![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Tâm Tình | |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 133 |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23600 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23600 |
![]() ![]() ![]() |
Con Đường Của HạNgày Hạ tới xóm Cây Xoài, trời ngập gió. Gió cuộn từng đợt, ào ạt,
ngang tàng, ở quê người ta kêu là gió Nam cồ. Chỉ có gió với chị là quen, còn lại
tất thảy đều xa lạ. Lạ nhứt là cái giọng bẳn hẳn, nặng nặng của bà chủ nhà trọ:
“Một triệu đồng. Giá rẻ bèo cho nên đừng có trả. Tháng nào đóng tháng nấy,
thong thả thì sáu tháng đóng một lần”. Chị đưa mắt, ý hỏi em thấy sao. Hạ ngước nhìn mái tôn, nghĩ thấp vầy chắc nóng.
Nhưng làm gì có chỗ nào rộng rãi mát mẻ mà giá chỉ một triệu đồng một tháng, lại
gần thiệt gần con đường của Hạ như chỗ này?
“Dạ, được đó chị”.
Vậy là ngay trong buổi chiều cuồn cuộn gió, phòng trọ cuối cùng trong xóm Cây
Xoài được lấp đầy bằng người đàn bà da ngăm, đôi mắt buồn buồn ngơ ngác và đứa
nhỏ tóc cháy nắng khét lẹt. À, còn có cái ba lô tuột đường chỉ, đựng mấy bộ quần
áo nhàu nhò, chai dầu gió đã lưng một nửa, kem bót đánh răng, con gấu bông hẩm
xì và cái giỏ nhựa căng phình đựng bếp ga mini cùng xoong nồi chén đũa.
Trước khi rời đi, chị mở túi xách, lấy ra hai tờ năm trăm giúi vô tay: “Em mua
cái quạt với miếng nệm mỏng mỏng để hai mẹ con nằm. Rồi từ từ thu xếp”. Hai tờ
bạc ấm lên trong bàn tay chai ngắt bởi cán cuốc cán rựa. Hạ lí nhí cảm ơn.
Má gọi xuống bằng cái điện thoại cùi bắp, hỏi sao rồi sao rồi? Nghe nói mùng 6
tốt ngày đó con… Hạ cười hì hì: “Công ty kêu đi lúc nào thì mình đi lúc đó, làm
sao mà coi ngày giờ cho được”. Má chắp lưỡi, nói ở thành phố thiệt khác với
trên quê.
Khác nhiều chớ. Riêng con đường đã khác quắc.
Nó rộng thênh, láng o chớ không ốm yếu hụt hử như con đường trước nhà, càng
không giống con đường trơn như đổ mỡ mà chồng Hạ đã đi qua.
***
Mưa xộc tới lúc xế chiều. Trời đang chan chát nắng bỗng nhiên cau có, gầm gừ.
Mây kìn kìn kéo tới, nhào lộn trên đầu. Hạ lật đật lấy tấm bạt nhựa phủ lên mấy
bao lúa dựng ngoài hàng ba.
Con Mía từ nhà ngoại chạy về, nói trên trời thấy sợ lắm má ơi. Hạ ngước lên, đột
nhiên nghĩ đến những khuôn mặt méo mó trong cơn cuồng nộ. Hạ cũng thấy sợ. Rồi
mưa ập xuống.
Xẩm tối, chồng gọi về, nói trong này mưa tối tăm mặt mũi. Nước lớn lắm. Mai đi
tiếp. Mưa gào trên mái tôn nên nghe tiếng được tiếng mất. Hạ dặn treo cẩn thận
chớ ướt bịch gạo với bịch cá khô. Chồng cười rổn rảng, nói người còn ướt, lo
chi tới cá mắm.
Tiếng cười bị nhấn chìm trong mưa sầm sập sầm sập. Rồi ngôi nhà vỡ ra bỡi một
nhát sấm đinh tai nhức óc.
Hạ giật mình bật dậy, trán rịn mồ hôi.
Lúc Hạ tới công ty, ông tổ trưởng – người cao lêu khêu như cây sào – vừa cười vừa
nói: “Ai nhận việc cũng được phát xe, phát quần áo. Chỉ có nghề này mới xịn vậy”.
Mấy người gần đó cười ồ. Dzẫy là xịn dữ chưa?
Xe được làm bằng thiếc, là cái thùng hai bên có gắn hai bánh xe to như cái nón,
lại thêm bánh xe nhỏ ở phía sau, chỗ tay đẩy. Quần áo đồng phục màu xanh, trước
ngực và sau lưng chạy qua một miếng dày màu lá chuối, sáng chói. Ông tổ trưởng
nói đó là miếng phản quang, để cho xe cộ khỏi ủi vô mình.
Hạ làm từ xế chiều cho tới gần nửa đêm.
***
“Nói nè, kêu con nhỏ qua chơi với con tui cho có bạn”.
Người đàn bà trẻ, tròn tròn, da trắng bóc, ở phòng trọ sát bên cầm mấy trái
xoài ưng ửng đặt vô tay Hạ, nói vậy. Hạ cười, cảm ơn. Cổ tiếp lời: “Bữa nào bà
cũng về khuya lơ khuya lắc. Mà ở đâu tới đây?”.
Vậy là quen. Cổ tên Xuân, đang làm công nhân ở một công ty may mặc. Trước khi
trở thành cư dân xóm Cây Xoài, Xuân bươn chải mưu sinh tít trong Sài Gòn. “Ở trỏng
vợ chồng tui may đồ xuất khẩu”, Xuân kể. “Sao về đây?”, Hạ thắc mắc. Đôi mắt to
của Xuân sập tối “COVID”.
Thốt nhiên Hạ đưa tay lên mũi, cảm giác nhói thốn lại cộm lên. Lạc Đạo bị phong
tỏa mấy bận, dân trong xóm phải ngoáy mũi không biết bao nhiêu lần. Mỗi lần
nghe ông trưởng thôn bắc loa, nghiêm giọng “Đề nghị bà con…” là tim Hạ đập mạnh.
Chuyện đó nhằm nhò gì, Xuân nhếch cười, hình như vậy, nhưng đôi mắt thẫm tối.
Trong đó, ai nấy ngồi nhà suốt bốn năm tháng. Có mấy đồng dành dụm được, bay sạch,
phải mượn của người này người kia đắp đổi. Tới lúc chỉ còn biết trông chờ vô đồ
cứu trợ, người ta cho gì ăn nấy. Xuân kể, giọng nhẹ hều, cứ như kể chuyện ai đó
chớ không phải chuyện nhà mình.
Cũng định thồ hết lên xe, liều mạng về quê. Nhưng chiếc xe rệu rã, làm sao chở
nổi hai vợ chồng với hai đứa con đi hơn năm trăm cây số? Đành ở lại, phập phồng,
lay lắt, cho đến khi tỉnh có chương trình đưa người dân từ tâm dịch trở về quê
hương. Trầy trật mấy bận, rồi cũng tới lượt. Ba mẹ con đi bộ tới Bến xe miền
Đông, trong túi không có một đồng. Có chị nọ, nhìn bộ dạng mấy mẹ con, chắc
cũng đoán được tình cảnh bèn chia cho hai đứa nhỏ lốc sữa. Rồi chị khều Xuân:
“Em có cần gì không?”. Người xa lạ mà thiệt tốt! Xuân nói nhỏ, rất nhỏ: “Nếu
có, chị cho em… cho em… vài miếng băng vệ sinh”. Nói xong Xuân cúi gằm mặt, mắt
dán chặt vô những ngón chân khô héo của mình. Chị kia lục ba lô, lấy ra gói
băng vệ sinh. Hai người đàn bà nhìn nhau, ứa nước mắt. Đó, ba mẹ con trở về
trên chuyến xe đó.
“Vậy còn ba tụi nhỏ?”
“Ảnh cũng về, nhưng chỉ còn một nắm tro trong cái hũ sành”.
Đôi mắt Xuân, bây giờ là hai cái hố sâu hút. Hạ không hỏi gì thêm.
***
Từ xế chiều cho tới gần nửa đêm, Hạ chăm chút con đường. Cái chổi lúc đầu nhẹ
tênh nhưng sau khi Hạ quét sạch lòng đường bên này qua mấy cái ngả ba, mấy cái
ngả tư rồi quay trở lại với lòng đường phía bên kia thì cái chổi dần dần trĩu
trên tay. Chắc tại mình chưa quen, Hạ nhủ. Vừa gom lá cây, khăn giấy, hộp sữa,
que kem cùng đủ thứ mà người ta thảy xuống đường, Hạ nghĩ về đứa con gái nhỏ sắp
vô lớp 1. Hạ nhớ ngôi nhà đã tàn tạ vì mưa nắng ở cuối Lạc Đạo, gần bìa rừng,
nơi có một bà già đang thắc thỏm, và mỗi khi trở trời là chân tay đau nhức. Hạ
nhớ cái bàn thờ, không biết có lạnh hay không…
Chốc chốc Hạ lại đụng một cái túi nilon đựng đủ thứ hầm bà lằng mà ai đó tiện
tay quăng ra đường. Có lần, khi thấy một bì rác quăng cái vèo và rớt bịch xuống
chân, Hạ lễ phép nói với người đàn bà mặc bộ đồ lụa màu trắng, cặp mắt bén như
dao, đang phủi phủi tay đứng ngay cửa ngôi nhà sáng trưng: “Cô ơi, hôm nay
không phải ngày đổ rác”. Bà đó nhìn Hạ từ đầu tới chân rồi quăng thêm một mớ
rác, bằng lời: “Vậy chớ người ta trả lương cho mày làm chi?”.
Hạ chưng hửng, không hiểu tại sao người ta sống đủ đầy mà lòng lại chật chội và
ngổn ngang bóng tối.
Nam cồ lui, chỉ còn những đợt gió mà ở quê người ta gọi là nam giã bãi. Gió đã
yếu, đã thưa, như tiếc nuối những ngày tháng ào ạt tung hoành. Gió ngớt nhưng
cái chảo lửa khổng lồ chụp xuống vạn vật, nhập nhòa, quay quắt. Con đường của Hạ
hầm hập cho tới tận đêm.
*** Má gọi điện, hỏi công chuyện dưới đó sao rồi, bữa giờ có giọt mưa nào hông?
Trên này vừa có một trận mưa cứu mía cứu bắp, nhưng mà chỗ bàn thờ bị dột, thiệt
tội! Má đã treo tấm nhựa ở phía trên. Hạ nói má ráng đợi một thời gian nữa, con
xin nghỉ một ngày, về trển đón cả nhà xuống đây. Bà già hỏi vậy hả vậy hả? Rồi
nhà cửa bỏ cho ai? Thiệt tình! Có thằng ăn trộm nào cạy cục vô nhà chỉ để gỡ
đem đi vài miếng tôn sét rẹt.
Những trận mưa thường ập về trong giấc mơ của Hạ. Không phải mưa cứu mía cứu bắp
mà là những trận mưa cuồng nộ, y như lúc chồng từ núi Chúa gọi về nhà. Sau này
nghĩ lại, lẽ ra Hạ hỏi anh ăn cơm chưa, có ướt, có lạnh không? Lẽ ra phải nói với
ảnh một câu thiệt tình cảm, như hồi mới quen nhau…
Mùa màng xong xuôi, chồng theo bạn bè bươn vô rừng lượm chai. Đó là mủ cây chò,
khô như đá, người ta dùng để hàn kín những chiếc sõng tre và thúng chai, không
cho nước thấm vô bên trong. Một ký chai giá chỉ bằng hoặc nhỉnh hơn ổ bánh mì,
nếu chịu khó đi thì một chuyến cũng lượm được trên dưới chục ký. Muốn lượm chai
phải băng rừng lội suối, bởi vậy mà người này rủ người kia đi cho có bạn. Nhóm
của chồng có cả thảy năm người. Từ Lạc Đạo, họ theo con đường mòn luồn sâu vô rừng.
Họ vượt qua những con dốc khấp khểnh lục cục đá núi, chỉ có dấu chân những người
đi ăn trộm của rừng, rồi dừng lại tại núi Chúa. Họ tính đi nữa nhưng cơn mưa đã
chận bước chân.
Mưa rùng rùng, hung hãn như một con thú bị xiềng xích lâu ngày. Nước suối trạo
trực dâng lên trong chớp mắt. Nhóm lượm chai trú trong cái trại của một người bẫy
thú rừng. Họ lấy cơm nắm chia nhau ăn rồi lăn ra ngủ.
Sáng hôm sau, người bẫy thú tay xách nách mang gạo mắm, men theo những con dốc
trơn trượt trở lại trại. Đập vô mắt anh ta là những cây cổ thụ to đến hai ba
người ôm bị nhổ bật gốc, những tảng đá to như cái nhà bị hất tung. Một khu vực
rộng lớn ngổn ngang đất đá và thân cây đổ. Đó là những gì còn lại sau trận lũ
quét kinh hoàng lúc nửa đêm. Cái trại biến mất.
Tin dữ bay về Lạc Đạo. Cùng với lực lượng cứu hộ, đàn ông trai tráng trong làng
tất tả băng rừng tới núi Chúa. Hạ bước thấp bước cao bươn theo, té nhủi té nhào
trên những con dốc trơn như đổ mỡ. Đi mấy tiếng đồng hồ mới tới nơi. Hạ chôn
chân nhìn bãi đất đá đỏ bầm như máu. Hạ ngửa mặt nhìn trời. Trời xanh bằn bặt.
Cả trăm người xúm lại cưa cắt thân cây rồi xếp thành hàng dài, chuyền tay từng
can nước suối tưới xuống đất đỏ. Đào bới. Đào bới. Đào bới. Họ nhặt từng người
trong nhóm lượm chai. Sáu ngày sau, họ tìm thấy người cuối cùng, là chồng Hạ.
Trong sáu ngày đó, coi như Hạ đi qua một kiếp người.
Chiều nọ, chị bước vô căn nhà lạnh lẽo của Hạ, đem theo tấm lòng của những người
xa lạ. Cầm bàn tay khô quắt queo, chị nói ráng lên, ráng lên nghen. Hạ nhìn con
Mía, khẽ gật đầu. Nước mắt khô hết rồi.
Lâu lâu chị gọi điện hỏi thăm. Mấy tháng trước, lúc Hạ đi cuốc cỏ cho người ta,
về chưa kịp thay cái áo bết mồ hôi thì chị gọi, nói có công việc dưới thành phố.
Cũng cực đó, nhưng được cái thu nhập ổn định, con bé học hành thuận tiện hơn. Mấy
khi Hạ ra khỏi Lạc Đạo, hai tiếng thành phố nghe xa lắm. Nhưng nghĩ tới chuyện
tháng nào cũng được nhận lương, không lo trời hạn, không lo sắn rớt giá, con
Mía không phải leo dốc tới trường, Hạ thấy ấm trong lòng.
Đêm hôm đó, Hạ thắp hương rồi đứng thật lâu trước bàn thờ ba con Mía.
***
“Nè, biết chuyện gì chưa?”
Xuân ào vô lúc Hạ đang nấu cơm trưa, đem theo tin tức nhảy nhổm. Vợ Vui bỏ đi mất
tiêu rồi!
Vợ chồng Vui có đứa con tầm bốn tuổi, tên Bơ, trọ trong căn phòng sát đường hẻm.
Hồi trước Vui làm thợ hồ, giờ bán vé số, vợ chạy bàn ở một quán cà phê, trưa về
chăm con. Thằng Bơ không như bạn bè cùng trang lứa. Nó đẹt lét, tay và môi tím
rịm. Mỗi lần theo tụi nhỏ chơi đùa là nó hụt hơi. Nghe nói tim nó bị sao đó từ
lúc mới sinh. Muốn chữa cho bình thường thì phải đưa vô Sài Gòn mổ. Vợ chồng
Vui đã tính đưa con đi…
Giàn giáo ụp xuống trong lúc Vui và mấy người thợ khác đang xây một công trình.
Không có thiệt hại về người – báo chí đưa tin vậy, như tiếng thở phào nhẹ nhõm.
Vui bị chấn thương sọ não, phải mở nắp sọ. Bác sĩ cứu được tính mạng nhưng chẳng
giữ được cái đầu như cũ cho Vui. Từ một người củ mỉ củ mì, Vui hay đổ quạu, lại
thêm chứng sợ độ cao. Đành buông cái bay cái thước, cầm tập vé số đi rã chân cả
ngày.
