10:37pm |
Chương 22CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI MỘT BUỔI LỄ TRAO QUYỀN ĐẦY SÓNG GIÓ "Bớt âu lo và hy vọng", đó là đầu đề được báo Saigon Post cho chạy tít lớn trên trang nhứt. Trưa nay, Tổng Thống Trần văn Hương sẽ trao quyền cho tướng Dương văn Minh. Các chuyên viên thảo luận với nhau về thành phần của tân Chánh Phủ . Họ đưa ra tiểu sử của ba hay bốn nhân vật nổi tiếng nhất để cùng nhau phân tích rất là khoa học. - Luật sư Nguyễn văn Huyền, vị Phó Tổng Thống vừa mới được bổ nhiệm sẽ mang đến cho tướng Minh một sự kết hợp của khối giáo dân ở Miền Nam . - Ông Vũ văn Mẫu, như ông đã từng nói với tôi gần ba tuần lễ nay, hôm nay là Thủ Tướng. Ông ta sẽ đòi hỏi sự ra đi tức khắc của người Mỹ như ông đã từng xác nhận với tôi chăng ? - Lý quý Chung, thủ lãnh của nhóm "tranh đấu trẻ" sẽ là Tổng trưởng Thông Tin. Giao quyền cho tướng Minh, Tổng Thống mãn nhiệm Trần văn Hương và các dân biểu, nghị sĩ trong lưỡng viện Quốc Hội hy vọng sẽ đạt được trước nhất là một sự ngưng bắn. Sau khi tránh khỏi sự giao tranh rồi, thì sẽ tiến tới những cuộc thương thảo để đi đến một thành phần Chánh Phủ "trung lập" gồm có CPLTCHMN, lực lượng thứ ba và một vài thành phần của chế độ Sài Gòn Sự phối hợp quá hấp dẫn nầy không cần phải xem xét gì nữa. Chế độ VNCH đứng vững là nhờ vào quân đội và viện trợ Mỹ. Nhưng QLVNCH tự nó đã tan rã rồi, và viện trợ Mỹ cũng không còn nũa . - Cái gọi là "Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam" (C PLTCHMN) thì đang ở trong một cái thế chánh trị quá mập mờ. Họ khẳng định họ là một Chánh Phủ, tự cho mình là "đại diện chính thức cho lực lượng cách mạng của người dân Miền Nam trong "Mặt Trận Quốc Gia Giải Phóng" nhưng trên thực tế họ chỉ là một tấm "bình phong" giúp Hà Nội che dấu những âm mưu bành trướng mà họ đang theo đuổi. Được thành lập từ năm 1960, qua Nghị Quyết của Chánh Trị Bộ Hà Nội , "Mặt Trậm Quốc Gia Giải Phóng" với những du kích quân mặc quần áo đen và chiến đấu bằng những khẩu súng cũ kỹ, nhưng sau bộ mặt tã tơi thơ mộng đó là cả một thực tế kinh hồn: sự hiện diện của một quân đội chánh quy hùng mạnh với những sư đoàn thiện chiến, hoàn toàn cơ giới hóa và được trang bị chiến cụ tấn công hết sức tối tân của Miền Bắc . Hà Nội không muốn thấy M TGPQG (nguyên tác tiếng Pháp :FLN: Front Liberation National) sẽ trở thành một thực thể chánh trị có thể có yêu sách được dự phần trong chiến thắng quân sự của mình; hoặc có thể nhân danh cá biệt địa phương để chống đối một sự thống nhất nước Việt Nam. Cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, 1968, có thể đã vĩnh viễn loại trừ nguy cơ nầy. Được xử dụng như những người dẫn đường và tiền sát viên trong những cuộc tấn công vào các đô thị, các du kích quân và các cán bộ chánh trị gốc Miền Nam đã bị diệt gần hết. Cái gọi là CPLTCHMN (nguyên tác ở đây tác giả dùng danh xưng tiếng Mỹ, GRP: Goverment of Repubic Popular. Tiếng Việt, họ tự xưng là Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam ) được thành hình năm 1969, trùng hợp với những vận động đầu tiên của Hoa Thạnh Đốn và Hà Nội để giải quyết vấn đề "cái bàn vuông 4 cạnh" để thương thuyết. Bắc Việt dự kiến nhu cầu phải có 2 thành phần đại biểu để cân bằng với con số của Hoa Kỳ và VNCH. CPLTCHMN , gồm có một số người gốc Miền Nam Việt Nam để quảng cáo, không có lực lượng quân sự mà cũng không có cả phương tiện quân sự . Lực lượng duy nhất thúc đẩy cái Chánh Phủ nầy tiến tới chính là quân đội chánh quy Bắc Việt, dĩ nhiên dưới quyền điều động và chỉ thị của Quân Ủy Trung Ương của Hà Nội. - "Lực Lượng thứ Ba", mà Chánh Phủ Pháp tưởng rằng họ sẽ phải có một nhiệm vụ quan trọng trong vấn đề hòa giải giữa hai Bên thù địch nhau (bên cộng sản và bên chống cộng sản), thì nó không có một thực trạng chánh trị nào cả. Lực lượng thứ ba thực tế chưa bao giờ có một tinh thần tập thể của số đông nhân vật, đến từ khắp nơi khác biệt nhau, chia rẽ nhau vì những sự cạnh tranh sâu xa giữa họ . Những người chống đối ông Thiệu cũng như chống đối cộng sản lại hoàn toàn không có khả năng thỏa thuận với nhau về một chương trình hành động chung. Trước hết phải ghi nhận là những người thuộc lực lượng thứ ba ở Miền Nam Việt Nam khó có thể mang nhãn hiệu "trung lập" được. Trong vài tuần lễ trở lại đây, hầu như họ không hề có một quan hệ nào với các nhóm trung lập khác được thành lập ở Ba Lê. Một trong những nhóm kỳ cựu và đáng tin cậy nhất là "Ủy Ban tranh đấu cho một Miền Nam Hòa Bình và Tiến Bộ" mà Chủ Tịch là ông Trần văn Hữu, cựu Thủ Tướng Việt Nam từ 1950 đến 1953. Hai nhóm khác nhỏ hơn, nhưng rất thân cận với những tổ chức đấu tranh do Tòa Đại sứ Hà Nội và đại diện của CPCMLTMN dựng lên, đã tỏ ra rất tích cực từ năm 1973 : Đó là "lực lượng tự do cho VN", do đại tá Trần đình Lan, cựu trưởng Phòng Nhì thời Pháp thúc đẩy, và "lực lượng đấu tranh cho Dân Chủ và Hòa Bình" của các ông cựu Tổng Trưởng Nguyễn hữu Châu và Hồ thông Minh. Sự hợp tác giữa các nhóm nầy trên thực tế chỉ giới hạn trong việc ký tên vào một vài bản "thông cáo chung" mỗi năm mà thôi. Tại Sài Gòn , từ lâu rồi người ta có cảm tưởng là "Lực lượng thứ ba" chạy theo nhóm tranh đấu của chùa Ấn Quang, một thành trì đối lập cực đoan với ông Thiệu. Nhưng chùa Ấn Quang cũng thường chia ra nhiều nhóm nhỏ. Cũng vì thế mà vào khoảng tháng 9 năm rồi, khi nghị sĩ Vũ văn Mẫu thành lập "lực lượng hòa giải quốc gia" thì chỉ có một khuynh hướng thiểu số của hòa thượng Thích Trí Quang, người cầm đầu nhóm Phật Tử chống Tổng Thống Ngô đình Diệm năm 1963, là ủng hộ phong trào nầy. Cũng phải nhận định rõ thêm là về phía bà Ngô bá Thành, Chủ tịch "Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam đòi Quyền Sống", bà cũng chỉ có thể huy động được một số quần chúng rất là hạn chế mà thôi. Do vậy, không thể chối cải được là mặc dầu đã lập đi lập lại nhiều lần vị trí của mình, "lực lượng thứ ba" cũng thiếu hẳn một sự kết hợp. Vào thời kỳ 1963, Tổng Thống Thiệu đã có lần đã nói rất đúng :"Chỉ có 2 lực lượng , lực lượng của chúng ta và lực lượng của cộng sản" Hai năm sau đó, chỉ vài ngày nay thôi, lực lượng thứ nhất của ông Thiệu tan dần tháng nầy sang tháng khác và hầu như sắp sụp đổ. Lực lượng thứ hai là lực lượng của cộng sản sắp sửa là lực lượng chiến thắng. Sài Gòn và chánh quyền đang ở trong tầm tay của họ . Những bản thông cáo hay những lời tuyên bố của một vài nhân sĩ trí thức dù có thiện chí mà không có binh sĩ và vũ khí, thì cũng không thay đổi được gì đối với diễn tiến của tình hình. Người dân Sài Gòn trước một thực tế bi thảm, chẳng còn biết phải làm gì hơn với những sự phân tách mà họ thấy là quá tầm phơ và quá trể. Họ chỉ tự hỏi có một câu : Cộng sản sẽ tiến chiếm thủ đô bằng võ lực hay họ đợi thủ đô tự đầu hàng cho đúng hình thức? Họ hy vọng mà vẫn không tin tưởng lắm là "một sự ngưng bắn có thể xảy ra trong tuần". Nhưng những cuộc chiến đấu khốc liệt vẫn còn đang xảy ra về hướng Đông của Sài Gòn, và thành phố Sài Gòn không bao lâu nữa sẽ có nguy cơ hứng chịu sự pháo kích của loại pháo nặng 130 ly Bắc Việt . Đã có một loạt đụng độ rất nặng ở thị trấn Long Thành (chỉ cách Sài Gòn có hơn 32 cây số) ngay nơi mà trường Kỵ Binh Thiết Giáp đang đóng ở đó. Các chiến xa đang trực xạ với nhau với cự ly thật gần. Cách đó 20 cây số về hướng Bắc, trên con lộ Xuân Lộc, điểm chốt Trảng Bom đang sắp sửa mất. Một trung đoàn Bắc Việt và các toán đặc công cộng sản được chiến xa T.54 yểm trợ đã đánh bọc vị trí phòng thủ để tiến vào Hố Nai, nơi mà các thanh niên công giáo từ 13 đến 16 tuổi đã chống cự lại chỉ với vũ khí hư cũ và lựu đạn. Có hai nhà báo Pháp bị kẹt vào bẫy giữa cuộc chiến đấu trên dường phố tại đó : đó là anh Christian Hoche của tờ Figaro, và anh Michel Laurent của hảng thông tấn Gamma, cả hai dều được xem là bị mất tích. Anh Christian vừa mới đến Việt Nam vài ngày trước đây và tôi cũng chưa bao giờ gặp mặt được . Nhưng tôi biết rõ anh Michel Laurent, một chàng trai ốm yếu, mảnh khảnh , kín đáo ít nói, có một gương mặt thanh tao với mớ tóc dài uốn quăn không đúng cách làm tăng thêm vẻ yểu điệu của một "con mèo". Nhưng đừng tưởng thế mà lầm ! Trên trận địa dưới lằn lửa đạn, Michel bất chấp nguy hiểm vẫn giữ một sự bình tỉnh lạ thường. Phóng sự đầu tiên của anh ở Việt Nam rơi đúng vào mùa hè 1972. Tuy mới bước vào nghề, nhưng anh đã được biết đến với giải thưởng Pullizer mà anh đã nhận được ở Bengla Desh. Nhưng những anh già lão luyện cũng đang chờ hoạt động của anh rồi mới có ý kiến. Họ không thất vọng lắm ! Ngày 23 tháng 7 vào lúc sáng sớm, một toán nhiếp ảnh trong đó có Michel Laurent và Raymond Thomann đến với đơn vị Dù Việt Nam đang chạm súng ở 5 cây số phía Nam thành phố Quảng Trị lúc họ đang tiến lên tái chiếm thành phố nầy. Pháo binh Bắc Việt tập trung hỏa lực 130 ly trên quốc lộ 1, trong khi các đoàn dân tỵ nạn đang vừa tuôn chạy vừa la hét. Raymond Thomann vẫn đứng ở nơi trống trải bình tĩnh quay cảnh nầy... Các quả đạn pháo đã rơi đến gần. Các nhiếp ảnh viên khác phải phân tán tìm chổ núp phía sau những hòn đá lớn. Một quả đạn pháo rơi thật gần, làm Raymond bị thương ngã xuống.. Mình anh đầy máu, cườm tay bên trái bị cắt đứt gần nửa, đùi trái của anh bị nhiều mảnh đạn. Hai nhiếp ảnh viên Mỹ và một Úc nằm sát xuống sau những mỏm đá, không nhúc nhích. Đạn bắn quá rát. Cách đó gần 10 thước, Michel Laurent đứng bật dậy, bước qua đường trống trải rất bình tĩnh, thu nhặt các máy ảnh và máy quay của Raymond, rồi xốc nách Raymond mang đến chỗ núp.. Làm công việc cứu người nầy xong, vẫn bình tĩnh và thoãi mái anh đến tìm 2 y tá Việt Nam đến săn sóc sơ khởi cho Raymond để giúp cho anh nầy khỏi bị mất quá nhiều máu. Sau khi biết chắc là bạn mình đã được băng bó cấp thời xong, Michel trở về phía sau, chận xe của một nhà báo da đen thuộc thông tấn xã AP (***ociates Press) vừa chạy đến, nhưng xe anh nầy không chịu ngừng , anh lại chận được một xe Jeep của một trung sĩ Dù, đặt Raymond lên băng sau với tất cả dụng cụ máy móc của anh ta và tin chắc rằng anh sẽ được tản thương bằng trực thăng về Đà Nẵng, Sau đó anh mới lấy lại dụng cụ thu hình của mình, bình thản đi trở lại mặt trận, để tiếp tục công tác của anh. Hai tháng sau, khi ra khỏi bệnh viện, Raymond Thomann gặp lại Michel Laurent trên quốc lộ dẫn đến An Lộc, lúc nào cũng thoải mái... ở giữa những tiếng nổ của bách kích pháo và rốc kết... Sáng hôm qua, ở Hố Nai, cũng như anh đã ở Quảng Trị, Michel đã tự mình tiến qua vùng lửa đạn để tiếp cứu một người bạn khác đang bị thương... và anh đã bị mất tích trong đám khói lửa mù của đạn pháo. Miễn là vận may thường ngày ngạo mạn của anh đừng bỏ anh... Những tin tức từ mặt trận đưa về không được vui lắm. Tân Uyên, một quận lỵ nhỏ cách căn cứ Không Quân Biên Hòa khoảng chục cây số đã bị pháo binh Bắc Việt biến thành một đống tro. (2000 quả pháo trong 3 tiếng đồng hồ). Biên Hòa đã có lệnh giới nghiêm 24 trên 24 giờ. Ở 5 cây số về hướng Đông Bắc của Sài Gòn, trực thăng đã tiêu diệt bằng rốc kết và liên thanh một đơn vị nhỏ đặc công Bắc Việt trong lúc họ đang cố phá một chiếc cầu. Cách đó khoảng 4 cây số về hướng Đông là trung tâm Thành Tuy Hạ, kho đạn dược chính của quân đội Miền Nam , không xa Cát Lái bao nhiêu, một căn cứ hải vận trên bờ sông Sài Gòn . Nếu cộng sản làm chủ được khu nầy thì tình hình sẽ không còn hy vọng gì cho quân đội Miền Nam Việt Nam . Có nhiều tàu chiến của giang đoàn đã cho đổ bộ lên đây 3 đại đội Thủy Quân Lục Chiến để họ bám trụ ở đây. Vào lúc 9 giờ sáng, tôi đi theo xa lộ Biên Hòa. Một đoàn xe trên một chục chiếc thiết giáp bắn tạc đạn 105 ly, có thiết vận xa M113 dẫn đầu chở đầy bộ binh trên đó đang trên đường ra trận tuyến.. Cảnh sát dã chiến được bố trí với súng liên thanh trong các hố dọc bên đường. Trước cầu sông Đồng Nai, cách 25 cây số về phía Đông Bắc Sài Gòn , quân đội đã dựng lên một hàng rào cản. Phía bên kia hàng rào cản nầy là an ninh không được bảo đảm. Các chiến xa đến vị trí của họ. Một đại úy Việt Nam chận xe tôi lại : - Ông đi đâu ? - Tôi đi Long Thành. Vừa nói tôi vừa đưa thẻ báo chí của tôi ra. Si quan nầy lắc đầu và nói với tôi : - "Ông có thể đi thử. Nhưng ông đến đó chắc không được đâu, hoặc tuy nhiên nếu ông đi đến đó được thì ông cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn để trở về. Các chiến xa đang đánh nhau trong vùng. Nhiều đơn vị của sư đoàn 18 đã rút về Bà Rịa và đã đến tiếp tay với các sĩ quan tập sự của trường Thiết Giáp vốn đang bị bao vây và đang bị T.54 bắn vào. Binh sĩ của chúng ta di chuyển quá khó khăn vì các đoàn dân chúng đang tản cư. Pháo binh cộng sản đã bắn hàng chục tràng rốc kết và đại bác 30 ly vào trại tiếp cư An Lợi, kế cận Long Thành, ở đó đang tập trung gần 100 ngàn dân tản cư. Hơn 200 người chết. Tất cả dân tỵ nạn đều bỏ chạy về hướng biển. Nhưng họ không đi xa hơn được vì con đường đi Vũng Tàu đã bị cắt đứt. Đoàn xe của Hội Hồng Thập Tự Việt Nam rời Sài Gòn từ sáng hôm qua mang theo lương thực cho những người dân khốn khổ trong tuyệt vọng nầy, đã có nhiều xe bị cháy khi đi gần đến Long Thành nên họ phải thối lui trở về." Có hai người Pháp tự nguyện trong tổ chức "Bác Sĩ Không Biên Giới", một hiệp hội thiện nguyện từng gởi các thầy thuốc làm việc không thù lao đi khắp nơi nào có đánh nhau trên thế giới, đến trình diện ngay rào cản. Họ có giấy thông hành và muốn cố gắng đến bệnh viện mà họ đã làm việc trong trại An Lợi mấy ngày trước . Binh sĩ xem giấy tờ và cho họ đi qua. Viên sĩ quan trả thẻ báo chí lại cho tôi và nói thêm: - "Trái với tin đồn đãi ở Sài Gòn ,căn cứ Biên Hòa vẫn còn. Và các chiến xa của Chánh Phủ đã vào Hố Nai để tiếp tay cho các chiến sĩ trẻ ở đó. Chào ông. Đến lượt tôi bước qua rào cản. Quốc lộ gần như vắng tanh. Dân chúng đã cân nhắc kỹ nên tránh xa quốc lộ và băng đồng mà đi. Xa hơn một chút, tôi hiểu ngay tại sao. Phía bên trái cách lề đường chừng 20 thước có 2 chiếc xe vận tải bị vỡ tan vì đạn pháo, đang cháy và bốc lên một mùi khét rất khó chịu của dầu lẩn thịt người . Phía bên phải, là một sườn xe nát vụn của chiếc xe ba bánh Lambretta làm tôi nổi da gà: tử thi của một đứa trẻ khoảng 10 tuổi bị treo lủng lẳn ở phía sau thùng xe, hai tay lòng thòng, đầu bị mảnh đạn cắt đi quá nửa đến cặp mắt. Trong một góc của thùng xe phía sau còn có hai xác chết, một của người đàn bà và một của bé gái ôm nhau nằm bất động, cả ngực và mặt đều bể nát máu me vương vãi. Cách đo 2 thước gần một lỗ được đào hơi cạn dựa nền đường nhựa còn một mảnh kim khí cong vẹo đánh dấu nơi viên đạn rốc kết đã nổ và gây ra một sự tàn sát bẩn thỉu mù quáng nầy. Một sự yên lặng kỳ lạ bao trùm chung quanh căn cứ Long Bình cũ của người Mỹ. Các làng mạc đầy sức sống vừa mới mấy ngày trước đây đang ồn ào náo nhiệt thì nay đã tản cư hết rồi. Các lô cốt dọc theo quốc lộ được các sinh viên sĩ quan trường Võ Bị Quốc Gia Dalat trấn giữ. Những sinh viên sĩ quan trẻ từ 18 đến 20 tuổi đầu, sạch sẽ, gọn ghẽ và bóng láng như những chú lính trong tủ kính. Trên ba lô của họ đặt dưới đất là mũ cát kết truyền thống vàng đỏ của sinh viên trường võ bị.... Một anh sinh viên sĩ quan nói với tôi bằng một giọng gần như rất trịnh trọng : - "Chúng tôi sẽ đội mũ sinh viên lên khi thấy mình phải chết! Trong những năm 1965 -1972, Long Bình là một trong những căn cứ tiếp vận lớn nhất của Hoa Kỳ ở Viễn Đông. Một doanh trại quân sự rộng mênh mông trải dài trên gần hơn 7.000 mẫu tây đất, gồm hơn 100 trại lính, những sân trực thăng, bệnh viện.... tất cả đều được nối liền nhau bằng một hệ thống đường sá đẹp như xa lộ. Trên 30.000 lính Mỹ và Lữ Đoàn Không Kỵ số 1 với gần 3000 chiếc trực thăng đã đóng quân tại đây. Một "trung tâm giải trí" gồm có một sân khấu ngoài trời (dành cho các màn biễu diễn của các cô gái tóc hồng tóc hoe của anh hề trứ danh Bop Hope), một hồ bơi lội thế vận, một nhà chơi bowl, nhiều sân quần vợt, 3 sân bắn tên, những câu lạc bộ đánh bạc , các phòng đấm bóp và một nhà hàng Tàu. Bây giờ Long Bình chỉ còn là một cảnh trí rộng lớn đầy cỏ dại với một vài gian nhà rỉ sét, những ụ chiến đấu bằng bao cát và trăm bạn trẻ gan dạ đang sẳn sàng chết với chiếc mũ sinh viên sĩ quan truyền thống trên đầu. Xa xa là những tiếng pháo binh bắn đi từng quả một hòa lẫn với tiếng quay đều đều của các cánh quạt trực thăng đang bay từng đoàn hai hay ba chiếc trên không.. Đi về phía trước một đỗi nữa, tôi gặp một trung đội biệt động quân với mũ nâu trên đầu, quần áo đầy vết mồ hôi loang lổ, với các khẩu trung liên hay M.16 trên tay. Và tiếp theo đó là các đơn vị tiền sát của sư đoàn 18 từ Bà rịa đến. Đơn vị chính của họ đang chạm súng chung quanh Long Thành,.cố phá vỡ vòng vây của cộng sản để tiến tới bố trí sát tường Biên Hòa. Nhưng vòng vây sẽ khó mà phá nổi. Hai cây số kế tiếp thì quốc lộ trở nên đen kịt : một làn sóng người tỵ nạn vĩ đại đang đi theo binh sĩ từng bước một, ồ ạt đi sát nhau, người thì chống tó, người thì chống gậy, các bà thì gánh gồng mang trên vai đủ mọi loại vật dụng, các trẻ nhỏ 6,7 tuổi cõng em chúng trên lưng, mấy ông già mù được các em bé gái nắm tay dắc.... Quân đội đang đánh nhau hai bên đường, cách đây khoản 3 cây số, nơi có nhiều cột khói đen dày đặc bốc lên cao. Khi đi vòng qua một con đường mòn dẫn tới một vị trí phòng thủ hơi cao do 2 chiến xa, một đại đội thuộc sư đoàn 18 trấn đóng với vài khẩu pháo 105 ly , tôi mới khám phá ra tầm rộng lớn kinh khủng của đoàn người. Trải dài khoảng ba hay bốn cây số trên đường chỉ là một giòng người nhấp nhô như một giòng sông vĩ đại đang chảy về Long Bình và Biên Hòa. Cả trăm ngàn con người cùng một tâm trạng hoảng hốt trong ngơ ngác , cùng có một nỗi lo sợ và một quyết tâm phải chạy trốn ... đang im lặng tiến từng bước, không một tiếnng nói, không một tiếng kêu la, trong một sự yên lặng hoàn toàn quá đổi kinh ngạc! - "Tất cả đều chạy đi từ trại tiếp cư An Lợi, cộng thêm một số lớn dân Long Thành" Đó là nhận xét của một sĩ quan đang dùng ống dòm quan sát đoàn người di chuyển. Hai vị bác sĩ mong đến An Lợi đã hiểu rằng họ không bao giờ thấy được bệnh viện của họ nữa nên đã quay trở lại. Làm sao có đủ can đảm tìm lại được chiếc xe và đi ngược lại về phía An Lợi, xuyên qua khối người khốn khổ đi bộ nầy mà không thể giúp được gì để làm vơi nỗi khổ đau của họ ? Viên sĩ quan mang ống dòm quay lại tôi và nói : - " Ông có biết tại sao họ phải đi như vậy không ? Họ phải đi chung từng nhóm cả gia đình với nhau vì cha mẹ lẫn con cái đều biết rằng chỉ một chút lơ đỉnh thôi là họ có thể bị xa rời nhau vĩnh viễn, không còn nhìn thấy nhau nữa và không bao giờ còn gặp lại nhau được nữa. Nhờ thế họ mới có một động lực kết chặt với nhau một cách thật xúc động như vậy. Để trở lại Biên Hòa, phải vạch lấy đường đi và chạy thật chậm, cảng xe luôn dính sát với người đi bộ, mà phải luôn tỉnh táo để khỏi phải cán lên họ. Đoàn người giạt ra từ từ. Không có một hành động hay cử chỉ nào tỏ ra chống đối, tuyệt nhiên không có một lời trách móc .Tôi chỉ có một sự nóng lòng không biết làm cách nào để "bay" ra khỏi đoàn người dày đặc nầy ... ! Đến đoạn giữa Biên Hòa và Sài Gòn giòng người tản cư tự cắt ra thành nhiều đoàn để đi vào hàng chục trại tiếp cư được cấp tốc dựng lên từ nhiều ngày trước . Những người có trách nhiệm của Hội Hồng Thập Tự ở Miền Nam Việt Nam đang cố gắng bảo đảm một sự tiếp tế cũng như sự tạm trú của cả một đoàn người khổng lồ đang chạy loạn nầy. Nhưng họ quá đông, và những trại dựng lên trong hối hả không đủ chổ chứa hết được . Và những người nghèo khó nầy phải chịu cảnh nằm vật xuống đất và không còn muốn đi đâu nữa. Một vài vị bác sĩ, các hướng đạo sinh Phật Giáo và Công Giáo phân phát cho họ đường, sữa hộp và những túi cơm nhỏ. Đủ cho họ sống trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Một vị linh mục đến nói với họ là họ sẽ được đưa về tạm cư ở miền Đồng Bằng sông Cửu Long bằng xe vận tải hay xe buýt. Trên đường cũ đi Biên Hòa, thường vắng xe từ khi có xa lộ, nên dân chạy loạn cố giữ bên phải nhường đường cho xe quân sự chở đầy đạn dược .Họ cũng không ít đâu, hàng chục ngàn thường đi từng hàng dài với đủ mọi loại phương tiện. Xe bò của nông dân (có bò kéo), xe ba bánh đầy ấp đến độ sàn xe muốn đụng mặt đường, xe đạp thồ chở nặng còn hơn lừa, và đi bộ. Họ mang theo tài sản duy nhất của họ: một con gà trống nhốt trong giỏ tre, một chú heo con trong một thùng mủ nhỏ, có cơm. Ba cô tu sĩ được đèo chung trên một chiếc mô tô đang qua mặt mọi người . Và không một ai chú ý đến một thân người rách nát cả lưng đang lê lết dựa bên đường. Khi đám đông tràn ra đường dành cho quân xa đang đi ra tiền tuyến thì binh sĩ bắn chỉ thiên để cho họ tránh ra hai bên đường. Trong nghĩa trang quân đội Biên Hòa , một nghĩa trang lớn nhất ở Miền Nam , hàng chục hố vừa mới được đào chung quanh một ngôi mộ còn dang dỡ. Trên hai chục chiếc quan tài có phủ cờ, được sấp dài gần văn phòng của nghĩa trang, mỗi chiếc đều có mang tên tuổi, ngày tháng và địa điểm hy sinh. Hầu hết các binh sĩ nầy đều bị tử thương mấy ngày cuối cùng gần đây ở chung quanh thành phố. Người ta đang chôn một thiếu tá Dù. Trong số vài người dân sự đang đứng chung quanh đội kèn quân sự và một tiểu đội linh mũ đỏ, có một bà vợ trẻ, rất đứng đắn và rất đẹp mặc áo tang trắng, đang khóc trong lặng lẽ . Một em bé gái khoảng 10 tuổi đang ôm sát mẹ như một con chim đang sợ sệt... Thành phố Biên Hòa vẫn còn sống động cách đây 2 ngày mặc dầu phi trường bị pháo kích, giiờ đây là một thành phố chết.. Phần lớn dân chúng đều đã đi khỏi đây, các cánh cửa sắt của tiệm buôn được đóng lại và khóa cẩn thận . Ở bệnh viện dân sự trên 50 người bị thương vì rốc kết được mang đến sáng nay, nằm chật hết các hành lang. Chỉ có một bác sĩ giải phẩu và một bác sĩ gây mê còn làm việc. Bác sĩ trưởng đã biến mất từ lúc nào rồi.... Ở căn cứ không quân, còn hàng chục chiếc phi cơ đang nằm trên sân bay. Các phi công đang ráp thêm những bình săng phụ. Chắc là để cho đủ săng để chạy đến Thái Lan hay bay ra Hạm Đội VII trước khi quân cộng sản đến. Mãi đến 3 giờ chiều thì tôi mới về đến Sài Gòn . Và đến 4 giờ rưỡi thì tôi quyết định đi một vòng quanh chợ Sài Gòn . Dọc theo các hành lang trong chợ những con buôn nhỏ và những chủ sạp nói chyện như bắp rang sau khay hàng hay ngay trước sạp hàng của họ. Có nhiều bà ngồi xổm dưới đất bày hàng ra cả trên đường đi, mời mọc đủ mọi thứ, từ những chiếc đèn bấm, các đồng hồ reo, kem cạo râu, rượu tây , thuốc lá và cả cơ phận thay thế của xe hơi...Trong các gian hàng bán vải, cũng còn một vài bà mặc áo dài màu đang chọn hàng tơ lụa và đang trả giá với mấy ông Ấn độ... Các quán rượu nhỏ và nhà hàng thì vẫn đông nghẹt khách ngồi bàn, ăn uống trước những cốc bia lạnh hay những tô phở nóng đang bốc hơi nghi nghút...... Tất cả đều chờ đợi..., họ chờ 5 giờ chiều và xì xào nho nhỏ với nhau : Lúc đó là Tổng Thống Trần văn Hương từ chức, chuyển giao quyền hành cho tướng Dương văn Minh và buổi lễ sẽ được trực tiếp truyền thanh và bình luận qua đài phát thanh Sài Gòn. Tôi ngồi trong một cái phòng sơn màu xanh lá cây ở tiệm cà phê Thanh Bạch, gần rạp hát. Đứng sau quầy tính tiền, người chủ tiệm đang điều chỉnh tần số và chiếc máy thâu băng Akai. Đúng 17 giờ, quốc thiều VNCH được trổi lên. Khách khứa đều giữ im lặng để nghe bình luận gia giải thích: - "Trong gian phòng tiếp tân rộng lớn của Dinh Độc Lập, trước bức hình của các vua Hùng, Tổng Thống Trần văn Hương bước chậm chậm đến bàn vuông hình chữ nhật có khắc phù hiệu của ông : hai con rồng vàng nằm trong một vòng tròn đỏ. Ông bước lên bục và hướng về cử tọa , trên hai trăm người đại diện cho lưỡng viện Quốc Hội , một vài tướng lãnh, và một số đông nhà báo Việt Nam cũng như ngoại quốc." Với một giọng nói khàn khàn mà ông cố gắng tự chế, vị Tổng Thống già nua cất lời : - " Một trang sử đã được lật qua. Một trang mới sẽ được đại tướng Dương văn Minh viết tiếp. Chúng tôi không nghĩ rằng phải đổ thêm máu và phải đánh nhau đến viên đạn cuối cùng và đến người lính cuối cùng, thưa Đại tướng, Đây là một trọng trách rất lớn được giao phó cho ông. Chẳng những ông cần phải có thiện chí, mà cần phải có can đảm nữa ! Khi từ bỏ giải pháp quân sự, chúng tôi đã chọn con đường của hòa giải, của sự hòa hợp, và cuối cùng của hòa bình" Cựu Tổng Thống Hương bước xuống bục. Một vị trưởng tòa bước đến gỡ phù hiệu của ông và gắn lên đó phù hiệu của đại tướng Dương văn Minh: "một bông mai", một loại bông biểu tượng cho ngày Tết, (ngày đầu năm) dấu hiệu của một sự đổi mới. Tướng Minh, vị tân Tổng Thống của nền Cộng Hòa, đến ngồi ngay sau bàn vuông hình chữ nhật, quay sang vị Tổng Thống tiền nhiệm, cung kính cuối đầu chào và nói "Thưa Thầy !" (ông Hương đã từng là giáo sư của ông Minh ở trung học): - " Nhận điều khiển Đất Nước trong những hoàn cảnh hiện tại, không có gì vui hết. Chánh Phủ mà tôi đã được ủy thác phải thành lập sẽ là một Chánh Phủ Hòa Giải Quốc Gia, và tôi tin chắc rằng Chánh Phủ đó sẽ có thể thương nghị trở lại với Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam. Chánh Phủ bảo đảm sẽ tôn trọng những Tự Do Dân Chủ và sẽ thả hết những người bị giữ vì lý do chánh trị dưới chế độ cũ. Thưa đồng bào thân mến, những ngày sắp tới đây sẽ rất là khó khăn. Chúng ta sẽ phải can đảm cùng nhau đương đầu..." Tôi nhận thấy thoáng qua là giọng nói không được bình tĩnh, sự diễn đạt không chắc chắn. Ông Minh đảo lộn chữ nầy qua chữ khác và phải đọc lai. Ông ta chưa bao giờ là một diễn giã tốt. Quay sang binh sĩ, ông tìm lại được phần nào giọng nói của một vị chỉ huy: - "Các anh phải giữ chặt phần đất còn lại, bảo vê hòa bình, và giữ một tinh thần cao. Khi mà lệnh ngừng bắn được thi hành, các anh phải triệt để tôn trọng. Trong những vùng kiểm soát của mình, các anh phải bảo vệ an ninh và tài sản của dân chúng, không được đào ngũ, không được bỏ súng và bất cứ trong mọi trường hợp, phải nghiêm chỉnh tuân hành lệnh ban ra, mọi hành động vô kỷ luật sẽ bị trừng trị ngay tức khắc." Ngỏ lời kêu gọi phía CPLTCHMN, tướng Minh tuyên bố: - " Các anh em ở phía bên kia, tôi thật sự muốn có một sự hòa giải, và các anh em cũng biết điều đó. Tôi muốn rằng mọi tầng lớp dân chúng phải tôn trọng quyền sống của nhau. Đó cũng là tinh thần của Hiệp Định Ba Lê. Các anh đã từng kêu gọi tôn trọng Hiệp Định nầy và chúng tôi cũng kêu gọi như vậy.. Do đó chúng ta phải ngồi lại với nhau chung một bàn để tìm giải pháp có ích lợi nhất cho đất nước và cho dân tộc. Để chấm dứt nhanh chóng sự nghèo nàn của dân chúng và của binh sĩ chúng ta , tôi hy vọng là các anh chấp thuận đề nghị nầy và những cuộc thương thuyết sẽ có thể bắt đầu ngay sau khi Chánh Phủ được thành lập." Buổi truyền thanh chấm dứt. Một chương trình khác được tiếp nối sau bài phát biểu của Tổng Thống. Sau lưng tôi, một ông cụ nhỏ có râu rìa tuông ra một câu đầy mỉa mai chua chát: -"Ông Tổng Thống của chúng ta có vẻ tốt đấy, với bông mai của ông, trong khi các chiến xa của tướng Giáp chỉ còn cách Dinh của ông có 20 cây số!". Ông khách già có một cái nhìn quá sắc bén, không thiếu chút hài hước hay sáng suốt nào . Tổng Thống Hương không nắm quyền được quá 8 ngày, và lúc các chiến xa cộng sản tương đối còn ở xa... Tôi trả tiền xong bước ra khỏi tiệm Thanh Bạch, Trời đang có quá nhiều đám mây đen... * * * Trong hai tiếng đồng hồ nữa, tôi sẽ rời khỏi Sài Gòn trên chuyến bay chót của hảng "Hàng Không Trung Quốc". Điện báo quốc tế của Bưu Điện đầy nghẹt các liên lạc điện báo chánh thức cũng như tư nhân, nên các công điện tôi gởi về nhà báo của mình quá trễ.Tôi sẽ ghé lại Bangkok 48 tiếng để dùng điện thoại trao thẳng vài bài và tôi sẽ trở lại... Thình lình một tiếng nổ vang trời làm rung rinh cả thành phố. Trong một vài giây, đám đông chung quanh tôi sững sờ kinh ngạc. Xe đang chạy đột nhiên người ta thắng gấp, ngừng lại tại chỗ. Và sau đó nhiều tiếng nổ khác mạnh hơn và ngay sau đó súng liên thanh và đại bác phòng không lên tiếng. Đám đông hoảng hốt giải tán chạy tứ tán thành nhiều nhóm nhỏ , chạy qua chạy lại khắp tứ hướng, đụng đầu nhau . Các xe bắt đầu mở máy chạy lại, và chạy nhanh. Có nhiều xe mô tô bị hất tung lên, rồi ngã xuống.... Nhiều phát súng liên thanh được nghe khắp nơi. Cảnh sát và binh lính thi nhau bắn chỉ thiên. Các bà la hét, chạy đến gõ cửa bất cứ nhà nào để xin vào trong. Một số trẻ em bị lạc giữa rừng người đang chạy, đứng khóc la run rẩy. Đây là một sự hoảng loạn hoàn toàn hay đúng hơn là một sự cuồng loạn. Các tài xế bỏ xe giữa đám đông. Một tài xế xe vận tải bị một loạt súng làm vỡ kính xe, quýnh quáng nhảy vội khỏi xe và xe không người lái cứ thế tiếp tục lăn bánh, leo lên lề, phá tan cửa của một tiệm bán đồng hồ và tuông vào phá sập luôn cửa tiệm. Các tàu chiến đậu dưới sông Sài Gòn bắn đại bác 30 ly lên trời, vào những mục tiêu vô hình. Ngay trên kinh đào, một chiếc C130 chở dân tỵ nạn bị nhiều đạn lửa bắn lên làm cho phi công phải hạ thấp cao độ để tránh đạn, bay sát kho cảng Sài Gòn suýt đụng gẫy cột buồm của mấy chiếc tàu hàng, lấy cao độ lại và bay thẳng về hướng Nam. Các tiệm café trên đường Tư Do lật đật đóng cửa còn khách thì nằm bẹp xuống gầm bàn. Phía trước Quốc Hội , rất bình tĩnh, một anh bạn to con, chĩa máy đứng quay cảnh dân chúng chạy tán loạn tìm nơi trú ẩn. Hai anh lính bắn nhiều loạt M.16 lên khắp bốn phía, ngang tầm người, làm cho một bà trúng ngay ngực ngã ngồi xuống, lưng đầy máu. Phía trên đó một đỗi, trong hẻm cạnh rạp chiếu bóng Eden, có người xác nhận là có mấy tên đặc công Việt Cộng đã lợi dụng chuyện bom nổ để tấn công vào Dinh Độc Lập và Bộ Quốc Phòng. Người khác thì lại nói khác : họ nói là nhóm của tướng Nguyễn cao Kỳ đảo chánh. Chung quanh nhà thờ Đức Bà, các pháo đội phòng không vốn có nhiệm vụ phòng thủ Dinh Độc Lập gần đó, đã xã đại bác bắn hết lên trời. Đại lộ có quá nhiều xe xích lô máy nằm chổng gộng ngang ngửa. Tài xế đã bỏ xe chạy hết vào nằm ở vườn cây lớn bên đường. Nhiều quân xa trên có trí súng liên thanh 50 và đại bác 20 ly cặp đôi, đến bố trí trên đường Thống Nhất và cũng bắt đầu tác xạ. Tiếng nổ inh ỏi khắp nơi nghe rợn cả người ! Hơi khét của thuốc súng ngửi đến tận cổ, và các vỏ đạn đồng nóng bỏng rơi đầy đường. Độ chừng 15 phút sau thì tự nhiên các vũ khí nặng ngưng bắn hẳn.. Chỉ còn các tiếng súng cá nhân, nhưng cũng thưa dần. Trước câu lạc bộ thể thao cũ, một ông cảnh sát già rất bình thản cho tôi biết với một giọng đều đều : "Các phi cơ cộng sản đã dội bom Tân sơn Nhất, và nghe như đã có thiệt hại" Tôi chạy về đường Pasteur nhặt hết giấy tờ và hành lý du lịch của mình, xong gọi một chiếc xe tắc xi đang chạy rong, và với giá 10 ngàn đồng (coi như đắt gắp 10 lần ), anh ta chấp nhận đưa tôi lên phi trường Tân sơn Nhứt. Cơn bão bây giờ mới bắt đầu: Mưa như trút và rất nặng hột. Chúng tôi chạy trong cơn mưa dày đặt và đường sá gần như vắng tanh. Đến hơn 7 giờ chúng tôi mới tới trạm kiểm soát vào phi trường. Quân cảnh và cảnh sát dã chiến xem giấy tờ rất kỹ, súng vẫn cầm tay. Mười phút sau tôi mới được cho vào phi trường. Cơn mưa dứt hột thình lình. Vẫn có nhiều cột khói đen bay lên từ sân bay đang còn có nhiều tiếng nỗ nhỏ. Tiếng còi của đội chữa lửa thuộc Không Quân vẫn còn hụ lên inh ỏi. Tất cả các phóng pháo cơ đều bay lên hết. Các quân xa chở đầy binh sĩ từ khắp nơi đang đổ vào phi trường. Tất cả cửa sổ ở phi cảng đều bị thổi tung, trên mặt đất còn vương vãi các mảnh kiến vụn. Một sĩ quan an ninh cho tôi vài tin tức chính xác: 3 chiếc phản lực A.37 bị cộng sản lấy được ở miền Trung đã dội khoảng 20 quả bom 500 cân anh xuống căn cứ Không quân và đã bay rất thấp. Toán trực bị hoàn toàn bất ngờ vì mấy chiếc A.37 nầy vẫn còn mang cờ V NCH và hình như đã đến đây từ căn cứ Biên Hòa. Thiệt hại cũng khá nặng : Một kho đạn lớn, 11 chiếc phi cơ (trong đó có 3 chiếc F.5), và 4 trực thăng bị phá hủy. Có trên 60 tử thương và mấy trăm bị thương. Tất cả các phi vụ đều được hủy bỏ. Chánh Phủ của tướng Minh vừa cho lệnh thiết quân luật 24/24 cho đến khi có lệnh mới. Thế mà một chiếc phi cơ thuộc Hàng Không Việt Nam lại cất cánh được với hơn 100 hành khách. Dù sao tôi cũng không thể trở xuống thành phố. Tôi đi đến một hầm trú ẩn làm bằng bao cát . Trên đường đi tôi gặp nhiều toán khiêng cáng đang làm công tác tản thương. Tôi qua đêm trong hầm trú ẩn nầy. Đạn rốc kết vẫn rơi vào phi trường không dứt. Cũng vẫn có những tiếng rít xé gió và những tiếng nổ đến điếc cả tai, và sau đó là các quả đạn pháo nặng 130 ly. Cứ mỗi lần đạn pháo rơi trúng một chiếc phi cơ nào đó thì lại có một vừng ánh sáng lóe lên xé tan màn đêm mưa gió và một cột khói đen bay lên cao. Vào lúc 23 giờ thì một tiếng nổ lớn làm rung cả hầm trú ẩn của tôi. Cách đó chừng 50 thước, một chiếc trực thăng vận tải "Chinook" đầy binh sĩ bị cháy và đang rơi xuống đất. Có rất nhiều mảnh kim khí đỏ như lửa bắn tung tóe khắp phi đạo, và thây người cũng vừa bị cháy vừa bị bắn tung cùng khắp, trong một vùng khét lẹt mùi xăng dầu và thịt người bị cháy. Từ xa, về hướng Đông, pháo binh vẫn nã vào Biên Hòa không dứt và đã biến vùng bị pháo kích thành một biển lửa. Tôi biết rằng những ngọn lửa to trong đêm tối đó đã "thiêu hủy" cả một thị trấn; tôi biết là những nhà cửa bị đạn pháo của cộng sản làm sụp đổ đã nghiền nát nhiều gia đình mà tôi quen. Tôi nghĩ tới các bạn thân của tôi, nghĩ tới Trinh, người thợ máy với hai bàn tay to lớn sù sì lúc nào cũng đầy dầu mỡ đang cặm cụi hí hoáy làm việc trong nhà xe lợp tôn của anh. Tôi nghĩ đến cha Alain, một người Pháp già đã 83 tuổi rồi mà không bao giờ muốn đóng cửa nhà hàng của ông. Tôi nghĩ tới anh Giang một nhà điêu khắc lúc nào cũng loay quay với các tượng Phật trong xưởng mà anh chỉ dựng lên bằng giấy bồi và vài tấm tôn. Tôi nghĩ tới những người lính tự vệ công giáo trẻ của Hố Nai, những em 15, 16 tuổi chỉ với một khăn choàng cổ và hai quả lựu đạn mà vẫn hăng hái đương đầu với các chiến xa T.54 của cộng sản Bắc Việt! Trong lúc dưới ánh sáng ở thánh đường cha mẹ chúng đang quỳ gối cầu nguyện xin Chúa ban cho chúng đầy đủ can đảm không chùn bước trước cái chết.... Ngày mai nầy, các bạn tôi và những em bé kia chắc sẽ chỉ còn là những xác chết không mồ mã, tha hồ làm mồi cho chuột bọ, cho chó mèo... giữa sự điêu tàn của một thị trấn yên lặng và tang tóc... Trời rựng sáng thì tiếng súng chấm dứt, tôi trở lại phi cảng. Có ba xác phi cơ vận tải cong queo và bị cháy đen nằm giữa bãi đậu. Hai trung đội Dù đang đi qua phi đạo, Đầu vẫn đội mũ nồi đỏ (không có nón sắt) quần áo thẳng thớm, súng ống sạch sẽ, họ đi chậm chậm , nhẹ nhàng rất thong thả, lạnh nhạt dửng dưng nhìn khắp chung quanh mà đi tới. Lúc 9 giờ sáng, tôi gặp được một người bạn, đại tá Lập. Anh chỉ huy một Không đoàn phi cơ săn giặc và vừa đáp xuống sau một phi vụ. Anh có vẻ mệt mỏi và bộ đồ bay của anh có vết máu. Anh mệt nhọc nói: -" Tất cả rồi sẽ sụp đổ, từng giờ thôi. Căn cứ Không quân Biên Hòa bị 600 quả pháo 130 ly đã hoàn toàn hư hại và đang bị cô lập. Sư đoàn 18 của thiếu tướng Đảo vẫn còn đánh nhau với bọn chúng và đang bám trận địa. Nhưng sư đoàn bị thiệt hại quá nặng và gần 2000 binh sĩ coi như phải thức trắng đêm suốt 5 ngày nay. Sư đoàn 5 thì bể rồi và coi như tan hàng. Thủy Quân Lục Chiến thì đang đụng nặng trên đường phố ở Vũng Tàu, nhưng thiếu đạn và không có pháo binh yểm trợ. Bốn (4) sư đoàn cộng sản Bắc Việt có chiến xa T.54 mở đường, được hàng trăm khẩu pháo yểm trợ đã tiến đến gần Sài Gòn lắm rồi. Đơn vị tiền sát của họ gồm toàn đặc công đang lùa cả chục ngàn dân tỵ nạn đi trước coi như làm khiêng đỡ đạn cho bọn chúng. Họ đã đến Tân Cảng rồi, không đầy 3 cây số cách trung tâm thành phố. Các toán nhỏ Dù đã phản công và có nơi đang cận chiến, đánh xáp lá cà với cộng sản ." Để trả lời cho câu hỏi của tôi về các phi cơ cộng sản đã từ đâu bay đến bỏ bom ở đây ? Anh lắc đầu chán nản nói : - " Họ đã cất cánh từ phi trường Phan Rang, và tôi gần như chắc chắn rằng họ toàn là những người bạn cũ, bực tức nhất thời vì sự tan vỡ của chúng ta nên đã theo bọn cộng sản . Họ biết rất rõ các hành lang bay của chúng ta và đã tỏ ra là chủ thật sự của phi cơ mình, chớ không phải phi công Bắc Việt đâu. Tôi tự hỏi cái ông Minh đó, ông ta đang tìm cái gì đây ? Chiều hôm qua, ngay sau khi cuộc bỏ bom ở đây chấm dứt, ông ta đòi Hoa Kỳ phải đóng cửa ngay tòa Đại sứ Mỹ , và tất cả tùy viên quân sự Mỹ ở đây phải ra đi tức khắc không được chậm trễ. Gì chớ chuyện đó thì Hoa Thạnh Đốn mừng quá: họ chỉ chờ có bấy nhiêu thôi, họ sẽ nhận gấp. Và tôi nghĩ là cuộc di tản những người Mỹ cuối cùng sẽ tiến hành trong những giờ sấp tới đây thôi. Cũng vì thế mà từ sáng sớm pháo binh Bắc Việt không bắn vào đây nữa để cho cuộc hành quân di tản nầy được tiến hành dễ dàng và nhanh chóng. Tất cả những hành động của bọn cộng sản chỉ nhằm tạo ra một tình trạng hoảng loạn để có một sự kết thúc nhanh chóng. Ông Minh đã cúi đầu tự mình chui vào tròng, và sự ra đi của tất cả người Mỹ chắc chắn sẽ tạo ra một tình trạng hốt hoảng khủng khiếp." Đại tá Lập ngưng một chút rồi đặt tay anh lên vai tôi và nói với tôi với một giọng chối tai nhưng đầy tình bạn : - " Một chiếc phi cơ của công ty Dài Loan, đậu ở đây 2 ngày nay, sẽ cất cánh trong vòng 30 phút nữa mang theo trên 100 hành khách đến Bangkok. Tôi biết anh bạn phi công nầy, anh ta sẽ cho anh đi, Pierre, anh đi đi, đi ngay khỏi nơi đây. di ngay đi, trước khi bọn "chó chết" kia (nguyên tác: s......) vào thành phố... Tánh tò mò nghề nghiệp của tôi không mạnh bằng nổi buồn đang siết chặt tim tôi. Sài Gòn là thành phố của tôi. Tôi đã được sanh ra ở đây. Tôi không muốn và cũng không thể nào chứng kiến cảnh "bộ đội" từ Miền Bắc vào đây, vào cái thành phố mà tôi biết rõ từng hóc hiểm. Tôi không muốn thấy những người có hạnh phúc cùng thời thơ ấu với tôi sẽ biến mất dưới bộ mặt nạ bằng chì mà họ phải chịu mang suốt đời. Tôi cảm thấy không đủ sức.... Sáng thứ ba hôm đó lúc 11 giờ, lẫn lộn trong hàng trăm người Á Đông âu lo và vội vàng ra đi trong khẩn cấp, tôi rời khỏi Tân sơn Nhứt, phi cảng của Sài Gòn .Chiếc phi cơ Đài Loan đi Bangkok, cất cánh rất bạo và trực chỉ phóng thẳng ra biển, đi về hướng Tây Nam. Phía dưới chúng tôi là thành phố rộng mênh mông với nét đẹp lộng lẫy, có con sông uốn khúc bao quanh... một thành phố đã bị những tràng tiếng nỗ và khói bao vây ở chung quanh rồi. Một người Tàu ngồi bên tôi, kỹ sư điện toán, nói với tôi là chỉ trong vòng vài giờ nữa thôi là trung tâm hệ thống viễn thông đầy mìn, sẽ "được điều khiển" cho nổ tung. Tất cả các sự thông tin với bên ngoài sẽ bị cắt đứt hết, và Sài Gòn , bị cô lập với thế giới bên ngoài , sẽ rơi vào tình trạng câm lặng . Tôi thấy cổ họng tôi bị se thắt lại. tôi hết sức tuyệt vọng. Bây giờ tôi mới biết rằng tôi sẽ không bao giờ còn trở lại đất nước nầy nữa, một đất nước mà tôi rất yêu thương... Một dân tộc khốn khổ, bị dày vò, bị chặt hết tay chân, bị sạt nghiệp chỉ vì bị sa vào bẫy của một vở kịch chánh trị ngu xuẩn và bi thảm quá kinh khủng mà chính họ cũng không hề biết không hề hiểu gì cả... Xin vĩnh biệt tất cả, vĩnh biệt tất cả những anh em đã từng chia xẻ với tôi hạnh phúc cũng như đau khổ trong những năm dài.... Các sư đoàn sắt máu từ Miền Bắc vào đây sẽ tha hồ mà xài xể các anh. Người Mỹ bị xua đuổi sẽ đáp xuống những chiếc hàng không mẫu hạm của Hạm Đội VII, một hạm đội dù bất lực và vô ích vẫn đang tuần tra ngoài khơi bờ biển Việt Nam mấy tuần lễ nay rồi. Còn về người dân Việt Nam : có thể họ sẽ biết được là đã hết rồi , cơn ác mộng vô nghĩa và thật khủng khiếp của họ đã qua rồi. Người ta đã dành cho họ một sự chọn lựa thật dản dị nhưng quá khắc nghiệt : đầu hàng và được sống, hay là chống cự và chết. Trong vài giờ nữa họ sẽ gánh chịu một luật lệ khắt khe của kẻ chiến thắng. Chú Sam (Hoa Kỳ) đã biến mất, mang theo khẩu hiệu lỗi thời của chú : thuyết "đô mi nô" ! Con cháu của Bác Hồ sẽ đến, như những kẻ chiến thắng, mang theo biểu ngữ khác bắt buộc phải đọc thuộc lòng: Phải thay đổi lối sống, thay đổi cờ, phải tự phê bình, phải hoan nghinh trật tự mới., phải biết vâng lời cán bộ, các ủy viên gầy gò và bí mật, thường mặc quân phục màu xanh lục, được huấn luyện ở sự nghèo khổ của bưng biền.. v.v. Thật khổ cho những người bại trận! |
|
IP Logged | |
Hoàng Dũng
Senior Member Tham gia ngày: 08/Nov/2008 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 592 |
Gởi ngày: 21/Dec/2008 lúc 10:38pm |
Chương 23CHƯƠNG HAI MƯƠI BA SỰ RẪY CHẾT CỦA MỘT THÀNH PHỐ Thứ Hai, ngày 28 tháng Tư, 1975 S àigòn thật sự đã ở trong tình trạng hấp hối ngay trong buổi chiều ngày thứ hai 28 tháng 4 với cái trò bắn súng lăng nhăng tiếp theo sau bài diễn văn của vị Tân Nguyên thủ Quốc Gia.. Khi những trái bom đầu tiên rơi xuống Tân sơn Nhứt và khi mà các loại súng bắn lên khắp nơi trong môt thành phố đang sấp cò một cơn giông bão đổ ập xuống, thì dân chúng vì chưa có được một lời giải thích nào nên hốt hoảng nằm sấp xuống các rãnh bên lề đường hoặc chạy vào nấp bên các cửa phố. Nhưng dân chúng cũng biết là chiến cuộc thường tránh xa thủ đô từ 30 năm giặc giã, thì nay "nó"đã đến đây rồi... và sớm muộn gì trong vài ngày nữa đây, hay trong vài giờ nữa thôi, bàn tay sắt máu của cộng sản sẽ ập xuống nghiền nát Sài Gòn để bắt thành phố nầy phải tùng phục họ. Hai giờ sau đó, đài phát thanh Sài Gòn cũng vẫn chưa đưa ra được một lời giải thích nào rõ ràng cho dân chúng đang hấp tấp trở về nhà mình sau khi có lệnh thiết quân luật 24/24.Do đó, trong cơn giông bão của một buổi hoàng hôn đầy sấm sét, người dân Sài Gòn bắt đài "MTGP". Nhưng đài cộng sản không hề nói đến chuyện "hòa bình"! Toàn là những điều kiện đòi hỏi và những lời hăm dọa, nhắc đi nhai lại cứng rắn như một cối xay lúa những luận điệu cũ mèm mà họ đã dùng mãi để lên án cựu Tổng Thống Thiệu : " chánh quyền Sài Gòn dù mang một nhãn hiệu nào cũng phải cáo lui.... Bộ máy chiến tranh Mỹ Ngụy phải được chấm dứt... Chiến cuộc chỉ chấm dứt khi nào tất cả quân đội Miền Nam bỏ súng xuống hết và tất cả các chiến hạm Hoa Kỳ đã rời hết khỏi lãnh hải Miền Nam Việt Nam . Các binh sĩ nào còn nghe lệnh chỉ huy của Mỹ Ngụy sẽ bị trừng trị đích đáng để làm gương..." Cũng vào giờ nầy, ngay tại Paris (tính theo giờ địa phương), sau những lời tuyên bố của tướng Dương văn Minh, các "trung tâm quyền lực" Pháp vẫn còn nói rõ là "viên đạn hiện đang ở trong doanh trại của CPLTCHMN", Vài giờ sau đó, hồi 4 giờ sáng (giờ địa phương) thì dân chúng Sài Gòn mới nghe được câu trả lời của cái gọi là CPLTCHMN, để đáp lại phần bình luận vô cùng lạc quan đến không thể tin được về tài ngoại giao của người Pháp: đó là một trận mưa rốc kết xuống thủ đô của Miền Nam Việt Nam ! Và phi trường Tân sơn Nhất tiếp theo đó bị tấn công bằng đủ các loại pháo lớn. Thứ Ba, ngày 29 tháng Tư, 1975 Đài phát thanh Mạc tư Khoa đã mỉa mai ghi nhận là :"tướng Dương văn Minh trên thực tế không còn gì nữa để mà trị vì" Vài giờ sau đó, đài phát thanh Sài Gòn đã truyền đi những lời phát biểu của Tân Thủ tướng Vũ văn Mẫu như sau : - "Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa hoan nghênh việc thi hành Hiệp Định Ba Lê, đặc biệt là các điều khoản 1, 4 và 9 đã qui định là Hoa Kỳ phải tôn trọng những quyền tự do căn bản của dân tộc Việt Nam về vấn đề "quyền tự quyết" của mình trong việc quyết định và chấm dứt mọi giao tranh quân sự , cũng như mọi sự can thiệp vào nội bộ của Miền Nam Việt Nam " Lời tuyên bố công khai nầy dù sao cũng đã được nói lên tiếp theo sau một thông cáo đòi "Đại Sứ Hoa Kỳ , ông Martin, phải đóng cửa tòa đại sứ trong vòng 24 tiếng đồng hồ và đồng thời phải làm mọi cách để tất cả những người Mỹ còn lại ở Miền Nam Việt Nam cũng phải rời khỏi lãnh thổ Miền Nam Việt Nam trong thời hạn đó". Và ngay sau đó ông M.Martin đã tức khắc cho biết là ông sẽ làm đúng theo lời đòi hỏi đó. Cuộc hành quân di tản những người Mỹ cuối cùng và những người Việt Nam "có liên hệ" với Hoa Kỳ , theo kế hoạch đã được Ngũ Giác Đài thiết lập, lẽ ra sẽ được tiến hành cho đến ngày thứ tư tuần tới, 7 tháng 5 / 1975. Nhưng tình hình diễn tiến quá nhanh. Từ thứ hai 29/4, Tổng Thống Ford đã có một buổi họp khẩn cấp với Hội Đồng An Ninh Quốc Gia. Cầu Không Vận đã được thiết lập để di tản người Mỹ và người Việt Nam từ phi trường Tân sơn Nhứt đã bị ngưng trệ : nhiều loạt rốc kết và đạn pháo nặng 130 ly, kể cả bom, đã được nã vào căn cứ Không quân lớn nhất nầy. Ngoài 11 chiếc phi cơ của Miền Nam bị phá hủy do bị dội bom vừa qua, còn có 1 chiếc phi cơ vận tải C.130 của Hoa Kỳ bị cháy dưới đất. Một chiếc trực thăng của Miền Nam chở 40 binh sĩ Dù trên đường bay đi Tây Ninh đã bị trúng một hỏa tiển, bị nổ tung và cháy trên không thật khủng khiếp. Có nhiều đạn rốc kết đã rơi vào Chợ Lớn, một thành phố mà cư dân hầu hết là người Hoa kiều, nằm sát Sài Gòn. Một phóng pháo oanh tạc cơ Skyraider có nhiệm vụ đánh bom vào các vị trí của các đơn vị cộng sản Bắc Việt ở 7 cây số về hướng Tây Bắc Sài Gòn đã bị trúng một hỏa tiển tầm nhiệt S.A.7. của cộng sản.. Và có nhiều cuộc chạm súng thật dữ dội đang diễn ra trong vùng ngoại ô thành phố. Hoa Thạnh Đốn không còn thời gian chờ đợi nữa. Và Tổng Thống Ford đã ra lệnh cho Hạm Đội VII tiến hành ngay cuộc hành quân di tản. Vào lúc 11 giờ trưa ngày thứ ba nầy, thủ đô Sài Gòn thật là hỗn độn không tả được . Người Pháp cư ngụ ở các khu nằm ở chung quanh thủ đô cũng đã bị "sơi" đạn pháo binh cộng sản nên họ phải đổ dồn về trung tâm Thủ đô tìm ở với bạn bè đồng hương, vì không thể vào tạm trú ở trường trung học Saint Exupéry theo đúng chỉ thị trước đây của tòa Đại sứ Pháp được . Vị hiệu trưởng trường nầy đúng ra phải chịu trách nhiệm đón tiếp những người Pháp nầy nhưng ông lại không nhận họ, viện cớ là "không có đủ dự trữ nước uống và lương thực để bảo đảm sự sống cho họ". Tất cả những người Pháp cư ngụ ở thủ đô gồm các giáo chức, các nhà trồng tỉa đã rút về đây, các nhà buôn, chủ tiệm ăn hay giám đốc xí nghiệp, đều đã treo cờ Pháp trước nhà ở, văn phòng, tiệm tùng v.v.. Có nhiều người Việt Nam bắt chước họ. Tất cả đều tin rằng lá cờ tam tài của Pháp có thể cứu được sanh mạng và tài sản của họ nếu có xảy ra những cuộc đánh nhau trên các đường phố. Và bất thình lình cờ xanh trắng đỏ được treo rợp trời vào những giờ bi thảm của một sự sụp đổ nầy đã làm cho một vài khu vực của thành phố có một bộ mặt lạ lùng khác thường của một ngày lễ 14 tháng 7 của Pháp. Nhưng hỡi ôi ! đây chỉ là một ảo ảnh! một ảo ảnh quá đau lòng che đậy những dấu hiệu lo âu sợ sệt đang tràn ngập cả thủ đô Miền Nam vốn đang rơi vào tình trạng vô trật tự và vô Chánh Phủ . Trên xa lộ Biên Hòa trước khi đến cầu Sài Gòn mà gần đó là những căn cứ tối tân nhất của bến Tân Cảng, có 50 binh sĩ Dù dưới sự điều động và chỉ huy của một đại úy, đang đánh nhau từ chiều thứ hai với một toán đặc công để cố ngăn cản không cho họ đến được dạ cầu. Đặc công cộng sản đã 5 lần chiếm được cầu và cả 5 lần binh sĩ Dù đã chiếm lại cầu. Trên 50 xác cộng sản Bắc Việt nằm đầy trên đường, mình mẩy đầy vết đạn, gần như họ đã chết rồi mà vẫn còn bị tiếp tục ăn đạn của binh sĩ Miền Nam quá hăng say và quá cẩn thận ! Bất chấp chiến trận đang diễn ra, một đám đông dân chúng, đông như một đàn kiến đếm không xuể, đã tràn vào chiếm các kho hàng của Tân Cảng để cướp bóc hôi của. Đó là đám dân đen khốn khổ ở các đồng lầy, đói khát, và háu ăn. Họ chia ra làm 2 đoàn rõ rệt, những người mới tới, tay không, và những người trở về mang đầy chiến lợi phẩm. Năm trăm người ? một triệu người ? Không một ai có thể đếm được một cách chính xác, phần lớn là đàn bà và trẻ nít, có rất ít đàn ông... họ càn quét đủ mọi thứ các kho đầy ấp hàng viện trợ Mỹ. Đám đông xô đẩy nhau để chạy đến nơi cướp bóc, giẫm bừa lên các xác chết của bọn đặc công cộng sản làm bật lên tiếng kêu răn rắc của xương gãy như cành cây khô ! Để trở về, đám đông dân chúng nầy phải vượt qua sông, lội lõm bõm trong bùn. Một em bé khoảng 10 tuổi đầu toàn thân đầy bùn đen và thối, nhưng tay vẫn đưa cao một bó cao su xốp rửa chén ! Hai bé gái khá hơn quần áo cũng đầy bùn sình, mang một số nấm, pa tê và trái cây đóng hộp. Một người đàn bà thu nhặt được hai bịch thuốc lá thơm và một máy xây sinh tố. Một anh bạn khác thì khệ nệ bê một cách khó khăn một thùng sốt cà chua. Một "chợ chồm hổm" được tổ chức ngay bên đường: người ta mua bán, trao đổi trong cơn sốt tiền bạc ngay trong một ngày có quá nhiều khủng khoảng quân sự lẫn chánh trị . Binh sĩ trên các quân xa phải bắn chỉ thiên mới vạch được lối đi cho đoàn xe. Tấn thảm kịch sấp buông màn, chấm dứt. Còn chưa phải là một sự hoãng loạn nhưng là một cuộc tháo chạy toàn bộ... Từ sáng nay, không một nhà báo nào còn được một tin tức gì từ giới chức có "thẩm quyền quân sự" về tình hình, vì một lẽ rất đơn giãn là các giới chức nầy không còn ở đó nữa hoặc họ đã bị "mất chức" không biết lúc nào.Tướng Minh đã cách chức tướng Bình, Tổng giám đốc Cảnh Sát và An ninh quân đội . Kết quả là sáu chục ngàn (60.000) cảnh sát và mười ngàn cảnh sát đặc biệt (10.000, hầu hết là các binh sĩ có tuổi từ các binh đoàn thiện chiến) , đang kiểm soát thủ đô, đã không còn ai để chỉ huy và ra lệnh cho họ. Vị Tổng Tham mưu trưởng quân đội Miền Nam được thay đổi 3 lần trong vòng 24 giờ đồng hồ. Ngày hôm kia là tướng Cao văn Viên, nhưng ông đã ra đi cùng vị Tham mưu phó lẽ ra phải thay thế ông mới đúng. Ngày hôm qua là tương Nguyễn văn Minh, nhưng ông chỉ ngồi đó có mấy giờ trước khi xách va li chuồn mất. Chiều hôm qua là tướng Thiết giáp Vĩnh Lộc, một cây rượu mạnh, anh em họ hàng với cựu hoàng đế Bảo Đại. Ông ta đã cổ võ binh sĩ trên đài phát thanh và yêu cầu họ đừng "chạy như chuột giống như Tổng Thống Thiệu". Nằm gần sân bay Tân sơn Nhứt, là Bộ Tổng Tham Mưu nhưng giờ nầy rất là vắng vẻ, chỉ thấy còn lưa thưa ra vào một vài sĩ quan cấp tá. Các viên chức thì còn ở nhiệm sở nhưng không một ông tướng nào còn trả lời khi điện thoại reo cả ở trong văn phòng hoặc ở nhà . Trên trận địa, các đơn vị trưởng nào còn tiếp tục chiến đấu thì từ đây phải tự lo liệu lấy cho mình thôi. Ở trung tâm Sài Gòn, đột nhiên sự căng thẳng lên cao độ, vì mọi người bây giờ đều biết là người Mỹ sẽ bỏ đi hết. Cuộc hành quân di tản của Hoa Kỳ bắt đầu từ 11 giờ. Người Mỹ và những người "bạn" Việt Nam nào đã được giới chức ngoại giao Hoa Kỳ báo trước đều nhận được lệnh phải đến tập trung ở 13 điểm hẹn đã được dự trù từ trước : các sân thượng hoặc các vườn chơi công cộng. Và cuộc di tản bằng trực thăng bắt đầu. Các chiếc trực thăng vận tải loại lớn của Thủy Quân Lục Chiến từ Hạm Đội VII , các trực thăng riêng của Trung Ương tình báo, và trực thăng màu trắng bạc của hãng Hàng Không Hoa Kỳ (Air America) bay là là trên các nóc nhà trong thành phố, có trực thăng võ trang (trang bị rốc kết và đại bác tự động) bay theo yễm trợ. Trên không phận lại có các chiến đấu phản lực cơ "Phantoms" lúc nào cũng sẵn sàng can thiệp, nếu cần. Ở Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ người ta hấp tấp đốt các hồ sơ lưu trữ cuối cùng. Ngay trên nóc tòa Đại Sứ các trực thăng Huey đáp xuống bay lên trong khỏang thời gian cách nhau rất đều. Tò mò đứng từ các nhà chung quanh để quan sát, thì đây là một cảnh tượng hết sức lạ lùng. Phía trước những chiếc xe du lịch đến đậu sát hàng rào sắt của tòa đại sứ, các chú tài xế mặc áo gi lê chống đạn nhưng đầu vẫn không quên đội mũ cát kết trắng, vì các viên chức Việt Nam vẫn nhất định phải tôn trọng lễ nghi cho đến cùng . Không biết các anh tài xế nầy sẽ nghĩ gì sau khi các ông chủ của họ đã lên trực thăng và họ phải quay về các khu vực bình dân giữa những tiếng nổ của đạn rốc kết? Người Mỹ rời khỏi Sài Gòn bỏ lại xe của họ đầy đường. Tức khắc, có những toán tháo gở từ vùng ngoại ô đến "làm thịt" ngay tại chỗ. Thời gian cứ thế trôi qua và lần lần đám người tụ tập trước cửa rào của tòa đại sứ cáng ngày càng đông, họ bu quanh sát tường và có người còn có ý định trèo qua tường để vào bên trong tòa đại sứ. Trong số người cố bám vào tường như những chùm nho với niềm hy vọng cuối cùng có thể "chạy" khỏi đây để tìm tự do..., người ta thấy có đủ mọi hạng người, sinh viên, công chức, lính cứu hỏa với mủ đồng còn trên đầu, các cô gái ăn sương, các bà mẹ trẻ bồng con đưa lên thật cao, coi như họ trình lên một mẫu giấy thông hành sống là các chú bé con lai mà cha của chúng là một anh lính Mỹ da trắng hay da đen tóc nâu hay tóc đỏ nào đó... Các binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến canh gác vẫn bình thản và lạnh lùng dùng báng súng đẩy đẩy họ ra. Một cảnh tượng thiểu não khác đã xảy ra bên lề đường. Tướng Đặng văn Quang, mà mọi người đều tố cáo là kẻ cầm đầu đường dây buôn lậu ở Miền Nam , lại không được có tên trong danh sách di tản do Hoa Kỳ thiết lập. Khi ông ta đến trình diện trước cổng tòa đại sứ, binh sĩ canh gát đuổi ông ra. Ông mới chạy lại gặp nghị sĩ Nguyễn văn Ngãi để van nài giúp đở ông ta được trực thăng bốc đi. Có ai ngờ được, một ông cựu cố vấn quân sự của Tổng Thống, một người đầy ngạo mạn và kiêu căng chểm chệ tác oai tác phúc hằng mấy năm liền ở Dinh Độc Lập, giờ đây chỉ còn là một đống mỡ run rẩy vì sợ sệt. Ông ta hết lạy van , cầu khẩn rồi lại viện dẫn đến mạng sống của vợ con và của chính bản thân ông sẽ bị cộng sản giết v.v... xuống nước, kính cẩn, khúm núm van xin.. Động lòng thương hại, nghị sĩ Ngãi đưa ông ta cùng đi với mình, cẩn thận không nói rõ tên họ ông ta là ai, nghị sĩ Ngãi mới đưa ông ta lên được trực thăng. Nhìn từ bên ngoài, với đám đông người khốn khổ đang khóc lóc, kêu la, cầu xin một lối đi để ra khỏi hỏa ngục nầy, cuộc hành quân di tản nầy coi như rất ồn ào náo nhiệt và vô trật tự. Nhưng đối với những người đã được vào khuôn viên tòa đại sứ rồi , thì sẽ thấy bô máy di tản hoạt động hết sức chính xác. Các hành khách được đưa lên lầu thượng, từng toán 3 người một, đưa lên trực thăng (chở được 12 người một chuyến). Từ đó bay thẳng qua phi trường Tân sơn Nhứt . Ở đây họ được đưa vào các dãy nhà thuộc Phòng Tùy Viên Quân Lực Hoa Kỳ, trên nóc vẫn phất phơ lá quốc kỳ Mỹ. Các dãy nhà nầy lẽ ra là mục tiêu rất tốt của cộng sản , nhưng vẫn còn nguyên xi, không hề hấn gì. Mặc dầu lửa đạn gần suốt đêm qua trong khu vực phi trường, nhưng hình như các dẫy nhà nầy được cộng sản cố ý chừa ra. Có nhiều trực thăng vận tải "Chinook" đến từng toán 4 chiếc một, mỗi toán đỗ xuống một đại đội Thủy Quân Lục Chiến trang bị đại bác không giật và hỏa tiễn chống chiến xa với đầu đạn "Tows" có hồng ngoại tuyến. Thủy Quân Lục Chiến có trách nhiệm giữ an ninh cho khắp cả vùng di tản. Mỗi chiếc "chinook" sau khi đổ Thủy Quân Lục Chiến và quân dụng xuống rồi thì bốc luôn 45 hành khách Việt Nam , xong mới bay đi.. Thời gian bay khoản 1 giờ đến các chiến hạm của Hạm Đội VII và trên 20 chiếc tàu vận tải đang đậu chờ rước họ ở 30 cây số ngoài khơi bờ biển Việt Nam ngoài tầm tác xạ của pháo binh cộng sản Bắc Việt Hành trình không gặp một trở ngại nào. Không có một viên đạn, một hỏa tiễn , một trái đạn pháo binh nào được bắn đi từ dưới đất lên các trực thăng to lớn đang nối duôi nhau rất đều đặn bay ra biển để đáp xuống một trong hai hàng không mẫu hạm , chiếc Hancock hoặc chiếc Okinawa, từ đó họ đã cất cánh bay vào Sài Gòn. Sau khi đặt chân xuống các chiến hạm rồi thì người Việt Nam ai cũng bị các binh sĩ Mỹ rất đứng đắn nhưng cũng rất lạnh lùng khám xét trong người thật kỹ, để được bảo đảm là họ không có mang theo vũ khí, ma túy hay các loại y dược nguy hiểm. Sau đó họ mới được chuyển xuống các thuyền cao su hay thuyền máy để đưa họ sang các tàu vận tải . Các thuyền máy nầy chạy qua chạy lại như con thoi giữa các các chiến hạm. và các tàu vận tải. Và các tàu vận tải nầy sẽ đưa họ về các trại định cư ở đảo Guam . Có nhiều chiếc tàu vận tải nầy được Hạm Đội gọi trở lại cả ban đêm để "vớt" những người tỵ nạn Việt Nam khác đang lênh đênh ngoài biển cả cách bờ biển Việt Nam hàng trăm cây số, trên các tàu đánh cá, các thuyền buồm thô sơ, có đèn đốt sáng rực, người trên thuyền dùng đuốc và đèn bấm, đèn lồng .. vừa vẫy gọi, vừa chạy lại các tàu chiến của Mỹ . Tất cả các làng đánh cá dọc theo bờ biển từ Phan Thiết đến Bình Tuy đều ra khơi và kêu cứu. Có hơn 20.000 dân tỵ nạn được đưa lên tàu và được cứu khỏi nanh vuốt của cộng sản . * * * Tại Sài Gòn lưu lượng trực thăng của Mỹ vẫn tiếp tục đều đặn, không ngừng.. ồ ạt bay suốt buổi chiều. Trước cổng tòa đại sứ Mỹ có` đến trên 20.000 người đang chen chúc nhau đứng chờ với va ly cầm ở tay, và nước mắt ràn rụa. Có một số người vào được cổng sắt và được bốc đi. Có nhiều người dí hằng xấp đô la vào mũi các anh Thủy Quân Lục Chiến Mỹ nhung họ vẫn lạnh lùng không lay chuyển. Có hằng trăm xe chở đầy người mở còi nhấn kèn inh ỏi chạy vào phi trường Tân sơn Nhất, nhưng không có một chiếc phi cơ nào cất cánh. Và trước cổng phi trường quân cảnh đã có thiết lập một hàng rào cản có bố trí súng liên thanh. Lại có hằng ngàn người chạy xuống bến cảng để cố gắng nhảy theo các tàu chiến, tàu buôn hay xà lan hoặc bất cứ một chiếc thuyền nào đó để chạy khỏi thành phố nầy bằng đường sông. Có khoản 200 người vừa sĩ quan vừa công chức hay con buôn xuống được một chiếc tàu hàng còn tốt đang nhổ neo lúc 3 giờ chiều để chạy ra biển. Họ không đi xa hơn được Vì vừa mới qua khỏi Nhà Bè thì chiếc tàu bị trúng đạn pháo, nổ tung và chìm. Những người may mằn còn sống sót lội vào bờ lại bị cắt cổ hoặc bị súng liên thanh bắn chết hết. Dĩ nhiên đô la và vàng họ mang theo đều bị vét sạch. Vào cuối buổi chiều thì tướng Trần văn Đôn và con trai ông ta, một bác sĩ, được một chiếc trực thăng bốc đi. Trước đó vài giờ, rất lịch sự như ông đã nổi danh, ông đã đến từ giã vị Đại sứ` Pháp... và luôn tiện cũng để nhận thông hành Pháp của ông. Ông M. M. Mérillon cũng đã có một vài lần nhờ vã đến tướng Đôn.. Từ nhiều tháng qua, và nhất là trong cơn khủng hoảng của Chánh Phủ vừa qua, tướng Đôn được coi như là một phụ tá rất đắc lực cho hoạt động trung gian chánh trị của người Pháp . Ông đã trực tiếp thúc đẩy tướng Dương văn Minh đi tới, và trước Quốc Hội lưỡng Viện ông đã có một buỗi thuyết trình quá thảm hại về tình hình quân sự. Có một lúc nào đó, ông M. Mérillon đã mong muốn đẩy ông Đôn vào ghế Thủ Tướng của ông Minh. Hôm chiều thứ hai, chấn động vì sự chống đối nhau giữa các trung tâm chánh trị của Miền Nam , tướng Đôn đã có ý định tự tử. Nhưng sau đó được giới thân cận lên giây cót an ủi...nên cuối cùng đã quyết định nhờ Mỹ đưa đi., Trước khi lên trực thăng, tướng Đôn đã nói với toán binh sĩ cận vệ của ông , những người đã không rời khỏi ông nửa bước, rằng : "Tôi bắt buộc phải ra đi thôi, vì nếu bọn cộng sản mà tóm được tôi thì tôi sẽ bị bọn chúng hành quyết ngay. Còn các anh, các anh chỉ là cấp nhỏ, các anh chẳng có gì nguy hiểm hết... và các anh có thể lẫn lộn được trong dân chúng." Mấy anh binh sĩ nầy với gương mặt rắn rõi, nắm chặt tay lại buồn bã nhìn chiếc trực thăng cất cánh mang theo ông cựu tổng trưởng Quốc Phòng của mình lòng nặng triệu không biết vì tức giận hay vì khinh bỉ... Không phải chỉ có một tướng Trần văn Đôn là sĩ quan cao cấp đã rời khỏi Miền Nam Việt Nam . Đã có gần 60 vị tướng lãnh khác ra đi như vậy. Như trung tướng Vĩnh Lộc, mới vừa sáng hôm qua đây đã từng kêu gọi binh sĩ "đừng có trốn chạy như chuột" ; như tướng Bùi thế Lân, một vị chỉ huy của Thủy Quân Lục Chiến , một người hùng đã rút quân bằng đường bộ từ Đà Nẵng về Sài Gòn vừa lui binh vừa đánh du kích ; như trung tướng Trưởng, Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật; tướng Thắng, thuộc binh chủng Pháo binh, một cử nhân toán học và vô địch cờ, như tướng Toàn, tư lệnh Vùng III Chiến Thuật, người đã giữ vững trong 4 tuần lễ mặt trận Miền Đông của Sài Gòn; như tất cả các giám đốc An ninh và Tình Báo Quân sự , như vị Tư lệnh Không quân; như tướng Lưỡng thuộc sư đoàn Nhảy Dù, người luôn luôn được binh sĩ của mình ái mộ.... và tướng "thần phong" râu kẽm Nguyễn cao Kỳ, người đã từng thề sống chết với khẩu súng trên tay, và người đã chê Tổng ThốngThiệu là quá nhát gan.... Tuy nhiên, cũng có một số người đã thẳng thừng từ chối không rời khỏi vị trí chỉ huy và binh sĩ của mình khi được các tùy viên quân sự của tòa đại sứ Mỹ trực tiếp liên lạc hay kêu gọi qua điện đài. Đó là tướng Nguyễn khoa Nam, người cò trách nhiệm phòng giữ Đồng bằng sông Cửu Long, tướng Lê minh Đảo, Tu lệnh sư đoàn 18 bộ binh , người đã giữ vững Xuân Lộc và là người đã trả lời :"Các binh sĩ của tôi đã hăng say chiến đấu, làm sao tôi nỡ bỏ họ được để đi trong lúc họ rất cần sự có mặt của tôi bên cạnh họ ?" tướng Lý tòng Bá, người chống giữ mặt trận phía Bắc, một tướng Kỵ binh Thiết Giáp, tướng Lê nguyên Vỹ, người đã chiến đấu với phần còn lại của sư đoàn 5 bộ binh ở Trãng Bom, tướng Phú đang bị phạt giam , người đã tuyên bố với vị Cố vấn Hoa Kỳ khi ông nầy đến tìm rước ông đi : - "Tổng ThốngThiệu đã chà đạp danh dự tôi khi ông công khai đổ lỗi cho tôi về chuyện mất Cao Nguyên Trung Phần..... và ông ta đã ra đi như một người du lịch với những chiếc va ly mà ông đã soạn sẳn.... Nhưng phần tôi, tôi sẽ ở lại, tôi sẽ tự tử và máu của tôi sẽ rơi trở lại vào lưng ông ta. Tôi chỉ còn có một cách đó để đính chánh lời cáo buộc của ông ta mà thôi" * * * Thủ đô Sài Gòn đã về đêm . Ở vài cây số về hạ lưu sông Sài Gòn , để tránh những kẻ tò mò, có mấy chiếc tàu sà lan đang bốc hằng ngàn người toàn là đàn bà và trẻ con thuộc gia đình của anh em Hải Quân. Các sà lan nầy được các tàu lớn kéo đi, có thuyền máy võ trang hay các tàu phóng ngư lôi hộ tống ra biển, ở đó có trên 30 chiếc tàu đang chờ họ. Tất cả các tàu chiến thuộc các đơn vị lớn của Hải Quân Miền Nam Việt Nam đều rút hết về đảo Guam . Trong bầu trời tối đen như mực của thủ đô, những chiếc trực thăng Hoa Kỳ với đầy đủ đèn hiệu sáng rực của mình đã dùng đèn pha chiếu thẳng thành những vệt dài sáng rực cắt đứt hẳn màn đêm. Ở dưới đất thì những cọc tiêu và những đèn rọi đánh dấu các nóc nhà mà trực thăng sẽ đáp xuống bốc người đi. Trên các sân thượng khác lại có những kẻ đau khổ lo âu đang đốt những cuộn giấy hay giẽ có tẩm dầu. họ hy vọng lửa sẽ dẫn dụ được những con chim sắt khổng lồ đến bốc họ ra khỏi nỗi lo sợ của họ và đưa họ ra khơi... cốt chạy khỏi bọn cộng sản .... nhưng vô hiệu. Đại sứ Graham Martin, người đánh giá cuộc hành quân di tản như là một việc "không ra gì" thì muốn ở lại Sài Gòn và chết ở đó. Ông ta chỉ phải rời khỏi thành phố nầy lúc 4 giờ sáng theo lệnh bắt buộc của Kissinger. Với một tâm trạng đảo điên, quá mệt mỏi (ông thức suốt 72 giờ liền), ông đáp xuống hàng không mẫu hạm "Blue Ridge" đang nằm chờ ông xa tít ngoài biển cả... sau đó ông vào phòng đóng cửa lại ngay để không cho ai thấy được nỗi thất vọng của mình. Những binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến cuối cùng ra đi vào lúc rạng đông sau khi đã phá hủy hết các dụng cụ điện tử ở tòa đại sứ và không quên mang theo lá quốc kỳ. Mười tám ngày sau khi di tản khỏi Phnom Penh, Hoa Kỳ lại rời khỏi Việt Nam bỏ lại một thành phố Sài Gòn mặc cho nỗi lo sợ và những tai họa sẽ dồn dập đến với nó. Hoa Kỳ chỉ có để lại nhà trống, vài nhà báo (vì họ muốn ở lại) và khoảng 50 người có quốc tịch bị bỏ quên.Tức khắc các nhà đó đều bị cướp phá. Trong khi còn những ánh lửa đỏ rực bay trên nền trời thủ đô và các vùng chung quanh thành phố, đã có hàng trăm hàng ngàn người, vừa đàn ông đàn bà và trẻ nít đua nhau "làm thịt" tất cả các vật dụng chết của tất cả các nhà vô chủ thuộc người Mỹ trong dĩ vảng.... Từ những chiếc nệm giường, tủ lạnh, máy đánh chữ, máy giặt máy sấy, máy rửa chén, máy thâu thanh, truyền hình, máy ảnh, máy quây phim, quạt trần, quạt máy, điện thoại, cho đến từng cuộn giấy vệ sinh... thượng vàng hạ cám không bỏ sót một vật gì, vì món nào cũng là tốt... xài được hết. Từ trước đến giờ lúc nào Chánh Phủ cũng nghiêm cấm mọi hành động cướp bóc, và tuyên bố là sẽ xử bắn tại chỗ những kẻ hôi của cướp bóc. Nhưng bây giờ thì những người lẽ ra có bổn phận phải xử bắn kẻ cướp lại đi về hùa với kẻ cướp để kiếm chút chiến lợi phẩm cho mình. Từ bên lề cuộc hành quân di tản ồ ạt của người Mỹ, từ những người quá thất vọng cứ điên cuồng chạy rong cùng khắp, từ những tiếng gằm thét của pháo nặng 130 ly Bắc Việt đang nã vào xóm làng công giáo ở Hố Nai và những vùng lân cận, trong những giờ phút cuối cùng của ngày thứ ba cuối tháng 4/75 nầy, Sài Gòn đã sống trong một hậu trường chánh trị quá sôi động, không đo lường nổi một lối thoát khó tránh được của biến cố, nhưng nhờ vậy người ta mới có thể thấy và hiểu thêm được không khí lố bịch trong địa hạt chánh quyền mấy giờ trước khi Sài Gòn bị thất thủ. Một nhóm người bất mãn qui tụ các vị lãnh đạo giáo phái, một số đại tá trẻ có liên lạc với các đơn vị còn đang chiến đấu và Phó Đô Đốc Chung tấn Cang Tư Lệnh Hải Quân... không tin tưởng khả năng và cơ may của tướng Dương văn Minh có thể đi tới cuộc thương thuyết được với bọn cộng sản . Họ sẳn sàng đứng lên lật đổ tướng Minh để phòng thủ Sài Gòn và vùng Đồng Bằng sông Cữu Long và tổ chức kháng chiến với bất cứ giá nào . Họ cũng đã có dự trù sẵn một người để thay thế tướng Minh nếu cần. Vào hồi 12 giờ 5 phúr trưa rgày thứ ba 29 tháng 4 nầy, một đoàn xe 3 chiếc Jeep với 12 binh sĩ đã hộ tống Phó Đô đốc Chung tấn Cang có ủy quyền của các đơn vị còn đang chiến đấu và một đại diện có thẩm quyền của Phật Giáo Hòa Hảo thay mặt cho các giáo phái ở Miền Nam, đã đến gặp tướng Minh tại nhà riêng của ông ta. Phó Đô đốc và vị lãnh đạo giáo phái hùng mạnh Phật Giáo Hòa Hảo ở miền Tây đã vào tới phòng khách lớn của tướng Minh. Ông ta đang chờ hai vị nầy ở đó, có vẻ rất mệt mỏi, với cặp mắt đầy âu nhấp nháy của một người hoàn toàn vừa bối rối vừa mất ngủ từ hai ngày nay. Ông ta quá xúc động và bất ngờ về chuyện cộng sản ném bom vào phi trường chiều ngày hôm qua. Ông thú thật với hai người khách: -" Tôi rất nản lòng. Tôi đã nhận được những bảo đảm từ phía "bên kia", đại sứ Pháp đã xác nhận với tôi là Chánh Phủ Pháp đã có một kế hoạch "hòa bình", và tôi sẽ có một thời gian là 6 tháng để thương thuyết. Ông ta đã thúc đẩy tôi phải từ chối không nhận chức vụ Thủ Tướng và phải cố đòi cho được ghế nguyên thủ quốc gia . Tôi đã theo đúng những lời khuyên bảo của ông ta. Tôi lại còn thỏa thuận để soạn thảo với ông ta một bản tuyên bố nói rằng "nước Pháp phải giữ một vai trò quan trọng trong tiến trình tái lập hòa bình" ở đây . Và sau đó thì có cuộc dội bom. Chỉ một vài phút sau khi tôi nhận nhiệm vụ. Thật là một điều lăng nhục không thể chịu được . " Tướng Minh lắc đầu hai ba lần và chua chát ông nói tiếp: - " Ông Mérillon không còn lý gì đến tôi nữa! Ông ta đã đến đây gặp tôi sáng nay. Và đây là tất cả những gì mà ông có thể nói được và nhắc lại với tôi : " rằng ông ta không còn một giải pháp chánh trị nào nữa hết...., không còn kế hoạch nào nữa hết.. và rằng các đơn vị cộng sản Bắc Việt đã tiến đến rất gần thủ đô rồi và rằng chỉ còn cách tốt nhất là nên đơn phương ra lệnh cho bên mình ngưng bắn mà thôi." Đó là tất cả những gì đại sứ Pháp đã nói với tôi sau khi đã bảo đảm với tôi trong bao nhiêu ngày liên tiếp rằng kế hoạch của nước Pháp đã được "phía bên kia" chấp thuận rồi ! " - Và ông đã trả lời cho ông ta ra sao ? Phó Đô Đốc hỏi Tướng Minh nhỏm dậy một lúc, cặp mắt đờ đẫn; - " Tôi đã nói là: tôi không thể ra lệnh cho binh sĩ đầu hàng vô điều kiện như vậy được . Trái hẳn với danh dự... Dù sao thì tôi cũng từng là sĩ quan của quân đội Pháp" Vị lãnh đạo Phật Giáo Hòa Hảo xẳng giọng chen vào: - " người Pháp là người Pháp. Còn ông là người Việt Nam, là nguyên thủ quốc gia và có trách nhiệm với tương lai của đất nước. Ông đã nói với Tổng Thống Hương, và mới đây ông cũng đã nói với chúng tôi là ông đã có nhận được bảo đảm của "phía bên kia". Vậy ông đã có liên lạc gì với cộng sản , và họ đã bảo đảm với ông những gì? Tướng Minh dụ dự một lúc hình như ông muốn nói ra, nhưng sau đó ông cứng rắn trả lời - "Tôi không thể cho ông biết những chi tiết ngay bây giờ được". Vị đại diện của Phật Giáo Hòa Hảo đưa một ngón tay chỉ ngay ông Minh và nói gần như tố cáo - "Không phải chỉ có một mình ông thất vọng và bọn cộng sản nuốt lời đâu. Còn có sự ngầm phá hoại đê tiện của người bạn của ông, là tướng Trần văn Đôn, đối với tinh thần của quân đội và của Quốc Hội. Trước hết ông ta đã bịp Lưỡng Viện Quốc Hội để họ ra một quyết định trao quyền cho ông và cho ông có toàn quyền hành động. Ông ta đã vận động can thiệp trước khi Quốc Hội bỏ phiếu bằng cách trình bày cho Quốc Hội một bản thuyết trình gian dối về tình hình quân sự, thổi phồng lực lượng cộng sản Bắc Việt mà theo ông ta thì họ đã bao vây Sài Gòn rồi. Không duới 14 sư đoàn Bắc Việt - con số nầy ông đã lập đi lập lại nhiều lần sau đó qua điện thoại cho từng người trong lúc Quốc Hội đang thảo luận để quyết định cho lá phiếu của mình.. Nhưng các con số đó không đúng. Chỉ có vỏn vẹn 4 sư đoàn cộng sản đang trực tiếp đe dọa chúng ta từ mặt trận phía Đông. Các sư đoàn khác thì còn cách đây ba bốn ngày đường và trên đường tiến quân của họ, họ còn phải gặp 2 sư đoàn nguyên vẹn của ta còn đang chiếm giữ trận địa . Các vị trí ở hướng Bắc thủ đô được tăng cường rất mạnh. Đồng bằng sông Cữu Long vẫn chưa có hề hấn gì và chúng ta còn đến 6 sư đoàn không kể gần trăm ngàn thuộc lực lượng địa phương quân. Tướng Đôn còn từ khước không chịu cấp phát võ khí cho lực lượng Hòa Hảo, Cao Đài và công giáo khi họ muốn chiến đấu. Chúng tôi có thể cung cấp thêm hàng trăm ngàn người để chống giữ đất nước. Hãy mở cửa kho vũ khí cho chúng tôi. Hảy hiệu triệu quốc dân đồng bào. Cần phải xác nhận quyết tâm của chúng ta để phòng thủ Sài Gòn . Nếu ông muốn cuộc thương thuyết có được chút cơ may thắng lợi, thì chớ nên ra lệnh vứt súng xuống hay nói rằng chúng tôi đã ngừng bắn rồi ! Nếu ông không muốn kháng cự nữa thì hãy nhường chỗ lại cho một nội các cứu quốc, hoặc là quân nhân và các giáo phái chúng tôi sẽ tiến hành một cuộc đảo chánh." Tướng Minh ra vẽ suy nghĩ. Hiển nhiên là ông đã đi sau tình hình rồi. Ông nhìn Phó Đô đốc Cang như hỏi ý . Phó Đô đốc Cang khẳng định: - "Quân đội không muốn đầu hàng! - Tôi cũng không muốn như vậy. Tôi là một quân nhân, và tôi không sợ chết. Và tôi rất chán cái màn hài bịch nầy lắm rồi. Bây giờ thì tôi thấy là tôi đã bị lừa, và người ta đã lợi dụng tôi! Tôi sẳn sàng rút lui, với điều kiện là phải tìm được một cái đầu thật sự biết làm chánh trị. Vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo đưa ngay lá bài ra: - "Đây, cái đầu đó có đây rồi :đó là ông thủ tướng Trần văn Hữu. Các giáo phái sẽ ủng hộ ông ta vì ông ta luôn luôn có một đường lối chánh trị khoan dung đối với họ. Các sĩ quan sẽ theo ông vì chính ông đã thành lập quân đội quốc gia năm 1951, khi ông ta là Thủ tướng của nước Việt Nam . Bộ chánh trị của Hà Nội biết ông ta và đánh giá cao ông ta. Ông ta là một nhân vật của Quốc Gia có kinh nghiệm và là một người Miền Nam chính cống. Hãy kêu gọi ông ta! Ông Minh có vẻ nghe theo đề nghị nầy. Và ông nói với một giọng thành thật: - "Tôi biết ông ta nhiều .Tôi đã từng là sĩ quan tùy viên của ông. Tôi kính trọng ông. Và tôi biết là các công chức vẫn giữ nhiều kỷ niệm tốt về ông: vào thời kỳ ông làm Thủ tướng, mọi người đều được trả lương hậu hỹ và đồng bạc Việt Nam rất có giá. Phó Đô đốc Cang tiếp lời; - "Vậy thì hãy gởi cho ông một công điện đi. Tướng Minh gật đầu và nói; - "Rất đồng ý. Tôi sẽ tuyên bố trên đài phát thanh và đài truyền hình trong một giờ nữa. Chúng ta hãy cùng nhau thảo bản tuyên bố nầy đi." Bản tuyên bố viết : "Tôi yêu cầu ông Thủ Tướng Trần văn Hữu, một người yêu nước chân thành và đáng kính, hãy chấp nhận lãnh đạo đất nước và đưa đất nước đến con đường hòa bình chân chính và trong danh dự." Lúc nầy đã 13 giờ hơn. Hai người khách của ông Minh đứng dậy. Ông Minh tiễn họ ra ngoài cổng, thân mật bắt tay và còn nói : - "Tôi sẽ tuyên bố công khai, Tôi hứa với các ông như thế" Phó Đô Đốc Cang trả lời: - "Phần tôi, tôi sẽ lo các chuyên viên truyền hình và truyền thanh để phối hợp loan báo lời tuyên bố của ông". Phó Đô Đốc Cang và vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo sau đó đi ngay đến Bộ Tư Lệnh Hải Quân . Phó Đô Đốc gọi ngay được các chuyên viên cần thiết cho công tác truyền thanh và truyền hình. Vào lúc 14 giờ trưa thì tất cả sự bố trí về mặt kỹ thuật và chuyên viên đều đã sẳn sàng. Nhưng, tướng Minh không đến. Thật ra, sau khi ông bắt tay từ giả 2 người khách, thì ông bước ngay sang phòng bên cạnh với những người cộng sự chánh yếu của ông là Thủ tướng Vũ văn Mẫu và Tổng trưởng Thông Tin Lý quý Chung, những người nầy đã ngăn không cho ông trao quyền lại cho ai hết. Nhất là ông Vũ văn Mẫu, đặc biệt đã tỏ ra rất là cay đắng khi ông xác nhận: - "Tất cả các điều kiện của họ chúng ta đã thực hiện, để có thể mở ra một cuộc nói chuyện với "phía bên kia". Người Mỹ đã đi khỏi nước Việt Nam hết rồi. Tôi đã loan báo là tất cả bộ máy hành chánh từ trung ương đến địa phương sẽ nhanh chóng được cải tổ để cho hợp với một chế độ tự do thật sự. Ông Trần văn Hữu ở tận Ba Lê, mà không có một phi cơ nào có thể hạ cánh lúc nầy được .Chúng ta có chánh quyền và chúng ta phải giữ nó. Phía những người cách mạng sẽ chấp thuận thương lượng cho một thỏa ước. Tôi tin chắc như vậy." Trong cuộc thương thuyết mà ông dự trù với "phía bên kia", ông Vũ văn Mẫu định xử dụng lá bài chủ : "sự ra đi của tất cả người Mỹ", điều mà ông ta đã bắt buộc họ phải rời khỏi nước Việt Nam . Nhưng khổ cho ông, là ông không hề biết là con bài đó đã không còn nằm trong tay ông nữa . Vì "người Mỹ phải rút hết khỏi nước Việt Nam " đã là đề tài của một thỏa hiệp bí mật giữa Hoa Thạnh Đốn và Hà Nội từ lâu rồi! Tại Bộ Tư Lênh Hải Quân, Phó Đô Đốc Cang vẫn tiếp tục chờ đợi...Đã hai lần ông cố gắng gọi tướng Minh, nhưng cả hai lần, ở Dinh Độc Lập và cả ở tư dinh người sĩ quan tùy viên đều mhanh nhẩu trả lời lạnh lùng: "Ông Trung tướng Tổng Thống không có ở đây"! Đến 16 giờ, Phó Đô Đốc Cang mới quyết định báo động cho đại sứ Pháp để nhờ ông chuyển về Ba Lê qua hệ thống vô tuyến điện, lời mời của trung tướng Dương văn Minh đến ông Trần văn Hữu. Nhưng tổng đài điện thoại của Tòa Đại sứ trả lời là "ông Đại Sứ đang bận họp" Phó Đô Đốc Cang gọi lại 3 lần nhưng cả ba lần đều nhận được câu trả lời thoái thác tương tự, có nghĩa là họ không muốn tiếp. Bực tức và phẫn nộ, Phó Đô Đốc Cang gác điện thoại xuống một cách giận dữ và tức tối càu nhàu: - "Cái anh mất dạy Mérillon nầy (nguyên tác "Ce salot....de Mérillon") không muốn dính vào nữa rồi đây. Khi mà mọi việc êm xuôi thì ông ta đi đến đây ngay để gặp mình, hay cho xe riêng đến đón mình. Bây giờ thì anh lại nhờ một anh "lon ton" đưổi khéo mình !" Còn vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo thì rời khỏi Bộ Tư Lệnh Hải Quân đi thẳng tới gặp các thành viên của mình đang họp tại một biệt thự gần nhà ga Sài Gòn . Vào buổi chiều ông điện thoại cho Phó Đô Đốc Cang, nhưng ông nầy đã rời khỏi Bộ Tư Lệnh để đi tổ chức cho các tàu chiến của mình rút ra biển. Liên lạc giữa 2 người mất từ lúc đó. Đến 9 giờ tối, vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo nầy lại đến nhà tướng Minh ở đường Ch***eluop Laubat một lần nữa . Nhưng ông thấy vị nguyên thủ quốc gia Miền Nam lúc bấy giờ lại tỏ ra đần độn hơn buỗi trưa nay nữa: - "Tôi chẳng biết làm gì bây giờ. Nhưng tôi không thể nào ra đi lúc nầy. Tôi phải ngồi lại cho đến cùng.... để bảo vệ dân chúng và thủ đô khỏi bị tàn phá." Vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo buông ra một câu hơi chối tai : - "Ông là người không biết giữ lời hứa. Ông không có đến đọc lời tuyên bố của ông trên đài phát thanh. Nhưng ông còn có thể làm việc đó. Ông hãy bốc điện thoại lên và gọi ngay ông Hữu ở Ba Lê. Ông dừng có do dự nữa... Tướng Minh nhún hai vai: -"Đã quá muộn rồi ! người Mỹ đã cho nổ trung tâm điện đài hồi trưa nay rồi.... - Ông hãy nghe đây, vị đại diện giáo phái đáp lại ngay, hồi sáng nay ông đã từ chối không chịu nói cho chúng tôi biết ông đã bắt liên lạc với những ai ở "phía bên kia". Bây giờ Phó Đô Đốc Cang không có ở đây. ông không phải bối rối về chuyện "mất thể diện" nữa . Ông phải giải thích rõ cho chúng tôi. Ông hãy nói cho tôi biết ai trong số những người của ông ở đây đã có đủ tư cách đi bắt liên lạc với "bên kia" và họ đã nói chuyện với ai ? Tướng Minh do dự một lúc lâu và sau đó tuông ra hết : - "Đó là con tôi, thằng Đức, nó đang là sinh viên khoa chánh trị , nó đã gặp Võ văn Sung, đại sứ Bắc Việt ở Ba Lê. Ông Sung đã nói với con tôi là Hà Nội và CPLTCHMN không có gì chống đối tôi hết và họ chấp nhận sẽ thương thuyết với điều kiện là trên căn bản của sự thi hành Hiệp Định Ba Lê " Vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo bực tức thốt lên : - Nhưng đó là trò trẻ con ! Con của ông không có một tư cách chánh thức nào cả. không có một sự ủy nhiệm nào hết để mà bàn cãi với cộng sản . Và ông đã căn cứ vào một phúc trình đơn giản của một cuộc nói chuyện riêng tư để làm việc ! Ông đã thực hiện cả một chuỗi dài hành động chánh trị, ông đã làm áp lực với Tổng Thống Hương và lưỡng viện Quốc Hội để đưa họ vào con đường vi phạm Hiến Pháp , ông đã lừa bịp dân chúng Việt Nam và trước dư luận quốc tế bằng cách bắn tiếng là ông đã nhận được những bảo đảm của "phía bên kia". trong lúc ông không có được trong tay một mảnh giấy lộn nào từ "phía bên kia"! Bản thân ông cũng chưa bao giờ gặp được một nhân vật chính thức nào của phía "bên kia". Ông Minh còn cố chống chế: - " Không phải chỉ có một mình con tôi, Tôi đã nhận được những khuyến khích từ ông đại sứ Pháp Mérillon, nhân danh Chánh Phủ của ông và những chuyên viên ở Phủ Thủ tướng Pháp. - "Và bây giờ thì ông ta bỏ rơi ông như một cái bị rách?" Tướng Minh chấp nhận và đưa nắm tay lên tức tối : - " Đúng vậy, tất cả đều rất đúng.... Ông ta chả cần biết việc gì sẽ xảy ra nữa ! Nhưng mà bây giờ tôi không có thề lùi được nữa rồi. Tôi đã cam kết là sẽ tiến tới cuộc thương thảo. Và tôi sẽ gánh hết trách nhiệm của tôi.. Những người có trách nhiệm ở phía bên kia bắt buộc phải nghĩ đến một Chánh Phủ hòa hợp quốc gia ." - " Nhưng cuối cùng, xin ông cho biết xem ông trông chờ những gì ở người cộng sản ? Ông cũng biết rõ là từ chiều hôm qua, đài phát thanh Hà Nội nhắc đi nhắc lại không ngừng là C PLT CHMN và Bắc Việt không muốn bàn thảo gì với bất cứ người nào đã từng ở trong "tập đoàn Diệm - Thiệu". Và như ông đã biết đó ;vị Phó Tổng Thống của ông lại là Chủ Tịch Thượng Viện của Tổng ThốngThiệu. Vị Thủ Tướng của ông đã từng là Tổng trưởng ngoại giao của Tổng Thống Diệm trong suốt 9 năm liền. Và bản thân ông cũng đã là cố vấn quân sự của ông Diệm !" Tướng Minh có vẽ sững sốt: - Ở đâu lại có câu chuyện phát thanh đó vậy ? - Ông đừng đùa nữa. Làm như ông không có bắt đài phát thanh Hà Nội nghe vậy ? chuyện sơ đẳng quá mà ! Chỉ cần có nghe là sẽ thấy những gì tôi nói là đúng hết. Cứ mỗi 15 phút là xướng ngôn viên nhắc lại cái tối hậu thơ đó. Đây nầy... Vừa nói xong vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo liền đứng phắt dậy, đi lại máy thâu thanh để trên bàn và vặn kim điều chỉnh đài. Một bài hát cách mạng nổi lên, tiếp theo đó là thông báo các chiến thắng, kế tiếp là tiếng nói đanh thép của xướng ngôn viên Bắc Việt đọc một bản thông cáo: -" CPLTCHMN không sẵn sàng để thương thuyết. Nguyễn văn Thiệu đã bỏ chạy. nhưng những người thay thế hắn, được biết là tập đoàn Minh - Huyền - Mẫu vẫn còn ngoan cố vừa lớn tiếng kêu gọi quân đội tiếp tục chiến đấu, nhằm giữ vững lãnh thổ còn lại, vừa đòi hỏi phải có thương thảo. Thật quá rõ ràng là tập đoàn nầy đang ngoan cố tiếp tục muốn kéo dài chiến tranh với hy vọng là giữ lại bọn thực dân mới Hoa Kỳ . Nhưng họ đừng có hòng đu đưa trong ảo vọng ! Họ không có đại diện cho ai được hết và không lừa bịp được ai đâu. " Xem chừng như tướng Minh rụng rời cả chân tay... ông thều thào: - Tôi không biết được chuyện nầy, Không có ai báo cáo cho tôi biết chuyện phát thanh nầy hết ." - Bây giờ thì ông đã biết rồi đó, vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo vừa nói vừa đứng lên. Chỉ có một chuyện duy nhất mà cộng sản đang chờ ở ông, đó là "đầu hàng không điều kiện." Không cần phải mất sức để nói chuyện với ai nữa hết mới đi đến chuyện đầu hàng ! Phần chúng tôi, trong bất cứ trường hợp nào, chúng tôi cũng không thể nào buông súng xuống được ". Trong lúc vị đại diện các giáo phái di ra cửa , mất hút trong bóng tối của một hành động bí mật mới nào đó thì ông Minh ngã người trong ghế dựa xét đi xét lại với một tinh thần bấn loạn. Có một chuyện mà ông đã không có nói được cho người vừa đối thoại với ông. Đó là : Vào lúc trước 7 giờ tối, ông đã gởi một phái đoàn đến "trại Davis", một doanh trại ở giữa lòng sân bay Tân sơn Nhứt , là nơi trú đóng từ tháng 2 năm 1973 của hai phái đoàn quân sự của Bắc Việt và của CPLTCHMN thuộc Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên (và sau nầy là Hai Bên), với nhiệm vụ kiểm soát sự ngưng bắn theo Hiệp Định Ba Lê. Nhưng các sĩ quan cộng sản đã từ khước không chịu tiếp phái đoàn đại diện của tướng Minh., làm cho họ phải qua đêm đến sáng sớm hôm sau trong một hầm trú ẩn. Ông Minh cũng không dám cho vị đại diện các giáo phái biết là trong suốt hai cuộc hội kiến với ông ta trong ngày, vị đại sứ Pháp lúc nào cũng có mặt ở ngay phòng bên cạnh. Ông Jean Marie Mérillon đã ở nhà tướng Minh gần suốt ngày thứ ba nầy . Ông ta chỉ vắng mặt có một lúc khi ông phải đi vào Tân sơn Nhứt với một vị Tổng trưởng của ông Minh. Các đại diện cộng sản ở đó đã xác nhận với hai người là "trong trường hợp tướng Minh ra lệnh cho quân đội Miền Nam ngừng bắn thì chừng đó cộng sản mới sẽ không bắn vào thủ đô Sài Gòn nữa." Đại sứ Pháp đã chuyển câu trả lời đó cho tướng Minh và hối thúc ông Minh sớm có quyết định. Tối hôm đó, Tổng Thống Minh ngã người xuống ghế trường kỷ, nằm thao thức suốt đêm trước bể nuôi cá của mình, nhìn cặp mắt tròn xoe của con cá để tự xét lại hành động của mình trong thời gian qua... |
|
IP Logged | |
Hoàng Dũng
Senior Member Tham gia ngày: 08/Nov/2008 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 592 |
Gởi ngày: 21/Dec/2008 lúc 10:38pm |
Chương 24CHƯƠNG HAI MƯƠI BỐN "BỘ ĐỘI" TRÀN VÀO THỦ ĐÔ Thứ Tư, ngày 30 tháng Tư, 1975 Cuộc di tản ồ ạt và ồn ào của người Mỹ đã chấm dứt. Chiếc trực thăng cuối cùng đã nặng nề cất cánh lúc tờ mờ sáng từ khu vườn hoa của tòa đại sứ Hoa Kỳ làm tung lên một đám bụi, mù trời: đó là mớ tro từ những tài liệu mà người Mỹ đã đốt suốt đêm qua. Người dân Sài Gòn được nghe đài phát thanh Úc đại Lợi mới được biết là Tổng Thống Ford của Hoa Kỳ vừa mới thông báo cho toàn dân Mỹ là Hoa Kỳ đã chấm dứt sự hiện diện ở Việt Nam sau hơn 15 giờ thật dài lo âu về một cuộc hành quân di tản khó khăn trong đêm qua đầy thảm họa. Bản thông báo có chữ ký của Tổng Thống Gerald Ford đã được phát ngôn viên của ông là Ron Nessen đọc trước ống kính truyền hình : - "Trong suốt tuần vừa qua, tôi đã cho lệnh phải giảm nhân viên của các phái bộ Hoa Kỳ ở Sài Gòn xuống đến mức có thể di tản họ nhanh chóng trong trường hợp khẩn cấp mà vẫn không trở ngại cho công tác được giao phó.. Trong ngày thứ hai, phi trường ở Sài Gòn bị pháo binh và rốc kết nã vào liên tục nên phải đóng cửa. Tình hình quân sự trong vùng đã tồi tệ nhanh chóng. Vì thế, tôi đã phải ra lệnh di tản tất cả nhân viên Hoa Kỳ hiện còn lại ở Việt Nam . Bây giờ thì cuộc hành quân di tản đã chấm dứt. Tôi ngợi khen hết tất cả những binh sĩ thuộc quân lực Hoa Kỳ đã tiến hành rất tốt cuộc di tản nầy, cũng như Đại Sứ Graham Martin và nhân viên thuộc phái bộ của ông, họ đã hoàn thành mỹ mãn sứ mạng của họ trong những hoàn cảnh thật khó khăn. Cuộc hành quân nầy đã chấm dứt một chương trong lịch sử Hoa Kỳ . Tôi yêu cầu tất cả người Mỹ hãy siết chặt hàng ngũ, tránh mọi đả kích lẫn nhau về quá khứ, để tiến tới tất cả những mục tiêu chung của chúng ta, và hãy cùng nhau chung lưng góp sức vào những công việc lớn còn lại của đất nước mà chúng ta phải thực hiện " Sau đó vài phút ông Tổng Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ, Henry Kissinger bằng một giọng nghiêm trọng và một vẻ mặt mệt mỏi, đã bình luận với báo chí về những biến cố trong 24 giờ cuối cùng. Ông ta đã chứng minh quyết định của Tổng Thống Ford trong việc thi hành "Kế Hoạch Bốn" để di tản "những người bị đe dọa nhất" qua một loạt tấn công của lực lượng cộng sản Bắc Việt vào phi trường Tân sơn Nhứt . Không một lúc nào ông nói tới chuyện tướng Dương văn Minh đòi hỏi sự ra đi của tất cả người Mỹ và phải đóng cửa tòa đại sứ Hoa Kỳ trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Nghe Henry Kissinger nói, người ta chỉ thấy quyết định cuối cùng của Hoa Kỳ ở Việt Nam chỉ do điều bận tâm duy nhất là phải cứu mạng sống của những công dân Mỹ cuối cùng còn hiện diện ở Sài Gòn. Về vấn đề nầy ông ta cho rằng mục tiêu đã đạt: chỉ tiếc rằng có 2 binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến bị tử thương vì đạn rốc kết đã rơi vào phi trường Tân sơn Nhứt trước khi cuộc hành quân bắt đầu khai triển và có 2 phi công tử nạn vì trực thăng của họ bị rơi ở biển Nam Hải.. Ông cũng cho biết là Hoa Kỳ coi như đã đạt được một mục tiêu khác:là đã di tản 5.500 người Việt Nam ở Miền Nam cùng lúc với 950 người Mỹ cuối cùng, thay vì trước đó "kế hoạch Bốn" (tức là cuộc hành quân di tản bằng trực thăng) trên nguyên tắc chỉ có dự trù bốc đi những công dân Mỹ mà thôi. Cuối cùng về mục tiêu thứ ba, cũng như hai mục tiêu vừa nói, ông Kissinger trích dẫn từ thông điệp mà Tổng Thống Ford đã nói với thế giới ba tuần qua :Hoa Kỳ đã cố gắng tạo một tình hình cho phép tiến tới một cuộc thương thảo ở Miền Nam Việt Nam . Ông Kissinger đã ước tính rằng chánh sách ngoại giao của Hoa Kỳ đã làm hết sức mình qua trung gian của các nước thứ ba mà ông không muốn nêu lên đây. Ông cho biết là giai đoạn đầu của sự di tản đã được tiến hành với sự dồng ý ngầm của Miền Bắc và của CPLTCHMN" mà chúng ta đã cho họ biết rõ ý định của chúng ta". Nhưng sau đó ông ta không chịu nhìn nhận là không thể giải thích được sự leo thang đột ngột về các đòi hỏi của cộng sản . Đánh giá thái độ " không nhẫn nại" của họ, ông ta ghi nhận " Mới vừa tuần lễ trước đây, họ chỉ đòi sự ra đi của ông Thiệu. Khi đã đạt được chuyện đó rồi, họ lại không thừa nhận người kế vị. Nhưng sau đó khi đã tìm thấy được người đối thoại là tướng Minh mà dường như họ đã đòi rồi, thì họ lại còn muốn thêm nữa. " Mới vừa tuần lễ trước đây. họ chỉ đòi các cố vấn quân sự Mỹ phải ra đi, vài ngày sau đó họ lại đòi sự ra đi của tất cả những người Mỹ" Trong những trường hợp đó, ông Kissinger từ chối không thể nói trước được là một cuộc thương thyết có thể thiết lập được giữa những người anh em thù địch hay không, hay là phải nghi đến chuyện Bắc Việt sẽ dùng lực lượng quân sự để cưỡng chiếm Sài Gòn bằng võ lực đây. Trong mọi trường hợp, ông ta xác nhận là Hoa Kỳ không nhìn nhận một Chánh Phủ Sài Gòn lưu vong. Thật không còn gì rõ ràng hơn ! dân chúng Sài Gòn chua cay cười khẩy rồi mới chịu tắt máy thu thanh của mình. Kissinger vừa mới viết trên tấm mộ bia của chúng ta : - "Nước Việt Nam ư ? Đã hết rồi ! Và người ta không muốn nghe nói tới nó nữa ! Cuối cùng Hoa Kỳ đã tìm lại được sự yên ổn trong lương tâm của họ !" Lúc nầy tiếng đại bác nổ rền liên tục ở ngoại ô thủ đô Miền Nam Việt Nam , đang có những cột khói tuôn lên cuồn cuộn chung quanh. Cuộc cướp phá hôi của không vì thế mà chấm dứt.... Có nhiều nhóm người có vẻ như tướng cướp, mặc toàn đen hay quân phục kaki, súng M.16 cầm tay, băng đỏ đeo ở cánh tay, đang lang thang khắp thành phố. Đặc công cộng sản xâm nhập hay xuất hiện từ bóng tối ? Không phải ! Đó chỉ là bọn vô lại, bọn tự vệ của các khu phố hoặc là bọn côn đồ chuyên nghiệp đang đóng vai tiền sát viên của "lực lượng cách mạng" để đi vơ vét những nhà cửa hay biệt thự không có người ở. Họ tự trang bị rất dễ dàng. trên các đường phố, các vỉa hè, ở các cống rãnh... đâu cũng có nón sắt, áo giáp chống đạn, cạt bin và lựu đạn, thậm chí còn có cả súng liên thanh nữa. Hàng trăm xe của người Mỹ bỏ lại chật đường hay trong các khu chung cư, phần lớn đều chỉ còn có cái sườn chơ vơ, không vỏ ruột, không ghế ngồi, không máy móc.... Chung quanh phi trường Tân sơn Nhứt ầm ỳ tiếng súng của chiến trận đã trở lại từ sáng sớm. Các tiểu đoàm Dù tập trung trên các đường bay đang anh dũng chiến đấu để giúp các phi công cất cánh mang đi được bao nhiêu phi cơ hay bấy nhiêu . Hơn 130 phi cơ và 20 trực thăng đã đến được phi trường Utapao ở Thái Lan, căn cứ B.52 của Hoa Kỳ , ngoài 18 chiếc phi cơ và trực thăng khác đã đến được các chiến hạm của Hạm Đội VII trong các điều kiện mạo hiểm hết sức khó khăn. Vào hồi 8 giờ sáng, hai tràng đại pháo 152 ly cộng sản đánh trúng ngay trường trung học Gia Long, làm cho 12 người chết ngay tại chỗ, trong đó có một vị sư của chùa Xá Lợi ở gần đó. Nhưng đó chỉ là những tràng tác xạ cảnh cáo hay để điều chỉnh mà thôi. Đồng thời lại có một loạt rốc kết bay xuống thành phố người Hoa ở Chợ Lớn. Một chiếc trực thăng quan sát bị rơi ở ngoại ô Phú Lâm vốn đang bị pháo kích. Vào lúc 9 giờ sáng, tướng Dương văn Minh có một phiên họp tại Dinh Độc Lập với ông Phó Tổng Thống Nguyễn văn Huyền và ông Thủ Tướng Vũ văn Mẫu . Họ vẫn chưa có tin tức gì của phái đoàn đi vào gặp các sĩ quan cộng sản ở "trại Davis ", Tân sơn Nhứt. Tướng Minh nhờ hai vị nầy thảo một bản tuyên bố đơn phương ngừng bắn để lát nữa đây ông sẽ đọc trên đài phát thanh Sài Gòn . Đã không thấy còn lính gác trước dinh Độc Lập nữa. Bất cứ ai muốn vào đây cũng được . . Một người nhỏ thó , nhưng mập mạp bụng phệ bước qua cửa rào băng qua bải đậu xe và bước lên bậc thang danh dự. Đó là tướng Vanuxem, một trong những cựu "thống chế" của De Lattre ở Bắc Việt (nguyên tác: Tonkin ), chuyển sang nghề làm báo. Tướng Minh đã từng phục vụ dưới quyền của Vanuxem, đã tiếp ông rất niềm nở và thân mật, rồi kéo ông ra riêng, cảm động nói - "Thưa Đại Tướng, không còn có gì để làm được nữa rồi ! Để tránh một cuộc tàn sát, tôi sẽ đầu hàng cộng sản . Ông là một người lính già, và chúng ta đã từng phục vụ chung trong cùng một bộ quân phục, ông có thể nhận chuyển giùm tôi một thông điệp cuối cùng cho các đồng hương của ông không ? Tướng Vanuxem ghi vội mấy hàng chữ do tướng Minh đọc cho ông: - "Chúng tôi yêu cầu nước Pháp tiếp nhận những người Việt Nam từng được nuôi dưỡng và đào tạo trong tinh thần, trái tim và lý tưởng của quốc gia nầy. " Sau đó tướng Minh vôi vàng lên xe Mẹc xê đét của Tổng Thống để đi đến đài phát thanh. Hồi 10 giờ 15: tướng Minh loan báo qua đài phát thanh bản tuyên bố của ông "ra lệnh cho tất cả binh sĩ và lực lượng địa phương quân của Việt Nam Cộng Hòa phải bình tĩnh chấm dứt chiến sự và ở đâu ở đó. " Khi tướng Minh về đến Dinh Độc Lập, vẫn có 3 chiến xa M.48 của QLV NCH đang bố trí im lặng dưới những gốc cây to trong vườn. Hai sĩ quan trẻ chạy lại gặp Tướng Minh, bực tức la lên: - "Không thể có vấn đề đầu hàng. Chúng tôi sẽ chiến đấu và sẽ chết tại đây. Tướng Minh đưa hai bàn tay to lớn của ông ta nắm chặt vai của họ và nói với họ bằng một giọng rất cương quyết:: - " Đã quá trể rồi các bạn ơi ! Nếu chúng ta kháng cự thì họ sẽ nghiền nát thành phố bằng đạn pháo. Sau vài phút bàn cãi, các sĩ quan nầy trở lại vị trí và các chiến xa rời khỏi Dinh Độc Lập, chỉ để lại khoảng 30 binh sĩ với nhiệm vụ "cận vệ" cho Tổng Thống . Vào lúc 11 giở 30, ở ngay trung tâm thủ đô, một vị đại tá lớn tuổi thuộc Cảnh Sát Dã Chiến, trong lễ phục chỉnh tề chậm rãi bước về phía kỳ đài "Chiến Sĩ Trận Vong" trước Quốc Hội VNCH . Đến đó rồi, đứng dưới tượng hình to lớn của hai quân nhân uy nghiêm màu đồng đen, người sĩ quan cảnh sát lột mủ cát kết xuống cầm đặt vào ngay trái tim của mình xong rút súng bắn ngay một phát vào đầu. Ông ta bật té ngữa, nằm dài ra phía sau , bất động trong tư thế nghiêm lần cuối cùng giữa một bãi máu đỏ đang lan rộng ra..... Tiếng đại pháo của cộng sản vẫn tiếp tục nổ dữ dội hơn , càng lúc càng gần hơn, về hướng Tân sơn Nhứt , nơi các chiến binh thuôc binh chủng Nhảy Dù đang đánh một trận chiến cuối cùng. Trời Sài Gòn đang mưa... Trong đại sảnh của Dinh Độc Lập, tướng Dương văn Minh cùng các thành viên trong Chánh Phủ đang ngồi chờ cộng sản tới. Ông ăn mặc thật giản dị, một quần màu chàm đậm và một áo bốn túi. Ông cho người sĩ quan tùy viên biết là : "những người cách mạng không ai đeo cà vạt" Ông chấp tay sau lưng đi tới đi lui, như một vị chủ nhà đang chờ khách đến . Ông không tỏ vẻ gì lo lắng hết. Tại sao phải sợ ? và sợ cái gì mới được ? Ông đã cho lệnh toàn quân ngừng chiến đấu. Hai điều kiện mà phía "những người cách mạng đã đặt ra: đuổi hết người Mỹ ra khỏi Việt Nam , và giải thể Quân đội và Cảnh Sát thì coi như đã thực hiên. Kể ra ông cũng có thể chạy đi trong giờ phút cuối cùng bằng trực thăng. Nhưng ông thích ở lại để chờ những người đại diện của CPLTCHMN. Xét cho cùng, những người lảnh đạo của "phía bên kia" phải chăng cũng là người Miền Nam như ông ? Tại sao ta không tin họ ? Ông sẳn sàng trao quyền lại cho họ. Ngoài chuyện không thể thực hiện cuộc thương thuyết như đã hứa thì ông tin chắc rằng ông đã cứu Sài Gòn khỏi một sự tàn phá và hằng triệu sinh mạng. Va sau đó người Pháp còn có thể thực hiện được một phép lạ ! Tướng Minh bám chặt cho đến cùng những bảo đảm mà đại sứ Jean - Marie Mérillon đã trao cho ông. Vài phút trước đó, ông đã có nói thật câu nầy cho một nhà báo thuộc thông tấn xả A.F.P : "Ông hãy nói rõ cho Đại Sứ Pháp biết là ông đã có thấy tôi ở đây..." Một lời nói sau cùng có ý nghĩa, thống thiết, nhưng hỡi ôi ! không có một chút giá trị nào ! Thình lình, tướng Minh giật nẩy người . Ông nghe một tiếng động lớn, xen lẫn với tiếng xích xe. Ông nhìn đồng hồ: Đúng 12 giờ 4 phút . Vài phút đã trôi qua. Tiếng máy xe càng ngày càng nghe to hơn. Đúng 12 giờ 10 phút, ba chiếc xe tăng T.54 cán dẹp những hàng rào cản sơn màu trắng đỏ bao quanh Dinh Độc Lập. Họ bắn chỉ thiên một tràng dài, ủi sập cánh cổng lớn và cán lên trên và tiến thẳng vào Dinh Độc Lập, cày bừa lên các bãi cỏ trong sân. Hai chiếc xe Jeep và một xe vận tải chạy đến , qua mặt các chiến xa. Tất cả đều mang cờ của CPLTCHMN, (cờ của M TGP MN xanh đỏ với ngôi sao vàng ở giữa).Trên 15 anh "bộ đội", mặc quân phục xanh và đội nón cối súng trường cặp nách chỉa tới trước, có một sĩ quan cấp tá dẫn đầu, đang rầm rập chạy lên các bậc thang trước bao lơn chánh.. Toán binh sĩ gác Tổng Thống Phủ đã để súng xuống thành một đống trên sân từ trước , đưa hai tay lên và đầu hàng... Một vài phút nữa trôi qua. Trên sân thượng của Dinh Độc Lập xuất hiện một số lính với quân phục màu xanh. Họ hạ cờ vàng ba sọc đỏ của VNCH xuống và từ từ kéo lá cờ của họ lên. Trong lúc đó. vị sĩ quan cao cấp được 4, 5 chú bộ đội súng ống đầy mình hộ tống, ập vào đại sảnh, nơi mà tướng Dương văn Minh đang hội họp với những người cộng sự viên thân cận nhứt của ông ta. Thấy vị sĩ quan nầy đeo đầy sao vàng trên cầu vai nền đỏ, vì không biết cấp bậc của quân đội nhân dân Miền Bắc, nên tướng Minh tưởng rằng mình đứng trước một sĩ quan cao cấp. - "Thưa ông quan sáu (nguyên tác : mon général ( ong sao) ) ông nói , tôi đã chờ ông từ ban sáng để trao quyền cho ông" - "Mầy dám nói là trao quyền hả ?, vị sĩ quan nầy dùng danh từ "mầy" (nguyên tác :tutoyant le Grand Minh) xẵng giọng cãi lại, Mầy chỉ là một kẻ cướp quyền và một bù nhìn. Mầy không có quyền nào để giao cho tao hết. Chúng tao lấy được quyền đó bằng khẩu súng trên tay. Tao xác nhận với mầy tao không phải là tướng mà chỉ là một trung tá và ủy viên chánh trị . Và kể từ bây giờ tao cấm mầy không được ngồi xuống !" Mặt tướng Minh co dúm lại. Sự hung bạo của những lời nói, giọng nói đầy khinh bỉ đanh đá của vị sĩ quan chợt làm cho ông Minh hiểu rõ là ông không gặp được những người của C PLT CHMN, nhưng là những người Bắc Kỳ (nguyên tác :Tonkinois). Mặc dù họ treo cờ Việt Cộng trên xe, nhưng không phải là những binh sĩ người Miền Nam đã vào chiếm Dinh Tổng Thống. Mà đang đứng trước mặt ông là những chiếc xe tăng, những sĩ quan và bộ đội Bắc Việt thuộc lữ đoàn M. 26 ! chỉ toàn là người Bắc (nguyên tác :Tonkinois) mà ông không bao giờ ưa và họ đã đối đãi với ông không như bạn hay đồng bào, mà như một kẻ thất trận ! Tướng Minh cố gắng tự kềm chế và nói tiếp bằng một giọng mà ông muốn dịu dàng hơn: - " Chúng tôi đã có làm sẵn một bữa cơm để tiếp các ông. Có yến, súp măng cua... Vị trung tá Bắc Việt ngăn ông lại và xẳng giọng: - "Mầy và những đứa khác, tụi bây đang ở trong tình trạng bị bắt. Hãy giữ cái bếp tư sản của mầy lại đi. Chúng tao sẽ ăn cơm dã chiến: một nắm cơm nắm và một hộp thịt kho mặn" Tất cả các tổng trưởng hiện diện đều bị nhốt trong một gian phòng, sau khi đã được khám xét không khoan nhượng. Bây giờ thì Dinh Độc Lập đầy ấp nhà báo ngoại quốc. Họ tràn tới đầu các chiếc T.54. Tướng Minh bị những tên "bộ đội" bao quanh chĩa súng vào người ông, và vị sĩ quan cao cấp vung khẩu súng lục to đẩy ông lên một chiếc xe Jeep và phóng đi dưới hàng loạt ánh đèn chớp của máy ảnh và máy quay phim của báo chí. Những người cộng sản đưa ông đến đài phát thanh để ông phải lên tiếng kêu gọi lần chót với các binh sĩ còn đang tiếp tục chiến đấu. Vì chiến trận vẫn còn tiếp diễn gần như khắp nơi, ở ngoại ô, ở Chợ Lớn, chung quanh Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát, ở khu vực gần Tân Cảng, trước trung tâm truyền tin Phú Lâm,... Vào hồi 13 giờ, tướng Minh được đưa trở về Dinh Tổng Thống và bị nhốt trong một văn phòng ở dưới tầng hầm. Thế là nhiệm vụ của ông coi như đã hoàn tất. Một nhiệm vụ đặc biệt rất là ngắn ngủi. Không đầy 48 tiếng đồng hồ, giữa giờ nắm chánh quyền và giờ bị cách chức... ** * Trên đại lộ từ vườn bách thảo đến Dinh Độc Lập, có nhiều chiếc tăng khác đi tới, dính đầy bụi bậm bùn sình hòa lẫn với cơn mưa lắc rắc và trên xe còn nguyên cành lá nghi trang. Tất cả các pháo tháp đều mở toang ra. Phía sau các khẩu liên thanh nặng với ổ đạn tròn, thấy có một anh lính chiến xa đội nón cối bằng da đen đang ghì chặt bàn tay vào cò súng. Binh sĩ ngồi hai bên khẩu đại bác lòng dài, hai tay nắm chặt khẩu súng tự động của họ. Theo sau các chiến xa là bộ binh cơ giới, đứng chật nít trên các xe vận tải Molotova của Nga . Phía sau các xe bộ binh là các dàn súng cao xạ, đi hàng ba, cũng được cơ giới hóa và trang bị mỗi xe 4 khẩu liên thanh ghép. Rất là cẩn thận và thật chậm rãi, nhiều toán bộ binh cộng sản đi bộ vào đường Pasteur. Có một tràng súng nổ khoảng ngang Tòa án. Rồi có tiếng lựu đạn nỗ, tiếng súng máy từng hồi tiếp theo. Các "bộ đội" đi vào đường Tự Do (Catinat), con đường nổi tiếng là xa hoa của người dân Sài Gòn . Một chiếc xe Jeep chở đầy "lính du kích" với quân phục tạp nham, chạy một vòng chung quanh kỳ đài chiến sĩ Miền Nam và chạy lại trụ sở Quốc Hội .Cửa của trụ sở đang được đóng kín. Có một người mặc quần xanh áo sơ mi ka ki đã phai màu chân không, leo qua rào gỡ lá quốc kỳ Miền Nam Việt Nam xuống và treo vào đó lá cờ của CPLTCHMN. Chung quanh Quốc Hội và đường Tự Do vắng tanh, không có một bóng người . Các tiệm buôn đều đóng kín cửa kể cả cửa sổ cũng sập xuống. Không có một bó hoa hay những tiếng vỗ tay hoan nghinh chào đón những người "giải phóng" Xa xa, các súng đại liên vẫn còn tiếp tục nổ ròn, thỉnh thoảng lại bị ngắt khoản bằng những tiếng nổ ngắn nhưng nặng nề. Các binh sĩ Dù đang còn hăng say chống giữ lối vào phi trường Tân sơn Nhứt . Sáu chiến xa T.54 và hơn một chục chiếc Molotova đang bốc cháy trên các đường bay. Cuộc chiến còn đang tiếp diễn tại nghĩa trang lớn của quân đội giữa những hàng thập tự giá trắng tinh dọc theo các mộ , và có những quả đại pháo làm bật tung các hòm lên. Các xe tăng cộng sản đầu tiên vào Sài Gòn từ hướng Đông theo con lộ cũ hồi thời Pháp, và theo xa lộ Biên Hòa từ thời Mỹ. Các cánh quân tiến vào từ Bến Cát và Tây Ninh theo hướng Bắc xuống, chỉ đến được trung tâm thành phố vào lúc 17 giờ chiều. Họ đến trễ vì bị đụng nặng từ chiều ngày hôm qua ở vùng Hóc Môn, nơi có trung tâm huấn luyện Nhảy Dù do Lữ đoàn 4 Dù trấn giữ, tập trung dưới sự chỉ huy của đại tá Vinh, một sĩ quan to con đen sạm đã từ chối không chịu tuân theo lệnh ngưng bắn. Các cánh quân nầy của Bắc Việt bị thiệt hại rất nặng và sau đó còn phải giao chiến ác liệt ở hai điểm trong dường phố: một ở trước Bộ chỉ huy Cảnh Sát Lưu Thông, nơi đó hơn một trăm Cảnh Sát dã chiến chống giữ gần một tiếng đồng hồ trước khi bị chiến xa cộng sản đè bẹp; và một nơi khác ở ngay ngã tư đường Ch***eloup và đường Verdun, ở đây chỉ có vỏn vẹn 4 anh lính Dù với súng liên thanh và súng không giật đã quyết chiến trong hơn 50 phút, bắn cháy nhiều quân xa cộng sản , sau đó vì hết đạn 4 vị anh hùng mũ đỏ nầy cùng nhau ra khoảng trống giữa đường, cùng nắm vai nhau thành một vòng tròn và cho nổ một xâu mấy quả lựu đạn để cùng nhau tự sát. Lữ đoàn 4 Nhảy Dù, đã đánh nhau với cộng sản chung quanh Tân sơn Nhứt , ngay trong Bộ Tham Mưu, ở đó họ dùng súng không giật bắn cháy 3 chiến xa cộng sản và tối đến họ rút về trong trật tự bằng con đường cũ kỹ của đồn điền cao su để về Chợ Lớn. Họ không hề để lại phía sau một người chết hay bị thương nào cũng như một quân trang quân dụng nào. Đến chiều tối, 400 binh sĩ mũ đỏ, rút về từ Hóc Môn và từ phi trường, đã tập họp chung quanh đại tá Vinh, còn tiếp tục chiến đấu ở khu chợ và các nhà máy xây lúa ở Chợ Lớn. Và lúc 22 giiờ đại tá Vinh cho lệnh họ phân tán thành từ toán nhỏ, và lợi dụng đêm tối để đi về Đồng bằng sông Cửu Long. Riêng vị đại tá Dù , một người đã từng "nhảy" ở chiến trận không biết bao nhiêu lần, già dặn, đã từng được đào tạo ở Trung tâm Nhảy Dù Pau của Pháp trong thập niên 50, không bao giờ chịu đầu hàng. Ông đã tự cho nổ một phát vào đầu bằng chính khẩu súng phóng lựu của ông ! ** *Thứ Năm, ngày 1 tháng Năm, 1975 Ngày hôm sau, 1 tháng 5, dân chúng Sài Gòn ngơ ngác và nhốn nháo, quá ngạc nhiên tại sao mình vẫn còn sống, đã điện thoại với nhau để cùng biết tin tức của nhau. Trước tiên trong buổi sáng, có nhiều nhóm nhỏ, rồi lần lần đông hơn, họ đi ra khỏi nhà để khám phá những trung đoàn binh sĩ với quân phục xanh lá cây đã vây hãm thành phố của mình đêm qua. Mấy anh binh sĩ với bộ mặt ngờ ngệch, gầy đến hai gò má nhô cao, mặc quân phục rộng thùng thình bằng vải bố thô, cổ quàng khăn và chân mang dép râu, một loại dép làm bằng vỏ xe cũ, mới thoạt nhìn trông như những anh nhà quê vụng về mới vào thành phố lớn lần đầu tiên. Có nhiều anh chưa tới 16 tuổi. Ở bãi cỏ rộng lớn rợp bóng mát trước Dinh Tổng Thống người ta thấy đầy những xe tăng, xe chạy xích, và những chú "bộ đội" đang ngồi quanh dưới các chiến cụ đáng sợ của họ. Và giữa những bãi cỏ gần nhà thờ Chánh Tòa, họ đang nấu cơm bằng củi, coi như họ đang cấm trại trong rừng vậy. Có nhiều người đang giặt quần áo. Phần đông họ đang soát lại vũ khí cá nhơn, tháo ra lau chùi cẩn thận như những anh thợ đồng hồ. Các binh sĩ thì xài súng A.K. 47 hay súng tiểu liên Tiệp Khắc ngắn mà tốc độ tác xạ nhanh, bá xếp có móc. Sĩ quan thì xài súng lục của Liên Xô, có tên là súng lục Ma Ca Rốp (Makarov) và loại súng lục Stechkin lớn hơn, vỏ bằng cây có thể ráp lại thành bá súng để đưa lên vai nhắm bắn một mục tiêu xa chừng 120 thước được . Người dân Sài Gòn cẩn thận bước lại gần các chiến xa "Molotova" và bắt chuyện với các anh "bộ đội". Họ tò mò hỏi - " Các anh từ đâu vô đây vậy ? Các câu trả lời lúc nào cũng giống nhau, với một giọng phát âm hơi chói tai: - "Từ ngoài Bắc ... Và ngay sau đó mới là tên của thành phố hay các tỉnh như Hà Nội , Nam Định, hay Ninh Bình v.v... Không còn chút nghi ngờ nào nữa, tất cả những anh lính chánh quy vào Sài Gòn là những người Bắc (nguyên tác Tonkinois). Miền Nam không phải được giải phóng, mà là bị chiếm ! Không thấy có một anh nào thuộc cái CPLTCHMN. Một "Ban Quân Quản" đang nắm quyền hành chánh tại thành phố Sài Gòn, mà người chỉ huy là tướng Trần văn Trà, 57 tuổi, người tuy gầy nhưng rất mạnh khỏe, hàm rộng, đôi mắt sắc bén mang kính gọng sừng, tóc đen và hớt ngắn. Tướng Trà là người ở Miền Trung, một người đấu tranh cách mạng già dặn, đảng viên đảng cộng sản Đông Dương, bị tù năm 1939 , vượt ngục năm 1944. Từ năm 1946 đến 1951 ông là người đứng ra phối hợp hoạt động của 4 vùng quân sự Việt Minh ở Miền Nam để chống lại lực lượng viễn chinh Pháp. Từ sau Hiệp Định Genève, ông tập kết ra Hà Nội và trở thành Tổng Tham Mưu Phó "Quân Đội Nhân Dân Bắc Việt" và sau đó là Chủ Tịch Quân Ủy Trung Ương ở Miền Nam . Ông cũng còn là Ủy viên dự khuyết cùa Chánh trị Bộ cộng sản ở Hà Nội . Vào năm 1968, ông đã tổ chức cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân, và năm 1972, chỉ huy trận tấn công vào An Lộc. Từ sau thời kỳ đó ông đứng vào hàng thứ ba trong hệ thống quân ủy của Miền Bắc , sau tướng Võ nguyên Giáp và tướng Văn tiến Dũng. Vào đến Sài Gòn vào đầu buổi trưa, ông đến ngay Dinh Độc Lập. Ông cho tổ chức ngay buổi lễ chánh thức "bàn giao quyền hành", xử dụng đội ngũ quay phim của cộng sản trong công tác thu hình để tuyên truyền, và ra lệnh thả tướng Minh và các tổng trưởng của ông nầy ra hết . Đến 4 giờ 30 chiều, tướng Minh rời khỏi phòng giam ở tầng dưới. Ông bước lên bao lơn chánh của Dinh Tổng Thống lúc nào cũng có lính canh chừng hộ tống bên cạnh, đi dọc theo hành lang có trải thảm đỏ để vào căn phòng nhỏ của các tùy viên. Một sĩ quan Bắc Việt đến nói với ông : - "Ông hãy ở đây đợi lệnh của chánh quyền cách mạng " Các nhà báo "xã hội chủ nghĩa" bước vào phòng. người phóng viên của nhật báo "Quân đội Giải Phóng" đến trước mặt tướng Minh và hỏi ông : - " Ông nghĩ thế nào về những biến cố mà ông vừa trải qua ? Tướng Minh giữ im lặng trong một vài giây.... sau đó mới trả lời, không quên dùng toàn những danh từ mà cộng sản thường hay xử dụng trong tuyên truyền: - " Chúng tôi đã ý thức được sức mạnh của Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời và của Quân đội Giải Phóng. Các đơn vị Thiết Giáp của Giải Phóng Quân thật là hùng mạnh. Quân đội Sài Gòn không cón lực lượng để chống trả nữa. Chỉ còn một quyết định đúng nhất là đầu hàng không điều kiện mà thôi. Và ông còn nói tiếp - " Thật vậy, chúng tôi tin tưởng các ông, nếu không thì chúng tôi không bao giờ đem cả gia đình chúng tôi đến đây để chờ các ông tới. Các ông đã đi đến chiến thắng một cách nhanh chóng. chúng tôi rất là có phước, thật sự rất là có phước . Chúng tôi và gia đình chúng tôi không hề hấn gì . Thật là cả một niềm an ủi và một niềm vui ." Ông Nguyễn văn Huyền, người lãnh tụ giáo dân, quá mệt mỏi, được phép vào nằm nghỉ trong phòng. Để trả lời cho các nhà báo muốn biết " ý kiến của ông về đường lối chánh trị của Chánh Phủ cách mạng" , ông đã trả lời nước đôi với một giọng nhẫn nhục và dè dặt : - "Chúng tôi không chấp nhận các "người di tản" . Là người Việt Nam thì họ phải ở lại sống trên đất nước quê hương của mình chớ? Ông Vũ văn Mẫu, vị cựu Thủ Tướng thì tươi cười, nhảy nhót và bày tỏ một niềm vui nhiệt thành ra mặt: - " Các anh đánh hay lắm, đánh rất là hay !" ông hướng về các anh cán bộ Bắc Việt đứng lẫn trong các nhà báo. Tôi rất bằng lòng là đã duổi hết người Mỹ đi. Bây giờ thì chỉ có chúng ta với nhau mà thôi". Ông nhắc lại lịch sử của cái "đầu trọc" của ông, "vào lúc đó là một dấu hiệu để phản đối sự bầu cử Tổng Thống gian lận và độc diễn của ông Thiệu", và ông thích thú nói thêm : - " Từ hôm nay là tôi sẽ để tóc lại được rồi!" Sau đó ông còn nói về nơi chôn nhao cắt rún của ông lá quận Thường Tín của ông ở phía Nam Hà Nội nữa. Ông Nguyễn văn Hảo, cựu Phó Thủ tướng và Tổng trưởng Kinh Tế đưa tay lên và nói lớn - " Thật là đáng phục là các anh đã đánh bại được Hoa Kỳ , chúng tôi hy vọng là tất cả tài nguyên cửa đất nước sẽ được dùng để xây dựng dất nước chúng ta ." Ông Lý quý Chung, cựu Tổng trưởng Thông Tin, nhắc đi nhắc lại nhiều lần ; - "Chỉ có những binh sĩ và những người chỉ huy của quân đội cách mạng mới thật sự là những người chiến thắng . Sự đóng góp của chúng tôi thật là quá nhỏ nhoi." Và sau vài phút suy nghỉ ông lại nói thêm : - " Chúng tôi biết rất rõ tình hình. Chúng tôi tin tưởng ở dường lối chánh trị của cách mạng. Cuộc chiến thắng vĩ đại nầy thuộc về toàn dân Việt Nam . Từ đây về sau chúng tôi không còn một chút bận tâm lo nghĩ gì nữa . " Nhìn qua cửa sổ thấy đám đông dân chúng tò mò đang tập trung đứng nhìn cánh cửa rào của Dinh Độc Lập bị xe tăng T.54 cán sập, ông ta phân chứng với các nhà báo: - " Các ông xem kìa, dân chúng đang chạy lại để chào mầng chiến thắng của các anh chiến sĩ giải phóng đó . Chưa từng thấy cái cảnh nầy ở đây bao giờ. Lịch sử của nước Việt Nam đã bước vào một kỷ nguyên mới " Vào lúc 5 giờ chiều: trong đại sảnh của Dinh Tổng Thống đã diễn ra cuộc gặp gỡ chánh thức giữa những người đại diện của Ban Quân Quản Sài Gòn - Gia Định và "16 nhân vật trách nhiệm của chế độ cũ" ở Miền Nam . Thứ tự ngôi thứ được áp dụng triệt để nghiêm túc. Những đại diện của Ban Quân Quản và những vị chỉ huy đơn vị của Quân đội Nhân Dân Bắc Việt (11 tướng tá) được xếp ngồi ở hàng ghế danh dự, các ghế dựa có bọc lụa đỏ. Trước mặt họ là tướng Minh và những thành viên khác của "cơ quan hành chánh cũ" hai tay phải úp xuống đầu gối của mình. Một đại diện của Ban Quân Quản thông báo cho họ là Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời đã quyết định cho phép họ được tự do trở về nhà. Ông bày tỏ hy vọng là tùy theo khả năng của mỗi người họ sẽ "đóng góp" vào công tác xây dựng đất nước ." Các vị tổng trưởng và tướng Minh "cảm động" vỗ tay. Tướng Minh sau dấu hiệu gật đầu của tướng Trà, đứng dậy và bước tới mi crô và tuyên bố với một giọng run run : - " Tôi xin thành thật gởi tới CPLTCHMN và lực lượng thuộc Quân đội Nhân Dân Giải Phóng những lời chúc mừng nồng nhiệt về chiến thắng hoàn toàn và quyết định vừa qua. Ở vào tuổi 60 , tôi rất là hạnh phúc được trở về với đời sống của một công dân thường của một nước Việt Nam thật sự tự do và độc lập." (1) Cả chương trình và diễn tiến của buổi lễ nầy đã được dàn dựng chi ly từ Hà Nội và được các chuyên viên đưa từ Hà Nội vào để quay thành phim từ đầu cho đến cuối. Cuốn phim nầy được trình chiếu trong tất cả các rạp hát trên toàn quốc Việt Nam và ở những nước "xã hội chủ nghĩa anh em" Trong những ngày kế tiếp, các binh sĩ chánh quy Bắc Việt thuộc các sư đoàn đã đánh vào Sài Gòn được phép đi dạo thành phố. Thủ đô Miền Nam Việt Nam và mặt tiền của thành phố với các tiệm nữ trang, hàng sơn mài, hàng sành sứ và đồ cỗ, cả tiệm cà phê với hai bên vách toàn kiến, với các chợ đầy ấp mọi loại thực phẩm, thức ăn... đã làm cho các chú "bộ đội" chóa cả mắt mũi và quá đỗi ngạc nhiên. Tất cả các binh sĩ nầy đều đã in trí rằng mình phải "giải phóng" một thành phố đói nghèo đang bị áp bức bóc lột, nhưng họ phát giác ra đây là một thành phố lớn ở Miền Nam , giàu có, linh hoạt, hạnh phúc, chỉ bị ảnh hưởng một ít thôi về chiến tranh. Các anh "bộ đội" trẻ đi phép nầy đi dạo từng cặp hai người một, bàng hoàng choáng váng vì sự lưu thông ở đây, dán mắt khắp các tủ kính đầy ngạc nhiên như những anh chàng nhà quê cục mịch. Các bác "phó nhòm" chụp hình lấy liền bằng máy Polaroid trên đường phố làm họ càng sửng sốt hơn đến câm lặng không nói được một lời nào. Họ đi lẫn vào các đám đông dân chúng, để thử cố gắng bắt chuyện với họ, cố mỉm cười để tỏ ra là người có lễ độ. Yên chí với tính trẻ con dễ dãi của các "anh" người Bắc , người dân bé nhỏ và không có Chánh Phủ của thành phố lớn nầy hội nhập rất mau với những người chủ mới. Lực lượng chiếm đóng bị đưa vào tròng ngay: trộm và đổi chác vật dụng, từ hộp thực phẩm khẩu phần qua những bao đường, đến những chuyện hút xăng ra từ các chiến xa hay các xe vận tải, buôn đủ mọi thứ: tất cả các anh "bộ đội" đi phép đã nhanh chóng không còn đồng nào trong túi, miễn là có được chiếc đồng hồ bằng nhựa không chạy được, đôi kính chống nắng của Mỹ, chiếc máy thu thanh bán dẫn vừa mới đánh cắp đâu đó. Người ta còn bắt họ hút thuốc cần sa mà họ vẫn không biết... Những chú khác thì bị sắc đẹp của mấy cô gái ăn sương mê hoặc, bị cám dỗ đưa vào các phòng ngủ qua đường để rồi vài ngày sau lũ lượt kéo nhau vào khám bệnh hoa liễu . Các xe mô tô của Nhật thì quá thành công. Các chú "bộ đội" đèo nhau từng hai người , ba người, có khi đến bốn người chạy bất kể, nổ máy liên hồi, báng vào các lề đường, đôi khi tông vào cột đèn hay tuông vào bồn nước lớn ở đại lộ Charner. Người dân Sài Gòn dứt khoát nghĩ rằng các chú "bộ đội" nầy quả thật quá vụng về dễ bị "quay" lắm. Nhưng trò chơi "láu lỉnh" nầy không đứng mãi lâu được .Có nhiều xe phóng thanh bắt đầu chạy khắp nơi trong thành phố cảnh cáo rằng trò "lừa bịp" các "giải phóng quân" là bất lương.... và hành động bất lương đó sẽ bị "nghiêm trị" Biện pháp ngăn chận đầu tiên nhắm vào các "chủ trương quyến rũ, hủ hóa và mua bán đổi chác", Ban Quân Quản loan báo là "các nhà thổ, các tiệm hút, các tiệm nhảy, bài bạc, kể cả mọi tàn tích của xã hội suy đồi của Mỹ.Ngụy. bị cấm hẳn từ đây" . Cứ mỗi 5 ngày là binh sĩ trú phòng sẽ được thay đổi. Không còn thấy xăng lẻ bán ở lề đường nữa. Xe Honda cũng vậy. Lượng xăng cạn dần và không còn được tiếp tế cho nữa, nên các trạm xăng tuần tự đóng cửa. Xe đạp bắt đầu thay thế xe mô tô. Trên tường treo đầy các tấm bảng ghi rõ là sẽ nghiêm trị thật nặng những ai còn tàng trữ vũ khí, đạn dược và máy truyền tin. Ngày 4 tháng 5: có lệnh cho dân chúng Sài Gòn phải làm công tác vệ sinh và treo cờ trong thành phố để cho thành phố của mình "trở nên sạch sẽ, tinh khiết, vui vẻ và cách mạng." Tất cả mọi người đều phải ra quét dọn trước nhà mình. Có những người "tình nguyện" thì đi hốt hàng đống rác hôi thối còn nằm trên lề đường hay trong các cống rãnh từ bao nhiêu ngày nay . Các bà thì lo may cờ "giải phóng". Dân chúng ở các khu nghèo là những người ít vội vàng trong việc treo "cờ cách mạng " : cờ bán quá mắc, từ 1500 đến 1800 đồng một lá (bằng tiền công 3 ngày làm việc) Ngày 6 tháng 5, "nhân dân" đập nát tượng đài chiến sĩ Việt Nam trước Quốc Hội :Đó là 2 anh chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến đang trong tư thế xung phong súng chỉa tới trước mặt. Tượng đài sập xuống gây nên một tiếng vang lớn. Ngày 7 tháng 5, tức là một tuần lễ sau ngày thành phố đổi chủ, Ban Quân Quản mới ra mắt lần đầu tiên với dân chúng ở tại Dinh Độc Lập. Từ chiều hôm qua, người dân Sài Gòn được mời đến đứng ở bãi cỏ trước Dinh, ở đó họ sẽ vỗ tay hoan nghênh những người lãnh đạo mới của mình. Không biết vì không có thiện ý hay vì trời xấu (mưa suốt đêm qua) mà sáng nay không có bao nhiêu người đến dự. Những người lạc quan thì ước tính sẽ có khoản từ 20 đến 25 ngàn người. Và còn hơn thế nữa vì một phần lớn cử tọa phải được tính là các anh "bộ đội" mặc quân phục . Đối với một thành phố có 4 triệu dân thì con số ước tính đó không có là bao . Đối với một thành phố được "giải phóng khỏi 30 năm bị áp bức bóc lột" thì con số đó gần như không có nghĩa gì hết. Trên bao lơn tướng Trà chánh thức đọc một bài diễn văn đầu tiên. Đám đông giương các biễu ngữ và vẫy các lá cờ nhỏ. có quân nhạc và có tiếng vỗ tay... Nhưng thật quá rõ ràng là không thấy có niềm vui nào ở đây hết. Các ủy viên chánh trị cố sức nhấn mạnh từng khẩu hiệu qua ống loa cầm tay của họ, nhưng không thấy được nồng nhiệt những tiếng hô theo. Nhìn chung, người ta thấy rõ là khán giả Miền Nam còn chưa có khả năng trả bài thuộc lòng đối với những khẩu hiệu quá mới mẻ. Ngày hôm sau, 8 tháng 5, tất cả 54 rạp chiếu bóng ở Sài Gòn cùng phải chiếu một cuốn phim duy nhất :"Trận chiến Điện Biên Phủ". Qua hình ảnh cũ từ hơn 21 năm, khán giả Việt Nam thấy hằng ngàn binh sĩ Pháp thất trận đang đi ra khỏi hầm trú ẩn, hai tay đưa lên trời. Một chút lịch sử được nhắc lại không đủ khả năng làm vẫn đục tâm hồn thanh thản của các nhà ngoại giao Pháp đang mài miệt bênh vực cho đường lối chánh trị vĩ đại của họ là " tình hữu nghị giữa Ba Lê và Hà Nội" . Nhưng nó gây khó chịu sâu đậm cho những người công dân Pháp hiện còn đang bị kẹt lại ở Sài Gòn . Các nhà báo ngoại quốc được mời đến dự buổi họp báo đầu tiên của Ban Quân Quản. Và cũng là một cuộc họp báo cuối cùng ! Bài nói chuyện của tướng Trần văn Trà được một thông dịch viên dịch ra tiếng Anh và ông đã trình bày quá dài dòng, chán ngắt về công tác vãn hồi trật tự và an ninh, về sự biết ơn đối với các "quốc gia xã hội chủ nghĩa anh em" đã đóng góp vào chiến thắng. Mạc tư Khoa được nghe nhắc đến nhiều lần, còn Bắc Kinh thì chỉ nghe nói phớt qua. Các nhà báo trong tuần qua đã cố tìm, nhưng vẫn không hy vọng không gặp được một người đại diện nào của CPLTCHMN, Họ đã lên tiếng hỏi tướng Trà về "sự vắng mặt không thể giải thích được của Chánh Phủ Lâm Thời nầy" Tướng Trà cười trừ, trả lời xoay quanh để thoát khỏi ngỏ bí : - " CPLTCHMN đang ở trong Miền Nam Việt Nam nhưng tôi không muốn nói với các anh là họ ở đâu.". Thật là quá lạ lùng cho cái Chánh Phủ Lâm Thời nầy !, không thấy mà cũng không thể tìm thấy, như thế là tính cách bí mật vẫn tiếp tục một cách lạ lùng khi mà chiến tranh đã chánh thức chấm dứt rồi ! Đã từ lâu rồi, chúng tôi không còn tin theo những lời hứa hẹn mà Hà Nội đã từng lớn tiếng tuyên truyền. Bộ mặt thật của "một Miền Nam trung lập được giải phóng khỏi sự kềm chế của ngoại bang".... hôm nay mới được thấy rõ. Chúng tôi cũng biết là xã hội chủ nghĩa không thể áp dụng ngay được ở đây... Miền Nam là Miền Nam ... Chúng tôi luôn nghĩ tới tính cách cá biệt của Miền Nam . Trước hết phải thành lập tại Sài Gòn một Chánh Phủ đoàn kết quốc gia để hòa giải tất cả mọi công dân chung quanh một chương trình tối thiểu nào đó. Sự thống nhất hai Miền rồi cũng sẽ tới sau nầy.... nhưng phải dưới hình thức một "Liên Bang". Những ai đã từng gắn bó quá ngây thơ trong trắng vào một sự hòa giải quốc gia tự nhiên giữa những người anh em Miền Bắc và Miền Nam với nhau ... bây giờ mới cay đắng biết rõ đó chỉ là một ảo tưởng .. Còn những ai hy vọng có thể nói chuyện với "phía bên kia" thì bây giờ đây họ còn đang đi tìm những người đối thoại với họ. Vào những ngày cuối cùng trước khi mất Miền Nam Việt Nam , các quan sát viên quốc tế đều ghi nhận là có một "khoảng trống chánh trị " ở Sài Gòn . Ngày hôm nay thì Sài Gòn không còn là một "khoảng trống chánh trị" nữa mà là một "bãi sa mạc chánh trị" nơi đó những "con ma" của CPLTCHMN được chờ đợi như một ảo tưởng. Thật vậy, cái CPLTCHMN đã từng bị tàn sát trong cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân (1968) chỉ là một con chim mồi không hơn không kém, cũng giống như cái gọi là "lực lượng thứ ba Việt Nam không cộng sản"... tất cả đều không ai nắm bắt được hết, và cũng không thể đại diện cho ai hết, nhưng chánh sách ngoại giao Pháp đã quá khờ dại dựa trên đó để đặt niềm hy vọng bảo vệ quyền lợi của nước Pháp . Không còn nghi ngờ gì nữa, quyền hành thật sự đang ở trong tay của Quân đội Nhân Dân Bắc Việt . Và tướng Trần văn Trà người "chủ" mới của Sài Gòn cũng chỉ là một công cụ của quyền hành đó mà thôi. Vào ngày thứ năm 15 tháng 5, một cuộc diễn binh rầm rộ đã nói lên sức mạnh quân sự của những kẻ thắng trận. Dẫn đầu , đi sau một con rồng đỏ đang uốn khúc tượng trưng cho niềm vui và hạnh phúc, là các em nữ sinh rất ngoan với quần đen áo dài trắng, rồi đến các phái đoàn dân chúng mang biểu ngữ nhăng nhít đầy khẩu hiệu. Sau đó đến các trung đoàn thép của Bắc Việt đi thành một khối :các "bộ đội đi hàng mười, có bước đi như ngỗng, súng mang choàng qua cổ, mặt lạnh lùng. Kế tiếp là các chiến xa đi thành hình vuông, đồ sộ , ồn ào, các xe ra đa, các thiết giáp xa và hàng trăm khẩu pháo binh cơ giới hóa, và những giàn hỏa tiễn. Tất cả pháo binh Liên Xô ghê gớm đó lẽ ra đã bắn 70.000 quả đạn (3000 cho mỗi khu) và 6000 quả rốc kết để nghiền nát thành phố, nếu thành phố nầy không đầu hàng. Đó là một cuộc trình diễn vĩ đại của chiến xa T.54, của hỏa tiển S.A.M. 6 và S.A.M. 7... những chiếc "Kalachnikov", những chiếc "Molotova" và những cỗ pháo 130 ly kinh hoàng. Các phi cơ Mig 19 và 21 gầm rú trên bầu trời. Nhưng điều phải thấy trên hết và được thấy trước nhất phải là : chiến thắng của những người Bắc Việt (nguyên tác: Tonkinois). Ở giữa rừng người đang liên tiếp đi tới như những làn sóng lớn... họa hoằn chịu khó lắm người ta mới nhận thấy được một vài xe vận tải chở đám "du kích quân" của "M TGP MN" và một xe Jeep chở nữ binh mặc đồ đen và đội nón "tai bèo" nhỏ. Các hàng ghế danh dự trên khán đài được dành cho phái đoàn 12 "anh lớn" dẫn đầu là 3 nhà lãnh đạo trong Chánh Trị Bộ cộng sản : ông Tôn Đức Thắng, Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, ông Lê đức Thọ, và tướng Văn tiến Dũng, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân đội Bắc Việt . Chủ Tịch Tôn đức Thắng hôm nay phải là người có một niềm vui thật lớn. Ông gốc người Miền Nam , sanh ở Long Xuyên, 85 tuổi, từng là một người nổi loạn ở Hắc Hải, một người thợ điện cũ của hãng Renault, nay là một ông lão trượng mệt mỏi và gần như điếc, được huân chương Lê Ninh, là một người đã có một quá khứ đấu tranh cách mạng hơn nửa thế kỷ . Vào năm 1927, chính ông là người đã thành công trong việc đánh cướp đầu tiên cho đảng cộng sản Đông Dương trên đường sông khi ông cầm đầu một toán đeo mặt nạ dùng súng lục chận cướp chiếc tàu đò Mỹ Tho. Ông bị bắt và bị kết án tử hình năm 1929, sau đó được ân xá giảm án xuống còn 16 năm tù giam ở Côn dảo trước khi vượt ngục năm 1945 để tiếp tục cuộc đấu tranh, Ông Lê đức Thọ, một thương thuyết gia bền bỉ của Hiệp Định Ba Lê và lý thuyết gia của đảng cộng sản Việt Nam , là một nhân vật được biết nhiều ở Tây phương . Tướng Văn tiến Dũng, người chiến thắng trong cuộc tổng tấn công khắp Miền Nam , là người chỉ huy của tất cả lực lượng vũ trang Bắc Việt từ sau khi tướng Võ nguyên Giáp bị lu mờ (2). Người béo lùn, cương nghị và bí mật, tướng Dũng là một người Bắc Việt chính cống, gốc ở tỉnh Nam Định giàu có. Là một người từng tham gia hết mọi chiến trận, cựu quân ủy trung ương, một người cộng sản trung kiên và một chủ chiến không chối cải được .. ông là một trong những nhân vật lãnh đạo chủ chốt của chế độ Hà Nội . Ông không quá kiêu ngạo và với một trình độ văn hóa kém hẳn ông Võ nguyên Giáp, con người tự học bền bỉ nầy đã chuẩn bị hành động có tính cách quyết định số phận của Miền Nam . Ông là người đã thành lập một sư đoàn đặc công để thi hành một trọng trách là làm tan rã hệ thống tiếp vận của địch quân, và là người đã biết xử dụng hợp đồng binh chủng giữa chiến xa và pháo binh của mình một cách toàn hảo. Sự có mặt của ba nhân vật nầy ở Sài Gòn đã mang lại cho buổi lễ "giải phóng" nầy một biểu tượng rất có ý nghĩa : "ánh sáng nầy đã đến từ Hà Nội" . Dù muốn dù không thì tương lai của quốc gia Việt Nam nầy cũng đã bị cột chặt vào một sự thật rồi : nó sẽ là một quốc gia cộng sản , cách mạng và không thể chia cắt được . Về điểm nầy không còn một chút nghi ngờ gì nữa, theo lời phát biểu sau cùng của ông Lê Duẫn, Tổng bí thư đảng cộng sản Bắc Việt, khi nói tới Việt Nam thì ông đã coi như một Quốc gia thống nhất rồi. Ông nói : "nước Việt Nam tốt đẹp đã trở nên toàn vẹn từ Lạng Sơn đến Cà Mau" ** * Sự mềm dẻo tạm bợ của những người "chủ mới" ở Miền Nam chỉ là một trạm dừng chân trên con đường phải đưa người dân Miền Nam đi những bước đầu của cuộc cách mạng . Chỉ là một sự tạm nghỉ chân có tính cách chiến thuật vì có một nhu cầu phải đặt lại các cơ cấu cải tạo và ghép vào một số cán bộ cần thiết cho dân chúng đang còn cứng đầu khó dạy, quen theo lối sống dễ dãi và khó thuyết phục, khó phục tùng bằng biện pháp quân sự . Thời gian vui chơi đã qua rồi. Các cán bộ chánh trị của Miền Bắc đã hoàn tất mọi công tác chuẩn bị. Cứng rắn, dẻo dai và năng nổ họ đặt dân chúng Sài Gòn vào một mảng lưới, rồi càng ngày càng siết chặt lại. Sài Gòn không còn được gọi là Sài Gòn nữa, mà là "thành-phố-Hồ-chí-Minh" để kỷ niệm người cha đẻ của cách mạng Việt Nam . Đã hết rồi thời điểm của "một nụ cười và một bàn tay thân thiện" . Bây giờ đã đến thời điểm của sự "đe dọa" và của những "bước đi mới". Gọng kềm đột nhiên khép chặt lại, trước hết là trong những khu vòng đai ở Gia Định, Tân Định, Gò vấp... nơi mà các "ủy ban nhân dân" đã được thàh lập xong, và tiếp theo đó lần lượt vào trong thành phố. Từng khu, từng đường, từng ngỏ hẻm, từng nhà một... tất cả đều được thanh lọc. Kiểm tra từng người, ai cũng được gọi lên, được hỏi về cá nhân mình, về gia đình mình, về những người chung quanh mình, và được trưng tập vào một lớp học tập chánh trị .... cũng được gọi là công tác làm sạch đường phố hay là "dọn cho sạch rác rến" Tất cả trường từ tiểu học trung học cho đến đại học đều phải đóng cửa. Tất cả những tổ chức và sinh hoạt văn hóa "phản động, đồi trụy và dơ bẩn của đế quốc và của tay sai Thiệu" đều triệt để bị nghiêm cấm.. Nói trắng ra là tiêu hủy hết mọi phim ảnh, đĩa nhạc ngoại quốc, tất cả những tác phẩm văn hóa thế giới như của Balzac, Dostoiievski, Faulkner, Camus, Gogol đều bị đốt hết lẫn lộn với các tạp chí tình dục loại Play Boy, kể cả các "cuộc phiêu lưu của Tarzan" . Các giáo sư, thầy cô giáo, sinh viên học sinh mỗi ngày phải đến họp từ 9 giờ đến 1 giờ trưa để tập đồng ca những bài hát cách mạng, tập vỗ tay cho ăn nhịp hay tập "đọc" tập "hô" những khẩu hiệu. Nhiều đoàn người mệnh danh là trưởng giả, là tư bản, là trí thức, là cựu công chức đã biết "ăn năn hối cải" bắt đầu đi riễu trên các đường phố với những tấm bảng đeo trước ngực với nội dung đại loại như "Tôi đã phản bội cách mạng", "tôi có bạn người Mỹ", "tôi đã cộng tác với kẻ thù" v.v... Hết khu nầy đến khu khác, nhiều toán người nhỏ thó mặc quân phục xanh lá cây trèo lên bao lơn, hay các cột điện để chăng dây và treo loa, để cho dân chúng nghe ra rã những bản nhạc quân hành ầm ĩ suốt ngày... Trên tường đâu cũng treo đầy hình to lớn của một ông già có chòm râu dưới cằm: hình của Chủ Tịch ************. Nguyện vọng duy nhất của ông là tất cả nhân dân Việt Nam phải tôn thờ ông . Tất cả những sự tuyên truyền đều tập trung vào ông nầy, vào cuộc đời của ông, vào những tác phẩm của ông, vào những bài thơ của ông mà ai cũng phải học nằm lòng . Ông vừa là một Thánh nhân, một vị tiên tri vừa là một vị Thần hộ mạng của cựu thủ đô Miền Nam lúc này đã mang tên của ông. "Di chúc" của ông là một sự chỉ dẫn hoàn hảo, một giáo lý mà tất cả mọi người "Việt Nam thật sự" phải theo.. Nhịp nhàng với hành động tâm lý chiến của các "cán bộ" (ủy viên chánh trị), ảnh hưởng của mấy chú "bộ đội" thuộc quân đội nhân dân Bắc Việt mỗi ngày một nặng nề thêm lên, và càng ngày càng thấy rõ bộ mặt của một quân đội chiếm đóng. Ban ngày thì các đội tuần tra khoảng 20 chú "bộ đội", với nét mặt hùng dũng, căng thẳng, đi cách nhau chừng 5 thước, tay ghì vào cò súng, đi rảo khắp thành phố, canh chừng các ngã tư, hoặc thiết lập các rào cản. Ban đêm thì cả một trung đội đi khắp nơi trên đường phố lúc nào cũng vắng ngắt, vừa đi vừa lắc cắc khua cò súng AK.47 của họ. Thường thì họ phục kich sau các cây trồng dọc đường và bắn lên nhiều tràng súng dài vào các bóng đen thoáng qua, lặng lẽ. Thế nhưng mặc dầu lớn tiếng hăm dọa, với những áp phích, những phim ảnh phải xem, những buổi học tập cải tạo tập thể... người dân Sài Gòn vẫn cứng rắn và tham gia các buổi "sinh hoạt cách mạng" một cách lặng lẽ, hờ hững. Cả ba buổi họp lớn đầu tiên trong tháng 5 (ngày 1, ngày 7 và ngày 15 tháng 5) chỉ qui tụ khoản vài chục ngàn người , không hơn được. Ngày 15 tháng 5, "ngày lễ chiến thắng", trong khi các sư đoàn Bắc Việt rầm rộ diễn hành, các toán cán bộ cổ vũ đặt ờ các ngả tư đường không thành công được trong nhiệm vụ hô hào dân chúng vỗ tay hoan nghênh quân đội chiến thắng Miền Bắc . Chẳng những thế mà còn có rất nhiều khán giả Miền Nam khóc sướt mướt nữa. Chế độ cũ đã phát hàng chục ngàn súng cho dân vệ trẻ trong các khu gia cư. Thủ đô lại có gần trăm ngàn Cảnh Sát được trang bị súng M.16, súng lục 32 và lựu đạn. Phía Bắc Việt đã tự thú nhận là mặc dầu đã treo nhiều giải thưởng cao cho những sự tố giác, nhưng chỉ thu hồi được một số rất ít ỏi vũ khí nầy. Nhiều người dân Sài Gòn còn đi xa hơn nữa là họ từ chối không chịu đầu hàng..Một số tướng lãnh đã tự tử như: tướng Phú, cựu tư lệnh Vùng Cao Nguyên Trung Phần, đã uống nguyên một ống thuốc nivaquine và chết tại bệnh viện Grall; như tướng Nguyễn Vỹ, cựu Tư Lệnh sư đoàn 5 bộ binh , tướng Nguyễn khoa Nam và Tướng Lê văn Hưng, Tư Lệnh và Tư Lệnh Phó Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long; tướng Nguyễn văn Hai, Tư lệnh sư đoàn 7 bộ binh .... Nhiều sĩ quan khác, các nhân vật và các chánh trị gia đã tự kết liễu đời mình bằng thuốc độc hay bằng cách tự bắn vào đầu. Trong số những người nầy có ông Trần chánh Thành, cựu Tổng trưởng Thông Tin , một trong những người đối lập hàng đầu với Tổng Thống Thiệu; tất cả thành viên trong một gia đình công chức cao cấp (sáu người) và cả 3 người giúp việc trong gia đình. Một cựu hạ sĩ quan Dù tự tử ngay giữa chợ bằng cách tháo chốt một trái lựu đạn và nằm lên trên và la lớn lên :"Chúng bây không bao giờ bắt sống được tao đâu..đồ bọn cướp đểu giả !" Trái lựu đạn nổ tan xác anh thành nhiều mảnh, trừ chiếc mũ bê rê đỏ của anh, nhưng không một ai dám nhặt lấy... Một tuần lễ sau khi tượng đài "chiến sĩ VNCH" bị hạ bệ, có một vị cựu binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến của Miền Nam tẩm xăng tự thiêu như những nhà sư trước kia đã làm để phản đối "chế độ thối nát" . Ông ta cháy như ngọn đuốc trong nửa giờ, trước hàng trăm dân chúng Sài Gòn đứng sững sờ nhìn ngọn lửa trên bụng anh làm cháy đen cả hai cánh tay anh. Một giờ sau, đài phát thanh Hà Nội cố làm nhẹ biến cố nầy bằng một bản tin được loan đi, nói rằng: "người tuyệt vọng nầy cầm trên tay một tấm giấy trên đó ông viết "tôi đói lắm" ! (3) Ngày hôm sau phát ngôn viên của Ban Quân Quản lại đưa ra một lời giải thích thứ hai : - "đó là một phật tử chống đối chế độ Thiệu. Anh ta để lại một bức thư nói rằng: cuối cùng đất nước tôi đã được giải phóng khỏi ách độc tài, nhiệm vụ tôi đã hoàn tất và tôi chỉ còn có chết mà thôi." Cả hai luận cứ mâu thuẫn nầy không dối gạt được người nào hết. Người dân Sài Gòn chứng kiến tận mắt cái chết của anh Thủy Quân Lục Chiến có thể sẽ không nói được tại sao anh ta tự tử. Nhưng họ biết rõ nơi anh chết: đó là trên đống ximăng nát vụn của tượng đài hai anh lính Thủy Quân Lục Chiến tượng trưng cho lòng can đảm của người lính chiến VNCH. Tất cả những người chết để khỏi phải kéo lê kiếp sống nô lệ như thế rất xứng đáng được kính trọng.... Các nhà báo đôi khi đưa ra những nhận xét đơn sơ không muốn nói nhiều hay chỉ muốn mua lòng độc giả bằng một câu nói bâng quơ bóng bẩy. Một trong những bạn đó, một người cũng nổi tiếng lắm, được trui rèn trong tài nghệ và cũng có khá nhiều độc giả trên khắp thế giới, đã đưa ra một câu quá bất công và quá tàn nhẫn khi viết về cái chết của tướng Phú : - "Tướng Phú, Tư Lệnh Vùng Cao Nguyên đã từng là một người lính rất tốt ở Diện Biên Phủ, đã không còn tốt nữa khi ông ta nhận bổng lộc của ông Thiệu như những người khác". Nhà báo nầy không có quyền chửi bới, mạt sát hay lên án một người đã chết, nhất là khi anh chưa biết người đó là ai và dĩ nhiên chưa bao giiờ thấy được hành động của người ta trên trận địa. Những ông được xem như là "chúa tể" của Dù ở Điện biên Phủ, tôi muốn nói như Langlais, Bigeard, Bizard, Touret và Botella, can đảm tột bực và không bao giờ biết xúc động,, họ rất quý mến và đánh giá cao ông trung úy nhỏ con tên Phú nầy mà họ coi như là một sĩ quan rất có giá trị trong quân đội Việt Nam . Tướng Phú là bạn của tôi (tác giả). Tôi đã biết ông ta từ lúc 23 tuổi. Lúc nào ông ta cũng đánh trận và đánh giỏi ... trên khắp nước Việt Nam . Trong vùng thối nát như Cao Lãnh, khi ông là Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, cũng như khi ở Lào ông đã chiếm lại Tchépone và trong 2 ngày đã đánh tan một trung đoàn thiện chiến thuộc sư đoàn 312 Bắc Việt chuyên chiến trận ở miền núi. Ở phía Tây thành phố Huế, năm 1972, ông đã giữ vững vùng Bastogne với sư đoàn đầu tiên của ông và làm thất bại sư đoàn 308 được mệnh danh là sư đoàn sắt của quân đội Bắc Việt . Con người ông tướng Phú chỉ còn có một lá phổi, thường hay khạc ra máu và mặc dầu bị các bác sĩ cấm bay 10 năm nay nhưng ông vẫn tiếp tục lên trực thăng mỗi ngày, bay lên mặt trận và đáp xuống tiền tuyến. Tôi thường đi theo ông ta, thường ăn chung và ngủ chung một lều với ông ta. Tôi cũng biết bà tướng Phú, một người nông dân chất phát và 9 người con của ông . Tướng Phú nghèo nhưng được binh sĩ của ông kính trọng. Ông không biết buôn lậu và coi rẻ tiền bạc.Ông chỉ ở ngoài mặt trận, không bao giờ nghĩ đến chánh trị và cũng ít lui tới Dinh Tổng Thống.. Một buổi chiều nọ ở Huế, ông đã buồn bã tâm sự với tôi: "Ở Điện Biên Phủ, thiếu tá Botella mà tôi thương mến như cha tôi vậy, đã có nói là tôi sẽ được tuyên dương với "Bắc Đẩu Bội Tinh". nhưng tôi chưa bao giờ nhận được nó.Tôi đã được tuyên dương 27 lần với tất cả huy chương cao quý nhất của Việt Nam và của Hoa Kỳ . Nhưng tấm huy chương "Đỏ" đó mới là huy chương đẹp nhất thế giới!" Một buổi sáng nào đó năm 1954, tướng Phú là người sĩ quan Việt Nam cuối cùng đã bắt đoàn quân hát bài quốc ca Marseillaise của Pháp trên một trận tuyến ở Đông Dương khi ông dẫn quân xung phong lên chiếm vị trí "Élianne I" ở Điện Biên Phủ . Hai mươi mốt năm sau, mất hết quyền chỉ huy lại bị vu khống và tuyệt vọng, ông đến tìm cái chết trong một bệnh viện của người Pháp, trước các bác sĩ quân y người Pháp, dưới bóng của lá cờ tam tài Pháp.... Để được biết chắc chắn rằng các người bạn cuối cùng, các người bạn chiến đấu của ông khi về Pháp phải được biết rõ là ông ta không hề phản bội lại hai chữ Danh Dự mà họ đã cùng nhau thề thốt trên những ngọn đồi đẫm máu ở Điện Biên Phủ. Thật là kỳ lạ và bi đát thay cho số phận của các tướng lãnh nói trên và của những chánh trị gia Miền Nam hay Cam Bốt được kết hợp với nhau không phân biệt trong chiến dịch bôi nhọ và vu khống, được phổ biến rộng rãi khắp nơi trên thế giới từ bao nhiêu năm qua. Nhất là báo chí Mỹ không ngớt nhắc đi nhắc lại là Phnom Penh và Sài Gòn "đầy rẫy tham nhũng". Đặc biệt tôi nghĩ tới ông Long Boret, Thủ Tướng Cam Bốt và hoàng thân Sirik Matak, nhân vật thứ hai ở Cam Bốt. Lẽ ra họ đã đi được trên một trực thăng Mỹ với ông Đại Sứ Hoa Kỳ khi ông nầy ra đi với một lương tâm thanh thỏa của một công chức cao cấp đã thi hành xong khế ước, còn bình tĩnh ôm theo trong tay lá quốc kỳ Mỹ được xếp cẩn thận, y như trong một kịch bản vậy. Nhưng hai người nầy lại không thèm đi, họ thích ở lại đất nước họ và có chết thì chết trên mảnh đất quê hương của họ, giữa đồng bào của họ còn hơn là đi sống lưu vong trong một đất nước mênh mông xa lạ đã phản bội họ. Họ không phải là những người độc nhất đã chọn "ở lại", vì sau khi cân nhắc kỹ lưỡng rồi họ mới ngả hẳn về cái chết để chứng minh phẩm cách và giá trị của niềm tin của mình. Còn nhiều người nữa, rất nhiều người nữa cả ở Phnom Penh và ở Sài Gòn . người ta còn tiếp tục nói về những người nầy bằng cách gọi họ là "bọn tham nhũng" , mà vào một thời kỳ khác, khi mà Tây Phương bị những nguyên tắc vĩ đại của lịch sử La Mã chi phối, thì người ta phải gọi họ là những "vị anh hùng"! ** * Hơn thế nữa, ở Sài Gòn đâu phải chỉ có những vụ tự tử. Từ ngày 30-4 đến tuần lễ thứ ba của tháng 5, hơn 60 binh sĩ Bắc Việt đã bị ám sát ngay ngoài đường phố. Một tử thi của một đại tá bộ binh Bắc Việt mình đầy vết dao được khám phá ra ở trong hẻm rạp chiếu bóng Eden , trước mặt khách sạn Continental. Ba sĩ quan Bắc Việt khác đã bị hạ sát "rất lặng lẻ" gần sở Ba Son.. Chánh quyền xác nhận can phạm là "du đảng" và "kẻ trộm" . Để làm gương họ đem ra xử bắn công khai một số "can phạm" trước mặt gia đình họ và hàng ngàn khán giả. Ngày 24 tháng 5, lúc 7 giờ sáng, 80 người ngoại quốc rời Miền Nam Việt Nam trên một chiếc phi cơ 4 máy, Illouchine 18 sơn xanh trắng của Liên Xô. Đó là những phóng viên nhiếp ảnh , những nhà báo từ khắp nơi trên thế giới đã đến Sài Gòn và bị kẹt lại sau khi thủ đô bị Bắc Việt chiếm cứ. Trong số nầy có gần 50 nhà báo Pháp và một tướng lãnh Pháp đã về hưu bị trục xuất khỏi Việt Nam vì lý do "hai bàn tay của ông đã dính đầy máu của nhân dân Việt Nam " !(4) Trước khi được đi, các nhà báo nầy đã bị quá nhiều phiền nhiễu về hành chánh mới được tờ chiếu khán xuất cảnh, sau đó phải nằm chờ đợi được ghi tên vào một chuyến bay kéo dài ngày nầy qua ngày khác...Trước khi lên phi cơ, tất cả đều phải qua một cuộc khám xét, một cuộc khám xét thật tỷ mỉ, thật lâu và rất là lạnh lùng. Các anh "bộ đội" nhờ một nữ tiếp viên hàng không quân sự làm thông dịch viên, đã bóc hết hành lý của họ. Có nhiều xấp thơ và phim ảnh bị tịch thu. Sau đó họ được đưa đến Vạn Tượng (Lào) và phải trả 120 đô la bằng tiền Mỹ hẳn hòi (gấp đôi giá bình thường) và được một chú "bộ đội" đội nón cối và các phi công Việt Nam đeo súng lục hộ tống . Xuyên qua cửa kính, các nhà báo nhìn Tân sơn Nhứt lần cuối . Hình ảnh sau cùng mà họ cố mang theo từ Việt Nam là cảnh tượng của một phi trường bị tàn phá: nhà kho sập, phi cơ nằm phơi bụng, chiến xa bị cháy đen...Trong số những anh gan lỳ và đầy tình huynh đệ đi về Pháp chuyến nầy, vắng mặt một anh bạn hạng nặng: đó là anh Michel Laurent, bị một tràng liên thinh tự động bắn hạ trong trận chiến ở Hố Nai. Anh là một nhà báo cuối cùng chết ở Đông Dương.. Chúng tôi vẫn còn hy vọng đến giây phút cuối cùng là anh sẽ còn sống để trở về. Nhưng bây giờ thì hết mong rồi. Chúng tôi không còn thấy bóng dáng mảnh khảnh, trẻ trung mãi của anh nữa, cũng như gương mặt thiên thần với mớ tóc lòa xòa và một điếu xì gà cắn chặt ở môi. Anh công tử có vẻ uể oải nhưng không lo lắng gì cả nầy thuộc nòi nhà nghề sáng giá.Có cả thảy 52 nhà báo đã chết ở Việt Nam từ năm 1945. 26 anh khác đã coi như mất tích ở Cam Bốt. Phần đông là các nhiếp ảnh viên, những tinh hoa trong nghề.. Họ không tường thuật về chiến tranh, mà họ chuyển chiến trận thành hình ảnh, gay cấn, tàn bạo và lâm ly thống thiết. Những hình ảnh nầy các nhiếp ảnh viên thường thu nhặt trong tư thế đứng, giữa những người sắp chết mà họ thường chứng kiến được cử chỉ và cái nhìn lần cuối cùng của họ. Cho tới khi Thần chết tức giận vì bị người ta thu hình quá gần, nên đã bắt họ chết luôn vì đã đến lượt của họ rồi.... Và đùng một cái những người còn sống sót mới khám phá ra là luôn luôn những anh bị tử thương y như rằng là những người rất giỏi trong nghề,. Người đầu tiên mà tôi thấy chết vào ngày 28 tháng chạp năm 1946 là một anh người Bỉ ốm yếu mà tôi quá xấu hổ vì không nhớ được tên, làm việc cho một thông tấn xã Hoa Kỳ . Anh đến từ Nam Dương, một quốc gia chán chê vì chiến trận, nhưng những trận đánh trong đường phố tuy lẻ tẻ nhưng hung dữ đến dã man trong thành phố Hà Nội đã kích thích anh, như một cuộc đi săn kích thích con chó săn còn tơ vậy. Anh đội một nón sắt quá rộng, đeo choàng chiếc máy ảnh Rolleiflex và một cây súng lục Webley to tướng ở ngang lưng. Anh ta rất là can đảm, can đảm hết nói ! Anh ta chạy trên các mái nhà để đi tìm những anh chàng bắn sẻ. Một anh Việt Minh bắn tỉa phục kích đâu đó đã cho anh một phát vào giữa mặt và anh té lộn nhào rớt xuống đất từ trên cao 10 thước.. Sau đó thì có anh chàng Kowal mà chúng tôi gọi là "siêu thiên thần", một anh lực sĩ tóc vàng hoe, một con người yếu bóng vía và khắc khổ với một máy thu hình cộm lên đầy lịch sử hào hùng.. Ba mươi tám tháng đi toàn những trận ác liệt gần hết miền Thượng Du Bắc Việt ... rồi một tràng liên thanh ngắn một buổi sáng nào đó của tháng 2 năm 1952 đã kết liễu đời anh. Lúc đó anh mới vừa 27 tuổi. Tôi cũng biết anh Péraud, to con, mập mạp, vai rộng, người rất mạnh khỏe, đã từng thoát khỏi trại tù Đức quốc xã, đã từng chứng kiến những trận đánh xáp lá cà ở Na Sản và Điện Biên Phủ... đã bị xem là mất tích trong chiến khu cộng sản sau một cố gắng vượt ngục và không bao giờ được gập lại nữa. Anh Martinoff, bị đạp phải một trái mìn... Anh Bob Capa lúc nào cũng có một điếu thuốc tàn trên miệng , là một trong những người nhiếp ảnh viên nổi tiếng và đắt giá nhứt trên thế giới, già dặn trrong gần 20 chiến dịch mà bị chết như một người mới bước vào nghề ngày 25 tháng 5 năm 1954 trên một con đê nhỏ ngoài ruộng, chỉ cách đồn Đội Tân vài cây số, ở Đồng Bằng Bắc Việt . Còn nhiều người khác , rất nhiều người khác nữa...: như các anh Burrows, Huet, Shimimoto, Flynn, Arpin... và cuối cùng là anh Michel Laurent, mình đầy đạn trong một làng công giáo di cư không đầy ba ngày trước khi Sài Gòn bị thất thủ. Từ anh nhà báo nhỏ con người Bỉ đội nón sắt quá rộng bị bắn chết ở thủ đô Hà Nội đến anh Michel Laurent bị giết vì quá gan dạ gần một nhà thờ có treo cờ của Tòa Thánh Vatican, nơi mà các thanh niên tự vệ kháng cự đến viên đạn cuối cùng... . coi như cuộc chiến ở Đông Dương đã qua rồi..... Khi đã trở về đến nước Pháp, các anh nhà báo bị kẹt lại gần ba tuần lễ ở Sài Gòn , cựu thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, đã viết lại và phổ biến tất cả những gì mà họ đã thấy và đã nghe: Bộ máy của chế độ Hà Nội đã được áp đặt. Cảnh khốn cùng của dân chúng Sài Gòn . Có các cô gái đã đề nghị trao hết gia tài sự nghiệp để chỉ được cưới và cùng đi ra ngoại quốc. Trẻ em thì van xin cho được làm con nuôi, dù là giả định. Lại còn dịch tự tử nữa. Rồi có tin đồn là có nhiều sự nổi dây ở các tỉnh, hay thành lập "chiến khu" ở Miền Nam ... Khi tất cả các nhà báo đã bị đưa đi hết rồi....thì một cái lồng sắt chụp ngay xuống Miền Nam Việt Nam . Muốn có được tin tức, người ta không còn có cách nào khác hơn là phải nghe những bản tin chánh thức được loan đi sau khi người ta đã kiểm duyệt cẩn thận. Phải đợi cho có người đi du lịch trong thời gian sắp tới.. Rồi phối kiểm lại tin tức. Rồi phỏng vấn liên tục những người ngoại quốc, những linh mục hay một vài công chức Pháp khi họ hồi hương. Hay những người Hoa Kiều theo đường giây buôn lậu hay theo các tàu đánh cá đến được Thái Lan..(họ phải trả trên 30 lượng vàng để được đưa đi ) Từ từ các tin tức đó giúp hé mở được bức màn tre đang bao chặt nước Việt Nam , và nhờ vào những chứng cớ và những chi tiết sống, người ta mới có thể thiết lập lại được cả một mảng biến cố đã xảy ra trên đất nước nầy. Đầu tháng 5, các sĩ quan, Cảnh Sát , công chức, thành viên trong các đảng phái chánh trị , các kỹ thuật gia, nhân viên trong nghiệp đoàn của Miền Nam ... đều nhận được lệnh phải tự kiểm kê. Người ta ấn định cho họ một thời hạn, từng loại một phải đi trình diện với chánh quyền . Phần đông các sĩ quan và Cảnh Sát khi đến trình diện không bị điều tra hỏi han gì hết như họ đã nghĩ. Mà người ta chỉ ghi tên tuổi rồi họ được tự do về nhà. Một thống kê đầu tiên vào cuối tháng 5 cho thấy là khoản 25 trên 100 cán bộ của quân đội và của Cảnh Sát là có làm thủ tục khai báo. Một buổi sáng sớm nào đó, vì chánh quyền đã nắm được địa chỉ và căn cước của từng người nên số người nầy bị bắt hết , cho lên xe vận tải và đưa đi đên một nơi nào không biết. Nhiều bản thông cáo được dán khắp nơi "ra lệnh cho "tất cả các anh phản động" chưa trình diện phải đến trình diện ngay "nếu không sẽ bị nghiêm trị". Đồng thời lại có nhiều áp phích khác cảnh cáo tất cả dân chúng trong thành phố "không được chứa chấp người nào trong nhà mà không khai báo cho công an biết" Các giáo sư, các thầy cô giáo, các hiệu trưởng và viện trưởng của tất cả các trường trung tiểu học và đại học ở Sài Gòn, tất cả đều bị gọi đến "làm việc" với các ủy viên "đại biểu đại học", ăn mặc như các "bộ đội", quân phục xanh lá cây, mang dép râu và đội nón cối. Các ông đại biểu nầy lạnh lùng thông báo với họ là: - "Chương trình và chu kỳ học vấn sẽ được thay đổi chiếu theo nhu cầu thật sự của đất nước. Kỷ luật sẽ được áp dụng triệt để. Nhưng tất cả các sách giáo khoa cũ đều bị loại. Sẽ có những sách khác đang in sẽ được tàu chở đến từ Hà Nội. Ít nhất cũng phải từ ba đên 4 tháng nữa mới có đủ số lượng sách cần thiết trong kho.Và tất cả trường đều phải đóng cửa. Về đại học, Luật Khoa và Văn Khoa sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn. Vì hai khoa nầy không có ích lợi gì cho xã hội hết, chỉ đào tạo những người "mơ mộng" và những "ký sinh trùng". Thay vào đó sẽ có một trường thông dịch, dạy bốn ngoại ngữ : Nga, Tàu, Anh và Đức ngữ. Tiếng Pháp sẽ không bao giờ được dùng tới nữa. nên không cần phải có thêm người biết tiếng Pháp. Các ông giáo sư thuộc Văn khoa và Luật khoa phải tự chuyễn ngành trong kỷ luật xây dựng thì hơn." Tất cả các giáo chức đều phải trút bỏ hết "quần áo trưởng giã", không phải thắt cà vạt, không phải mặc áo vét nữa, và cũng không được mang giầy "kiểu cọ" nữa (nguyên tác : "fantaisie" trong dấu kép) Sẽ có nhiều giáo sư từ Hà Nội đến để điều khiển các lớp về chuyễn hướng giáo dục và lớp cải tạo.. Đầu tháng 6: các sĩ quan cao cấp "dù đã về hưu", các công chức cao cấp và các chánh trị gia, các dân biểu, nghị sĩ,, các tổng bộ trưởng đều được gọi đi học một khóa "học tập cải tạo". Thời gian học tập là 10 ngày. Khi đi phải mang theo "chăn màn, áo ấm, áo mưa, một chiếc chiếu, 3 ram giấy và viết để ghi chú. và phải đem theo 15.000 đồng để đóng tiền ăn." . Trong suốt thời gian học tập cải tạo, không ai được phép về nhà, hoặc liên lạc với gia đình. Đối với các công chức hàng thấp, các hạ sĩ quan và binh sĩ, chương trình học tập cải tạo được dạy trong 3 ngày. Công chức sau đó được trở về nhiệm sở cũ, các quân nhân sau khi học tập thì được phát cho một giấy chứng nhận cho phép họ đi tìm việc làm, và được đặt dưới quyền kiểm soát của các trưởng khóm đã được thành lập trong mỗi khu.. Một bản báo cáo sau đó được chuyển cho trưởng "công an khu vực", nơi người binh sĩ được kiểm kê. Về sau nầy, anh trưởng công an đó sẽ phát cho người quân nhân đó một giấy "phục hồi quyền công dân" nếu xét thấy người đó có hạnh kiểm tốt. Trong hiện tại thì tất cả cựu quân nhân đều được coi như "kẻ có tội" vì "các cây súng của Mỹ mà các anh đã có trong tay, không phải tự nhiên mà nó đến tay các anh." đó là lời nói của các ủy viên chánh trị phụ trách lớp hoc tập cải tạo đã nói với họ như vậy. Trong khi chờ đợi được phục hồi quyền công dân thì các cựu quân nhân phải chịu đói meo, vì tờ giấy cho phép đi tìm việc làm không giúp ích gì được cho họ cả. Vì trên thực tế không một người nào được quyền thuê mướn người chưa có quyền công dân. Sau đợt các chánh trị gia và các quân nhân thì đến lượt các thợ thuyền và các chú cai thợ. Lớp học tập cải tạo cho các chuyên viên ở nhà máy điện được mở ra ở Dalat vào tháng 6, đã xảy ra nhiều vụ rắc rối và nhiều phản đối. Bị bắt buộc phải mang theo 15.000 đồng (ba phần tư số lương trong tháng của họ), sống xa vợ xa con, họ đã phản đối tập thể để yêu cầu Chánh Phủ phải bảo đảm đời sống của gia đình họ vì thiếu thốn và không có ai lo. Họ đe dọa là sẽ không làm việc trở lại nếu Chánh Phủ từ chối yêu sách nầy.Vì chánh quyền cần phải có sự làm việc của họ nên đã chấp thuận một phụ cấp cho gia đình họ. Lúc mãn khóa học tập cải tạo, các ủy viên chánh trị đã cố xác nhận với họ là "thời gian học tập cải tạo được kéo dài trong 6 tuần lể mỗi năm". Trong suốt thời gian học tập không thấy có một lời nào ám chỉ đến cái CPLTCHMN. Chỉ có hai đề tài duy nhất được khai triển: - Nước Việt Nam từ đây sẽ là một quốc gia duy nhất, độc lập và xã hội chủ nghĩa , gắn liền với di chúc của Bác Hồ (nguyên tác :oncle Hô) từ cửa Trung Quốc (nguyên tác :porte de Chine) ở Lạng Sơn đến mũi Cà Mau. - "ngụy quyền bù nhìn" - có nghĩa là những kiểu suy luận, những lối sống thừa hưởng tử chế độ cũ và của đế quốc Mỹ- là một "căn bệnh" mà đất nước phải loại bỏ. Phương thuốc duy nhất được coi là hữu hiệu là cải tạo. Lần lần bộ máy nặng nề và tỉ mỉ để nghiền nát các bộ não đã được đặt xong.. và đã chạy đều.. vì nó đã chứng minh được ở Miền Bắc rồi, ở đó nó đã được điều hành từ hơn 20 năm qua.. Công tác đóng khung dân chúng được tiến hành rất có phương pháp. - Giai đoạn thứ nhất: áp dụng kỹ thuật công an cảnh sát mềm dẻo nhưng quyết liệt. Mỗi công dân phải điền hai văn bản in sẳn. Một số câu hỏi chánh thức: lý lịch, trình độ học vấn, nơi cư trú trong những năm chiến tranh, việc làm. Một số câu hỏi riêng tư liên quan đến tất cả những người từ 18 đến 70 tuổi, đòi hỏi phải kê khai "tên của những người bạn tốt nhất của mình, hay tên của những người mà mình chịu ảnh hưởng"; Và những tên, địa chỉ của "những mối giao lưu tình cảm cũ" . Công tác kiểm kê tất cả dân chúng ở Sài Gòn được tiến hành từng khóm một, từ khóm nầy sang khóm khác... Khi đã kiểm kê xong, người nào muốn thay đổi địa chỉ thì phải xin phép cơ quan chánh quyền khu vực mình đang ở và phải có sự chấp thuận của cơ quan chánh quyền nơi mình muốn tới ở. Mỗi người xin như vậy phải có 2 nhân chứng chịu trách nhiệm về lời khai không gian dối. - Giai đoạn thứ hai: kỹ thuật gia nhập vào tập thể và đề nghị một lý thuyết mới. Nghi lễ thật chu đáo đúng mức. Một Đức Chúa nhân từ :Bác Hồ; Một lý thuyết: Mácxít; Các linh mục đọc thánh kinh: các ủy viên chánh trị thánh ca: các bài hát cách mạng ; Các lời cầu nguyện :các khẩu hiệu ; Các đám rước lễ: các cuộc diễn hành, các cờ hiệu và biểu ngữ , thợ thuyền, sinh viên, các "bà nội trợ và trẻ con" ; Các cuộc "xưng tội" : công khai. Hình của ************ được treo dán khắp mọi nơi, trên tường, trong các nhà máy, trong thành lính và cho tới các phòng khách của các cộng đồng tôn giáo. Có lệnh cho tất cả dân chúng phải treo trước nhà lá cờ đỏ sao vàng của Cộng Hòa Miền Bắc Việt Nam (nguyên tác : Républic du Nord Việt Nam ) bên cạnh lá cờ của CPLTCHMN. vấn đề thi hành cũng phải lâu. Mua một lá cờ thứ hai đối với nhiều người là một sự tốn kém không nhỏ. Những người nghèo phải cắt xén vải và làm những lá cờ nhỏ hơn. Chánh quyền coi đó là một ác ý. Tức thời có những chỉ dẫn đã phổ biến về cách treo "cho đúng" hai "lá cờ anh em" với kích thước phải bằng nhau. Các sinh viên rảnh rang từ khi nhà trường bị đóng cửa, đã được thành lập thành "tiểu đoàn" và tham gia vào công tác làm sạch sẽ thành phố.. Các học trò thì tham gia vào sinh hoạt cách mạng ở khu vực với những em từ 8 tuổi. Các "liên đoàn thanh niên giải phóng" đón nhận gái trai từ 10 tới 15 tuổi. Mỗi ngày tờ nhật báo chánh thức "Sài Gòn Giải Phóng" đưa ra những công tác của vài đại hội, của các văn sĩ, của các nhà văn tiểu luận hay nghệ sĩ "giải phóng" và đăng những kiến nghị của họ: những lời khen tán tụng cách mạng , những bài hát nhớ ơn bác Hồ và Đảng Lao Động đã dẫn dắt nhân dân đến chiến thắng. "... Phải chăng những người cộng sản Bắc Việt thật sự hy vọng rằng bằng cách áp dụng những phương thức mà họ đã dùng ở Hà Nội vào năm 1954 thì họ có thể tẩy não được dân chúng ở Miền Nam ? Đầu tiên nhìn vào, thì hình như khó tin được . Hà Nội là một thành phố được ngăn ra từng khu vực thợ thuyền, công chức, và các công nhân tiểu công nghệ.. Đồng bằng sông Hồng thì rất hẹp và có quá nhiều dân. Dân quê Miền Bắc còn dùng những chiếc cày tay cổ lỗ mà họ đẩy được . Chiến tranh chống Pháp đã đẩy họ lên rừng hay vào những làng mạc thu hẹp trong lũy tre xanh. Chiến tranh với người Mỹ lại đưa họ thụt lùi lại trong thời quá khứ bằng những cuộc dội bom dày đặc, bắt họ phải sống trong hang hoặc sống chui xuống đất trốn ở dưới hầm . Cầu đường bị phá, nhà ga, nhà máy, phi trường đâu đâu cũng ăn bom làm cho dân chúng gần như trở về thời kỳ đồ đá. Họ đã quen sống cách ly hẳn với thế giới bên ngoài, không có một tờ báo nào gọi là đối lập, không xa hoa không có yếu tố nào để mà biết so sánh, sống đoàn kết với nhau vì cảnh bất hạnh. họ không thể tranh cãi dễ dàng với sự tuyên truyền nhồi nhét quá sơ đẳng và tập thể của các cán bộ.. Trong khi Sài Gòn là một thành phố của thương gia, của các chủ tiệm chủ quán, của những nhà trí thức và những chuyên viên. Đồng bằng sông Cửu Long rộng mênh mông, giàu có, mầu mỡ, mở cửa hằng mấy thế kỷ nay ra biển cả, với hàng hải, với thương thuyềm, với ngoại quốc. Làng mạc ở đây trải rộng ra dưới những hàng dừa, hàng cọ, và dọc theo sông rạch đầy phù sa phì nhiêu, và là nơi dự trữ dồi dào và vô tận cho nghề đánh cá. Cuộc chiến tranh chống Pháp đã bảo vệ cho Miền Nam . Cuộc chiến chống Mỹ dù có một số điều quá mức, nhưng đã hiện đại hóa Miền Nam với một số trang thiết bị đến dư thừa. Trong suốt thời gian 20 năm, mặc dầu có mất ít nhiều trật tự, có chiến trận, có những chuyện ám sát, kinh tế khủng khoảng thường xuyên, và nhờ những chuyện đó mà dân chúng Miền Nam đã có lối sống của người Tây Phương hoàn toàn. Họ khám phá ra được máy móc, mô tô, xe hơi, phi cơ, trực thăng, điện thoại.... máy tính, trăn-zi-to và truyền hình; máy cày đã thay thế chiếc cày tay, xe vận tải, thuyền máy đã thay thế chiếc tam bản. Họ biết thưởng thức phim ảnh và các sách ngoại quốc, thích nhạc jazz, và biết xài các vật dụng mới lạ, tối tân. Bất cứ anh phu xe xích lô nào cũng đọc 2 tờ báo hằng ngày... Như vậy thì làm sao tưởng tượng được là dân chúng Miền Nam có thể buông xuôi chịu bước theo hướng đi nhỏ hẹp duy nhất và một chiều mà Miền Bắc cố tình muốn áp đặt cho họ ? Hà Nội muốn thống nhất đất nước và đưa nước Việt Nam vào con đường cộng sản dưới bàn tay sắt náu của họ. Hà Nội có 3 yếu tố trong tay: sức mạnh, một ý chí chánh trị không lay chuyển , và một lý thuyết mạnh. Nhưng những trở ngại cũng không phải ít. Đưa ra một phương thức để mang ra thực hành, như thế cũng chưa đủ. Xác nhận một sự thật để biến nó trở thành một chuyện hiển nhiên, như thế cũng chưa đủ. Đề nghị thống nhất hai Miền của Hà Nội là một sự thống nhất trái với thiên nhiên đe dọa gây xáo trộn đời sống của người dân. Miền Bắc và Miền Nam có thể là 2 Miền anh em, nhưng đó là anh em thù địch. Họ đã từng đánh nhau trong suốt 300 năm trước khi người Pháp đặt chân lên Đông Dương. Cuộc giết chóc trong 30 năm vừa qua chỉ có làm tăng thêm sự rạn nứt trong quá khứ. Mỗi bên đều có ít nhất cả triệu người bị giết và gần 2 triệu bị tàn phế. Hàng trăm ngàn trẻ mất cha ...mất mẹ. Hằng triệu triệu người tản cư bị vứt ra ngoài đường. Nhiều thành phố bị tàn phá đến điêu tàn, nhiều làng mạc bị đốt cháy.... Vĩ tuyến 17 chỉ là một gạch ngang trên bản đồ năm 1954, được các thương thuyết gia hấp tấp gạch lên một cách vội vàng vì muốn chấm dứt cho xong. .Một đường phi quân sự trừu tượng và hão huyền.. Hai chục năm chiến trận khốc liệt đã biến nó thành một giới tuyến đầy máu. Hòa giải cách nào đây ? để cho có được sự kết hợp giữa hai Miền, giữa hai loại xã hội với hai trình độ khác nhau, hai nền kinh tế khác nhau, hai tâm tính và tâm trạng khác nhau ? Giữa một Miền Bắc với lý thuyết cộng sản khắc khổ và quá cứng đơ vì nguyên tắc, với một Miền Nam quá tự do như vô chánh phủ, hoài nghi và thích hưởng thụ ? Giữa một bên thì đang tự kiêu vì là kẻ chiến thắng, và một bên thì đang nhục nhã vì là kẻ chiến bại và mất nước ? Các nhà phân tách đã đơn giản hóa những bài toán nầy thành một sở đồ và nói rằng những người Bắc Việt với đầu óc cứng rắn và với kỷ luật sắt của họ, sẽ đạp nhẹp Miền Nam . Tôi không tin ở sơ đồ. Con người không phải là những con số để người ta đưa vào phương trình. Miền Nam không phải nguyên một khối và hay cố chấp. Họ có niềm tin của họ và những tín ngưỡng riêng của họ. Họ không để mất đi một cách dễ dàng đâu. Các Phật Tử, các Tín đồ Công Giáo, Phật Giáo Hòa Hảo, và Cao Đài Giáo đều một lòng gắn bó với các chùa chiền, với các nhà thờ và với các thánh thất của họ. Miền Bắc có thể đi tới đích mà họ muốn, nhưng còn phải mất nhiều thời gian... và thời gian đôi khi rất thuận lợi cho kẻ chiến bại.... Chú Thích: (1) Chỉ vài tuần lễ sau đó, tướng Minh được bí mật chuyển ra Hà Nội bằng phi cơ. Ở đó ông được các nhân vật lãnh đạo cộng sản trong Chánh Trị Bộ thẩm vấn trong suốt 10 ngày về " tiến trình mưu toan với thực dân Pháp để cướp chánh quyền chống lại quyền lợi của cách mạng " . Khi được đưa trở lại Sài Gòn tướng Minh bị "quản chế tại gia", mỗi ngày có một cán bộ của đảng cộng sản đến nhà để "cải tạo" ông" (2) tướng Võ nguyên Giáp bị mắc một chứng bịnh nan y (không chữa được) và phải nằm ở một bệnh viện bên Mạc tư Khoa một thời gian dài. (3) )(lời bàn của dịch giả: mảnh giấy nầy không cháy mà vẫn còn nằm trong tay người tự thiêu để cho Ban Quân Quản lấy được thì đó là cả một "phép lạ" của xã hội chủ nghĩa !) (4) đó là đại tướng Vanuxem . |
|
IP Logged | |
Hoàng Dũng
Senior Member Tham gia ngày: 08/Nov/2008 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 592 |
Gởi ngày: 21/Dec/2008 lúc 10:39pm |
Chương 25CHƯƠNG HAI MƯƠI LĂM SỰ HIỆN DIỆN CỦA NGƯỜI PHÁP ? Rồi đây số phận của cộng đồng người Pháp ở Miền Nam Việt Nam sẽ ra sao đây ? Những người "bi quan" trong đó có tôi (tác giả) nghĩ rằng tất cả rồi sẽ giống như những gì đã từng xảy ra ở Bắc Việt năm 1954. Nghĩa là cũng phải tới kỳ hạn mà cục "bướu" ngoại quốc cuối cùng nầy cũng phải bị trục xuất. Những người "lạc quan" thì vẫn còn tin rằng rồi cũng có khả năng cho một giải pháp thỏa hiệp nào đó. Các sự việc xảy ra đã chấm dứt ngay cuộc tranh luận nầy. Những người Pháp từng được mến mộ vào những ngày trước khi Sài Gòn bị thất thủ, không có một chút quyền lợi đặc biệt nào sau khi Bắc Việt chiếm được thành phố. Còn trái ngược hẳn lại là khác!Những người đầu tiên biết rõ được như vậy là những nhà báo đã bị kẹt lại Sài Gòn . Họ không bị ngạc nhiên gì cả khi nhận thấy là họ được xếp sau hẳn, sau thật xa các đồng nghiệp người Anh và người Nhật ... và cả người Mỹ, trên danh sách những người được ra đi. Người Pháp được xếp vào loại "những người có quốc tịch khác", gần như họ là nạn nhân của những nỗ lực sau cùng của Chánh Phủ Pháp nhằm tìm một giải pháp chánh trị cho Miền Nam Việt Nam . Nhưng chỉ có khoảng 50 nhà báo thôi..., và họ đeo theo chánh quyền mới với sự tò mò liên tục, với nỗi lo âu muốn biết thêm tin tức, và vì sự hoài nghi của họ. Một chiếc phi cơ thôi cũng đủ để dẹp gọn họ rồi. Khi họ đi rồi thì còn khoản 12.000 người Pháp ở lại Việt Nam . Trong số đó có chừng 2.500 là người Pháp chánh gốc (cộng tác ở đây, thương gia, nhà trồng tỉa, về hưu, nhân công các hãng xưởng Pháp..), trên lý thuyết là những người có thể tùy hoàn cảnh hoặc sẽ rời khỏi đây sau khi quan hệ bình thường được tái lập, hoặc sẽ ở lại nếu xí nghiệp của họ được phép tái hoạt động. Thật ra lý thuyết và thực hành không đi đôi với nhau được : nhiều lắm là vài trăm người trong số nầy có thể ra đi. Những đường liên lạc hàng không thật là rất bất thường và rất kỳ lạ. Đều đặn thường có thông cáo dán trên một tấm bản đen trước cửa Bộ Ngoại Giao cũ hay trước sở Di trú. Hôm đầu tuần, một ủy viên chánh trị nào đó đã lấy phấn viết lên tấm bản đen đó rất rõ ràng như sau: " Sắp tới sẽ có chyến bay đi Vạn Tượng... Ngày , giờ khởi hành sẽ được thông báo đúng lúc." Thấy vậy các anh đã có hộ chiếu đều lo sửa soạn va li, nhảy lên tắc xi và chạy thẳng ra sân bay Tân sơn Nhứt . Binh sĩ giữ an ninh ở đó đẩy họ ra. Không có một chuyến bay nào được dự trù. Họ lại trở về thành phố. Lại chờ đợi... Vào cuối tuần một anh lính gác bôi bỏ thông cáo nói trên, và sáng thứ hai, lại cũng anh ủy viên chánh trị đó, lại viết lên bản đen những giòng thông báo cũ với một vẻ nghiêm trọng không kém tuần trước .... cho đến khi cuối cùng có một chuyến bay cất cánh. Chuyện nầy có nhiều lý do không giống nhau. Các chuyến bay con thoi của Lào đã ngừng bay vì chánh quyền cộng sản ở Sài Gòn lúc bán vé thì thu vào đồng đô la Mỹ, mà muốn trả cho hãng Hàng Không Lào bằng tiền đồng của Việt Nam, một loại tiền tệ gần như chỉ có một giá trị nào đó ở Sài Gòn mà thôi. Ngoài ra các chuyên viên của Miền Nam Việt Nam (truyền tin, ra đa, điện tử, kỹ sư thông tin liên lạc v.v..) đều đã ra đi với người Mỹ và chánh quyền cộng sản không có lấy một người để thay thế vào đó. Có một số trở ngại khác, một phần dụng cụ của Hàng Không Pháp (Air France) tối cần thiết cho công tác điều hành khi phi cơ đến và đi (máy điện toán, máy truyền tin, tổng đài điện thoại, kho dụng cụ thay thế, xe đẩy và kéo phi cơ, xe nâng hàng và tiếp tế xăng nhớt v.v..) đã mất hết không còn một dấu vết nào cả. Kho hàng gởi đi gồm cả 8 tấn hàng quý giá ( trong đó có 3 tấn ngọc thạch quý của một người buôn đồ cổ giàu có) đã không cánh mà bay mất. Không biết người nào đã cướp sạch. Ban Giám Đốc Hàng Không "Air France " của Pháp ở Ba Lê đã dề nghị với chánh quyền cộng sản để cho họ đưa sang những toán chuyên viên và một số dụng cụ thay thế. Họ nghĩ rằng như thế là họ có thể tái tục được các chuyến bay vào tuần lễ đầu của tháng 7. Ban Quân Quản Sài Gòn đã không nói là "không", mà cho biết nhận xét của cách mạng là hãng Hàng Không "Air France" của Pháp trong nhiều năm qua đã không tỏ thiện chí trong việc tái thiết lập lại đường bay giữa Ba Lê và Hà Nội.. Ngoài sự nguy hiểm mà đường bay nói trên được mở lại trong lúc Hoa Kỳ đang dội bom Bắc Việt , đường bay nầy cũng không có lời. Dù muốn dù không thì cả 3 hãng Hàng Không "Air France" và U.T.A của Pháp đã không có một hoạt động nào từ khi Sài Gòn bị cộng sản chiếm cứ. Mà dường như là họ không thể tìm lại một đường bay nào cả. Hàng Không Dân sự được Hà Nội trực tiếp quản lý. Mặc dầu đã cố nài nỉ nhiều lần, đại diện của hãng "Air France" cũng không được phép đến phi trường để xem xét các cơ sở của hãng để thiết lập một bản kiểm kê chính xác về các phương tiện và vật dụng đã bị bị mất hết. Và như thế là việc tái lập các đường bay đến Sài Gòn coi như bị đình hoãn vô hạn định. Chỉ có một chuyến bay duy nhất là phi cơ của Liên Hiệp Quốc. Như thế thì những người Pháp nào được bảo đảm là có quyền ra đi.. trong một thời hạn nào đó, thì chỉ có kiên nhẫn nằm chờ. Vả lại, những người Pháp bất cứ gốc gác thế nào, người Pháp chính cống hay là người có quốc tịch Pháp cũng vậy, đều không chờ đợi được gì ờ Lãnh Sự Quán hay Đại Sứ Quán của mình. Đại sứ Pháp, ông M. Mérillon không còn thấy ở đâu nữa cả, và ông cũng không có tiếp ai hết. Tòa đại sứ Pháp có đầy đủ tiền bạc, lương thực, nước uống .. không thiếu món chi, nên đã đóng kín cửa rào. Và Đại sứ, mà bổn phận đầu tiên lẽ ra là phải đi thăm những người Pháp vốn đang ở trong cảnh khốn quẫn, để an ủi họ, để cho họ yên tâm, vững lòng, để giúp họ vượt qua được tình thế hay giải quyết những bài toán khó khăn mà họ đang gặp phải, để bênh vực quyền lợi của người Pháp đối với chánh quyền mới.. nhưng ông không bao giờ bước ra khỏi nhà. Ông ta chỉ có khuyên người Pháp không nên treo cờ Pháp quá nhiều , vì theo ông, dù là chỉ treo tạm nhưng sự kiện treo quá nhiều cờ tam tài có thể được coi là một sự "khêu khích". Thế nhưng, người Pháp đã gặp rất nhiều khó khăn... Những người có biệt thự với đầy đủ tiện nghi hoặc nhà thường thôi mà ở khu vực ngoại ô.. thì cũng bị đuổi đi hết. Lý do : không bảo đảm được an ninh đầy đủ. Tất cả các ngân hàng đều bị đóng cửa, các chương mục bị khóa lại hết, các xí nghiệp phải ngưng hoạt động, các đồn điền cao su và cơ sở kỹ nghệ của họ đều không xử dụng được vì đã bị hư hại nặng nề, các bãi đậu xe bị "trưng dụng".. Ai cũng thiếu tiền. Các công chức chưa được lãnh lương từ ngày 1 tháng 5, chỉ được nhận một số tiền ứng trước nào đó thôi của lương mình. Các ông chủ xí nghiệp nhỏ , dù đã ngưng hết mọi hoạt động từ ngày có biến cố cộng sản , vẫn phải tiếp tục trả lương cho nhân viên dù họ không làm việc. Các hãng xưởng lớn thì bị "ủy ban nhân dân xí nghiệp" đòi hỏi phải bồi thường tiền phụ cấp nghỉ việc. Mỗi lần mà những chủ nhân người Pháp muốn nói chuyện dàn xếp thì lại không thấy có một người nào có đủ thẩm quyền. Các nhà trồng tỉa còn kẹt ở Cao Nguyên Trung Phần mà muốn xuống Sài Gòn đều phải nộp đơn xin phép với ông ủy viên quân sự của tỉnh. Những nhà trồng tỉa ở vùng Bảo Lộc đã bị bắt và tài sản của họ bị tạm giữ. Những nhà truyền giáo trong nước không bị phiền nhiễu gì nhưng bị quản thúc và đang lo sẽ bị trục xuất. Khách sạn Continental thì vắng hoe từ lúc các nhà báo ra đi hết .Tầng trệt của Trung tâm Văn Hóa bị ủy ban của khu vực chiếm đóng.. Bệnh viện Grall phải thay lá cờ Pháp bằng lá cờ Hồng Thập Tự và cờ của Chánh Phủ Lâm Thời. Thơ từ từ bên Pháp gởi sang được Hà Nội chuyển tiếp phải đến rất trễ, mấy tuần lễ sau mới nhận được .Tờ báo "Tin Tức Viễn Đông" một tờ nhật báo duy nhất bằng tiếng Pháp, tường thuật về tình hình tài chánh, ghi lại tin tức của thông tấn xã A.F.P . và thường mô tả đời sống ở Ba Lê ... đã bị đình bản như tất cả các tờ báo cũ của chánh quyền Miền Nam . Nỗi lo âu của người Pháp đã trở thành nỗi bi quan, vì ai cũng phải hoàn toàn tự lo cho mình. Sau một loạt sự việc không hay xảy ra như : - việc đóng cửa hãng Citroen, và Giám Đốc đã bị giam giữ vì không thể trả lương được cho nhân viên, - như việc bắt ông Giám Đốc hãng Michelin phải "nộp phạt", vì bị toán nhân viên có mang võ khí đe dọa , với sự có mặt của các đại diện của ủy ban quân sự hành chánh , ông bị bắt buộc phải nộp một khoản "bồi thường nghỉ việc rất lớn" cho tất cả nhân viên người Việt Nam ở các văn phòng và các đồn điền cao su của hãng. - như khách sạn Continental đã bị trưng dụng để cho các cán bộ Bắc Việt đi công tác vào ở: sĩ quan cao cấp, chuyên viên kế toán vào thanh lọc các chương mục ngân hàng và thanh tra hoạt động của tất cả các xí nghiệp ngoại quốc. - như "Câu lạc bộ thể thao" mất hẳn quy chế của một câu lạc bộ tư nhân.Trước hết là một tiểu đoàn quân Bắc Việt vào chiếm đóng, và từ đó được mở cửa cho nhân dân xử dụng. - như "ga ra Charner", sau khi bị một cuộc kiểm kê vật dụng tỉ mỉ cho đến tận những con bù lon, công ty nầy đã nhận được một "lệnh cấm bán" dù đó là phụ tùng thay thế nhỏ. - Có một số nhân viên người Pháp ở những đồn điền cao su còn ở lại làm việc ở các nhiệm sở nằm trong vùng đã được cộng sản kiểm soát. Có những người khác thì đã trở lại nhiệm sở sau khi Sài Gòn bị thất thủ. Nhưnng tất cả hai loại người Pháp nầy cuối cùng đều phải chuẩn bị để rời khỏi những nơi nầy. - Nổi gian truân đã đến với nhân viên của đồn điền S.I.P.H thì lại rất đặc biệt. Ngày 7 tháng 5, một tuần lễ sau khi Sài Gòn bị thất thủ, những cán bộ trồng tỉa thuộc đồn điền S.I.P.H trở lên những vùng mà họ đang khai thác nằm ở gần Xuân Lộc. Bộ đội chánh quy Bắc Việt đã chiếm đóng tại đây rồi. Những binh sĩ trú đóng trong những dãy nhà thuộc Phòng Nghiên Cứu Kỹ Thuật của đồn điền đã dùng các hồ sơ lưu trữ để đốt lửa nấu cơm. Giám đốc đồn điền người Pháp (nói thông thạo tiếng Việt) đã báo động với một ủy viên chánh trị Bắc Việt rằng: - " Các anh "bộ đội của ông đã làm một việc ngu xuẩn tày trời. Các hồ sơ mà họ xé nát hết để đốt đi có một giá trị không lường được .Đó là kết quả của 50 năm làm việc, tìm tòi, nghiên cứu và thực nghiệm về việc trồng tỉa cây cao su. Không phải tôi phản đối vì để bảo vệ quyền lợi của sở tôi, mà bởi vì nếu sau nầy người Việt Nam muốn tiếp tục sản xuất cao su cho đất nước mình và muốn nâng cao năng suất và sản lượng cao su, thì những hồ sơ nầy có một giá trị hàng đầu cho đất nước. Tôi xin lưu ý với ông là không có gì thay thế được cho các hồ sơ nầy." Ông ủy viên nầy đã quở trách binh sĩ của mình và cho lệnh họ không được đụng tới những tập hồ sơ nầy nữa. Nhưng từ ngày hôm sau đó, các chú "bộ đội" lại tiếp tục dùng các tập hồ sơ quý giá đó để nấu cơm nữa , và chỉ trong vài ngày sau họ thiêu hủy hết tất cả kết quả của công tác nghiên cứu khoa học trong nửa thế kỷ đã được cập nhật hóa rất là công phu và cẩn thận. Về phần mình, người Pháp đã khai triển trở lại mọi công việc trong đồn điền. Việc cạo mủ cao su đã trở lại nhịp độ bình thường. Nhưng ngày 21 tháng 5, tất cả các công nhân người Việt, được Ủy Ban của Đồn diền hướng dẫn đã nổi lên biểu tình tập thể và ép các nhà trồng tỉa người Pháp phải rời ngay khỏi đồn điền, không cho họ kịp thu dọn các vật dụng cá nhân của họ nữa. Đó là tình hình của cộng đồng người Pháp khi Đại Sứ M. Mérillon được "gọi về" Ba Lê, hồi đầu tháng 6. Một thông cáo báo chí của Tổng Thống Phủ từ Ba Lê đã xác nhận: - "Trái hẳn với những gì mà một vài thông tấn báo chí đã dự đoán từ trước , sự ra đi của Đại sứ Mérillon không phải do CPLTCHMN bắt buộc" Quả nhiên điều nầy rõ ràng là rất đúng với sự thật cũng giống như cái CPLTCHMN không bao giờ có mặt ở Sài Gòn vậy ! Thói quen nổi bật nhất của các nhà ngoại giao là hay "chơi chữ", là chuyển đổi những điều "lăng nhục" ra thành những sự "hiểu lầm" Nhưng sự kiện là sự kiện, không thể nào biến thể nó một cách dễ dàng được . Ông đại sứ Jean Marie Mérillon đã rời khỏi nước Việt Nam mà không bao giờ được tướng Trần văn Trà tiếp kiến. Tướng Trà là chánh quyền duy nhất tại Sài Gòn . Người ta nói là ông Mérillon đã gặp một số "cán bộ cách mạng ", trong khi người đồng nhiệm Bắc Việt của ông ở Ba Lê lại danh dự được điện Élysée tiếp kiến. Một ngày trước khi ông rời khỏi Miền Nam Việt Nam , ông được gọi tới Bộ Ngoại Giao. Ông đã gặp 3 nhân vật vô danh vì đứng trước mặt ông họ không thèm xưng danh tánh, cấp bậc của họ. Họ "cám ơn" ông về hoạt động của ông và thông báo cho ông biết là sẽ có "một người nào đó thuộc ban nghi lễ" sẽ đợi ông ở phi trường để giúp ông khỏi bị phiền phức về thủ tục khai báo với Công An và Quan Thuế. Đúng giờ, có một công chức cũng vô danh đã đợi ông Đại Sứ Pháp để đưa ông đến tận phi cơ và cho ông được ưu tiên lên phi cơ trước những hành khách khác. Đó cũng là một niềm an ủi cho một chút tự ái mỏng mành cho một người Đại diện của một quốc gia đã từng đóng góp "quá nhiều cho nền hòa bình" ! Tuy nhiên đức tánh bình dân của ông Đại sứ Jean Marie Mérillon đã đặc biệt bị hạ quá thấp so với những người Pháp ở Sài Gòn . Có một số người đã nói ; - " Ông Đại sứ đã thực hiện một tiết mục lớn : Ông đã thúc hối cho ông Thiệu sớm rời khỏi chức vụ, và sau đó cả ông già Hương nữa để đưa cho được tướng Dương văn Minh lên. Ông đã tưởng rằng như vậy là đã đem lại hòa bình và một sự hòa hợp. Nhưng ông ta chỉ thành công trong việc nhanh chóng làm tan rã nền chánh trị của Miền Nam và đưa Miền Nam đến một sự đầu hàng không điều kiện mà thôi. Trước ngày mất thủ đô, người ta chỉ thấy có một mình ông Đại Sứ Pháp. Nhưng sau đó thì ông đã biến thành một luổng gió... Và giờ đây ông ra đi, để lại sau lưng ông trên mười ngàn con tin người Pháp..... Thật vậy, nước Pháp có quyền hy vọng một ân huệ nào đó trong thái độ đối xử - để tưởng thưởng những nỗ lực của mình - Nhưng trái lại nước Pháp chỉ nhận được những điều ức hiếp và lăng nhục ! Ngược lại, những Đại diện của Hà Nội và của CPLTCHMN ở Ba Lê (có mặt thường hơn ở thủ đô Pháp hơn là ở thủ đô Miền Nam) lại được hưởng một sự tự do phát biểu và tự do đi lại trong toàn lãnh thổ nước Pháp. Vấn đề an ninh của họ được hoàn toàn bảo đảm. Họ được có những đoàn hộ tống chánh thức. Báo chí và đài phát thanh đã giúp họ phổ biến những bản tuyên bố và thông cáo báo chí. Họ lại được bênh vực luận cứ và quan điểm của họ trên đài truyền hình. Chánh Phủ Pháp không hề gây cho họ bất cứ một khó khăn hay phiền toái nào. Phải chăng đó là một điều không hợp lý khi phải đòi hỏi để đơn giản có được một sự đối xử tương ứng ? Sự ra đi của Đại Sứ Pháp Jean-Marie Mérillon khi ông chỉ thật sự là một nhân viên thừa hành trung thành với đường lối chánh trị lệch lạc từ Bộ Ngoại Giao của ông ta , đã không giúp cải thiện được bao nhiêu những mối giao hảo giữa "chánh quyền cách mạng" và các công dân người Pháp của chúng tôi. Trong đêm 16 rạng 17 tháng 6, bệnh biện Grall bị các "bộ đội" với súng ống đầy đủ, vây kín. Các binh sĩ Bắc Việt và các sĩ quan an ninh tràn vào lục soát khắp nơi : các phòng mổ, các tủ thuốc, phòng của các bác sĩ và của những người bệnh. Họ đã nói là họ muốn "biết chắc chắn là không có một vũ khí nào được cất dấu trong bệnh viện và không có một người nào ở phòng bịnh nhân bị coi là trong tình trạng bất hợp lệ. Đến sáng ngày 17 / 6 tờ "Sài Gòn Giải Phóng loan báo là kể từ nay chỉ có một ngân hàng duy nhất ở Việt Nam .Tất cả các ngân hàng khác, của quốc gia, của tư nhân hay của ngoại quốc đều phải đem nộp hết sổ sách, chương mục, và bản kết toán cho ngân hàng quốc gia mới của Việt Nam. Các biệt thự của nhân viên ngoại quốc đều bị sung công. Các thanh tra phải vào tạm trú ở các cư xá thuộc 3 ngân hàng: Ngân Hàng Á Châu của Pháp, (tên địa phương là Ngân Hàng Đông Dương) , Ngân Hàng Thương Mại Pháp và Ngân Hàng B.N.P. Các ông giám đốc của ba ngân hàng nầy thảo một bản tuyên bố chung gởi cho Ban Quân Quản, có đoạn kết như sau : - " Trong hoàn cảnh hiện tại, chúng tôi không thể nghĩ tới bất cứ một hình thức hợp tác kỹ thuật nào và chúng tôi chỉ có một nguyện vọng: được trở về Pháp càng sớm càng tốt." Các hãng "Chargeurs Réunis" và "Messageries Maritimes" từng phụ trách hầu hết dịch vụ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển đến Âu Châu đã nhận được lệnh phải ngừng hoạt động để biến thành một công ty quốc doanh độc quyền của Nhà Nước . Ba ngày sau khi ông Giám Đốc hãng thuốc lá Đông Dương trở về Pháp thì hãng thuốc lá nầy bị chiếm giữ ngay. Hãng thuốc lá Bastos và hãng bia và nước ngọt nước đá Đông Dương (Br***eries-Glacières d'Indochine) chỉ sản xuất 30 % năng suất vì đã gặp nhiều khó khăn với các "ủy ban của xí nghiệp".. - Vì gia đình đã về Pháp từ tháng 4 nên các giáo sư sống xa gia đình, (các trường học đều bị đóng cửa).; các bác sĩ quân y mãn khế ước, các nhân viên xí nghiệp đang ngừng hoạt động, các thương gia không có khách (tiệm tùng bị đóng cửa, các khách sạn bị trưng dụng) ... tất cả những người nầy sống thu hẹp như một xã hội bị đóng kín trong sự tuyệt vọng và buồn nản..Trong khi chờ đợi các đường hàng không có thể được cho mở lại, họ không có việc gì làm, nên chạy đi chạy lại thăm nom nhau để giết thì giờ, rồi mang hết những gì họ còn lại như rượu và thức ăn ra ăn nhậu cho hết. Nhưng sự bực dọc của các anh "bộ đội" thường gây ra những chuyện rắc rối bực mình cho những người Pháp nầy (như xét căn cước liên tục, viếng nhà bất thần và thường xuyên, không cho di chuyển) vì họ cho là những người ngoại quốc nầy khinh thường họ khi lái xe hay khi ngồi tán gẫu trên sân thượng , nên bất cứ một vi phạm nhỏ nào họ cũng có thể bị đưa tới công an để được nghe những lời giáo huấn hằng giờ... hoạc nghe thuyết về sự cần thiết phải thay đổi "tánh phản động" của mình. - Tất cả những đồn điền cao su lớn đặt dưới quyền chỉ đạo của một "ủy ban cao su" hiện nay do nhân viên Việt Nam quản lý, phối hợp với chánh quyền địa phương. Một số nhà trồng tỉa phải trở về Sài Gòn và họ tuyên bố là lúc nào cũng sẵn sàng giữ một vai trò cố vấn kỹ thuật , nếu chế độ mới đòi hỏi. Nhưng chánh quyền cộng sản đã cho họ biết là họ "chỉ mong hợp tác với những người chưa bao giiờ làm việc ở Việt Nam trước ngày chiến thắng của cách mạng". Họ đã chỉ rõ ràng cho thấy ví dụ như "những linh mục, những chuyên viên hay những nhà ngoại giao" đã từng có những quan hệ với chánh quyền bù nhìn của ông Thiệu trước khi ông nầy ra đi." Những người Việt Nam có quốc tịch Pháp tiếp tục vây quanh văn phòng Di trú và tòa Lãnh Sự Pháp (Sài Gòn giờ đây đã xuống hàng thành phố cấp vùng nên chỉ được phép có một đại diện Lãnh sự, các tòa đại sứ đều ở Hà Nội). Không một người nào được phép hồi hương vì là "công dân da vàng". Ba Lê vẫn không thể làm gì được trong lúc nầy. Và các công chức trong lãnh sự quán chỉ biết nói là sự di tản của tất cả người Pháp" nói chung có thể đòi hỏi 2 tháng hoặc 2 năm". Những đồng bào Pháp nào đã ra đi được sau một thời gian chờ đợi khá lâu đều phải giao chìa khóa nhà và chìa khóa xe của họ cho chánh quyền mới để họ "quản lý giùm". Họ chỉ được quyền mang theo "quần áo và giấy tờ cá nhân" mà thôi. Họ không được rút tiền từ chương mục ngân hàng của họ. Họ không được phép nhờ một thân nhân hay môt bạn thân nào coi sóc giùm căn phòng , biệt thự hay xe cộ của họ. Các tài sản nầy không phải bị cưỡng đoạt mà chỉ bị di lý thôi để giao lại cho "nhân dân quản lý" trong khi chờ đợi bị sung công... Và chờ thủ tục bồi thường. Trong ngắn hạn, dù sao thì sự có mặt một trăm năm của người Pháp ở Việt Nam cũng đã được bôi xóa đi một cách quá nhanh chóng. Sau ba mươi năm cách mạng và tranh đấu, không phải chỉ để dùng tên của bao nhiêu những vị anh hùng mà kẻ chiến thắng không bao giờ thiếu, để thay thế vào tên đường như tên của ông Pasteur chẳng hạn. * * * Trong tuần lễ thứ ba của tháng 7, một người Pháp từ Sài Gòn về nước đã trao cho tôi một bức thơ của một ông bạn Việt Nam của tôi, giáo sư T.. .mà ông đã viết từ lâu không gởi được . Bức thơ viết : - " Anh Pierre thân mến, Có quá nhiều biến cố đã xảy ra từ sau lần chúng ta gặp nhau chỉ mới vào khoảng cuối tháng 4 đây thôi nhưng tôi có cảm tưởng là chuyện đã xảy ra cả trăm năm trước và trong một thế giới khác không bằng. Đứa con trai lớn của tôi, thằng Viên. là trung úy ở sư đoàn 18 bộ binh, đã bị tử thương trên đường Long Thành ngày 29 tháng 4. Nó được 24 tuổi. Nhưng ba đứa khác thì lại được đoàn ngũ hóa vào những hội đoàn mới. Chúng nó đi vẽ biểu ngữ trên tường, và đi kiểm kê những người dân tỵ nạn. Nổi buồn của chúng tôi không thể diễn tả ra bằng chữ được. Tôi đã cố gắng gạn lọc những tư tưởng của tôi vì tôi có quá nhiều điều phải nói với anh.. Nhưng trước hết tôi cố gắng cho anh biết qua một số tin tức hay hay. - Tinh thần của quân đội Miền Bắc cả ở Sài Gòn và ở Đồng Bằng sông Cửu Long, không có quá tốt như người ta đã tưởng đâu. Họ đào ngũ quá nhiều . Đài phát thanh cộng sản và các bản thông cáo dán ở trên tường thường xuyên cảnh giác dân chúng không được chứa chấp những binh sĩ đào ngũ nếu không sẽ bị "nghiêm trị". Lúc họ vào Sài Gòn, các "bộ đội và cán bộ có rất nhiều tiền đồng (của Miền Nam ) mà họ đã thu nhặt được trong các cơ quan của chánh quyền ở các thành phố mà họ vừa chiếm được. Phần đông đã dùng tiền nầy để mua đồng hồ tự động, quẹt máy và rất nhiều món khác mà họ chưa từng thấy biết qua bao giờ. Hết tiền rồi họ trở lại tình trạng thật sự như trước, nghĩa là không sáng sủa gì cả. Để giữ tinh thần họ, cấp chỉ huy đã tăng gấp đôi phụ cấp gạo cho họ. Nhưng lương thì không tăng: 1200 $ hằng tháng.Chỉ vừa đủ mua 4 bao thuốc lá. Có một số binh sĩ đã bị động viên nhiều năm rồi rất là bất mãn vì không được phép trở lại gia đình. Theo ước tính của họ thì họ nghĩ rằng họ còn sẽ bị lưu giữ lại ở Miền Nam từ hai năm tới hai năm rưỡi nữa.. Nhiều đơn vị tác chiến vừa được thông báo là họ sẽ qua một khóa huấn luyện đặc biệt trong thời gian 18 tháng để được chuyển thành "lực lượng gìn giữ an ninh và trật tự". -Trên phương diện kinh tế, chánh quyền cộng sản chưa có một biện pháp nào thuyết phục hết. Một đội ngũ được gọi là chuyên viên tài chánh (đúng hơn phải gọi họ là nhân viên kế toán ) đã từ Hà Nội vào đây với những thùng "bàn toán" của Tàu (trong lúc tất cả ngân hàng và các công ty xí nghiệp sẽ được họ kiểm soát đã và đang xử dụng máy điện toán). Các "ông chuyên viên" nầy thường nhắc đi nhắc lại với những ai muốn nghe là ưu tiên hàng đầu của họ là phải " đập tan bộ máy kinh tế bù nhìn". Theo họ thì đời sống của người dân ở thử đô Sài Gòn quá dễ dàng là nhờ viện trợ của Hoa Kỳ . Hầu hết dân chúng Sài Gòn chỉ là những con "ký sinh trùng" sống ăn bám vào mưu mô thủ đoạn và sự đầu cơ. Tất cả những tích trữ trong ngân hàng sẽ bị tịch thu hết. - Tiền lương của tất cả những công chức và chuyên viên được giữ lại trong nhiệm vụ của họ sẽ được trả phân nửa bằng gạo và phân nửa bằng tiền. Lương thấp nhất được 10.000 đồng (khoản 120 quan Pháp) và phụ cấp gạo: 10 kí lô cho mỗi người lớn và 5 kí lô cho trẻ con. Lương cao nhất không được quá 25.000 đồng (tương đương 250 quan Pháp). Các cán bộ địa phương của Mặt Trận khuyên những nhà buôn nên mua vàng và hàng vải hơn là tích trữ tiền mặt. Có nhiều cuộc chuẩn bị cho thấy sắp sửa có đổi tiền cũ lấy tiền mới. Chánh quyền sẽ hành động bất thần, không báo trước, và thời gian đổi tiền chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Tiền mới đã được in rồi (1) - Đời sống đã đổi thay khác hết. Không ai còn tìm đâu được một giọt xăng. Tất cả đều phải đi xe đạp ( hãng L'U.C.I.A của người Pháp đã gặt được một mẻ to vì đã bán hết số xe đạp còn tồn kho). Chánh quyền cũng có cho mở lại vài trạm xăng, nhưng chỉ dành cho xe buýt và xe vận tải công cộng. Cho đến những ngày đầu tháng 6, các chợ còn được tiếp tế khá đầy đủ và giá cả còn được bình thường. Trừ ra cá, càng ngày càng ít đi và càng ngày càng mắc. Cũng vì không có đủ xăng, 90 % tàu đánh cá không thể ra khơi được . Vào tháng 6, gạo đã bắt đầu khan hiếm. Các chợ không nhận được gạo. Có kêu than cũng vô ích thôi. Mà nếu như chợ có đầy đủ như trước kia ... thì chúng tôi cũng không còn tiền. -Những bạn bè từ Miền Trung vào đã nói với tôi là hầu hết tất cả vùng ngoài đó đã bị cộng sản kiểm soát khá chặt chẻ, đến độ chỉ có lá cờ đỏ sao vàng của Hà Nội được treo ở các quận lỵ của tỉnh. Cuộc thanh trừng thật là khủng khiếp. Tất cà những sĩ quan trình diện đi học tập đã được đưa đi các trại lao động khổ sai ở tận trên núi rừng. Họ phải mở những con đường xuyên qua rừng rậm, để chở những mảng gổ to và những tảng đá nặng. Vì khí hậu ở đó quá khắc nghiệt và không được trong lành, lại thiếu thuốc men, mặc không đủ ấm, ăn không đủ no.. nên họ chết rất nhiều .Phần lớn các Cảnh Sát đã bị hành quyết. Con gái hay những bà vợ góa của các quân nhân, của những người tư bản và của những công chức cao cấp , bị gả ép cho các thương phế binh Bắc Việt để vừa làm bạn vừa làm y tá cho họ. - Trái lại, ở Vùng Đồng Bằng và ở Sài Gòn tình trạng mất an ninh và vô trật tự càng ngày càng lớn. Trộm, cướp, và ám sát ngày càng nhiều . Báo chí và đài phát thanh cộng sản quy trách cho binh sĩ của "chế độ bù nhìn cũ đã dùng vũ khí của họ để hành động phá rối trị an" . Chuyện đó còn phải chờ xem, vì từ ngày chấm dứt chiến trận, các cựu quân nhân của quân đội chúng tôi sống vất vưởng không có một lợi tức nào cả. Họ đâu còn lãnh lương, không có quyền lãnh một hột gạo và dĩ nhiên là thất nghiệp. Nhưng không phải chỉ có những anh cựu quân nhân mà thôi. Còn có những anh "chiêu hồi", những anh Việt Cộng đã trở về vời quân đội VNCH. Có khoản 200.000 người . Cộng sản Bắc Việt đã cho lệnh họ phải trở về với những đơn vị cũ của họ trước kia. Khiếp sợ vì phải rơi trở lại vào tay của những người mà họ đã chối bỏ và đã chống lại trước kia nên họ lẩn trốn và sống gần như ngoài pháp luật. - Cộng sản cũng đã phạm nhiều lỗi lầm không giải thích được .Trong tuần lễ đầu của tháng 5, họ đã mở cửa các khám và đã thả ra tất cả tội phạm, kể cả những người mắc bệnh tâm thần ở bệnh viện Chợ Quán.Tất cả những tội phạm đều không phải là tù nhân chánh trị , mà có cả ngàn người trong số được thả ra là những tội phạm hình sự, phạm tội giết người và trộm cướp chuyên nghiệp. Những bệnh nhân tâm thần ở Chợ Quán phần đông là những người điên rất dữ dằn, rất nguy hiểm cho xã hội . Chuyện thả hết những tôi phạm bất lương và những người điên chỉ làm cho tình hình trở nên trầm trọng thêm mà thôi. - Ở trung tâm Sài Gòn thì sự kiểm soát có phần khá hơn, nhưng trong tất cả những khu vực đông dân và ở ngoại ô, thì ban đêm thường có những sự đụng chạm. người ta thường nghe tiếng súng nổ. Trong những khu vắng vẻ ở Phú Nhuận và Tân sơn Hòa, có những vụ trộm, những vụ ném lựu đạn, và ám sát có khi xảy ra cả ban ngày. Chúng tôi được biết là hiện nay có những chiến khu ở nhiều nơi trong vùng Đồng Bằng, cũng như trong rừng và vùng đầm lầy ở Miền Đông của Sài Gòn . Có một số binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến , biệt động quân và lính Dù còn đầy dủ trang bị, di chuyễn gần như khắp nơi và phục kích. Ở Miền Tây thì Hòa Hảo nổi dậy chống đối công khai. Họ tấn công các đoàn xe cộng sản , bắn phá các trung tâm đô thị, và phá hoại các đường dây liên lạc . Ở Cao nguyên, có hàng chục ngàn đồng bào Thượng đốt bỏ làng rút vào rừng sâu. Về những chuyện như thế chúng tôi biết nhiều chi tiết chính xác, nhưng nếu viết ra đây thì quá dài. Bạn của anh là Paul Ph. biết rành các chuyện nầy. Chắc không bao lâu nữa anh ta sẽ về Ba Lê, vì anh là công dân Pháp. Anh ta có liên lạc được nhiều nơi, và đã đi lại khá tự do. Tôi thích nói cho anh vài chi tiết về những người công giáo. Những trận đánh cuối cùng, đẫm máu nhứt và khốc liệt nhứt không phải do các đơn vị chánh quy của Miền Nam Việt Nam mà là do những anh dân vệ công giáo ở Hố Nai. Có nhiều em chỉ mới vừa 15 tuổi đầu, do các linh mục chỉ huy, cầm thánh giá và lá cờ vàng trắng của Đức Thánh Cha, đã chiến đấu dữ như cọp . Họ đã phá hủy được 8 chiến xa T. 54 chỉ bằng lựu đạn và các chai xăng "mô lô tốp (molotov) và đốt cháy nhiều xe vận tải chở đầy lính Bắc Việt . Trận chiến đã kéo dài trong 2 ngày và hai đêm.. Lúc trước, khi quân đội chánh quy Miền Nam đóng ở Hố Nai rút đi, lực lượng dân vệ ở đây đã giữ lại được mấy khẩu pháo binh và đã xử dụng. Linh hồn của trận chiến là cha Sữu người mà anh đã từng biết rõ. Ông đã bị tử thương. Các em dân vệ đã đem được ông vào nhà và ở đó chiến đấu luôn mấy giờ. Những người sống sót, hầu hết đều bị thương, đã bị cộng sản đem ra xử bắn hết... Ở Sài Gòn , người công giáo trên nguyên tắc không có gì lo lắng hết. Các nhà thờ đều mở cửa và các linh mục được phép làm lễ. Các nhà thờ đều đầy nghẹt tín đồ. Nhưng cũng vẫn có nhiều chuyện rắc rối đã xảy ra : - Chuyên thứ nhất nhằm vào Đức Ông Le Maitre đại diện của Tòa Thánh Vatican . Các tín đồ tiến bộ (cánh tả) đã tràn ngập vào Tòa Đại diện của Tòa Thánh. Họ lôi Đức Ông và thơ ký của ông ra ngoài đường, ở đó họ đang họp mết tinh để tố khổ. Đức Ông bị họ lên án là đã hỗ trợ cho hành động của Chánh Phủ bù nhìn của ông Thiệu. Họ xô đẩy và la ó lớn tiếng với Ông. Những người trong mết tình đã hạ lá cờ của Tòa Thánh Vatican xuống và thay vào đó lá cờ của CPLTCHMN. Cảnh Sát đã đến can thiệp bằng cách bắn chỉ thiên vài phát súng. Đức Ông được giải tỏa và được dẫn lên phòng của ông . Nhưng sau đó Ban Quân Quản đã trao cho ông một quyết định trục xuất, với lý do :" sự hiện diện của Ông sẽ làm xáo trộn trật tự công cộng" Và Đức Ông đã rời khỏi nước Việt Nam - Một chuyện rắc rối khác, quan trọng hơn nhiều, được xảy ra vào đêm mồng 4 tháng 6, ở khu Trương minh Giảng mà như anh đã biết đó là một địa bàn của những người công giáo cứng đầu, khó chịu nhất. Ngày 3 tháng 6, có vài trăm tín đồ cánh tả đã biểu tình đòi Đức Cha Thuận phải từ chức. Đức Giám Mục Ngyễn văn Thuận vốn là cháu của Tổng Thống Diệm và là Giám mục của địa phận Nha Trang, mà Vatican vừa mới bổ nhiệm ông vào nhiệm vụ Phụ Tá Đức Tổng Giám Mục Địa phận Sài Gòn .Đức Cha Thuận là người được mọi người giáo dân thương mến và kính trọng, kể cả những người không phải là tín đồ cũng vậy. Hàng ngàn tín đồ công giáo thuộc giáo khu Fatimah đã tổ chức một cuộc xuống đường chống-biểu tình và hô to những khẩu hiệu chống cộng sản . Vì đã quá giờ thiết quân luật, nên một đội tuần tiễu của "bộ đội" đã đến cánh cáo họ phải giải tán. Các giáo dân đã giựt chuông inh ỏi ở các nhà thờ. Đám biểu tình đã giải giới mấy anh "bộ đội" và đã đánh đập họ. Quân đội đã đến can thiệp và có bắn vào đám đông. Có 2 người chết và 6 người bị thương. Ngày hôm sau người ta tìm thấy xác của 3 chú "bộ đội" bị cắt cổ và được treo ở thành cầu. Còn đức cha Thuận thì bị bắt buộc phải rời khỏi Tòa Giám Mục và về sống ẩn cư ở Nhà Dòng lớn. Ở Miền Trung và các tỉnh ở Miền Nam , tất cả cơ sở tôn giáo (trường học, nữ tu viện, cơ sở y tế lớn nhỏ...) đều bị sung công và xử dụng làm trại lính. - Trong khu vực của tôi, từ 5 ngày nay những sự khám xét càng ngày càng tăng và lương thực càng ngày càng khan hiếm.. Là một giáo sư về Luật, tôi không còn có việc làm nữa. Như thế là không có lợi tức. Tuy vậy mà tôi cũng phải tham gia vào các"buổi họp tập của các luật gia" để tự "cải tạo" mình Người ta chỉ bàn cãi về chánh trị . Mọi người đều tranh đua nhau tưởng tượng để sáng chế ra những khẩu hiệu mới mẻ theo chìu hướng " Pháp luật dính liền với chánh trị , đó là một công cụ đấu tranh, một phương tiện để đạt tới mục tiêu cách mạng " . Đó là một khẩu hiệu quá ngu xuẩn, nhưng khi người ta lập đi lập lại nhiều lần và viết đi chép lại chừng ngàn lần, người ta không còn nhớ rõ tại sao người ta đã bắt đầu phải học Luật . Thà là tôi chịu khó đi cuốc đất, xuống hàng cho các xe vận tải hay cưa củi. Có thể người ta sẽ đưa tôi đi một trại lao động. Tôi là một tín đồ Thiên Chúa giáo như anh Pierre đã biết đó. Nhưng có đôi lúc tôi thấy Đức Chúa Trời ở xa Việt Nam quá ! Và tôi có cảm tưởng rằng chúng tôi còn phải ở lâu lắm trong thế giiới cộng sản ." * * * Đầu tháng 8. sau 3 tháng thương lượng đầy gay go và thất vọng, cuối cùng nước Pháp cũng mở được một cầu không vận với Sài Gòn, để di tản trong thời gian hơn một tháng, 1600 công dân Pháp. Còn những người khác thì sao ? -------------------------------------------------------------------------------- Chú thích : (1).- Tiền mới đã được thực sự lưu hành trong tuần lễ thứ hai của tháng : Tiền đồng (nặng) trị giá 500 đồng tiền cũ của Miền Nam hay là 3 quan Pháp. Nhưng mỗi người chỉ đổi được có 200 đồng (tiền mới), tất cả người Việt Nam và người ngoại quốc đều được lệnh phải đem nộp cho Ngân Hàng Quốc Gia số tiền còn lại mà họ đang có. |
|
IP Logged | |
Hoàng Dũng
Senior Member Tham gia ngày: 08/Nov/2008 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 592 |
Gởi ngày: 21/Dec/2008 lúc 10:39pm |
Chương 26CHƯƠNG HAI MƯƠI SÁU THẬT CHUA CHÁT THAY CHO CÁI GỌI LÀ "GIẢI PHÓNG"!!! Trong tuần lễ đầu tiên của tháng 9, anh Phạm, một người bạn của tôi, cuối cùng được một chỗ trên chuyến bay về Pháp. Khi vừa đến Ba Lê, anh điện thoại cho tôi ngay tại phi trường Roissy: - " Tôi phải đi gặp anh liền, để cho anh biết, để cho anh nói với tờ báo của anh những gì đã xảy ra ở Sài Gòn . Trầm trọng lắm !" Anh bạn tôi có vẻ bị quá căng thẳng , bị kích thích quá độ như một người vừa bị một cú sốc nặng, muốn phản đối và kêu cứu vậy . Đó không phải là thói quen của anh. Anh Phạm là một người Việt Nam , người Miền Tây, đặc biệt rất cứng cỏi và rất bình tĩnh. Anh là một sĩ quan thiết giáp, tỵ nạn chánh trị ở Pháp từ năm 1955, sau đó anh đã tiếp tục học và đã giật được bằng kỹ sư điện toán và cử nhân hóa học một cách vẻ vang.. Anh ta có một chỗ đứng vững chắc trong một công ty viễn thông lớn từ hai mươi năm nay. Vào dân Pháp năm 1958, anh chưa về Việt Nam lần nào từ hai mươi năm nay. Hôm 2 tháng 4 vừa rồi anh trở về Sài Gòn để thăm gia đình anh, và bị kẹt lại đó trong 4 tháng. Tôi phải gấp rút đi gặp anh bạn tôi mới được. Tôi gặp lại bạn tôi, lúc nầy người trông quá gầy, vẻ mặt mệt mỏi, với cặp mắt lo lắng bồn chồn. Anh nắm tay tôi trong hai bàn tay của anh thật chặt và nói với tôi một hơi -" Anh Pierre ơi, ở Sài Gòn chỉ còn có một sự đói rách khốn khổ, một nỗi thất vọng, một sự chống đối và một cái chết mà thôi. Con người đáng ghét nhất đáng khinh nhất ở Miền Nam ngày nay không phải là ông Thiệu, cũng không phải tướng Trần văn Trà, mà là tướng Dương văn Minh. Chẳng những ông ta đã bán đứng Miền Nam mà ông ta đã cúi đầu quy lụy trước những người cộng sản Bắc Việt . - Hãy bình tĩnh đi ông bạn ơi, Anh hãy cố gắng sắp xếp những ý của anh cho có thứ tự một chút đi... Anh Phạm nhìn tôi như một người mộng du, đang tập trung vào một thế giới nào đó mà chỉ có riêng một mình anh biết thôi, rồi mới nói: - "Anh không thể nào hiểu được cái gì đã xảy ra bên đó đâu. Anh không thể nào tưởng tượng nổi là tất cả đều đã thay đổi hết. Và cả một sự thù hận !.... Anh ta ngưng một lúc, lấy tay dụi cặp mắt như một người ngủ vừa mới thức dậy, một người vừa mới qua một giấc mơ hãi hùng, rút từ trong túi ra một cuốn sổ tay màu đen, lật qua lật lại vài tờ rồi nói: - " Tôi giữ được cuốn sổ tay nầy qua cuộc khám xét. Tôi có ghi lại rất đầy đủ, tất cả những gì tôi đã thấy, đã nghe và đã hiểu được .Trong suốt hai mươi năm qua, tôi gác bỏ chánh trị ra ngoài tai. Đến tháng 3 năm nay, khi tôi nằm rất thoải mái ở ghế phô tơi để xem truyền hình ở Ba Lê, cũng như tất cả những người Pháp khác, tôi tưởng người Việt Nam chạy trốn chiến tranh hoặc là họ đã bị sự tuyên truyền chống cộng đầu độc. Anh biết không, thật sự tôi đã lầm ! Bây giờ tôi mới hiểu là tại sao người Việt Nam đã chạy trốn đầy đường. Không phải họ chỉ chạy trốn đạn pháo và các đơn vị cộng sản Bắc Việt . Mà họ thật sự chạy trốn bộ máy ở phía đằng sau bộ đội cộng sản đó anh Pierre ! Các loa phóng thanh, các sự tố giác và lên án, mọi sự chuyển đổi bắt buộc của đời sống, những trại tập trung cải tạo, những tòa án nhân dân, và những "cán bộ" vừa cuồng tín vừa cuồng nhiệt không mệt mỏi, mặt lạnh như tiền, ngoan cố và khắt khe còn hơn các thầy tu của Tòa án Dị giáo. Những tên cán bộ nầy khi họ nắm được anh rồi, họ không bao giờ buông tha anh ra cho đến khi nào anh phải tưởng tượng tìm ra được những trọng tội của mình để mà tự thú tội mới xong . có nghĩa là cho tới khi nào anh phải tự nhận là anh có phạm tội dù đó là một tội trạng do anh tưởng tượng ra, nghĩa là cho tới khi nào anh chối bỏ tất cả, chối bỏ tín ngưỡng của anh, chối bỏ bạn bè của anh, gia đình của anh, cho tới khi nào anh hội nhập vào giáo hội của họ, vào lý thuyết của họ, vào lối sống của họ... dĩ nhiên là đi ngược lại hết với đời sống cũ... Anh Phạm ngừng một vài giây rồi lại tiếp tục: - " Tôi đã nhìn thấy bộ máy đó điều hành rồi, nó núp kỹ ở đàng sau các "bộ đội" ngây ngô từ Miền Bắc đi vào Miền Nam . Nó rất là khủng khiếp. Tôi sẽ cố gắng giải thích cho anh, cố gắng kể cho anh nghe những gì tôi đã thấy. Tất cả binh sĩ vào chiếm Sài Gòn đều cầm là cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.mà họ gọi là "lá cờ của C PLT CHMN". Dân chúng Miền Nam đều nghĩ rằng: "giữa người Miền Nam với nhau, cuối cùng rồi người ta cũng có thể thỏa thuận được với nhau, để có được một giải pháp". Nhưng làm gì có người Miền Nam ? Chỉ có toàn là "bộ đội" người Bắc . (nguyên tác :des Tonkinois), những chú "nhà quê" chỉ thích mua những chiếc đồng hồ có chỉ ngày tháng mà từ ngày cha sanh mẹ đẻ họ mới được thấy lần đầu tiên và họ gọi là "đồng hồ có cửa sổ", và họ thích chụp ảnh với các anh phó nhòm chuyên chụp dạo ở ngoài đường phố. Người dân Sài Gòn bắt đầu gọi họ là "những con ếch" vì họ mặc quân phục màu xanh lá cây và thường "đi hai hàng". Cũng không có gì quá đáng lắm đâu. Chỉ châm biếm chơi thôi. Và các sĩ quan thì vào ở khách sạn. Họ chưa từng được thấy thang máy bao giờ. Một ngày nọ, ở khách sạn Palace, tôi được chứng kiến một cảnh đặc biệt lạ lùng. Một bà cụ già dùng thang máy đi lên lầu ba. Một cô gái còn trẻ cũng dùng chiếc thang máy đó để đi trở xuống, khi cửa mở cô gái bước ra và đi về phía trước. Một anh sĩ quan người Bắc đang đứng ở tầng trệt, bước lui lại mấy bước và kinh ngạc la lên: "Đây là máy móc gì đây ? kỳ lạ vậy ? Một bà cụ vừa bước vào đây đi lên, bà ta rất già, nhưng lúc trở xuống thì bà ta trẻ lại gần 50 năm !" Nghe tôi nói như vậy chắc có người cho là tôi kể chuyện lịch sử của thành phố Marseille hồi xa xưa phải không anh? Nhưng không, đây là một chuyện thực, một chuyện sống ! Còn nhiều chi tiết nữa lắm. Anh có muốn tôi kể thêm cho anh nghe không? Họ cũng không bao giờ thấy biết những phòng tắm nữa. Họ lấy nước trong những cầu tiểu của mấy bà để rửa mặt. Có một buổi chiều các thương gia và mấy ông "Bang" Tàu vừa "hiến" cho quân đội giải phóng một bệnh viện tư lớn nhất ở Chợ Lớn và đã mở tiệc khoản đãi các sĩ quan cao cấp của họ. Tối đến, người Tàu cho gọi mấy nhiếp ảnh viên tới để chụp ảnh . Họ chụp ảnh bằng đèn . Khi ánh đèn chớp của máy ảnh vừa lóe lên, các sĩ quan đều đứng bật ngay dậy và cùng rút súng lục ra. Họ tưởng đó là một cuộc mưu sát. Tất cả những giai thoại nầy cả Sài Gòn ai cũng biết hết cả. Người dân ở thành phố cười riễu. ! Họ không thể nào hiểu được là những người mà họ đang khi dể nầy chỉ biết có những làng mạc nghèo khổ, những trại huấn luyện, núi rừng và chiến tranh. Một thế giới mà không hề có một chiếc tủ lạnh, hoặc một máy ghi âm, cũng không có khách sạn, không có đèn chớp để thu hình ban đêm. Khi người ta cười là người ta tưởng là mình che dấu cái lo sợ của mình. Nhưng dân chúng Sài Gòn đã nhanh chóng hiểu rằng "họ cười là sai" . Đã có những chuyện rắc rối xảy ra.. Các chú "bộ đội" đã bắt gặp kẻ trộm đang chuyển xăng trong nón sắt của họ, và kẻ trộm đã bị bắt buộc phải uống hết những gì họ chứa trong nón sắt của họ. Họ đã bắt được những anh móc túi, và họ đã dùng súng lục bắn vào hai bàn tay của những người nầy trước khi thả cho họ đi. Sau đó họ cũng sẽ cho thấy là họ cũng xử binh sĩ của họ y như vậy. Một anh tài xế xe Molotova đã cán chết một em bé ở Gia Định. Bà mẹ la lên, đám đông tựu lại đòi phải được sửa chữa. Anh trưởng xa đề nghị bồi thường ba bao gạo. người mẹ từ chối hẳn và nói lớn :"Anh ta giết chết con tôi, tôi muốn anh ta đền mạng". Nghe vậy, người trưởng xa lập tức lấy cây súng của một "bộ đội" gần đó và cho ngay một phát đạn vào đầu anh tài xế. Và về sau đó đã có những cuộc xử tại chỗ các phạm nhân bị trói tay và được cột vào hai miếng gỗ, ngay trên đường phố, như vậy gọi là để làm gương . Kể từ đó dân chúng Sài Gòn mới thấy sợ và họ bắt đầu nói là "Họ còn độc ác hơn bọn Nhật nhiều !" Nghỉ một chút để hút thuốc, anh Phạm kéo một hơi dài thật ngon rồi lại tiếp tục kể : - " Kỷ luật sắt và sự tàn ác của mấy chú "bộ đội" đã gây xúc động cho người dân Miền Nam . Nhưng họ còn chưa biết bọn "cán bộ" đảng viên của đảng cộng sản . Bọn nầy không có mặc quân phục xanh như "bộ đội". Họ thường mặc quần dài màu xám hay màu sậm hơn và một áo sơ mi trắng không bao giờ ủi và bỏ ra ngoài. Đó mới thật sự là chủ nhân ông. Họ không ồn ào nhưng có mặt khắp mọi nơi. Họ quan sát, đặt câu hỏi, ghi vào sổ tay, tìm hiểu, nghiên cứu và quyết định. Họ là những người hướng dẫn các lớp học tập cải tạo. Lúc ban đầu, người dân Sài Gòn thấy mình tiến bộ nhưng còn hoài nghi . Họ đã theo các buổi học tập cải tạo nầy với cảm nghĩ là mình đang ở một lớp mẫu giáo dành cho những em bé chậm tiến. Họ hát theo những gì người ta bắt phải hát, họ cũng vỗ tay , cũng lập lại những gì họ bảo phải lập lại . Khi bước ra khỏi lớp họ cười khẩy.Và sau đó một lần nữa là họ hết cười nổi, họ hết còn cười khẩy được nữa. Bởi vì "cán bộ" bắt họ phải viết đi viết lại 10 lần, 20 lần những lời tự thú của họ. Không một người nào trong dân chúng thấy mình có phạm tội, và như thế là coi như tất cả đều thấy sai hết. Đây nhé: - các tiệm buôn đã bán thuốc ngừa cho Mỹ để họ ngủ với các cô gái : là có tội; - người thợ ở cơ xưởng đã đóng góp vào nỗ lực chiến tranh : là có tội; - thương gia người Tàu đã mua lại chiến cụ phế thải: là có tội; - cô gái ăn sương đã làm mất danh dự dân tộc khi bán mình cho người ngoại quốc: là có tội; - anh sinh viên đã có cả một bộ sưu tập các đĩa nhạc giật gân... là có tội Tất cả mọi người mọi giới đều đã, đang hay sẽ là kẻ phạm tội hết. Như vậy là phải biết tội của mình, phải biết sửa mình, phải biết bắt buộc cha mẹ mình, con cháu mình, bạn bè mình phải sửa chữa, cải tạo; phải biết "vạch trần" có nghĩa là phải tố giác những người nào từ chối không chịu thay đổi. Và kế tiếp sau đó là bắt đầu có những cuộc ruồng bắt, những cuộc khám xét. Các công an mật vụ đến nhà ban đêm, lục lọi khắp mọi nơi, gõ vào tường, tháo hết bàn ghế, các vật dụng trong nhà, khám xét hết quần áo, có khi mở tung những chỗ khâu vá ra xem. Chỉ cần có một quyển sách nhỏ chống cộng nào đó, một bức tranh ảnh nào đó của Mỹ, hay một hình ảnh nào đó của ông Thiệu còn bỏ quên trong ngăn kéo, là người chủ nhà sẽ bị bắt mang đi. Buổi sáng thật sớm người ta có khi người ta gặp những hàng người tay bị trói quặt ra sau lưng, bị binh sĩ mặt lạnh như đồng dẫn đi. Có đôi lúc các bà vợ chạy theo sau vừa la vừa khóc. Các anh "bộ đội" đuổi họ đi bằng báng súng... Và như thế là người ta quây mặt đi không ai dám nhìn vào cảnh nầy. Không phải họ chỉ bắt người mà họ còn tịch thu, trưng dụng nhà cửa nữa. Tất cả những ai có nhà rộng rãi, nghĩa là có hơn hai phòng cho cả gia đình, thì phải cho một số "bộ đội' vào cư trú, phải giặt giũ cho họ, nấu cơm cho họ. Các sĩ quan thì ở biệt thự. Những anh nhà giàu nào đã bị tịch thu chương mục trong ngân hàng thì phải giao nộp tất cả đồ mỹ nghệ, sổ sách và hàng sơn mài cho các ủy viên tài chánh. Còn lại món nào thì họ đem bán lần bán hồi để mà sống. Đến khi không còn gì để bán được nữa thì họ tự tử. Sài Gòn là một thành phố tuyệt vọng mà các tủ ở đầu giường có đầy đủ hóa chất hay những viên thuốc giết người đủ màu, trắng, hường và xanh. Người nào không có thuốc thì cạo diêm sanh ở các vỏ quẹt để uống. Tất cả mọi chuyện đều nhằm dồn con người vào con đường cùng của thất vọng. Các cuộc điều tra thẩm vấn, các cuộc bắt bớ, nhất là tình cảnh khốn khổ và sự đói rách. Có trên một triệu người không có việc làm và không có gì để ăn, đólà chỉ mới tính riêng cho Sài Gòn mà thôi đó. Chánh quyền cộng sản đã loan báo trên đài phát thanh là họ đã phát không sáu ngàn sáu trăm (6.600) tấn gạo cho một triệu ba trăm ngàn (1.300.000) dân nghèo ở đô thành trong 2 tháng 5 và tháng 6. Như vậy tính ra bổ đồng chỉ có chưa tới 100 gram gạo cho một người mỗi ngày. Con đường Tự Do thì đã vắng ngắt, tất cả các tiệm đều đóng cửa. Trên vỉa hè đường Charner, người ta bày bán đủ mọi thứ trên các tấm vải dù, nào là quạt máy, dao muỗng, thượng vàng hạ cám, bán với giá thật rẻ mạt. Người bán ăn mặc rất tươm tất nhưng quá gầy. Với một nắm bạc chỉ mua được vài kí gạo. có nhiều người còn đem bán cả bàn thờ ông bà. Tôi đã chứng kiến được rất nhiều chuyện rắc rối. Ở khu vực Chợ Cũ, đằng sau Kho Bạc, một người trạc năm chục tuổi đã giựt một túi xách của một bà qua đường.Bà ta la lên. Một đội tuần tiễu đã đến kịp và bắt kẻ cướp giựt, Anh ta đứng thẳng người lên và cao giọng nói lớn lên với "bộ đội": - Đúng vậy, tôi là một kẻ trộm . Các anh hãy làm giùm tôi một việc : hãy đi tìm giùm vợ và 5 đứa con tôi lại đây và hãy bắn hết chúng tôi giùm tại đây trước mặt mọi người , bởi vì chúng tôi không còn gì để ăn hết. " Cũng có những cô gái còn tiếp tục mặc quần áo kiểu Tây Phương. Lúc đầu thì cộng sản còn châm chước cho. Nhưng bây giờ thì bị cấm hẳn. Các anh "bộ đội" dùng kéo lớn cắt bớt mấy chiếc quần quá rộng. Tôi đã chứng kiến tận mắt một cô gái giận dữ vì người ta xé quần Gin của cô. Cô tức giận xé cả áo cánh và cởi luôn nịt vú của cô ta ra, cầm ném vào mặt của "Bộ đội" và đưa bộ ngực trần ra nói với họ :"Sẵn các anh ở đây thôi thì hãy cắt giùm cặp vú của tôi luôn giùm đi !" Cô nầy không phải là một cô gái ăn sương. Đài phát thanh đã loan báo là trong vài tuần lễ nữa, mọi người dân "nam cũng như nữ" đều phải mặc một loại quần áo như nhau: áo quần bằng vải thô nhẹ nhuộm củ nâu, màu đỏ nâu. Anh Phạm nhăn mặt, nhíu mày có vẽ hơi buồn cười, ngưng giây lát, xong lại tiếp tục nói nữa: -" Anh Pierre biết không ? bọn cộng sản cũng dùng nhiều trò tiểu xảo nhưng rất là đơn sơ và người ta cũng mắc bẫy như thường.Tôi sẽ kể cho anh nghe một giai thoại không quan trọng lắm, nhưng biểu lộ được cái cách của họ gạt gẫm những người chưa được cảnh giác. Một tháng sau khi Sài Gòn bị chiếm, một giờ trước khi thiết quân luật, tôi cùng một ông bạn giáo sư đi dạo cách rạp chiếu bóng Casino không bao xa. Thình lình chúng tôi nhận thấy hàng đèn trước quán rượu "Đêm Đông Phương" đã được bật cháy sáng và từ trong tiệm có tiếng nhạc xập xình vọng ra ngoài. Bạn tôi vừa cười vừa nói ; "Có thể họ đã mở cửa hộp đêm trở lại. Chúng ta hãy vào đây uống một ly cho nó bớt căng thẳng. Chúng tôi đẩy cửa bước vào. Có nhiều cặp đang nhảy trên sàn và ban nhạc đang chơi một bản nhạc giật gân. Quầy rượu cũng được thấp sáng, và có một số vũ nữ đang ngồi uống trên ghế cao trước quầy.Chúng tôi đang đi đến một cái bàn. Hai "bộ đội" đột nhiên xuất hiện từ phía sau một cây cột, chĩa súng vào chúng tôi và đẩy chúng tôi ra cửa , chẳng nói chẳng rằng. Ngày hôm sau chúng tôi được nghe một cô gái nhảy của tiệm Las Végas cũ giải thích câu chuyện đó như sau:" Chúng tôi hơn một chục người cả nam lẫn nữ đã được gọi tới một "sân khấu", là cái hộp đêm nầy, được trả cho mỗi người 1000 đồng và được đãi một bữa cơm. Bù lại chúng tôi phải nhảy với nhau suốt hai tiếng đồng hồ, "như hồi còn chế độ bù nhìn" vậy. Có những chuyên viên quay phim chiếu bóng của những nước cộng sản ở Âu Châu đến thu hình chúng tôi, và sau đó thì các anh bộ đội đã đưa chúng tôi về nhà bằng xe quân vận. Cuốn phim đó nghe nói sẽ được dùng để tuyên truyền ở ngoại quốc, để cho người ta thấy là chế độ mới thật sự đã quá dễ dãi. Một tuần lễ sau đó, họ lại làm y như vậy một lần nữa ờ nhà hàng "Arc en Ciel" trong Chợ Lớn, với những người khách ăn mặc sang trọng, với mọi thức ăn bày trên "búp phê" thịnh soạn, từ món heo quay vàng cháy, thịt heo ghim nướng, đủ thứ trái cây, rượu vang, rượu khai vị v.v.. nhưng tất cả khách hàng đều là đóng trò hết, họ được đãi ăn vì nhu cầu dàn dựng để quay phim. Cảnh phim được quay để nhằm cho thấy Sài Gòn không thiếu món gì, bởi vì các nhà hàng sang trọng vẫn tiếp tục được tiếp tế đầy đủ và thường xuyên. (1) - Và cái gọi là CPLTCHMN thì ra sao rồi ? trong tất cả những chuyện đó ? - Các tổng bộ trưởng của cái Chánh Phủ đó đã ở Sài Gòn nhưng không có gì để điều hành. Họ được ở trong những dãy nhà thuộc Bộ Tổng Tham Mưu cũ của Miền Nam, gần sân bay Tân sơn Nhứt . Có lính gác chung quanh doanh trại, súng ống hẳn hòi. Công an chánh trị Bắc Việt không rời họ nửa bước và họ không tiếp một ông khách nào. Các thành viên của "Ủy Ban Lãnh Đạo" thì ở trong thành phố, trong những khách sạn hạng nhì mà có nơi không có nổi một cái điện thoại. Thỉnh thoảng họ cũng có mặt trên khán đài. Lâu lâu từng định kỳ đài phát thanh và báo chí cũng có loan báo những bản tuyên bố hay đăng những bài nói về các "nhân vật của Miền Nam và của Miền Bắc", hay nói về đường lối chánh trị "không liên kết" của Miền Nam . Nhưng cũng không dối gạt được ai. Các sĩ quan Bắc Việt đồn trú đều mang phù hiệu của C PLT CHMN trên nón cối. Tôi đã có trò chuyện với một trong những sĩ quan nầy, một đại tá thuộc sư đoàn 320 B. Anh ta vừa nhún vai vừa nói với tôi: - "Chỉ là một phù hiệu thôi mà, cũng như những lá cờ vậy. Những dấu hiệu tượng trưng cần thiết để tiến hành "chiến dịch ************" thôi. Phải cho có một sự tin tưởng đó là bộ đội của CPLTCHMN đang giải phóng Miền Nam . Sự thật thì chúng tôi đều là quân đội Miền Bắc và do Hà Nội chỉ huy" Những gì mà đại tá đó đã nói với tôi đều được chứng thực bằng sự kiện.. Những người Bắc thì chiếm hết các biệt thự và nhà đẹp, các khách sạn hảo hạng, các cơ quan công cộng. Chỉ có họ mới được xử dụng các xe du lịch loại tớn của người Mỹ bỏ lại. Những những lãnh đạo cách mạng Miền Nam được chia ra làm hai thành phần: thứ nhứt là những người "tập kết", những người đã chọn lựa đi ra Miền Bắc hồi năm 1954, và thứ hai là những kháng chiến quân của Mặt Trận Giải Phóng. Cả hai thành phần đều chống người Bắc (nguyên tác :anti-Tonkinois).Họ bị đối xử như những người anh em nghèo và thực sự không được có một trách nhiệm nào rõ ràng hết, mặc dầu họ được gán cho những danh vị chánh thức. Tôi đã có trò chuyện với nhiều người trong số những anh "tập kết". Họ nói : "Ở ngoài Bắc, chúng tôi không phải là người ngoại quốc. Nhưng bây giờ thì chúng tôi đã về nhà chúng tôi rồi, chết sống gì chúng tôi cũng ở đây, chúng tôi không trở ra ngoài đó nữa đâu." Tình cảm của người dân Miền Nam mạnh hơn bao giờ hết. Cách xử sự của những người Miền Bắc trong tư thế chiếm đóng đã giúp cho người dân Miền Nam gắn bó với nhau hơn. Dân chúng Miền Nam không biết cười nữa rồi mà vẫn gọi người Bắc là bọn "xâm lăng" (nguyên tác:les "xam-lang" ), những kẻ xâm lược, hoặc những " cá rô cây" (nguyên tác : "caro-cay"). Danh từ khinh bỉ nầy muốn nói ra nhiều điều lắm. Con cá rô là loại cá mà người dân nghèo thường ăn. Vì có một số người Bắc đã làm những con cá rô bằng cây bỏ vào chén nước mắm để lúc nhìn thoáng qua cũng thấy họ có ăn cá, nhưng thực sự là họ chỉ có ăn cơm không mà thôi. Danh từ "cá rô cây" cũng đồng nghĩa với "đói nghèo mà kiêu căng". - Anh có nghe nói gì về kháng chiến hay là chiến khu gì không ? - Dĩ nhiên rồi. Chỉ cần đi một chút thôi, nghe đài phát thanh, đọc báo chí hay những thông cáo dán ở tường, thì thấy ngay bằng chứng. Tại Sài Gòn thiết quân luật đã được tái lập lại. Và đó không phải là chuyện đùa đâu. Về đêm "bộ đội" hễ thấy cái gì nhúc nhích là họ bắn liền. Đài phát thanh kêu gọi dân chúng hãy "tố cáo những người phản động nào còn lẩn trốn". Báo chí thường loan báo nhiều lần hàng tuần là "lực lượng an ninh đã bao vây và hạ sát những toán phản động còn ngoan cố giữ vũ khí đạn dược". Lúc đầu thì "bộ đội" bị đâm bằng dao găm, hay bị siết cổ. Đó là những hành động lẻ tẻ, do những phản ứng tức giận của một vài sĩ quan lạc lõng. Bây giờ thì đã có nhiều hệ thống, bắt đầu có tổ chức và những vụ ám sát có lựa chọn. Người ta thường nhắm vào các cán bộ và công an. Người ta làm giấy căn cước giả mạo. Có truyền đơn được rải trong trường học kêu gọi sinh viên ra chiến khu.Tất cả các sinh viên đâu có đễ bảo đâu. Có lần họ đã đánh một ủy viên của đại học. Vào cuối tháng 6, đã có một sự nhen nhúm biểu tình. Một cán bộ đã bị đập chết bằng búa. Người cầm đầu đã bị bắt và bị xử bắn ngay. Cái chết nầy đã làm cho sinh viên hoang mang.. Vào tuần lễ đầu của tháng 7, lại có xảy ra một chuyện rắc rối nữa trầm trọng hơn.. Sáu trăm sĩ quan thuộc QLV NCH (600) đi trình diện hồi tháng 5 đã bị đưa đi đến một trại tù khổ sai ở giữa rừng, ở vùng núi Bà Đen cách Sài Gòn khoảng hơn 100 cây số về hướng Bắc. Tình trạng sinh sống của họ rất là vô nhân đạo. Hằng ngày họ chỉ được phát có hai nắm cơm với muối và phải đốn cây to với những chiếc rìu thường, từ sáng cho đến chiều.. Một buổi sáng nọ vào cuối tháng 6, các "bộ đội" giữ họ (chỉ có chừng 100 chú) đã tập hợp họ lại và nói : "Các anh đông quá, nên vì lý do an ninh, chúng tôi sẽ cột các anh lại từng cặp hai người một". Các sĩ quan nầy phản đối :"Chúng tôi không có làm gì sai trái, chúng tôi làm việc như trâu rồi mà mấy anh còn muốn cột chúng lại như súc vật ? Chúng tôi không thể nào làm việc cặp đôi như vậy được, cũng không thể đi vệ sinh riêng rẽ được nữa." Các chú "bộ đội không cần biết và bắt đầu cột họ lại từng cặp với nhau. Bấy giờ các sĩ quan tù nhân mới chơi xả láng. Họ ùa vào tấn công các bộ đội giữ tù. Dĩ nhiên bộ đội đã nổ súng và có hơn 100 sĩ quan bị tử thương, nhưng những người khác đã tước được khí giới của bộ đội và đã tàn sát hết toàn bộ . Cộng sản đã đưa nhiều xe binh sĩ đến tăng cường và cuộc trấn áp thật là rất tàn nhẫn. Chỉ có một nhúm sĩ quan đã chạy trốn được vào rừng có mang theo vũ khí. Vài ngày sau, Bộ Nội Vụ đã loan báo trong một bản thông cáo báo chí là :" có vài trăm phản động đã chết trong một tai nạn trên đường Tây Ninh." Ngay sau khi được biết tin nầy, hàng trăm vợ con của những sĩ quan đã tụ tập trước Bộ Nội Vụ gần Nhà Thờ Chánh Tòa. Họ yêu cầu phải giải thích, họ đã xô đẩy các lính gác và chửi người phát ngôn viên của Chánh Phủ : - "Chúng tôi không tin. Không thể nào có đến hàng trăm người chết trong một tai nạn trên quốc lộ. hãy trả thây của chồng con của chúng tôi và chúng tôi sẽ thấy biết tại sao họ chết." . Họ quá bị khích động gần như cuồng loạn. Nhưng môt giờ sau đó, tất cả khu vực nầy được bộ đội đến bao vây, họ chĩa súng và lên cò súng liên thanh nghe răng rắc và các bà bị giải tán bằng báng súng. Đó là những gì đã xảy ra ở Sài Gòn , anh Pierre . Độc tài và chỉ có độc tài ! - Và đã có những gì đã xảy ra ở các tỉnh ? - Trong các thành phố ở Miền Tây, vì không có báo chí để có thể thấy được những gì đã xảy ra trong những ngày đầu của việc cưỡng chiếm, thật là đẫm máu. Công tác tái lập tình hình "đạo đức" thật là vừa tàn bạo vừa vụng về. Các cô gái và các bà còn trẻ bị buộc tội vì ăn mặc "lố lăng". Các buổi họp có nhảy đầm bị binh sĩ "công phẫn" giải tán, nhạc cụ bị tịch thâu vì đàn guy ta điện và cả bình điện là của đế quốc. Tòa án "nhân dân", cho hành quyết ngay. Cảnh Sát và cán bộ của tỉnh bị gán tội "tham nhũng". Quân đội Miền Nam không có hành động chống đối sau khi Sài Gòn bị chiếm.. Nhưng các đơn vị được phân tán và mới bắt đầu có những vụ đánh úp, sau đó vài tuần. Có mấy trung đoàn thuộc sư đoàn 21 bộ binh (một trong 3 sư đoàn đồn trú ở Tây Nam Sài Gòn ) đã đi vào vùng ly khai của Hòa Hảo. Như anh đã biết , Phật Giáo Hòa Hảo là một giáo phái địa phương chống cộng sản dữ dằn nhất và cũng được ghi nhận là không tùng phục chánh quyền trung ương. Họ vẫn có một lực lượng bán quân sự . Giáo phái nầy có mặt khắp trong số 11 tỉnh và có gần mấy triệu tín đồ. Vùng kháng chiến mạnh nhất của họ nằm gần biên giới Cam Bốt, trong tam giác Long Xuyên - Châu Đốc - Tân Châu, một vùng giàu có với nhiều sông rạch và ruộng lúa, một vùng chằng chịt đầy đường nước, dễ dáng chăng bẩy, dính liền với vùng núi Thất Sơn, Tôi đã dùng giấy tờ của anh tôi để đi xuống được Miền Tây thăm gia đình. Các trục lộ giao thông chính và các trung tâm thành phố đều được quân đội chánh quy Bắc Việt trấn giữ. Nhưng có vẻ như họ không được nghỉ ngơi theo kiểu dưỡng quân: thường xuyên có các đội tuần tiễu bằng chiến xa và binh sĩ luôn luôn để tay vào cò súng, còn pháo binh thì ở tư thế sẳn sàng tác xạ.. Các trục giao thông phụ và các đường nước thì không được họ kiểm soát. Có rất nhiều sông rạch, với nhiều nhánh tua tủa và nhiều bờ đê. Bây giờ thì ngược lại hết, đến lượt cộng sản bị phá rối, cộng sản phải gác và giữ cầu và phải duy trì trật tự.. Trong hiện tại thì họ không làm xuể. Cũng có nhiều nhóm dân quân tự xưng họ là người của Mặt Trận và họ không chịu nghe lệnh người khác. Có nhiều cuộc biểu tình và nhiều cuộc chống biểu tình. Kiểu như tình trạng vô Chánh Phủ giống như thời kỳ khởi nghĩa hồi 1945 vậy. Lực lượng phản loạn của Miền Nam táo bạo lắm, họ nã bách kích pháo, họ đặt mìn các cầu, kho xăng và kho đạn. Tại Cần Thơ, một trung tâm chính buôn bán lúa gạo của các tỉnh Miền Tây và là một giang cảng chính của Vùng Đồng Bằng, lệnh thiết quân luật được áp dụng rất nghiêm túc từ 6 giờ chiều đến 6 giờ sáng. Đã có nhiều đường dây vượt biên ra ngoại quốc. Nhưng phần nhiều là người Trung Hoa. Vì trước hết là các tàu đánh cá và các tàu hàng hải đã lấy tiền quá mắc : mười triệu đồng mỗi người cho một chuyến vượt biên. Và sau nữa là khi họ tới Mã Lai, Singapore, hay Thái Lan, thì ngay lập tức họ được cộng đồng người Trung Hoa ở quốc gia đó giấu kín, và có trách nhiệm làm giấy tờ hợp pháp cho họ. Trong khi người Việt Nam thì không có một tổ chức nào tiếp đón họ nên thường bị đuổi về. - Cộng sản họ không thể ngăn chặn được chuyện đó sao ? - Đâu có dễ dàng. Họ không có bao nhiêu tàu chiến. (Hải Quân Miền Nam đã đưa được hết tất cả tàu chiến loại đi biển về hết ở đảo Guam ). Bờ biển Miền Nam đã được phát triển tối đa và những người dân chài thuộc lòng hết từng chi tiết nhỏ của các sông ngòi từ những ngõ ngách cho đến các vịnh nho nhỏ. Tất cả những gì người cộng sản có thể làm được chỉ là tăng cường kiểm soát đường sông, bắt buộc hành khách nào đi đến các thành phố ở ven biển đều phải đi bằng các đoàn tàu có hộ tống. Ngoài ra cũng có một số chiến khu khác không phải ở Miền Tây. Thí dụ như ở vùng Đông Bắc của Sài Gòn, giữa Xuân Lộc và Phan Thiết, dọc theo Rừng Lá, có một số binh sĩ Dù thường chận xe đò rồi dẫn hành khách vào rừng để họ tuyên truyền chống cộng.. Các quân xa cộng sản cũng thường cán phải mìn. Một ông đại tá cựu tư lệnh lực lượng Đặc Biệt của Nha Trang và Biên Hòa đang chỉ huy hết vùng kháng chiến nầy. Ông đã tập trung được một lực lượng rất có kỷ luật khoảng vài ngàn người gồm có Dù, biệt động quân Thủy Quân Lục Chiến và những người chạy thoát được của sư đoàn 18 bộ binh . Họ chỉ chiến đấu về đêm. Trên vùng Cao Nguyên thì có lực lượng Fulro (Mặt Trận Thống Nhứt của các sắc tộc bị áp bức), một lực lượng đã từng không nhìn nhận chánh quyền của Tổng ThốngThiệu mà cũng đã bị cộng sản làm cho thất vọng. Họ vào chiến khu với khoảng 4 tiểu đoàn chuyên tác chiến vùng rừng rậm . Đặc công của họ đã tấn công Pleiku 2 lần. Trong vùng Hố Nai, những trận đụng độ đã tiếp tục xảy ra giữa những người công giáo và lính chánh quy Bắc Việt . Đã có gần 300 chú "bộ đội" đã bị giết từ sau ngày Sài Gòn bị chiếm. Con đường đi Dalat và đi Vũng Tàu bị cắt đứt nhiều lần. Ở về hướng Bắc của Sài Gòn có nhiều binh sĩ thuộc giáo phái Cao Đài đã vào rừng ở vùng Núi Bà Đen. - Có một Bộ Tham Mưu bí mật nào khả dĩ đủ khả năng để phối hợp thành một hành động chung giữa các lực lượng đó không ? - Tôi không có một chi tiết nào khác ngoài những gì mà tôi đã nói với anh. Các truyền đơn mà các lực lượng nầy rải ra có mang chữ ký của tướng Lạc, cựu Giám đốc Nha Chiến Tranh Chánh trị , của tướng Trưởng, cựu Tư Lệnh Vùng I , và của tướng Bùi thế Lân, cựu Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến . - Thế mà người ta nói là cả 3 tướng nầy đều đang ở Hoa Kỳ. - Cũng có thể lắm. Ai cũng biết là họ rất bình dân và anh em cựu quân nhân Miền Nam không biết là họ đã được người Mỹ bốc đi. Có thể là những sĩ quan chỉ huy các lực lượng kháng chiến đã dùng tên tuổi và uy tín của mấy tướng lãnh nầy để dễ kêu gọi và mộ thân binh cũng nên. Dù muốn dù không thì dân chúng ủng hộ những người kháng chiến mới nầy, tiếp tế cho họ và không tố giác họ. Anh Phạm lau mồ hôi trán và lại tiếp tục nói: - " Nầy anh Darcourt, tôi cũng cần phải nói với anh về người bạn của anh, Đức cha Thuận đó. Ngày 14 tháng 8 vừa qua, Đức Tổng Giám Mục Bình và Đức Phó Tổng Giám Mục của ông là Đức Giám Mục Thuận được gọi tới Dinh Độc Lập, nơi làm việc của Ban Quân Quản. Khi đến nơi thì người ta cách ly hai người ra. Đức Cha Bình phải ngồi nghe một bài diễn văn dài của chánh quyền . Người ta nói nhiệm vụ của ông là giữ gìn an ninh và trật tự trong cộng đồng giáo dân và theo dõi sát cộng đồng để họ thi hành nghiêm chỉnh luật lệ cách mạng . Vào cuối buổi nói chuyện, Đức Cha Bình yêu cầu họ giao hoàn lại cho ông Đức Phó Tổng Giám Mục . Người ta đã trả lời cho ông là : -"Đức Giám Mục Thuận đã được xe công an đưa trở về địa phận của ông ta ở Nha Trang. Sự có mặt của ông ở đây làm rối loạn trật tự công cộng" Giờ đây Đức Cha Thuận bị quản thúc trong một ngôi làng nhỏ cách thành phố Nha Trang vài chục cây số về phía Nam . Ông sống trong một căn nhà lá, mỗi ngày được lãnh 100 $ (tương đương với 50 xu đủ để ông mua vài món rau cải.) và 200 gram gạo (Khẩu phần hằng ngày của một trẻ em 6 tuổi), và không được tiếp bất cứ ai. Vả lại không phải chỉ có các linh mục công giáo là đáng cho mình lo lắng. Thượng tọa Thích trí Quang của chùa Ấn Quang, người đã góp công trong việc hạ bệ chế độ của Tổng Thống Diệm năm 1963 với chiến dịch tự thiêu của các sư sãi,, và là người chống đối tới cùng Tổng Thống Thiệu... đã bị bắt ngày 12 tháng 8 và bị giam vào phòng tối ở khám Chí Hòa. Từ lâu rồi Thượng tọa Thích trí Quang đã được coi như là người của cộng sản. Nhưng, từ sau ngày Sài Gòn bị chiếm, và cho tới khi ông bị bắt, ông không ngớt kêu gọi các tu sĩ của ông " thay vì tự thiêu thì hãy chết trong chiến đấu". Ngày 6 tháng 8, ông đã có một buổi họp ở sân chùa Ấn Quang và cực lực tố cáo "Các Ban Quân Quản Bắc Việt đã cho lệnh hành quyết quá nhiều người bằng vũ khí thô sơ". Chỉ vài ngày sau đó là công an mật đã đến bắt ông . Anh Phạm đến ngồi sát vào tôi, ôm cứng vai tôi và với một giọng gần như vừa thịnh nộ vừa tuyệt vọng anh nói : - " Thật là một thảm kịch. Tất cả mọi người ai cũng đã tưởng rằng sau khi Sài Gòn bị chiếm là phải có "hòa bình" và "hòa giải", và như thế là dân chúng Miền Nam không còn gì để mà lo sợ nữa. Thật là cả một sự điên rồ ! Nỗi lo sợ của ngày hôm nay còn tệ hơn nỗi lo sợ bị bom và đạn pháo nữa. Bởi vì nó không có thuốc chữa. Đây là một chứng bệnh nan y.. Những người không chịu bỏ súng xuống sẽ chịu đựng được bao lâu nữa ? hai năm ? ba năm ? nhưng cuối cùng rồi họ cũng sẽ bị tiêu diệt, nếu không có một người nào giúp họ. Nếy Hoa Kỳ muốn... - Không bao giờ , anh Phạm ơi ! Hoa Kỳ không có muốn nữa đâu. Họ sẽ không làm gì nữa cả. - Như vậy là sẽ có một cuộc nổi loạn. Một cuộc nổi dậy đầy tuyệt vọng của dân chúng Miền Nam . Anh cũng biết là cộng sản đã thả hết tù trong khám ra ? như thế là các khám đường sẽ không có trống lâu nữa đâu. Không bao lâu nữa nó sẽ đầy ấp tù nhân trở lại. Và chưa kể tất cả những trại cải tạo đã có trong rừng núi... đã làm chết dần chết mòn không biết bao nhiêu người, mà không có một nhân chứng... Tôi từ giã anh Phạm, bạn tôi, với lòng se thắt lại. Tôi biết rõ hệ thống tù đày mà anh vừa nói với tôi. Tôi đã từng là tù nhân của người Bắc Việt. Không có một sự nhân đạo nào được tách rời khỏi những mục tiêu mà người cộng sản đã nhắm vào. Phương pháp của họ, đặt trên nền tảng bí mật và tuyệt đối khắc nghiệt, là bất di bất dịch. Miền Nam Việt Nam đang bị biến đổi tận gốc rễ. Nếu cho là còn quá sớm để có thể đoán được kết quả sau cùng, thì lúc nào người ta cũng có thể dựa vào các biện pháp mà họ đang thực hiện để nhận định được đường hướng của sự biến đổi đó. Kể từ lúc Sài Gòn bị chiếm , và từ khi chế độ cũ bị sụp đổ ngày 30 tháng 4, trên phương diện hành chánh, Miền Nam Việt Nam đã bị đặt dưới quyền cai trị của các Ban Quân Quản ở trung ương Sài Gòn hay ở các tỉnh, trên thực tế không có liên lạc gì với nhau cả. Vấn đề được đặt ra là "một Chánh Phủ dân sự" trong tương lai sẽ được thành lập ở Sài Gòn ; nếu không có thực quyền thì Chánh Phủ nầy sẽ chỉ là một phái bộ đại diện của Chánh Phủ Hà Nội trong những lãnh thổ bị chiếm đóng mà thôi.. Các cơ quan hành chánh và quân sự sẽ bị ám ảnh vì những vấn đề chánh trị và những bài toán về an ninh; nhiệm vụ chủ yếu của họ là chuyển đổi tâm trạng và tinh thần của dân chúng Miền Nam cách nào để họ có thể chấp nhận một cuộc thống nhất nhanh chóng hai Miền Nam Bắc Việt Nam . Nỗ lực trước tiên là phải tiến tới việc đặt một nền tảng chánh trị và một cơ cấu hành chánh mới, nhằm bảo đảm cho dân chúng có được một môi trường vững chắc hầu tránh mọi lệch lạc về tư tưởng cũng như về hành động. Đồng thời cũng phải có nỗ lực về sự tổ chức và điều hành các trại tập trung cải tạo trong đó hầu hết các cựu cán bộ quân cán chánh phải chịu qua một thời gian tùy theo sự tiến bộ của các tù nhân theo như báo chí của Chánh Phủ đã loan báo. Các vấn đề kinh tế chỉ là hàng thứ yếu và không phải là mối bận tâm của chánh quyền mới. Không có gì gấp rút phải làm cho bộ máy kinh tế chạy lại, và một sự trì hoãn như vậy ở Miền Nam được giữ cùng lúc với sự hạ thấp mức sống của người dân sẽ giúp thống nhất dễ dàng hơn với Miền Bắc vốn đã nghèo đói sẳn từ lâu rồi. Ngoài ra vì con số thất nghiệp tăng lên quá nhanh, một phần dân chúng Miền Nam bị đói; hành động phát gạo cho các gia đình không có lợi tức, và cho thợ thuyền của nhiều xí nghiệp, đã tập cho dân chúng Miền Nam thói quen nhờ vả vào chánh quyền . Một hành động quan trọng khác được tiến hành để buộc những người dân lánh nạn, những người không có công ăn việc làm và tất cả những người "vô ích" phải rời khỏi thành phố để trở về nguyên quán, hoặc đi định cư trong những vùng ít dân cư mà chánh quyền đã quyết định nâng lên hàng có giá trị. Chủ tịch Huỳnh tấn Phát vừa tuyên bố là 3 triệu rưởi người phải rời khỏi thành phố ( trong số đó chỉ riêng thành phố Sài Gòn đã có 1 triệu rưởi). Mặc dầu có nhiều cố gắng trong công tác tuyên truyền và kích thích về vật chất, dân chúng chỉ trở lại ruộng rẫy của mình hết sức chậm chạp. Nền kinh tế Miền Nam đang xuống dốc vì nạn lạm phát phi mã do không có thu nhập công cộng, do vì nền hành chánh cũ đã biến mất, do vì sự ngưng trệ gần như hoàn toàn của mọi hoạt động kinh tế . Từ ngày 1 tháng 5 đến 1 tháng 8, giá cả đã tăng vụt, lên 70%. Từ những lời tuyên bố của những đại biểu đến từ Hà Nội, người ta suy ra là Miền Bắc có khuynh hướng về kỹ nghệ, và Miền Nam thì có khuynh hướng về nông nghiệp.. Do đó mới có nhu cầu chuyển số lớn dân chúng từ thành thị về thôn quê, và chuyển cơ sở kỹ nghệ từ Miền Nam ra Miền Bắc . Chương trình của CPLTCHMN đã có ghi rõ là tài sản của tư nhân sẽ được giữ lại và đời sống cũng như tài sản của người ngoại quốc sẽ được bảo vệ. Tuy nhiên có nhiều tin tức có thẩm quyền từ Hà Nội và đặc biệt là bài báo được đăng ngày 28 tháng 5 trong tờ Nhân Dân, một bộ phận của đảng cộng sản, đã cho thấy nhiều hạn chế trầm trọng trong bản tuyên bố của CPLTCHMN , như : Chỉ có tài sản của tư nhân thuộc các xí nghiệp nào không có cộng tác với đế quốc hay với chánh quyền phản động cũ thì mới được bảo đảm được giữ lại. Ông Phó Chủ Tịch của "Tổng Liên Đoàn Lao Công Tự Do" vừa tuyên bố là 70 phần trăm các xí nghiệp của Miền Nam Việt Nam kể từ nay sẽ được đặt dưới sự quản lý hành chánh . Có rất nhiều quyết định đã khiến cho nền kinh tế tự do bị sụp đổ. và đẩy các xí nghiệp đến chỗ phá sản hoặc bị chánh quyền cộng sản "quản lý" : - đóng cửa các ngân hàng ngay từ ngày 30 tháng 4 và phong tỏa các chương mục gởi tiền tiết kiệm, nhưng lại bắt buộc phải trả tiền ứng trước của ngân hàng; một hệ thống ngân hàng mới được thiết lập thật chậm chạp, nhưng chỉ có những xí nghiệp có "phép điều hành" mới xử dụng được. - bắt buộc các xí nghiệp phải gánh chịu các chi phí quan trọng: tái thu nhận các nhân viên đã bị sa thải từ trước ; Phải trả lương cho thợ thuyền không làm việc (vì xí nghiệp bị đóng cửa theo lệnh của chánh quyền); phải trả tiền bồi thường cho nghỉ việc thật nặng, từ ngày 30/4 / 75, cả cho nhân viên không bị sa thải hay không xin nghỉ việc. - có biện pháp "cấm bán" mà không nghĩ gì tới nhu cầu của xí nghiệp hay các nhu cầu của thị trường. - quyết định "quản lý" các xí nghiệp mà chủ nhân đã rời khòi nước Việt Nam hay những xí nghiệp nào mà chánh quyền còn nghi ngờ về chủ quyền thật sự của những người chủ nhân. - Không có một khả năng nào để nhập cảng hay xuất cảng. - Thông tin và Liên lạc với thế giới bên ngoài bị co cụm lại chỉ còn có điện báo. Đường thơ tín chỉ được thiết lập lại vào ngày 1 tháng 9, nhưng giới hạn không quá 500 gram. Chánh quyền mới kiểm soát thật chặt chẽ và độc đoán tất cả các ngành kinh tế . Kể từ ngáy 30 tháng 4, mà cộng sản gọi là "ngày giải phóng", Ban Quân Quản nắm quyền kiểm soát hầu hết các xí nghiệp; trong hai tháng, hoạt động chính yếu của họ chỉ có thiết lập các bản kiểm kê tất cả tài sản, bất động sản và động sản và các kho tàng hiện hữu. Từ ngày 1 tháng 7, có những vị "Giám Sát Trung ương" được đặt vào các xí nghiệp. Họ là đại biểu của chánh quyền , vừa là Giám Sát, kiểm tra tài chánh, vừa là cán bộ của Chánh Phủ, có đầy đủ thẩm quyền điều tra rộng rãi. Tất cả mọi dịch vụ của xí nghiệp đều phải được "khán" qua và "chấp thuận" của những vị Giám Sát nầy. Tuy nhiên chủ nhân của xí nghiệp vẫn cón trách nhiệm đối với xí nghiệp, mặc dầu đã mất hết quyền hành. Có những công ty quốc doanh hay những tổ chức "bán chánh thức" được thành hình để bảo đảm việc phân phối hay bán ra hết mọi sản phẩm làm ra; các xí nghiệp không được quyền từ khước dịch vụ của những tổ chức đó. Giá cả được chánh quyền đơn phương ấn định, nhưng các nơi mua trả tiền thật chậm trể. Có một số cơ quan quân sự hoặc hành chánh đã đem bán lại ngoài thị trường tất cả hay một phần hàng hóa mà họ đã mua được của các xí nghiệp. Kế hoạch sản xuất và những sự hướng dẫn đều được các Bộ ở Hà Nội thiết lập; không có một cơ quan hành chánh kinh tế nào thật sự có mặt ở Sài Gòn . Hầu hết tất cả dịch vụ xuất nhập cảng đều ngừng hẳn. Tất cả những giao dịch với ngoại quốc được giới hạn trong vài chuyến hàng lặt vặt do những "quốc gia anh em" gởi tặng với tư cách nhân đạo (lương thực và xăng dầu của Liên Xô, đường của Cuba v.v..) Những hiệp ước hữu nghị và hợp tác kinh tế được ký với Liên Xô, với Algérie, với Lybye và Irak đã được chánh quyền loan báo, nhưng nội dung không bao giờ được tiết lộ. Úc Châu cũng như một số quốc gia Bắc Âu cũng có hứa sẽ viện trợ kinh tế . Có nhiều kho dự trữ hàng hóa coi như sẵn sàng để xuất khẩu, nhưng do vì chánh quyền hoàn toàn không có đủ khả năng, nên số hàng hóa đó vẫn bị phong tỏa tại chỗ. Tương lai của các xí nghiệp Pháp bị liên lụy rất trầm trọng. Không có một thể thức chánh trị tổng quát nào được ấn định. Những sự trưng dụng và những sự tạm giữ đương nhiên đã làm hại các xí nghiệp Việt Nam và của Pháp không phân biệt, theo từng lãnh vực hoạt động, như những ngân hàng và những đồn điền lớn. Một số dịch vụ được dành riêng cho chánh quyền (thuê bao phương tiện hàng hải và cước phí cho tàu bè). Buôn bán qua dịch vụ nhập cảng cũng thuộc độc quyền của Nhà Nước. Không còn gì nghi ngờ là Hà Nội đã có vẻ chống đối sự duy trì những hoạt động kinh tế của người Pháp. Vị thế của Hà Nội xem ra rất là đơn giản: Vào năm 1954, tất cả mọi quyền lợi của người Pháp ở Bắc Việt đều mất sạch tiếp theo sự kiện Điện Biên Phủ. Năm 1975 ngày nay quyền lợi của người Pháp chắc cũng sẽ bị mất hết ở Miền Nam Việt Nam sau ngày cộng sản chiếm được Sài Gòn. Chưa có một lời tuyên bố chánh thức nào được loan báo theo chìu hướng nầy , nhưng các cán bộ cách mạng đã nhiều lần khoe khoang với cử tọa Việt Nam về sự tình nầy. Hầu hết các xí nghiệp Pháp đang lâm vào tình trạng sắp bị phá sản, trừ một vài trường hợp ngoại lệ đặc biệt có được hoàn cảnh may mắn (còn tồn trữ được nhiều nguyên liệu lúc mất Miền Nam , hay xử dụng nguyên liệu địa phương): - tiền mặt trong kho đã cạn, chi thường quá cao mà thu thì không có gì, đã không nhận được tiền ứng trước của ngân hàng, mà còn phải hoàn trả các khoản cho vay của ngân hàng từ trước ngày mất Miền Nam . - Nguyên liệu tồn trữ cạn dần mà hoàn toàn không có khả năng thay thế trong tất cả mọi trường hợp. - Trước tiên lá chánh quyền quân sự, bây giờ có khi là chánh quyền dân sự , nhưng trong mọi trường hợp cả hai đều không chút quan tâm đến tương lai của các xí nghiệp. - Nghiệp vụ bán sản phẩm đã bắt đầu được các tổ chức "Bán-Chánh Phủ" ưu ái lo lắng hết giùm. - Tất cả các chủ nhân xí nghiệp đều mất hết quyền quyết định. Nếu vì nhờ sự khéo léo của các vị giám đốc và nhờ họ có giúp đỡ qua lại giữa họ với nhau , nên phần lớn các xí nghiệp chưa đóng cửa, một số khá lớn công ty đã quyết định cho hồi hương nhân viên người Pháp. Văn phòng và Ban Điều Hành của Phòng Thương Mãi Pháp chỉ còn có 12 trên 32 người hiện diện trước khi Sài Gòn bị chiếm đóng. Các xí nghiệp chi dùng tất cả những gì mà họ hiện có; hầu hết đều bị đẩy vào tình thế suy sụp mà vì họ còn cố gắng giữ cho xí nghiệp không bị phá sản nên tình trạng tài chánh của họ càng ngày càng thêm bi đát. Từ bây giờ là đã có một số xí nghiệp thấy cần phải đi đến quyết định đóng cửa. Nhưng chánh quyền quân sự đã chẳng những không cho phép mà họ còn bắt buộc họ phải tiếp tục trả lương cho nhân viên của họ; ngay như chuyện cho nghỉ việc từng phần cũng bị cấm. Và như thế là các giám đốc công ty, xí nghiệp người Pháp đang trở thành những "con tin" của thợ thuyền. Trên bình diện nhân viên, người Pháp ở mọi đẳng cấp đều rất chán nản. Từ hơn 4 tháng nay họ không được ra khỏi Sài Gòn và không nhận được thư từ báo chí nào hết. Tình trạng sinh sống của họ thật là rất khó khăn. Thuốc men tìm không ra , và các bệnh viện thì cũng không có thuốc. Không có một quyết định nào cho ngày tựu trường. Mọi sự liên lạc với chánh quyền đôi lúc không được nhã nhặn lắm, và rất là khó khăn với các Ủy Ban cách mạng . Có quá nhiều chuyện tịch thu nhà cửa. Không có một sự bảo đảm nào để tìm lại được căn nhà và bàn tủ ghế của mình lúc mình vắng mặt, mà cũng không được phép gởi hay mang theo những vật dụng cá nhân của mình, nếu có may mắn được rời khỏi Sài Gòn . Xin được một chiếu khán xuất cảnh không có nghĩa là sẽ có được một chỗ trên phi cơ. Và có được một chỗ trên chuyến bay không có nghĩa là vào được phi trường; đã có nhiều chuyến đi bị hủy bỏ vào giờ chót. Và cứ thế hầu hết người Pháp đều mong mỏi được rời khỏi Việt Nam . Do đó, giữ được quyền lợi kinh tế của người Pháp ở Việt Nam quả là một điều quá không chắc chắn, vì nó tùy thuộc hoàn toàn vào những yếu tố chánh trị . Những hoạt động quan trọng đã không còn nữa; các ngân hàng bị chiếm hữu và bị tịch thu, các hảng bảo kê đang nằm chờ để "tự giải tán", chuyện ký gởi tàu thuyền và môi giới hàng hải đã bị cấm; nghiệp vụ nhập cảng thì cũng bị cấm, hàng xuất khẩu của các đồn điền lớn bị "quản lý" (tạm giữ) Nói một cách tổng quát thì tất cả những xí nghiệp (lớn nhỏ, hay trung bình) được xem như bị tiêu tan trong một thời gian quá ngắn. Những người đại diện cho quyền lợi kinh tế của người Pháp ở Việt Nam đã mất hết hy vọng đã rời khỏi Việt Nam hay đang cố gắng để rời khỏi nơi đây. Những biện pháp mới liên quan đến sự ra đi của những người có trách nhiệm trong xí nghiệp đã biến họ thành những con tin trong tay chánh quyền và những Ủy Ban Cách mạng ở địa phương.. Xí nghiệp thì bị cấm không cho đóng cửa , mà nhân viên thì phải được tiếp tục trả lương ! Một sự tranh chấp rất nặng nề đang sắp được diễn ra... -------------------------------------------------------------------------------- Chú Thích: (1) Có một cuốn phim loại được anh Phạm vừa kể cho tôi nghe đã được chiếu thật sự ở Tây Đức, cách đây 2 tháng. |
|
IP Logged | |
Hoàng Dũng
Senior Member Tham gia ngày: 08/Nov/2008 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 592 |
Gởi ngày: 21/Dec/2008 lúc 10:46pm |
Chương 27CHƯƠNG HAI MƯƠI BẢY "30 NĂM CHIẾN TRANH: KHÔNG GIẢI QUYẾT ĐƯỢC GÌ CẢ! " Lúc tôi rời khỏi Miền Nam Việt Nam (lần cuối cùng) vài giờ trước khi mất Sài Gòn , tôi đã tưởng rằng mọi việc đều đã được chấm dứt. Miền Nam đã thất trận. Khi đã thua rồi thì Miền Nam chỉ còn có phục tùng theo luật lệ của kẻ chiến thắng mà thôi. Không còn nghi ngờ gì nữa là Sài Gòn sẽ sống dài dài, sống mãi thật là lâu dài với giờ Hà Nội . Một trang sử đẫm máu hình như đã được vĩnh viễn lật qua. Sợ hãi và chết chóc đã được gạt bỏ ra khỏi quốc gia nầy rồi, một đất nước quá đói nghèo và quá đau khổ. Nhiều tháng đã trôi qua và tất cả hình như không quá đơn giản như tôi đã tưởng như vậy . Những tiếng vang cuối cùng đến tai chúng tôi từ Miền Nam Việt Nam đã cho thấy là mọi việc đã không được tốt lắm. Sài Gòn và Đồng Bằng sông Cửu Long đầy rẫy các trung đoàn quân chánh quy Bắc Việt quá bực bội vì dân chúng có vẻ như không phục tùng. Các cựu chiến binh Miền Nam còn chưa chịu buông súng xuống hết. Có những chiến khu đang được hình thành , một số sinh viên đã vào đó. Dân chúng yểm trợ họ. Tình trạng mất an ninh đang lan rộng. Cuộc trấn áp được coi là quá khắt khe. Tình trạng thiết quân luật chưa bao giờ được bãi bỏ. Các cuộc bắt bớ càng ngày càng tăng. Tiếng đại bác vẫn còn nổ rền trên đồng ruộng và đêm đêm người ta vẫn còn nghe nhiều tràng súng liên thanh tự động. Đã có nhiều người ngoại quốc ra đi. Các giáo sĩ thì bị trục xuất. Cái được gọi là CPLTCHMN thì không có thực quyền. Ngày 2 tháng 9 vừa qua trong một cuộc diễn binh vĩ đại được tổ chức để kỷ niệm này lễ độc lập lần thứ 30, tất cả các "xe chỉ huy" đi trước các đơn vị chỉ mang có một lá cờ duy nhất - lá cờ đỏ sao vàng - , lá quốc kỳ của Miền Bắc Việt Nam . Luật sư Nguyễn hữu Thọ, người Miền Nam , đã từng là một nhân vật thuộc giai cấp tư sản của thành phố Sài Gòn trước khi gia nhập vào lực lượng cách mạng và trở thành Chủ Tịch của "Mặt Trận quốc gia Giải Phóng", đã lên khán đài để đọc một bài diễn văn dài để nói lên "sự vui mừng vì nước Việt Nam đã không còn bị chia cắt và đã hoàn toàn tự do, độc lập và thống nhất từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau" Không còn một ám chỉ nào đến những chủ đề trong quá khứ về "hai chữ Miền Nam " hay về sự tôn trọng "dư luận của số đông quần chúng" Báo chí chánh thức ở Sài Gòn trình bày ngày nầy qua ngày khác những chiến thắng của quân đội giải phòng Bắc Việt , của Khờ Me Đỏ, của Pa Thet Lào như là một chiến thắng chung của một Mặt Trận Cách Mạng duy nhất bao gồm cả Đông Dương, xem như một Liên Bang mà Hà Nội sẽ là người lãnh đạo. Các đồng hồ của Sài Gòn được kéo lùi lại 60 phút, để theo đúng với giờ Hà Nội, mà theo lời xác nhận của người nữ xướng ngôn viên của Đài Phát Thanh Giải Phóng đọc trước mỗi bản tin tức, kể từ nay sẽ là "giờ chánh thức của Đông Dương" Ca tụng một chiến thắng đã từng được mong đợi từ lâu, đã đưa những người lãnh đạo Miền Bắc Việt Nam đến chỗ hết lời tán dương sự hình thành của một khối đấu tranh chống đế quốc gồm có những chế độ tiên tiến hiện hữu và tương lai , bành trướng xuống hết miền Đông Nam Á Châu. Nhưng trong khi Hoa Kỳ rút lui, họ đã để lại trên đất nước Việt Nam hai cường quốc xã hội chủ nghĩa là Liên Xô và Trung Quốc chia rẽ nhau vì một sự tranh giành ảnh hưởng ý thức hệ và vì một sự đối đầu truyền kiếp.. Đã thấy có nhiều sự rạn nứt giữa hai nhóm thân Nga và thânTầu. - Bên Lào, nhóm Thân Nga đã thắng thế vì có Hà Nội đỡ đầu. Nhưng Trung Quốc thì nắm chặt Bắc Lào và hai con đường chiến lược được 3 sư đoàn và một lực lượng phòng không hùng hậu bảo vệ. Quân đội hoàng gia Lào, hùng hậu với 60.000 người đã bị giải tán. 3000 sĩ quan của lực lượng nầy bị lưu đày lên Sầm Nứa ( vùng Cao Nguyên Bắc Việt) để "học tập cải tạo", và tất cả binh sĩ của họ đều bị nhốt trong các trại lao động khổ sai. 1.500 chuyên viên Liên Xô và 400 chiếc phi cơ của hãng Aéroflot đã đến thay thế các chuyên viên Mỹ và các phi cơ của hãng Air América (hãng hàng không riêng của Trung ương Tình Báo CIA ). Họ đảm trách công tác tiếp vận và tất cả mọi liên lạc của Pathet Lào (quân đội cộng sản Lào). Hoàng thân Souvanna Phouma, vị Chủ Tịch được chỉ định của Chánh Phủ Liên Hiệp Lào chỉ giữ một vai trò tượng trưng, và sẽ rút lui vĩnh viễn sau những cuộc bầu cử vào tháng 4 năm 1976. - Tại Cam Bốt, các nhà ngoại giao Liên Xô đều bị trục xuất và cộng sản Tầu đang ở trong thế mạnh. Nhưng các phi cơ nào muốn đáp xuống phi trường Phnom Penh đều phải đánh một vòng chừng 1500 cây số để tránh không bay ngang qua lãnh thổ Việt Nam , ở đó sự có mặt của Liên Xô càng ngày càng mạnh. Những chiếc tàu đầu tiên cập bến vào các cảng Sài Gòn và Đà Nẳng là những chiếc tàu chở dầu và chở hàng của Liên Xô. Mạc tư Khoa đã bí mật và cứng rắn cho Bắc Việt biết là họ đặt quyền lợi của họ vào việc xử dụng căn cứ Không quân và Hải quân ở Cam Ranh , một vị trí chiến lược hàng đầu ở nửa đường giữa Hong Kong và Tân gia Ba, một căn cứ mà Hoa Kỳ đã bỏ ra mấy trăm triệu mỹ kim để thiết lập và xử dụng. Bộ chỉ huy tối cao của Liên Xô coi việc nhượng cho họ được quyền xử dụng căn cứ Cam Ranh chỉ là một sự bồi hoàn hợp lý đối với một số lượng phương tiện khổng lồ mà Liên Xô đã từng giúp và viện trợ cho Bắc Việt trong suốt thời gian cuộc chiến tranh giành độc lập. Với sự tái mở lại sự lưu thông trên kinh đào Suez, việc xử dụng được căn cứ Cam Ranh sẽ là một trạm chủ yếu giữa các căn cứ của Liên Xô từ Ấn độ Dương ở phía Nam (đảo Socotra, Berbara ở Somalie) đến mũi Vladivostock ở mạn Bắc. Các hạm đội của Liên Xô do đó sẽ có thể mở rộng phạm vi hoạt động trên Biển Đông của Trung Quốc hết sức an toàn. Tuy vậy nhưng muốn đi đến một Hiệp định cũng sẽ không dễ dàng lắm đâu. Bắc Kinh không bao giờ muốn thấy sự bố trí của một kẻ địch lảng vảng ở ngoài khơi cách bờ lục địa của mình không xa, để có thể đe dọa mình, sau sự lui binh của Hoa Kỳ . Chánh Trị Bộ của Hà Nội tuy phần lớn đều "thân Liên Xô", nhưng cũng có một số "thân Tầu" mà vị thế chánh trị cũng nặng ký lắm như Nguyễn lương Bằng Phó Chủ Tịch nước, Trường Chinh, Chủ tịch Quốc Hội, và Hoàng văn Hoan, Tổng trưởng Nội Vụ. Một vấn đề khác làm cho Bắc Kinh nổi giận: đó là số phận của trên một triệu rưởi người dân Trung Hoa đang ở Miền Nam Việt Nam . Khi bộ đội chánh quy Bắc Việt vào Sài Gòn , tất cả thương gia người Tầu ở Chợ Lớn đều đã treo trước cửa tiệm của họ lá cờ của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Nhưng họ được lệnh phải tháo xuống ngay. Những người Tầu nầy quá đông và sống rất có tổ chức, đã kiểm soát tất cả nền kinh tế và hệ thống phân phối ở Miền Nam , và như thế là họ siết chặt quá nặng nề hành động của Hà Nội . Nếu họ được Bắc Kinh bảo vệ, họ sẽ thoát khỏi gọng kềm của Hà Nội ngay. Qua nghị định của Tổng Thống Diệm từ năm 1956, họ được nhập quốc tịch Việt Nam , và giờ nầy họ vẫn tiếp tục còn mang quốc tịch Việt Nam và vẫn được coi là "dân Việt Nam " Một chiến dịch hung bạo đang được tiến hành để đánh vào những người đầu não của những người Tầu nầy mà họ gán cho một danh từ xấu xa là "tư sản mại bản", được người ngoại quốc trả lương. Đài phát thanh cộng sản đổ hết trách nhiệm cho họ về chuyện giá cả thị trường đang tăng vọt, do họ đầu cơ tích trữ làm cho hàng hóa khan hiếm . Ngoài ra chánh quyền cộng sản còn buộc tội họ là đã phá hoại cuộc cải cách tiền tệ vừa rồi. Đài phát thanh còn loan báo tên tuổi của họ, loan báo đã bắt được nào là ông "vua gạo", ông "vua thuốc lá", "vua cà phê", "vua vận tải", "vua ngư trường", "vua thuốc tây" v.v..Một nhân vật cộng sản vừa thay thế Trần văn Trà trong chức vụ Trưởng Ban Quân Quản Sài Gòn Chợ Lớn là Mai chí Thọ, một người lai Tầu, là người đang có trọng trách điều hành chiến dịch đánh "tư sản mại bản" đã nói : - "Chúng tôi phải ngăn chận bọn tôi tớ của đế quốc, không cho họ tiếp tục làm đội quân thứ năm nhằm làm hại nền kinh tế của đất nước". Người Tầu phản ứng lại với mối đe dọa nầy bằng cách làm nhiều bản kiến nghị ủng hộ đường lối chánh trị của Chủ Tịch Mao trạch Đông. Thống nhất đất nước bằng võ lực không giải quyết được gì cả. Nước Việt Nam vẫn là miếng mồi ngon để cho các thế lực ngoại bang tranh nhau giành giựt. Cũng như việc ký kết Hiệp Định Ba Lê không thể đi tới chấm dứt được chiến tranh, chuyện áp dụng biện pháp quân sự để chiếm thủ đô Sài Gòn và xâm chiếm cả Miền Nam Việt Nam ... đã không chấm dứt được những nỗi đau khổ của một dân tốc vốn đã rách nát. Cách mạng Miền Bắc quá hung hăng và háo chiến đã dựa trên nguyên tắc "chánh quyền ở đầu lưỡi lê họng súng" để thiết lập đường lối hành động của mình. Hà Nội đã lựa chọn con đường khư khư quá cứng rắn. Miền Bắc chẳng những muốn thống trị Miền Nam , mà còn muốn hài tội họ, ép buộc và thuyết phục họ phải đi theo ý thức hệ của họ, một sự thật mà Hà Nội nghĩ rằng chỉ có Hà Nội mới là người duy nhất được nắm giữ. Con đường quá dài đó có đầy chướng ngại, đầy áp bức, đầy chết chóc, nhục nhã... không thể dẫn tới hòa bình được, một nền hòa bình mà cả dân tộc đang mong đợi từ 30 năm qua, trong tình trạng chia rẽ vì bị đổ quá nhiều máu, có quá nhiều tang tóc, và quá nhiều đau khổ. Có một cách duy nhất dể cho những người chiến thắng hàn gắn lại tất cả các vết thương còn đang rướm máu và quá nhức nhối nầy, đó là họ phải cố gắng đè nén lòng kiêu căng qua chiến thắng của họ xuống, để công bố ngừng tranh luận về ý thức hệ, để chứng minh cho người ta thấy tấm lòng độ lượng của mình. Sự thống nhất thật sự phải đi qua con đường "hòa bình của con tim", trở lại những truyền thống cũ của đạo lý và sự khoan dung. Đó là con đường xoa dịu nhân tâm. Chỉ có như vậy thì cả hai Miền Nam Bắc mới họp nhau lại thành "Một Đất Nước Duy Nhất" của một "Dân Tộc Duy Nhứt" trên 80 triệu người dân tự do trong tình anh em được . Một đất nước giàu có và phồn thịnh, có nhiều tài nguyên thiên nhiên gần như vô tận với những cánh rừng nguyên thủy, với nhiều con sông lớn đầy phù sa, với ruộng đồng bao la bát ngát, với những mỏ than lộ thiên, với những mỏ dầu, với những bãi cát trắng và những hải cảng kín gió mùa.... Một dân tộc có tay nghề khéo léo, đảm đang và siêng năng cần cù rất hãnh diện để được nhận lấy một chỗ đứng xứng đáng trong cộng đồng thế giới...... Đây có phải là một giấc mơ không hiện thực? để cuối cùng hé mở được bức màn đầy máu đỏ, đang đè nặng trên mảnh đất đang bị dày vò nầy, để nhìn thấy được một đất nước không còn hận thù và không còn chiến tranh, ở đó những người cùng một giống nòi đang cố tìm lại con đường hạnh phúc của họ? Pierre Darcourt |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 3 |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |