Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 99
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22771
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 05/Oct/2024 lúc 8:21am

Trên Chiến Trường Xưa

 

Hơn ba mươi năm sau, cùng với bốn anh em trong đơn vị xưa, chúng tôi trở lại Kontum tìm thăm nơi an nghỉ của những đồng đội cũ. Trong những năm 72 và 73, đơn vị chúng tôi đã có hơn hai trăm anh em vĩnh viễn nằm lại nơi này để giữ vững miền địa đầu, cửa ngõ quan trọng nhất vào Tây Nguyên, nơi có bản doanh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn nằm không xa phía dưới – thành phố Pleiku.


Dừng chân dưới chân núi Chu Pao, nhớ tới những trận đánh khó khăn ác liệt với những toán địch quân bị xích chân trong những hầm núi đá, cố bám trụ những cái “chốt”, nhằm cắt đứt QL14, con đường huyết mạch nối liền Kontum với Pleiku, và hình dung tới từng khuôn mặt của những anh em đã không bao giờ còn trở lại, một số đã gởi xác thân lại cho rừng núi nơi này, tôi xót xa khi nghĩ là mình còn mắc nợ họ. Món nợ máu xương không bao giờ trả được.

Ngày ấy chiến trường ác liệt, có nhiều người lính phải hy sinh ngay khi vừa mới bổ sung cho đơn vị, mà ban quân số chưa kịp nhận hồ sơ lý lịch. Đa số rất trẻ, độc thân, và gia đình ở tận những miền xa, nên mồ mả không có ai chăm sóc. Hơn ba mươi năm rồi, qua bao nhiêu thăng trầm biến đổi, có lẽ hầu hết các nghĩa trang trong thành phố đã bị giải tỏa từ lâu, và nếu có được cải táng ở một nơi nào đó, chắc trên mộ bia không còn ghi đơn vị cũ. Chúng tôi đến đây như để tìm lại chút kỷ niệm và mong được vơi đi chút nào lòng trắc ẩn, chứ chuyện tìm lại được mồ mả của anh em – hy vọng rất mong manh.

Cả thành phố Kontum bây giờ đã đổi khác. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được các địa danh ngày trước. Những B12, B15, Thành DakPha, Đồi Sao Mai, Bệnh Viện Dã Chiến. Nơi có những bản doanh, căn cứ từng mang tên những người anh, người bạn anh hùng của tôi đã nằm xuống để bảo vệ Kontum: Võ Anh Tài, Đặng Trung Đức, Trần Công Lâm…Chúng tôi tìm đến một số nhà quen lúc trước. Tất cả không còn. Những người chúng tôi gặp đa số mới vào từ miền Bắc. Người Kontum xưa giờ chắc cũng đã tứ tán bốn phương trời. Tội nghiệp cho người dân Kontum bất hạnh. Bao nhiêu năm tháng hứng chịu chiến tranh, có lúc thành phố bị mỗi ngày hàng ngàn quả đạn pháo, vậy mà họ vẫn ở lại, vẫn cùng với những người lính chúng tôi giữ vững thành phố này trong suốt những thời kỳ ác liệt nhất. Nhưng rồi cuối cùng, giữa tháng 3/75, Kontum bị bỏ rơi tức tưởi khi không còn bóng dáng quân thù. Những người lính ở đây được lệnh tử thủ, ngăn chặn miền địa đầu tam biên cho Pleiku di tản. Tôi từng được nghe người Kontum kể lại chuyện những người lính hào hùng, tự sát vào giờ thứ 25, khi Kontum bị lọt vào tay giặc. Nghĩ tới đó, lòng tôi thấy nghẹn ngào, nước mắt cứ trào ra.

Đúng như chúng tôi dự đoán, tất cả mọi nghĩa trang trong thành phố, nơi bạn bè tôi được chôn cất, không còn nữa, người ta đã giải tỏa để xây lên một số cơ sở công quyền và những khu giải trí.
Chúng tôi tìm đến Tòa Giám Mục, cũng là nơi mà đơn vị chúng tôi đã phải đổ khá nhiều máu xương để tái chiếm trong Mùa Hè Đỏ Lửa. Một vị linh mục đứng tuổi, tiếp chúng tôi niềm nở. Ông cho biết là, mồ mả trong các nghĩa trang lúc xưa đã được cải táng và chuyển đến địa điểm mới, nằm trên cây số 9, đường lên Tân Cảnh. Tuy nhiên chỉ có những ngôi mộ có thân nhân nhận lãnh và tự cải táng thì mới có mộ bia, còn những ngôi mộ khác thì không biết ra sao. Ngài còn tốt bụng, sẵn sàng hướng dẫn chúng tôi đến đó. Cây số 9, gần căn cứ Non Nước, nơi ngày xưa đơn vị tôi đã bao lần cùng với các chiến sĩ thiết giáp hào hùng của Chi Đoàn 1/8 KB đẩy lui những đợt tấn công biển người của địch, giữ vững cửa ngõ vào thành phố Kontum.

Mất gần hai tiếng đồng hồ, đi khắp nghĩa trang, chúng tôi vẫn không tìm ra bia mộ nào có cái tên quen. Nhiều ngôi mộ không có bia. Đưa vị linh mục trở lại Tòa Giám Mục, cám ơn và chia tay ngài. Đã hơn 12 giờ trưa, chúng tôi tìm một nơi nào đó để ăn cơm. Nhớ tới quán ăn Bạch Đằng và Thiên Nam Phúc ngày xưa, nơi có mấy cô chủ quán dễ thương, mà đám lính tráng chúng tôi thường ghé lại đây ăn uống sau những tháng ngày dài hành quân trong núi, một anh bạn hỏi thăm đường đến đó. Nhưng quán bây giờ đã đóng cửa và những người xưa cũng đã trôi dạt về những nơi nào đó. Bọn tôi rủ nhau ra bờ sông Dakbla, dọc theo con đường về làng Tân Hương, nơi lúc xưa có mấy cái quán nhỏ để những ngày tương đối bình yên, bọn tôi ra ngồi uống cà phê, ngắm dòng sông chảy ngược, tạo huyền thoại một thời này, mà nhớ tới vợ con hay người tình đang ở đâu đó, để rồi sau lúc chia tay chẳng biết ngày mai ai còn ai mất. Dọc theo bờ sông bây giờ là những hotel, nhà hàng, nhà trọ và biệt thự của các ông quan lớn. Cuối cùng chúng tôi cũng tìm ra được một cái quán ăn bình dân, nhưng khá sạch sẽ, nằm dưới tàng của một cây trứng cá.
- Buổi trưa nên vắng khách. Bà chủ vui vẻ vừa đón chúng tôi vừa giải thích.

Chúng tôi chọn một cái bàn nhỏ gần bờ sông. Xa xa phía bên kia là làng Phương Hòa thật dễ thương ẩn mình dưới những vườn cây. Nhìn mấy bờ đê bên bìa làng, tôi nhớ tới cái chết của người phi công anh hùng Phạm văn Thặng. Tôi đã chứng kiến phi vụ thật can trường này. Anh là trưởng phi tuần gồm hai chiến đấu cơ AD6 , đánh bom vào một mục tiêu có nhiều ổ súng phòng không của địch. Anh lao phi cơ xuống thật thấp bắn chính xác, tiêu hủy mục tiêu, tạo một đám cháy và nhiều tiếng nổ phụ, rồi bay lên từ trong đám lửa ấy. Đang trên đường bay về, anh phát hiện có nhiều đạn phòng không bắn lên từ một khu vưc khác. Anh quay trở lại, lao phi cơ xuống trút hết những quả bom còn lại, rồi bay vút lên không trung. Đúng lúc ấy, máy bay anh bị trúng đạn. Cánh bên phải phát hỏa. Anh phi tuần phó bay kèm theo, bảo vệ và hối thúc anh nhảy dù ra. Bộ binh chúng tôi cũng sẵn sàng tiếp cứu. Nhưng anh từ chối, bảo là nếu anh nhảy dù ra, phi cơ sẽ rớt xuống khu dân cư trong thành phố. Anh cố gắng bay qua bên kia bờ sông, đáp khẩn cấp (crash) xuống khu ruộng trống phía dưới. Anh điều khiển thật tài tình, nhưng vì phi cơ đã hư hỏng, không còn theo ý muốn, đâm vào một bờ đê và phát nổ. Anh Phạm văn Thặng đã anh dũng hy sinh. Điều cảm động hơn, khi người đại diện của Sư Đoàn đến nhà anh để chia buồn cùng gia đình và đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng, đã kể lại cảnh nghèo nàn của gia đình anh, một trung tá phi công của QLVNCH.

– Mấy ông anh từ xa tới. Chắc tính làm ăn gì chứ cái thành phố này thì có cái gì mà tham quan. Phải không?

Câu hỏi của chị chủ quán làm tôi giật mình. Mấy anh em khác im lặng, nhìn tôi như thầm nhắc cho tôi cái nhiệm vụ trả lời.
- Không, bọn tôi tìm thăm người quen, nhưng không gặp.
- Ở khu vực nào, có nhớ địa chỉ không ? Tôi sẽ tìm giúp các anh. Tôi là dân ở đây mà.
Tôi mỉm cười :
– Cám ơn chị. Ở trong nghĩa trang thành phố, nhưng đã bị dọn đi nơi khác rồi, biết đâu mà tìm.
Chị chủ quán khựng lại chưa kịp để thức ăn xuống bàn, nhìn tôi ngạc nhiên :
- Sao lại phải ở trong nghĩa trang ?
- Vì họ đã chết rồi. Chết từ năm 1972 lận. Tôi buồn bã trả lời .
- Vậy chắc các anh đây là lính Cộng hòa mình ? thuộc đơn vị nào ?
Nghe mấy chữ “lính Cộng hòa mình” tự dưng tôi cảm thấy gần gũi với người đàn bà xa lạ này. Tôi thân thiện :
- Anh em bọn tôi thuộc sư đoàn 23, trung đoàn 44 chị ạ.
- À, vậy có anh nào ở đại đội trinh sát ?
- Không, bọn tôi ở trung đoàn và tiểu đoàn . Một người trong chúng tôi trả lời.
Sau một khắc yên lặng, chị lên tiếng:
– Em có mấy người bạn ở trinh sát. Lúc trước cũng nằm trong nghĩa trang thành phố, nhưng khi có lệnh giải tỏa, em đã chuyển các anh ấy lên cây số 9 rồi. Chị chủ quán tỏ ra thân thiện và thay đổi cách xưng hô.

Chúng tôi vừa bất ngờ vùa xúc động. Sau khi dọn bàn xong, mang nước trà ra mời chúng tôi, chị kéo ghế ngồi xuống rồi tâm sự.
Thì ra chị là bạn gái của anh Bình, trung sĩ Bình, ở đại đội trinh sát của đại úy Minh, sau này là đại úy Mạnh. Anh tử trận hồi mùa hè 1972.. Ngày đó chị còn đang đi học, nhưng chiến tranh ác liệt quá, trường phải tạm đóng cửa. Chị ở nhà phụ bán cà phê cùng với người chị ruột. Bà chị này quen khá thân với Mạnh. Khi ấy Mạnh còn là trung úy đại đội phó. Anh Bình thường theo Mạnh tới đây, rồi dần dà quen nhau. Từ khi Bình chết, chị thường đến thắp hương và chăm sóc mộ phần Bình và những đồng đội của anh nằm trong nghĩa trang thành phố.

Năm 1978, chính quyền Cộng sản ra lệnh giải tỏa nghĩa trang, chị chạy khắp nơi kêu gọi bà con cùng góp tiền góp sức với chị, nhưng cũng chỉ kịp cải táng hơn 20 ngôi mộ của những anh em Trinh Sát về địa điểm mới. Hầu hết mồ mả của những anh em chiến sĩ còn lại, đã bị san bằng. Chúng tôi cảm động. Không ngờ trong thời buổi nhá nhem tình nghĩa, có lắm kẻ sớm vong ơn, phản suy phù thịnh, vẫn còn có nhiều người Kontum nặng tình với lính.
Theo yêu cầu của bọn tôi, chị cùng chúng tôi đi thăm mộ anh Bình và các anh em trinh sát. Hơn hai mươi ngôi mộ được xây bằng đá đơn giản, nằm bên nhau ở khu phía đông nghĩa trang. Điều đặc biệt trên các tấm bia, trước mỗi cái tên đều có kẻ hai chữ TS. Chúng tôi thắp hương cho từng ngôi mộ xong, quay lại thì thấy chị đang ngồi sụt sùi trước mộ anh Bình. Khi thấy bọn tôi, chị lau nước mắt đứng dậy và nói một mình:
– Thật tội nghiệp, anh ấy hy sinh khi tìm cách chui qua hàng rào để bắn hạ chiếc xe tăng của VC vừa đột nhập vào chiếm bệnh viện.

Tôi nhớ lại trận chiến ác liệt này. Khi VC mở đợt tấn công thứ nhì vào thành phố Kontum nhằm rửa hận lần thảm bại ở tuyến tây bắc: Hơn một trung đoàn bộ và nguyên một tiểu đoàn xe tăng của sư đoàn 320 bị chúng tôi xóa sổ. Lần này chúng dùng mấy chiếc M113 đã cướp được của Sư Đoàn 22 BB từ khi Tân Cảnh thất thủ, dẫn đầu một đơn vị gồm những chiến xa T54 + T59 có bộ binh yểm trợ, nhằm lừa phi cơ quan sát của ta, xâm nhập vào bệnh viện dã chiến, nằm cạnh thành DakPha, cách vòng đai phi trường chừng 800 mét, với thủ đoạn lợi dụng vào những thường dân và binh lính bị thương nằm trong bệnh viện, để uy hiếp lực lượng của ta. Tiểu Đoàn 4/44 do Thiếu Tá Võ Anh Tài chỉ huy đã đánh một trận chiến vô cùng gay go ác liệt với một lực lượng địch đông gấp ba lần, dùng chiến xa T54 làm nổ lực chính. Xe tăng địch nép theo những vách nhà bệnh viện. Muốn diệt chúng phải tiếp cận để có thể dùng những khẩu M72 hiệu quả, anh Tài cùng toán quân báo đã dẫn đầu đơn vị, tìm cách chui qua hàng rào bệnh viện, và anh đã hy sinh bởi bị chính mìn của ta phát nổ.


Người anh cả của Tiểu Đoàn, một sĩ quan xuất thân từ khóa 16 VBĐL lừng danh, đã nằm xuống dọn đường cho đơn vị mình cứu nguy bệnh viện, nơi có đồng bào và cả đồng đội của anh bị địch quân dùng làm bàn đạp trong ý đồ bất nhân của chúng. Đại Đội Trinh Sát đang bảo vệ Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn được điều động tiếp ứng, đột nhập đánh vào sườn địch. Trinh Sát 44, một đại đội với bao chiến công hiển hách từ thời đại úy Trần Công Lâm, Phan công Minh và sau này là Đoàn quang Mạnh, đã đánh một trận thật tuyệt vời, bắn cháy nhiều chiến xa địch, đuổi đám tàn quân Cộng sản chạy thoát thân ra khỏi bệnh viện và giữ vững một lần nữa vòng đai thành phố. Đại đội Trinh sát này dưới sự chỉ huy tài ba và gan dạ của trung úy Phan Công Minh, đã từng đánh một trận thần tốc, chỉ bằng lựu đạn và cận chiến, giải cứu cho một Tiểu Đoàn BĐQ /BP bị vây trên đỉnh núi Chu Pao. Minh bị thương nhưng vẫn tiếp tục điều quân, vừa phá vòng vây cứu nguy cho đơn vị bạn, vừa diệt những cái chốt cuối cùng, khai thông QL14, để lực lượng chiến xa của Lữ Đoàn II KB lên tăng cường cho mặt trận và hộ tống đoàn xe tiếp tế, lần đầu đến Kontum kể từ khi cuộc chiến khởi đầu. Tướng Trần văn Hai, nguyên Chỉ huy trưởng BĐQ, lúc ấy là TLP/ QĐII đã cùng đại tá TMT/QĐ Lê Khắc Lý, đến QTV Pleiku ôm lấy người đại đội trưởng trẻ tuổi tài ba gan dạ Phan Công Minh ngay khi vừa mới được tản thương về, và gắn lon đại úy cùng anh dũng bội tinh với nhành dương liễu cho Minh tại đây. Lúc ấy Minh vừa tròn 25 tuổi.


- Đại úy Mạnh bây giờ ở đâu, các anh có gặp anh ấy không ?
Câu hỏi của chị đã cắt mất dòng hồi tưởng của tôi. Tôi lên tiếng trả lời chị :
- Anh Mạnh đã chết trong tù cải tạo từ năm 1978 chị ạ.
Im lặng một lúc, tôi lại nghe tiếng chị khóc .
– Chị Hà em, bạn gái của anh Mạnh lúc xưa cũng bị chết năm 75 khi VC vào chiếm Kontum. Mộ chị nằm ở ngay phía trước đây.

Vừa nói, chị vừa dẫn chúng tôi đến đó. Nhìn bức ảnh trên mộ bia tôi mang máng nhớ lại người con gái tên Hà ở một quán cà phê nhỏ nằm trong vườn cây sau nhà, hơn ba mươi năm về trước.
Nghĩa địa mới này nằm không xa làng Trung Nghĩa. Tôi rủ chị cùng với chúng tôi ghé lại lại thăm làng và khu nhà thờ. Nơi mà ngày xưa ông cha chánh xứ đã cùng chúng tôi chiến đấu bảo vệ những giáo dân ngoan đạo . Nghe nói ngài đã bị tra tấn đến chết trong trại tù cải tạo .
Ra khỏi nghĩa trang, nhìn về phía bắc, rừng núi ngày xưa, dù không tránh được dấu vết của đạn bom, nhưng vẫn còn xanh tốt, giờ sao lại xơ xác điêu tàn. Tôi hỏi chị bạn gái anh Bình, nghe tiếng chị thở dài :
- Tham nhũng bây giờ còn tàn phá nhiều hơn cả chiến tranh ngày trước .

Tôi nhớ lại những vụ án ở đây, có liên quan đến nhiều ông lớn. Mới đây bà Thao Y Bình, Bí Thư Tỉnh Đoàn Kon Tum đã ăn cướp đến gần 140 tỷ đồng của dân nghèo, và ông Trần văn Thiện, chủ tịch huyện Đăk Glei đã thông đồng bán bao nhiêu gỗ quý.
Trên đường vào làng Trung Nghĩa, tôi hồi tưởng tới trận chiến trên tuyến Tây Bắc Kontum. Nơi đơn vị tôi đã thắng một trận thật lẫy lừng, làm tiêu hao cả sư đoàn 320 mà địch quân thường hãnh diện là Sư Đoàn Thép, mở đầu cho bao nhiêu chiến thắng sau đó để Kontum, Tây Nguyên không lọt vào tay giặc.

Đúng vào sáng 30 tết năm 1972, khi chuẩn bị buổi tiệc tất niên cho các đơn vị tại hậu cứ Sông Mao sau một năm đối mặt với chiến trường, Trung Đoàn 44 chúng tôi nhận khẩu lệnh của Tướng Ngô Dzu, Tư Lệnh QĐ II, di chuyển khẩn cấp lên An Khê để thay thế vị trí Sư Đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ vừa rút quân về nước. Vừa đến An Khê vào chiều mồng một tết, chúng tôi đã cùng với Thiết Đoàn 3 KB tham chiến, giải toả áp lực địch đang bao vây một số căn cứ phòng thủ của các đơn vị thuộc Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn dọc theo đèo An Khê nằm trên QL 19. Tình hình tương đối yên tĩnh, các căn cứ Đại Hàn được giải toả, QL 19 đã khai thông, chúng tôi vừa đảm trách giữ an ninh cho QL19 từ Pleiku đến Bình Khê, vừa thiết lâp lại các căn cứ pháo binh, phòng thủ. An Khê là một địa danh làm người ta nhớ tới hai đoạn đèo Mang Yang và An Khê cùng những khúc quanh “tử thần”, mà ngày xưa cả một tiểu đoàn thiện chiến của đội quân viễn chinh Pháp bị lọt vào ổ phục kích, để gần như phải xóa sổ.

Ngày 24/4/72, Tân Cảnh thất thủ khi BTL Tiền Phương của SĐ22 bị tràn ngập. Đại tá Lê Đức Đạt, vị tư lệnh không được sự ủng hộ của tay phù thủy John Paul Vann, cố vấn Mỹ QĐII QK2, đã từ chối lời mời lên máy bay của người cố vấn SĐ khi phòng tuyến bị chọc thủng bởi nhiều chiến xa T54 của địch. Ông ở lại chiến đấu và vùi thây nơi chiến địa. Căn cứ Tân Cảnh thất thủ, quận Dakto mất, một BTL/Sư Đoàn bị rơi vào tay giặc mà không hề có bất cứ sự yểm trợ nào của lực lượng đồng minh, cùng cái chết của vị tư lệnh liêm sỉ, khí phách hào hùng thời ấy đã là một trang chiến sử nói lên cái bi phẫn của QLVNCH, báo trước sự bỏ rơi của người bạn đồng minh Mỹ, đã từng cam kết bảo vệ miền Nam, tiền đồn của Thế Giới Tự Do.
Căn cứ địa đầu thất thủ, kéo theo sự xáo trộn của một Sư Đoàn bao nhiêu năm trấn thủ tam biên, tạo thuận lợi để địch quân tràn xuống uy hiếp Kontum.

Trung Đoàn 44 nhận lệnh di chuyển khẩn cấp lên phi trường Pleiku để được không vận lên Kontum. Lúc này thành phố Kontum đang bất ổn, VC đã có mặt một số nơi trong thành phố và pháo kích thường xuyên vào phi trường, một vài phi cơ bị trúng đạn phải nằm ụ tại chỗ. Chúng tôi được lần lượt không vận vào ban đêm bằng C 130. Khi sắp vào không phận, máy bay tắt hết đèn. Phi cơ không đáp mà chỉ bay rà qua phi đạo để chúng tôi nhảy xuống từ cửa phía sau.
Tiểu Đoàn 1 và 2/44 đựơc chở thẳng tới phòng tuyến tây bắc, thay thế cho một liên đoàn BĐQ vừa bị tiêu hao quân số. Hai vị tiểu đoàn trưởng lại là hai người bạn cùng tốt ngiệp khóa 19 VBĐL thao lược, can trường: Đại úy Đặng Trung Đức và Nguyễn Xuân Phán. Ngay sau khi nhận khu vực trách nhiệm, từ vị tiểu đoàn trưởng đến binh sĩ cùng nhau lập phòng tuyền chiến đấu, đặc biệt là đào những hầm hố chống chiến xa phía trước.

Vào khoảng 5 giờ sáng, ánh trăng hạ tuần còn mờ ảo dưới màn sương, các toán tiền đồn phát hiện có nhiều chiến xa địch đang tiến về hướng nam. Các đơn vị được lệnh xuống giao thông hào, và dỡ bỏ tất cả các lều poncho để tránh sự phát hiện của địch. Trên hệ thống vô tuyến, tất cả báo cáo đã sẵn sàng. Địch quân tập trung đánh vào phòng tuyến TĐ 2 của Đại úy Nguyễn Xuân Phán. Chúng không ngờ có một đơn vị thiện chiến mới toanh vừa mới có mặt trên chiến trường này, nên sau một lọat tiền pháo, chúng xua những chiếc T54 dàn hàng ngang, lực lượng bộ binh ồ ạt theo sau. Mặc dù đây là lần đầu tiên trực chiến với xe tăng địch nhưng không hề nao núng, mặc cho những xích sắt tha hồ rú gào đe dọa, Đại úy Phán bình tĩnh vừa gọi pháo binh tác xạ ngăn chặn, phân tán và tiêu diệt bộ binh địch, vừa ra lệnh cho đơn vị chỉ khai hỏa khi những chiếc T54 tới gần trước mặt, trong tầm bắn chính xác hữu hiệu của những khẩu M72, loại vũ khí chống tăng duy nhất mà đơn vị được cấp, và một số B40, B41 của địch thu được từ chiến trường An Khê. Đó là một quyết định táo bạo và sáng suốt. Chiếc T 54 đầu tiên bị bắn hạ do chính anh Tiểu Đoàn Phó, đại úy Nguyễn văn Hướng. Ngay sau đó, hàng loạt xe tăng địch bị bắn cháy. Cả một tiểu đoàn ồ ạt hô xung phong. Cộng quân bị đánh bất ngờ, khiếp sợ, quay đầu chạy. Một chiếc T 54 ủi thẳng vào hầm BCH/TĐ, bị ta bắt sống cả xe lẫn địch, trong đó có tên đại đội trưởng. Tiểu Đoàn 1/44 của Đại úy Đức trở thành lực lượng ngăn chặn hữu hiệu, đánh bất ngờ bên hông địch, đám tàn quân chỉ còn kịp buông súng đầu hàng. Chiến thắng ấy tất nhiên là công trạng của tất cả mọi người, nhưng sẽ là thiếu sót lớn lao, nếu không nhắc tới thiếu tá Ngô văn Xuân, vị trung đoàn phó tốt nghiệp khóa 17 VBĐL hiền lành mà tài năng đảm lược. Lúc nào tiếng nói thật bình tĩnh, trấn an, dặn dò, đốc thúc của Bá Hòa (danh hiệu của anh) cũng vang trên hệ thống vô tuyến làm nức lòng chiến sĩ. Ngay sáng hôm ấy, khi khói lửa chưa tan, Thiếu Tướng Nguyễn văn Toàn vừa nhận chức vụ Tư lệnh QĐII thay thế Tướng Ngô Dzu, bay lên thị sát mặt trận. Ông vẫn đội bê rê đen, đứng trên xe M113 và đi bộ ngay trên phòng tuyến, bắt tay từng anh em binh sĩ, vui mừng với chiến tích đầu tiên của ông và gắn lon thăng cấp cho vị trung đoàn trưởng. Người ta đã nói nhiều về cá nhân ông, nhưng ít ai biết được ông là một dũng tướng ngoài chiến trường.

Chiến công hiển hách này đã mở đầu cho hàng loạt chiến thắng khác của tất cả những đơn vị tham chiến để bảo vệ Kontum và giữ vững vùng địa đầu Tây Nguyên trong suốt Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu lên thăm Kontum, mừng chiến thắng. Khi trực thăng ông đáp xuống căn cứ B 12, bản doanh của BTL/SĐ23BB, đạn pháo của VC thi nhau rót xuống , nhưng vị Tổng Tư lệnh đã xua tay từ chối nhận chiếc áo giáp từ vị đại tá Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn. Ít nhất ông cũng đã chứng tỏ được cái uy dũng của một người xuất thân từ lính. Nhân dịp này Tổng Thống đã gắn lon Tướng cho đại tá Lý Tòng Bá, Tư lệnh Sư Đoàn. Các anh Tiểu Đoàn Trưởng đều được vinh thăng một cấp. Riêng vị trung đoàn phó thầm lặng Ngô văn Xuân được thăng cấp bằng một quyết định riêng sau đó. Anh đựơc điều về làm Trưởng Phòng 3 Sư Đoàn và sau này là một trong những vị trung đoàn trưởng thao lược của QLVNCH.

Trung Nghĩa bây giờ chẳng còn môt chút gì dấu tích chiến tranh, nhưng nhìn ở đâu tôi cũng thấy bóng dáng anh em đồng đội cũ, những người bạn trẻ tuổi can trường của chúng tôi ngày trước. Đặng Trung Đức đã hy sinh vào mùa hè 1973 khi vừa được trực thăng vận xuống phía bắc căn cứ Non Nước. Tên anh được đặt cho bản doanh BTL/SĐ. Vợ con anh đã sang Pháp, nhưng chị Đức đã mất từ năm 1982, hai đứa con nhỏ phải nhờ ông bà ngoại nuôi nấng. Bà mẹ già góa bụa, mà Đức là con một, cũng đau buồn mà đi theo Đức chưa đầy một năm sau ngày Đúc hy sinh. Trần Công Lâm, người bạn cùng khóa thân thiết nhất của tôi – người sĩ quan chưa hề biết mùi chiến bại, đi hành quân mà chưa gặp địch là không chịu quay về -, trước khi nắm Tiểu Đoàn 3/44, đã từng là một đại đội trưởng Trinh Sát lừng danh với bao chiến công hiển hách, vang dội khắp Quân Đoàn, cũng đã nằm xuống cuối năm 1973 trên đỉnh Ngok Wang đèo heo gió hú. Nguyễn xuân Phán sau những năm tháng tù đày, hiện lưu lạc ở một thị trấn nhỏ thuộc tiểu bang Washington bên Mỹ và vẫn hăng say trong các tổ chức xã hội, cộng đồng. Thỉnh thoảng anh xuống San Jose gặp gỡ bù khú với anh em, vẫn cạn ly một trăm phần trăm, dễ thương, vui vẻ như ngày nào. Anh bảo chỉ có những lúc vui với anh em và say mèm mới có thể quên được nỗi đau . Phan Công Minh thì đang sống âm thầm ở một thành phố biển ngoại ô New York. Hơn 10 năm đi cày 2, 3 “job”, để đủ lo cho các con ăn học, thời gian còn lại chỉ đủ để uống rượu tiêu sầu. Bây giờ tương đối rảnh rang, truyền nghề đánh giặc lại cho thằng con trai lớn vừa tình nguyện vào Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, đang hành quân trên chiến trường Iraq. Riêng anh Ngô văn Xuân, mòn mỏi, bệnh hoạn sau hơn 13 năm tù. Nhưng dường như những vết thương chiến trường, tù ngục còn trên thân xác không làm cho anh đau đớn bằng vết thương trong lòng. Nỗi đau của một người đã hiến đời cho binh nghiệp mà giữa đường phải đành vất cung bẻ kiếm. Bây giờ anh sống lặng lẽ ở một nơi gần thành phố San Jose, làm thơ Hoa Tâm, nghiên cứu về Thiền và Phật học. Còn lại, những đồng đội khác, hoặc đang sống lê lết khốn cùng ở đâu đó bên quê nhà với thương tích trên người, hoặc lưu lạc muôn phương, một số đã hy sinh, xác thân nằm ở một nơi nào đó, giữa núi rừng Kontum này, hay hoang lạnh trong các nghĩa trang, đã dời đi hoặc bị san bằng, nhưng có lẽ hồn thiêng vẫn còn phảng phất đâu đây. Tôi đốt hết bó nhang còn lại chia cho anh em. Chị bạn gái của anh Bình cũng xin được chia phần. Chúng tôi đứng nghiêm khấn vái bốn phương trời. Cầu nguyện hồn thiêng của những đồng đội cũ được sớm siêu thoát trên chốn vĩnh hằng, và xin tất cả tha lỗi cho chúng tôi, những người còn sống nhưng đã không trả được – dù chỉ một phần nhỏ nào – món nợ máu xương cho họ.

Suốt đêm hôm ấy không ngủ được, chúng tôi nằm kể lại bao nhiêu chuyện vui buồn trên chiến trường xưa, nhắc lại từng tên từng khuôn mặt bạn bè. Chúng tôi cũng tranh luận thật nhiều về cuộc chiến đã qua và những cái chết của đồng đội mà thấy lòng nặng trĩu những đau buồn với bao điều tức tưởi.


Sáng hôm sau, chị chủ quán, bạn gái anh Bình, mời chúng tôi ăn sáng rồi tiễn chúng tôi ra đầu cầu Dakbla. Chị đứng yên lặng không nói một lời gì. Nhìn những giọt nước mắt chảy dài trên má chị, trong lòng chúng tôi có lẽ ai nấy cũng đang giữ riêng một nỗi ngậm ngùi. Nhìn dòng sông Dakbla chảy ngược qua cầu, tôi có cảm giác như lòng mình cũng đang chảy ngươc về những nơi nào đó, những chiến trường xưa, mà mãi mãi vẫncòn in bóng dáng hào hùng của bao nhiêu bè bạn, anh em những người đồng đội cũ. Tất cả đã từng có một thời sống rất đáng sống.

 

phạmtínanninh

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22771
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: Hôm nay lúc 9:18am

Bên Bờ Sinh Tử

**Trần Đình Lộc và Vĩnh Chánh. 2017


Anh và tôi thân quen từ thuở còn sinh viên. Anh nhỏ hơn tôi chừng 3 tuổi, và theo học ngành sư phạm. Người anh đầu, Trần Đình Ái, và chị kế của anh, Trần Thị Bích Thụy, là những đồng môn gần gũi của tôi trong trường YK Huế. Anh luôn có mặt trong những lần du ngoạn vào cuối tuần, xa thành phố, với nhóm bạn YK chúng tôi, gồm cả trai lẫn gái cùng lứa tuổi thanh xuân, thân ái và vui đùa dưới vòm trời tự do. Lần đi chơi ngoạn mục nhất là chuyến anh dẫn đầu nhóm 6 bạn YK của tôi kéo nhau bay đến Đà Lạt 1 tuần. Bảy chúng tôi ở miễn phí trong khách sạn Palace sang trọng, vì ông quản lý khách sạn vốn là một đàn em trước đây của ba anh. Nhóm chúng tôi được tiếp đãi đàng hoàng như những khách quý khác. Không đủ tiền chơi sang, nhưng lại muốn giữ thể diện cho bạn mình, nên chúng tôi tuần tự thay phiên nhau, từng cặp một, vào ăn sáng tại nhà hàng của khách sạn, với anh và một người trong nhóm. Chút tiền còn lại dẫn nhau  đi ăn những nơi rẻ tiền nhất ở Đà Lạt, như ăn bánh xèo ở chợ Hòa Bình, theo kiểu Phở Cao Vân Saigon lấy công làm lời - mua ăn 1 cái bánh xèo nhưng xin thêm nhiều rau sống và sà lách cho đủ no - mua bánh mì nóng ăn với fromage và paté hộp, đi cà phê Tùng, nghe nhạc…cho đến tối mịt mới rón rén về phòng khách sạn ngủ chung, trong 1 phòng lớn có 2 giường, 6 đứa chia nhau 2 giường lớn, một đứa nằm ở sofa. Vì sợ hết nước nóng, nên một nửa tắm ban đêm, nửa kia tắm buổi sáng.


Khoảng năm 1972, bạn tôi tốt nghiệp đại học Sư Phạm, vào Hội An dạy ở trường Trần Quý Cáp. Trong cùng thời gian, tôi miệt mài ở luôn trong bệnh viện, nên chúng tôi mất dần liên lạc. Mùa Hè Đỏ Lửa qua, rồi tôi tốt nghiệp YK, trưng tập vào Quân Y Nhảy Dù, biến cố tháng 4, 75, tù cải tạo, vượt biên, định cư, cuộc sống mới. Tưởng như không bao giờ gặp lại nhau, thế nhưng tôi nghe tin anh được chị anh, là Bs. Trần T. Bích Thụy, bảo lãnh qua Montreal trong giữa thập niên 80. Từ đó, tôi gặp anh được 5 lần. Lần đầu tiên khi anh đến thăm một loạt bạn bè của anh, trong đó có tôi, tại Nam Cali; 4 lần còn tại Montreal khi vợ chồng chúng tôi đến du lịch xứ lạnh tình nồng. Thật xúc động khi chúng tôi gặp lại nhau, nhất là sau khi anh may mắn sống sót qua một cơn mổ não vì đột quỵ vào giữa năm 2010 - mà anh rất may mắn được cứu sống khi một vị giáo sư YK danh tiếng từ Pháp mới đến Montreal đã mổ não anh bằng thủ thuật mới cerebrovascular surgery, rồi tiếp liền sau đó là cuộc giải phẫu động mạch tim bị nghẽn. Nghe kể, khi anh mở mắt sau cuộc giải phẫu thành công, câu đầu tiên anh nói với chị của anh là “Je veux vivre” – Em muốn sống –

**Ngồi. Từ trái qua phải: Trần Đình Lộc và V. Chánh

**Đứng. Từ trái qua phải: chị Lộc, chị Bích Thụy, Minh Châu


Lần cuối chúng tôi gặp anh vào tháng 9, 2017, tại nhà con trai duy nhất của anh chị, bấy giờ tốt nghiệp bác sĩ và hành nghề Y Khoa Cấp Cứu khá xa Montreal. Đường vào thị xã nhà anh chị rất thơ mộng và êm đềm, có nhiều cánh đồng trồng toàn cây apple và một dòng sông nhỏ chạy dọc bên cạnh con đường làng – như con sông An Cựu của Huế, nhưng nước trong và sạch hơn. Anh chị chào đón chúng tôi với nhiều tình cảm và gắn bó. Anh lấy ra 1 bao thuốc giấu kín trong ngăn đá tủ lạnh, kéo tôi ra ngồi sân sau, vừa hút thuốc vừa kể bao kỷ niệm xưa cũ,  vừa ngắm các cụm rừng phong xanh tươi xung quanh nhà. Chúng tôi đắc chí cười vang khi nhắc đến chuyến du lịch Đà Lạt và khách sạn Palace thuở sinh viên bụi đời. 


Qua câu chuyện từ bạn bè và do anh kể, tôi được biết trong năm 1977, anh bị công an đến tận trường học còng tay, sau đó anh bi kết án, và ở tù chính trị trong vùng núi gần Đà nẵng. Anh bị chính quyền CS tình nghi chống chế độ trong một phong trào “phản động” mà người cầm đầu là giáo sư Nguyễn Nhuận của phân khoa Khoa Học tại Đại Học Huế. Về sau, GS. Nguyễn Nhuận bị tuyên án tử hình và bị xử bắn tại sân Vận Động Huế. Trong tù, một bác sĩ quân y đàn anh của trường YK Huế khuyến dụ anh giả làm điên. Thật là quá tài tình khi anh đóng giả vai điên rất khéo cho đến nổi Mẹ anh vào thăm anh, các bạn tù sinh hoạt hàng ngày với anh và ngay cả công an trại tù, đều nghĩ anh bị điên thật. Nên thay vì bị tù chung thân, năm 1984 anh được thả về dưới sự quản lý chặt chẽ của công an địa phương. Anh lại may mắn được một bác sĩ dân sự, tốt nghiệp cùng lớp với chị của anh và với tôi, ký cho anh 1 giấy chứng nhận anh bị bệnh tâm thần nặng. Với tờ giấy đó, vợ anh đem anh vào Saigon, như để tìm cách chữa trị bệnh cho chồng, và cuối cùng vợ chồng anh cùng đứa con trai liều mạng vượt biên, may mắn thành công, đến Montreal vào năm 1986.


**Hình 2 chị em chụp với nhau trong ngày trình Luận Án của Bs. Trần Thị Bích Thụy


Bạn tôi có giấy tờ chính thức cho phép cá nhân anh được an tử trong cái chết được trợ tử bởi các nhân viên y tế, sau khi hội đồng y khoa họp giám định nhiều lần trước khi đưa đến quyết định tối hậu, cực đoan này. Anh làm đơn xin được an tử, ngay sau khi anh phát hiện mình bị ung thư ruột già vào cuối năm 2021, trước cả dự định giải phẫu, hóa trị / xạ trị. Có nghĩa là ung thư đó chưa hẳn ở giai đoạn cuối, cũng chưa đem đến những cái đau thể xác ghê gớm. Nhưng theo tầm hiểu của tôi, ung thư chỉ là một cái cớ, một lý do ẩn ở đằng sau một suy sụp tinh thần nặng nề, một nỗi trầm cảm triền miên trong những năm gần cuối đời; anh càng co rúm và tự nhốt mình trong cô đơn, với nhận thức mình như con nợ vì bản thân mình chả đóng góp được gì cho xã hội. Có phải anh không còn thiết tha với những những đam mê từng có; những khát vọng và hoài bão cũng dần biến mất theo với tuổi xế chiều?! Có phải đời anh dần trở thành vô vị khi không tìm thấy lạc thú trong cuộc sống, là kết quả tiềm tàng từ những năm sống nhẫn nhục trong nhà tù nhỏ và nhà tù lớn tại quê hương?! Có phải chấn thương không chảy máu đã làm anh tê liệt?! Phải chăng hiện tượng giả điên trong suốt thời gian 6-7 năm tù đã là mầm bệnh gây ảnh hưởng nặng nề trên tâm lý anh, dù anh đã đến được một chân trời mới, rộng lượng đầy tình người, và có gia đình êm ấm, có con thành đạt và 3 cháu nội? Phải chăng anh sợ hãi đối diện với cuộc sống mới?! Nhìn đâu cũng thấy khung cửa hẹp đen tối, có cựa quậy gì rồi cũng thế thôi?! Nên từ đó anh mang cảm giác luôn ở bên lề cuộc sống! Tất cả đã đưa đẩy anh dứt khoát phải chấm dứt mạng sống của mình khi mình vẫn còn đầy đủ lý trí và sáng suốt để tự quyết định. Với cá tính bất khuất, nay lại bị đe dọa trực tiếp bởi căn bệnh nan y, anh không tìm cách trốn chạy mà can cường trực diện chọn cái chết cho bản thân. Kéo dài sự sống thêm ngày nào, với anh, cũng chỉ đưa anh vào bóng tối của vô vọng không lối thoát.  


Bài viết này không có tham vọng luận bàn về giáo điều thần học của An Tử hay Trợ Tử, vì vấn đề này còn là đề tài gây tranh cãi trong nhiều quốc gia và cộng đồng tôn giáo. Bài viết này chỉ tập trung vào những trường hợp cá biệt của An Tử hay Trợ Tử. Trước tiên ta nên tìm hiểu thế nào là An Tử và Trợ Tử. Dựa trên Từ Điển Việt Ngữ Phổ Thông của nhị vị Bs. Lê Văn Thu và Ds.Nguyễn Hiền, An bao gồm những nghĩa như sau: yên bình, yên ổn, bình an, an lành, an lạc, an thân, an tĩnh (yên ổn và bình lặng), an toàn, an ủi, an thần, an bài (sắp xếp trước đâu vào đó), thoải mái, an nhàn (nhàn nhã thoải mái), an lạc (hạnh phúc), an lòng (không lo lắng), an nghỉ/an giấc (ngủ yên ngàn thu), an táng, an phận (bằng lòng), an tọa ( ngồi yên một chỗ), an ủi (làm dịu nỗi buồn). Trợ có những nghĩa sau đây: giúp đỡ, tiếp tay, phụ giúp, trợ lực, trợ lý, trợ y, trợ tá. Và trở tử = giúp cho người không muốn sống nữa (vì bệnh nan y, bệnh gây đau đớn mà không thể cứu chữa được) được chết một cách thoải mái và trang trọng qua thỏa thuận.


Trong tháng 6, 2024, một cặp vợ chồng sống tại Hòa Lan được chuẩn cho An Tử một lúc với nhau. Ông Jan, 70 tuổi và vợ, bà Els, 71 tuổi, từng quen nhau từ thuở tiểu học, và sống hạnh phúc trong gần 50 năm. Nhưng những năm sau này, bà bị bệnh Alzheimer càng lúc càng lú lẫn, còn ông bị đau cột sống càng ngày càng đau đớn dù đã trải qua giải phẫu, không thể chăm sóc cho vợ mình. Trước viễn tượng không thể kéo dài cuộc sống không còn phẩm chất mà y khoa cũng bó tay, ông Jan tuyên bố “để chống đau, tôi cần uống rất nhiều thuốc, và điều này khiến tôi sống như một xác ma. Vì vậy, với cái đau của tôi, với căn bệnh của Els, tôi nghĩ chúng tôi nên chấm dứt”. Chấm dứt trong câu nói của ông Jan có nghĩa là chấm dứt sự sống – là chọn cái chết với nhau. Ông bà Jan và Els xin cho được An Tử. Và họ được An Tử bên cạnh nhau, trong cùng một nơi, cùng một ngày và cùng một lúc.  

Cũng tại Hòa Lan, và trong đầu tháng 6, 2024, cô Zoraya Ter Beak, 28 tuổi, quyết định xin được chết một cách hợp pháp và được chấp thuận cho An Tử, vì cô mang chứng bệnh trầm cảm nặng, kèm theo với bệnh tự kỷ và rối loạn nhân cách, mà thuốc men cùng các phương pháp trị liệu tâm lý đã không thể nào chữa lành cho cô.


Và gần đây nhất, nam tài tử Alain Delon, một thời nổi tiếng trên màn bạc Pháp và toàn thế giới trong những thập niên 60 và 70 của thiên niên kỷ trước, cũng đã chọn chết An Tử tại Thụy Sĩ, ngày 18 tháng 7, 2024, thọ 88 tuổi, sau khi bị một loạt chứng bệnh tim mạch, đột quỵ, ung thư máu…không thể đảo ngược, phục hồi được. Ông ta từng phát biểu “An Tử có tính cách hợp lý và tự nhiên (?), nhất là khi người ta đạt đến một tuổi nào đó và đang sống trong trạng thái và điều kiện không còn nhân tính, thì An Tử giúp cho họ cái quyền được chấm dứt cuộc sống trong danh dự, thanh thản, bình an”.


Thông thường, người ta nghĩ các bác sĩ lo chuyện an tử cho bệnh nhân chỉ là những nhà hoạt động giúp bệnh nhân có cái chết êm dịu. Theo Bs. Hourmann, một bác sĩ trong ngành Giải Phẫu và Cấp Cứu, trong cuộc phỏng vấn của Medscape, nói rằng “thật sự các nhà hoạt động đó là những nhà hoạt động cho sự sống. Trong tình trạng cực đoan, hành động của chúng tôi là hành động của con người, một khi y khoa không còn có thể cung cấp thêm được điều gì, và điều duy nhất còn lại là chấm dứt những đau khổ không cần thiết, và tất nhiên theo lời yêu cầu của bệnh nhân. Trong cuộc sống, tôi đã học được rằng sự đau khổ của con người có giới hạn, và bạn không cần phải là bác sĩ mới hiểu được điều đó.


Liệu cái chết êm dịu có thực sự mâu thuẫn với mệnh lệnh y tế là “bảo vệ sự sống” cho đến phút cuối cùng, theo đúng với nguyên lý đạo đức của Lời Thề Hippocrates không?? Bs. Hourmann không tin như vậy. “Lời Thề Hippocrates là một nghĩa vụ luân lý và đạo đức mà bác sĩ phải thực hiện đối với công việc của mình và trách nhiệm về ý nghĩa của việc chăm sóc bệnh nhân. Rõ ràng điều này sẽ thay đổi theo thời gian. Cá nhân tôi suy nghĩ về điều này hằng ngày và tôi luôn tuân theo các nguyên lý của nó. Khi tôi tiến hành chữa trị, tôi luôn nghĩ đến việc làm những gì tốt đẹp nhất cho bệnh nhân. Để cuối cùng, khi tất cả điều trị đều thất bại, nỗ lực tối đa mà tôi nghĩ đến trong những trường hợp cực đoan là cố gắng giúp cho người bệnh chết một cách xứng đáng.

Nếu chúng ta cho rằng cái chết êm dịu ngụ ý là một hành động gây tổn hại hoặc có chủ ý gây ra cái chết thì điều hợp lý là sẽ có sự phản kháng trong cộng đồng y tế.”

Đồng thời, Bs. Hourmann lưu ý như sau “Trình bày như vậy thì không ai muốn làm cả. Nhưng tôi không thấy như vậy. An tử là một hình thức khác để kết liễu mạng sống của bệnh nhân khi không có giải pháp y tế hay khoa học khả thi nào và có yêu cầu rõ ràng bởi bệnh nhân rằng sự đau khổ cản trở họ tiếp tục sống. Đó là cách tôi hiểu đó là một khái niệm về cuộc sống Và mặc dù có vẻ như chúng trái ngược nhau, cái chết êm dịu và Lời thề Hippocrates luôn song hành với nhau.

Trong “Tự truyện Về Những Giờ Cận Tử” của bác sĩ Võ văn Tùng, vào đầu năm 2015, Bs. Tùng rơi vào hôn mê suốt 5 ngày đêm, và tiếp tục sống kề cận với cái chết trong 17 ngày sau đó. Ông đã diễn tả những điều mắt thấy tai nghe, những cảnh đẹp, những vong hồn bên cạnh những tiếng cầu kinh, những lời nói yêu thương của người thân. Cuối cùng Ông thoát bệnh, xuất viện và bình an về nhà. Vì, Ông viết “Người ta có hai phần là Tâm và Thân. Cái Tâm mới là cái thật của con người. Tâm thì vô hình vô tướng, nhỏ thì không có vật gì nhỏ hơn mà lớn thì cũng không có gì lớn hơn. Thân và Tâm cùng ở với nhau. Niệm còn thì Thân còn. Niệm dừng thì Thân và Tâm lìa nhau để Tâm có cái thân mới. Tâm của tôi luôn luôn ở trong Thân của tôi, chưa bỏ tôi, nên tôi chưa chết”.

Có một điều đa số chúng ta, khi còn sống hay khi kề cận cái chết, đều ước mong mình được chết “hiền”, bình an, “thấy bóng thiên đường cuối trời thênh thang. Tôi từng đọc câu “chết không hẳn là đã tắt thở”. Vì đôi khi, chết không chỉ đơn giản là ngưng thở. Nó có thể ám chỉ việc mất đi một phần của bản thân, mất đi hy vọng, niềm tin, hay mất đi mối quan hệ giữa con người và xã hội. Chúng ta đôi khi vẫn sống trong sự tĩnh lặng, nhưng tinh thần và trái tim – vốn là nhựa sống tươi mát, cần thiết – đã lụi tàn. Đến lúc này, “sống đôi khi cũng đồng nghĩa là chết mòn”.

Sau đây là danh sách các nước trên trên thế giới đã chấp thuận An Tử: Switzerland, Belgium, Luxembourg, Netherlands, Spain, Austria, New Zealand, Canada, Columbia, và Ecuador. Và tại Hoa Kỳ, các tiểu bang: Oregon, Washington, Hawaii, Montana, California, New Jersey, Vermont, New Mexico, Maine, Colorado, cũng đã có luật chấp nhận An Tử.


Vài tháng trước ngày chết, các anh chị em trong gia đình bạn tôi bỏ rất nhiều thì giờ, có người phải bay từ xa đến, để khuyên nhủ, ân cần dịu dàng, ngay cả dùng nước mắt, cố gắng tìm mọi cách để Lộc thôi nghĩ đến An Tử. Nhưng tất cả đều thất bại, kể cả vợ và con trai của Lộc. Nhiều lần, Bs Bích Thụy kêu nói chuyện với tôi trong tiếng khóc nức nở. Nhất là khi nhắc lại lời nói của Lộc năm nào “Je veux vivre” nhưng bây giờ lại đổi thành “Je veux mourir. Ngay cả anh đầu, Bs. Trần Đình Ái, từ Seattle bay sang Montreal, cũng điện thoại khóc với tôi. Thật quá  xúc động. Bạn tôi vẫn cương quyết giữa lập trường, còn nói “cấm tất cả mọi người khóc khi Lộc chết. Vì Lộc đã chọn được chết trong sự thoải mái và an lạc”.


** Đứng sau - từ trái qua phải: Bs. Đỗ Doãn Trang, Bs. Lê Quang Tiến

Ngồi cạnh giường: vợ chồng Bs. Hoàng Ngọc Vinh

Nằm trên giường: Bạn Trần Đình Lộc


Tôi được cho biết trước trưa Chủ Nhật, ngày 22 tháng 5, 2022, các bạn học cùng lứa với tôi trong trường Y Khoa, Bs.Hoàng Ngọc Vinh, và Bs. Lê Quang Tiến đến thăm Lộc lần cuối. Vì ngày mai, Lộc sẽ được chính thức ra đi. Tôi cũng facetime nói chuyện với Lộc cùng thời gian. Trước đó, tôi chờ đón để nhìn thấy một thân hình gầy gò, kiệt quệ, nhưng tôi hết sức ngỡ ngàng thấy bạn mình vẫn còn có da thịt, thần sắc bình thản, và có vẻ vui khi trực tiếp facetime với nhau. Vì trước đó, bà xã tôi căn dặn tránh nói chuyện buồn, nên tôi và Lộc nói toàn chuyện xưa, nhắc lại vài mẫu kỷ niệm vui của nhau. Và nhất là để nghe Lộc vẫn kêu tôi là “cụ mi, cụ mi”trong từng câu nói, như trong bao lần trước đây. Trước khi dứt face time và chúc bạn mình thanh thản ra đi ngày mai, tôi cho Lộc biết ngay sau đây tôi sẽ ra phía sau nhà, hút vài điếu thuốc để nhớ đến bạn mình. Thật không ngờ, chỉ sau chừng mươi phút, chị Bích Thụy gởi liền cho tôi tấm hình Lộc ngồi trên xe lăn, đang phì phèo điếu thuốc lá ở viranda trước nhà. Một hình ảnh cuối cùng của bạn mình mà tôi chẳng hề quên.

Ngày bạn tôi an tử, thứ Hai, 23 tháng 5, 2022, thời tiết gần cuối Xuân bổng trở lạnh hẳn, mới tuần trước trong vòng 70 độ, mà nay thấp xuống 57 độ, tuy không mưa, nhưng mặt trời hoàn toàn khuất lấp sau mây xám dày đặc, rừng cây bên ngoài thấp thoáng mờ ảo- Mai tôi đi xin đừng nhìn theo - Xin đừng đợi chờ - Đời trăm muôn góc phố - Con đường dài thật dài – Thẳng mãi có bao nhiêu? Thẳng mãi có bao nhiêu?


Tôi hình dung trong tờ mờ sáng hôm ấy, chị Lộc đẩy xe lăn đưa chồng đi một đoạn ngắn trên con đường vợ chồng thường dẫn nhau đi dạo – không cần phải nói thêm lời gì với nhau vì im lặng là một chứng thực cho cảm thông trân quý của yêu thương. Tôi cũng hình dung con trai anh Lộc thế mẹ đẩy cha đi thêm một vòng nhỏ, cũng trên con đường ấy; lần này anh Lộc có vài lời căn dặn con trai mình trông nom mẹ, chớ để mẹ buồn tủi, và nhớ giải thích về sau cho 3 con mình khi chúng trong tuổi hiểu biết về lý do vì sao ông nội xin được ra đi sớm. Tôi cũng mường tượng cảnh Lộc ôm hôn các cháu nội, khẻ căn dặn các cháu luôn nghe lời cha mẹ và gắng học giỏi.


Trong giờ cuối, anh chị em cùng con cháu trong gia đình xúm xít trong nhà, bên nhau, nhìn nhau, nhìn em/anh của mình mà lòng ứa lệ. Dưới đây là tấm hình Bên Giờ Cận Tử của Lộc với vợ mình, đứng ngay sau lưng chồng, và gia đình anh chị em mình, Bích Thụy, Cẩm và Tuấn, chụp trước khi Lộc bước lên lầu, nhận thủ thuật cho An Tử,


trong khi tất cả mọi người niệm Phật ở tầng dưới, và cháu nội của Lộc đàn piano “Ce N’est Qu’un Au revoir”, rồi “Như Một Lời Chia Tay”. Sau đó hoàn toàn im lặng trong cầu nguyện. Khi nghe con trai mình, cũng là 1 bác sĩ, trên lầu bước xuống và nói “Cậu Lộc đi rồi, Mẹ ơi”, chị Bích Thụy xỉu tại chỗ. Trước đây Lộc cấm không ai được khóc, nhưng nay ai cũng ôm nhau khóc nức nở. Xác của Lộc được hỏa thiêu 2 ngày sau đó. Một tuần sau, tro được đem rải trên dòng sông Saint Laurent, theo đúng nguyện ước của người chết: không linh vị thờ cúng, nếu nhớ Lộc hãy nhìn lên trời xanh mây trắng là có Lộc trong đó.


Tuy không cổ vũ, nhưng cá nhân tôi khâm phục bạn mình dứt khoát chọn cho mình một cái chết tự trọng, đầy nhân phẩm của con người. Có chăng giấc ngủ ngàn thu sẽ đưa bạn tôi đến một miền tươi sáng hơn, một thế giới huyền ảo không còn hận thù mà ở đó chỉ có tình thương và bình an vĩnh cửu?! Và phải chăng chiến thắng chính mình và khắc phục nỗi sợ hãi sẽ cho mình một cái chết lành.

Theo nghĩa trên, bạn tôi, Trần Đình Lộc, đã được chết lành.

Xin lấy vài đoạn trong bài thơ “Chết” của nhạc sĩ Lê Tín Hương tặng cho bạn mình:

“Sao sầu muộn khi nói về cái chết

  Chết là về nơi chốn của yêu thương

  Chết là vui khi rũ hết bụi đường

  Hòa nhập với muôn hồn bao năm trước…

          Đường đời thăng trầm bước đời muôn lối

          Có dốc cao vực thẳm có êm đềm

          Con đường đời nhờ thế ý nghĩa thêm

          Để hoàn tất bức tranh đời tuyệt hảo

                   Nên khi chết không còn chi phiền não

                   Những bước đời hư ảo đã trôi qua

                   Cát bụi trần gian rồi cũng xóa nhòa

                   Muôn hồn sẽ cùng ca, bài ca vô tận…”

Xin ghi nhận nơi đây lòng biết ơn chân thành của tôi đến anh chị Bs. Đỗ Doãn Trang và Bs. Trần Thị Bích Thụy, không những đã cho phép tôi ghi lại câu chuyện thật, mà còn cung cấp hình ảnh và dữ kiện khiến bài viết thêm trung thực.

Viết để tưởng nhớ đến bạn mình khi mùa lá rụng về cội đang đến.

 

Mùa Thu, 2024

Vĩnh Chánh

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22771
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: Hôm nay lúc 9:26am

Thư gởi Người dưới mộ

 BM

Các rất thân,


Hơn bốn mươi năm - Kể từ ngày đưa Tuyết Mai ra Nha Trang thăm mộ Các lần cuối cùng, mình có dự định sẽ viết cho Các một thư dài tâm sự chuyện nhân gian, chuyện bạn bè qua bao tang thương ngẩu lục để Các đọc cho ấm lòng những ngày mưa trong lòng đất lạnh. Lá thư trong ý tưởng đã hình thành từ rất lâu nhưng vì nhiều lý do mãi đến hôm nay mày mới được đọc. Cứ xem lá thư như một lời tạ lỗi của mình vì những thất hẹn với bằng hữu mặc dù vẫn biết bạn đã vĩnh viễn xa lìa anh em đồng đội từ những ngày chinh chiến điêu linh xưa cũ.


Các thân,


BM

Hơn hai mươi năm không có dịp trở lại Nha Trang để tắm sóng vàng, ngắm hàng dừa tỏa bóng dưới trăng và để lặng nghe âm thanh rì rào của hàng dương xanh ngát đang vờn bay trong gió mùa gợi nhớ. Và cũng lâu lắm rồi không trở lại chân đèo Rù Rì để thăm mộ Các, để đốt một nén nhang thơm cho bạn và để sưởi ấm những ngôi mộ hoang lạnh, điêu tàn chung quanh.


Nếu cuộc đời là một sự biến thể vô lường như bức tranh vân cẩu thì những gì xảy ra trong gần năm mươi năm qua đúng là một hệ lụy và chúng mình đang bước đi trong lòng đường mệnh số. Không biết ở đâu đó trong lòng đất lạnh, Các có còn nhớ những kỷ niệm buồn vui thuở trước. Nhưng mà Các ơi. Nếu đã quên thì đó là điều hạnh phúc cho mày. Đối với những bạn bè còn sống và đang lưu lạc khắp năm châu bốn bể như tụi mình hiện tại thì những kỷ niệm vui buồn vừa là niềm hạnh phúc cũng vừa là điều bất hạnh. Nó đang xoa dịu nhưng cũng đang hành hạ vết thương lòng. Mày đừng cười cho tao đang ca bài ca cải lương. Thực ra, những nghịch lý đó là điều có thực và là hệ quả của phạm trù sinh diệt. Các biết không, lũ kỷ niệm đang lén về và đang tìm lối mòn để xâm nhập vào tiềm thức của mình đó.


BM

Các ơi ! tụi mình gặp nhau lần cuối hình như vào một buổi chiều cuối năm 1971. Mình đang đóng quân tại Suối Cụt, Phước Hiệp sát quốc lộ trên đường về Tây Ninh và biên giới Việt- Miên. Các thì đang trên đường trở lại Đơn vị đóng quân gần mặt trận Thiện Ngôn. Nắng chiều cuối năm êm ấm nhưng không dấu hết vẻ ngậm ngùi. Một chút hương thơm quyện trong gió và phất phơ vờn theo tà áo dài trắng của một cô giáo trường Tiểu học Suối Cụt gần đồn, đang chạy Honda ngang qua. Hình như Các có giơ tay chào và cô ấy có giơ tay chào lại. Mình thì thầm rất nhỏ: Một hình ảnh lãng mạn và dễ thương của thời chinh chiến. Gặp nhau mừng vui khôn xiết, vì rất lâu kể từ ngày rời quân trường, hai đứa mới có dịp tâm sự trong bối cảnh chiến tranh đẫm máu và điêu tàn trên quê hương. Mình ngạc nhiên hỏi. Làm sao mày biết nơi tao đang đóng quân mà tìm.


BM

Có khó gì đâu, tao hỏi Ban tham mưu và trung tâm hành quân Sư đoàn 25 là ra ngay. Tao nhớ mày còn cười cười nói tiếp: Tuyết Mai, D.Hoàng, Kim Loan cũng có nói là mày đang đóng quân ở ranh giới Củ Chi và Trảng Bàng. Tao dò hỏi địa danh và bây giờ ghé thăm mày trên đường trở về đơn vị. Và cũng chính tại nơi đóng quân nầy, Ngọc “cận” cũng đã có lần ghé thăm mình. Hình như sau Các vài tuần thì phải. Một năm trấn nhậm an ninh cho vòng đai Sài Gòn. Ngoài Các và Ngọc, mình còn gặp Phước râu, Định vồ mấy lần trong các cuộc hành quân hỗn hợp với các Chiến đoàn đặc nhiệm Biệt Động Quân và các Thiết đoàn Kỵ binh tăng phái.


Nắng cuối ngày đã tắt trên những ngọn cau xanh ngát còn sót lại sau bao mùa chinh chiến hoang tàn. Tụi mình rời quán cà phê trở về nơi đóng quân của mình ở đồn Phước An. Phía trái Quốc Lộ là Thái Mỹ, xa hơn một chút là Rừng Tre, An Hiệp mà chiến sự là cuộc đuổi bắt, rình rập giữa ta và địch từng ngày từng đêm. Bên phải Quốc Lộ là vùng Trung Hòa, Trung Lập, Gò Nổi có trung tâm huấn luyện Biệt động quân. 


BM

Cửa sau của Sư Đoàn 25 và cũng là cửa ngõ của các mật khu Hố Bò, Bời Lời, Tam Giác Sắt. Xa hơn một chút về phía trên là Trảng Bàng với các địa danh nổi tiếng Lâm Vồ, Bàu Me, Bố Heo, Đồng Ớt, Trảng Dầu, Sa Nhỏ. Tội nghiệp anh em và bạn bè. Cuộc sống là sự đợi chờ thấp thỏm từng ngày, từng giờ. Đôi mắt căng thật lớn như để nhìn cho thật rõ hình ảnh những viên đạn đồng chữ nổi, máu lửa, đạn bom, mìn bẫy và một quê hương điêu tàn. Các hỏi. Sao mày chọn về đây, Hậu Nghĩa là vùng chiến sự đẩm máu và ác liệt nhất của Quân Khu 3 mặc dầu nằm rất sát Sài Gòn. Mình trả lời lùng nhùng. Thì mày về Sư Đoàn 25 cũng là về vùng nầy thôi, có gì khác hơn đâu. Ừ, cũng đúng. Rồi Các tâm sự: Con lộ đò 237 ngoằn ngoèo nối từ BTL Sư Đoàn lên Bố Heo xuyên qua Lào Táo, Trung Hưng là người tình đầu của tao kể từ ngày xuống núi. Mấy trận đánh để đời ở đó là những kỷ niệm khó quên. Chiến thắng nhiều nhưng thiệt hại cũng rất lớn. Tao và bạn bè đã gửi máu ở đó nhiều lần nên con lộ hình như mỗi ngày một đỏ thêm. Nhưng nghĩ cho cùng thì tất cả cũng chỉ là quy luật của chiến tranh. Mình là quân cờ di động trong quy luật đó nên đành chịu. Mình đăm chiêu và ậm ừ...Tao đồng ý với mày.


Buổi tối. Trong căn phòng nhỏ dã chiến chất quanh những bao cát chống đạn, dưới ánh sáng vừa đủ của ngọn đèn nhỏ do một thằng em truyền tin mang đến. Hai đứa đã chén thù chén tạc đến gần sáng và không biết trong men rượu chếnh choáng, hai gã Lệnh Hồ Xung và Kiều Phong của Kim Dung đã nhập vào tụi mình lúc nào chẳng biết. Chỉ nhớ trong hơi rượu ngà ngà, mình như một gã lãng tử cuối trời nghêu ngao hai câu thơ mang nặng âm hưởng tráng sĩ ca của một thi bá hơn một trăm năm mươi năm trước viết trong một đêm trăng sáng mùa Thu bên bờ dòng sông loáng bạc để tiễn đưa bằng hữu đi trấn nhậm phương xa:


BM

Chu Thần tài hoa ngày xưa uống ruợu tiễn bạn dưới trăng để thấy trăng như nỗi biệt ly đang ẩn hiện chập chờn trong sóng rượu ly bôi. Tụi mình hôm đó chén thù chén tạc giữa màu đen của đêm tối quê hương. Thay cho ánh trăng của người xưa là những đóm sáng hỏa châu xuyên qua ô cửa nhỏ trong đêm tối mịt mờ. Hai hình ảnh, khác biệt rất xa về không gian lẫn thời gian nhưng cũng ảm đạm và thê lương muôn trùng như nhau phải không Các. Mình không quên được âm hưởng đặc sệt chất Khánh Hòa trong giọng nói của Các. Giờ mình đâu còn kiếm với đao nữa mà án với ứng. Chỉ còn súng thôi. Vậy để tao sửa lại một chữ cho hợp thời. Trượng phu án "súng" khứ tiện khứ. Được chưa mày. Mầy cười cười kiểu cười ruồi.


Đêm đó nhìn ánh sáng chao đảo trong đáy cốc rượu đế sủi bọt, mình bồi hồi muốn ngậm hết ánh hỏa châu rạn vỡ trong ly rượu tràn đầy như ngậm hết đau thương những mắt lệ biệt ly trong cuộc đời dâu bể. Có biết đâu, một lần tiễn đưa là không hẹn buổi trở về. Và rồi, Các nhớ không, mấy tháng sau mình bị thương rất nặng trong trận Bàu Me khói lửa ở Trảng Bàng. Còn mày hy sinh trong mặt trận Thiện Ngôn vùng biên giữa mùa Hè đỏ lửa quê hương. Sau ngày Các và mấy bạn hữu hy sinh ở mặt trận biên giới. Mình rất ghét mỗi khi phải nhắc tên chiến trường Thiện Ngôn. Rõ ràng tên gọi địa danh là thiện ngôn nhưng lời nói không thiện chút nào, nó cướp đi một thằng bạn thân thiết và nhiều chiến hữu thân thương.


BM

Một buổi chiều, mình đang nằm điều trị ở Tổng Y Viện Cộng Hòa. Tuyết Mai vào thăm và báo tin dữ. Mình lặng người và đau điếng xác thân. Nước mắt của Mai nhạt nhòa trên khuôn mặt bi thương. Vệt nắng chiều màu vàng ma quái đang lung linh trên những bức tường vôi Quân Y Viện. Các ơi!


Chỉ một mùa Hè đỏ lửa 1972, mình đã gặp biết bao điều đau đớn. Cơn đau hành hạ từ những vết thương chưa lành qua nhiều lần giải phẩu của các Bác Sĩ để lấy cho sạch những mảnh đạn còn sót. Cơn đau lên đến cực điểm mỗi khi phải nhận và đọc hung tin của bạn bè xuất thân từ đồi 4648 vĩnh viễn ra đi. Các ơi! dấu binh lửa năm xưa đã soi sáng những trái tim tuổi trẻ chúng mình. Bỏ chuyện sách đèn và giảng đường. Gác lại những cuộc tình mộng mơ trong phố thị. Tìm về Lâm Viên để làm môn hạ cho Khai quốc Công Thần Nguyễn Trãi trong giấc mơ Yên Tử. Cũng chính mùa lửa binh năm ấy là mùa của nghiệt ngã, thương đau cho quê hương, dân tộc với máu lửa và hờn căm ngút ngàn.


BM

Đêm đã xuống tự trời cao, Tuyết Mai đã rời Quân Y Viện trở về và mình thì lạnh câm trong nỗi sầu nhớ bạn. Các biết không, hôm sau mình trốn viện hai ngày đưa Mai lên Đại đội Chung Sự ở Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa để tìm và nhìn thân xác Các lần cuối. Cuộc tìm kiếm tưởng như vô vọng vì những ngày của mùa Hè đỏ lửa năm ấy, số lượng tử sĩ đưa về quàn ở Nghĩa Trang Quân Đội hàng ngày rất đông. Mình và Mai đã đi tìm suốt buổi. Đã đọc hết tên tuổi, cấp bậc của những tử sĩ đã hy sinh và còn giữ tại nhà quàn chờ thân nhân. Nhưng tuyệt nhiên không có tên bạn. Mãi đến cuối ngày, Văn phòng Đại Đội Chung sự sau khi dò tìm, đã cho mình biết là xác cố Trung Úy Đào Các đã được phi cơ đưa về Nha Trang chôn cất theo lễ nghi quân cách tại quê nhà.


Cuối năm 72, trong thời gian mình còn nghĩ dưỡng thương chờ ngày tái khám . Theo yêu cầu của Tuyết Mai, và vì thương nhớ bạn, mình đã đưa Mai ra Nha Trang thăm gia đình Các và viếng mộ phần bạn. Trong tiếng gió lạnh trầm cuối năm dưới chân đèo Rù Rì hòa trong tiếng reo của những hàng phi lao từ biển Cảnh Dương thổi sang. Nhìn vóc dáng tội nghiệp của Mai đang thổn thức khóc thương mày trước nấm mồ cô đơn. Mình thấy xót thương cho quê hương và tuổi trẻ bất hạnh. Nầy là khăn sô góa phụ, nầy là tử biệt sinh ly. Ôi ! Cuộc đời nếu chỉ mang hình ảnh đau thương nầy mãi thì còn gì là lẽ sống. Trong chút nắng vàng hiu hắt những ngày cuối năm, trong tiếng gió biển se lạnh mang âm ba sóng vỗ cuối chân trời, mình che tay thắp một nén nhang thơm cắm lên mộ bạn, tự dưng nhớ mấy câu thơ của một thi sĩ nổi danh viết trong thời kháng chiến.


BM

Các ơi ! Gió Tha La đất Trảng Bàng không thổi về đây để nghe mùi hoa gạo giữa mùa nắng vàng hanh. Nhưng mình cũng đang nghẹn ngào trong nắng đổ và đang nghe gió thổi từng đợt lá vàng dưới chân đèo hiu quạnh đó Các.


Hôm sau, trên chuyến xe trở lại Sài Gòn, Mai có hỏi mình: Rồi em sẽ làm gì và sẽ ra sao trong ngày tháng tới. Mình trả lời rất khẽ, mọi việc đã qua đi và rồi cũng sẽ qua đi. Một lần thăm cũng đủ cho bạn anh ấm tình trong lòng đất lạnh. Mai còn phải tính cho tương lai của chính mình, không thể ngâm mình mãi trong nỗi đau thương vì một người đã mất được. Anh cho một hình ảnh ví dụ đi. Mai hỏi. Mình không né tránh câu hỏi dù hoàn cảnh rất khó trả lời.


BM

Mai còn quá trẻ em biết không? Một cuộc sống mới, một tình yêu mới cũng là điều tự nhiên và bình thường. Anh hiểu Các nhiều lắm và tin chắc Các sẽ không giận hờn về một quyết định hợp lý như vậy đâu. Cuối năm sau mình nhận được thiệp báo tin hôn lễ của Mai với một đồng sự trong ngành giáo dục ở Vũng Tàu. Mình có viết thư chúc mừng và thay mặt một số bạn bè của đồi 4648 chia vui với Mai. Mình tin là Các sẽ đồng lòng với những việc mình đã nói và đã làm. Phải không Các ?


Từ năm ấy đến giờ, mình chưa bao giờ gặp lại Tuyết Mai. Cũng không nghe tin tức về nàng. Mặc dù sau nầy có thời gian làm việc ở Chợ Lớn. Thỉnh thoảng có dịp đi trên đường Mai Xuân Thưởng, lúc ngang qua nhà Mai, mình có chủ ý muốn biết sinh hoạt của người bạn gái ngày xưa giờ ra sao. Một vài lần dừng lại hỏi thăm tin tức. Nhưng lần nào cũng thấy cửa nẽo im lìm. Mình đoán có lẽ nhà đã đổi chủ mới. Lại bâng khuâng nhớ bạn khôn nguôi. Viết đến đây, tao lại giật mình vì thấy cuộc đời đôi khi có những trùng hợp kỳ lạ. Nhà mày ở Nha Trang, con đường trước nhà là đường Mai Xuân Thưởng sát biển Cảnh Dương. Tuyết Mai ở tuốt trong Chợ lớn, nhà cũng trên đường Mai Xuân Thưởng. Sự trùng hợp rất kỳ lạ. Hay mày có “chat” hẹn hò với Tuyết Mai trước khi gặp. Nhưng trước 1975, làm gì có Internet để chat với chic như bây giờ.


Các ơi ! hơn sáu năm bị vùi dập trong các trại tù rừng sâu. Nhiều lúc nhớ bạn, nghĩ suy về cuộc đời, tao đâm ra ghen tỵ với mầy. Đừng có cười, mình nói thực đó. Trong cơn đói và bị đày đọa triền miên về thân xác và tinh thần, đôi lúc tự an ủi mình nếu được như Các có lẽ sẽ hạnh phúc hơn. Hơn ba mươi năm sau, sống lây lất trên đất Mỹ, mình cảm nhận về mình rất rõ. Từ mấy giòng thơ của một đàn em, mình viết một ca khúc như là tâm sự của chính mình.


BM

Còn ai nữa không để gởi gấm non sông. Hay cuộc đời chỉ là hư không vi cuộc đợi chờ đã suy tàn từ dấu mùa binh lửa năm xưa.


BM

Mùa Xuân năm 2002 mình có về VN để thọ tang Cha. Ông Cụ mất tại Sài Gòn ở tuổi 95. Chắc Các vẫn còn nhớ ông Cụ mà Các có lần ghé thăm vào giữa năm 1971 lúc nhà mình còn ở trên khu Gò Vấp. Thời gian trôi nhanh quá trên những buồn phiền và lo toan. Mình rất tiếc đã không có được ngày giờ dư dả để về lại Nha Trang tắm sóng vàng trong vịnh như mong ước từ lâu. Để bước từng bước nhẹ lên Tháp Bà Thiên Y nghe gió thổi vi vu như lời than thở vận nước điêu linh. Và nhất là đến thăm và đốt nhang trên mộ phần bạn. Ngôi nhà nhỏ của gia đình Các gần khu vực Quân trường Đồng Đế. Mình còn nhớ như in mấy cội mai vàng trồng quanh nhà. Không biết có còn bức tượng đá trên hòn núi Một với câu thơ "anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ" để mỗi ngày mỗi đêm làm bạn với Các giữa tiếng sóng vỗ vào gành đá Hòn Chồng rêu bám cô đơn và gió thổi xào xạt vào rặng dừa xanh tỏa bóng quanh nhà.


Các ơi ! Hơn sáu năm sau ngày gãy súng, mình rời trại tù cuối ở Gia Trung, không có em Pleiku môi đỏ má hồng đưa tiễn vì anh khách lạ ngày xưa đã gần như rã mục với môi thâm da chì vì nước độc rừng sâu. Hai năm ở trại tù Gia Trung, mình đã gặp lại nhiều thầy cũ, bạn xưa. Các thầy Nguyễn Sĩ Tế, Doãn Quốc Sĩ … nỗi tiếng với tấm lòng sĩ phu “uy vũ bất năng khuất” trước kẽ địch. Mấy nhà văn, nhà thơ nổi tiếng Sài gòn thuở nào cũng bị giam cầm ở đây khá nhiều. Mình nói Gia Trung là trại giam cuối chứ chưa phải là cùng. Cuối năm 1986 mình bị bắt giam gần một năm trời tại trại giam Tân Quy Đông, huyện Nhà Bè. Một trại tù ẩm ướt quanh năm, được xây từ thời Pháp thuộc đề nhốt tù Chính trị. Tường được xây kiên cố và dày gần một thước với hàng rào kẽm gai nhiều lớp bao quanh. Xà lim với bóng tối triền miên. Ba thằng tù cho một thước rộng. Ghẽ lỡ khắp mình vì thiếu nước và dơ bẩn. Mình đã quen vì đã qua nhiều trại tù khắp nước. Nhưng đối với phụ nữ, phải chịu sống trong điều kiện tù như vậy là một điều đau đớn và phi nhân bản. Trong trại giam nầy, mình đã gặp lại một nhà văn nữ nổi tiếng thuở xưa ở Đà Lạt và một nữ ca sĩ nổi danh ngày tháng cũ. Cả hai cùng can tội vượt biên. Họ chỉ ở vài tuần là được thả sau khi liên lạc được với gia đình. Đó mới là trại tù cuối cùng của mình. Kể về nó thì dài và nhiều chuyện vô cùng. Thôi để lần khác có dịp, mình sẽ kể chuyện cho Các nghe.


Trước khi sang Hoa Kỳ định cư cùng gia đình, mình có hai lần về thăm đồi cũ trường xưa. Ngày ấy ngồi uống rượu với Các giữa hoàn cảnh hiểm nguy và tàn khốc của chiến tranh, cái chết rình rập cận kề vẫn vui đùa ngâm nga mấy vần thơ chính khí của người xưa. Nhưng lạ lùng lắm, hai lần về lại chốn xưa của xứ Đà Lạt hoa đào. Đứng bên trường nữ Trung Học Bùi Thị Xuân, nhìn sang khu đồi 4648. Cố nín trong lòng nhưng hai mắt vẫn cay xè. Nầy là Vũ Đình Trường rộn ràng tiếng kèn khai quân hiệu. Nầy là khúc quân ca vang vang mỗi sáng mỗi chiều. Đường còn dài nhưng chân cứng đá mềm phải không Các.


BM

Những lũng sương mù quanh trường cũ đang nhạt nhòa bóng hình kỷ niệm đó Các. Mình cố nghiêng người để nhìn cho rõ cổng Anh Đào xưa với vọng gác đêm sương. Các biết không, kỷ niệm ở đó là một thứ cổ tích ướp hương thơm của mùi tóc mây mắt biếc môi đào. Cổ tích ướp hương thơm những đêm huyền diệu, những chiều nắng nhạt trên cổng trường xưa. Các còn nhớ hai lối rẽ trước cổng Quân trường? Lối rẽ nào cũng đầy hương tình yêu vì lối rẽ nào cũng đầy dấu vết của hẹn hò. Dấu vết hẹn hò còn phảng phất trên mắt môi cô nữ sinh ngôi trường yêu dấu đối diện, trên lối mòn dẫn về giảng đường của Viện Đại học nằm chênh vênh trên sườn đồi cánh trái. Rõ ràng mình có cảm giác đang dẫm lên vết bước chân xưa của mình, của Các, của bạn bè, của những thiếu nữ yêu kiều ngày xưa đã hơn một lần bước qua cổng Quân trường trong những chiều cuối tuần nhạt nắng.


Hỡi em Ðà Lạt chiều sương xuống,

Con phố buồn vui theo uớc mơ.

Áo ai thấp thoáng lưng chừng dốc.

Vướng vào thơ ai chút hững hờ.


Mùa Xuân năm ấy, tàn chinh chiến,

Người về phố núi chạnh niềm đau.

Ngàn cánh Alpha trong bão tố

Thương đàn chim xưa lạc phương nào.


Tao lại nhớ mày lần ghé thăm tao ở đồn Phước An. Lúc đưa tay vẫy chào cô thiếu nữ chạy Honda ngang đồn, Các hỏi chuyện tình của tao với Ngọc Thu tóc ngắn ngang mùa tới đâu rồi. Mình ỡm ờ...thì gần tới bến rồi. Tao nhớ mày nhả khói thuốc, cười lớn. Đã nhen. Chuyện tình mùa chinh chiến thì biết ra sao ngày sau, đời cũng như bức tranh đủ màu. Màu hồng thì hạnh phúc reo vui, nhưng nếu nhiều màu đen thì xui xẻo và u buồn. Thôi, bỏ đi. Que Sera Sera. Bức tranh của mình không nhiều màu hồng, màu xanh, nhưng cũng tạm được vì ít mầu đen. Còn mầy đã cân nhắc, chọn lựa từng màu đẹp để vẽ nên chuyện tình cổ tích trong mơ thì bức họa mầu đen phủ kín cuộc đời. Nguyễn Du gọi đó là mệnh số. Nhưng đã là mệnh số thì còn gì để tranh luận phải không Các ?


Ngày mai đụng trận ta còn sống,

Về lại Sông Mao phá phách chơi.

Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm

Đốt tiền mua vội một ngày vui

(Trích thơ Nguyễn Bắc Sơn)


Lâu lắm rồi, mình vẫn còn nhớ người viết mấy câu thơ nầy. Gã thi sĩ lừng khừng triết lý nầy cùng trang lứa với tụi mình, cũng giày saut áo trận từng ngày trong vòng quay của cuộc chiến. Tao còn nhớ vì biết mày thích mấy câu thơ nầy lắm và thường hay nghêu ngao trong những dịp uống rượu với bạn bè. Vì thích thú nên mày mới ôm nguyên phố chợ Sông Mao của tác giả mang về đặt ở Nha Trang của mày để dễ dàng phá phách chơi. Có phải vì vậy mà Nha Trang giận mày không Các ?


Các thân,


BM

Mùa Thu ở vùng Tây Bắc Hoa Kỳ, nếu không mưa sẽ có những ngày sương mù dày đặc, nó gợi nhớ hình ảnh Đà Lạt của tụi mình một thời đã qua. Mà lạ thật đó Các, cái thành phố Seattle dễ thương ở miền Tây Bắc được thiên hạ gọi là thành phố Ngọc Bích với nhiều đồi cao, lũng thấp, sương mù phủ kín, sao giống Đà Lạt của tụi mình quá đỗi. Những ngày mưa gió ở đây lại gợi nhớ những chiều hành quân, những đêm dạ hành ở Lào Táo, Mây Đắng, Trung Lập, Trung Hòa của Củ Chi, Trảng Bàng trên miền đất Hậu Nghĩa xa xưa. Kỷ niệm đúng là một thứ vi khuẩn gặm nhấm trí não, làm đau buốt con tim. Nhưng cuộc sống sẽ ra sao nếu không có bóng dáng kỷ niệm dù là êm ái hay khổ đau phải không Các. Nhịp đời luân chuyển rồi sẽ gọi ai, chờ ai. Thôi cũng đành tháng tháng năm năm đốt lò hương cũ để tìm bóng xưa.


Thương nhớ mày Các ơi !

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 99
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.297 seconds.