Ở đời có những chuyện tréo ngoe, tréo ngay từ cái tên. Như Vui. Tên vậy nhưng đời
buồn thiu. Ông Mạnh, cha Vui, bị tai biến, nằm một chỗ đã mấy năm rồi; bà mẹ
cũng đau bệnh liên miên. Hai sào ruộng cho người ta mướn, tới mùa nhận lúa,
chưa đủ đắp đổi. Thuốc thang bệnh tật, đôi vợ chồng già chỉ còn biết ngó chừng
thằng con duy nhứt.
Lành, vợ Vui, chắc cũng quá mệt mỏi sau những gánh gồng. Chiều hôm qua, bán
xong xấp vé số, Vui về phòng trọ thì không thấy Lành đâu. Thằng Bơ ngồi thở dốc
trên thềm lơ phơ mấy cái lá úa. Trên bàn, đè dưới mâm cơm đã nguội ngắt là tờ lịch
xé ra, chỉ vỏn vẹn một dòng chữ của cái người vừa dứt áo ra đi, run rẩy để lại.
***
Nắng phai dần, rồi những cơn mưa bất chợt ghé đến. Má nói tao nhớ nhà quá bay.
Con Mía nghe vậy liền chạy tới rủ rỉ: “Ngoại ơi, nhà mình giờ ở đây mà”. Bà già
nhìn đứa cháu rồi đưa mắt ra ngoài đường hẻm, nói một câu đầy triết lý: “Ờ hén,
ở đâu có con cháu thì đó là nhà”.
Con Mía vô lớp 1. Trường cũng gần, lại có má nên lòng Hạ nhẹ đi. Vui đem thằng
Bơ qua nhờ má ngó chừng giùm. Chị tới thăm, cho nó sữa, quần áo. Chị kể, chị và
nhóm bạn đang quyên góp để xây An Nhi viên – là cái nghĩa trang dành cho những
hương linh mà hình hài chỉ mới như một cục máu thì đã bị mẹ cha dứt khoát cắt
lìa.
Công việc cũng đã quen. Xế chiều đẩy xe đi, vừa quét vừa gom cho tới gần nửa
đêm là xong. Con đường tinh tươm. Con đường của Hạ. Từng gốc xà cừ, bằng lăng,
từng ngôi nhà cửa kính, cửa sắt trên con đường đó, Hạ cũng đã quen.
Con đường kể với Hạ nhiều chuyện, qua những thứ mà nó mang trên mình. Nè, đây
là nhà cái bà có cặp mắt bén như dao, thường mặc bộ đồ lụa đứng chống nạnh sau
khi ngẫu hứng thảy ra một bịch rác mà không cần biết hôm đó thứ mấy, cũng không
thèm để mắt tới cái thùng bự chảng màu xanh, người ta đặt cách nhà bà chỉ mươi
bước chân. Kia là nhà của một cô rất kỹ, luôn để riêng đồ nhựa chớ không quăng
hết vô thùng rác. Cổ nói với Hạ “Cháu gom mỗi chỗ một chút, thành nhiều. Mấy thứ
này bán nhôm nhựa được…”.
Chiều hôm qua, quét tới vỉa hè trước nhà bà Dao Bén, cây chổi đụng vô một cái bịch
nilon, trong đó lổn ngổn nào hộp giấy, khăn giấy đã mốc, nào ly nhựa, chai nhựa…
Hạ tháo cái bịch, lấy mấy chai nhựa, ly nhựa thảy vô cái bao treo phía sau xe.
Lại thấy có cái hộp nhựa màu đen cỡ nắm tay, Hạ thảy tiếp vô bao gom phế liệu của
mình. Tới tối, lúc nghỉ tay ngồi dựa lưng vô gốc xà cừ lấy cà mèn cơm ra ăn, Hạ
nghĩ cái hộp nhỏ xíu mà sao nặng nặng. Ăn xong, Hạ xộc tay vô bao phế liệu, lục
tìm cái hộp nhựa. Mở nắp ra, rồi tháo một lớp bì bóng, thêm một lớp giấy báo
cũ, Hạ sững sờ. Sáu chiếc nhẫn vàng chói dưới ánh đèn đường, được xâu lại bằng
một cây kim băng cỡ lớn. Sáu chiếc nhẫn lạnh ngắt trong tay Hạ.
***
Má hỏi đêm qua sao bay trăn qua trở lại miết? Hạ nói tự nhiên con khó ngủ quá
chừng. Là nói vậy, chớ sao mà tự nhiên được. Hạ nằm đó, tâm trí đi về Lạc Đạo,
về ngôi nhà tàn tạ, mái tôn mục, nước mưa nhiểu xuống tong tong. Phía sau nhà,
trên gò cao ken dày cỏ tranh có hai cái mả, một cũ một cũng sắp cũ, không biết
người ta có lùa bò băng qua làm cho chài đất hay không? Đã mấy lần Hạ tính kêu
thợ hồ xây xi măng bao quanh hai cái mả rồi đặt hai tấm bia đá cho tử tế mà vẫn
chưa làm được.
Rồi tâm trí Hạ trở lại phòng trọ. Bữa trước ông tổ trưởng tới thăm. Ổng nhìn
quanh, kêu ráng dành dụm mua cái tủ lạnh đựng đồ ăn, với lại thay bếp ga mini
đi. Ba cái đồ yêu này tốn ga dữ lắm, có khi nó phát nổ bất thình lình. Ông tổ
trưởng nói gì, Hạ cũng dạ, trong bụng nghĩ: Tiền đâu ông?
Thì tiền đây chớ đâu! Sáu chiếc nhẫn chói rực, phía trong mỗi chiếc đều khắc số
kèm dòng chữ nhỏ xíu. Tiền từ ngoài đường rớt vô túi, vậy mà thao thức hoài!
Khuya đó đi làm về, Hạ lại chập chờn. Nửa mơ nửa thức, Hạ nghe tiếng chim kêu.
Con chim kêu y chang tiếng người “bắt cô trói cột”, “bắt cô trói cột”. Nó kêu từng
chặp, dấm dẳng.
Chiều hôm sau, Hạ dừng xe gom rác trước nhà bà Dao Sắc, lần khần một lúc rồi đẩy
cách cửa đang khép hờ hé ra vừa đủ một người bước vô. Đứng ngay khoảng trống
đó, Hạ nghe giọng mình run run “Có ai ở nhà hông?”.
Chủ nhà hiện ra trong bộ đồ lụa xám. Quét ánh mắt sắc lẻm từ đầu tới chân rồi
quét ngược lên, chủ nhà hất hàm: “Cô kiếm ai? Nhà này không cần người ở, cũng
không có quần áo cũ”.
“Dạ… cháu…”
Không để Hạ nói hết câu, bà Dao Sắc quay mặt vô trong, cao giọng:
“Con Bé đâu? Cửa nẻo để tơ hơ. Mất đồ đạc, mày có đền được hông?”
Cô gái trẻ, chắc là người giúp việc, tất tả chạy lên, lau lau đôi tay vô cái tạp
dề cũ.
Hạ có cảm giác máu đang dồn hết lên mặt mình. Tay bóp chặt cái hộp nhựa đựng
sáu chiếc nhẫn cất trong túi quần, Hạ cười nhẹ, nói chậm rãi:
“Tôi đi lộn nhà. Xin lỗi bà”.
*** Sáng chủ nhật, Xuân qua chơi, nói chuyện trên trời dưới đất. Nó nói ước gì
trúng một tờ vé số, tui về quê xây cái toa lét ngay trong buồng cho má tui. Bả
già rồi, đêm hôm dò dẫm đi ra nhà vệ sinh cũ kỹ ở tuốt ngoài vườn, lo quá! “Có
thường mua vé số hông?”. “Cũng có. Lâu lâu mua một tờ, không trúng con số nào”.
Xuân kể rằng bà chủ nhà trọ, cái miệng nói ngang vậy chớ tốt tính. Đận hai đứa
nhỏ thi nhau đổ bệnh, Xuân ở nhà chăm con. Tháng đó nhận có mấy đồng lương. Bả
cho nợ tiền trọ. Chồng bả cũng chết vì COVID, trong bệnh viện. Chết vậy tội lắm,
xung quanh không có một người thân. Đành rằng lúc đó ổng đâu còn biết gì nữa,
nhưng nghĩ coi, không có một bàn tay thân thuộc vuốt mắt. Chồng Xuân chết tại
phòng trọ, trong đỉnh dịch ở Sài Gòn, ít ra cũng có vợ con bên cạnh. Người đàn
ông của Xuân đã nắm chặt tay Xuân cho tới khi hơi thở lịm đi, tan đi trong
không khí đặc quánh, tột cùng sợ hãi.
“Cuộc đời vô thường”, Xuân thở hắt ra.
Thốt nhiên trong đầu Hạ hiện lên hình ảnh thân cây đổ ngổn ngang, đá lớn đá nhỏ
chen chúc trên bãi đất đỏ bầm như máu, trong tích tắc chôn vùi năm người đàn
ông đi lượm mủ cây chò. Không biết chồng Hạ đã về trời xanh mây trắng hay vẫn
còn lang thang trên núi Chúa?
Chiều hôm đó, trên đường đi làm, Hạ đem cái hộp nhựa đựng sáu chỉ vàng tới nhà
bà Dao Sắc.
Hai cánh cửa khóa chặt.
Hôm sau, hôm sau và hôm sau nữa, cũng thấy cái ổ khóa to đùng.
***
Bữa đó cúp điện cả ngày, nóng thiếu điều chảy mỡ. Chiều, người ta xách ghế nhựa
ra phía trước nhà ngồi hóng gió. Dưới gốc xà cừ gần nhà bà Dao Sắc có mấy người
đàn bà đang tám chuyện.
Hạ dựng cây chổi vô xe rác, tới hỏi thăm.
“Bả bán nhà, vô Nam ở với con gái”, một bà mập mập đang phe phẩy cái quạt nhựa
nói.
“Ủa, sao lại bán nhà?”, bà tóc bạc thắc mắc.
“Thằng con bả chơi banh bóng gì đó, đổ ra một đống nợ”.
“Trời, tội dữ. Con dại cái mang”, bà ốm ốm, nãy giờ chưa lên tiếng, chép miệng.
“Có vay có trả bà ơi”.
“Là sao?”
“Hồi trước, lâu rồi, bả với một bà nữa, nghe nói chơi thân, hùn hạp làm ăn. Tin
tưởng nhau nên đâu có giấy tờ. Rồi bà kia không biết mắc chứng gì, đêm nằm ngủ
rồi đi luôn. Chừng mấy đứa con bà kia không muốn hùn hạp nữa, tới lấy lại phần
của mẹ tụi nó thì té ngửa. Hùn ba cây vàng nhưng bả nói có ba chỉ. Chết chưa!”.
“Có chuyện đó na? Sao bà biết?”
“Tui ở sát nhà bả từ nẳm tới giờ. Để kể nghe. Con bà kia tới làm um sùm, kêu phải
trả đủ ba cây vàng. Bả ngồi trên tấm phản, thủng thẳng hỏi một câu: “Giấy tờ
đâu?”. Nói câu đó là biết bả cầm đằng cán rồi. Giờ, ông trời ổng tính cả gốc lẫn
lãi”.
Mấy người đàn bà say sưa bàn tán, không để ý con nhỏ quét rác đã khua chổi, đẩy
xe đi một quãng xa.
Trời hầm hập hầm hập rồi nổi gió, hốt từng bụm lá quăng tóe xuống đường. Cả một
đoạn vừa mới quét xong lại tràn lá. Và không biết từ đâu, bao nilon bay tứ
tung. Chúng vờn quanh Hạ, trêu ngươi Hạ. Cái chổi nặng dần, nặng dần. Quá nửa
đêm Hạ mới về tới nhà trọ, mệt đuối.
Trong giấc mơ, Hạ trở về Lạc Đạo, đi dưới cơn mưa ngào ngạt. Cỏ tranh quệt vô bắp
chân, và dâng lên mũi cái mùi vô cùng thân thuộc.
Mưa ngớt. Trên bầu trời thăm thẳm, cầu vồng hiện ra. Những quầng sáng rực rỡ lớn
dần. Hạ nhìn thấy ba. Sau rất nhiều năm, Hạ gặp lại ba. Ông đứng trên gò cao,
bên cạnh là chồng Hạ. Hai người đàn ông, một già một trẻ nhìn Hạ, mỉm cười dịu
dàng.
“Ba không cần nhà mới, con à”.
“Anh cũng không cần nhà mới”.
Hạ bật khóc, chạy về phía họ nhưng ngã dúi vô đám tranh. Từ đâu đó trên gò cao,
con chim bắt cô trói cột cất tiếng kêu thảm thiết.
Sáng hôm sau thức dậy, Hạ đem sáu chỉ vàng tới tiệm, nhận về lưng lửng xấp tiền
năm trăm mới cứng. Xấp tiền rạo rực trong tay.
Tiền được chia ra làm bốn, hai phần cho Vui, để đưa thằng Bơ vô Sài Gòn sửa chữa
trái tim cho nó. “Nghe nói người ta mổ tim miễn phí cho trẻ em nghèo, mình chỉ
tốn tiền xe cội, ăn uống. Mổ xong còn tiền thì mua cái xe đẩy bán trái cây”, Hạ
nói.
Vui sửng sốt nhìn những tờ bạc năm trăm, môi run run. Chắc Vui muốn hỏi tiền ở
đâu mà có. Thì kể ngay một câu chuyện tưởng tượng đã chuẩn bị sẵn, đại khái là
tui lượm được cái điện thoại mới lắm, xịn lắm. Người ta tới chuộc rồi cho tiền.
Vui tin.
Hai phần còn lại, dành cho Xuân và chị. Để Xuân xây cái toa lét ngay trong buồng
cho bà mẹ già. Để chị góp vô An Nhi viên hoặc thấy ai cần thì mang tới cho họ,
như chị đã mang tấm lòng những người xa lạ đến giữa lúc Hạ ngụp trong đau đớn,
má thì chạy qua nhà hàng xóm mượn tiền mua nhang đèn… Với chị, Hạ kể thiệt.
***
Tôi theo chị tới xóm Cây Xoài vào một buổi sáng hiu hiu gió bấc. Kỳ thực người
tôi muốn gặp là chị. Tôi hỏi chị cớ gì nghỉ hưu đã lâu mà cứ tất tả như bị trời
hành, hết quyên góp cho nơi này lại đi xin tiền cho chỗ khác, mà chị có còn là
chủ tịch Liên đoàn Lao động nữa đâu. Chị cười hiền khô, kể về những người đã gặp
rồi rủ tôi tới xóm Cây Xoài.
Cái xóm nhỏ nép trong hẻm, coi bộ chẳng liên quan gì tới con đường tấp nập ngay
trước mặt. Cây xoài vẫy vẫy lá khi gió bấc nhẹ nhàng lùa cái lạnh tới. Má Hạ xởi
lởi mời khách vô chơi. Trong phòng thiệt ấm! Ngay cả ánh mắt hai người đàn ông,
một già một trẻ, trên bàn thờ nhỏ đặt ở góc phòng cũng ấm lạ.
Hạ nói Hạ thương con đường, không chỉ vì nó đem lại ngày ba bữa cơm, tiền trọ
hàng tháng, tiền mua thuốc thang lúc bệnh đau và mới đây là tiền từ quỹ tương
trợ của Công đoàn công ty. Hạ đã xây mộ cho cha, cho chồng và mua trả góp cái tủ
lạnh.
Ngày nào cũng quét dọn sạch sẽ con đường rồi thấy mến, thấy thương. Cho nên những
người làm công việc như Hạ, trừ lúc bệnh đau, còn lại thì ngày nắng cũng như
ngày mưa, không ai bỏ con đường.
Thằng Bơ đã đi mẫu giáo. Giờ nó chạy nhảy vui chơi khỏe re, không còn thở hụt từng
cơn. Vui tìm được một chân bảo vệ ở công ty, không phải đi rã cẳng kiếm cơm bằng
những tấm vé cầu may. Xuân chịu khó làm việc, đã lên chuyền trưởng.
Đang hào hứng, Hạ bỗng ngập ngừng: “Có viết gì… cũng đừng nhắc tới chuyện sáu
chỉ vàng… nghen chị?”. Trên bàn thờ, hai người đàn ông nheo nheo mắt cười. Tôi
chưa trả lời thì Hạ tặc lưỡi: “Thôi kệ, viết cũng hổng sao. Trên đời này, sợ nhứt
là lòng không yên, đêm không ngủ được”.
Trong giấc mơ của Hạ, con chim bắt cô trói cột không còn cất tiếng kêu đe dọa;
chỉ có mùi cỏ cây, mùi đồng đất ở Lạc Đạo chập chờn vẫy gọi trở về…
Phương Trà |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23600 |
![]() ![]() ![]() |
Bữa Tiệc Và Mẹ!
Hắn bỏ hai chiếc vali to đùng lên xe rồi kêu cậu Tuấn lái xe kiểm tra xe một lần cuối trước khi khởi hành. Năm nào cũng vậy, cứ đến tháng bảy âm lịch là cả nhà hắn lại về quê để giỗ Mẹ. Năm nay, hắn quyết định về sớm hơn mọi lần hai ngày. Cậu tài xế và vợ hắn có vẻ thắc mắc nhưng không dám hỏi. Chiếc ô tô chạy chậm chậm trên con đường ngoằn ngoèo, băng qua những quả đồi nhấp nhô đang mùa thu hoạch gỗ tràm. Xe đang lăn bánh bất ngờ hắn bảo dừng…..dừng lại. Cậu lái xe tên Tuấn vội đạp thắng cho xe dừng lại nhưng chưa kịp hiểu chuyện gì. Hắn mở cửa bước xuống, ngước mặt nhìn lên trời xanh một thoáng rồi bước về phía sau nơi có một người phụ nữ đang lui cui gom nhặt những cây củi bên đường. Nghe tiếng chân, người phụ nữ ngước lên, chị ta tầm ngoài 40 tuổi, nước da sạm nắng. Phía xa hơn một chút có hai đứa trẻ, đứa lớn khoảng 10 – 12 tuổi, đứa kia nhỏ hơn. Hắn nở một nụ cười nhìn chị rồi tiến lại gần nhỏ nhẹ hỏi: – Chị ơi, củi này thì mình bán bao nhiều tiền một bó? Đang làm mệt nhưng có một người lạ hoắc hỏi nên chị miễn cưỡng trả lời: – Tùy lúc chú ơi, mà chú hỏi để mua hay làm gì vậy? Hắn lắc đầu không nói mà cúi xuống giúp chị sắp xếp lại những cây củi cong queo rồi phụ chị bó lại, dựng sát vào vệ đường. Hắn quay lại xe lấy ra mấy lon nước ngọt giơ tay vẫy hai đứa trẻ lại để đưa cho tụi nó. Hai đứa nhỏ mắt tròn xoe ngạc nhiên vì được cho quà, nhưng cái nhìn nghiêm khắc của mẹ làm chúng khựng lại. Có lẽ bản năng người mẹ đã buộc chị phải làm thế để bảo vệ con mình trước sự đường đột của một người khách lạ. Như hiểu được suy nghĩ của người phụ nữ, hắn nhỏ nhẹ nói: – Em cũng là người ở đây nhưng em đi làm xa mới về, nhà em ở thôn Hạ đó chị. Đến lúc này thì gương mặt người phụ nữ mới giãn ra kèm theo cái gật đầu và nụ cười thân thiện. Ngồi trên xe vợ hắn hơi thắc mắc và có chút bực mình vì hành động của hắn có vẻ kì lạ nên chị ta mở cửa cùng hai đứa con bước xuống. Hắn giới thiệu với người phụ nữ đó đây là vợ và con em, tiện thể hắn buột miệng hỏi: – Thế anh làm việc gì mà không phụ giúp chị? Chị lắc nhẹ đầu, bất chợt hai giọt nước mắt rớt ra giọng chị nhỏ lại: – Anh ấy mất rồi! Hắn xin lỗi vì thấy mình hỏi một câu quá ngốc! Hắn nhỏ nhẹ hỏi: – Mình chị nuôi hai đứa chắc vất vả lắm chị ha? Như được trút cõi lòng người phụ nữ nói tiếp: – Anh ấy đi để lại hai đứa nhỏ, mình chị lo cho chúng ăn học. Nhà có hai sào ruộng, mỗi khi gieo sạ xong là chị rảnh rỗi, những lúc như vậy hễ ai kêu gì chị làm nấy để kiếm tiền, không có ai kêu làm thì ba mẹ con đi mót củi để bán. Sắp tới khai giảng rồi mà… Nói đến đó, giọng chị ta nghẹn lại những giọt nước mắt lại rơi xuống đất. Sau một khoảng lặng thinh, hắn quay lại xe mở túi xách lấy ra một xấp tiền, cẩn thận cho vào một chiếc phong bì rồi quay lại chỗ người phụ nữ: – Cái này em cho hai cháu để chị mua sách vở và vài bộ đồ, chị cầm đi đừng ngại. Quá bất ngờ, người phụ nữ cương quyết không nhận. Chị không nhận một phần vì lòng tự trọng và một phần nữa, đó là sự nghi ngờ vì chẳng có ai lại tốt bụng đến thế! Hắn đưa mắt cầu cứu vợ, như hiểu ý, vợ hắn bước tới đặt tay lên vai người phụ nữ, giọng thân thiết: – Cái này là tụi em thấy thương hai đứa nhỏ, năm học mới sắp đến rồi chị cầm lấy đi tụi em không có ý gì đâu. Vừa nói, vợ hắn ý tứ luồn chiếc phong bì qua tay bỏ vào chiếc túi áo đã cũ, người phụ nữ đẩy ra nhưng bàn tay chị đã bị giữ lại. Sau vài câu trò chuyện, vợ chồng hắn chào người phụ nữ và hai đứa nhỏ rồi lên xe, còn người phụ nữ kia không quên cúi đầu và liên tục cảm ơn trong nước mắt. Xe chạy, cô vợ hỏi hắn anh quen chị ấy hả? Không, hắn trả lời kèm theo cái lắc đầu. Không khí trên xe trở nên nặng nề, vì vợ hắn và cả cậu lái xe có quá nhiều thắc mắc nhưng nhìn gương mặt lạnh tanh của hắn chẳng ai dám hỏi gì thêm. Về đến nhà, hắn được vợ chồng cậu hắn cùng mấy đứa em ra tận ngõ đón. Vừa xách vali, cậu hắn vừa bảo: – Cậu dọn sạch sẽ hết rồi, chỉ còn mấy cây cỏ trên mộ mẹ con cậu để cho con về nhổ thôi. Hắn cảm ơn cậu và theo bước vào nhà. Sau bữa cơm tối, vợ hắn lấy quà ra phân phát cho mọi người trong gia đình và một số người bà con xa. Ngoài ra vợ hắn cũng không quên những phần quà cho những nhà láng giềng, vì mỗi khi vợ chồng về họ đều tới thăm. Mới hơn 9 giờ tối nhưng ở vùng quê tưởng chừng như khuya lắm, khách đã ra về hết, cậu mợ chuẩn bị đi ngủ, hắn pha ấm trà mới rồi rủ cậu lái xe cùng ngồi uống. Như để giải đáp cho hành động ban chiều nhằm giải tỏa cho cậu ta và cũng là một cách để chia sẻ nổi lòng, hắn chậm rải kể: Ngày đó nhà hắn nghèo lắm, bố hắn là một gã đàn ông chỉ có công duy nhất là tạo ra hắn trên cõi đời này, còn sau đó là mất hút. Hắn được một tay mẹ hắn tần tảo nuôi lớn với sự giúp đỡ lúc có, lúc không của những người cậu và bà con bên ngoại. Hắn khá thông minh, học giỏi và năng động nên dễ hòa đồng và luôn được Thầy yêu, bạn mến. Ngày hắn đỗ đại học, mẹ hắn làm hẳn một mâm cơm to mời bà con đến chia vui và mọi người đều có một chút quà dành cho hắn. Món quà không to nhưng chứa đựng tất cả những chân tình cũng như nổi vất vả của người dân nơi vùng quê nghèo ấy. Hôm đó mẹ hắn rất vui, nhưng đằng sau niềm vui ấy là một nỗi lo toan đang lớn dần, phải làm thế nào để có tiền lo cho 5 năm đại học của hắn? Nhưng lúc đó hắn đang sung sướng với niềm vui dâng trào, nên đâu thấy những giọt nước mắt của mẹ. Ngày hắn nhập học, mẹ hắn bảo: – Con nhớ ăn uống đầy đủ để có sức mà học, cố gắng học cho giỏi để sau này không phải khổ như mẹ nghe con. Nói đến đó, mẹ hắn lặng im vì tiếng nấc đã chặn lại tất cả. Trong những năm hắn học đại học, mẹ hắn làm mọi việc để có tiền nuôi hắn. Từ rửa chén bát thuê đến đi phụ giúp việc nhà. Lúc lên rừng kiếm củi, khi xuống ruộng gặt thuê v.v.v.. Thậm chí vay mượn nhiều nơi để cho hắn kịp đóng tiền học phí, để không phải chịu kêu tên mà xấu hổ với bạn bè. Năm thứ tư, hắn được đi thi cùng đội tuyển của trường, may mắn hắn giành được giải nhất. Để thể hiện một chút với bạn bè, hắn lấy số tiền thưởng cùng với 3 triệu đồng mà mẹ mới gửi ra mời bạn bè một bữa thịnh soạn. Sau khi gọi bia kèm theo các món ăn hải sản, cả đám cùng nâng ly với những tiếng dô dô ầm ĩ. Bữa tiệc đang cao trào thì hắn ra chỗ dựng xe để lấy món quà vào tặng cô bạn gái. Đúng lúc chiếc tivi đặt bên ngoài đang phát lại chương trình “NHỮNG CÁNH CÒ ĐI QUA GIÔNG BÃO”, hắn nhìn lên hình ảnh người phụ nữ gầy gò, đen nhẻm đang ngồi tựa vào ghế vừa nói vừa thở không nổi kia không ai khác hơn chính là mẹ hắn. Mẹ hắn đang run run nhận lấy một số thuốc và số tiền 3.000.000đ của những nhà hảo tâm, lúc đó hắn mới biết lâu nay mẹ hắn bị bệnh lao phổi nhưng giấu không cho hắn biết. Phải chăng số tiền ấy là số tiền hắn mới nhận chiều nay, để giờ đây hắn đang ung dung cùng bạn bè nâng những cốc bia và nhấm nháp những con tôm càng béo ngậy. Nghĩ đến đó, tai hắn như ù đi, mắt hoa lên và bất chợt những tiếng nấc tuôn ra khỏi cổ. Vội vàng thanh toán bữa tiệc, hắn xin phép đi về, trước cái nhìn ngơ ngác của nhóm bạn. Ào vào kí túc xá, hắn gom vội mấy bộ đồ, tài liệu và chiếc máy tính rồi leo lên xe phóng vội trong đêm vì linh tính có một điều gì đó khủng khiếp đang chờ hắn. Gần sáng, hắn cũng về tới nhà. Thấy mọi người lao nhao, hắn chột dạ. Vừa nhìn thấy hắn, Dì hắn đã khóc và nói với ai đó: “Hắn về đây rồi, đừng gọi điện nữa.” Hắn lao vào nhà. Mẹ hắn nằm trên giường, thở dốc, cố ngước đôi mắt lên nhìn nó và nói: “Mẹ thương cho con quá, còn một năm nữa mà mẹ đi như vầy không biết ai lo cho con, con ơi…!” Tiếng mẹ hắn nấc nghẹn theo từng cơn ho sặc sụa, hắn bật khóc òa như một đứa trẻ, hắn khóc như chưa từng được khóc. Như cố lấy chút sức lực cuối cùng, mẹ hắn kề tai nói nhỏ: “Chương trình “NHỮNG CÁNH CÒ ĐI QUA GIÔNG BÃO” họ mới cho mẹ 5 triệu nữa, mẹ cất dưới gối đó. Con nhớ cất rồi ráng tiện tặn xin thêm ai đó, không thì mượn đỡ sau này đi làm rồi trả để mà ráng học cho đến tốt nghiệp nghe con.” Nói đến đó, mẹ hắn lặng im, nước mắt ứa ra nhìn hắn lần cuối, cổ họng nấc lên vài tiếng rồi hai tay buông thõng. Hắn rống lên: “Mẹ…ơ……i”, rồi chết lặng! Dãi nắng dầm mưa lên rừng xuống biển làm kiếm tiền nuôi hắn, lại không dám ăn uống đủ chất để bồi dưỡng cơ thể nên căn bệnh lao lực đã cướp đi mẹ hắn khi mùa lễ Vu Lan đã gần kề. Mẹ hắn ra đi khi ánh bình minh vừa ló rạng và một ngày mới đang về. Đó cũng là ngày bắt đầu hắn chịu cảnh mồ côi! Sau khi mẹ mất, hắn tưởng như ngã quị, nhưng nhờ sự động viên của người thân và bè bạn, hắn đủ sức tiếp tục học. Cũng từ đó hắn trở nên ít nói, hay suy tư và thơ thẩn mỗi chiều. Hắn hối hận vì giá như hắn biết quan tâm đến mẹ hơn, biết chăm sóc và tằn tiện, có lẽ mẹ hắn không ra đi sớm như vậy. Để rồi chiều nay trên đường về giỗ mẹ, hắn bắt gặp lại hình ảnh ngày nào. Cái hình ảnh đã cho hắn sự lớn khôn và có được ngày nay trên đôi cánh cò run run của mẹ hắn. Chính vì cái hình ảnh ấy nên hắn muốn được chia sẻ với người phụ nữ đó như một cách tạ lỗi với Mẹ, một sự sẻ chia mà lẽ ra hắn đã phải làm từ lâu lắm! Có tiếng nấc nhẹ phát ra từ sau lưng. Thì ra nãy giờ vợ hắn đã nghe hết câu chuyện, những suy nghĩ vu vơ bao thắc mắc khi chiều đã bay đi hết. Choàng tay qua ôm vợ, hắn nghe môi mình mặn chát. Cậu tài xế cúi đầu như cố giấu một điều gì đó. Có tiếng chó sủa vu vơ ngoài đầu xóm. Đêm miền quê tĩnh mịch đến lạ thường. Những giọt sương đêm rơi lộp độp. Có tiếng trẻ con khóc thét bên nhà hàng xóm. Rồi tất cả rơi vào im lặng. Tiếng gió lào xào. Đêm chầm chậm trôi…! Nguyễn Đặng Hà Anh |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
"Tình Yêu Là Gì?"Tình yêu có lẽ là một đề tài muôn đời của nhân loại. Tình yêu hiện diện trong thi ca, tác phẩm văn học và âm nhạc bất hủ. Có những thiên tài nổi tiếng đã sống và chết vì tình yêu. Nhưng tình yêu là cái quái gì mà có mãnh lực ghế gớm thu hút con người ta như vậy?
Tình yêu chắc chắn là đến với mỗi người bằng mỗi vẻ khác nhau. Ai trong đời mà chẳng đã trải qua hương vị yêu đương. Mỗi người cảm nhận và đón nhận tình yêu một cách khác nhau. Có người đã yêu, từng yêu, và vẫn còn yêu. Tuy vậy cũng có người đã yêu và không còn muốn yêu nữa. Có người hồi trẻ yêu cách khác và khi già rồi lại yêu cách khác. Tình yêu thay đổi qua từng giai đoạn trong đời sống của mỗi người. Đến một lúc nào đó trong cuộc đời, khi nhìn lại, cảm nghĩ của họ có thể không còn giống như “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy.”
Xin nói trước, tôi không có dụng ý ca tụng tình yêu hay viết về những lãng mạn thi vị của tình yêu, mà chỉ viết một bài ngắn về những ý nghĩ đơn giản thực tế bẽ bàng và trần tục của tình yêu. Có lẽ tuổi đời tôi khi đã vượt quá cái mức gọi là “tri thiên mệnh” từ lâu. Tôi không còn những xao xuyến bồi hồi thi vị của tình yêu nữa, và chỉ còn sót lại trong trí nhớ những dư âm ngày xưa cộng với sự chai đá của trái tim đã đập quá vội vàng, quá nhiều, dù vẫn còn bền bĩ nhưng có lẽ đã thành chai lì. Những xúc cảm ngây dại thuở mười lăm mười sáu không còn. Còn chăng là trái tim vẫn còn đập đều đều nhưng theo một nhịp độ chừng mực hơn, thiếu đi cái nhịp điệu dồn dập tưng bừng hụt hơi ngây ngất của những khoảnh khắc choáng ngợp chấp nhận và bất cần, chuyện “yêu là chết trong lòng một ít.”
Thế thì tình yêu là gì vậy? Mỗi người nhìn về vấn đề mỗi khác, dù cho “yêu nhau là cùng nhìn chung về một hướng.” Tôi còn nhớ là đã nói với một vài người bạn - có người đã có gia đình, có người vẫn còn độc thân - là “thật rất khó mà kiếm được một người đầu gối tay ấp cùng hát câu phu xướng phụ tuỳ.” Phản ứng của họ tỏ ra vẻ hiểu rằng tôi không có được một người bạn đời lý tưởng (?) Tôi không biết là trong số bạn bè đã có gia đình, có người nào thực sự có được người phối ngẫu theo kiểu “chồng hát vợ khen hay!”
Tôi còn nhớ có người đã từng nói, tối ngủ với vợ chỉ muốn đá vợ rớt xuống giường để được ngủ một mình; Có người thì “nhất vợ nhì trời,” sợ mất vợ như sợ bị… “mất việc,” nhưng lại ưa là cà đến những chốn hoa đăng; Có đứa thì sợ “đồng chí Vợ” còn hơn là sợ… Việt cộng! Đi đâu chơi cũng thấp thỏm mỗi khi điện thoại di động reo lên; Có người thì bất cần chả sợ gì cả, đi đâu cũng oang oang nói chuyện trai gái, mèo mỡ; Có người thì vẫn còn giữ vợ, nhưng đi chơi thì đi với đào mới, nhắc tới vợ là lắc đầu thở dài; Có kẻ thì lấy vợ xong là biệt dạng, bạn bè cũ không muốn lui tới nữa; Có đứa thì muốn tự tử và hình như đã… thử vài lần (?); Có người thì lâu ngày mới gặp một lần, hỏi ra thì hắn mới cãi nhau với vợ, tìm bạn hàn huyên dăm ba tiếng cho nguôi ngoai nỗi bực mình; Có người đã ly dị sống thơ thới đời độc thân, hiểu rõ câu “yêu là cho rất nhiều, nhưng nhận chẳng bao nhiêu”; Có người thì tình yêu đổ vỡ, rồi lại yêu, nhưng tìm mãi vẫn chưa ra vợ; Có người thì tưởng mối tình thơ dại học trò ngày cũ sẽ mang đến một tình yêu lý tưởng, nhưng mộng không thành, nay cặp người nầy, mai cặp người khác. Ối giời! Bây giờ, cảnh sống tình yêu của các bạn tôi phần lớn là kết quả, không ít thì nhiều, của “một thời để yêu và một thời để chết.” Tình yêu đối với chúng ta hình như là một thứ gì đó không tuyệt đối. Yêu nhau rồi lấy nhau nhưng tình yêu thường không phải là cái lý tưởng mà chúng ta tưởng tượng trong đầu... Còn phần tôi xem ra thì cũng không khác, hay hay ho gì hơn các bạn mấy. Hôm nào vợ không cằn nhằn là ngày đó cảm thấy vui. Hôm nào cãi lộn với vợ là hôm đó chỉ muốn cho… “tan đàn xẻ nghé” luôn! Tình yêu dành cho vợ thuở ban đầu giờ đây hình như đã biến chất; nay thành tình yêu riêng dành cho con nhiều hơn. Nói như vậy không có nghĩa là tình yêu đã chết trong lòng. Tôi vẫn còn biết yêu và biết rung động, nhưng tình yêu kia có lẽ không phải cái thứ tình yêu lãng mạn ngày xưa của tuổi học trò, tôn sùng và nâng niu đối tượng như “Thánh Nữ Đồng Trinh” hay “Quan Thế Âm Bồ Tát,” một thứ tình yêu trong trắng và thanh bạch, tình yêu lý tưởng và ngây thơ... một thứ tình yêu thấy trong “Hoa vông vang” của Đỗ Tốn, hay tình yêu trong thơ văn của Tự lưc Văn đoàn. Thứ tình yêu cao thượng đó không còn trong cảm nghĩ của mình. Đối với tôi, tình yêu là một sự chiếm đoạt đối tượng mình muốn yêu: nếu chiếm được cả thể xác lẫn tâm hồn thì càng tốt, còn không thì thể xác là chủ yếu. Rõ ràng là mình không còn yêu theo cái kiểu “yêu em yêu cả đường đi lối về” hay tình yêu thánh thiện, một mực chung tình. Tình yêu bây giờ cũng không phải là tình yêu “đến hơi thở cuối cùng” trong một trận chiến đấu cho “tự do cuối cùng.” Đôi khi nhận thấy người nào đó muốn làm “Thánh tử đạo” trong tình trường, mình bỗng chợt cảm thấy tội nghiệp cho họ. Lại có thêm một con thiêu thân dấn thân vào vòng nhân sinh tục lụỵ. Có mấy ai mà tôi từng gặp đã hớn hở vì tình yêu mầu nhiệm thiêng liêng làm đời sống họ thăng hoa chắp cánh? Có chăng là những kẻ che giấu đằng sau cái mặt nạ hạnh phúc kia nỗi đoạ đày luôn đè nặng trên vai không dám tỏ lộ cùng ai. Đa số những người đã lập gia đình không ai thừa nhận là họ đã có một chọn lựa sai lầm trong đời sống. Họ chỉ lên tiếng sau khi họ thoát được ra khỏi cái kiếp nhân sinh quan niệm “con là nợ; vợ là oan gia.” Còn không thì họ lại tỏ ra khoan khoái khi thấy “bên thua cuộc” có thêm một “chiến sĩ” khác mới gia nhập hàng ngũ của những kẻ trước đây lúc nào cũng vênh vang tự hào về bảnh lãnh của mình, và cho rằng “ta đây có được vợ đẹp con khôn!" Tôi đã từng lên tiếng cảnh cáo, gióng lên "hồi chuông cảnh tỉnh" cho những thằng bạn còn sống kiếp độc thân, sẵn sàng lao đầu vào kiếp người dâu bể. Nhưng có lẽ tiếng nói của mình có thể được xem là thừa, không đáng phải quan tâm. Họ không tin cho rằng tôi theo giáo phái “đứng núi nầy trông núi nọ,” hay “hạnh phúc đang trong tầm tay mà không hay biết.” Đọc xong những điều mà tôi vừa mới viết ở trên có lẽ sẽ có người phán ngay câu: “Ái chà! Tên nầy có lẽ không có hạnh phúc.” Tới đây, lại có thêm một vấn đề mới: “Thế nào là hạnh phúc?” Nếu bảo hạnh phúc là có vợ đẹp con khôn, có việc làm vững vàng, có nhà có cửa cao rộng, có xế xịn, mang “p***port” Mỹ, một năm đi xuất ngoại nghỉ mát ít nhất một lần thì quả là mình hạnh phúc. Nhưng trên đời nầy hạnh phúc thường là cái bóng mà người ta đeo đuổi hơn là cái thực tế mà họ đang có trong tay. Tôi không nghĩ là mình thuộc về một trong đám người nầy, nhưng tôi lại quan niệm tình yêu nếu là điều vĩnh cữu, là cứu cánh của cuộc đời thì đó là hạnh phúc. Đối với tôi tình yêu thật chỉ là ảo ảnh, hiện hữu trong trí nhớ và trong tâm tưởng hay trong sự đeo đuổi kiếm tìm miệt mài không mệt mỏi vẫn chưa thấy. Có lẽ sẽ có người nhìn thấy sự mâu thuẩn trong cách nói trên của tôi: Một lối biện luận vòng vo huề vốn để tránh né thẳng câu trả lời trực tiếp về tình yêu và hạnh phúc. Tôi nhớ một vài năm sau khi khi lấy vợ, khi trông thấy những cặp tình nhân âu yếm nhau trên một đường phố nào đấy, lúc đó mình thường cảm thấy hân hoan sung sướng vì nhận ra rằng mình cũng có một người vợ đẹp xinh đang chờ đợi mình ở nhà. Năm bảy năm sau đó, cũng những hình ảnh tương tự đập vào mắt, mình lại nghĩ, tội nghiệp cho họ, họ lại sắp vướng vào những hệ luỵ của đời sống mà mình đôi khi muốn tháo gỡ ra. Lấy thí dụ nầy, tôi có thể nói tình yêu chính là những gì mà cặp tình nhân trẻ kia đang âu yếm, đang đắm chìm, đang sôi sục với lòng ham muốn khi họ ôm nhau, hôn nhau trên con đường phố nào đó. Hạnh phúc của họ lúc bấy giờ là sự truy tìm hoan lạc không ngừng mà họ chưa thấy trọn vẹn. Tình yêu chính là nỗi khao khát thèm muốn nhục dục từ một đối tượng khác phái (?). Cái ý muốm chiếm đoạt và làm chủ đối tượng đó bao giờ cũng mãnh liệt hơn cái bản lĩnh thực sự của một người, và cái bản lĩnh nầy bao gồm những “khả năng cho và cống hiến.” Tình yêu vì thế, tự nó là tự ngã, hướng nội, và ích kỷ hơn là cái mà người ta thường nói là tình yêu là “cho rất nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu.” Cho ở đây có nghĩa là bỏ công bỏ vốn, bỏ năng lực đầu tư vào điều mà người ta mong mỏi thèm muốn hơn hết và muốn đạt được. Sự kiện nầy thường xảy ra từ hai phía, do đó ta có cái mà người ta gọi là “mãnh lực của tình yêu.” Khi chưa chiếm lĩnh được thân xác của đối tượng tình yêu, người ta dốc hết sức mình ra đế theo đuổi và chiếm đoạt. “Yêu nhau mấy núi cũng trèo, Mấy sông cũng lội mấy đèo anh (em) cũng qua." Do đó chúng ta thấy cũng có những chàng sở khanh quất ngựa truy phong sau khi thoả mãn xong nỗi thèm khát ao ước dục vọng mà họ đeo đuổi với những con mồi của họ trước đó. Đối với đa số, với những ràng buộc xã hội và lương tâm họ, khi họ đã đạt tới đích, họ chấp nhập những hậu quả sau đó và bằng lòng sống với nó – Nghĩa là sống với ảo ảnh hạnh phúc hậu tình yêu; Nghĩa là sống bằng những dư âm tình yêu ban đầu còn sót lại và tự đánh lừa mình cùng người khác cho rằng mình đang hạnh phúc. Nhưng trong thâm tâm, trong tiềm thức có lẽ họ đã nhận ra rằng "tình chỉ đẹp khi còn dang dở?!" Trong tình yêu, người ta cũng thường nhắc nhở đến "tiếng sét ái tình." Đó là cái khái niệm “Love at first sight” trong Anh Ngữ hay “Nhất kiến chung tình” trong chữ Hán. Chắc có lẽ dân tộc nào trên thế giới cũng có cách nói tượng tự như vậy. Thực ra, đây chỉ là một cách nói ví von để chỉ một hiện tượng mà một người bấy lâu nay xây dựng lâu đài tình ái trong mộng mị, thêu dệt trong trí tưởng tượng của mình một đối tượng tình yêu lý tưởng, đối tượng đó phải là thế nầy thế nọ, và đến một ngày nọ, “nàng công chúa thơ mộng ngủ trong rừng gìa kia và chàng hoàng tử đẹp giai cưỡi bạch mã” gặp nhau sau những tơ tưởng dệt giấc mộng vàng, thế là tiếng sét ái tình đánh trúng cả hai! Người Việt ta có câu: "Lấy nhau vì tình, sống với nhau vì nghĩa." Ông bà tổ tiên ta đã đúc kết những kinh nghiệm và triết lý của cuộc đời trong câu nói đó. Tình ở đây là tình yêu. Khi ta còn trẻ, mới bước vào tình yêu, ta đã sống chết quyết lấy cho đuợc đối tượng mình yêu. Khi lấy nhau rồi, thời gian trôi qua, một vài năm có, năm bảy năm có, tình yêu dần dần cũng nguội lạnh. Không nói ra nhưng cả vợ lẫn chồng đều hiểu rằng tình yêu giữa hai người không còn sôi nổi và nồng thắm như xưa. Ái ân cũng phai lạt, đôi khi đó chỉ còn là những cuộc dã chiến thần tốc, làm cho có. Tuần trăng mật ngày mới cưới chỉ còn là kỷ niệm. Có lẽ vì vậy, đa số những kẻ ngoại tình thường là những người muốn tìm lại những dư âm ngày cũ, xem đó là một cách để khơi lại những nguồn cảm hứng dạt dào, và có người để dành những tiềm năng nóng hổi mới “charged/sạc” điện dành riêng mang về dâng tặng lại người phối ngẫu. Nhưng sự đời có bao giờ giản dị như thế? Đã có bao kẻ thử lửa đã chết vì lửa, đi quá trớn và dừng lại không kịp. Thế là có những cặp vợ chồng tan vỡ, và có người lại nại lý do là họ sống vì tình yêu. Nhưng người Việt nói: “Làm thân con gái (thân trai thì cũng chẳng khác gì) mười hai bến nước, có bến đục và cũng có bến trong.” Rủi lấy trúng ông chồng (hay bà vợ) phải gió, loại “hoa lài cắm bãi cứt trâu,” đành phải lãnh trọn kiếp sống như lưu đày nô lệ, khổ hơn con chó! Đó cũng là một thứ “nghĩa.” Đa số những vợ chồng chấp nhận sống với nhau cho đến răng long đầu bạc là vì nghĩa, và cái “nghĩa” ở đây là những ràng buộc xã hội và những giá trị truyền thống áp đặt lên trên đời sống của mọi người. Do đó, khi ta quan sát xã hội Tây phương, ta thường phê phán khi thấy tỷ lệ ly dị quá cao... Nhưng có biết bao nhiêu cặp vợ chồng Việt Nam dù đang ăn đời ở kiếp với nhau nhưng thực sự không ít kẻ đang “đồng sàng dị mộng.” Khi người ta đang yêu, họ nghĩ rằng họ có thể hy sinh mọi thứ cho tình yêu. Chẳng hạn như trong xã hội Việt Nam ngày trước, nếu cha mẹ cấm cản là họ bán sống bán chết quyết tử cho tình yêu. Nhưng sau khi lấy nhau, nhanh thì một hai năm, lâu thì năm bảy năm, có người dần dần nhận ra rằng một trong những thứ quý giá nhất trong đời họ mà đã hy sinh cho tình yêu là sự tự do tuyệt đối mà họ từng có của những ngày độc thân. Có gia đình, mọi hành động, mọi quyết định, sự tự do đi lại của những người đã “vào cuộc” đều bị hạn chế một cách tàn nhẫn. Có người sẽ cắn răng chịu đựng, có người sẽ phản kháng... Nhưng nói chung, họ sẽ hối tiếc nhớ lại những ngày xưa còn tự do “dung dăng dung dẻ...” Cái sai lầm lớn nhất trong tình yêu chính là ở chỗ nầy. Để tránh khỏi cái bi kịch tình yêu mà nhiều người đã mắc phải, điều cần ghi nhớ là bao giờ cũng nên xem người phối ngẫu của mình là người bạn, không những chỉ là người bạn đời đầu ấp tay gối như quan niệm truyền thống đã có, mà phải xem như là một người bạn tuyệt đối. Có những điều ta không nói không làm đối với một người bạn thân nào đó của ta thì ta cũng không nên phá lệ đối với người bạn tình của ta. Không ai thuộc quyền sở hữu của riêng ai. Mỗi người có tự do cá nhân riêng của họ. Ta không mở thơ riêng của bạn ra đọc thì ta cũng không nên bóc thơ của vợ hay chồng ra đọc. Người phối ngẫu có quyền tự do tiêu xài, thí dụ như cho tiền cho người thân của họ chẳng hạn... Họ có quyền đi đứng tới lui... Tóm lại, ta đối xử với một người bạn thân của ta như thế nào là ta sẽ đối xử với vợ hoặc chồng như vậy. Có như thế, tình yêu sau ngày cưới mới có còn cơ may tồn tại. Không phải chỉ có "Bà Tùng Long" mới biết gỡ rối tơ lòng; mới nhận ra những "common sense" hay nhận thức ra được "tự do đầu tiên và cuối cùng" của con người là tiền đề và điều kiện sống còn cho một hôn nhân “bách niên giai lão”; và còn hy vọng giữ lại được ít nhiều dư âm tình yêu ngày cũ. Hơn thế nữa, đừng kỳ vọng tình yêu sau ngày cưới sẽ mãi mãi nồng nàn như ngày chưa cưới. Có người ví von chuyện ái ân vợ chồng giống như ăn mãi một món thịt bò thì dù có ngon đi mấy thì cũng phải ngán. Sẽ có người ngoại tình, dù chỉ là ngoại tình trong cách suy nghĩ. Cứ để chàng hoặc nàng tự do trong việc truy tìm nguồn cảm hứng mới, đa số sẽ biến nó thànnh nguồn năng lực mới mang về bồi bổ lại những cái đã tàn phai trong tình yêu cũ kỹ của hai bô lão. Nói không ngoa, hôn nhân chính là nấm mồ chôn cất tình yêu. Khi yêu, trăm chuyện đều cho qua. Đang yêu, nói chuyện gì nghe cũng ngọt ngào thi vị hết. Từ chuyện nho nhỏ như em mặc một chiếc áo mới, khen đẹp. Đưa em đi “shopping” suốt ngày không biết mệt. Em kể cho nghe chuyện nhà em, nào mèo nào chó, chuyện Ba em trồng hoa hay rau trái gì trong vườn, chuyện Má em biết nấu món ăn ngon... chuyện gì em kể nghe cũng dễ thương. Chuyện chàng viết văn làm thơ hay, chuyện chàng có chiếc xe xịn, chuyện chàng máy móc thứ gì cũng biết sửa... Ôi thôi! Chàng là hoàng tử trong mộng của em sao mà giỏi giang, sao mà “ga lăng” thế !...
Thế rồi, chẳng bao lâu sau ngày cưới, dường như cả hai hết chuyện để nói. Thực sự hai người có nhiều chuyện hơn, đủ thứ chuyện, nhưng chẳng ai muốn nghe, vậy thôi! Chuyện chó chuyện mèo chỉ tổ làm chàng khó chịu thêm. Chuyện chàng thích ăn thịt, nàng thích ăn rau cá, chuyện chàng ghét “shopping,” nàng thích sắm đồ. Bấy nhiêu đó cũng đủ để cho "nấm mồ tình yêu" càng ngày càng mọc thêm nhiều cỏ dại. Chuyện văn chương hay, nhạc mùi mẫn hoặc tranh đẹp của chàng là chuyện ngày xưa; hôm nay trước mắt phải là chuyện “dốp tốt,” kiếm cho được nhiều tiền, nhà phải lớn hơn nhà hàng xóm… Chuyện mới là chuyện tiền nhà, tiền nước, tiền điện, tiền xe... Chàng làm bao nhiêu nàng đều thấy không đủ... Tính tình hai người dường như ngày càng xa cách. Một người em gái nhỏ mà tôi quen biết, nghe tôi ta thán về hôn nhân gia đình như trên, em nhất định không tin. Em bảo em sẵn sàng sống chết cho tình yêu. Em sẵn sàng hy sinh tất cả để có được tấm chồng lý tưởng. Làm sao mà tin cho được “hôn nhân chính là nấm mồ chôn cất tình yêu.” Có lẽ em chưa từng yêu bao giờ. Do đó, cái mãnh lực tình yêu bao giờ cũng hừng hực ghê gớm, biết hay không biết, tin hay không tin, đối với kẻ kinh nghiệm hay không kinh nghiệm đều dễ chết như không. Tôi cảm thấy mình cũng không là một ngoại lệ, chỉ có điều là tôi sẽ không bao giờ dám có ý nghĩ "tảo mộ" thêm một lần nữa. Ôi tình yêu xem ra chẳng còn thơ mộng tí nào dưới cái nhìn trần tục thực tế như tôi. Chắc chắn có người sẽ cho là “Tên nầy có lẽ đã vỡ mộng gối chăn, có hôn nhân không đuợc hạnh phúc.” Nhưng đây này, mộng gối chăn chính là cái trọng điểm của hai chữ tình yêu như đã đuợc phân tích ở trên. Còn hạnh phúc trong tình yêu thì sao? Đó chính là những truy tìm không ngừng nghỉ những giấc mộng chăn gối. Ngày nào còn hơi sức đeo đuổi cái đích đó là ngày đó còn hạnh phúc. Một khi mà trái tim mình vẫn còn cảm nhận đuợc những rung động trước một người khác phái, là tôi có thể nói là mình vẫn còn tình yêu đầy ắp trong hồn. Xem ra cái lẽ "yêu là chết trong lòng một ít, vì mấy khi yêu ai lại đuợc yêu” một cách trọn vẹn vẫn còn làm bao trái tim điêu đứng, chết đi sống lại, bao giờ cũng thèm hát câu: "'Yêu ‘ai’ thơ dại từ trời? Theo ‘ai’ xuống biển vớt đời ta trôi?" (Nhái theo ý bài hát “Giữ Đời Cho Nhau” – Từ Công Phụng / Du Tử Lê) Trước khi kết thúc bàn chuyện tình yêu rất nản này, tôi xin phép được góp một ý kiến “hữu nghị” sau đây: “Nếu một khi móng tay mọc dài thì chỉ nên cắt móng tay thôi nhá; đừng có dại đi cắt cả ngón tay. Chuyện tình yêu cũng y như vậy: Khi tình cảm có vấn đề thì nên tìm cách giải quyết cái nguyên nhân của vấn đề (‘ego’ chẳng hạn) chứ đừng vội để tình cảm tan vỡ…”
MAY THE PEACE OF THE LORD BE WITH YOU ALL !
Trần Văn Giang |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Bà Bảy Vượt Biển - Vietnamese Boat People<<<<<<![]() Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 26/Mar/2025 lúc 2:55pm |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23600 |
![]() ![]() ![]() |
Nơi Đáng Sống Nhất Quả Đất
Quanh năm cày sâu cuốc bẫm, bán mặt cho đất bán lưng cho trời, suốt đời quanh quẩn với ruộng vườn, heo bò gà vịt ấy vậy mà cuộc sống vẫn không khá nổi, đầu tắt mặt tối, thiếu trước hụt sau, con cái nheo nhóc, ăn còn không đủ thì nói chi đến chuyện học hành hay du hí đó đây. Vợ chồng Đậu than thân trách phận mà hổng biết tại sao mình khổ như thế. Vợ chồng Đậu bèn đổ riệt cho ông trời, việc gì cũng do trời cả. Bản tánh vốn thiệt thà chất phác đến độ ngờ nghệch không còn phân biệt nổi phải trái, trắng đen. Ai nói gì cũng nghe, ai phỉnh phờ cũng tin, bị gạt miết mà hổng tỉnh ra. Thực tình mà nói Đậu cũng dốt thật, với mớ chữ và kiến thức ở trường làng đựng không đầy lá môn thì làm được gì, chỉ được mỗi cái xạo là khỏi chê, cũng vì cái mỏ xạo ấy mà nhiều lúc Đậu cứ ngỡ mình nhất làng này, mà nhất làng này thì cũng coi như nhất thiên hạ rồi, cứ như thế Đậu như con ếch ngồi đáy giếng cứ ngoác mồm ra oang oang nhức cả đầu. Ngày kia hai vợ chồng Đậu nghe nói thành đô rực rỡ là nơi đáng sống nhất quả đất. Đậu bàn với vợ: – Vợ chồng mình ở dưới quê cả đời, nghèo khổ đã lâu, nay người ta đồn đãi thành đô là nơi đáng sống nhất, vậy tui với bà làm chuyến lên tỉnh để nở mặt nở mày với thiên hạ. Vợ Đậu gật đầu, hai vợ chồng lập tức tay xách nách mang lỉnh kỉnh quà quê, giỏ lác đựng mớ rau củ và con gà nòi đang tơ lên thành chơi.Vừa bước xuống xe đò, một đám cò lập tức bu quanh chụp giựt níu kéo, đứa nào cũng đòi chở vợ chồng Đậu mà chưa cần biết đi về đâu. Vợ Đậu sợ lấm lét, ôm chặt cái giỏ lác sợ tụi nó giựt mất. Đậu cũng xám mặt, hai tay kè kè giữ rịt túi quần vì trong ấy có mớ tiền bán lúa non để lên thành chi tiêu. Bọn cò xe ỏm tỏi làm dữ quá, Đậu còn chưa biết tính sao thì may quá, người em họ cũng vừa trờ đến, nhờ vậy mà bọn cò xe ôm mới chịu dãn ra. Hai vợ chồng Đậu ngồi sau lưng ôm cứng người chở cứ như ếch đeo bẹ dừa nước, mắt ngơ ngác nhìn phố xá hai bên, thỉnh thoảng miệng ú ớ, mắt trợn tròn ngạc nhiên vì sự ồn ào và tấp nập của phố phường. Nhìn đâu cũng thấy nhà lầu, cửa hiệu, đèn quảng cáo chớp chớp xanh đỏ tím vàng sao đẹp quá, sao khác với cảnh bùn lầy nước đọng dưới quê. Xe dừng ở đèn đỏ, dòng xe ken kín mặt đường. Hai vợ chồng Đậu đang mở to mắt nhìn chung quanh thì bất chợt một chiếc xe bán tải từ xa phía sau lao tới húc ủi thẳng vào đám xe máy đang chờ đèn, một tiếng ầm kinh khủng vang lên, bao nhiêu sắt thép lẫn máu thịt vung vãi khắp mặt đường, hàng chục chiếc xe máy gãy nát. Xe người em họ chở vợ chồng Đậu đậu sát vỉa hè và ở xa phía trước vì thế không bị hề hấn gì, chỉ tội hai vợ chồng Đậu sợ xanh mặt như nhái bén, cắt không còn giọt máu. Vợ Đậu thì thào – Ghê quá ông ơi, may chứ không thì lần đầu lên thành cũng là lần cuối. Đậu sợ líu cả lưỡi không trả lời, người em họ trấn an: – Hổng sao đâu, ở đây chuyện đó rất thường, người ta chờ đèn đỏ bị xe hơi ủi từ phía sau hoài, tuần nào cũng xảy ra. Anh chị lên thành chơi nhớ đi đứng cẩn thận, dè chừng bọn choai choai chạy ẩu. Buổi chiều hôm đó vợ chồng Đậu đi bộ trên vỉa hè ngắm phố phường cho đã con mắt, cho bõ ước ao bấy lâu. Đậu vừa đi vừa móc điện thoại thông minh của Tàu để gọi về dưới quê khoe với bạn, vừa nói mấy câu chưa đủ đầu đuôi thì bỗng có tiếng xe máy rít sát rạt, một thằng tóc xanh đỏ ngồi sau giựt mất điện thoại cầm tay của Đậu, chỉ trong phút chốc cả người và xe biến mất trong dòng người trên đường phố. Hai vợ chồng Đậu hét khản cổ họng: – Cướp, cướp, bớ người ta cướp! Tiếng hét lạc lõng tan biến trong tiếng ồn ào của xe cộ trên đường, chẳng có ai nghe thấy cũng chẳng có ai giúp, những người khách bộ hành đi qua ngoái nhìn lặng lẽ đi như thể chẳng có chuyện gì xảy ra. Hai vợ chồng thất thần ngơ ngác, một ông già ngồi gần đó bước đến an ủi: – Thôi thì của đi thay người, lần sau nhớ cẩn thận hơn, giựt điện thoại, bóp xách, dây chuyền còn hơn cơm bữa, hai người bị cướp giựt mà không bị té hay bị xây xát gì kể cũng còn may lắm đó. Ở thành đô này mọi người phải sống chung với cướp giựt quen rồi, ông bà dưới quê mới lên nên hổng biết đó thôi! Nghe ông già nói thế thì vợ chồng Đậu cũng thấy được an ủi đôi chút, thì ra mình còn may chưa bị té chấn thương sọ não, nếu không thì có mà bán hết ruộng vườn cũng hổng đủ chữa trị. Riêng Đậu thì ấm ức lắm, tiếc của đau lòng, cái điện thoại thông minh của Tàu mua bằng 2 tấn lúa chứ ít sao, nó rất hiện đại. Chỉ cần quẹt quẹt là xuất hiện bao nhiêu chương trình từ cải lương, tấu hài, cho đến xem mấy em mẫu áo tắm chân dài… Đậu buồn xo, hai vợ chồng lủi thủi đi bộ quay về nhà người em họ, gần đến nhà thì cả hai đạp phải bãi cứt chó, đã thế một con bẹc giê to và dữ như cọp hổng biết từ đâu xồng xộc lao tới, hai vợ chồng hoảng sợ quýnh quáng vừa chạy vừa kêu cứu. Nghe ồn ào, một người đàn ông phốp pháp từ ngôi nhà gần đó bước ra huýt gió kêu con chó quay lại. Ông ta nói: – Chó tui giống bẹc giê Đức chỉ ăn thịt bò Kobe Nhật, uống sữa cô gái Hà Lan, tắm xà bông Dove của Mỹ… Nó sủa vậy chứ hổng có cắn đâu. Đậu vừa sợ vừa tức nên lầu bầu chửi: – Con bà nó, ỷ giàu khoe chó, nói dóc, làm màu! Ngày đầu lên thành nhiều việc rất bỡ ngỡ, giao tiếp cũng khác dưới quê. Đậu phải ráng bắt chước người ta chứ sợ người ta cười mình hai lúa. Giấc xế trời nắng hừng hực, Đậu không biết làm gì cứ đi ra đi vào chán rồi lại nằm ở sô pha thiêm thiếp ngủ. Ngay lúc ấy tiếng loa kẹo kéo của nhà bên mở hết công suất, thì ra nhà người ta ăn nhậu hát karaoke. Không khí oi bức mà mấy cái giọng nhựa nhựa hơi men cứ nỉ non: “Ngoài kia tuyết rơi đầy, anh không đến bên em chiều nay”. Một giọng the thé tone trees cất lên: “Đêm đông ai lê gót chân phong trần tha hương…”, bài này chưa hết thì một giọng b*** tiếp nối: “Hai mươi năm cuộc tình dở dang, lá rơi đắp mộ cuộc tình…” cứ như thế họ ăn nhậu và hát cho đến tận đêm khuya. Đậu thấy đầu óc nhức như tra tấn vì tiếng hát loa kẹo kéo, người em họ đi làm về lấy mấy viên thuốc nhức đầu cho Đậu uống. Người em họ cười méo xẹo: – Hổng biết bao nhiêu cái mộ mà nó đắp mấy năm nay hổng xong, đắp hoài, ngày nào cũng đắp mộ cuộc tình, rồi còn đêm đông lạnh giá, tàn thu mơ phai … Con bà nó! Karaoke nó như giặc phá xóm làng, hổng cho ai ngủ nghỉ, ông già bà cả, con nít mới sanh, người bệnh liệt giường … cũng phải chịu trận. – Sao dân ở đây hổng báo cáo lên phường? – Nhằm nhò gì anh! Mấy ổng cũng hát Karaoke như điên chứ có thua ai. – Như vậy thì chịu sao thấu? – Hổng chịu cũng phải chịu chứ giờ biết làm sao được? Mình không nói còn đỡ, mình mà nói nó làm tới còn mệt hơn, Nó thách thức ra mặt nhưng có ai làm gì được đâu, đụng vô mấy thằng say không chừng còn mệt hơn nữa, bởi vậy cả khu phố gồng mình với loa kẹo kéo, sống chung với tiếng ồn. Những ngày kế ngồi trong nhà hổng có việc gì làm nên tay chân thừa thãi, quanh quẩn trong 4 bức tường nên thấy chán. Người em họ thì đi làm cả ngày. Đậu mở ti vi coi để giết thời gian, chương trình thời sự đang trực tiếp đưa tin ông bí thư đang phát biểu: – Kiên quyết đẩy mạnh xây dựng thành đô ta xanh và sạch hơn Singapore, lãng mạn trữ tình hơn thành Vienna, hiện đại văn minh hơn Tokyo, giàu sang hào nhoáng hơn Las Vegas, văn hóa nghệ thuật cao hơn Ba Lê … Dưới sự lãnh đạo của đỉnh cao trí tuệ thì thành đô của chúng ta thông minh hiện đại hơn bất cứ thành đô nào trên thế giới này. Chúng ta phải lo cho dân, giáo dục, y tế miễn phí, đời sống tự do, an toàn, phẩm chất nhất thế giới. Tóm lại thành đô của chúng ta là nơi đáng sống nhất quả đất. Nghe thế Đậu sướng rơn cả người, quên đi những chuyện bực bội mấy ngày qua. Đậu nói với vợ: – Bà nó có nghe không? Thành đô này là nơi đáng sống nhất quả đất, mấy nay mình gặp chuyện xui cũng nhỏ như con thỏ thôi khắc phục mấy (năm) hồi! Vợ Đậu ừ hử cho qua chuyện chứ biết nói gì, trong bụng còn tiếc đứt ruột vì cướp giựt mất cái điện thoại rồi, 2 tấn lúa chứ ít sao. Chiều, người em họ đi làm về sớm đưa cả hai vợ chồng Đậu đi ăn đặc sản. Quán đông nghẹt người, phải chờ cả tiếng đồng hồ mới có bàn, lại ngồi chờ thêm một lát nữa mới có đồ ăn bưng lên. Trong quán mùi hải sản tanh tanh, mùi nấu nướng chiên xào quyện với mùi bia rượu đặc quánh. Mùi hơi người và mùi nước hoa xen vào… tra tấn lỗ mũi Đậu. Đậu thấy khó thở quá, dưới quê quen mùi cứt bò hăng hăng ngái ngái, mùi bùn thum thủm… vậy mà hít thở sướng hơn. Đậu chưa hết phân tâm vì mùi nhà hàng thì tiếng hò dô dô, tiếng cười nói cãi vã đặc nghẹt tai Đậu. Đậu cứ lơ ngơ như người cung trăng xuống. Ăn xong người em họ cầm hóa đơn xem, bỗng dưng mặt xanh lét: – Tại sao mắc vậy? giá trên thực đơn ghi 1 mà sao hóa đơn tính đến gấp 3 lần? Người phục vụ giải thích do tiền chênh lệch về phẩm chất của đặc sản, tiền phụ thu ghế và tiền phí khấu hao… Người em họ tuyên bố chỉ trả tiền đúng theo giá trên thực đơn. Hai bên cãi vã lời qua tiếng lại một chặp, bấy giờ tự dưng xuất hiện quanh bàn ăn mấy thanh niên xăm trổ vằn vện, vẻ mặt đằng đằng sát khí đứng khoanh tay. Mặt Đậu đang đỏ vì mấy chai bia ấy mà nhanh chóng chuyển sang xám xịt, vợ Đậu run như cầy sấy, tay bấu chặt đùi Đậu. Người em họ của Đậu cũng chẳng khá gì hơn. Anh ta lặng lẽ móc bóp chồng đủ tiền rồi lặng lẽ kéo Đậu ra về. Trên đường về anh ta tức giận nhưng không làm gì được, cứ lầu bầu: – Thôi thì cúng cô hồn, tụi nó chặt chém dã man, làm ăn gian dối, thề không bao giờ quay lại quán đó nữa! Thấy trời chiều còn sáng, cả nhóm ghé vào công viên văn hóa chơi, bên kia đường có tấm bảng ghi: “Khu phố văn hóa” gắn cờ xí đỏ lòm, bên này đường đầy những khẩu hiệu chữ to nhan nhản nào là: “Công viên văn hóa vững mạnh tiến lên”, “Thành đô sạch – xanh- đẹp”, “Ứng xử văn minh nơi công cộng”… Đậu lẩm nhẩm đọc cho kỳ hết mà lòng thơi thới quên ngay chuyện vừa bị chặt chém ở quán ăn đặc sản. Cả mấy anh em đi bộ ngắm cảnh, nhìn ông đi lại bà đi qua. Chợt đằng xa có tiếng la thất thanh, tiếng hét hãi hùng, tiếng khóc inh ỏi rồi thấy người ta chạy thục mạng … Ba người hổng biết chuyện gì nhưng cũng tạm núp vô sau gốc cây dầu cho nó lành. Những người vừa khóc vừa chạy miệng la oai oái: – Thằng ngáo đá nó chém loạn xạ, chạy mau! Chừng 10 phút sau lắng bớt cả ba mới dám ló đầu ra, bấy giờ thấy mấy người bị chém máu me tùm lum, kêu khóc inh ỏi còn thằng ngáo đá thì leo lên cột điện cao thế ngồi vắt vẻo tự bao giờ. Đậu tò mò hỏi người em họ: – Ngáo đá là gì vậy? – Là mấy thằng hút xì ke, chích ma túy đó, bây giờ nó còn có loại ma túy tổng hợp mạnh kinh khủng, nó như viên thuốc, uống vô khiến người ta không còn biết gì nữa. Người chơi thuốc đó có thể làm bất cứ việc gì mà người bình thường không dám làm. Chơi ma túy đá nó có thể giết cả cha mẹ hay bất cứ người nào … Người chơi thuốc lắc, ma túy tổng hợp gọi là ngáo đá. Đậu gật gù ra vẻ hiểu rồi ngước nhìn thằng ngáo đá trên cột điện tỏ vẻ thán phục: – Giỏi ghê vậy ta! sao leo lên được cột điện ngồi mà không bị té hay bị điện giựt? Người em họ nói: – Nhằm nhò gì, tụi nó còn đi trên tường, chạy trên nóc nhà, đu dây điện nữa kìa vì tụi nó bị ảo giác! Dân thành đô cũng quen rồi, phải sống chung với ngáo đá! – Trời! Ghê vậy, có nhiêu vậy mà thành đô hổng giải quyết được sao? dân chịu sao nổi? sao nghe mấy ông lớn nói thành đô là nơi đáng sống nhất quả đất? Đậu còn nêu lên bao nhiêu câu hỏi tại sao khiến người em họ cười méo xẹo: – Hơi đâu nghe bọn ngáo đá nổ sảng anh ơi! Bộ anh hổng nghe người ta nói:”Miệng quan trôn trẻ” sao? – Ủa, mấy ổng cũng ngáo đá hả? – Trời! Anh đúng là Đậu thiệt tình luôn đó! Mấy ổng nổ sảng quá nên dân thấy giống mấy thằng ngáo đá nên nói vậy thôi! Sáng Chủ Nhật, cả nhà đi ăn phở, giữa chừng trời mưa xối xả, nước lênh láng khắp mọi ngả đường, nước ngập lên mắt cá, rồi từ từ nước lên ngập cả bánh xe. Xe máy chết máy la liệt khắp nơi, có khúc nước chảy xiết làm cho nhiều người và xe cộ ngã té ì xèo. Vợ chồng Đậu xăn quần bì bõm lội, người em họ dắt xe chết máy mò mẫm đi ngược dòng nước đen ngòm đầy rác rưởi. Quê Đậu vốn sông nước vậy mà Đậu chưa từng thấy nước ở đâu ra mà lênh láng nhiều như thế. Chợt nhiên Đậu nhớ lời ông chủ tịch hay ông bí thơ gì đó nói trên tivi: “Thành đô ta đẹp lãng mạn như thành Vienna bên Ý”. Đậu lội nước bì bõm khoái chí cà rỡn với vợ: – Phải chi mình đem theo cái vỏ lãi thì giờ lái taxi nước sướng biết mấy! Ngoái đầu nhìn người em họ, thấy vẻ mặt của nó đầy lo lắng. Đậu hỏi: – Có chuyện gì mà thấy mặt "căng" quá vậy chú em? – Ráng đi nhanh hơn chút, về lo tát nước ra! Đậu hổng hiểu tát nước gì nhưng cũng hổng hỏi nữa, lo cố gắng đi nhanh hơn chút. Đội mưa lội nước về đến nhà Đậu mới té ngửa ra. Nhà thằng em họ như cái hồ cá tra, nước ngập tới gối luôn. Thằng em đã chuẩn bị sẵn bao cát chặn cửa, thế là cả 2 vợ chồng phụ nó tát nước ra ngoài, tát sặc sừ luôn, những tưởng dưới quê mới tát nước lên giồng ai dè trên thành cũng tát nước mà tát hộc xì dầu luôn. Thằng em họ chỉ cho Đậu thấy vết ngấn nước trên tường: – Anh coi nè! những lần trước nước ngập sâu và ngập lâu hơn nên còn dấu! – Ngập hoài chịu sao thấu? – Hổng thấu cũng phải chịu chứ biết chạy đâu giờ? mưa nhỏ ngập cạn, mưa lớn ngập sâu thậm chí không mưa cũng ngập. Nước mưa còn đỡ, nước thủy triều và nước cống tràn lên mới ghê, dơ thấy bà cố, đen ngòm, hôi rình, rác rến tùm lum. Tụi con nít nó đặt đồng dao hát tưng tửng: ‘Còn khá nước ngập mắt cá, la lối nước ngập đầu gối, lu bu nước ngập cu, lông bông nước lên tới hông, lù đù nước đụng vú…’ Người thành đô phải sống chung với ngập, hổng quen rồi cũng phải quen. Chiều cùng ngày, người em họ chở vợ chồng Đậu ra bến xe để dìa lại quê. Bấy giờ Đậu mới để ý thấy lớp lớp người trên đường mặt mày che kín mít, ai nấy áo xống dài tay, áo khoác lùng bùng dù trời nóng như điên, đàn bà thêm tấm xà rông quấn phần thân dưới, tất vớ kỹ càng, đầu đội nồi cơm điện… cứ như Ninja trong mấy phim chưởng. Dòng người bọc kín người, chen kín đường nhích từng tí. Trời nắng như đổ lửa, khói dầu xe máy và xe hơi tuôn nồng nặc, bụi bay bám trên mọi bề mặt, không khí ngột ngạt kinh khủng, tiếng gầm rú của động cơ xe muốn nổ tung cái đầu, len lách luồn từng tí, có lúc chạy trên vỉa hè nhưng rồi cuối cùng cũng vào được bến xe. Ngồi trên xe đò hạng sang mà người em họ đã mua vé trước giúp cho. Đậu dán mặt vào kiếng xe nhìn người ta tất tả tán loạn bên ngoài. Đậu thì thầm: – Thôi hén, chào tạm biệt thành đô nơi đáng sống nhất quả đất! Tui dìa với quê của tui sướng hơn.
Tiểu Lục Thần Phong |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23600 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23600 |
![]() ![]() ![]() |
Người Chị Dâu
Chó Ngao Tây Tạng. Nguồn Internet Ông tôi chỉ có 2 người con, 1 gái đầu lòng là cô Đoan, và 1 trai út là cha tôi. Cô Đoan lấy chồng sớm, sanh được 4 người con, nhưng chỉ nuôi được 1, đó là anh Kính, anh họ tôi. Mấy người kia đều chết từ lúc mới lọt lòng, hoặc còn rất nhỏ, nghe đâu tử vi của anh Kính có số khắc với huynh đệ. Vì là con hiếm, được cha mẹ hết mực nuông chiều, muốn gì được nấy, nên Kính quen thói xài tiền như nước, và tính tình có hơi độc đoán. Cô dượng tôi, tức là cha mẹ Kính, cũng đã qua đời đã 6 năm rồi, kẻ trước người sau, chỉ cách nhau có vài tháng. Kính thừa hưởng gia tài của cha mẹ để lại, dùng vốn liếng để đầu tư vào nhà, đất, và mua bán bất động sản, kiếm lời. Cha tôi 30 tuổi mới lập gia đình. Hai ông bà chỉ sanh độc nhất có 1 đứa con là tôi. Cha mất sớm, khi tôi mới lên 6 tuổi, mẹ tôi ở vậy nuôi con. Ông nội vẫn cấp dưỡng tiền bạc cho mẹ, để nuôi tôi, cho tới khi tôi trưởng thành, sau đó thì ngưng, vì ông muốn tôi tự lập. Ông chỉ làm cố vấn, chỉ bảo kinh nghiệm, khuyên bảo, rèn luyện cho cháu phải tự vươn lên bằng chính đôi tay của mình. Tôi không có số học hành, nên lao vào thương trường, làm đủ nghề để kiếm sống. Tôi kiếm cũng đủ ăn và nuôi mẹ. Nhưng mấy lúc gần đây, vì thời cuộc, và chiến tranh leo thang, công việc làm ăn của tôi bị trở ngại. Đang lúc bối rối, vì không biết xoay ở đâu ra một món tiền lớn để ứng trước cho chủ thầu, thì tôi bỗng nhận được thơ của anh Kính, mời tôi lên Đà Lạt chơi, nói là để khoe căn biệt thự anh mới tậu năm ngoái, và mới hoàn tất việc sửa sang. Lá thơ của anh làm tôi ngạc nhiên, vì chúng tôi rất ít khi liên lạc, chỉ thỉnh thoảng mới gặp nhau trong những dịp giỗ Tết. Tôi được biết là anh mới lấy vợ, lập nghiệp trên Đà Lạt, và có một cuộc sống khá dư dả. Trong lúc tôi đang cần tiền để làm ăn, lời mời của người anh họ có thể là một cơ hội tốt cho tôi mượn tạm ít tiền, biết đâu? Nghĩ vậy, tôi vui vẻ nhận lời. Anh Kính đích thân đi đón tôi tại phi trường và đưa về nhà. Vừa dừng xe trước cổng, anh đã gọi lớn vào bên trong: - Mình ơi, ra chào khách! Chú em tôi đã tới đây rồi. Đi đường xa, chắc chú ấy đang đói bụng... Ở nhà mình đã lo chuẩn bị cơm nước xong chưa? Sự nhiệt tình và lòng hiếu khách của anh làm tôi cảm động. Cánh cửa bật mở, và 1 người thiếu phụ từ bên trong thong thả bước ra, nhìn tôi cúi đầu chào. Tôi nhìn người chị dâu lần đầu tiên gặp mặt. Bà ta trông rất trẻ, chắc chưa tới 30 tuổi, dáng người mảnh mai, nước da trắng xanh, nét mặt thanh tú khá đẹp, nhưng phảng phất có nét buồn. Đôi mắt trong suốt, nhưng u uẩn như chứa cả một trời tâm sự, và suối tóc đen óng ả buông xõa xuống đôi vai gầy, tạo cho bà một vẻ thanh nhã, quí phái. Bà ta đứng bên ông chồng to béo cục mịch, trông thật là tương phản, chẳng cân xứng tí nào. Trông họ giống như một đôi đũa lệch, và trên nét mặt của cả hai, đều không có vẻ rạng rỡ của một cặp đôi hạnh phúc... Một con sóc vụt chạy ngang, làm tôi giật mình, gián đoạn dòng suy tưởng. Sực nhớ là chưa chào hỏi bà chủ nhà, tôi vội vã bước tới, nghiêng mình đáp lễ, miệng cười thật tươi: - Chào chị, hân hạnh được biết chị. Hôm nay thời tiết tốt quá, chị khoẻ chứ? Bà ta chỉ lặng lẽ gật đầu, nhìn tôi bằng ánh mắt khó hiểu, và không nói một lời, không cả một cái mỉm cười xã giao, thái độ lạnh lùng, khác hẳn với sự vồn vã của người chồng. Lợi dụng lúc ông ta đánh xe đi cất, bà mới nói thật nhanh: - Tốt hơn hết chú nên rời khỏi đây ngay, không nên ở lâu. Chuyến bay Đà Lạt - Sài Gòn sớm nhất sẽ cất cánh vào lúc 9 giờ sáng mai... Tôi vô cùng sửng sốt, câu đuổi khách trắng trợn của bà ta làm tôi cảm thấy bị xúc phạm nặng nề. Mặt nóng lên vì giận, tôi cau mày nhìn thẳng vào mặt bà ta, nói gằn từng tiếng một, giọng thách thức: - Anh Kính viết thơ, nhiệt tình mời tôi tới chơi. Sau một chuyến đi xa như vậy, tôi không nghĩ rằng tôi sẽ về ngay ngày mai. - Tôi làm vậy là chỉ vì chú. Anh Kính... - Bà nói cái gì thế? Tôi làm sao? Kính đã trở lại, và nghe được câu sau cùng. Bộ mặt đang tươi cười của hắn bỗng dưng sa sầm, trông rất dữ tợn. Kính kéo vợ vào bên trong. Chẳng biết 2 người bàn tính, cãi cọ ra sao, mà chỉ một lúc sau, bà ta trở ra, mặt tái mét, và đôi mắt đỏ hoe vì khóc: - Ông ấy bảo tôi ra xin lỗi chú. - Chị khỏi phải xin lỗi. Tôi thật sự không hiểu gì cả. - Khi chú hiểu thì đã quá muộn. Âu cũng là do số trời... Bà ta thở dài: - Thôi tôi phải vào, kẻo ông ấy nghi. Nói xong bà ta quày quả đi ngay vào nhà. Tôi đứng như trời trồng, không biết nên có thái độ nào, thì Kính quay trở ra, nét mặt đã vui vẻ lại. Hắn vỗ vai tôi thân mật: - Tôi cũng phải xin lỗi chú vì thái độ kém lịch sự của vợ tôi. Bà ấy sức khoẻ không được tốt, nên tánh nết khó chịu. Chẳng riêng gì chú, bà ta không muốn bất cứ ai tới đây, khuấy động sự yên tĩnh của ngôi nhà này. - Thật sự em không ngờ, nếu biết vậy, em đã không tới... Thôi, để khỏi làm phiền chị ấy, sáng mai em sẽ rời khỏi nơi đây. Kính hốt hoảng: - Ấy đừng làm vậy, chú làm vậy là không nể mặt tôi. Để tâm làm gì đến lời nói của một người bệnh tâm thần? Tôi sẽ buồn lắm nếu chú về ngay ngày mai, tôi có bao nhiêu dự tính cần bàn với chú, đừng để cho một mụ đàn bà xen vào, làm hỏng hết. Nói xong, Kính lảng sang chuyện khác, hắn bông đùa vài câu về đàn bà, và kết luận: - Cứ sống độc thân như chú mà khoẻ. Có vợ vào là rắc rối, mất hết tự do, đôi khi mất cả anh em, bè bạn. Kính còn nói nhiều nữa, chung quy cũng chỉ vì mục đích cố giữ tôi lại. Thái độ của Kính rất khẩn khoản, nhiệt tình, gần như năn nỉ, làm tôi khó lòng từ chối. Vả lại, tôi cũng tò mò muốn biết xem lý do tại sao bà ta muốn đuổi khách? Bà ta làm vậy là có ý gì? Bà ta chưa hề biết ý định vay tiền của tôi, chưa ai biết hết, kể cả Kính. Vậy thì tại sao? Tướng mạo của bà ta trông nhu mì hiền lành, không có vẻ gì là nham hiểm, bần tiện cả, cũng không có hành động nào tỏ ra là mắc bệnh tâm thần, như Kính nói. Chắc là phải có nguyên do bí ẩn nào đây, nhất định tôi sẽ tìm hiểu. Nghĩ vậy, tôi gật đầu: - Thôi được rồi, em sẽ ở đây chơi đúng 1 tuần như đã dự định. Kính mừng rỡ xiết chặt tay tôi, cả hai cùng đi vào nhà. Căn phòng Kính dành cho tôi rất đẹp, với đầy đủ mọi tiện nghi. Nhưng sự tiếp đãi ân cần của Kính, những bữa ăn thật ngon do bà bếp giỏi nấu nướng, cũng không bù lại cái cảm giác khó chịu của tôi, mỗi khi phải đối diện với bà chị dâu kỳ quái. Tôi sợ đôi mắt nghiêm khắc của bà ta mỗi khi nhìn tôi, nó nửa như thương xót, nửa như muốn cảnh báo một điều gì, mà tôi không thể đoán. Phải công nhận Kính rất có quyền uy với vợ. Bà ta sợ chồng như sợ cọp, chỉ một cái lừ mắt của Kính, là bà ta vội cúi ngay đầu xuống, mắt lấm la lấm lét, và mặt xanh đi vì sợ. 2 người như ngầm che giấu một điều gì bí mật chỉ có họ biết với nhau, còn tôi hoàn toàn là một người ngoại cuộc. Trước sau, chị ấy vẫn không nói gì thêm với tôi, ngoài những câu chào hỏi thông thường. Trái với sự lãnh đạm của bà vợ, sự thân mật giữa tôi và Kính càng ngày càng trở nên khắng khít. Ban ngày, Kính thường đưa tôi đi dạo quanh vùng, và buổi tối cũng hay vào phòng tôi nói chuyện. Một lần, hắn thân mật hỏi han về mẹ tôi, và công việc làm ăn của tôi. Không giấu diếm, tôi kể hết, Kính nghe xong cười khà khà: - Vậy là chú rất cần tiền, sao để tới bây giờ mới nói? - Em rất ngại khi phải mở miệng nói đến chuyện vay mượn. - Chú chỉ khách sáo, anh em trong nhà phải giúp đỡ nhau chứ. Chuyện nhỏ, có gì mà phải bận tâm, 500 ngàn đâu phải là một món tiền lớn, anh dư sức cho chú mượn. Anh sẽ đưa tiền cho chú, trước khi chú rời khỏi nơi đây. Tôi thở phào sung sướng, không ngờ mọi việc lại xuôi rót, dễ dàng như vậy. Tôi nhìn ông anh họ hào phóng với một vẻ biết ơn: - Em chỉ mượn tạm một thời gian ngắn. Khi lãnh được tiền của chủ thầu, em sẽ hoàn trả anh ngay. - Không việc gì phải vội vã cả. Vả lại nửa triệu đồng đâu có là bao, so với cái gia tài đồ sộ, ông sắp chia cho anh em mình. Nhất là chú, chú là cháu đích tôn, người thừa kế chính thức, còn tôi chỉ là cháu ngoại... - Em không tin là ông phân biệt cháu nội với cháu ngoại. Cháu nào mà chẳng là cháu, là máu huyết của ông? - Tôi cũng hy vọng thế. Chúng tôi vừa đi vừa nói chuyện về người ông mà tôi rất yêu kính. Nhưng Kính chỉ cười mỉa mai, giọng miệt thị: - Lão già keo kiệt, gần xuống lỗ rồi mà chưa chịu chia của cho anh em mình. Giữ làm gì chứ, định đem qua thế giới bên kia chắc? - Anh đừng nói thế. Tôi cau mày: - Ông có lý do của ông, ông muốn con cháu tự học lấy kinh nghiệm sống, và tự lực cánh sinh bằng chính đôi tay của mình, không ỷ lại vào gia sản của ông bà để lại.. - Cũng tùy trường hợp chứ. Xem kìa, có ông nội nào, tiền của vứt đi không hết, mà để con cháu sống thiếu thốn, nợ nần tứ tung như vậy? Thật đáng xấu hổ... Nhưng chú đừng lo, năm nay ông đã hơn 80 rồi, trước sau gì cũng phải chia của cho anh em mình. - Thôi đừng đề cập đến việc chia tài sản nữa, chúng ta nói chuyện khác đi. - Vậy tôi đưa chú đi dạo ở khu rừng phía sau nhà nhé? Nơi đó cảnh đẹp và yên tịnh lắm. Chúng tôi đi trên một cây cầu bằng gỗ mục, bắc ngang một giải đất ẩm. Dưới cầu, chỉ có giòng nước nhỏ, chảy ri rỉ quanh những cây dại mọc xen kẽ giữa những tảng đá. Kính nói: - Nơi đây trước kia, có lẽ là một con suối hay nhánh sông nhỏ, nhưng thời gian qua đã bị cạn nước, rồi bị đất bồi lấp bằng, nên người ta cũng chẳng nghĩ đến việc sửa chữa cây cầu làm gì. Qua khỏi cây cầu, một khu rừng hiện ra, thật hùng vĩ với những cây cổ thụ già trên trăm tuổi. Rừng có vẻ âm u, vì ánh nắng không rọi tới mặt đất. Suốt cả buổi sáng dành cho việc thăm thú này, Kính đã chỉ cho tôi xem những cụm lan rừng mọc ký sinh trên những cành sồi, và rất nhiều giống chim lạ. Sau cùng, chúng tôi cũng về tới nhà, sau khi leo một cái dốc khá cao, vì căn biệt thự tọa lạc trên đỉnh một ngọn đồi, phía dưới là thung lũng, không có nhà cửa chi cả. Kính đưa tôi đi vòng ra sau nhà, trỏ cho tôi thấy: - Đứng ở đây có thể nhìn bao quát khắp vùng. Chú nhìn cái đầm nước phía dưới kia, nước trong xanh, in bóng trời mây, trông thật thanh bình. Vào những đêm trăng tỏ, mặt đầm phản chiếu ánh trăng, sáng ngời như gương, đẹp như cảnh thần tiên. Tôi đặt tên cho nó là Nhật Nguyệt đầm, chú thấy đúng nghĩa không? Tôi ngắm nghía, và gật đầu, xuýt xoa khen đẹp. Kính nói với một vẻ hãnh diện: - Tôi thích căn nhà này lắm. Ở đây biệt lập với chung quanh, sống giữa thiên nhiên, mình có cảm tưởng như người thoát tục. Tôi tới gần bìa đất, ngó xuống vực sâu đầy đá tảng ở phía dưới, một cây sồi già mọc lên từ đáy vực, thân cây vươn lên gần sát khu đất cao, chỗ chúng tôi đang đứng. Ngọn cây xòe ra như cái tán, chia cành ra tứ phía, một cành chĩa vào trong, cách bìa đất chỉ vài sải tay. - Sao anh không cho rào lại? Để trống thế này nguy hiểm quá. Em ước lượng chỗ này sâu dễ tới gần chục thước, phía dưới lại toàn là đá tảng, vô ý té xuống, chết là cái chắc. - Rào làm chi cho mất đi cái vẻ thiên nhiên hoang dã? Vả lại đây là đất tư của tôi, ngoài tôi ra, có ai héo lánh tới nơi đây làm gì? Kính nói và nhìn đồng hồ: - Đã tới giờ cho chó ăn, chú có muốn xem con chó cưng của tôi không? Tôi gật đầu, và đi theo anh. Kính mở cổng sau, đưa tôi vào bên trong. Chúng tôi bước xuống vài bậc xi măng, qua cái sân rộng trải sỏi, tôi thấy 1 cái nhà chó, rộng như một căn phòng, cao gần 2 thước, mái lợp tôn, phía trước có một cái cửa 2 cánh, làm bằng những chấn song thưa chạy suốt dọc chiều dài, nên căn phòng trông có vẻ sáng sủa và thoáng khí. Bên trong, thấp thoáng bóng một con vật to lớn như con bê, lông màu đỏ rực. - Lại đây! Kính nói: - Tôi sẽ cho chú xem một con chó quí, đó là con chó ngao, giống Tây Tạng. Nó có sức mạnh bằng một con sư tử, và rất hung dữ, nó có thể tấn công và hạ gục một con bò mộng. - Anh nuôi chi một con vật khủng khiếp như vậy? - Nó hung dữ, nhưng biết nghe lời chủ. Tôi rất cần nó, cơ ngơi này rộng lớn quá, lại ở vào nơi hoang vu, có nhiều thú dữ, có nó canh chừng lúc đêm hôm, tôi an tâm, chẳng phải lo sợ chi cả. Chú có muốn xem cho rõ thì lại đây! Tôi làm theo. Con vật thấy người lạ tới gần, hộc lên một tiếng dữ dội, làm tôi giật nẩy người lùi lại. Kính vội trấn an tôi, và nói với con vật: - Boo Boo ngoan nào! Đừng làm cho chú em của ta sợ đấy chứ? Lạ thay, con vật đang hung hăng, bỗng trở nên hiền lành, ngoan ngoãn nằm yên cho chủ nó vuốt ve, nhưng thỉnh thoảng vẫn liếc tôi bằng những tia nhìn cảnh giác. Bây giờ tôi mới có dịp ngắm nó thật kỹ. Đó là một con chó, giống như bao nhiêu con chó khác, nhưng to lớn hơn nhiều. Trông nó thật oai vệ với cái bờm xù ra quanh cổ như bờm con sư tử, chỉ khác là bộ lông nó màu hung đỏ, và cặp mắt cũng đỏ rực. Tôi thò tay qua chấn song, toan sờ vào cái bờm của nó, nhưng Kính hốt hoảng kéo giật lại: - Ấy chớ, đừng làm vậy nguy hiểm lắm. Con Boo chưa quen với sự hiện diện của chú, phải mất một thời gian lâu lắm, mới được nó chấp nhận là bạn, và cho phép tới gần. Tôi mua nó ở Tây Tạng, trong một chuyến du lịch, khi nó mới sanh được vài tuần, chỉ to bằng con mèo. Tôi quí nó lắm, đi đâu cũng đem theo. Tôi coi nó như con, ngược lại nó cũng coi tôi vừa là cha, vừa là mẹ của nó, con Boo rất biết vâng lời. Kính vừa nói vừa vuốt ve con vật, và cười với nó: - Boo Boo đói bụng rồi phải không? Để ta lấy thức ăn cho con nhé? Như hiểu tiếng người, nó ngoắc đuôi mừng rỡ. Kính đứng lên, mở cửa căn phòng kế bên, nơi có cái tủ lạnh đựng thức ăn cho chó. Kính mở tủ lạnh, lấy ra một tảng thịt bò tươi còn dính cả xương, quăng cho con vật. Nó vồ ngay lấy, đem vào góc phòng, ngồi gậm một cách khoái trá, máu tươi nhỏ giọt hai bên mõm. Tôi kêu lên sửng sốt: - Ghê quá, anh nuôi nó bằng thịt sống à? Kính mỉm cười, gật gù: - Thỉnh thoảng thôi, lâu lâu mới đãi nó món nó thích. Thường thì tôi nuôi nó bằng thức ăn nấu chín. Con Boo ăn rất khỏe, nó ăn tất cả những gì tôi cho nó, nhưng món khoái khẩu nhất của nó vẫn là thịt tươi. Boo thích ăn thịt những con vật nó bắt được như chồn cáo, thỏ, gà rừng, đôi khi cả chim muông nữa... - Trời! sao anh không cản nó đừng giết hại những con vật vô tội đó? - Làm sao cản được, thú tính là do trời sinh mà. Kính nói với vẻ mặt thản nhiên, và hãnh diện khoe thành tích đi săn của con thú cưng của hắn. Tôi rùng mình nghĩ thầm, bản năng hiếu sát của con vật khổng lồ và hung dữ này, nếu không được kềm chế, mà cứ để buông thả, dung dưỡng cho tự do phát triển, thế nào cũng có ngày nó sẽ gây ra đại hoạ. Nghĩ vậy, nhưng tôi không nói ra, sợ Kính phật lòng, việc riêng của hắn, chẳng nên xía vào, bất quá mình chỉ ở chơi vài ngày, có ở đây luôn đâu mà lo lắng? Tự nhủ như vậy xong, tôi nói vài câu vô thưởng vô phạt, hoặc chỉ ừ hữ cho qua chuyện. Bây giờ, Kính đang ngồi trên cái gốc cây lớn đã bị đốn cụt ngọn và cưa phẳng lì như một tấm thớt, ngay trước chuồng chó. Hắn ngắm nhìn con vật đang ngốn ngấu gặm thịt sống một cách ngon lành, rồi quay sang tôi, mỉm cười: - Mình cũng nên kiếm cái gì bỏ bụng đi, cuốc bộ từ sáng đến giờ, chắc chú cũng mệt và đói rồi, phải không? Tôi gật đầu, hắn phủi áo đứng lên, kiểm soát cái then, gài cửa cẩn thận, rồi mới cùng tôi vào nhà. Chúng tôi dùng bữa trưa ngoài vườn, không có mặt bà chị dâu. Mấy hôm nay, bà ta có vẻ bệnh, và rõ ràng là cố ý tránh mặt tôi. Những ngày nghỉ rồi cũng qua nhanh chóng. Đêm cuối cùng, trước khi tôi trở về Sài Gòn lo công việc làm ăn, Kính vào phòng, đưa cho tôi cái ngân phiếu nửa triệu đồng, và rủ: - Đêm nay là đêm rằm, trăng sáng đẹp lắm, chú có muốn ra ngoài, đi dạo với tôi một lát không? Tôi nhìn đồng hồ, đã hơn 10 giờ khuya. Giờ này mọi người đã đi ngủ cả, tôi cũng lên giường từ lâu, nhưng cứ trằn trọc mãi, không sao ngủ được. Một cảm giác hồi hộp, lo sợ không đâu cứ dấy lên làm tôi bức rức khó chịu, như người ngộp thở. Tôi đang có ý định ra ngoài một lúc cho thoáng, nghe Kính rủ, thì đứng lên ngay. Tôi xỏ chân vào giày, vơ vội cái áo lạnh khoác lên người, rồi theo hắn ra cửa. Kính nói nhỏ: - Khe khẽ thôi, đừng để mọi người thức giấc. Bà ấy thấy tôi đưa chú ra ngoài lúc ban đêm, thế nào cũng cản. Rồi hắn nhún vai một cách bực bội: - Đàn bà đầu óc nhỏ như cái đồng xu, mà cứ hay xen vào việc riêng của chồng. Tôi không bao giờ để cho bà ấy cản trở những việc làm của tôi. Chúng tôi rón rén đi thật nhẹ ra phía sau nhà. Quả thật, một cảnh đẹp tuyệt vời hiện ra ngay trước mắt. Núi rừng đêm trăng trông thật thơ mộng và huyền bí. Xa xa, phía dưới kia, cái đầm nước phản chiếu ánh trăng sáng ngời, trông như bầu trời thứ hai với mặt trăng nơi đáy nước, và ngàn sao lấp lánh... Đêm yên tĩnh, không một tiếng động, ngoại trừ tiếng côn trùng kêu rỉ rả, và thỉnh thoảng một con chim đêm bay ngang, cất tiếng kêu ảo não. Tôi say sưa đứng ngắm, thấy đầu óc loãng ra trong một cảm giác lâng lâng khó tả. Kính ôm vai tôi, mỉm cười: - Tôi nói có sai đâu, đẹp quá phải không? Những người ở thành phố như chú làm sao thấy được cảnh này. Bỗng một cơn gió mạnh thổi tới, Kính rùng mình xuýt xoa kêu lạnh, rồi bảo: - Tôi phải vào nhà lấy cái áo len. Chú cứ ở đây chờ, đừng đi đâu cả, tôi sẽ trở lại ngay. Tôi gật đầu, châm một điếu thuốc hút cho ấm người, thích thú nhìn mặt trăng đang chui vào một đám mây, rồi lại từ từ ló ra, làm quang cảnh chợt tối, rồi lại chợt sáng, chỉ trong một thoáng. Kính cũng chắc lưỡi hít hà khen đẹp. Trước khi xây lưng đi vào nhà, hắn còn nói thêm một câu: - Chú cứ ngắm cho mãn nhãn đi, sẽ chẳng có dịp cho chú được thấy lại cảnh này một lần nữa đâu. Tôi cũng chẳng nhớ là đã đứng đây bao lâu, cho tới khi tôi nghe có những tiếng động như tiếng chân bước lạo xạo trên sỏi. Tưởng Kính trở ra, tôi quay lại thì... Trời ơi, không phải Kính, mà là con chó ngao, con quái vật khổng lồ. Nó đang đủng đỉnh đi tới, vừa đi vừa chúi mũi sang hai bên, đánh hơi khìn khịt, rồi ngẩng lên, nó đã thấy tôi... Dưới ánh trăng sáng tỏ, đôi mắt của nó rực lên như hai đốm lửa. Trong một thoáng, người tôi như tê đi vì sợ, tôi đứng yên, bất động. Con vật cũng dừng lại, nhìn tôi chăm chú. Thoạt đầu nó có vẻ ngạc nhiên, nhưng rồi bản năng hiếu sát nổi dậy, nó hộc lên một tiếng dữ dội, thu mình lại trong tư thế rình mồi. Tôi hốt hoảng nhìn quanh, chợt thấy bóng dáng của Kính thấp thoáng sau cánh cổng, gần cái chuồng chó, tôi thét lên cầu cứu: - Anh Kính, ra đây nhanh lên! Con Boo... Kính quay lại, điềm tĩnh nói vọng lên: - Con Boo đã ra ngoài đó rồi chứ gì. Tôi thả nó ra đấy mà, tối nào tôi cũng thả chó ra để canh nhà. Thường thường con Boo chẳng có việc gì làm nên buồn lắm. Nhưng đêm nay thì khác, nó sẽ rất khích động được gặp chú, nó sẽ có dịp để khoe cái sức mạnh tuyệt diệu của nó... - Anh bảo nó về chuồng ngay đi! Tôi giận dữ nói: - Tôi không thích đùa kiểu đó. - Tôi có đùa đâu? Còn thích hay không, mặc chú. Ráng giữ mình cẩn thận nghe! Nói xong, Kính cất tiếng cười một cách đểu cáng, và thản nhiên xây lưng đi vào nhà, để mặc tôi một mình phải đối phó với con vật hung tợn. Trong tay tôi không có một tấc sắt để tự vệ, và tôi biết có kêu cứu cũng vô ích. Nơi đây rất xa nhà trên, và chung quanh không có làng mạc, xóm giềng chi cả. Kính đã để lộ nguyên bộ mặt thật của hắn, bộ mặt của một tên sát nhân ghê tởm. Bây giờ thì tôi hiểu, Kính cố tình muốn giết tôi, để độc chiếm cái gia sản kếch xù do ông tôi để lại. Kính và tôi đều là những người thừa kế hợp pháp. Nếu tôi chết đi, tất cả tài sản sẽ thuộc về hắn. Trong vài giây, trí óc tôi làm việc rất nhanh, tôi nhớ lại tất cả, từ việc hắn dụ tôi đến nhà, tới âm mưu giết người, ngụy tạo dưới một tai nạn. Hắn sẽ khai với nhà chức trách rằng, tại tôi tự ý ra ngoài một mình lúc ban đêm, và bị chó tấn công vì tưởng lầm là kẻ gian. Dĩ nhiên là hắn bị nghi ngờ, nhưng nghi ngờ, chứ không thể buộc tội, vì không có bằng chứng nào cả. Bây giờ tôi đang đối diện với con chó ngao khổng lồ. Nó đứng chắn ở đường đi vào nhà, lối thoát duy nhất của tôi, vì phía sau là vực thẳm. Nó đứng cách tôi chỉ vài chục thước, người và vật nhìn nhau thủ thế. Bắt chước Kính, tôi cố lấy giọng êm dịu phủ dụ nó: - Boo Boo ngoan nào. Ta là em của chủ ngươi, không phải kẻ gian. Hãy để yên cho ta nghe! Còn mi, về chuồng, về chuồng đi, chóng ngoan... Để trả lời, nó nhe nanh gầm gừ, chân cào đất lia lịa, làm sỏi đá văng tung toé. Tôi hốt hoảng né tránh, trong đầu chợt nẩy ra một kế... Tôi cởi phăng cái áo khoác đang mặc trên người, bung ra ném về phía con vật, toan trùm đầu nó, và trong lúc nó đang lúng túng để gỡ ra, thì tôi sẽ chạy thật nhanh qua nó, vòng ra phía trước, lên nhà trên đập cửa kêu cứu ầm ỹ, chắc chắn người trong nhà sẽ chạy ra cứu tôi. Nhưng rủi thay, vì run quá, nên tôi ném trật, cái áo bay tới, rớt đánh xoạch ngay bên cạnh con chó. Nó điên tiết ngoạm ngay lấy xé nát, rồi gầm gừ tiến về phía tôi. Tôi lùi dần từng bước, từng bước... rồi dừng lại, không lùi được nữa, tôi đã tới sát bìa đất. Đây là bãi đất trống, không có chỗ nào có thể ẩn nấp được cả. Sau lưng tôi là vực thẳm, và trước mặt tôi là con thú dữ... Nó đã tới gần lắm, chỉ cách tôi một khoảng chừng 5, 6 thước... Trong một giây, tôi nhắm mắt lại, cầu nguyện. Thế rồi như một tia chớp, tôi nhớ ngay đến cây sồi... Cây sồi già mọc lên từ đáy vực, chỉ cách bìa đất nơi tôi đang đứng một quãng ngắn, ngọn cây cao hơn mặt đất cả mấy thước. Chỉ cần nhảy qua một khoảng cách cỡ 5, 6 sải tay, là có thể níu được cái cành khá lớn gần nhất. Đó là một hành động liều lĩnh và vô cùng nguy hiểm, bởi vì hụt tay là sẽ rơi xuống vực, chết tan xác. Nhưng chẳng thà chết vì té vực, chắc cũng mau chóng, và ít ghê rợn hơn là phải chết dưới móng vuốt và hai hàm răng nhọn hoắt của con dã thú này. Nó sẽ xé xác tôi thành trăm mảnh, và cái chết chắc chắn sẽ vô cùng khủng khiếp. Không còn chọn lựa nào hơn, tôi đánh liều nhún người xuống lấy đà, phóng vút qua khoảng không, chỉ trong nháy mắt. Soạt một cái, một vật cứng sượt ngang qua mặt, đó là cái cành cây, tôi vội tóm ngay lấy bằng cả hai tay. Thân hình tôi treo lơ lửng ở trên không, như người đang làm xiếc. May sao, dưới sức nặng chưa tới 50 kí của tôi, cành cây oằn xuống, nhưng không gãy. Tôi quặp hai chân ôm thật chắc, rồi mới từ từ tụt xuống tới cái chạc ba, và ngồi xuống. Bấy giờ tôi mới thở được, và cảm thấy đau, rờ thử thấy nửa mặt bên trái sưng vù và có tiếng lạo xạo bên trong, chắc là những mảnh xương vụn, có lẽ tôi bị dập xương gò má, nhưng may không chảy máu. Tôi thở hổn hển muốn đứt hơi, và tim đập mạnh tưởng sắp vỡ lồng ngực, tôi đã thoát chết chỉ trong gang tấc. Thật không uổng công tập luyện những ngày còn là học trò ở trung học, tôi đã chiếm giải vô địch môn nhảy xa. Nhưng một phần cũng do trời cứu, và số tôi chưa đến lúc tận. Qua phút định thần, tôi đưa mắt nhìn lên bờ. Con Boo đang lồng lộn đi lại một cách tức tối. Đã mấy lần nó chờn vờn định phóng tới, nhưng rồi lại không dám, nó cũng sợ bị rơi xuống vực. Boo nhìn kẻ thù đang ở trên cây, hếch mõm tru lên từng hồi, nghe rởn cả gai ốc. Trên cái chạc ba, sau khi lại hồn, tôi lần mò tìm được một cành khác cao hơn, nhưng vững chắc và xa con chó hơn. Tôi cẩn thận cởi dây lưng, cột người tôi vào cành cây, đề phòng đôi lúc sơ ý có thể bị hổng chân rơi xuống. Tôi ngồi im chờ sáng, hy vọng bác làm vườn sẽ tới sớm và cứu tôi. Trên bờ, con chó đã thôi sủa, nhưng nhất định không chịu dời đi chỗ khác. Nó đi qua, đi lại canh chừng, và cũng chờ sáng, để giao kẻ gian cho chủ nó. Bây giờ đã quá nửa đêm, sương xuống hơi nhiều và trăng cũng đã xế. Còn tới 4 giờ đồng hồ nữa, mới tới sáng. Những phút giây chờ đợi mới dài làm sao. Tôi lạnh run và khát nước kinh khủng. Tay chân tôi bắt đầu tê cóng vì lạnh và ngồi quá lâu một chỗ. Nhưng tôi không dám cử động mạnh, sợ tuột tay té xuống vực sâu ở phía dưới. Sau cùng, bình minh cũng tới, bầu trời sáng dần và trở thành màu xám nhạt. Khi những tia mặt trời đỏ ối đầu tiên bắt đầu ló dạng nơi chân trời phía đông, và chim chóc bắt đầu ra khỏi tổ, tôi nghe có tiếng mở cổng. Nhưng không phải bác làm vườn, mà là Kính, ông anh họ của tôi, tên sát nhân ghê tởm. Hắn ra coi tình hình, xem tôi đã chết chưa, và chết ra sao? Cảnh tượng trước mặt làm hắn ngạc nhiên, Kính trông thấy cái áo khoác của tôi nằm trên mặt đất. Tưởng tôi té xuống vực, hắn thận trọng bước tới gần bờ, cúi xuống nhòm. Kính không mảy may chú ý đến cây sồi già, và bị những cành lá rậm rạp che khuất, nên hắn không nhìn thấy tôi. Nhưng con Boo thì trái lại, nó biết rất rõ tôi đang ở đâu. Boo ngẩng lên, sủa dữ dội để báo cho chủ biết là kẻ thù đang ở trên đấy. Nhưng Kính không hiểu, nghe tiếng sủa thì giật mình quay lại, thấy điệu bộ hung hăng của con vật, hắn tưởng nó sắp tấn công mình, nên sợ hãi la lên: - Boo, im ngay! Không nhận ra ta là chủ mi hay sao? Con Boo rít lên một cách tức tối, mắt vẫn không rời con mồi, và càng sủa hăng, tiếng nó ồm ồm nghe thật kinh khiếp. Bây giờ, Kính đứng xây lưng về phía tôi, đối diện với con thú cưng của hắn, con thú to khủng, thích ăn thịt sống, máu tươi, con thú được hắn huấn luyện để giết người... Nó đang nhìn lom lom về phía cái cây rậm rịt có tôi đang ẩn nấp, vừa sủa vừa nhe nanh gầm gừ. Tôi hiểu rất rõ hành động của con vật, nó chỉ muốn nhắm vào tôi. Nhưng Kính lại lầm tưởng con chó nổi điên, phản chủ, hắn nhớn nhác nhìn quanh, tìm lối thoát. Ngồi ở trên cây mỏi quá, tôi hết sức nhẹ nhàng, thận trọng duỗi một chân xuống, đong đưa nhè nhẹ cho đỡ tê. Cử chỉ đó làm cho con Boo tưởng bị khiêu khích, nó hộc lên một tiếng dữ dội, quật đuôi xuống đất, nhảy dựng lên như sắp sửa vồ mồi. Kính sợ hãi rú lên, ôm đầu chạy giật lùi… Mọi việc xảy ra chỉ trong chớp mắt, tôi nghe một tiếng thét kinh hoàng của hắn, và tôi ngất đi vì sợ. Những việc xảy ra sau đó, tôi chỉ nghe kể lại: Kính hụt chân rơi xuống vực thẳm, bể đầu, gãy dập xương sống, chết tức khắc. Thiên bất dung gian, Kính chết vì chính âm mưu của hắn đã sắp đặt định để giết tôi. Con chó ngao khổng lồ bị hạ gục bởi tất cả những người làm trong nhà, họ dùng gậy gộc đập nó chết. Người ta đem tôi xuống, chở đi bệnh viện. Tôi không bị thương tích gì trầm trọng, ngoài những vết trầy trụa ở chân tay, và bầm dập nơi gò má, do cú nhảy va chạm làm vỡ vài mảnh xương nhỏ. Thêm vào đó, tôi còn bị sưng phổi, do thân nhiệt xuống quá thấp, vì suốt đêm chịu lạnh ở ngoài trời, và tâm thần xáo trộn, bất an vì quá sợ hãi. Phải mất cả tháng, tôi mới bình phục. Bà chị dâu đi thăm tôi trong nhà thương. Nhìn tôi bằng cặp mắt rất buồn, chị dịu dàng nói: - Tôi đã làm hết cách để ngăn cản chú không nên ở đây. Tôi biết âm mưu của Kính, nhưng không dám nói thẳng với chú, vì sợ Kính biết được sẽ giết tôi chết. Bây giờ thì chú đã tai qua, nạn khỏi rồi, tôi mới thực sự yên lòng. Còn chú, nhớ lo bảo trọng, cầu ơn trên ban phước lành cho chú. Nói xong, chị chào tôi ra về. Sau lần đó, tôi không bao giờ được gặp lại chị dâu tôi nữa. Sau này, nghe nói chị đi tu, quyết tâm xa lánh thế tục. Chị ẩn mình trong một nhà tu kín, âm thầm sống nốt quãng đời còn lại, không tiếp xúc, và không tiếp bất cứ ai tới thăm. PHƯƠNG LAN |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23600 |
![]() ![]() ![]() |
Ngọn nến và những giọt nước mắtMột câu chuyện thật cảm động và giàu ý nghĩa nhân sinh. Mời các bạn cùng đọc và suy gẫm. NS Trong thành phố nọ có hai cha con sống với nhau rất vui vẻ, hạnh phúc. Một hôm, đứa bé gái chẳng may bị bệnh và ra đi mãi mãi. Người cha quá đau khổ, tuyệt vọng, quay lưng lại với tất cả mọi người. Ông chẳng thiết tha gì với cuộc sống nữa. Ông tự nhốt mình trong phòng và khóc mãi. Một hôm, ngưòi cha ngủ thiếp đi và ông mơ thấy một giấc mơ kỳ lạ. Trong giấc mơ, ông gặp một đoàn người rước nến. Tất cả ngọn nến đều lung linh toả sáng, trừ ngọn đèn của đứa bé cuối. Ðứa bé ấy cầm một ngọn nến không được thắp sáng. Nhìn kỹ hơn, ông nhận ra đứa bé ấy chính là đứa con gái bé bỏng của mình. Ông tiến lại gần và hỏi con: “Tại sao nến của con lại không cháy?”. Bé gái trả lời cha “Con đã cố lắm nhưng không được cha à! Mỗi lần con thắp lên ngọn nến thì những giọt nước mắt của cha lại dập tắt hết ngọn nến của con”. Ðến đó thì người cha choàng tỉnh. Từ đó, ông lấy lại thăng bằng, lại sống vui vẻ, giúp đỡ mọi người xung quanh bởi ông không muốn những giọt nước mắt của ông lại dập tắt ngọn nến hy vọng của con ông. Nước mắt chỉ có thể xoa dịu phần nào chứ không thể làm tan biến hoàn toàn nỗi mất mát lớn lao. Hãy cứ khóc khi bạn cần, nhưng hãy đứng lên vững vàng bạn nhé! Bởi ngoài kia, đâu đó, ở một nơi nào đó, người thân của bạn đang nhìn bạn mỉm cười. Như Sao |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23600 |
![]() ![]() ![]() |
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 12/Apr/2025 lúc 11:32am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 133 |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |