…”Bạn ơi nếu tôi có một điều ước, tôi ước mong cho
ngày nào trời đất phong quang, chúng ta được trở về đất nước Việt Nam yêu dấu,
muốn đi đâu thì đi. Tôi sẽ đi tới những trại tù năm cũ, thăm lại người xưa,
thăm lại các bạn tù chúng ta còn nằm lại. Tôi sẽ tới trại Yên Hạ, tới quận Phù
Yên hỏi xem ông cụ Việt trại trưởng năm xưa còn sống hay không? Nếu gặp được
ông cụ tôi sẽ nầm lấy tay mà nói “Tôi là là cựu tù nhân Yên Hạ đây, cụ còn nhớ
tôi không, thưa cụ?”… Một mai qua cơn mê, xa cuộc đời bềnh bồng, tôi lại về bên
em…- Trần Trịnh- Nhật Ngân.Tôi vừa nhận thư từ Seattle, Mỹ gửi sang. Không phải
những người bạn thân quen của tôi mà nhìn tên người gửi thấy đề T. Nguyen lạ
hoắc. Sang xứ sở văn minh thực dụng này, tên tuổi lộn đầu lộn đuôi mà chữ viết
cũng ít khi dùng đến nên tôi cầm lá thư mà chưa nhớ ra ai. Mỗi người sinh ra
trên trái đất này đều có một nhân dáng riêng, cũng như có một nét chữ riêng, có
ai giống ai đâu? Bây giờ bỏ cái riêng tư ấy đi, dùng toàn chữ in sẵn trong
computer – tiện lợi thì có tiện lợi thật nhưng cầm cái thư tôi thấy nó lạnh
lùng, khô khốc… Bề ngoài bao thơ không cho tôi một tín hiệu tình cảm nào,
tôi hờ hững mở thư. Nhưng vừa đọc, tôi đã vô vàn cảm xúc: “Anh P. ơi, chắc anh
không nhớ được em đâu, nhưng em nhớ anh hoài, em nhớ “ông già chăn ngựa”. Em là
“La Sơn Phu Tử” đây.” Những cụm từ “ông già chăn ngựa ” và “La Sơn Phu Tử” đã
như chiếc chìa khóa mở ra một quãng đời tù tưởng đã nhạt nhòa trong ký ức…
Dạo
ấy là cuối năm 1977, chúng tôi vừa từ giã trại tù quân quản Liên trại 2 để đến
một nhà tù chính thức Yên Hạ – Sơn La thuộc Công an – Bộ Nội vụ. Cùng là đi cải
tạo nhưng bên trong có chia ra nhiều loại. Loại cải tạo trong Nam tương đối nhẹ
nhàng hơn, ngắn hạn hơn. Tù nặng, tù lâu là ra Bắc. Những năm đầu ra Bắc, tù
đặt dưới quyền quân quản, tức là do bộ đội quản lý. Sau chừng từ 2 đến 3 năm tù
được chuyển dần từ trại “trâu xanh” (bộ đội) sang trại “bò vàng” (công an). Ở
trại tù chính thức của Bộ Nội vụ như trại Yên Hạ này chúng tôi được gặp những
bạn tù anh em ta bị bắt từ hồi Mậu Thân (1968) cũng như một số anh em khác, tù
binh từ trận Hạ Lào (1971). Những trại tù này thường là trại hỗn hợp vừa có tù
chính trị (như tụi tôi) vừa có tù hình sự. Bên hình sự có thiếu gì những người
tù bị hình án nặng nề từ 20 năm đến chung thân ở đây.Đến trại Yên Hạ này, tôi
được gặp Trung tá Kh., dân Tiếp vận bị bắt hồi Mậu Thân khi về Huế ăn Tết thăm
gia đình. Anh còn sống sót không nằm trong nấm mồ tập thể mấy nghìn người, kể
ra cũng phải tạ ơn Trời Phật. Cho đến lúc này thì Kh. đã có thâm niên 9 năm tù,
kinh nghíệm hơn tụi tôi nhiều lắm (mới có trên 2 năm). Khi được hỏi về sự khác
nhau, giống nhau giữa 2 trại trâu xanh và bò vàng Kh nói: “Một bên là dao
găm, một bên là thuốc độc, không biết bên nào êm ái hơn bên nào”. Ngừng một lát
Kh. Nói tiếp: “Tuy nhiên, qua các trại miền Bắc tôi thấy cuộc sống tù đày tùy
thuộc khá nhiều vào trại trưởng. Mới chuyển sang trại bò vàng Công an mà các
bạn được về đây là khá đấy. Ông cụ Việt, trại trưởng trại này là một biệt lệ
trong các cai tù… Rồi các bạn sẽ thấy”.
Chúng tôi nhận ra biệt lệ
này ngay trong lần đầu tiên lên hội trường nghe “huấn thị”. Trại trưởng trại
Yên Hạ, cấp bậc Trung tá Công an, thường được gọi thân mật là cụ Việt, là một
ông già tóc bạc, tuổi trên dưới 60, dáng vẻ trầm tư, phát ngôn mực thước. ông
nói “Chúng tôi được trên giao nhiệm vụ quản lý các ông, cải tạo viên chính
trị. Phạm nhân chính trị có quy chế riêng. Trại sẽ áp dụng đúng quy chế ấy đối
với các ông. Tôi mong các ông chấp hành nội qui nghiêm chỉnh để trại chúng tôi
thực hiện tốt mục đích trên giao mà các ông cũng tạo được kết quả bước đầu
trong học tập cải tạo”.
Khác với cán bộ CS thường
thay, trại trưởng Yên Hạ nói ngay vào vấn đề, ngắn gọn, cụ thể – không lèm bèm
chửi mắng mà cũng không lý thuyết chính trị rẻ tiền. Nhưng điều đặc biệt là tù
nhân chúng tôi chưa bao giờ nghe thấy ở đâu là ông cụ Việt này gọi chúng tôi là
“các ông”. Sau tháng 4 đen 75, chúng tôi tự biết mình đang đi xuống nấc thang
thứ bét của xã hội, thuộc vào giai cấp bị triệt tiêu, chưa bị hành hạ, bắn giết
lúc nào là may lúc ấy. Có bao giờ chúng tôi nghĩ rằng mình lại được gọi là “các
ông” như thế. Tìm hiểu về người trại trưởng, tôi lại phải hỏi Kh. , người tù
thâm niên ở đây. Được tiếp xúc với trại trưởng nhiều lần, nên Kh. dường như
hiểu biết khá rõ về ông cụ Việt. Kh. nói: ông ta là người có văn hóa, nói tiếng
Pháp khá hay, nguyên là trưởng xa (chef train) của Sở Hỏa xa thời Pháp. ông ta
hình như có tham gia hội kín, hội hở trước 1940 và sau mới chuyển theo Cách
mạng. Vì “quá trình” như thế nên bây giờ gần tuổi về hưu rồi mà cấp bậc vẫn lẹt
đẹt trung tá. Xem như tên trại phó Đặng U. dân răng đen mã tấu chính tông mới
chưa đến 40 mà đã thiếu tá Công an rồi. Nó bóp còi qua mặt ông ta mấy hồi…”
Đây là trại tù chính thức
của Công an miền Bắc, và tôi nhận ra rằng những trại tù sau này mà tôi sẽ đi
qua đều có một kiến trúc tương tự. Tường đá bao quanh cao chừng 4m (ở đây Sơn
La “lưới núi” nên xây tường bằng đá hộc), ở trên có chăng thêm 3 tầng dây thép
gai chằng chịt. 4 góc có 4 chòi canh, công an bò vàng gác suốt ngày đêm, đầu
giờ, cuối giờ kẻng đánh lia chia, gắt gỏng. Ngay bên cạnh cổng giữa đi vào là
văn phòng trực trại, nhìn vào một cái sân rộng gọi là sân “tập kết” nơi tù các
đội tập họp đợi giờ xuất trại đi làm. Cuối sân tập kết là Nhà Văn Hóa hay Hội
trường, vừa là nơi hội họp, học tập toàn trại vừa là nơi trình diễn văn nghệ.
Dọc hai bên sân tập kết là 2 khu nhà. Gọi là khu A và khu B. Mỗi khu lại chia
ra nhiều lô nhỏ có tường bao quanh. Mỗi lô có một nhà tù dài chia ra làm 2 lán.
Mỗi lán chứa 2 đội tù, từ 70 đến 100 người, tùy theo nhân số lúc vắng lúc đông.
Chúng tôi đến trại Yên Hạ này đầu mùa rét tháng 11 năm 1977 lúc tù rầm rộ kéo
về mỗi người tù chỉ có được chừng 50cm vừa ăn vừa nằm chật cứng. Khu A là khu
dành cho chúng tôi, tù chính trị, khu B đối diện là khu hình sự. Theo quy định
nhà tù, lô này không được sang lô kia, nếu không có phép của trực trại, và khu
này với khu kia thì tuyệt đối cấm không được lai vãng.
Một buổi trưa, chúng tôi
vừa tạm thu xếp chỗ nằm xong chợt có tiếng la giật giọng từ bên khu B đối diện
vọng sang: “Chết tôi rồi, cứu tôi với. ôi cụ Việt ơi!” Từ một lô nhà khu hình
sự một người tù đang cố sức chạy ra sân tập kết. Nhưng anh ta chạy không được
vì một cán bộ Công an bò vàng đang nắm tóc người tù kéo giật xuống mà lên gối.
Tiếng kêu cứu của người tù tắc nghẽn giữa những tiếng hự hự liên tiếp. Người
cán bộ này ra đòn rất gọn rõ ra có nghề . Người tù rũ xuống như một đống giẻ
rách mà cán bộ chưa tha. Còn “sút” thêm mấy quả vào lưng vào bụng. Chợt có
tiếng ông cụ Việt từ một căn nhà gác ở bên ngoài cổng trại (ở dưới là văn phòng
trại trưởng, ở trên là nơi ở) nói vọng vào: “Cái gì thế?” Có tiếng trại trưởng
là cán bộ mới từ từ bỏ đi… Tù bên khu B mới ra cõng người tù hình sự vào nhà,
hình như đã ngất đi, trào máu họng.
Vừa mới sang nhà tù Công
an mà chúng tôi đã được “dàn chào” như vậy nên rét quá. Lại phải đi hỏi Kh. bạn
tù thâm niên. Kh. nói “Tù hình sự ở đây nó khiếp lắm. “Đầu gấư’ cả đấy. Hở ra
là nó giết nhau ngay. Cho nên cán bộ an ninh kiêm chấp pháp chuẩn úy Trần M.
mới dữ như vậy. Nhưng trại trưởng ông cụ Việt thì ông ta không cho phép đánh
tù. Có mặt ông là không được phép. Nhưng mà sau lưng ông là nó đánh ra gì. Đánh
chết bỏ. Vài bữa nữa đi làm các bạn đi về phía Mường Thải, thấy có cái nghĩa
địa mả cũ mả mới lô nhô, đó là chỗ tù theo nhau ra nằm ở đấy” – “Tù chính trị
cũng vậy à”. – “Cũng nằm một chỗ nhưng có khác. Mả tù chính trị thì hơn được
cái bia, hoặc là bằng đá hoặc là bằng gỗ. Còn mả hình sự thì vùi nông một nấm,
coi như xong.”
( Vài nấm mộ từ cải tạo)
Sau vụ dàn chào ghê rợn, một số anh em tù cải tạo
thầm thì to nhỏ với nhau rằng: “Trại trưởng ông cụ Việt đóng vai ông Thiện, phó
trưởng trại Đặng U. với cán bộ giáo dục (tức chính trị viên của trại) Nguyễn
Hồng L., và cán bộ an ninh kiêm chấp pháp Trần M. đóng vai ông Ác. Đó là trò
vừa đấm vừa xoa thường thấy.” Nhưng ở lâu hơn, tôi thấy hai khuynh hướng này
đối chọi nhau rõ rệt, không phải chỉ là sách lược đối phó nhất thời.
Đã gần hết năm, một buổi
họp bàn về tổ chức vui Tết năm Ngọ (1978) được cán bộ giáo dục Nguyễn Hồng L.
chủ trì. Anh cán bộ mặt gà mái này tuyên bố: “Các anh sống một cuộc sống tay
sai, trước là cho Pháp sau là cho Mỹ nên các anh thiếu văn hóa, hay là không có
văn hóa. Bây giờ đi cải tạo, Cách mạng phải hướng dẫn các anh, dạy dỗ các anh
sống có văn hóa. Trong dịp Tết này, trại dành cho các anh một nửa chương trình,
một nửa cho khu A, một nửa cho khu B. Các anh hãy rán theo đường lối của Cách
mạng mà sửa soạn một chương trình văn nghệ, để xem các anh có mở mắt ra được
chút nào không?”
Còn ông trại trưởng ông cụ
Việt, khi gặp ban Văn nghệ chúng tôi được triệu tập lo chương trình Tết thì ông
cụ lại nhỏ nhẹ nói rằng: “Tết là một ngày lễ truyền thống của dân tộc. Các ông
là người có học. Tôi hy vọng các ông sẽ đóng góp được một chương trình văn nghệ
có ý nghĩa”. Cách ăn nói, thái độ khi tiếp xúc với chúng tôi của ông cụ Việt
trại trưởng nó ôn tồn, thoải mái, không có vẻ nghiến răng căm thù như thường
thấy nơi cán bộ CS. Phải chăng nguồn gốc xuất thân của ông đã khiến ông có một
niềm thông cảm tự nhiên đối với chúng tôi, những người tiểu tư sản thua quân
mất đất. Năm ấy chủ trương đấu tranh giai cấp còn rất mạnh; ở miền Nam đang vào
cao điểm đánh tư sản, mại bản nên dân “Ngụy” chúng tôi từ trong tù cho đến
ngoài xã hội được coi như một lũ “cùi” không ai dám đến gần. Đúng theo quy
luật, chúng tôi là giai cấp bị triệt tiêu. Có những người bạn tù, có anh em
ruột thịt làm lớn ở ngoài Bắc.
Những nhà CM ấy đã vào Nam
nhận họ, nhận “hàng”, nhận tiền, nhận bạc để khi ra Bắc, nhờ mang một số quà đi
thăm người thân cải tạo. Nhưng dù là anh em ruột thịt, cùng mẹ cùng cha nhưng
phần lớn các nhà CM ấy quên luôn, không dám đi thăm. Dính líu với ngụy quân
ngụy quyền là phản động. “Thời kỳ phát động chiến dịch, bố tôi bị đi cải
tạo là tôi cũng phải quên bố tôi luôn nếu tôi muốn có sổ gạo, có bát cơm mà ăn,
huống hồ là anh em họ hàng”, một người tù hình sự đã nói với tôi như vậy. Thế
mà ở đây đang mùa đánh tư sản mại bản, ông cụ Việt chánh giám thị trại tù lại
gọi chúng tôi là “các ông”. Tôi chưa gặp ở đâu, cai tù CS lại gọi đối xử với tù
nhân như vậy… Trại triệu tập ban Văn nghệ tù chính trị bằng hai cách. Theo
nghề nghiệp trước đây ghi trong hồ sơ và tin tức nhận được về những người tù có
khả năng văn nghệ. Một người bạn của tôi được gọi ra thành lập ban kịch. Đó là
bạn Nguyễn Văn Th. nguyên đạo diễn điện ảnh và sân khấu. Anh cũng là người được
giải thưởng văn chương toàn quốc thời Đệ nhất Cộng hòa… cùng với nhà văn Nguyễn
Mạnh Côn. Th. già là bạn cùng khóa 2 Thủ Đức và cùng ngành Chiến tranh Chính
trị với tôi nên một bữa Th. tìm gặp tôi và nói: “Cán bộ chính trị nó chửi mình
nặng như thế thì dù là tù đi nữa, mình cũng phải làm cái gì chứ ông”. Nể lời
bạn nên tôi cũng vào ban văn nghệ với một nhiệm vụ khiêm nhượng “phụ tá khói
lửa”. Ở miền Bắc, kịch cũng như điện ảnh bao nhiêu năm qua đều sống với đề tài
chiến tranh nên tổ chức nào cũng phải có người lo về khói lửa tức là vấn đề kỹ
xảo về súng bắn, mìn nổ, lửa cháy, v.v… Nhưng nhiệm vụ khởi đầu của tôi chỉ là
đem đến ban kịch một cái nùi rơm và cái điếu cày để anh em giải lao hút thuốc.
Ngẫm ra rất đúng với nhiệm vụ được giao: có khói và có lửa.
Nguyễn Văn Th. được lệnh
viết một cái kịch ngắn cho anh em trình diễn. Nhưng mà bạn tôi kẹt, viết mãi
không ra. Một bữa tôi mới nói với Th.: “Mình “sức voi” mà đi viết kịch. Tư
tưởng mình khác, tư tưởng của họ khác. Đầu óc họ luôn luôn căm thù, nghi kỵ, không
khéo rồi bút sa gà chết. Tại sao mình không lấy kịch của họ mà “chơi?” – “Nhưng
mà kịch của họ, nó chỉ chửi bố mình không làm sao mà diễn”, Th. đủng đỉnh trả
lời như vậy.
Khi mới về trại, tôi có
thời gian lo liên lạc mượn một số sách, báo cho anh em, nên tôi biết thư viện
trại có một số kịch bản. Trong trường kịch Quang Trung của Trúc Đường có một
màn có thể tách ra diễn được. Tôi ngỏ ý với Th. già: “Màn Lửa Kinh Thành trong
kịch Quang Trung này viết khá. Nếu chơi màn kịch này, mình có 2 điều lợi. Thứ
nhất mình không mất công viết, kịch của họ, tác giả của họ mình khỏi lo về phần
tư tưởng. Thứ hai kịch lịch sử nên anh em ta không có mặc cảm khi tập và khi
diễn. Như thế may ra mới có “chút lửa” cho anh em”. Tôi đưa kịch bản Lửa Kinh
Thành cho Th. đọc và bạn tôi đồng ý; sau đó kịch được đưa lên ban Giáo dục
duyệt. Trong khi đó bộ phận nhạc do một số anh em ngành Tâm lý chiến đảm trách
lo hát đồng ca, tốp ca, đơn ca và độc tấu tây ban cầm. Anh em bên nhạc cũng
đồng ý chọn trình bày những bài ca ít sắt máu, ít căm thù mà vẫn bàng bạc một
tấm lòng yêu quê hương xứ sở. Chương trình tổng quát được chuẩn y, gồm 30 phút
ca nhạc, một giờ kịch, anh em bắt đầu vào tập dượt.
Chúng tôi tập ở trên Hội
trường, anh em hình sự tập trong một căn nhà khu B. Chúng tôi được biết anh em
hình sự được nghỉ lao động ăn tập trước chúng tôi 2 tuần theo một chương trình
đã được công diễn từ những năm trước, nay chỉ ôn luyện lại cho thuần thục. Nửa
buổi, khi chúng tôi đang uống nước cầm hơi thì anh em văn nghệ hình sự xuống
nhà bếp đem về một rổ khoai lang “bồi dưỡng”. Theo như chúng tôi cảm nhận, ban
Giáo dục trại đang dốc hết tâm lực để phần trình diễn của anh em hình sự nhuần
nhuyễn, vượt trội hơn phần văn nghệ của tù chính trị, nhằm “dạy cho tụi ngụy
một bài học về văn hóa”.
Anh em trong ban Văn nghệ
khu A tuy không nói ra nhưng cảm thấy có trách nhiệm trong trò chơi văn nghệ
của mình. Đói thì đói nhưng anh em tập dượt hết mình.
Còn gần một tháng nữa mới
đến Tết nhưng không khí thi đua văn nghệ giữa 2 khu A, B đã lan truyền khắp
trại. Anh em khu A đi làm ngoài, có bữa kiếm được củ khoai, miếng sắn lại dấm
dúi đem cho. Chúng tôi hiểu được sự chăm lo, kỳ vọng của anh em. Cuộc chiến
tranh quân sự tàn rồi, cuộc chiến tranh văn hóa còn đang tiếp diễn.
Một hôm đang nửa buổi,
trại trưởng ông cụ Việt vào hội trường dự khán anh em chúng tôi tập dượt. Thấy
gần trưa rồi mà ban Văn nghệ khu A vẫn xuông tình, ông cụ hỏi: “Anh em không
nghỉ ăn bồi dưỡng hay sao?” Mấy người có trách nhiệm mới trình bày với trại
trưởng là chúng tôi vẫn tập “xuông” không có “bồi dưỡng”. Ông cụ Việt liền cho
gọi thi đua (mấy anh tù được cất nhắc lên làm chân chạy việc cho ban giám thị)
lên chỉ thị: “Cung cấp ngay chế độ bồi dưỡng hằng ngày cho đội văn nghệ khu A”.
Ông cụ còn dặn thêm: “lệnh trại trưởng cấp thêm cho mỗi đội văn nghệ của A lẫn
B mỗi ngày một gói trà. Anh em tập dượt ca, kịch cần thấm giọng”. Thế là hàng
ngày, “phụ tá khói lửa” là tôi lại thêm việc đun nước pha trà cho anh em nhấm
nháp.
Đi vào thực hiện kịch lịch
sử đối với chúng tôi, nó có ưu điểm nhưng cùng một lúc nó kéo theo nhiều điều
phức tạp. Thứ nhất tập dượt cầu kỳ. Người “ngày xưa” ăn nói cử chỉ khác người
ngày nay. Một ông quan văn với một ông quan võ chào hỏi, vuốt râu nó khác nhau,
không giống nhau. Cách phát âm hay nói theo giọng nhà nghề “đài từ” của kịch
lịch sử khác với kịch thời đại. Hơn nữa trang trí sân khấu, cách phục sức cho
nhân vật kịch “ngày xưa” nó đòi hỏi nhiều nghiên cứu, nhiều phụ tùng hơn kịch
“bây giờ”, cái kho đạo cụ của trại không thỏa mãn được. Vào việc đạo diễn Th.
già bấn xúc xích về việc dàn cảnh, về đạo cụ nên bạn già yêu cầu tôi lo giúp về
phần tập luyện.
Bạn Th. già biết dạo xưa
tôi có sinh hoạt trong Sông Hồng Kịch Xã ở Hà Nội trước khi động viên vào quân
đội, trong khi đó Th. già viết cho báo Giang Sơn. Chúng tôi biết nhau từ ngày
ấy. Vả chăng tôi vốn sinh trưởng ở nhà quê mà làng tôi vốn là đất chèo, có một
phường chèo thường trực ở trong làng nên tự nhiên tôi quen thuộc với một số ước
lệ của tuồng, chèo cổ. Những năm đi kháng chiến ngoài bưng, tôi đi theo một
đoàn Tuyên truyền xung phong nên tôi cũng tàm tạm có một số kinh nghiệm về sân
khấu. Cho nên nhận lời bạn già, tôi đang là “phụ tá khói lửa” lại thêm một chức
vụ nữa “phụ tá đạo diễn”.
Không gian kịch là tư dinh
Đinh Đề Lĩnh, viên quan trấn thủ kinh thành Đông Đô (Thăng Long – Hà Nội). Thời
gian là đêm mồng 4 tháng Giêng năm Kỷ Dậu đêm trước của toàn quân vua Quang
Trung đại phá quân Thanh. Vở kịch đòi hỏi 5 vai quan trọng: Đinh Đề Lĩnh, trấn
thủ Thăng Long; thất vọng trước sự yếu hèn của hôn quân Lê Chiêu Thống, căm hận
trước sự tham tàn bạo ngược của quân tướng nhà Thanh nên phút cuối cùng Đinh Để
Lĩnh nghe theo lời khuyến dụ của La Sơn Phu Tử, đặc sứ của vua Quang Trung
Nguyễn Huệ, mở cửa thành, đốt kho lương thảo khi nghĩa quân tấn công. Vai chính
Đinh Đề Linh do Nguyễn Huy T., đại úy đài Tự Do cục Tâm lý chiến đảm trách. T.
là một con người tài hoa, hát hay, nhảy giỏi, dáng người cao mà thanh, vừa văn
vừa võ, đã nhập vai Đinh Để Linh rất đẹp. Anh chơi kịch từ thời sinh viên nên
có đủ bản lĩnh trên sân khấu vừa say mê vừa tỉnh táo.
Vai La Sơn Phu Tử do
Nguyễn T. cũng đại úy bên Tổng cục Chiến tranh Chính trị (người ở Seattle vừa
viết thư cho tôi) nhận lãnh. Nguyễn T. vốn là em một người bạn tôi, nên tôi
biết T. từ khi chưa bị động viên vào quân đội. T. đi Hướng đạo nên quen thuộc với
sân khấu. T. không dám tin ở tài sức của mình nhưng tôi khuyến khích T. nhận
vai La Sơn Phu Tử. T. vốn người Thanh Hóa, nói được giọng già, dáng người văn
nhã mà cứng cỏi, lại chuyển sang gíọng Nghệ An – Hà Tĩnh rất ngọt nên có đầy đủ
dáng vẻ của một mưu sĩ “đàng trong”. Một vai phản diện rất gay là vai tướng nhà
Thanh, nói tiếng Việt ngọng líu ngọng lo mà tham dâm hiếu sắc do Trung tá Lê
Văn Hóa, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn văn nghệ Quân đoàn 4 phụ trách. Anh là
người tràn đầy kinh nghiệm sân khấu lại thêm là “vua cười” của đội, luôn mồm
hát, no cũng hát, đói cũng hát “Ngộ bên Tàu à… ngộ mới sang – sang Nam Việt bán
buôn làm giàu…” nên vai tướng Tàu như là vai viết riêng cho anh vậy.
(trong trại tù)
Người nữ độc nhất, cô chủ quán mê hoặc tướng Tàu
do đại úy Tôn Thất L. thủ vai. Anh đi tù cực khổ, đói khát như vậy mà vẫn da
trắng tóc dài, mắt sắc như dao làm gái Thăng long rất đẹp. Riêng có một vai quê
mùa, vai ông già chăn ngựa thọt chân, luôn luôn say xỉn do một đại úy Cảnh sát
đảm nhận vai mà tập mãi chưa vô. Anh có nhân dáng quê mùa, cục mịch, say mê vai
diễn nhưng tiếng cười, giọng nói của anh nó văn minh quá, thành thị quá thiếu
mất chất nhà quê. Mà đây là vai quần chúng vai đại diện cho nhân dân phản kháng
nên trại để ý lắm. Thiếu úy Công an Q. đại diện cho phòng Giáo dục, hằng ngày
theo dõi chúng tôi tập dượt, lắc đầu trước vai ông già chăn ngựa mà phê bình
đủng đỉnh “chưa được”. Sau rồi, đạo diễn Th. già mới tham khảo ý kiến anh em mà
bảo tôi rằng: “Ông khỏi mất công dượt cho anh ấy nữa.
Ông thì vừa già, vừa chân
tập tễnh, lại vừa có chất quê… thế thì ông chơi ngay cái vai ấy đi cho nó tiện
việc sổ sách.” Anh em cũng ồn ào đề nghị nên tôi lại kiêm luôn vai cụ Triệu ông
già chăn ngựa. Sở dĩ đạo diễn Th. già và tôi chú ý đến giọng nói là vì khi diễn
kịch ở đây, chúng tôi diễn “chay” không có ban nhạc làm nền (background music).
Vì vậy phải đặt trọng tâm vào giọng “thoại”, đưa vào đó nhiều màu sắc để phần
nào quên đi cái thiếu vắng nhạc nền kia.
Có giọng Bắc trầm hùng
cứng cỏi của Đinh Đề Lĩnh, giọng miền Trung uyển chuyển, sâu sắc của La Sơn Phu
Tử, giọng ngọng nghịu của tướng Tàu, giọng Bắc pha Huế đài các của cô chủ quán,
giọng quê mùa bạo liệt của ông già chăn ngựa. Nút kịch được thắt khi La Sơn Phu
Tử đang đêm được ông già chăn ngựa nhà ở gần bên đưa vào gặp Đinh Đề Lĩnh ở tư
dinh, thuyết điều hơn, lẽ thiệt. Kịch được thắt thêm 1 nút khi tướng Tàu sục
sạo đi tìm cô chủ quán xinh đẹp bất ngờ xộc vào tư dinh Đinh Đề Lĩnh khi La Sơn
Phu Tử còn đang hiện diện. Để tránh cho cơ mưu của “đàng trong” đừng bại lộ,
cũng là cởi nút cho vở kịch… ông già chăn ngựa liền dũng cảm nhảy vào đâm chết
tướng Tàu rồi cùng chết. Cái chết bất ngờ của ông già chăn ngựa như một giọt
nước làm tràn ly khiến Đinh Đề Lĩnh còn đang do dự, chuyển hẳn sang thế nghĩa
quân… mở cửa thành, đốt kho lương thảo khi đại quân vua Quang Trung tràn tới.
Sau đó, bình minh ngày 5 tháng 1 năm Kỷ Dậu cũng vừa hiển hiện.
Để lo việc trang trí sân
khấu và phục sức cho nhân vật kịch, trung tá Quân cụ Tr., nguyên sinh viên Mỹ
Thuật ngày nào bây giờ là trưởng ban đạo cụ liền đem cái tài hoa còn lại của
mình sửa chữa mấy đôi bốt hư của cán bộ thành hia cho văn quan, võ tướng nhà
Lê, cải biến mấy cái mền dạ cũ màu đỏ, màu xám thành nhung y cho Đinh Đề Lĩnh,
cho tướng nhà Thanh. Mấy cái đường kẻ đen trên tấm mền đỏ ngày nào bây giờ dưới
bàn tay thần tình của Tr. đã biến thành hoa văn “thủy ba sóng rợn”. Tướng nhà
Thanh thì nhung y lẫm liệt, hia mão đàng hoàng. Nhưng khi Đinh Dề Lĩnh, võ quan
nhị phẩm triều đình đội mão theo đúng nghi thức thì tôi có ý kiến là Đinh Đề
Lĩnh không nên đội mão chỉ nên đội khăn. Đội mão xem ra nó “cải lương” hơn,
không truyền thống bằng cái khăn lượt Việt Nam. Đạo diễn Th. già đồng ý. Anh
Tr. cũng đồng ý tuy rằng anh rất tiếc chiếc mão “võ quan nhị phẩm” rất công phu
của anh.
Trong thành tích trang trí
tư dinh của Đinh Đề Lĩnh ngày Tết, anh Tr. đắc ý nhất là 3 chữ đại tự anh viết
trên bức hoành phi (bằng giấy): Huyết do hồng. Tr. vừa là nghệ sĩ vừa là trí
thức. Th. già và tôi hiểu ý anh, nắm tay anh thông cảm. Thiếu úy Công an Q.
người thường xuyên sinh hoạt với chúng tôi một bữa mới hỏi Th. già về ý nghĩa
mấy chữ nho này. Th. giải thích: đây là 3 chữ cuối trong vế đối, nhắc lại chiến
công chống xâm lược phương Bắc của tiền nhân “Đằng Giang tự cổ Huyết do hồng”
(Nước sông Bạch Đằng từ xưa đến nay vẫn còn đỏ máu). Tôi thấy Thiếu úy Q gật
gù, ngẫm nghĩ, và từ đó thái độ đối với chúng tôi có khác. Anh em chúng tôi dù
sống kiếp tội đồ khổ sở, đói khát nhưng trong công tác văn nghệ này ai củng cố
gắng đóng góp một chút gì, để hy vọng nói lên rằng: chúng tôi thua trận, bị cầm
tù, bị lăng mạ nhưng chúng tôi có văn hóa theo cách riêng của chúng tôi.
Đã đến ngày 30 Tết, năm Tỵ
sắp sang năm Ngọ (1977-1978). Nghe anh em lưu cựu ở đây lâu nói rằng chưa có
bao giờ trại ăn Tết to như thế. Có lệnh của trại trưởng là bao nhiêu tiền quỹ
của năm cũ chi cho bằng hết nên Tết đến thịt trên 10 con heo, 1 con bò; tát ao
lấy cá chắm, cá chép lên ăn Tết. Mấy vườn su hào cũng nhổ “đại trà” làm dưa.
Toàn là món “cao cấp” cho toàn trại, toàn thể tù nhân ăn Tết. Trong 10 năm đi
tù cải tạo, tôi ngẫm lại chưa có năm nào, ở đâu được ăn một cái Tết tù như vậy.
Ngoài các món ăn, anh em tù nhân còn được lĩnh mỗi người hai bánh chưng, thuốc
lá, thuốc lào, và đêm 30 đi xem kịch tất niên về toàn trại còn có cháo lòng bò
bồi dưỡng. Nghe phong thanh là sau Tết trại trưởng trung tá Trần Việt sẽ nghỉ
hưu nên ông xã cảng “cái gì của tù là trả hết cho tù”.
Bữa tổng dượt có mặt đủ
ban Giám thị trại, chương trình của khu A chúng tôi được cán bộ giáo dục Nguyễn
Hồng L. chăm chút rất kỹ. Y ta để ý rất nhiều đến những sự “đóng góp” của chúng
tôi vào vở kịch, hỏi khá kỹ về câu đối “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng “. Vốn
bản tính đa nghi nên y không muốn đưa vào bất cứ điều gì không có trong kịch
bản. Ông cụ Việt, có lẽ ông ta là người rộng rãi kiến văn nên ông cụ nói: “Tư
dinh một viên võ tướng có tâm hồn với đất nước mà treo bức hoành Đằng Giang tự
cổ huyết do hồng thì được lắm. Để đối phó với cường lân phương Bắc lại càng hay
nữa .” Nhưng cán bộ giáo dục tỏ ý ngần ngại, khi chúng tôi định hát đoạn đầu
của bài Thăng Long Hành Khúc của Văn Cao vào đoạn kết của vở kịch. Nguyên văn
trong kịch bản chỉ có “tiếng hô sát của đại quân ta nhỏ dần rồi màn hạ”. Ở đây
chúng tôi trong hậu trường sẽ hô “sát, sát” đồng loạt rồi hát từ từ nhỏ đến to
dần lên “Cùng ngước mắt về phương Thăng Long thành cao đứng, trông khói sương
chiều ám trên dòng sông. Nhị Hà còn kia Nhị Hà còn đó, lũ quân giặc Tôn sập cầu
trôi đầy sông.” Màn từ từ khép và đến đó là dứt kịch. Chúng tôi muốn cho cái
“coup de rideaư’ nó thêm sức thuyết phục.
Đã thử lại lúc màn hạ này
mà không có tiếng đồng ca Thăng Long Hành Khúc ở bên trong. Nó nguội đi nhiều
lắm. Cán bộ giáo dục cuối cùng chấp nhận “cách đạo diễn” của chúng tôi nhưng
nhất quyết không bằng lòng 2 chữ “giặc Tôn” mà phải đổi ra là nhà Thanh “cho nó
rõ nghĩa” (chữ của y ta, bởi vì giặc Tôn có thể liên tưởng đến Tôn Đức Thắng
chăng?).
Tối 30 Tết, trại Yên Hạ
nôn nả hẳn lên. Mới 7 giờ đêm, mà hội trường đã chật cứng. Phạm nhân khu A ngồi
bên phải. Khu B bên trái. Những dãy ghế phía trên là dành cho quan khách, gồm
cán bộ khung xã sở tại, huyện ủy Phù Yên, cán bộ Công an và gia đình. Cứ như ý
kiến bữa tổng dượt thì đêm 30 Tết, ban Văn nghệ sẽ diễn trong trại. Mồng 4 Tết
chúng tôi sẽ ra huyện lỵ Phù Yên diễn cho dân chúng tới xem. Cho nên buổi diễn
hôm nay là buổi diễn trong chương trình vui Tết đón Giao thừa, vừa là buổi phúc
khảo trước khi ban Văn nghệ “đem chuông đi đấm xứ người”.
Chương trình khu B, bên
hình sự được diễn đầu tiên. Cũng đồng ca, đơn ca, một màn kịch ngắn “đánh Mỹ”
và kết bằng màn dân ca Quan họ Bắc Ninh. Anh em hình sự chơi chương trình này
đã “thuộc” nên đối đáp, tung hứng rất là nhuần nhuyễn. Nhưng vì “bổn cũ soạn
lại” nên nó làm cho tù chính trị chúng tôi chăm chú hơn là khán giả sở tại.
Bên hình sự có một ca sĩ
tên Ng. hát rất hay, rất kỹ thuật; nghe nói anh ta đã tốt nghiệp thanh nhạc nên
hát đâu có thua gì ca sĩ trên đài phát thanh. Ca sĩ bị tù mút mùa vì nghe nói
anh mắc tội làm tem, phiếu giả. Kịch “đánh Mỹ” thì không có gì mới. Vẫn theo
công thức cũ. “Mỹ cút, ngụy nhào, quân ta kẻ thù nào cũng đánh thắng, khó khăn
nào cũng vượt qua”. Nhưng phải công nhận anh em hình sự chơi nhạc cảnh Quan họ
“Mời trầu, giã bạn” rất đằm thắm, ý nhị và duyên dáng. Đây là một tiết mục hay.
Khi anh em cúi đầu chào khán giả, chúng tôi dù ở trên sân khấu, đang sửa soạn
“ra trò” mà chúng tôi cũng không ngừng vỗ tay tán thưởng. Đoàn trưởng đoàn kịch
khu B. Quách H., đứng ở cánh gà phía bên kia, đứng nghiêm, để tay lên ngực cúi
đầu chào lại chúng tôi như một sự cảm thông cái tình tri âm, tri kỷ. Có lẽ
“cái đinh” của đêm văn nghệ hôm nay đối với khán giả địa phương là Văn nghệ khu
A, tù chính trị. Họ chưa bao giờ được biết miền Nam thật sự như thế nào? Miền
Nam đã thua, đã tan nát nhưng những tàn dư của miền Nam, lũ tù chính trị chúng
tôi, vẫn còn đây. Họ đã được nghe “nhà nước ta” nói rất nhiều về miền Nam,
nhưng “trăm nghe sao bằng một thấy”. Văn nghệ, là một thái độ sống. Họ muốn
biết thái độ sống của miền Nam thế nào qua những đại diện khốn khổ nhưng trung
thực là chúng tôi. Chúng tôi cũng cảm nhận được điều đó nhưng trong tình trạng
tù đày, bó buộc như thế này, biết ăn, biết nói làm sao? Thôi thì “sức người có
hạn, được đến đâu hay đến đó”.
Qua mấy màn ca nhạc, đồng
ca, đơn ca, tôi nghiệm ra là về kỹ thuật, chúng tôi không sánh bằng anh em hình
sự. Điều dễ dàng nhận thấy là tù chính trị già hơn, nên hơi hám kém hơn. Nhưng
hiệu quả sân khấu thì chưa chắc ai hơn ai. Lấy ví dụ như ca sĩ Văn B. của chúng
tôi hát làm sao tốt bằng, khỏe bằng Ng. bên khu B, nhưng khi anh hát xong tiếng
vỗ tay có lẽ nhiều hơn, nồng ấm hơn. Ng. hát giọng ngực, lớn, vang nhưng anh
hát theo lề lối thường thấy ở ngoài Bắc, không rõ lời. Nhiều khi không biết anh
hát cái gì nữa chỉ thấy trước sau giọng ngân vang rền rĩ mà thôi. Còn Văn B.
anh là ca sĩ tài tử (ngoài Bắc kêu bằng nghiệp dư, thích thì hát chơi không
phải nhà nghề) nên hát bài nào anh phổ tâm tình vào bài hát đó. Anh không trưng
bày giọng hát mà như văn nghệ thường thấy ở miền Nam, anh có một tâm sự để mà
kể lại. Anh thuộc loại ca sĩ trữ tình (chanteur de charme) không phải ca sĩ
Opera như khuynh hướng ngoài Bắc. Cho nên nghe Văn B. ca sĩ miền Nam, hát không
giỏi bằng, không khỏe bằng nhưng nó dễ nghe hơn, nó thấm thía hơn, nó con người
hơn. Mà cũng có thể vì cách hát của anh khác lạ hơn nên anh được chú ý và tán
thưởng.
Tiết mục gây được nhiều
tiếng cười sảng khoái là màn tốp ca. Anh em chúng tôi dựng tiết mục này theo
lối AVT, nhằm kiếm được nụ cười trong tình trạng tối ám của nhà tù. Mà điều này
cũng là một thực tế. Chúng tôi là phạm nhân nhưng trong đời sống chúng tôi vui
cười nhiều hơn cán bộ coi tù. Ở ngoài Bắc, hoặc là người ta sống căng thẳng quá
hoặc là người ta phải ngụy trang lối sống cho nên phần đông mọi người mặt khó
đăm đăm. Đây là bệnh táo bón tinh thần thường thấy nơi xã hội thiếu tự do. Ba
bạn Đỗ H., Văn B., Trịnh P. hát hò, đối đáp với nhau thoải mái. “Cái gì nhúc
nhích là ta chén liền “. Tiếng cười đồng cảm vang lên. Từ cánh gà nhìn xuống,
tiếng cười lan tỏa chỉ có người cau mặt là cán bộ giáo dục…
Màn gây ấn tượng sâu sắc
là độc tấu Tây ban cầm. Đây là loại đàn nhiều người chơi. Nhưng tập tành đến
nơi đến chốn chơi được nhạc cổ điển hay bán cổ điển thì có rất ít người. Người
anh em chơi Tây ban cầm của chúng tôi đã có trên 10 năm cầm đàn. Anh bữa ấy độc
tấu một bản bán cổ điển. Một cây đàn Tây ban cầm mà như một dàn nhạc. Có lúc
réo rắt như violon, lúc nhảy nhót như mandoline, khi rộn rã như piano, khi trầm
hùng như một đoàn quân nhạc đón đoàn chiến binh chiến thắng trở về . Tôi nghĩ
đám đông khán giả kia chưa chắc đã hiểu hết ý nghĩa của bài vừa diễn tấu nhưng
nhìn bàn tay buông bắt đầy kỹ xảo, nghe âm thanh tiết tấu phong phú, họ hiểu
rằng chơi đàn như vậy là một kỳ công. Kỳ công ấy là văn hóa.
Bây giờ bắt đầu tiết mục
cuối cùng, tiết mục chủ yếu chấm dứt đêm văn nghệ, kịch Lửa Kinh Thành, trung
tâm đầu tư công sức của chúng tôi. Tôi nhìn suốt một lượt. Sân khấu đã trang
trí chỉnh tề. Diễn viên đã sẵn sàng, đạo cụ đầy đủ. Th. già nhìn tôi. Tôi giơ
tay ra dấu sẵn sàng. Trưởng ban đạo cụ kiêm trang trí sân khấu, họa sĩ Tr. đưa
cho Th. một thanh gỗ. Rất trịnh trọng Th., nhà đạo diễn giơ cao thanh gỗ nện 3
lần xuống sàn sân khấu. 3 tiếng gõ truyền thống của sân khấu kịch bắt đầu. Màn
từ từ mở. Tư dinh quan Đề Lĩnh với hoành phi, câu đối, lộ bộ, cờ hiệu trên án
thư, kiếm treo trên tường đã phút chốc đưa người xem về không khí trang trọng
và sương kính của thế kỷ 18. Một tràng pháo muộn của đêm mồng 4 Tết từ đâu vẳng
lại. Đinh Đề Lĩnh, võ phục uy nghiêm, lưng mang đoản kiếm tiến lại gần án thư,
cúi mặt thở dài. Chợt lính hầu khép nép hiện ra chắp tay thưa:
– Bẩm quan, người vừa đi
chầu về.
– Có chầu chực gì được
đâu. Hoàng thượng còn bận sang hầu Tôn Tổng đốc… Ở nhà có chuyện gì không ?
– Bẩm quan, có ông cụ
Triệu mấy lần sang kêu về cỏ ngựa. (Có tiếng i ới bên ngoài vang lên: Quan lớn
về chưa ?) Đấy lại có tiếng ông cụ…
– Ra mời ông cụ Triệu vào
đây.
(Ông cụ Triệu, ông già
chăn ngựa, tập tễnh vì thọt chân, lảo đảo vì say rượu, chầm chậm bước vào).
– Xin kính chào quan lớn.
– À cụ Triệu (giọng độ
lượng), Thế nào ? Cụ đã làm lễ tạ ông vải chưa?
– Bẩm quan, các cụ nhà tôi
có về đâu mà tiễn. Con cháu còn không đủ ăn lấy gì mà thỉnh các cụ. Bẩm quan,
từ ngày Hoàng thượng hồi loan đến giờ, nhờ ơn Hoàng thượng mà cả nước này đói
xanh xao cả người ra đấy quan lớn ạ.
Vừa nghe đến đó, cả khối B
hình sự như chạm phải một luồng điện, vùng lên vừa vỗ tay vừa cười la ầm ĩ. Qua
nửa chương trình, tôi nghiệm ra khán giả khu B thưởng thức văn nghệ rất nhạy
bén. Không thích là ồ, là suỵt, là thở dài ào ào, mà thích là vỗ tay là cười la
thoải mái. Ở đây kịch vừa mới bắt đầu, động tác chưa “chuyển”, tại sao anh em
lại hoan nghênh như vậy? Sau hỏi ra mới biết là chưa có ở đâu dám động đến cái
đói thâm căn cố đế của miền Bắc như vậy. Cả nước đói “xanh xao” mà vẫn phải
luôn miệng “ơn đảng ơn người”. Đến những cảnh sau, khi động đến sự thối nát của
đương triều, sự bạo ngược của đoàn quân họ Tôn là anh em hình sự lại vỗ tay rôm
rả. “Cái quân họ Tôn này là nó vừa trí trá vừa ngông cuồng” (vỗ tay). “Tại sao
nhà Lê lại có một ông vua ươn hèn như vậy, cõng rắn cắn gà nhà (vỗ tay rất
lâu).
Người miền Bắc sống dưới
một chế độ chuyên chính lâu ngày, đã trở thành một vương quốc nói dối. Không ai
dám công khai nói thực ý kiến của mình. Có nói là phải nói gần nói xa, nói cạnh
nói khóe. Đói phải nói là no, khổ phải nói là sướng. Đang trong tình trạng ấm
ức như thế, ơn đảng ơn người như thế mà bây giờ có người dám nói thẳng ra giữa
chốn trù nhân quảng tọa “là từ ngày Hoàng thượng hồi loan đên giờ nhờ ơn Hoàng
thượng mà cả nước đói xanh xao cả người ” thì dân hình sự nghe nó sướng quá, nó
thỏa mãn quá. Nói đến quân họ Tôn thì họ không nghĩ đến Tôn Sĩ Nghị mà nghĩ đến
Tôn Đức Thắng”. Ông vua nhà Lê ươn hèn thối nát họ không nghĩ đến vua Lê Chiêu
Thống mà lại nghĩ đến ông “vua” Lê Duẩn đương thời.
Thực tình khi trình diễn
chúng tôí không hề có hậu ý đó. Chỉ cốt tìm một kịch lịch sử để cho anh em có
chỗ diễn mà thôi, những sự kiện trên hoàn toàn là sự trùng hợp tình cờ. Nhưng
anh em hình sự lại nghĩ chúng tôi cố ý nên khi vở kịch kết thúc là anh em hình
sự đứng dậy vỗ tay như pháo nổ, nồi niêu xoong chảo gõ loạn lên, hoan hô kịch
liệt. Đội trưởng đội văn nghệ khu B, Quách H. chạy lại nói với Th. và tôi: “Các
đàn anh chơi kịch đâu ra đấy”. Mấy chú hình sự “đồng nghiệp văn nghệ” thì chạy
lại cõng Đinh Đề Lĩnh, La Sơn Phu Tử mà quay mòng mòng.
Điều làm trại phó Đặng U.,
cán bộ giáo dục Nguyễn Hồng L. và cán bộ an ninh kiêm chấp pháp Trần M. khó
chịu hơn hết là họ muốn qua văn nghệ khu B dạy cho chúng tôi một bài học về văn
hóa thì bây giờ chính anh em hình sự sau buổi trình diễn lại càng gần gũi thân
thiết với chúng tôi hơn.
Cái vui của đêm văn nghệ
không kéo dài được bao lâu. Ngày mồng 2 Tết, còn đang ngày nghỉ, Th. và tôi
cùng mấy anh em bên ca nhạc có lệnh đi họp với cán bộ giáo dục, đã nhận được
một tin choáng váng “buổi diễn hôm mồng 4 Têt ngoài huyện Phù Yên được hủy
bỏ. Đội văn nghệ nghiệp dư giải tán ngay sau kỳ nghỉ Têt”. Chúng tôi phải về
làm kiểm điểm về “những sai phạm trong công tác văn nghệ”. Ngày mồng 4 Tết
trước khi nộp kiểm điểm, Th. và tôi được thiếu úy Q. phụ tá giáo dục, gọi ra
nói khẽ: “Trước sau như một, phải cam kết là diễn y như kịch bản, không thay
đổi một chữ”. Không hiểu bạn tôi Th, làm kiểm điểm ra sao, riêng tôi cứ y thế
thi hành.
Có lẽ thiếu úy Q., người
đi sát chúng tôi khi tập dượt, phần nào thông cảm chúng tôi sau hơn một tháng
trời sát cánh nên chút thiên lương còn lại đã khiến y chỉ cho chúng tôi cái cạm
bẫy mà chúng tôi cần tránh. Nếu chúng tôi, trong khả năng thường thấy của đạo
diễn, có sửa đổi kịch bản cho nó thêm phần sống động, là chúng tôi có thể bị
ghép vào tôi “bôi xấu chế độ có hệ thống” một trọng tội thuộc hàng quan điểm.
Thực ra chúng tôi chỉ linh động phần trang trí mà không hề đổi thay kịch bản
một chữ nào. Đương sự, phó trại trưởng Đặng U. đã chính thức lên trại trưởng
khi Tết ra, cán bộ giáo dục Nguyễn Hồng L., cán bộ an ninh kiêm chấp pháp Trần
M. khi đọc lại nguyên văn kịch bản của Trúc Đường chắc cũng nhận ra điều đó.
Nhưng người CS vốn luôn luôn cảnh giác, cảnh giác nhiều quá thành đa nghi nên
mới “có tật giật mình” như thế.
Sau một tuần lễ kiểm điểm đi kiểm điểm lại, người
chịu tội thay cho toàn thể ban văn nghệ khu A là bạn trẻ Đỗ H. bên phần nhạc.
Thật ra khi sáng tác ra bản nhạc vui kiểu AVT, nhiều anh em xúm lại cùng làm,
trong đó có tôi. Nhưng khi bị cán bộ giáo dục quy tội “bôi bác chế độ” trong
câu “cái gì nhúc nhích là ta chén liền” Đỗ H. một mình nhận hết cho anh em.
Trong 3 người ca hát AVT, Đỗ H. cũng là người hát duyên dáng nhất, nên bị cán
bộ gà mái Nguyễn Hồng L. cho rằng “nhảy dậm giựt phát huy văn hóa đồi trụy”.
Tôi thường ngày rất gần gũi Đỗ H., bởi vì H. ngoài việc tính tình khẳng khái,
hát giỏi, thơ hay, anh còn là một người “biết sống”. Nửa đùa nửa thật nhiều lúc
anh gọi tôi là “ông thầy”. Có miếng khoai củ sắn anh thường chiếu cố đền tôi.
Một hôm trời mưa không đi
ra ngoài làm được anh cũng “bồi dưỡng” tôi miếng sắn. Tôi thấy rõ ràng sắn khẩu
phần của trại đâu phải sắn cải thiện bên ngoài. Cho nên dù luôn luôn đói, tôi
không nhận củ sắn H. cho. “Anh cứ ăn đi mà” – “Chú mày coi tao ra làm sao mà
lại đi ăn sắn khẩu phần của chú mày cho được”. Đỗ H. đủng đỉnh “Nóỉ thật với
anh, H. chỉ ăn môt nửa số sắn trại phát là đủ rồi. Tập cho cái bao tử nó quen
đi. Chế độ này nó chỉ giỏi nắm cái bao tử của mình. Mình tập cho bao tử nó teo
lại thì dù có bị nắm, nó cũng không ảnh hưởng bao nhiêu. Em thấy ngoài hiện
trường anh cuốc hăng quá. Cuốc chút chút thôi chớ”. Nghe xong tôi mới tỉnh ra
mà nói: “Thôi chú mày đừng có gọi tao là ông thầy nữa, chú mày mới đúng là ông
thầy của tụi tao”.
Người anh em của tôi, Đỗ
H. bị lên làm việc trên phòng an ninh chấp pháp liên miên. Đỗ H. có nhắn một
người bạn Nguyễn T. La Sơn Phu Tử nói với tôi là bất cứ ở đâu, trong trại ngoài
hiện trường đừng gặp Đỗ H., coi như không quen biết. Một buổi sớm mai, Đỗ H.
được đi làm trở lại. Đỗ H. gầy rộc, mặt mũi vêu vao, thâm tím. Sau này tôi mới
biết, đối với tù chính trị, cán bộ khi cần không có đánh công khai. Gọi lên
“làm việc”, đánh kín trong phòng chấp pháp.
*
Từ ngày trại phó Đặng U.
lên làm trại trưởng, lũ tù cải tạo chúng tôi gieo neo vất vả hơn nhiều. Khẩu
phần ít đi, làm việc nhiều hơn. Làm quần quật ban ngày, đêm còn “ngồi đồng”
bình bầu, tự phê, tự kiểm.. . Trời đã sang tháng 3, hoa gạođã bắt đầu nở đỏ,
chim “bắt cô trói cột” mà cán bộ bắt chúng tôi gọi là chim “khó khăn khắc phục”
đã ra rả ở đầu rừng. Từ khi trại phó Đặng U. lên, tôi được thăng chức làm “phân
cục trưởng” chuyên môn đi gánh c… Mỗi buổi sáng, gánh từ trại ra đội rau 3
chuyến là xong. Chuyến cuốì cùng, tắm rửa xong ra về anh em chúng tôi bất ngờ
gặp ông cụ Việt, nguyên trại trưởng đang ngồi trên chiếc xe đạp gần nhà kho của
trại. “Thưa cụ, cụ từ trên huyện về thăm trại”. – “Vâng, các ông đi làm; tôi về
lĩnh chút tem, phiếu”. Ngày ấy chế độ bao cấp còn thịnh hành, người ta sống
bằng phiếu gạo, phiếu đường, phiếu sữa, phiếu bột ngọt, phiếu thuốc lá, thuốc
lào, v.v… ông cụ Việt chắc chưa chuyển hộ khẩu về huyện Phù Yên nên hàng tháng
vẫn phải lên trại lĩnh chút nhu yếu phẩm. Tôi nghĩ vậy.
Nhưng buổi chiều đi làm
tôi vẫn gặp ông cụ ngồi trên chiếc xe đạp cũ bên cạnh cửa kho. Chưa ai phát nhu
yếu phẩm cho ông cụ, mà cũng không ai mời ông cụ vào nghỉ chân qua lúc ban
trưa. Tôi tự nghĩ tại sao cùng là cán bộ với nhau, người ta lại phũ phàng với
ông già như vậy? Tôi chợt nhớ đến câu nói của người tù hình sự khi mới về đây
“Đang phát động chiến dịch đánh tư sản mại bản nếu bố tôi có bị đi cải tạo tôi
cũng phải quên bố tôi luôn, nếu tôi muốn có bát cơm mà ăn “. Sự nghỉ hưu bất
ngờ và vội vã của ông cụ Việt có liên hệ gì đến việc ông cụ đối xử tử tế với tù
nhân, đến việc ông gọi chúng tôi là “các ông”. Câu hỏi này cứ làm tôi băn khoăn
thắc mắc mãi. Bất giác, một người tù khổ sai biệt xứ là tôi lại thấy cảm thương
một người cai tù già “cùng một lứa bên trời lận đận “.
Bạn T. “La Sơn Phu Tử” cái
thư của bạn làm tôi bồi hồi nao nức về chuyện văn nghệ trong tù 19 năm xưa. Bạn
nói là có lúc nào chúng ta gặp lại nhau “chơi” lại cái màn kịch “Lửa Kinh
Thành” không nhỉ? Khó lắm bạn ơi. Làm sao người ở lục địa này, người lục địa
kia hội họp bên nhau cho được. Lại còn chuyện người còn kẻ mất. “Tướng nhà
Thanh”, người bạn Lê Văn Hóa của chúng ta đã đi rồi. Anh mất ở trại Thanh Phong
rừng sâu Hạ Lào. Anh cứ phù lên xẹp xuống như “thủy triều”. Hôm cáng anh lên
tuyến trên rồi nghe tin anh mất ở đó, nằm trên cáng mà anh vẫn hát “ò e con ma
đánh đu, thằng Tây nhảy dù, Zoro bắn súng”. Người đâu mà lạ. Cười ngoài đời,
cười trong tù, cười luôn khi sắp chết.
Bạn nói trong thư “ước gì
chúng ta…”. Bạn ơi nếu tôi có một điều ước, tôi ước mong cho ngày nào trời
đất phong quang, chúng ta được trở về đất nước Việt Nam yêu dấu, muốn đi đâu
thì đi. Tôi sẽ đi tới những trại tù năm cũ, thăm lại người xưa, thăm lại các
bạn tù chúng ta còn nằm lại. Tôi sẽ tới trại Yên Hạ, tới quận Phù Yên hỏi xem
ông cụ Việt trại trưởng năm xưa còn sống hay không? Nếu gặp được ông cụ tôi sẽ
nầm lấy tay mà nói “Tôi là là cựu tù nhân Yên Hạ đây, cụ còn nhớ tôi không,
thưa cụ?”
Phan Lạc Phúc.
Vài dòng tiểu sử:
Sinh năm 1928,
Tốt nghiệp Khóa 2 Thủ Đức.
Năm 1965, là Chủ bút của tờ
nhật báo Tiền Tuyến và mở mục Tạp Ghi dưới tên Ký Giả Lô Răng.
Sau biến cố tháng Tư, 1975,
Trung Tá Phan Lạc Phúc đã qua các trại tập trung Long Giao, Suối Máu, ra Bắc ở
Liên trại 2 Sơn La, Phù Yên, Thanh Phong, Tân Kỳ (Nghệ Tĩnh), Hà Nam Ninh, sau
cùng là Xuân Lộc Z30D.
Ra tù năm 1985, năm 1991, vợ
chồng ông đến định cư tại Sydney, Úc theo diện đoàn tụ.
Ông cầm bút trở lại, và cũng
với thể loại tạp ghi xuất hiện trên nhiều tờ báo khác tại Úc Châu như Chiêu
Dương, Văn Nghệ, Việt Luận, Dân Việt và Ngày Nay (Mỹ), Quê Mẹ (Pháp), Thời Báo
(Canada).
Ông mất năm 2016 vì đột quỵ
tại Sydney (NSW) Australia
|