Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 194
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22679
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Sep/2024 lúc 8:45am

Đi Đâu Loanh Quanh Cho Đời Mỏi Mệt 

Con%20đường%20Hoa%20Phượng%20tuyệt%20đẹp%20ở%20Đồng%20Tháp%20-%20ALONGWALKER

Tôi và anh bạn đi men theo đường cát ven biển để đến khu chợ nhỏ. Đoạn đường nầy mọc đầy cây bông điệp xen kẻ cây bàng biển lá to tàn rộng như những cây dù. Vào mùa nầy hoa điệp nở đỏ rộ che kín cả một góc trời. Các khu nghi dưỡng sang trọng mọc san sát nhau, du khách tấp nập dập dìu, tây đầm trẻ trung khỏe mạnh, tụi nó ăn cái gì không biết, sao mà đẹp quá trời.  Còn tôi và bạn là hai ông già, phải nói cho rõ hơn là già khằn, già ngắc già ngơ, mặc quần cụt ở trần nên thấy cả chưn cẳng ốm o như hai ống điếu, da dẻ nhăn nheo, cũng may là đầu đội nón, mình quấn khăn kín bưng, người ngoài nhìn khó mà biết được tuổi tác cùng những nét xấu xí già nua. Cứ tới mỗi hè dù đã đi chơi ở bất cứ nơi đâu thì tôi và bạn cũng dành một tuần để đến bãi biển xứ nầy để nghỉ ngơi thư giản, phơi cái gì được thì phơi... Phải lợi dụng mùa hè rực rỡ nơi đây kiếm được nắng ấm chút nào hay chút nấy, chớ cái xứ Canada của tôi thì chỉ có tuyết trắng xóa quanh năm, lạnh lẽo teo ruột teo gan, làm sao dám mặc quần áo mong manh mà ra phơi nắng, bạn ơi!

Nói thêm một chút là chúng tôi tôi tổ chức đi chơi chung gồm một nhóm bạn chừng trên một chục đủ đầu. Có nam có nữ, có trẻ có già. Mỗi khu du lịch có nhiều phòng cho du khách thuê. Giá cả mỗi phòng có hai giường dành cho hai người cư ngụ chung. Nếu ở một mình thì cũng phải chịu giá cao đó. Đó là lý do tại sao năm nào cũng vậy, tôi và ông bạn già, tuy khác Viện Dưỡng Lão, nhưng cả hai đều độc thân, chung nhau giữ lấy một phòng ở khu du lịch nầy, tiền phòng rẻ hơn được một chút, đỡ được chút nào hay chút nấy, tại ai biểu... nghèo mà ham.

Đường càng lúc càng quanh co, có lúc đi sát bãi nước, cát trắng xóa, nước xanh rờn, sóng vổ chập chùng, có lúc vách đá đồ sộ với nhiều hình thù kỳ quái. Phong cảnh đẹp như tranh vẽ, tôi nhìn ngắm mê man. Anh bạn không biết có sở thích ngắm cảnh như tôi không, nhưng thấy anh hăm hở những bước đi lẹ làng. Len qua khu du lịch nầy, xuyên qua khu du lịch kế bên và đi miết, không nghe anh nói một tiếng nào. Tôi cũng không đoán được anh nghĩ gì trong đầu, lệt bệt cố theo sau, mệt muốn nín thở, tuy tôi nhỏ hơn anh gần chục tuổi... Coi già vậy chớ anh còn khỏe hơn tôi, ra biển còn lội được và lội rất xa. Khi xuống nước thì tôi quơ quơ đập tay vài cái, sau đó đứng thở dốc, rồi quay sang nhìn ngắm mấy con đầm non...

Cuối cùng thì hai anh em cũng tới khu chợ trời.  Nói là chợ chớ thiệt ra là một khu đất trống dưới những tàn cây xanh, loe hoe chừng chục cửa hàng được dựng tạm bợ, bán các vật dụng khăn, nón, áo, túi xách cùng các món đồ kỷ niệm địa phương cho du khách, màu sắc sặc sở. Nhìn sơ qua, thiệt tình tôi không biết nên mua món gì. Giá cả thì khá cao, còn hàng hóa thì dáng vẻ đơn sơ và bình dân, không có một nét nghệ thuật nào ráo trọi. Không phải mình tôi mà các du khách khác cũng khá thờ ơ... Tuy vậy, anh bạn tôi thì khác. Anh vào một cửa hàng và hăm hở lựa món nầy chọn món kia. Tôi cũng theo vào trong cho đỡ nắng nóng, không để ý bất cứ chuyện mua bán ra sao. Sau khi lựa chọn, anh đã mua một món trong đống đồ vật ngổn ngang trên mặt bàn. Bận về, đoạn đường có vẻ ngắn hơn hai anh em đi thật lẹ. Anh ôm xách kỹ lưỡng món quà được gói ghém kỹ bằng giấy có hình bông hoa xanh đỏ.  Giờ nầy nắng nóng như đổ lửa, nắng nóng trên đầu và nắng phỏng dưới chưn. Hải đảo như bị bỏ vô lò nướng mà hấp, hai anh em tôi mồ hôi đã tươm ra khắp người.

Sau khi cơm nước xong xuôi trở về phòng, anh mở bao giấy ra và cầm món quà lên ngắm nghía. Đến lúc nầy thì tôi mới biết anh mua cặp chim có cặp mỏ vàng được đục đẽo chạm trỗ bằng cây, thân chim được sơn xanh, sơn đỏ, đậu trên một cành cây màu nâu. Hai con chim trống mái châu đầu vào nhau ríu rít, dáng vẻ thương yêu, âu yếm nhau. Hình ảnh hai con chim sao mà dễ thương đến vậy!  Trời, anh bạn tôi năm đó cũng đã trên tám chục cộng thêm năm, sáu năm tuổi nữa, bỗng dưng thích chơi chim. Coi bộ anh vui và nằm dài trên giường, ngắm nghía hồi lâu đôi chim tha thiết lắm. Ngộ thiệt, anh bạn tôi bỗng dưng yêu đời hết biết. Nếu cho tôi cặp chim nầy thì tôi không biết làm gì, đem về nhà chưng ở đâu. Tôi nghĩ thầm trong đầu, nếu phải mua tôi sẽ mua một tượng người thổ dân da đen hoặc cái kim tự tháp xứ nầy nặn bằng đất nung.  Rõ ràng là mỗi người một ý, một sở thích, không ai giống ai.  Miễn sao vui là được. Thấy anh bạn vui thì tôi cũng vui lây.

Sáng hôm sau vừa thức dậy thì bỗng chợt anh bạn đề nghị:
- Anh em mình sáng nay đi chợ trời.
Tôi ngạc nhiên hỏi lai:
- Đi chợ trời nữa làm chi, mới đi hôm qua mà?
Anh nhẹ nhàng trả lời:
- Tôi muốn mua thêm con chim.
Tôi trố mắt:
– Anh đã mua rồi, mua thêm chi nữa.

Thiệt tình tôi không hiểu, con chim đó đâu có quí báu gì, mua thêm nữa để làm gì. Một con kiếm chỗ để chưng đã mệt rồi, thêm một con nữa rồi để đâu, cái phòng trong Viện Dưỡng Lão nhỏ xíu. Trong đầu tôi bây giờ chỉ muốn đi ăn, rồi ra biển tắm. Chỉ còn vài ngày là hết một tuần lễ nghỉ ngơi ở hải đảo phương xa nầy.
Anh từ tốn nhẹ nhàng giải thích:
- Tôi muốn mua thêm một cặp nữa để tặng cho bà bạn bác sĩ mới quen, còn cặp nầy thì để đầu giường. Bên phòng tôi một cặp, bên phòng bả một cặp... cho giống nhau.

À, hiểu rồi, hiểu rồi, ai cũng khen tôi thông minh nhạy bén, vậy mà chuyện hấp dẫn như vầy lại đoán không ra. Yêu đương là phải như vậy, như vậy.  Thi sĩ Vũ Hoàng Chương có lần đã nói “Yêu nhau ai tính tuổi bao giờ”. Mừng cho ông bạn già của tôi. Vui thiệt là vui. Bạn nào đã nói mấy ông già, bà già hổng có tình yêu thì nên suy nghĩ lại nghen.
- Ồ, vậy thì đi sớm sớm một chút, anh em mình đi trễ như hôm qua nắng nóng quá...
***

Năm sau, tôi lại đi nghỉ hè như thường lệ. Nhưng căn phòng tôi mướn rộng rinh chỉ ở có một mình. Ông bạn già quen thuộc đi phương trời nào không thấy. Tôi lo lắng và nhớ bạn, bèn hỏi anh trưởng nhóm tổ chức:
- Bạn tôi đâu rồi sao không thấy, chuyến nầy ảnh không đi hay có bịnh hoạn gì?  
Anh trưởng nhóm cười cười, trả lời ngay:
- Ảnh đâu có bịnh gì nhưng bận lắm vì suốt ngày... phải đẩy xe lăn cho bà bạn hàng xóm mới quen.

VÕ KỲ ĐIỀN

Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 12/Sep/2024 lúc 8:59am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22679
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 16/Sep/2024 lúc 8:09am

Người Chạy Xe Ôm Bến Ninh Kiều 


Khoảng gần ba giờ chiều tôi rời khách sạn Ninh Kiều, cuối đường Hai Bà Trưng, nhìn ra sông Cần Thơ. Trời hanh nóng và đứng gió. Giấc ngủ trưa dài sau bữa ăn trễ, khiến tôi tỉnh táo và phấn chấn hẳn lên. Hãy còn sớm, hai giờ nữa tôi mới có hẹn với bà xã và mấy đứa cháu ở nhà hàng Hoa Sứ. Thời gian đủ để tôi dạo chơi và ghé chợ Cần Thơ tìm mua một vài thứ đồ lưu niệm. Bà xã thì trưa nay đã theo mấy đứa cháu gái đi “làm đẹp”: làm tóc gội đầu, móng tay và cả m***age. Nghe nói những loại dịch vụ này gần đây rất phổ biến và giá cả rất “mềm”, các bà tha hồ mà chăm sóc mặt mày, tóc da. Vài cơn gió nhẹ mang theo hơi nước từ dòng sông thổi dọc theo công viên thật dễ chịu. Bến Ninh Kiều ngày nay thật khang trang và đẹp. Đi dọc mé sông, từ đây tôi có thể nhìn thấy chiếc cầu treo Cần Thơ sừng sững, hiện đại. Phía trước khách sạn là nhà hàng nổi và không xa là chiếc du thuyền nhà hàng lộng lẫy về đêm. Du khách vừa ăn tối vừa dạo cảnh quanh sông và có cả chương trình văn nghệ thật đặc sắc của miền Tây sông nước. Bến nước Ninh Kiều còn có một đội ngũ đò máy cho khách du lịch thăm viếng chợ nổi Cái Răng, những khu sinh thái nhà vườn và các cù lao, cồn vùng lân cận… Trong tiếng động của nhịp sống chung quanh tôi thấy thật gần gũi, quen thuộc nhưng cũng có chút gì đó ngập ngừng, bỡ ngỡ. Trên đường ồn ào xe máy, dưới sông rộn ràng ghe đò tạo khu công viên bến Ninh Kiều mang hình ảnh đặc trưng của một thành phố đô thị miềnTây.

Loáng thoáng đã gần bốn mươi năm, tôi trở lại nơi này. Trưa ngày mùng bốn Tết năm 1978 là lần đầu tiên tôi ghé Tây đô. Mùi hương khói tỏa, màu vàng của những chậu cúc và mai vàng vẫn còn cùng khắp những con đường. Bến đò Ninh Kiều thưa thớt, trống vắng vào mấy ngày mùng. Không khí Tết tuy trầm mặc nhưng vẫn phảng phất đâu đó cuộc sống đời thường đang trỗi dậy chung quanh. Tìm đến bến đò đi về thị xã Vị Thanh, mà tôi chưa hề biết. Địa chỉ đến của tôi chỉ là một lời dặn dò. Đúng hơn là một lời hứa tưởng chừng như vu vơ, vậy mà tôi vẫn giữ. “Làm sao để gặp lại Nguyệt?”. “Anh cứ đến bến đò Vị Thanh, Chương Thiện hỏi bất cứ ai: nhà của cô N.H. Nguyệt. Là sẽ gặp lại em thôi”. “Anh hứa sẽ đến!”. Chỉ có vậy, võn vẹn có vậy cho chuyến đi năm đó của tôi.

Người con gái có đôi mắt to tròn biết nói, tên N.H. Nguyệt, tôi làm quen trên chuyến xe qua phà Mỹ Thuận. Rồi vài năm sau mới chợt nhớ và tôi đã trên chuyến đò vượt “Mười Bốn Ngàn” kinh xáng Xà-No để tới. Một đời người có bao nuối tiếc, để một lần tôi đánh vỡ chiếc bình thủy tinh thời gian không hàn gắn lại được. Để rồi đêm nằm quạnh quẽ trong nhà nghỉ bên dòng kinh xáng, tôi cuộn tròn lòng mình sâu thẵm trong đáy mắt ai một lần gặp mặt. Căn nhà có tên người con gái tôi quen đã trở thành cửa hàng thương nghiệp. Người chung quanh cho biết cả gia đình của N.H. Nguyệt đã ra đi hơn nửa năm qua. Gió đêm thổi từ dòng kinh xáng thì thầm lời cảm ơn em, cám ơn đầm sen hồ thủy tạ nằm giữa thị xã Vị Thanh cho tôi một đời thương tưởng không nguôi.

“Ông anh đi xe ôm hông?… Tui lấy giá thiệt hữu nghị…”

Tiếng mời hỏi quanh đây, kéo tôi trở về thực tại. Tôi quay lại, người đàn ông khắc khổ đội chiếc nón vải, cười nhe cả hàng răng cái mất cái còn. Tôi chưa kịp lắc đầu từ chối, người đàn ông nói vội:

“Cả ngày ế ẩm… ông anh đi một cuốc giúp tui nghen”.

Thật là khó đoán tuổi của người chạy xe ôm. Không trẻ hơn và cũng không quá già hơn tuổi tôi, dù trên khuôn mặt anh in hằn nhiều vết nắng gió bụi đường. Mấy món đồ lưu niệm để chập tối hoặc mai mua cũng còn kịp. Nhưng nhớ lời “căn dặn” nhiều lần của bà xã, “đi đâu phải bằng taxi, nhất định không được đi xe ôm. Rất nguy hiểm”. Nếu biết tôi liều mạng, không “nghe lời” chắc chắn là bà ấy sẽ giam lỏng tôi suốt chuyến đi còn lại. Nhìn ánh mắt, khuôn mặt người đàn ông chạy xe ôm, lòng tôi lại thương cảm. Thôi đành dối vợ lần này, nhưng bây giờ thì tôi chưa biết phải đi đâu? Tôi ngập ngừng, nói thật:

“Muốn đi giúp anh… Nhưng thiệt tình tui hổng biết đi đâu?”

“À… nhìn là biết ông anh là khách du lịch. Để tui chở ông anh đi vòng quanh Cần Thơ cho biết. Tui lấy rẻ 110 thôi”.

Mắc hay rẻ tôi nào biết, chỉ gật đầu cười. Thoáng ánh vui mừng trong mắt, anh đưa tôi chiếc mũ bảo hiểm. Cũng như anh, chiếc xe không mới cũng không cũ. Người và xe cứ như hai đôi bạn dạn dày mưa nắng của thời gian.

“Tui chở ông anh đi đại lộ Hòa Bình, qua tòa nhà ủy ban nhân dân tỉnh, công viên Lưu Hữu Phước. Lòng vòng đường Lý Tự Trọng, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Đình Chiểu… rồi mình qua khu dân cư Hưng Phú, nam đô thị mới của thành phố Cần Thơ… cho biết”.

“Dạ… Anh cứ chạy tới chỗ nào đẹp, nổi tiếng của Cần Thơ là được… Anh chạy xe ôm lâu chưa dzậy? Vợ con, gia đình anh ở đâu?”. Tôi bắt chuyện, khi chiếc xe ôm rời khỏi bến Ninh Kiều.

“Chạy xe ôm cũng tầm 10 năm rồi ông anh. Nhà cửa tui ở bên kia Xóm Chài. Hai vợ chồng tui có ba đứa, hai gái một trai. Tụi nó lớn hết rồi…”


Rồi anh chuyển qua giới thiệu cảnh quang hai bên đường. Thành phố Cần Thơ như khoắc lên người chiếc áo mới, vừa lộng lẫy lại vừa vừa lem nhem đến lạ lùng. Những con đường chen chúc con người, xe cộ ngột ngạt mà hầu hết là thế hệ trẻ, dưới tuổi bốn mươi. Chạy lòng vòng một lúc, khi qua khỏi công viên Lưu Hữu Phước, hướng về ty bưu điện thì trời đang nắng bỗng lất phất mưa. Anh hỏi tôi có cần áo mưa không, sẽ dừng lại. Tôi nói không cần, nhưng cảm thấy chừng như anh run nhè nhẹ và sôi bụng. Anh đang đói hoặc ăn quá ít bữa trưa? Nói anh ghé vào quán ăn nào đó dọc đường, tôi làm như mình cũng đói và tìm chút gì lót dạ. Anh liền cho xe vào con đường nhỏ (hình như là Ngô Văn Sở) có nhiều hàng quán dọc bên đường. Tôi mời anh vào ăn chung cho vui, có bạn.

Một dĩa cơm thịt nướng bì trứng và chén canh cải ngọt cho anh, tô bún nước lèo cho tôi. Lúc này thì không còn e ngại nữa, anh ăn thật ngon lành. Tôi nhìn anh rõ hơn, ốm cao và ngoài hàm răng chiếc còn chiếc mất, khuôn mặt anh rắn rỏi đường nét. Tóc nhiều cứng dợn cao, đôi mắt sâu dù có mờ sương gió vẫn còn đó nét sáng rạng chập chùng. Tôi nghĩ, lúc còn trẻ chắc chắn anh rất sáng sủa, đẹp trai.

“Rồi vợ con anh làm gì? Mấy cháu có gia đình con cái gì chưa anh?”

“Vợ tui trước làm phụ nấu cho nhà hàng, lương cũng khá lắm. Có lần qua phà vấp té, bể xương hông chậu, nay bả đi đưng khó khăn nên nghỉ làm”!

Bên ngoài trời đổ cơn mưa lớn… Anh xuất thân con nhà nghèo ở Xóm Chài, năm lớp 10 phải nghỉ học đi làm phụ giúp gia đình. Gặp chị, vừa đẹp vừa là con gái nhà buôn bán khá giả ở Phụng Hiệp. Hai người yêu nhau thắm thiết. Ba má chị ngăn cấm vì thấy anh nghèo, không tương lai. Nhưng chị quyết tâm một lòng yêu thương anh, về làm dâu Xóm Chài mặc cho gia đình quay lưng từ bỏ… Giọng anh kể ngập ngừng, khó nhọc.

“Tui làm mọi nghề, đụng đâu làm đó. Đến nay vẫn chưa lo cho bả được một lần ăn ngon mặc đẹp. Nói thiệt với ông anh, nhiều khi tui hổng dám về nhà nhìn mặt vợ con”.


Tôi thấy đôi mắt anh đượm buồn, sũng nước. Ly trà đá trong tay anh cũng run nhẹ. “Thấy tui làm quần quật, bả đòi đi làm nhưng cả nhà đều cản. Sợ có chuyện lần nữa, tiền đâu lo thuốc thang… Tháng trước bả nhận đan giỏ bện lục-bình tại nhà. Hổng bao nhiêu tiền nhưng cũng đở tù túng tay chân…”, mắt anh Nhân (tên anh) dù buồn nhưng tràn ngập yêu thương mỗi lần nhắc đến vợ. Không hiểu sao, tôi muốn được nắm tay và ôm anh với lòng ngưỡng mộ. Có lẽ đã lâu lắm rồi tôi mới nhìn thấy được ánh mắt, được tấm chân tình của tình yêu. Tình yêu thật đẹp và quý giá có thật, đang hiệu hữu trước mặt tôi, của người chạy xe ôm ở bến Ninh Kiều.

“Thằng con trai lớn làm thợ hồ chánh công trường, lương hướng rất khá. Mấy năm trước bị đá đè, gãy một chân mặt. May mà người ta thương, vẫn còn cho nó làm bảo vệ. Lương ít ỏi nhưng vẫn hơn thất nghiệp nằm nhà”.

Sợ anh chạnh lòng nhiều hơn, tôi hỏi lãng sang chuyện khác: “mỗi ngày chạy xe ôm anh kiếm được bao nhiêu?”. “Thời taxi đầy đường, trừ xăng dầu tiền bến kiếm được sáu, bảy chục là mừng. Nhằm bữa ế ẩm, chạy xe không còn lỗ cả tiền xăng…”, anh cho biết. Lúc trước anh còn ráng chạy thêm ban đêm, nhưng mấy tháng trở lại đây hổng dám nữa vì nạn cướp bóc hoành hành. Nhiều bạn chạy xe ôm ban đêm, mất tiền mất xe và đôi khi mất cả luôn mạng. Rồi anh tâm sự tiếp về hoàn cảnh gia đình mình:

“Đứa con gái kế làm công nhân ở Bình Dương, đủ ăn đủ mặc. Lâu lâu cũng gửi dzề vợ chồng tụi chút đỉnh. Còn con út tui thì lấy chồng xa… Được cái, mấy đứa nó thương vợ chồng tui lắm…”

Bên ngoài trời cũng bớt mưa, tôi hỏi anh thức ăn ở đây có ngon không? Anh cười, “cơm chỗ này là nhứt rồi”! Tôi gọi thêm 3 phần cơm để anh mang về. Anh ngại ngùng từ chối, rồi cũng nhận với lời lúng túng cám ơn.

“Chắc ông anh là Việt kiều phải hông?”

“Hông… tui là dân buôn bán trà ở Đà Lạt”, tôi đành phải nói dối anh cho qua chuyện. Điện thoại di động của tôi rung liên hồi trong túi. Chắc bà xã đang gọi, gần năm giờ rồi. Tôi nói anh Nhân chở tôi trở lại bến Ninh Kiều. Trên đường về anh trầm ngâm và ít nói hơn. Sau cơn mưa không khí những đường phố Cần Thơ trở nên dễ chịu và thơm mùi đất mới. Có lẽ cũng như tôi, anh đang cố sắp xếp lại câu chuyện anh và tôi gặp gỡ, để về kể lại cho vợ con nghe. Rồi chừng như tôi cũng ngồi im lặng phía sau không biết nói gì thêm. Chiếc xe ôm chạy rong ruổi trên những mặt đường, còn tôi và anh đang bên nhau chạy mênh mông trên những mặt đời nghiệt ngã.


Tôi nhắc anh để tôi xuống hơi xa khách sạn, phòng khi bà xã bất ngờ bắt gặp. “Ông anh cho bao nhiêu cũng được… Hổng cần trả cũng hổng sao…”, anh nói lí nhí khi tôi đưa lại chiếc mũ bảo hiểm. Tôi nhìn anh cười nhẹ, rồi móc túi quần gom hết món tiền bà xã đưa tôi dằn túi nhét trọn vào tay anh, “anh Nhân nhớ lấy tiền mua cho chị nhà vài bộ đồ mới cho đẹp nghen”! Anh nhìn tôi ngẩn người. Không để anh khó xữ, tôi định quay đi, thì nghe anh nói nhanh:

“Dạ, cảm ơn ông anh thiệt nhiều. Nhưng chắc hổng dám lấy tiền mua quần áo đẹp cho bả được đâu..!”. Giọng anh nghèn nghẹn, xót xa: “Đứa con gái út, tui nói nó lấy chồng xa… Thiệt ra nó đi lấy chồng Đài Loan, rồi chết vì tai nạn giao thông bên đó. Vợ chồng tui phải chắt mót dành dụm, để trả nợ số tiền mang hài cốt nó về nhà mấy tháng trước…”

Tôi khựng người, chợt nghe trái tim mình như đang bị ai bóp nghẹn. Không dám quay lại nhìn anh, tôi cố bước chân đi thẳng và thấy lòa nhòa công viên màu nắng tắt. Số phận đời người sao cứ như cơn gió thoảng vô tình…

Rồi anh sẽ qua chiếc phà về bên kia Xóm Chài, với cuộc đời mỏi mòn còn lại. Rồi tôi sẽ trở về bên kia xứ lạ, một đời đầy vơi kiếp sống tha hương. Anh có thể quên tôi, một người khách trên chuyến xe ôm giữa muôn vàn dòng người tất bật. Nhưng chắc chắn tôi sẽ không thể quên anh, chuyến xe chở cả một trái tim sâu thẳm, một cuộc đời có thật của người đàn ông chạy xe ôm ở bến Ninh Kiều. Buổi chiều như một nốt nhạc trầm buồn, chảy vàng vọt trên dòng sông quê hương tôi muôn thuở…”


Nguyễn Vĩnh Long
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22679
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 17/Sep/2024 lúc 9:14am

NHỮNG MÙA TRUNG THU


Trung%20thu%20ở%20Tây%20Ninh%20-%20Báo%20Tây%20Ninh%20Online

Em ra đời mùa thu năm 1970, vào ngày rằm tháng tám Âm lịch. Đem so với ngày dương lịch đúng y chang trong tờ giấy khai sanh của em. Mẹ thường kể cho cả nhà nghe, vào những lúc vui vẻ, hạnh phúc hay là ngày mừng sinh nhựt của em, mẹ thường bảo:

-  Nằm trong nhà bảo sanh mẹ nghe tiếng hò, tiếng hát, tiếng reo vui rộn rã của thiếu nhi cùng tiếng phèng la, tiếng chiên trống múa lân của đoàn dâng cộ đèn mừng Tết Trung Thu, hay Tết Nhi Đồng của nước ta thuở đó, vào thời Việt Nam Cộng Hòa. Theo lẽ mẹ đặt cho con cái tên là Thu, là Nguyệt, là Hằng, là Nga, là Thu Nga, là Thu Hằng, là Nguyệt Thu hay Thu Nguyệt… Mới đúng nghĩa với ngày sanh tháng đẻ của con gái mẹ. Nhưng lần về thăm đâu hai tháng trước khi con chào đời, lúc ra đi, ba đưa cho mẹ phong thư, bảo chừng nào làm khai sanh thì dở ra mà xem... Trong thư, ba đã đặt cho con cái tên rồi!

Mẹ em chép miệng trầm ngâm một hồi, tiếp:

-  Quê hương mình chinh chiến triền miên. Ba con theo đơn vị đóng quân mãi ở miệt rừng U Minh Thượng, U Minh Hạ… tận Cà Mau lận. Tội nghiệp ba, biết khoảng giữa tháng đó đứa con đầu lòng chào đời, mà ông hằng mong đợi nhưng vẫn không ở nhà được, để nghe “Con khóc oa, oa… khi lọt lòng mẹ. Còn ông bà, họ hàng thì cười tươi vui mừng đón con…” 

Em lớn khôn dần trong vòng tay mẹ, tình thương yêu vô bờ của hai đấng sanh thành. Ba em làm lính chiến luôn xa nhà, cả trong những mùa Trung Thu là ngày ra đời con gái cưng của mình, mà ông cũng ít khi có dịp về nhà vui với vợ con...

Rồi mùa Trung Thu năm em vào học lớp Năm (lớp một) của trường nữ Tiểu học Trưng Vương. Đó là ngôi trường nữ, hai tầng có vách tường, mái ngói màu gạch tôm, khang trang nằm trên đường ông bà Nguyễn Trung Long (Mỹ Tho). Đường nầy đi ra bến bắc Rạch Miễu qua sông có nhiều cồn nhỏ, cồn lớn… cồn Ông Đạo Dừa, rồi đi về tỉnh Bến Tre...

Địa phận tỉnh Định Tường có Thành phố Mỹ Tho, nổi tiếng hiền hòa nằm mơ màng trên nhánh của dòng sông Cửu Long… Mà những câu hò, câu hát bình dân khen ngợi ở nhiều khía cạnh nào đó về thành phố thanh bình và êm ả nầy: “Mỹ Tho đẹp lắm, đi tắm Cầu Dầu/ Anh hỏi em đang ở nơi đâu? Để cha mẹ anh đến cau trầu cưới em…” Hoặc: “Mỹ Tho có kẹo hột điều/ Có cô thôn nữ mỹ miều dễ thương/ Ai về Chợ Cũ, Trung Lương/ Hồng đào chín mộng, có đường mạch nha/ Đêm thu đẹp ánh trăng ngà/ Mái chèo dưa đẩy qua nhà thăm em…” Và miệng truyền miệng trong dân gian: “Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ/ Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu/ Anh về học lấy chữ nhu/ Chín trăng em đợi, mười thu em chờ…”  

Ở xứ mình, thường tiệm buôn bán trong các chợ, chủ nhà ở phía sau, hoặc trên lầu, còn phía trước, mặt tiền thì bày hàng để buôn bán. 

Mỗi năm, cứ vào cuối tháng sáu, đầu tháng bảy Âm lịch là thành phố Mỹ Tho trong các cửa tiệm thấy rõ rệt màu sắc tươi vui rộn ràng. Bởi các dãy phố tiệm ở chợ gần như đều trưng bày bán các loại bánh Trung Thu. Họ còn treo bán đầy đủ các loại lồng đèn giấy màu sặc sỡ, có vẽ thêm hoa, bướm hoặc những nét đặc biệt lên hình dáng mỗi thứ lồng đèn như: Đèn kéo quân, đèn cá chép, đèn con rồng, đèn ngôi sao, đèn máy bay, đèn xe tăng, thiết giáp, đèn tàu, đèn chuồn chuồn, đèn trái bí, đèn xếp…

Bánh trung thu thập cẩm có bốn trứng, ba trứng, hai trứng, một trứng hột vịt muối để trong nhưn có lạp xưởng, thịt khô, vi cá… đó là những bánh mặn. Còn bánh trung thu thập cẩm chay không có thịt và hột vịt, bánh nhưn đậu đỏ, nhưn mứt… cùng bánh dẻo nhưn hột sen, nhưn đậu xanh… 

Riêng em thích nhứt vẫn là bánh ông Địa. Chắc là bánh có hình dáng như ông Địa trên bàn thờ nên gọị là bánh ông Địa? Trên đầu bánh có sợi chỉ đỏ dài để xách trên tay, để đeo vào cổ. Bánh ông địa ăn ngọt, giòn thơm mùi trái vị, ngũ vị hương, mùi quế… rất đặc biệt!

Trong dãy phố công chức ở ngã ba đường Nguyễn Trãi và đường ô. bà Nguyễn Trung Long, có nhà của gia đình em. Vào tối mười ba, mười bốn, rằm tháng tám là trẻ con đốt lồng đèn cầm tay chạy chơi quanh xóm. Nhà nhà treo lồng đèn trong nhà ngoài ngõ, hương khói nhang, mùi bánh trung thu thơm tho cúng ở bàn thờ Ông Thiên, cùng mùi trà Tàu, hoa, quả… thơm lừng phảng phất trong gió thoảng bay. 

Em vui vẻ tung tăng chạy nhảy, theo đuôi các bạn quanh quẩn trước sân của năm bảy căn nhà quen biết gần bên, ở trong xóm chớ không dám đi xa hơn. Vì mẹ đã căn dặn em từ mấy ngày trước:

-  Tối con được đốt lồng đèn chơi trong vài nhà gần, để khi mẹ gọi thì nghe mà lên tiếng… Không được đi xa, mẹ gọi không có tiếng trả lời của con mẹ sẽ lo, thì sẽ có đòn nghe chưa...

Em vâng dạ nghe lời, vì không phải mẹ em không có lý do… Bởi gần đây giặc giã càng sôi động… Đêm đêm Việt cộng thường pháo kích ầm ầm vào thành phố… Đạn pháo vô tình tàn phá nhà cửa, thây phơi, máu đổ… khiến sanh linh đồ thán, trời sầu, đất thảm. Và từ đó tuổi thơ em cũng sớm nhuốm màu chinh chiến đau thương!


Đã hai mùa Trung Thu rồi, bận rộn ba em không về! Vì đoàn quân ba em trấn giữ, chặn thù… khi ở Vị Thanh, Cờ Đỏ (một địa danh ở mền Tây), khi Tịnh Biên, Đồng Tháp Mười nơi nổi tiếng “đỉa lội như bánh canh”. Còn thường trực ở chỗ có “muỗi kêu như sáo thổi” và nhiều con vắt… Đó là rừng U Minh Thượng, U Minh Hạ (ở Cà Mau) Bởi ba em là lính chiến thuộc Sư Đoàn 21/BB, còn có biệt danh nghe hay và oai hùng lắm là Sét Miền Tây đó mà. 

Hôm nay, vài ngày rằm tháng Tám “Mùa Trung Thu, Tết nhi đồng” của chúng em. Khi trời nhá nhem chạng vạng thì phố xá đã lên đèn… Tiếng hát vang vang rền vọng, tiếng chiên trống lân giục giã trên các nẻo đường của thành phố, làm lòng dạ em nôn nao, náo nức, rồi em cũng nhãy lưng tưng, hát líu lo bài ca về Trung Thu như mấy đứa nhỏ nhà kế bên… 

Mấy đứa cùng xóm đến trước hàng rào nhà, rủ rê em nhập bọn đi dâng cộ đèn, hoặc cầm đèn qua nhà chúng chơi. Nhưng nghe lời má dặn, và nhớ ba khiến em muốn khóc quá! Em lắc đầu xua tay nguầy nguậy có ý bảo với chúng là em không đi đâu. 

Ba em đang dãi dầu ngoài trận tuyến! Với những người lính chiến như ba thì làm sao có ngày lễ. Cho dù là lễ Tết hay phép thường niên cũng vậy, ít khi được như ý… Ba em chợt đi, chợt đến bất ngờ ghé thăm nhà chớ không hẹn trước khi nào sẽ trở về. 

Đêm nay các nhà trong xóm đều đốt lồng đèn trước cửa. Hương trầm, bánh, trái, hòa với mùi thơm của nước trà Quam Âm Kỳ Chưởng… Nhà nhà ấm cúng mừng đón Trung Thu. Riêng nhà em lạnh lẽo vắng vẻ buồn tênh, má không đốt đèn ở sân trước dù là đèn điện có bóng tròn nhỏ. 

Chiều đi học về sau khi ăn cơm, má còn căn dặn em:

-  Con ra sân đốt lồng đèn chơi một mình, đừng đi đâu nghe. Nhà mình ba không về, nên đêm nay không có mừng Trung Thu. Ít bữa ba về mình sẽ ăn Trung Thu muộn, nghe con…

Em cầm lồng đèn đi tới đi lui trong sân nhà với chú mèo tam thể, “meo, meo…” tiếng kêu, quấn quít bên chân em. Gió hiu hiu mát rượi, đưa đẩy cây lệ liễu hông nhà, làm những cành lá tha thướt lay động lồng bóng trăng tròn in trên sân. Trăng thu đêm nay rực rỡ tỏa ánh sáng thanh thoát xuống muôn loài trên trần thế, nhẹ nhàng êm ả...

Em nghe trẻ hàng xóm hát những bài Trung Thu: “…Đêm Trung Thu em đốt đèn đi chơi… Em đốt đèn đi khắp phố phường… Đèn Ông Sao với đèn cá chép, đèn thiên nga với đèn trái bí…” 

Và em còn nghe anh chị con nhỏ Bạch Nhạn nhà bên cạnh hát ca... khiến em ganh tị thấy mắc ghét lắm! Em cũng biết hát vậy chớ bộ! Em liền rống họng, cất tiếng hát lanh lảnh, vang vang... cố tình cho tụi nó ngán chơi: 

“Hôm nay đêm rằm, rằm là rằm tháng Tám? Ông Trăng kia đã lên cao rồi ông nhìn chúng em ông tủm tỉm cười! Ông Trăng ơi, nầy ông Trăng ơi, xuống đây với chúng em cùng vui chơi! Ông Trăng ơi nầy ông Trăng ơi, Xuống đây chúng ta cùng ca hát vang trời… Có chi nữa không? Có trống ếch cà lùng tùng xèng… Có chi nữa không?  Có bánh ngọt thơm phưng phức… Có chi nữa không? Có những đèn Trung Thu ở miền Nam tự do, ấm no hạnh phúc… ông Trăng ơi! Ông Trăng ơi, xuống đây với chúng em cùng vui chơi… Xuống đây chúng ta cùng ca hát vang trời… ông Trăng ơi… nầy ông Trăng ơi, ơi…”

Tiếng vỗ tay lớn và nhanh, làm em ngạc nhiên quá đỗi! Mèn ơi, ai mà vỗ tay khen tặng em dữ vậy cà? Chắc chị anh mấy con nhỏ hàng xóm chớ gì? Chớ tụi nó thì còn khuya à, chúng nó ganh tị chẳng thèm nghe em hát, thiếu điều muốn bịt hai cái lỗ tai lại nữa kìa, chớ ở đó mà chúng vỗ tay khen em hát bao giờ… Nhưng chao ôi, sừng sững lồng dưới ánh trăng rằm lộng lẫy! Người lính chiến hiên ngang, oai phong đứng đó! Ông mặc bộ trây-di màu cỏ úa, đầu đội nón sắt, và trên thắt lưng cây súng nhỏ… Giầy sô cao ống bám bụi đường xa, mùi nắng cháy khen khét quen thuộc… ông trìu mến nhìn em mỉm miệng cười, rồi hơi khum lưng xuống, đưa hai tay đón chờ em… 

Thảy cái lồng đèn dưới sân, em phóng tới ôm chầm thật chặt lấy ba. Hôn tứ tung lên mặt, lên mũi, lên ngực, lên áo ba… Giọng em rộn ràng, vui mừng và ơi ới gọi lớn:

-  Mẹ ơi, mẹ ơi ba về! Ba về, ba về mẹ ơi… 

Trong nhà nhanh chân bước ra tới hàng ba. Mẹ nhìn hai cha con em nở nụ cười mà mắt hoen dòng lệ hạnh phúc! Thế là đèn điện nhà em được thắp sáng! Lồng đèn treo hai bên cửa trước, sân sau được ba châm lửa đốt đèn cầy. Ánh lửa dạ giấy màu, hồng, vàng, tím, xanh… tươi trẻ, vui mắt. Trong nhà mẹ lúi húi nấu nước châm trà, cắt bánh trung thu… Em vui mừng chạy qua mẹ, rồi chạy sang ba… Em ôm cổ ba, nói cười líu lo như con chim chích chòe vào buổi bình minh nắng ấm… 

Nhà em, những nhà trên trần thế được thắp sáng ánh trăng vàng thanh thoát của đêm Trung thu.


Ngày 30 tháng 4 năm 1975 miền Nam bị giặc cưỡng chiếm! Năm đó trẻ con chúng em không có lễ Trung Thu! Ba em bị bắt tù cải tạo… nhà cửa em trống trơn vì phải bán lần, bán hồi các đồ vật trong nhà… Rồi má em đi bán chợ trời… Đó là kế sinh nhai duy nhứt của mẹ con em, và chắt chiu dành dụm để dành đi thăm nuôi ba.

Những năm về sau, vào đêm rằm tháng tám không ai còn nghe tiếng hát hò, trống múa lân của đoàn dâng cộ đèn nữa. Chợ búa không có bánh trung thu bày bán tự do khắp nơi như xưa. Có chăng họ chỉ làm chui, bán lén… vì đó là mặt hàng xa xí phẩm! Thành phố em ở nhà nhà xác xao, cửa đóng then gày dưới trăng. Mặc dù ánh trăng thu vẫn sáng tỏ nhưng lòng em sao cảm thấy dìu dịu hắt hiu buồn! Những đứa nhỏ hàng xóm sống gần nhà em thưa dần, vì chúng theo gia đình về quê ngoại, quê nội, hoặc đi kinh tế mới… Và em không có đèn lồng trái bí dễ xếp cất, dễ đốt mẹ mua cho như những năm qua! 


Sau bao nhiêu năm giặc chiếm miền Nam. Là bấy nhiêu năm ba em bị giặc nhốt trong tù cải tạo! Hôm nay không định trước, mẹ dắt em đi thăm ba, lại lọt đúng vào ngày rằm của mùa Trung Thu. 

Mẹ con em vượt qua biết bao nhiêu chặng đường lồi lõm có khi đi bằng xe hơi. Có lúc lội bộ, có lúc bằng xe tàu mo, đò chèo… Khi thì mẹ gánh em ngồi trong thúng bên đầu gióng nầy, đầu gióng kia chất chồng đồ ăn, áo quần cũ, thuốc men. 

Mẹ và em đi từ một hai giờ khuya đến chiều tối ngày sau mới đến nơi! Khi đến trại tù thì đã quá giờ thăm nuôi, mẹ con em và một vài bà khác cùng cảnh ngộ cũng đi thăm nuôi chồng con. Những kẻ lỡ bước chúng em được chủ vườn ở gần trại tù (cách mấy cây số) tốt bụng cho ngủ trong trại ruộng của nhà họ. 

Tối đó, mọi người lỡ đường vùi mình vào đống cỏ khô dưới nền đất sét nứt nẻ, thiếp đi vì mệt mỏi… May mà cả đêm qua trời không mưa, nhưng gió núi tê tái lạnh lùng rung cây lá, âm thanh nghe ào ào. Hai mẹ con em nằm chèo queo một góc trong tại ruộng không vách, không phên. Em nhìn trăng qua nhiều lỗ trống không trên mái chòi. Trăng rằm lên cao, càng lên cao ánh trăng càng sáng vằng vặc. Sương khuya xuống mịt mù đỉnh núi và chập chờn trên dải đồi mờ ảo xa xa. Tiếng côn trùng về đêm, hòa cùng tiếng dế tỉ tê… Những con chim ăn đêm bay qua ẩn hiện mịt mờ, kêu oang oác trên trời cao, cùng tiếng gió hú qua đồi làm xào xạc nhành cây lá chung quanh, khiến em sợ hãi rúc vào lòng mẹ. 

Để rồi sáng dậy ra mặt, tay, chân… người nào cũng đầy vết muỗi cắn. Bầy muỗi đêm qua được ăn bữa giỗ no nê! Chúng thiệt là ác độc, nỡ đành hút máu của những kẻ lỡ đường ngủ trong trại ruộng!

Mẹ em lồm cồm ngồi dậy khi nghe vẳng tiếng gà gáy trong xóm xa… Bà sửa soạn lại túi nải chờ rạng đông đi vào trại tù thăm chồng. Bỗng bà thấy hai bóng đen lù lù xuất hiện khi mờ khi tỏ trong màn sương sớm. Càng lúc họ đến càng gần… mẹ em sợ quá gọi mấy người kia thức dậy, để cùng đối phó nếu rủi gặp kẻ xấu, hoặc chuyện không may! 

Họ càng đến gần trời cũng sáng thấy rõ hơn… Thì ra là hai người thanh niên đi giỡ bẫy chim, chuột, gà rừng… Nói chuyện một hồi thì mấy bà cùng mẹ con em vào nhà cha mẹ họ là chủ trại ruộng nầy để xin nước uống…

Mẹ em nhớ lại đã bao nhiêu năm rồi, đây là lần đầu đi thăm nuôi chồng. Biết ba đói khổ lắm mẹ liền cởi chiếc nhẫn cưới bằng vàng 18K đang đeo trên ngón tay áp út ra. Đó là di vật sau cùng của ba tặng mẹ em trong ngày đính hôn! Mẹ đem đổi lấy con gà giò (gà mới lớn nhổ lông xong, còn hơn nắm tay) và lít gạo trắng của chủ nhà… Rồi mượn nồi niu của họ làm gà rô ti và nấu nồi cơm còn nóng hổi đem cho ba em! 

Bao nhiêu năm tù tội… Đến bây giờ vợ, chồng, con mới gặp lại nhau! Má em khóc sướt mướt chẳng nói nên lời! Ba ôm em vào lòng nghẹn ngào thổn thức… Ba trông thật tiều tụy, ông ốm gầy, tay chân lỏng thỏng, mặt mày hốc hác, mắt hõm sâu, da đen chì, mét chẹt, nắng cháy nám đen… Chân tay ghẻ chốc, thẹo vít chỗ lành, chỗ lở… Ba già quá nhiều! Nếu bất ngờ gặp ngoài đường không ai nói, chắc em sẽ không nhận ra, và sẽ không tin tù nhân đó chính là cha của mình! Em xót xa thương ba vô cùng, ôm chặt ba nức nở khóc òa… 

Gần hết giờ thăm nuôi, mẹ đưa cho ba tất cả đồ đem theo, trong đó có con gà được chặt ra làm bốn và nồi cơm đầy… Ba em múc hết nồi cơm, cạo lấy luôn cơm cháy, đưa nồi không còn dính một hột để chút nữa đây trên đường về má em ghé trả lại người cho mượn. Ba lấy hai cục thịt gà (nửa con) đưa cho má và em. Mắt u buồn và lệ hoen mi, ông nhẹ giọng bảo:

-  Em và con đem theo ăn trên đường về. Chắc con và em đói khổ lắm? Thôi mẹ con về đi, anh sẽ giữ gìn sức khỏe. Đường quá xa xôi, khó khăn đừng… đừng có lên thăm nữa! 

Mẹ em nước mắt dâng tròng, lật đật lấy gà để trở vào gói cho ba, mếu máo nói:

-  Ở nhà không gì vất vả cả, chỉ lo cho anh thôi. Anh đem gà vào ăn đi. Mẹ con em tới bến xe sẽ mua ăn, thiếu gì đồ ăn họ bán…

Dáng ba thất thểu đi vào trại tù… Và cửa tù từ từ kéo đóng lại! Mẹ em nát dạ tan lòng đứng nhìn theo, rồi lủi thủi dắt con ra về. Vừa đi bà vừa lau dòng lệ đau thương lã chã chảy dài xuống má, còn em nước mắt cũng trào tuôn… Đường về nhà em còn xa xôi lắm, lại gặp cơn nắng cháy, mưa sa! Hai mẹ con không ai nói với ai lời nào, mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng của mình… Trong đầu óc thơ ngây bé nhỏ của em lúc bấy giờ! 

Ba em ngày xưa là sinh viên, bởi “Đất nước lâm nguy/ Thất phu hữu trách” nên học nửa chừng thì vào quân ngũ. Ba em có giành dân lấn đất hay cướp giựt của ai đâu! Vậy thì ba em có tội tình gì, phải chăng tội ông làm bổn phận người trai trong thời loạn vì an nguy của gia đình và bảo toàn lãnh thổ? Giờ đây họ bắt nhốt trong tù nơi xa xôi hiểm trở? Để ba em và đồng đội đau không thuốc uống, đói không có ăn, lạnh không đủ ấm! Lại bị nhốt trong vùng hoang dã đìu hiu đi cả ngày không thấy bóng người như thế nầy... 

Đi gần đến tối mà mẹ con vẫn chưa đến nhà. Giờ đây em vừa khát và mỏi mệt cả tứ chi, và đói bụng lắm! Mẹ chép miệng bảo:

-  Ráng nhịn về nhà sẽ có đồ ăn, vì mẹ chỉ còn đủ tiền để đi xe thôi. Lúc nãy mẹ định bới cơm cho ba, còn miếng cơm cháy mẹ con ăn cho đỡ dạ trên đường về. Nhưng thấy ba vét sạch nồi cơm nên mẹ làm thinh! Tội nghiệp ba ở trong tù đói khát nhọc nhằn lắm con ơi…

Nói đến đó, mẹ em nghẹn lời sụt sùi dòng lệ khổ! Về đến nhà, em không sao ngủ được. Hoàn cảnh trại tù, ba em và đồng đội của ông bị hành hạ đọa đày cứ lởn vởn trong đầu óc thơ dại của em. Từ đó nỗi hờn oán nhen nhúm ngày càng lớn trong tâm hồn: “Em sẽ không bao giờ! Phải, không bao giờ quên, và không bao giờ tha thứ cho những kẻ đã đày đọa ba, cùng  những đồng đội của ba em…”


Vào rằm tháng Tám năm sau, em thẫn thờ ngồi bên cửa sổ vò võ nhìn bầu trời cao rộng, trong sáng ánh trăng thu! Và con mèo tam thể dễ thương đó, vẫn cào, kéo lai quần em. Nó chạy nhảy tung tăng, kêu “meo, meo…” giỡn trăng như để làm vui lòng cô chủ nhỏ. Thấy em buồn, má cũng chẳng vui gì hơn! Một lúc sau, bà tìm ra cái lồng đèn trái bí mấy năm trước đã cũ mèm, giấy dán đổi màu và bị chuột cắn tưa mấy lỗ. Nhớ lại lâu lắm rồi, em đã cẩn thận nhét cái lồng đèn đó dưới chót, ở trong thùng tập vở, sách truyện, và báo cũ của ba em.

Đã mấy mùa Trung Thu qua đi, ba em vẫn chưa được thả về. Em lơ là nhìn cái lồng đèn nghe chừng xa lạ, mà cảm thấy lòng xao xác héo hắt buồn loang! Làm sao em vui được khi ba em còn bị đày nơi rừng sâu Việt Bắc, nơi nổi tiếng rừng thiêng, và nước độc! Nước độc đến nỗi, từ bờ suối bên nầy, lội qua bờ suối bên kia thì lông chân bị rụng hết! Ở đó họ chỉ uống được nước mưa... và có khi đi cả mấy tháng trời, cũng không thấy bóng sơn nhân, hay lâm nhân… 

Em lại càng xót xa đau buồn nhức nhối hơn! Mỗi khi nửa đêm trở giấc, em nghe mẹ khóc lén, khóc thầm! Thế nhân dù có buồn vui! Nhưng đêm nay trăng thu vẫn ngạo nghễ lên cao. Càng lên cao, trăng càng trải ánh sáng ngà ngọc xuống muôn loài. Gió thu vẫn nhè nhẹ man mác và mây thu vẫn bàng bạc bay bay về phương trời vô định... Những cánh chim đêm thu in chập chờn trên không gian và hối hả bay đi… Chúng như ngầm hiểu nỗi thống khổ đoạn trường của con người theo vận nước nổi trôi! Và cảm thông trời miền Nam tự do ấm no đã không còn nữa… Ôi đến cả loài chim muông mà còn biết buông tiếng kêu áo não, oán, hờn, trách, hận... đau thương!


Sau khi ba em được thả về, gia đình đùm túm theo thuyền chài vượt biển Đông! Mười mấy ngày lênh đênh trên biển cả, gió dồn, sóng dập, đói khát thảm thê. Tưởng chừng cả gia đình dìm dưới mồ huyệt lạnh của đại dương rồi… Hành trình vượt biên trùng trùng hiểm nguy thừa chết thiếu sống! Nhờ Ơn Trên, rồi gia đình em cũng trôi giạt vào Nam Dương (Indonesia) quần đảo, với những thuyền nhân chung chuyến tàu, và những chuyến tàu vượt biên khác... 

Sống lang thang từ đảo nầy qua đảo khác: Pacikata, Terrempa, Ku Ku, rồi Galang (Trung tâm tị nạn Cộng sản vùng Đông Nam Á) Tại trại tị nạn Galang, nếp sống của người tị nạn Cộng sản có quy củ và khá hơn về nhiều mặt. Nhứt là vấn đề y tế! Nơi đây có trường học dạy Anh văn, có nhà thương, có nhà thờ, có chùa… Có văn phòng Cao ủy tị nạn làm việc, để nhận người vào đệ tam Quốc Gia… Và nhiều tiệm buôn bán gia dụng nấu ăn của dân bản xứ… dần dà có quán phở, quán hủ tíu, quán nhạc, quán cà-phê, quán sinh tố…

Galang là một trong những hòn đảo đẹp của Nam Dương. Chùa được cất trên đồi cao gần các dãy trại, để dân tị nạn dễ dàng chiêm ngưỡng và cúng bái. Ngôi chùa khang trang có nhiều tượng phật cao lớn hơn người… được tàu và trực thăng chở đến… Phí tổn của ngôi chùa nầy, nghe đâu do các thương gia ở Nam Dương và Singapore góp gom để xây cất.

Sáng sớm và chiều tối nào em cũng theo ba má lên chùa. Vì trên chùa gió mát, và đôi khi em được các sư cho trái cây hoặc bánh, kẹo… của bá tánh đã cúng Phật. Ở đảo đói khát thấy mồ, em thèm đủ mọi thứ, hôm nào được các sư cho đồ ăn dư của Phật thì em mừng húm! Em nghĩ bụng đồ ăn thừa của Phật sẽ được phước đức (và má em cũng nói như vậy). 

Phía sau chùa chừng hơn trăm thước cao, phóng tầm mắt nhìn, chúng ta có thể thấy rõ bốn hướng của biển cả mênh mông vô bờ, vô tận… Và em cảm thấy tâm hồn mình dạt dào hạnh phúc mỗi lần có dịp đứng bên ba má em nhìn hoàng hôn xuống. Mặt trời chiều ráng màu đỏ nghệ có hình bầu dục như quả trứng gà, treo lơ lửng trên nền trời nhiều mây có vân ngũ sắc ở hướng tây. Nắng vàng trải trên mặt thủy triều của đại dương bao la xanh ngát một màu, và ánh nắng lung linh chấp chóa lúc mây tạnh gió yên. 

Vào những buổi sáng mờ sương, biển thanh thoát và hiền dịu vô cùng… mặt nước lăn tăn gợn sóng theo từng đợt gió đùa… Nền trời trong như ngọc, lác đác từng làn mây trắng mỏng như nằm bất động có pha những sắc màu rực rỡ do những tia nắng bắn ra từ mặt trời cao ngạo vừa nhú lên ở phương đông. Rồi sương mờ dần tan, chỉ trong chốc lác thôi… biển tịnh yên, mặt biển xanh lơ, và vầng hồng rạng rỡ cho nắng ấm... gió the the man mác lay nhẹ chòm lau, khóm đước hòa cùng lá thông reo dọc bờ biển tạo ra âm thanh êm ấm dễ chịu vô cùng… 

Hải âu xoãi cánh bàng bạc loang loáng trong ánh bình minh… “Chim én không làm thành mùa xuân/ Nhưng có chim én mùa xuân thêm phần ý nghĩa” Ở chốn hải đảo nầy, em xin nói lên thiển ý của mình rằng: “Nếu biển không có cánh hải âu thì biển cả mất đi phần thi vị”.

Có hôm dưới mái hiên chùa, em phóng tầm mắt nhìn trời biển động! Gió thổi vùn vụt, cây cối ngả nghiêng. Sấm ầm ầm, sét nổ giòn, những tia chớp sáng lòe lên rồi phụt tắt! Mưa nặng hột tầm tã ào ào. Biển nộ cuồng từng cột sóng dâng cao như muốn đảo lộn càn khôn! Thật dễ sợ cho sự nổi trận lôi đình của Thủy Long Vương trong lòng biển cả(?) Em ngồi co ro, chợt nhớ câu: “Đời không đau khổ đời vô vị/ Biển chẳng phong ba, biển chẳng hùng”. 


Thuở đó gần cuối năm 1979, đảo Galang có mấy chục ngàn người dân tị nạn Cộng sản, đại đa số là từ miền Nam Việt Nam. Họ bôn đào khi miền Nam bị Cộng sản và Việt cộng cưỡng chiếm! Nơi trại tị nạn, ba khéo tay làm cho em cái lồng đèn trái bí bằng lon nhôm coca-cola, trong mùa Trung Thu ở trên hải đảo Galang. Lon nhôm sau khi rửa sạch, lau khô, ba em kiên nhẫn dùng nhiều cục đá có cạnh nhọn, bén… Ông đục từng đường dài, nhắm sao cho ngay và đều… Ba ngồi cả ngày trời tẳn mẳn đục, chà cạnh cho hết bén… Rồi nhẹ tay bóp cho những cọng lon nhôm cong (không gãy) mà ông đã bỏ không biết bao nhiêu cái lon nhôm. Bị xuể tay, rướm máu mới làm được một cái lồng đèn trái bí, tạm vừa ý cho con gái mình! 

Chiều đến cầm lồng đèn trái bí ba làm cho, lòng em tươi vui phơi phới như hoa nở mùa xuân. Lon ton theo bọn trẻ con (tị nạn) trên đảo đi dâng cộ đèn vòng vòng trong các trại do những anh chị hướng dẫn... Ôi hải đảo phủ ánh trăng thanh thoát giữa vùng mây nước, có tiếng sóng biển bủa rạt rào, tiếng gió vi vu hòa cùng tiếng hát mừng Trung Thu vang dội, rền vọng ngút trời xanh… Của những đứa trẻ đã cùng gia đình trốn chạy khỏi vùng Cộng sản để đi tìm phương trời tự do… 

Đêm Trung Thu đó, chúng em được ăn nhiều bánh kẹo, uống nước trái cây thơm ngọt, từ các nhà hảo tâm của xứ người chở cả tàu, cả xe đến tặng. Họ còn đem cho cả lồng đèn làm đủ kiểu hình thù các con vật… được sơn phết, dán giấy, vẽ, tô đẹp đẽ, màu sắc rực rỡ, chói lộng hấp dẫn và quyến rũ vô cùng… Nhưng em không nhận đâu, bởi ba đã làm cho em lồng đèn trái bí bằng lon nhôm rồi. Em quý cái lồng đèn nầy hơn tất cả mọi lồng đèn trên thế giới, trong mùa Trung Thu. Bởi cái lồng đèn trái bí bằng lon coca làm thành đó, ngoài tốn nhiều công sức, còn là tâm ý và gói ghém cả tình cha thương con của ba em… 

Mùa Trung Thu ở trại tị nạn Cộng sản Galang, khắc ghi đậm nét trong đời, và cho em niềm nhớ không nguôi… Nó sẽ làm hành trang em mang theo trong ký ức trên khắp quãng đường lưu lạc.


Thời gian qua mau quá, mới đó mà đã mấy mươi năm ở xứ người. Ba má vất vả nuôi dưỡng chăm lo cho con học hành đỗ đạt nên người. Ngày nay em đã thành nhân, ông bà có cháu ngoại để bồng bế thương yêu, nuông chiều. Dòng thời gian thắm thoát cứ trôi mãi trôi, nay ba má em đã ngoài tám mươi! Ông bà ở tuổi “Bát thập cổ lai hy” Cái tuổi dễ bịnh hoạn, và gần đất xa trời khiến em buồn đau thắm thía trong lòng, mỗi khi nghĩ đến! Nhưng phải làm sao đây? Vì đó là định luật của tạo hóa, mà trót sanh ra làm kiếp con người thì kẻ trước, người sau không một ai tránh khỏi!

Rồi ngày đó cũng đã đến, một mất mát lớn cho gia đình! Má em đã qua đời! Giờ đây, đêm đêm em luôn nguyện cầu, xin Ơn Trên cho ba em ăn ngon, ngủ khỏe. Và em cố gắng làm mọi thứ để ba được an ổn tâm hồn, vui vẻ hạnh phúc trong thời gian ngắn ngủi của đời người còn lại bên cháu con! Dẫu biết rằng, trong cuộc đời có đầy dẫy hỉ, nộ, ái, ố… thăng trầm, dâu bể, phế hưng, nhứt là trên quê hương khốn khổ Việt Nam của em sau ngày Cộng sản và Việt cộng chiếm đóng! 

Giặc đã mang nền giáo dục (ở mọi khía cạnh, mọi phương diện) của làn sóng đỏ từ ngoài Bắc tràn vào miền Nam. Hoàn cảnh xã hội miền Bắc mấy mươi năm theo chế độ Cộng sản đã gây và ảnh hưởng tác hại mọi mặt về tâm lý, văn hóa, xã hội nhập vào đời sống. Đã thấm nhuần, và ăn sâu trong tâm hồn, trong máu huyết của con người từ trong gia đình, ra ngoài xã hội người miền Bắc. Với những điều nghịch lý, giả nhân, giả nghĩa, lừa bịp, dối gian, tính toán, tinh ma, ác hiểm… đã xẩy ra hàng ngày với cha con, anh em, bạn bè, thì nói chi đến tình nghĩa xóm chòm, hay nặng nợ với ngọn rau tấc đất, nước non… 

Vì thế, những đổ vỡ của gia đình hiếu thảo con cái, tình nghĩa vợ chồng nhan nhản xẩy ra hàng ngày trước mắt, và khắp nơi, không sao đếm cho xuể! Khuôn ngọc thước vàng từ nghìn xưa ông cha ta để lại “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” dưới chế độ Cộng sản vô thần, giờ đây đã bị thui chột, vô nghĩa hết rồi! Thì thử hỏi xã hội Việt Nam ngày nay làm sao không rối bời, và quê hương đất nước Việt Nam làm sao không nát tan, không bị chia năm xẻ bảy… Đó cũng chỉ vì lợi riêng của những kẻ cầm quyền hiến dâng, bán đất, biển... cho ngoại bang!


Hôm nay là ngày rằm tháng Tám, đã vào chánh mùa Trung Thu. Em đẩy ba ngồi trên xe lăn chầm chậm rẽ vào chợ (vì cả hai chân ba đều yếu). Vùng gia đình em tạm cư, có rất nhiều chợ Á Đông. Cả tháng nay, tiệm nào cũng bán đầy dẫy bánh trung thu. Bánh trung thu đủ loại ở địa phương, nội địa sản xuất… và bánh từ các nước khác nhập vào. Bánh trung thu nằm phơi phới trong các hộp vẽ hoa bướm màu sắc tươi trẻ rực rỡ. Các hộp đều có nắp đậy bằng kiếng, nhìn thấy rõ bánh bên trong, gợi thèm cho khách vào ra chợ.

Em nghĩ, năm nay các bánh được làm từ nước Tàu Cộng, Việt Cộng chắc hẳn ít ai dám rớ tới? Vì lợi ích riêng, họ không nghĩ đến sức khỏe của người tiêu thụ, đã dùng quá nhiều hóa chất … Ăn vào dễ, lấy ra khó, sẽ hại cho thân thể, và có khi còn chết người! 

Ba em nhìn từng hộp bánh trong tủ kiếng. Ông lựa rồi chỉ tay, muốn mua một hộp bánh Trung Thu có trứng, và lấy thêm hộp bánh dẻo nữa. Nhà em ngoài ba, chỉ có hai vợ chồng em và hai đứa nhỏ (nhưng chúng không thích bánh trung thu) Ai cũng sợ ngọt, nên chắc chắn sẽ ăn không hết… Chỉ cần mua một hộp, hai bánh nầy, hai bánh kia đủ rồi. Nhưng em lấy cả hai hộp bánh người bán đặt vào bao xách, máng trên xe cho ba vui lòng. Ba em chỉ hai chiếc lồng đèn treo trên vách. Em nghĩ chắc ba mua cho hai cháu ngoại… Trả tiền xong em định đẩy ba đi ra, nhưng ông chỉ thêm cái lồng đèn trái bí, làm em ngạc nhiên nhìn ba? 

Ông nhìn em mỉm cười, trìu mến:

-  Ba mua lồng đèn trái bí cho con! Nhớ thuở con còn bé nhỏ thích chơi đèn Trung Thu với đám trẻ con trong xóm. Năm đó đi lính xa, bất ngờ được về thăm nhà trong đêm Trung Thu. Ba đứng sau lưng cả buổi mà con không hay! Khi thấy ba, con phóng tới ôm chầm thật chặt như sợ ba vuột mất... rồi con mừng rỡ, líu lo gọi mẹ báo tin ba về.

Mắt già nua trắng dã, ba em cảm động nghẹn lời! Ông tiếp:

-  Ba mua bánh về cúng má, lúc sanh thời bả ưa bánh Trung Thu và bánh dẻo lắm. Cho dù con gái ba bây giờ tuổi đời có lớn hay già đi nữa, nhưng trong mắt ba lúc nào con cũng còn nhỏ bé! Còn tình thương con trong lòng ba càng ngày càng lớn vô bờ, vô tận con ơi...

Em dang đôi tay ôm chầm lấy ba! Hôn lên trán ba em, mà mắt rưng rưng dòng lệ kính yêu và hạnh phúc ngập cõi lòng! Em may mắn được sanh ra trong miền Nam! Em diễm phúc được thừa hưởng rất nhiều, rất nhiều thứ mà chỉ ở miền Nam tư do dưới Chánh thể Cộng Hòa mới có… Em đã nghe được câu nói của ai đó, để riêng mình thẩm thấu và nghiệm thấy rằng: Trên cõi đời nhiều hệ lụy khổ ải nầy, có hai người đàn ông để cho em kính nể và yêu thương nhứt. Đó là ba em và chồng em!”

Đường phố đã lên đèn, nhưng ánh trăng thu rực rỡ cao ngạo, thanh thoát áp chế ánh đèn đường vàng võ. Cha con em dừng lại bên lề nhìn đoàn múa lân dẫn đầu, các thiếu nhi dâng cộ đèn náo nhiệt đi qua. Trên đất nước tự do, các em vô tư, thảnh thơi, mặt mày hớn hở nhịp nhàng cất tiếng hát vang vang: “Đêm Trung Thu em đốt đèn đi chơi/ Em đốt đèn đi khắp phố phường/ Đèn ông sao với đèn trái bí/ Đèn xe tăng với đèn cá chép…Em đốt đèn đi khắp phố phường…”





DƯ THỊ DIỄM BUỒN

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22679
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: Hôm nay lúc 8:39am

Mơ Về Một Tết Trung Thu Xưa



tettrungthuxua
 
Những ngày cuối tháng 9, khi những vệt nắng cuối hạ phai nhạt dần trên từng kẽ lá, cũng là lúc những cơn gió thoảng đưa mùa thu sang. Với nhiều người, thu đến lúc nào cũng mang niềm nhớ, mùa thu đến như là một quy luật thời gian tiền định của thiên nhiên đất trời buộc con người ta phải xao lòng về những kỷ niệm, những ký ức. Cuộc sống quay cuồng nơi xứ người, thời gian nhẹ nhàng trôi theo những mùa thu thay lá, từ bao giờ tôi không còn thói quen đếm từng tháng năm xa quê hương như những ngày mới bắt đầu cuộc sống xa quê. Nhưng mỗi độ thu về, dù muốn dù không, kỷ niệm chất chứa trong ký ức của tôi cứ chợt hiện về. Nếu nói về kỷ niệm mùa thu ở nơi quê nhà của tôi thì nhiều lắm, mùa thu, mùa tựu trường với màu áo trắng học trò, mùa thu với niềm hân hoan rộn ràng với tiếng trống khai giảng năm học mới, và hơn bao giờ hết là những mùa trung thu đoàn viên bên gia đình nơi quê nhà ngày xưa.
 
Đã xa rồi những mùa trung thu ngày xưa. Xa rồi đêm trăng rằm tháng Tám với tiếng trống rình rang khắp xóm làng của những đoàn lân sư rồng, với ánh sáng lung linh từ ngọn nến trong chiếc đèn ông sao làm bằng giấy kính đỏ, xa rồi mâm cỗ trung thu với mấy chiếc bánh nướng, bánh dẻo, bình trà bên ông bà, cha mẹ, và cả khoảng khắc đêm trung thu ngồi trong sân chùa cũng lũ bạn hàng xóm nghe kể chuyện chị Hằng, chú Cuội.
 
Tuổi thơ tôi nghèo lắm, đó là khoảng thời gian xã hội Việt Nam vừa đi qua thời bao cấp, bánh trung thu là một thứ xa xỉ với nhiều gia đình. Cả nhà gần chục người, cùng nhau ăn một hộp bánh trung thu bốn cái. Mỗi người chỉ được ăn một miếng nhỏ cho có không khí trung thu. Vậy mà tôi nhớ có năm, lần đầu tiên có một tiệm bánh duy nhất trong thành phố bày bán bánh trung thu hình con heo ngộ nghĩnh với đôi mắt đen láy làm bằng hai hạt đậu đen. Biết chị em tôi thích, ba lặn lội đạp xe mấy cây số đi mua về. Kể từ mùa trung thu năm đó, chị em tôi chỉ cần một cái lồng đèn giấy ba làm và một cái bánh trung thu hình con heo như thế là đủ.
 
Trung thu ngày xưa vẫn thường được gọi là Tết Thiếu Nhi, Tết Trung Thu, đó dường như là một ngày hôi lớn trong năm của đám trẻ con chúng tôi. Cái ngày mà chúng tôi chưa được biết đén trò chơi điện tử, hay đồ chơi công nghệ như lũ trẻ con bây giờ thì niềm háo hức ngồi tỉ mỉ làm chiếc lồng đèn cho riêng mình để chờ đến đêm rằm đi khắp xóm làng rước đèn cùng chúng bạn, ca hát líu lo bên trong sân chùa vẫn mãi là những kỷ niệm tuổi thơ đi theo miền ký ức của những đứa trẻ lớn lên trong cảnh cơ cực, thiếu thốn ở nơi quê nhà ngày nào.
 
Còn Trung Thu giờ đây, lồng đèn điện được bày bán khắp nơi, bọn trẻ con chẳng còn háo hức thắp nến rước đèn đêm rằm như ngày nào. Những chiếc bánh trung thu được bày bán khắp nơi, chẳng còn mang ý nghĩa thiêng liêng trên mâm cỗ trung thu theo truyền thống của mỗi gia đình như ngày xưa, mà thay vào đó, bánh trung thu như một món quà, một tặng phẩm để thể hiện các mối quan hệ trong xã hội, người mua để mang tặng nhau thì nhiều, mà người thật sự muốn ăn bánh trung thu thì lại chẳng có bao nhiêu vì sợ ăn vào bị bệnh. Dần dần rồi với nhiều người, mỗi năm dịp Trung Thu có ăn bánh Trung Thu hay không cũng không còn là điều quan trọng.
 
Tháng ngày qua đi, tuổi thơ xa dần phía sau nhưng nó không mờ đi mà càng hiện hữu mỗi khi nhớ lại. Sau nhiều năm xa cách, xóm nghèo, bạn cũ giờ cũng đã thay đổi. Lũ con nít bây giờ ít có đứa nào được tận hưởng đúng không khí trung thu của ngày xưa. Trung Thu của bọn trẻ con bây giờ chắc sẽ không bao giờ biết được cái hay, cái thú vị của Trung Thu những năm tháng cũ mà thế hệ chúng tôi đã được đi qua. Ngày đó, vật chất, tiền bạc thiếu thốn nhưng chúng tôi đã được hưởng trọn vẹn niềm hân hoan, vui sướng bên mâm cỗ đêm rằm với gia đình, gia đình nào ngày đó dù có khó khăn mấy cũng cố mua cho bằng được hộp bánh trung thu để ăn. Và nhớ cả niềm hạnh phúc được ngồi cùng ba cả ngày tỉ mỉ làm chiếc lồng đèn để đêm rằm đi rước đèn khắp xóm làng cùng chúng bạn, rồi cùng nhau ngồi trong sân chùa chia nhau miếng bánh, vài ba cây kẹo để đón ngày Tết trung thu đúng ý nghĩa của nó.
 
Tuổi thơ tôi đi qua rồi. Giờ đây cuộc sống nơi xứ người quay cuồng với cơm áo gạo tiền, tôi cũng chẳng còn cảm giác mong chờ Trung Thu như ngày còn thơ bé nữa. Người ta nói đúng, có những cái mất đi vẫn lấy lại được nhưng thời gian, kí ức, tuổi thơ mãi mãi là hoài niệm trong tâm trí của mỗi người. Tôi vẫn mong được một lần sống lại trong giấc mơ xưa cũ ấy. Có lẽ, sẽ chẳng bao giờ tôi có thể đi qua hết được nỗi nhớ của mình để đo được chiều dài của ký ức tuổi thơ cùng ánh trăng rằm đêm Trung Thu. Nơi ấy tôi có gia đình, có ông bà, có mẹ cha, có người em trai cùng lớn lên từ những ngày thơ ấu cơ cực nhưng đầy tình thương yêu. 
 
Vương Vi
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 194
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.563 seconds.