Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Chuyện Linh Tinh | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh |
Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. | |
<< phần trước Trang of 100 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22933 |
Gởi ngày: 09/May/2024 lúc 2:15pm |
Người Cựu Chiến Binh Mỹ Và Tô Hủ Tiếu Mỹ Tho!Tôi vừa ngồi xuống ghế tại phi trường Atlanta, Georgia Mỹ, người đông như kiến chen chúc nhau, kẻ đi qua, người đi lại; đây là lần đầu tiên tôi quá cảnh tại phi trường rộng lớn hai tầng này. Tôi cùng chồng đi từ Montreal, qua Atlanta, chờ gần bốn tiếng cho chuyến kế tiếp để đến Peru, nơi tôi ước ao được tận mắt ngắm những cảnh đẹp của một trong bẩy kỳ quan mới của thế giới hiện đại là khu bảo tồn lịch sử Machu Picchu, thuộc xứ sở Peru. Gate 18a giành riêng để đi về Peru, tôi ngó quanh rất đông người đủ các dân tộc Úc, Pháp, Mỹ, Canada, và cả người Peruvian, ai cũng phải chờ ít nhất từ ba tiếng trở lên. Tôi thầm nghĩ “sao ai cũng nói kinh tế đang xuống dốc, phí cước dầu xăng máy bay mắc mỏ mà sao người ta đi nghỉ hè, đi chơi đông dữ vậy? Tất cả mấy trăm người này đều đi cùng chuyến bay đến Peru với mình sao ta?” Nghĩ phải làm gì cho qua thì giờ, tôi sửa soạn lấy quyển sách trong giỏ sách ra đọc. Lướt mắt ngó quanh, bỗng cặp mắt tôi dừng lại ở một ông già người Mỹ, ngồi cạnh một bà già Mỹ tóc bạc trắng, hai người này ngồi đối diện với tôi, cách một hàng người trước mặt, nhưng ánh mắt của ông cứ chăm chăm vào tôi với đầy vẻ ngạc nhiên! Tôi cúi đầu xuống đọc sách, nhưng giác quan thứ sáu cho tôi biết có người đang quan sát tôi từ xa, tôi có cảm tưởng ông đã đứng dậy, rời khỏi chỗ ngồi lại gần chỗ tôi lén nhìn, tôi vẫn bỏ mặc và tiếp tục đọc; những tình tiết trong câu chuyện cuốn hút làm tôi quên mất ánh mắt theo dõi từ xa ấy, tiếng nói chồng tôi vang lên: -Em canh đồ nhé, anh đi vòng quanh cho bớt mỏi, ngồi mãi tê cả người. Tôi ngước mặt lên, ánh mắt tôi lại “đụng” với khuôn mặt ông Mỹ già lúc nãy, tôi vôi nói với chồng: -Anh! Mặt và đầu tóc em có xù hay dính gì không? -Sao em hỏi vậy? … đầu tóc em gọn ghẽ lắm rồi, ở đây không ai nhìn em đâu …em không cần điệu nhe! -Xí! Cứ trêu em thôi! … Anh xem kìa có ông Mỹ già ngồi đàng kia cứ nhìn mình hoài đó! -Nhìn em chứ có nhìn anh đâu! -Anh cứ giỡn hoài, em nói thật mà, từ nãy giờ ông ta lén nhìn… mình mãi, em thấy lạ lắm đó! Chồng tôi vẫn cứ hay đùa: -Để anh ra hỏi xem tại sao ông lại nhìn vợ tôi lâu thế nhé! -Hum… Thôi! Anh cứ đi dạo đi, em ngồi đây canh đồ cho. Ông xã tôi đứng lên bỏ đi, tôi ngồi một mình nhìn quanh quất, ông Mỹ đối diện có vẻ tự tin hơn, ông mỉm cười nhẹ làm quen, gật đầu chào tôi qua một dẫy ghế đầy người, tôi nhìn dáo dác xem có phải đúng là mình ông ta muốn chào không, thấy ai nấy cũng lo việc riêng, tôi ngại ngần gật đầu nhẹ chào lại và lần này cúi xuống ngay quyển sách đang mở sẵn trên lòng; bao nhiêu suy nghĩ thoáng qua đầu, tôi nhớ lại từng khuôn mặt của những ông thầy mà tôi đã từng học qua từ nhỏ đến lớn, không có một khuôn mặt nào mang đường nét của ông Mỹ đang ngồi trước mặt tôi đây, chả lẽ thời gian làm mấy ông thầy của tôi già mau đến như thế sao, ông Mỹ này cũng phải 80 tuổi rồi đó chứ; cho dù lớn tuổi nhưng dáng người của ông cao to lớn, hơn 1m80, vẫn còn phảng phất vẻ hào hùng của thuở nào. Tôi moi móc trong óc xem có quen với khách hàng, bạn bè là người Mỹ không? Hay chắc ông ta lầm tôi với ai? Với một người học trò xa xưa nào đó? Tôi không thể nào nhớ ra đã gặp ông ta nơi đâu nữa! Giờ vào máy bay đã đến, bốn tiếng tưởng dài, nhưng trôi qua thật nhanh, chúng tôi nhanh chóng xếp hàng chờ vào máy bay. Ông bà Mỹ này cũng đi cùng main zone 2 với tôi, chúng tôi lại sắp cùng hàng. Khi ông bà đứng bên cạnh tôi, tôi mới để ý thấy bà tóc bạc trắng, già hơn ông rất nhiều, tôi lại tự hỏi không biết bà có phải là vợ ông hay … là vai vế nào khác. Tôi đang đẩy carry-on vào nhân viên soát vé, tôi thấy ông bà Mỹ này cũng lại đi sát bên cạnh, tôi dừng lại và nhường bước cho hai ông bà đi trước, nhưng hai người này lại nhất định bảo tôi và ông xã vào trước. Lần này ông lại nheo mắt cười với tôi! Vào bên trong, ông bà ấy ngồi cách tôi hai dẫy ghế, khi cất hành lý lên nóc máy bay, ông cười hỏi chúng tôi: -Hai bạn đi Peru phải không? đến phi trường Lima? Chồng tôi trả lời: -Vâng đúng rồi, ông bà cũng vậy ạ? Mình sẽ còn ba tiếng rưỡi bay nữa là tới, sẽ rất nhanh… -Đúng! Sẽ nhanh thôi!... hy vọng mình cùng ở chung hotel? Thế là chúng tôi quen nhau một cách rất tự nhiên. Đến phi trường Lima vào buổi chiều lúc 9 :30 tối, chúng tôi được xe van rước về hotel cùng với ông bà Mỹ, ông do dự trước khi nói với chúng tôi : -Hẹn gặp lại các bạn vào sáng mai chúng ta sẽ đi tàu ở lake Titicaca lúc 9 :00 phải không? bây giờ tối rồi, chúc các bạn ngủ ngon nhe. Tôi thấy thái độ của ông Mỹ hơi chút kỳ lạ, sao cứ bám theo chúng tôi nói chuyện, nên tôi mới nói với ông xã : -Ông Mỹ này … có vẻ nói nhiều ghê anh nhỉ, bà vợ chả thấy mở miệng! -Thường là vậy mà, chỉ một người nói là đủ rồi! Tôi cũng không màng đến lời nói khiêu khích của chồng, yên lặng đi lên phòng. *** Sáng hôm sau, tất cả mọi người hẹn lên xe bus để ra nơi thuyền neo đậu, vừa gặp chúng tôi bước lên, ông đã giơ tay ra hiệu cho tôi : -Good morning!…Ngồi đây này, tôi đã giữ sẵn cho hàng ghế ngay sau lưng tôi đây! -Good morning ông bà!...Cám ơn ông bà đã giành chỗ cho chúng tôi, ông bà thật tốt và nhanh nhẹn quá! -Chúng tôi tuy lớn tuổi nhưng tôi đã quen với dáng vẻ nhanh nhẹn từ mấy chục năm nay rồi, từ khi… Ông chưa kịp nói hết câu thì khách lên đầy xe, nhân viên dẫn tour cầm microphone giới thiệu cho chúng tôi biết sẽ bận cả ngày hôm nay, đi tàu, lên núi Puno và gặp gỡ những người sống trên hòn đảo với những con cừu và alpaca để xem văn hóa tập quán của người Inca… Người dẫn đường cho biết tàu sẽ lướt trên hồ Titicaca khoảng 1 tiếng 45 phút mới tới nơi nên ai muốn ngủ hay làm gì cũng được. Tôi ngồi yên quay mặt ra dòng nước với những đợt sóng trắng bắn tung theo động cơ của tàu chạy, trời nắng thật ấm áp, mê mải ngắm sông nước, núi hùng vĩ đủ màu xanh đỏ bao quanh hồ thật đẹp; tiếng ngáy của những người thiếu ngủ tối qua bắt đầu vang lên khe khẽ. Bất chợt tôi nghe tiếng động nhẹ bên cạnh, ông Mỹ già đã nhanh nhẹn đổi ghế sang ngồi đối diện với tôi, ông có vẻ sốt ruột, sợ không còn cơ hội nào tốt hơn để đưa tôi xem chiếc điện thoại của ông với cả ngàn tấm hình trong đó. Tôi quay lại sau, thấy bà vợ của ông đang nhắm mắt đầu nghẻo sang một bên ngủ ngon lành. Rất ngạc nhiên chưa hiểu ông muốn gì, ông bấm ra tấm hình một cô gái trẻ, nhìn kỹ cô hao hao giống tôi ở khuôn mặt thuôn nhỏ và mái tóc dài ngang lưng, cô ở độ tuổi 20-25 trong hình. Ông lên tiếng đủ để tôi nghe : -Cô có nhận ra ai không? Tôi lại càng ngạc nhiên hơn nữa khi nghe ông hỏi như thế, đưa mắt nhìn ông, giải thích : -Đây là lần đầu tiên tôi thấy tấm hình này, tôi không hề quen cô gái trong hình… -Cô …thật sự không quen hay có quan hệ gì với cô ta hả? có biết cô giống cô ấy lắm không? cử chỉ và dáng vẻ nữa! Tôi đã… -Ah! Thì ra ông đã lầm tôi với cô gái ấy khi gặp tôi ở phi trường Atlanta phải không?... hèn gì… -Đúng đấy! Hãy gọi tôi là David cho thân mật nhé. Tôi tưởng cô và cô gái trong hình này là hai chị em, hay hai mẹ con … Xin lỗi tôi đã lầm! Thật lạ, cô giống lắm! -Dạ không sao, ông đừng phiền lòng … Ông bỗng rút ra từ trong túi áo một lá cờ màu sọc đỏ ngang, màu trắng kế tiếp và màu xanh dương đậm, trên lá cờ ấy là một ngôi sao bạc năm cánh được thêu thật tỉ mỉ trang trọng, phần mặt sau của lá cờ, có phần giải thích : Tôi là một phần của lá cờ Mỹ của chúng tôi Tôi đã từng hiên ngang phất phới ở những ngôi nhà Bây giờ tôi không thể bay được nữa Nắng gió đã làm tôi hết sức, rách nát Hãy mang theo tôi như lời nhắc nhở: xin hãy đừng lãng quên những người chiến binh xưa. Chúa sẽ ban phước lành cho bạn David Overholt, một cựu chiến binh. David lại cho tôi xem tiếp một loạt hình của ông chụp chung với cô gái cách đây 55 năm ở Mỹ Tho- Việt Nam, những tấm hình hồi ông còn trẻ với cô gái duyên dáng này, những món ăn thuần túy của Việt Nam do chính cô ta làm, rất nhiều những kỷ niệm, nơi hai người đã từng đi qua thời trẻ, giọng ông trầm buồn : -Thuở 1970, tôi chỉ là một chàng trai trẻ mới 24-25 tuổi, được điều sang Việt Nam, giữ chức vụ hậu cần, coi sóc nhà kho súng đạn, quân phục cho lính, nếu thiếu thứ gì thì sẽ liên lạc bên Mỹ để đem qua, cũng kiêm luôn việc chuyển giao thư từ điện tín đến những cấp cố vấn Mỹ. Chúng tôi đóng ở Mỹ Tho, ngày nào vào chiều khoảng 5,6 giờ, tôi đều thấy một cô gái gánh một gánh hủ tiếu bán dạo, người cô bé nhỏ mà hai đầu gánh thật đầy ắp. Phải nói là đi nặng nhọc lê lết đến trước cửa trại chúng tôi, đặt cái ghế bé xíu xuống ngồi. Lạ một điều là nàng vừa ngồi xuống là trong này cả đám lính chúng tôi úa ra, chẳng ai bảo ai, mọi người đều mua mỗi người một tô, có đứa thấy ngon quá ăn luôn một lúc hai tô, không những thế còn mua để dành cho sáng hôm sau ăn nữa chứ. Khuôn mặt nàng dễ nhìn, xinh xắn với nụ cười rạng rỡ làm tôi có cảm tình ngay từ tô hủ tiếu đầu tiên. Khoảng ba tháng sau, tôi thấy mình ghiền hủ tiếu của nàng, nhớ nàng day dứt mỗi lần nàng đến chậm, không ăn sẽ không thể nào ngủ được! Tôi đem lòng yêu thương Huệ hồi nào không hay. Tôi mạo muội đến gặp ba má của Huệ để xin cưới cô. May mắn là ba má cô ấy nhận lời. Đám cưới chúng tôi thật đơn giản, gồm gia đình người thân của Huệ, cùng với các bạn trong trại của tôi. Chúng tôi ở với nhau rất hạnh phúc, không có con, được 4 năm, đến cuối 1974 thì nơi chúng tôi đóng quân bị pháo kích, không may tôi bị thương nặng ở phần bụng và chân, họ cho tôi cấp cứu ở bệnh viện Chợ Rẫy (tôi không nhớ tên rõ), xong đưa tôi về Mỹ gấp vì tôi cứ đau đớn và bị biến chứng sốt cao cả tuần lễ. Huệ có đến thăm tôi trong những lúc tôi trong cơn mê sảng đau đớn không biết gì. Tiếp theo biến cố 1975 xảy ra, bao gia đình tan nát, kẻ bỏ xứ, người trốn đi nơi khác ở, tôi và Huệ mất liên lạc luôn từ đó…. -Sau đó ông gặp và cưới bà Isabelle bên Mỹ? -Một lần đi chơi ăn nhảy ở một casino ở Las Vegas, tôi đã gặp Isabelle, lúc ấy bà ta rất trẻ so với số tuổi và quyến rũ, là ca sĩ của phòng trà trong casino, bà rất sang trọng, được bao nhiêu đàn ông vây quanh; ai cũng muốn chiếm được trái tim nàng. Trong một lần kháo nhau, uống thật say, tôi đã qua đêm với nàng, sau đó biết được nàng có thai với tôi, chúng tôi đã trở thành vợ chồng từ đó, dù nàng hơn tôi đến 8 tuổi, nhưng không hề gì, trái tim và tấm lòng hướng về nhau là được. Đúng như David nói, bà Isabelle tuy đã gần 90 tuổi, nhưng vẫn giữ được vóc dáng thanh mảnh, đầu tóc cắt theo kiểu trẻ trung hiện đại với đôi móng tay giữ gìn sơn đỏ kỹ càng, nên điều bà đã từng làm say mê bao trái tim kể cũng không ngoa! -Ông có về Việt Nam tìm lại chị Huệ không? -Tôi đã về hai ba lần rồi. Tôi rất yêu mến con người và đất nước Việt, xứ sở của các bạn thật ấm áp, phong cảnh hữu tình, người dân cũng thật tốt và hay giúp đỡ nhau…. Lần vừa qua, cuối năm 2022 tôi đã tìm lại được Huệ! Tôi mừng rỡ reo lên như chính tôi là người trong cuộc vậy : -Chị ấy giờ ra sao rồi? -Chuyện tìm ra Huệ hơi dài dòng, tôi tóm tắt là nàng thay đổi khá nhiều vì đã trên 50 năm rồi, nàng mập ra, nhưng vẫn giữ cho mình nụ cười tươi tắn thuở nào; nàng đã có gia đình khác sau khi chúng tôi chia cắt, nàng đã có ba người con lớn và lập gia đình. Gặp tôi, nàng cũng mừng rỡ, có mời chúng tôi về nhà gặp vợ chồng nàng; chồng nàng là một người đàn ông tốt, lo cho vợ con và thông cảm cho câu chuyện tình của chúng tôi, anh ấy vui vẻ đón tiếp chúng tôi tại nhà, nàng có làm lại món hủ tiếu Mỹ Tho ngày xưa cho tôi ăn, tôi rất nhớ mùi vị ấy, nhớ từng gia vị đặc trưng làm nên món ấy; tôi thật cảm động khi ăn lại tô hủ tiếu Mỹ Tho do chính tay nàng làm, tôi không ngờ lại có được ngày này sau 50 năm. Tôi ngỡ như trong mơ thôi! Tôi đã không cầm được nước mắt khi nuốt gắp phở đầu tiên vào miệng! Tưởng chừng như tôi đã tìm lại hương vị của ngày xưa cũ vậy! Isabelle, vợ tôi và chồng của nàng đều thấy; tôi sống thật lòng mình nên không sợ ai phiền lòng. Tôi yên lặng lắng nghe những lời David kể với đầy cảm xúc dâng trào, hình như mắt ông đỏ hoe như đang nhớ lại cảnh ấy! David tiếp tục tâm sự: -Sau khi biết Huệ có hạnh phúc với gia đình hiện tại tôi rất mừng. Bây giờ ai cũng lớn tuổi, tôi đã 80, Huệ trên 70, chúng tôi đã sống gần hết cuộc đời rồi; nhiều lúc tôi tự hỏi tại sao tôi sanh ra, lớn lên ở đất nước Mỹ, không chiến đấu cho tổ quốc, đất nước Mỹ mà lại sang một nước bé nhỏ Việt Nam, để làm một người hậu cần chiến binh, tuy không trực tiếp ra trận nhưng để lại trong tôi rất nhiều thương tiếc mỗi lần thấy một người lính tử trận? Tôi để lại cho cô cái huy hiệu lá cờ với ngôi sao này, mong rằng khi cô nhìn nó hãy nhớ đến đã từng có những người lính Mỹ đã đến, đã hy sinh, bỏ mạng trên đất nước quê hương của cô vì đấu tranh cho sự độc lập của tổ quốc của cô, đã thi hành nhiệm vụ một cách dũng cảm, cho dù mục đích sau cùng có đạt được hay không, nhưng những người cựu chiến binh Mỹ ấy cũng nên được mãi mãi ghi ơn! Tôi xiết chặt tay David với cả tấm lòng biết ơn, những người cựu chiến binh Mỹ, điển hình là David, ngồi trước mặt tôi, kể cho tôi nghe một câu chuyện thật đau lòng, thương tâm, ông đã hy sinh tình yêu, tính mạng của mình cho một nhiệm vụ không phải ở trên phần đất quê hương của ông. Ảnh hưởng của vụ mổ đầu gối và bụng khi ông bị trúng đạn thời trẻ, mỗi lần trời trở lạnh, ông luôn bị những cơn đau đớn dầy vò thể xác. Chiến tranh đã cướp đi cuộc sống tươi đẹp, tình yêu và sự hy vọng của những người lính, ngoài David ra, chắc phải còn nhiều cựu chiến binh Mỹ khác có những tình cảnh éo le, thương tâm khác mà có lẽ chúng ta chẳng bao giờ được nghe kể! Sỏi Ngọc 30 Tháng Tư 2024 Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 09/May/2024 lúc 2:23pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22933 |
Gởi ngày: 10/May/2024 lúc 11:26am |
Đòn Thù“...Trời ơi!! Chúa đâu? Phật đâu? Sao tôi khổ thế này!?” Từ lưng đồi, trong cơn mưa tầm tã, ông Trung Tá “bên thua cuộc” trượt chân, lăn nhiều vòng cùng khúc cây, (chỉ tiêu lao động), đè ngang cổ. Dẫy dụa nhiều lần. Khi đứng dậy được, hai tay giơ lên trời, ông gào thét như nỗi đau của một con thú rừng bị sập bẫy!!! Bộ quần áo tù mỏng dính, ướt sũng, dán sát người ông. Từ một góc khuất trong bụi rậm, tôi thấy rõ một bộ xương cách trí đang lơ lửng giữa trời. Ôi! Còn đâu... “Vùng trời nào đó anh đã bay qua. Chỉ còn lại đây... rừng núi... bao la” và “tận cùng của nỗi tuyệt vọng.” ****** – Phạm văn Đồng: “Học tập cải tạo… Những người này chúng tôi cho họ một cơ hội để trở lại làm người…” – Đỗ Mười: “Giải phóng miền Nam,chúng ta có quyền tịch thu tài sản, trưng dụng nhà cửa,hãng xưởng, ruộng đất của chúng nó. Xe chúng nó ta đi. Vợ chúng nó ta lấy. Con chúng nó ta bắt làm nô lệ. Còn chúng nó thì ta đày đi làm lao động khổ sai tại vùng kinh tế mới hay nơi rừng sâu, nước độc. Chúng nó sẽ chết dần, chết mòn..” – Dương Thu Hương: “Ngày 30/4/1975, kẻ dã man thắng người văn minh.”
****** Hai bà mẹ già nhai trầu bỏm bẻm, ngồi trên cái băng ghế của một kios báo bỏ hoang ở trước cổng trường nữ trung học Lê văn Duyệt xem những thằng con lính bại trận trình diện “học tập cải tạo.” Một bà kéo vạt áo lau nước mắt nói: “Tội nghiệp tụi bây quá!!!” Tôi cúi đầu lặng lẽ bước vội trong âm thầm suy nghĩ: “Anh trở về bại tướng... cụt chân…”
****** “Còn chúng nó thì ta đày đi nơi rừng sâu nước độc. Chúng nó sẽ chết dần,chết mòn..” (Đỗ Mười) ****** – Thiếu Tá Đại... “ Em ơi... con ơi... Đau quá... tôi chết mất...” Trước khi chết, ông lăn lộn gào thét gọi tên vợ, tên con; Không gọi tên... Tổ Quốc!!! “Còn đất nước thì còn tất cả. Mất đất nước là mất tất cả!” (Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu) Ống quần tù mỏng dính mắc kẹt vào miếng sắt đóng vào cái cột gỗ làm nấc thang leo lên tầng trên, khiến ông té lộn ngược, đầu đập xuống sàn xi măng. Tôi nghe rõ âm thanh của một trái dừa khô lột vỏ ném xuống trước chân tôi! Vỡ sọ! Ông vật vã cuộn người đau đớn. 42 tù nhân la vang trong phòng giam: “Cứu người. Cứu Người...” Toàn thể trại tù im lặng rợn người ngoại trừ âm thanh của tiếng thìa, muỗng đập liên tục vào song sắt cửa sổ. Cuối cùng, mãi tới nửa đêm, 2 tên cai tù xuất hiện quát: “Vần anh đó ra gần cửa sổ này. Vạch mông ra.” Một mũi kim qua song sắt. Ông ngủ yên. Phòng giam trở lại im lặng lạnh người. Cuối cùng, trời hừng sáng, ánh nắng vừa lọt qua song sắt. Thiếu Tá Đại tắt thở, không kịp một lời giã từ anh em... Ông “hối hả bay bổng tìm đường về Nam gặp lại vợ con!!!” “Anh không chết đâu em. Anh sẽ về gặp mẹ con em!!” Khi liệm ông, trong túi áo của ông còn nguyên phần ăn: Hai mẩu khoai mì nấu chín cùng những mảnh vỏ sống chưa kịp muối chua. – Đại Úy Đức nằm cạnh tôi không dậy nữa. Khi liệm anh, trong túi áo của anh có hai lát bí và cái đầu gà toi đen thui.. “Cao lương này thay cho bát cơm cúng!!” “Đúng là XãHội ChủNghĩa.” Đức nói khi đám dòi ở dưới hầm cầu lổn nhổn chen chúc giành nhau phần “bo bo” do anh vừa thải ra. Phía bên kia có người nghe được. Đức bị cùm ngang ngực bằng cái ách trâu, nằm trên một tấm ván suốt 45 ngày. Khi được thả ra, anh đi không vững. Mình trần trơ xương. Cái áo tù không còn nữa. Nó đã được anh xé ra nhiều lần để làm vệ sinh. Anh chết vì kiệt sức! Đức vĩnh viễn nằm lại ở núi rừng Hoàng Liên Sơn! Khi còn sống, Đức luôn cay cú nói: “Thêm 6 trái CBU nữa thì ngày hôm nay bọn mình đâu như thế này.” Đức đúng hay sai? Tại quán phở 79 giữa Thủ Đô Little Saigon, Tướng Đảo nói với tôi: “Cho qua thêm vài trái CBU. Qua đánh tụi nó không kịp chạy về Bắc.” – Đại Úy Thịnh...“...Xin cho tôi nói..” Tên bộ đội tay nắm sẵn miếng giẻ vội nhào tới nhét vào mồm anh. Một tên nữa vội quàng khăn bịt mắt anh lại, cùng 6 tên khác xô đẩy anh loạng choạng, nghiêng ngả ra bãi bắn. “Xin cán bộ cho tôi tháo miếng vải che mắt và miếng giẻ ở miệng của anh ấy được không?” Tên cai tù: “Để nguyên vậy. Lấp đất.” ... “Con gởi về cho cha một manh áo trắng. Cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây!!..” (Việt Dũng) Thịnh bị tử hình chỉ vì một mẩu giấy nhỏ viết vài chữ gởi cho vợ bị lọt vào tay chúng như sau: “... Em hãy nhớ lời anh dặn. Dù anh còn sống hay đã chết. Mình có hai đứa con gái, không bao giờ cho nó lấy lũ cán ngố rừng rú. Ở đây anh trốn lúc nào cũng được. Anh là sĩ quan Quân Báo tốt nghiệp ở Okinawa mà em.” – Tướng Loan bắn thằng Bảy Lốp. Tên Việt Cộng vừa tàn sát dã man cả một gia đình 5 người lớn bé vô tội. Máu ngập tràn mắt cá chân. Hành động nào là dã man?! – Đại Úy Kha trong khi phát quang trên sườn đồi bị rắn cắn. Nọc độc chạy khắp mình anh. Khi ở đùi, khi ở tay, khi lên má, khi xuống cổ v...v… Xin đi viện (bệnh viện) chữa. Chúng không cho. Đúng 49 ngày sau anh chết! Những ngày đầu của 49 ngày, chập choạng với thần chết, Kha sợ! Nhưng sau đó anh bình tĩnh lạ thường... Kha chưa lấy vợ. Mồ côi cha từ bé. Anh có một em gái. Mẹ già thủ tiết nuôi con. Em gái báo tin mẹ anh mới qua đời. Kha kể: “..Ngày đi trình diện "Học tập cải tạo", Mẹ anh nói: “Con mang làm gì nhiều thứ vậy? Học tập có 10 ngày rồi về... Nghe đâu nhà hàng chở đồ ăn đến.” Thời gian 10 ngày thì mẹ anh sai. Nhưng nhà hàng sang chở thức ăn đến thì đúng, nhà hàng Caraven. Một tên bám bên cửa xe mình mặc áo trắng, đầu đội mũ trắng, tay đập ầm ầm vào thành xe dẹp đường. Chạy nhiều vòng quanh phố, sau đó vào thẳng cổng trường. Bà con, cô bác hai bên đường nói: “Sướng quá...” Trong xe, một sọt bánh mì cộng một nửa thùng phi canh rau. Những ngày cuối Kha thường nói: “Ngoài Bắc này nhiều chim bìm bịp quá!!!” Khi liệm, không thấy vết tím trên mình anh. Tôi đoán nọc độc đã chạy vào nội tạng. Đài BBC bình luận: “... Trong lịch sử chiến tranh của nhân loại. Lần đầu tiên những bại binh tình nguyện đi vào tù!” (Chiêu lừa Học Tập Cải Tạo) – Đại Úy Cát ngồi bất động trong một bụi rậm, hai mắt nhìn chăm chăm qua bên kia bờ suối. Hai vợ chồng và một đứa con trai cộng thêm một con chó đang ăn một rổ khoai lang. Họ chuẩn bị lên núi hái măng vầu... Những mẩu đầu khoai lang được ném xuống đất. Con chó táp vội rồi nhả ra. Người và chó vừa rời khỏi chỗ, khuất xa ở lưng núi, Cát phóng qua, vội nhặt những mẩu khoai, bỏ vội vào miệng nhai ngấu nghiến. Cát là tiểu đoàng trưởng Địa Phương Quân. Anh thường kể cho tôi nghe những ngày, tháng vàng son: Lính của anh làm đồ nhậu sau mỗi khi hành quân trở về hậu cứ. Cái món làm tôi thèm chảy nước dãi là món chim sẻ chiên giòn chiêu với rượu huyết chim. Cát cũng giống như Đức, Kha. Cả 3 người đều vĩnh viễn nằm lại ở rừng Hoàng Liên Sơn. Cát và một người bạn không cầm cự được với trái độc. Hai người làm một bụng đầy. Mạch máu vỡ tung, da thịt tím bầm. Chết ngay dưới gốc cây cổ thụ. Đám cỏ nơi hai người chết nằm dạt, chứng tỏ họ đã vô cùng đau đớn lăn lộn nhiều lần. Tên trưởng trại để xác hai người trên một cái chõng tre. Tuyên bố: “Mặc dầu hai anh này có vi phạm nội quy là cải thiện linh tinh. Nhưng trong quá trình cải tạo có lao động tốt, nên tôi nhân danh Đảng và Nhà Nước cho hai anh được phục hồi quyền công dân!!??” Trong những ngày tháng lao động khổ sai cùng nhau, tôi thường nghe Cát hát: “... Tới trước ngõ cũ nghe kể rằng Giặc tràn qua thôn xóm. Gieo bao đau thương, bao điêu tàn từ ngày anh vắng xa...” Cát xem ra luôn hãnh diện, hào hứng với cuộc đời “Chinh chiến điêu linh” đã qua của anh. “... Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ Thuở tung hoành, hống hách những ngày xưa ... Nay sa cơ bị nhục nhằn tù hãm Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ…” (Thế Lữ) – Đại Úy Cư... Sợi dây thừng vòng qua cổ. 2 tên bộ đội kéo xác anh đi vòng sân của khám Chí Hòa. Máu từ tim vẫn chảy ra vẽ thành những vòng tròn trên mặt gạch... Đoàn xe chở tù về tới ngã Sáu đường Lê văn Duyệt. Khi gần tới cổng Biệt Khu Thủ Đô, xe chạy chậm. Cư bất thần đạp một tên vệ binh lộn xuống đường. Tên thứ hai bị Cư ném một nắm muối vào mặt. Hắn bóp cò, viên đạn bắn trượt vào mâm bánh xe phụ sau lưng Cư, vòng ngược lên xuyên ngay tim anh. Cư chết tức thì! Những “phạm nhân” trên cùng xe kinh hoàng! Cư còn độc thân có bằng Cao Học Hành Chánh. Võ Sư Việt Võ Đạo. Tốt nghiệp Hòa Âm trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn. Gốc Cục Tâm Lý Chiến, Biệt Phái Bộ Canh Nông. Sau 30/4/1975, anh thuộc sự “quản lý” của Ủy Ban Quân Quản ViệtCộng. Sau khi “học tập” ít ngày, chúng điều anh vào “Camp David” trong Tân Sơn Nhứt dịch tài liệu. Một thời gian sau, Cư bỏ trốn lên Ngã Ba biên Giới toan tính vượt biên. Anh bị bắt. 10 năm sau, tôi ghé thăm nhà gọi người em út ra quán cóc cà phê nơi đầu ngõ kể cho em nghe về cái chết của Cư.Em cho tôi biết người anh thứ hai Thiếu Úy Luật Sư đi “cải tạo” cũng mất tích. Nhà có cha mẹ già và 3 con trai. Nay còn lại một người. Tôi khuyên em đừng cho bố mẹ biết tin này. Nửa năm sau, tôi ghé nhà em. Tôi được biết thân mẫu em chờ hoài không thấy con về nên bà héo hắt mà chết. Còn thân phụ em thì sáng nào cũng cái ô cắp nách, lên xe lam đi tìm... hai đứa con trai. Có khi trưa thì về, có khi tối mới về. Kể cho tôi mà em khóc nức nở. Còn tôi thì nghẹn ngào uất hận. “... Ta về cúi mái đầu sương điểm Nghe nặng từ tâm lượng đất trời Cám ơn hoa đã vì ta nở Thế giới vui từ mỗi lẻ loi...” (Tô thùy Yên) Lỗ Trí Thâm Thủ Đô Little Saigon |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22933 |
Gởi ngày: 14/May/2024 lúc 10:13am |
Lá Rụng Về CộiĐây là một câu chuyện tình được kể lại trong bối cảnh Qui Nhơn của những ngày cuối cùng tháng 3/75 . Vì kể lại dưới hình thức là một truyện ngắn nên có chút ít thêm thắt vào cho có hậu . Trong hình là đỉnh đèo An Khê trước nơi chứng tích mối tình của hai nhân vật trong câu chuyện Quan Dương ***** Apartment nơi chàng ở nằm trên tầng hai, phía sau phòng ăn là một balcony nhỏ, ở đây có một chiếc ghế nhựa, chàng thường ngồi lên đó, vừa hút thuốc vừa nhìn thiên hạ phía dưới. Hoặc mỗi khi có điều gì phiền não chàng cũng thường nhìn trời đất quạnh hiu thổi những ngụm khói cay xè đắng nghét vào không gian để trầm tư mặc tưởng. Phía dưới balcony là một khoảng sân rộng dùng làm parking. Mỗi chiều sau giờ tan sở những chiếc xe đủ loại, đủ màu sắc, cũ mới lẫn lộn từ các nơi về đậu san sát bên nhau. Để giải buồn chàng thường phân nhóm xe theo màu sắc và ví khu parking này như là nước Mỹ, còn tất cả màu sắc kia đại diện cho từng màu da của từng dân tộc qui tụ về đây để làm nên hợp chủng quốc. Chỉ một parking nhỏ thu hẹp này thôi, cũng đủ thấy giàu nghèo khó mà lẫn lộn. Cái tật ghiền thuốc chàng không bỏ được, cho nên chiều nào chàng cũng phải ra balcony để giải quyết cơn ghiền, thét đâm thành thói quen. Và rồi không biết tự lúc nào, chàng phát giác ra chủ nhân của chiếc Toyota Cressida đời 89 màu bạc cứ mỗi ngày vào khoảng 4 giờ chiều về đậu phía dưới parking là một cô gái Việt Nam. Mặc dù chàng có thể quan sát từ phía sau lưng, nhưng chàng tự cả quyết như thế, bởi vóc dáng mảnh khảnh của cô gái rất dễ phân biệt trong đám Mỹ đủ màu, huống hồ cô gái lại có một suối tóc đen huyền thả ngang thắt lưng. Mái tóc đặc biệt này chỉ có ở những cô gái Việt Nam mà thôi. Mái tóc đó cộng với vóc dáng hài hòa đã gợi cho chàng nhớ lại vóc dáng của ai kia, mỗi chiều trong quá khứ đậm nét trong lòng. Chàng đâm ra tư lự muộn phiền. Ở đâu đó trên quê nhà dịu vợi trong đời, một hình bóng đã đi qua, bi thương và nhức nhối không thể phôi pha. Điếu thuốc trên môi chỉ có một khoảng thời gian ngắn ngủi để cháy vừa đủ cho cô gái bước xuống xe, khóa cửa và bước vào khu Apartment trước mặt. Cô gái không bao giờ ngước nhìn lên để biết rằng mình đang được theo dõi, thành thử khuôn mặt đẹp xấu cỡ nào chàng rất mơ hồ không xác định. Cứ thế mỗi chiều chàng ra balcony đứng hút thuốc để đợi cô gái về vào giờ nhất định và đậu xe ngay nơi parking đó. Cho đến một hôm, cô gái chợt tình cờ nhìn lên bắt gặp chàng đăm đăm nhìn mình. Trong khi chàng còn đang bối rối vì bị bắt gặp quả tang nhìn lén, thì cô gái nhoẻn miệng cười gật đầu: "Chào chú” Chàng ấp úng: "Chào cô bé. Cô bé đi làm về?" "Dạ" Lần hội ngộ chỉ có bấy nhiêu thôi. Nhưng không hiểu sao khi thấy được rõ ràng khuôn mặt cô gái chàng bỗng giật mình. Cảm giác cho chàng biết là khuôn mặt đó rất ư quen thuộc, chàng đã từng gặp ở đâu nhiều lần trong cuộc đời. Khuôn mặt đó đã làm tôi choáng váng. Những lúc đêm về, ngước nhìn lên bầu trời hồn lang thang một mình trong không gian bao la giữa muôn ngàn vì sao lấp lánh, bỗng nhiên tôi quá cô đơn. Một quá khứ tuổi thơ ở nơi nào xa thẳm trong tận đáy tâm tư bỗng hiện về tê buốt hãi hùng đến quá đỗi chạnh lòng. Đành cuả tôi giờ này đang làm gì ở thế giới miên viễn bên kia. Có thơ thẩn một mình nhìn lên bầu trời giống như tôi lúc này hay không? Bất giác tôi tự trả lời: nơi ấy nàng đơn độc quá không còn tôi bên cạnh để cùng tưởng nhớ về một chuỗi tháng năm qua không thể nào quên. Đành ngồi sau lưng tôi, chiếc xe Honda Dam chỉ cần 5 phút chạy ngoằn ngoèo là đã ra khỏi thị trấn, nàng hỏi: "Bây giờ mình đi đâu đây Tấn?" "Đi đến tận cùng trời cuối đất" Cùng trời cuối đất cuả tôi là chạy lòng vòng trên những con đường đất nhỏ. Nàng rất thích những con đường này, bởi vì dưới những lũy tre im vắng mà những tàng lá trên cao hai bên giao nhau chỉ để rớt xuống mặt đường những giọt nắng màu hanh vàng. Xe chạy qua, những giọt nắng bám lên người và nàng thích thú đưa tay ra hứng. Những lúc đó khuôn mặt nàng đầy rạng rỡ thanh cao. Còn tôi trần tục thì thích những con đường làng bởi vì nó đầy ổ gà lởm chởm, có lý do để nàng ôm chặt lấy tôi để khỏi bị rớt xuống đường. Thỉnh thoảng, một luồng gió nhẹ cuốn theo mùi thơm cuả cỏ, thổi làn tóc dài quyện lấy vai tôi. Một vài sợi tóc nghịch ngợm vuốt ve vào mặt làm tôi ngây ngây ngất ngất. Nàng cũng biết rõ là tôi ma giáo cố ý không tránh ổ gà, nhưng người thanh cao lại đồng loã với tên phàm tục để cho kỷ niệm tràn đầy tuổi đầu đời cuả hai kẻ yêu nhau. Lần về phép đầu tiên từ quân trường Đồng Đế, năm đó thị trấn Ninh Hoà bị ảnh hưởng cuả một cơn bão không biết từ đâu đưa tới. Nước từ thượng nguồn KrongBut Ban mê Thuột đổ về con sông Dinh nhỏ xíu nằm giữa thị trấn. Con sông lưu lượng không đủ chưá nên nước tràn ngập các lối đi. Nhà nàng nằm trên bờ sông không hiểu sao vẫn còn đứng vững trước cơn phong ba bão táp. Mưa đã tạnh, chỉ còn tiếng nước bì bõm theo đôi giày nhà binh nặng trĩu đối vơí anh chàng sinh viên sĩ quan non trẻ như tôi. Nhà vắng, không một bóng người, chỉ có nàng đang nằm ngủ trên chiếc giường tre ọp ẹp. Nàng nằm ngủ tỉnh bơ xem như chuyện gió mưa là chuyện cuả trời đất còn chuyện ngủ là chuyện cuả riêng nàng, hai chuyện đó không dính nhập vào nhau. Về phép không báo trước, tôi định dành cho nàng một bất ngờ. Ai dè ngược lại nàng dành cho tôi một bất ngờ lớn hơn. Nàng nằm đó, nét con gái với những đường cong chưa phát triển hết cuả tuổi dậy thì đã làm cho tim tôi bỗng nghẹn ngào thảng thốt. Trong giấc ngủ nàng như hơi mỉm cười hơi thở nhẹ làm cặp vú bằng cái núm cau nhỏ xíu quên mặc áo ngực nhấp nhô như mời gọi. Tôi chỉ biết quì bên cạnh giường nàng giữa dòng nước để ngắm nhìn im lặng. Trong tôi là một nỗi đam mê thánh thiện, tiềm thức đã in sâu khuôn mặt nàng và làn tóc rối. Hệ thống quay phim trong đầu tôi làm việc, tôi quay đi quay lại khuôn mặt thánh thiện đầy man dại kia trong giấc ngủ và lưu giữ nó vào từng sợi máu trong hệ thống thần kinh não tủy. Mỗi khi nhớ đến tôi chỉ cần nhắm mắt, khuôn mặt nàng như một khúc phim quay chậm lần lượt hiện ra cùng với niềm thương yêu theo tôi cho đến cuối đời. Khuôn mặt đó rất thân quen, chàng làm sao quên được. Chàng cố moi óc để nhớ, để suy luận cô gái này mình đã từng gặp ở đâu, nhưng không thể nào nhớ nổi. Cô gái chỉ vào khoảng 20 trở lại, còn chàng thì đã ngoài 40, có một khoảng thời gian quá cách biệt không thể tạo ra trường hợp gặp nhau. Nhưng không hiểu sao từ lúc tình cờ thấy được khuôn mặt cô gái chàng đâm ra vương vấn mơ hồ. Trước đây mỗi lúc ghiền thuốc chàng phải ra balcony để hút vì sợ khói làm ngộp căn phòng. Giờ thì chàng cố tạo ra cơ hội, chiều nào cũng vậy vào giờ nhất định ra ngoài balcony để có lý do nhìn vớ vẩn xuống bãi đậu xe, chờ đợi được nhìn cô gái đi làm về. Còn cô gái từ lúc biết có người từ trên cao nhìn xuống, không còn tắt máy lẳng lặng vào nhà như mọi khi. Sau khi đóng cửa xe lại, thế nào cũng ngước lên cười với chàng một tí. Chàng chỉ cần có thế, chỉ cần có bấy nhiêu đó mà thôi, hồn mình bỗng nhiên dịu vợi. Hai người đã mặc nhiên quen biết nhau: người chờ và kẻ được chờ. Cô gái nhỏ gọi chàng bằng chú, chàng gọi cô gái bằng cô bé để thay thế tên gọi. Cả ngày chàng chỉ cần hai tiếng chào chú êm dịu phát ra từ cái miệng hình trái tim nhỏ nhắn kia. Đến nỗi đôi lúc chàng tự giật mình, không biết mình chờ đợi cô gái đến khát khao để nghe hai tiếng chào dịu dàng hay là để tìm lại một khuôn mặt, một bóng hình đã xa trong dĩ vãng? Chỉ biết hai ngày cuối tuần cô gái không đi đâu, vắng cô gái theo thói quen, chàng đâm ra buồn thơ thẩn. Chẳng lẽ nào cô gái lại chiếm lấy tâm hồn già nua đầy cằn cỗi cuả mình? Chẳng lẽ chàng đã yêu cô gái này như một cơ duyên tiền định? Một trái tim héo hắt muộn phiền đã ngủ quên một thời gian dài nay bỗng nhiên thức dậy? Ngày ra trường tôi có mười ngày phép để chuẩn bị về đơn vị mới. Mười ngày đó tôi và Đành chính thức yêu nhau. Mười ngày khoảng thời gian không đủ dài để tôi dành tất cả cho nàng. Nhưng biết sao hơn, chiến tranh đang tàn phá quê hương. Ngoài Đành ra tôi còn có bổn phận cầm súng để góp phần bảo vệ nửa mảnh đất hình chữ S này đang bị Cộng Sản miền Bắc xâm lăng. Ngày tôi ra đơn vị, Đành đứng bên cạnh trong lúc chờ đón xe xuôi về miền Trung, hai con mắt nàng đỏ hoe. Tôi cố mỉm cười: "Anh không bao giờ dám nghĩ là sẽ có một ngày mình có một cuộc tiễn đưa mà anh thì không thể hưá ngày trở lại." "Em cũng thế. Chỉ sợ chuỗi thời gian sắp tới em không biết phải làm gì để khoả lấp được nỗi nhớ anh?" Tôi đùa:: "Thì em "cứ đợi anh về " như trong tuồng cải lương là xong có gì đâu." "Nhưng lỡ em không đợi được thì sao?" "Em cứ việc lấy chồng là yên chuyện." "Em không đuà với anh nữa" Rồi nàng tuyên bố: "Em đợi không được em sẽ tìm đến nơi mà anh sẽ đến." Tưởng nàng nói cho suông miệng. Không ngờ tháng 1/75 đơn vị tôi đang trấn giữ đèo An Khê, Bình Định với nhiệm vụ ngăn chận sư đoàn 320 cuả Cộng Sản Bắc Việt từ mật khu An Trường cắt quốc lộ 19 nối liền PleiKu - Qui Nhơn. Giữa lúc hai bên đang ghìm nhau để thăm dò ý đồ chiến thuật cuả mỗi bên thì Đành từ Ninh Hoà ra thăm tôi. Nhìn nàng bơ phờ hốc hác lặn lội đường xa, sự xúc động khiến tôi nghẹn ngào. Nàng ở với tôi một tuần và cho tôi tất cả, kể cả tuổi thanh xuân mà hai đưá tôi cùng giữ gìn. Biết sao hơn, cả hai chúng tôi cùng ích kỷ trong tình yêu mà chiến tranh thì khốc liệt sẳn sàng chia cắt bất cứ lúc nào. Những buổi sáng, sau một đêm biết mình còn sống, tôi và nàng ngồi trên đỉnh đèo nhìn xuống đường 19 sâu thẳm chạy ngoằn ngoèo như một con rắn nhỏ. Buổi sáng ở đó, sương mù bao phủ đầy cánh rừng phiá dưới giống như mây bay trong truyện cổ tích. Tôi và nàng như là đang ở trên mây. Nếu không có chiếc áo jacket nhà binh quấn chung quanh người nàng cho đỡ lạnh và trên người tôi không trĩu nặng hai cấp số đạn trong tư thế sẵn sàng tác chiến thì tôi cứ ngỡ tôi và nàng đang ở một thế giới khác, thật bình yên, không chết chóc, không có chiến tranh và thù hận. Khi mặt trời vưà ló dạng ở phiá đông, chim rừng đã thi nhau ca hát. Tôi choàng tay qua vai Đành, nàng nép mình trong lòng tôi bé nhỏ. Tự lúc đó tôi biết rằng hồn tôi vĩnh viễn không thể thiếu nàng. Áp lực chiến sự càng lúc càng nặng. Trước tình hình dầu sôi lửa bỏng, đơn vị tôi có thể di quân bất chợt. Tôi năn nỉ hết sức nàng mới chịu về. Chiếc xe Dodge cuả đại đội đưa nàng trở lại thị trấn Bình Khê. Khi chiếc xe nhà binh cũ kỹ lăn bánh, nàng nắm chặt lấy tay tôi, đôi mắt mở to ngơ ngác. Nàng cố thu hết hình ảnh cuả tôi lần cuối cùng trước khi bịn rịn thả tay tôi ra. Tôi ráng nhoẻn miệng cười méo xẹo để nàng yên tâm. Đôi mắt đó đã làm tôi choáng váng, không khóc nhưng sao long lanh như ngấn lệ. Nhìn vào đôi mắt nàng tôi thấy mình sao quá đỗi hiu hắt cô đơn. Chàng chạm mặt cô gái ở lối vào Apartment một cách cố ý: "Chào cô bé" Cô gái đang suy nghĩ điều gì, giật mình mở to đôi mắt hốt hoảng: "Ồ my god, chào chú." Thoáng một cái, chàng thấy mình biến thành hai người đứng trong lòng đen đôi mắt cô gái. Trong khoảng thời gian một phần ngàn tích tắc, chàng chợt rùng mình. Chàng tình cờ bước vào đôi mắt đó, mà cả chính chàng và cô gái không hề hay biết. Cô gái hỏi chàng: "Chú đi đâu thế?" Chàng thật thà: "Chú đâu có đi đâu. Chú cố tình đụng đầu với cô bé để làm quen. Bởi vì hình như chú đã từng gặp cô bé ở một nơi nào mà chú không nhớ nỗi “ Sợ cô gái hiểu lầm với lối tán gái cũ rích, xưa như trái đất, chàng thêm: "Chú nói thật đó" Cô gái cười: "Cháu đâu có nói chú dối đâu. Hay là mời chú ghé lại phòng cháu chơi." "Cô bé không ngại à?" "Ngại gì. Cháu sống một mình, quen được chú, thêm một đồng hương nơi xa lạ này cũng là một điều hay." Phòng của cô gái ngăn nắp, sạch sẽ không giống như cái ổ chuột của chàng. Chàng hỏi: "Cô bé ở một mình?" "Không, với một người bạn gái nữa" "Thế cô bạn đâu rồi?" "Nó nghỉ vacation về Florida thăm gia đình rồi" "Còn gia đình cô bé?" "Đây này..." Cô gái chỉ chung quanh căn phòng "Không, ý chú muốn hỏi về ba mẹ" Mặt cô gái thoáng buồn: "Cháu không có ba mẹ" Sợ vô tình khơi lại một nỗi niềm thầm kín nào đó cuả cô gái, chàng lúng túng: "Ồ... cho chú xin lỗi, chú không cố ý." " Không sao đâu, cháu quen rồi. Còn chú?" Chàng đùa: "Chú cũng vậy, chú không có ba mẹ. Chú ở một mình" "Ý cháu muốn hỏi vợ con chú kìa” "Chú mồ côi vợ từ lâu lắm rồi" "Thế ai bảo lãnh chú qua đây?" " Không ai bảo lãnh hết. Chú đi theo chương trình HO. Khi phỏng vấn chú ghi danh theo kiểu con bà phước. Chính phủ Mỹ đưa chú qua đây dưới sự bảo trợ cuả hội thiện nguyện địa phương." Chàng sợ cô gái không hiểu con bà phước là gì, chàng giải thích: "Con bà phước nghĩa là tứ cố vô thân đó cô bé" Cô gái nhìn chàng thương hại: "Như vậy, đứng về một phương diện nào đó, hoàn cảnh của hai chú cháu mình giống nhau." Kết quả những ngày ở với tôi trên đỉnh đèo An Khê, Đành mang thai. Đầu tháng 3/75 Tiểu đoàn trưởng cấp cho tôi ba ngày phép đặc biệt để về Ninh Hoà cưới vợ. Thị trấn hiền lành này cuả những ngày tháng 3/75 sống trong tình trạng lo âu hốt hoảng. Ban Mê Thuột mất, phòng tuyến đơn vị Dù trấn giữ Khánh Dương tan vỡ. Cộng Sản Bắc Việt đang theo quốc lộ 21 tiến quân về Nha Trang. Tất cả dân Ninh Hoà gởi gấm niềm tin vào sự chiến đấu cuả các trung tâm huấn luyện Đặc khu Dục Mỹ. Tôi cưới vợ trong cơn hấp hối cuả chính quê hương mình. Trước ngày trở lại đơn vị, tôi ngồi với nàng suốt đêm bên bờ sông Dinh để chờ trời sáng. Dòng nước đen xanh dưới những chòm sao lấp lánh, thấp thoáng một vài đám lục bình trôi dật dờ không biết giạt về đâu giữa cơn bão nổ hưá hẹn đổ ập xuống vùng đất hiền lành. Nàng hỏi tôi: "Khi nào chiến tranh kết thúc hả Tấn?" "Anh làm sao biết được. Anh chỉ là người lính chiến đấu theo lệnh. Nhưng anh nghĩ Ninh Hoà là ngã ba giao liên giữa hai quốc lộ 1 và 21. Đó là hai quốc lộ chính huyết mạch để phòng thủ Nha Trang, bất cứ giá naò cũng phải giữ không thể mất. Mà thôi, em đừng thèm nói chuyện chiến tranh nữa, nói chuyện mình đi. Anh chỉ còn ở với em vài tiếng đồng hồ thôi." Giống như trăm ngàn đàn bà con gái trên cõi đời này, nàng ngả đầu trên vai tôi khi nói về tương lai: "Anh thích con mình là con trai hay con gái?" "Con gái giống hệt em" "Em thích con trai. Con gái cứ phải hồi hộp đợi chờ cả đời, khổ lắm. Con trai bay nhẩy đây đó khỏi phải bận tâm. À này, con mình ra đời anh đặt tên nó là gì" "Em chọn đi" "Không, cho anh chọn trước" Tôi đâu nghĩ một lúc nào đó mình sẽ có con, nên hơi mắc cỡ. Nhưng thấy nàng tha thiết đến nghiêm trang, tôi đề nghị: "Hay là em chọn tên con trai, anh chọn tên con gái" "Cũng được" Như đã có chủ ý từ trước, nàng dứt khoát: "Nếu là con trai em sẽ đặt tên cho nó là... Đăng Quang. Đến phiên anh" "Anh à... Nếu con gái anh đặt tên cho nó..." Bây giờ đang là cuối xuân, nhưng quê tôi đã là chớm hạ. Bởi cây sầu đông ven sông, những cánh hoa li ti bắt đầu rụng để kết nụ thành trái. Tôi nhìn những cánh hoa nhỏ xíu trắng loang loáng trên mặt nước, không khí thật yên lành như thể chiến tranh đã dừng chân ở một nơi nào xa lơ xa lắc. "Anh sẽ đặt tên cho con là Uyên Hạ" Tôi giải thích thêm: "Uyên là đôi uyên ương giống hai đưá mình. Hạ là muà Hạ, cái muà con mình được tạo nên hình dáng. Em đồng ý không?" "Nghe hơi caỉ lương, nhưng em đồng ý" Tôi đưa ngón tay trỏ ra móc ngoéo với nàng. Đành chỉ vào đám lục bình trên sông: "Cuối cùng nó sẽ về đâu anh nhỉ?" "Ra cưả biển. Tất cả đều ra cưả biển" Nàng thì thầm: "Biển, đó là nơi đến cuối cùng. Sóng lặng yên lành hay bão tố. Trong chiến tranh kiếp sống cuả một con người đâu khác gì đám lục bình trôi bềnh bồng trên mặt nước." Sáng hôm sau tôi trở lại đơn vị trên chiếc xe đò trống trơn. Bù lại, ngược chiều là những chiếc xe chật ních người. Dân chúng miền Trung bắt đầu di tản về các tỉnh phiá Nam. Trên báo chí hình ảnh cuộc tháo chạy khỏi Pleiku theo liên tỉnh lộ 7 cuả quân đội đã gây sự bất ổn cho mọi người. Pleiku bỏ trống, đèo An Khê trở thành tiền đồn chính để giữ vùng duyên hải trên quốc lộ 19. Việt Cộng pháo kích như mưa vào thị trấn Bình Khê trước khi ào ạt xua quân chiếm lấy. Đơn vị tôi bị bao vây trở thành ốc đaỏ không ai ngó ngàng đến. Chúng tôi không còn cấp chỉ huy và hậu cứ, đành phải tan hàng. Chúng tôi chia nhau từng toán nhỏ xé rừng thoát thân số mạng giao cho hên xui may rủi. Khi về đến Qui Nhơn, không thể nào diễn tả nỗi tuyệt vọng cuả tôi khi thị xã không bóng người. Tiểu Khu Bình Định và Bộ chỉ huy Cảnh Sát đang còn ngùn ngụt cháy. Hai cơ quan quyền lực nhất tỉnh bị mất bởi những tên du kích điạ phương không đáng một đồng xu bát gạo. Những tên không đáng một đồng xu bát gạo đó khi nghe chúng tôi còn kẹt lại Quân y viện Qui Nhơn đang tìm cách thoát ra biển đã tặng chúng tôi khoảng 10 trái súng cối 82 ly trước khi bao vây bắt loa kêu gọi chúng tôi đầu hàng. Ngày 01/04/75 lợi dụng trời đang chạng vạng tối, tôi và một thằng nữa vưà bò vưà lết ra bờ biển. Chúng tôi bò lết trong trạng thái vô thức, vô tri giác, bò không biết về đâu, làm gì, trong khi tứ bề thọ địch. Đang bò bỗng thằng bạn cắm đầu về phiá trước. Tôi chưa kịp đưa tay ra đở thì nghe tiếng hét lanh lảnh: "Giơ tay lên. Đứng dậy" Tôi ngoan ngoãn đưa tay lên khỏi đầu thật hiền lành. Suốt mấy ngày gần như không ăn uống thêm sự lo âu không biết bị bắt lúc nào đã khiến thần kinh tôi căng thẳng muốn nổ tung. Giờ bị bắt tư ïnhiên tôi thở phào nhẹ nhõm. Biển rì rào bên cạnh. Tôi hít một hơi thật dài, khẻ nhắm mắt để lắng nghe một tiếng nổ thật bình thản. Tiếng hét lúc nãy lại vang lên: "Một tay để trên đầu, một tay tháo giày ra mau." Khi tôi vừa buông đôi giày, hai thằng xông đến. Bằng tất cả sức vũ phu sẵn có, chúng kéo giật hai khuỷu tay tôi ra đằng sau, dùng dây dưà trói chặt. Đầu mũi súng chọt mạnh vào ngực tôi đau điếng: "Đi.." Tôi nhẹ nhàng đi trên biển, gió từ ngoài khơi thổi vào mát rượi. Lần đầu tiên được đi chân trần sau mười ngày đôi giày không cởi, ngay cả trong giấc ngủ, tôi có cảm tưởng mình đang đi trên nhung. Cát biển mịn dưới chân về đêm âm ấm chui vào từng kẽ ngón. Biển khiến tôi chợt nhớ có lần hưá với Đành khi nào về phép sẽ đưa nàng đi dạo biển Nha Trang về đêm. Chuỗi ngày sau đó dưới mũi súng cuả những tên Việt Cộng trẻ con đầu óc đã được nhồi sọ chất đầy căm thù, đám tàn quân chúng tôi áo quần tơi tả hằng ngày phải bươi móc, dọn dẹp lại thành phố. Trong những ngôi nhà đổ nát vì chiến tranh xác của những đồng đội tôi những người không chịu đầu hàng và chọn cái chết , những đôi mắt mở trừng trừng không chịu nhắm lại dù tôi cố lén đưa tay vuốt mắt từng người . Những đôi mắt ngửa thao láo nhìn lên bầu trời dường như vẫn còn hy vọng tận cuối phương trời phiá Nam những chiếc máy bay xuất hiện như một kỳ tích để phản kích lại đối phương như mọi lần trước đó. Bây giờ là đầu tháng tư những chiếc loa hàng đêm trong trại giam ra rả hét ỏm tỏi vào tai về những chiến thắng bất ngờ dễ dàng ngoài dự trù mơ ước cuả chúng trên đường tiến quân về Sài Gòn. Những hy vọng mơ hồ cuả chúng tôi trở thành tuyệt vọng hoàn toàn. Nhưng tôi vẫn phải sống vì tôi không được chết. Nói cho đúng hơn, tôi thèm sống một cách tuyệt vọng lạ lùng. Bọn chúng vẫn khai thác hàng ngày trên xác thân ốm yếu càng lúc càng tàn tạ này bằng mọi kiểu. Tôi là một người lính bại trận không còn gì để nói, cho nên bọn chúng xem tôi là một tên ngoan cố, cứng đầu. Để tránh đau đớn cuả mỗi lần tra tấn mà da thịt tôi dù thiếu ăn đói khát vẫn còn cảm nhận, đêm đêm trước mỗi ngày chúng dẫn tôi từ phòng biệt giam ra để hỏi cung, tôi tự diệt sức lực còn sót lai cuả mình bằng cách thủ dâm. Chỉ có cách đó mới đối phó với những ngọn đòn thù cuả bọn chúng. Tôi muốn mình không còn đủ sức để tỉnh khi ngọn đòn tra tấn đầu tiên phủ lấy lên người. Trước khi chìm vào cơn mê loạn, hình bóng cuả Đành hiện về nhức nhói đến buốt da. Tôi liên tưởng đến nàng, vì nàng là cứu cánh trong tâm hồn và thể xác khô cằn này. Khi thể xác cuả tôi bất chợt rung lên những khoái cảm đớn đau đến nghẹt thở, tôi gọi tên nàng mà không khóc được, bởi cơ thể không còn năng lượng để tạo ra nước mắt. Vì tôi cứng đầu nên bọn chúng đã biệt giam tôi suốt năm năm trời không được tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Sau này tôi mới biết rằng những năm này Đành cố gắng tìm tôi nhưng tôi vẫn biệt tích, vì thế nàng đinh ninh rằng tôi đã chết. Nàng chọn ngày 01/04 là ngày Qui Nhơn bị mất để làm đám giỗ cho tôi, và xem ngôi mộ tập thể ở dưới chân trụ cờ của Quân Y Viện Qui Nhơn là nơi tôi yên nghỉ. Mười năm biệt xứ từ trại tập trung tôi được thả về. Tôi trở lại con xóm nhỏ ven sông thị trấn Ninh Hoà ngày xưa. Cảnh cũ đã không còn. Căn nhà tranh nơi nàng nằm trải tóc tuổi thơ, bão tố năm nào không làm sụp đổ, nay giặc về chỉ còn là mô đất trống với cỏ dại mọc bao quanh. Cây sầu đông nơi đêm cuối cùng ngồi bên nàng trước ngày trở lại đơn vị đã bị chặt ngang lưng. Cạnh đó là đầu cuả một con đập bằng tre chắn qua sông. Rác rưới phiá trên dòng không lối thoát vướng vào hàng cây chắn ngang cứ dật dờ, dật dờ làm cho màu nước thêm đục ngầu. Những điều tôi biết về nàng rất ít. Chỉ biết sau khi mất nước, nàng sinh con gái, và khi chắc chắn tôi đã chết không còn hy vọng sống sót trên cõi đời này, nàng đã ẵm con đi đâu không rõ. Sau có người nói là nàng đã vượt biên, toàn thể chiếc ghe đều chết chìm trên biển. Tôi đứng trên thành cầu nhìn xuống dòng sông. Con đập làm dòng nước lặng lờ không muốn chảy. Phải chi tôi còn nước mắt để nhỏ xuống con sông, những giọt nước mắt sẽ làm đầy con nước, để tất cả khổ đau cuốn phăng ra biển để gởi đến vợ con tôi. Con đập chắn ngang dòng sông nơi kỷ niệm giống như vết dao chặt ngang thân xác này mà không chảy máu. Mười năm tù tội đã biến bên ngoài hình dáng tôi thành một con người khác, nhưng bên trong những nỗi khổ đau không thể nào phai dù năm tháng có chất chồng dày dày lớp lớp. Vì nàng đã bất diệt trong tôi. Chàng hỏi cô gái: "Hoàn cảnh chú và cô bé giống nhau ở điểm nào?" "Cháu từ đảo qua đây cũng theo diện con bà phước giống như chú." Nhìn bên ngoài cô gái gần như là Mỹ hóa, chàng không tin cô gái nói thật. Tuy thế chàng vẫn tò mò: "Cô bé có thể kể cho chú nghe tại sao cô bé không có ba mẹ hay không?" Cô gái tỉnh bơ: "Tại vì ba mẹ cháu đã chết" "Ồ …. cho chú xin lỗi" "Không sao đâu chú." Cô gái buồn buồn. Hình như có một hấp lực nào đó xui khiến chàng buột miệng: "Kể cho chú nghe về ba mẹ đi" Cô gái khẽ gật đầu rồi ngồi yên. Chàng đưa mắt thử xem con nhỏ tiếp tục làm gì. Bỗng nhiên khuôn mặt Cô gái xa xăm nhìn ra cửa .. Mẹ nuôi cháu trong nỗi nhớ thương người chồng đã mất, chất chồng và áp bức chung quanh. Đối với xã hội hiện tại, mẹ con cháu chỉ là những cọng rơm khô được hiện hữu bên lề. Cháu vô tư và cầu mong mình yên lành như vậy, miễn cạnh cháu lúc nào cũng có mẹ bao bọc chở che. Nhưng chính quyền lại không muốn như thế, họ muốn đốt cháy luôn cọng rơm bé nhỏ này, bởi không gian đất trời đã là tài sản mà suốt 30 năm họ cố chiếm cho bằng được bằng mưu đồ gian manh. Ba cháu khi còn sống là lính, một trong những lý do đã ngăn chận phần nào thời gian sớm hơn ý đồ cuả họ. Cho nên khi chiến thắng chuyện rửa hận họ ngồi tính sổ là chuyện đương nhiên. Căm thù trút lên đầu mẹ cháu, người đàn bà trở thành goá buạ ở tuổi hai mươi. Mẹ cháu 20 tuổi với bào thai 5 tháng còn nằm trong bụng. Mờ tinh sương đã thức dậy tảo tần đón những gánh rau cuả dân làng ven thị trấn, để sáng đem ra chợ ngồi bán. Kiếm sống theo nhu cầu sinh tồn lại thường xuyên bị kết tội là chây lười lao động, quen thói ngụy ăn bám hút máu nhân dân. Mẹ cháu là một trong những đối tượng bị kiểm điểm phê bình hằng đêm bởi những tội lỗi mà ngay bản thân mẹ không hiểu được. Nhan sắc cuả một goá phụ ở tuổi 20 giống như một bông hoa đang nở, thêm một lý do để đám cường quyền cấp hạ tầng cơ sở đóng vai anh hùng cứu mỹ nhân, gia ân bố thí để mong đòi hỏi một giây phút ngã lòng nào cuả người thiếu phụ cô đơn. Mẹ âm thầm chịu đựng, luồn lách tránh né, cầm cự qua ngày để mong sinh được cháu ra, dạy dỗ cháu nên người. Trong lòng mẹ, cháu là chứng tích kết hợp bởi máu và tim từ một mối tình bất tử. Mẹ vẫn âm thầm hy vọng trong một nhiệm mầu ba cháu vẫn còn sống trên thế gian này để mà trở lại. Nhưng thực sự ba cháu đã chết. Mẹ kể ở năm cháu lên 8 tuổi, cái tuổi chưa thấu hiểu nổi chuyện đời, nhưng có thể ghi nhận được những gì mà mình không thể nào quên. Mẹ kể vào một ngày cuối tháng 3, khi chiến tranh kể như chấm dứt tại thị xã Qui Nhơn thì ba cháu đã nằm xuống trong tư thế cuả một người chiến bại. Đối với kẻ chiến thắng, đó là cái chết tất yếu cuả một tên làm tay sai Mỹ ngụy đầy nhục nhã. Nhưng đối với mẹ, ba là một anh hùng vì người đã nằm xuống trên mảnh đất mà người có nhiệm vụ cầm súng để bảo vệ. Ba cháu đã chiến đấu cho đến phút cuối cùng không hề bỏ chạy như một số người. Ba đã chiến đấu chống lại cái phi nhân, bất nghĩa mà hôm nay mọi người đã thấy. Ba cháu không thành công vì ngươi là lính chịu chung số phận nghiệt ngã theo một qui luật, nhưng ba đã thành nhân, ít nhất ra đối với mẹ và sau này là cháu. Tám tuổi, một đêm mưa buồn trong túp lều tranh xa xôi quê nhà, mẹ ôm cháu vào lòng kể lại chuyện tình giữa ba với mẹ. Mẹ kể có những buổi sáng mây mù bao quanh trên đỉnh đèo An Khê, mẹ dựa vào vai ba bềnh bồng trên mây. Ba vững như ngọn núi để mẹ là mây quanh năm bao phủ. Mẹ chỉ con đập chắn ngang dòng sông trước nhà, mẹ nói nơi đó trước đây có một cây sầu đông. Đêm cuối cùng ba ngồi với mẹ nhìn những cánh hoa sầu đông nhỏ xíu lăn tăn gợn trên mặt nước để đặt tên cháu. Có một thoả ước giữa ba và mẹ, mẹ đặt tên con trai, ba đặt tên con gái. Khi ra đời vì cháu là con gái nên thừa hưởng cái tên do ba để lại như một di sản của người. Cháu còn nhớ có lần mẹ dẫn cháu đến biển Qui Nhơn mẹ chỉ vào cỗng của một cơ quan, mẹ nói trước đây là Quân Y Viện mà dưới chân trụ cờ là nấm mộ tập thể của 47 quân nhân VNCH tử trận. Trong nấm mồ đó có xác của ba cháu mà những đồng đội của người trong buổi chiều ngày 31/03/75 đã vội vã chôn như một nghĩa cử tuyệt vọng cuối cùng trước khi những kẻ miền Bắc tiến vào chiếm giữ. Mẹ nói những người đã chết khi nhiệm vụ gìn giữ tự do không thể chu toàn nên họ không thể nào nhắm mắt. Mẹ còn nói đời mẹ giống như những đám lục bình bập bềnh trên dòng sông quê nhà. Tất cả cuối cùng đều ra biển để phó thác cho may rủi. Thế rồi mẹ quyết định ra đi." Cô gái xuất thần tiếp tục nói với khoảng không trước mặt, gần như chẳng hề biết có chàng đang ngồi bên cạnh. Cơ hồ như nếu không có chàng, cô gái vẫn có thể nói một mình, nói với chính mình nỗi đau chất chứa bao năm. Còn chàng, những giọt nước mắt tưởng đã khô cạn bao năm trong quá khứ đắng cay, trong hiện tại phũ phàng, trong tương lai muôn trùng bỗng nhiên rơi đầy khuôn mặt. "Ngày thứ 15 lênh đênh trên biển vì lạc hướng đi, mọi người trên thuyền chỉ còn biết mong chờ phép lạ. Trong cơn nguy nan tâm lý chung người ta thường cầu xin đấng thiêng liêng vô hình thương xót. Thượng đế, hoặc là không có thực, hoặc là những người trong chuyến đi nặng đầy nghiệp chướng, cho nên đáp những lời cầu xin bi thương đó biển đem lại cho họ một lũ người dã man hung dữ còn hơn loài cầm thú. Những tên ác nghiệt này giật mạnh cháu từ trong tay mẹ vứt vào góc thuyền. Mẹ hét lên trong phản xạ cuả một con cọp cái bị cướp mất đứa con, nhào tới cào cấu cố dành lại được cháu. Mẹ mạnh mẽ phi thường trong tim óc, nhưng thể xác mẹ yếu đuối mỏng manh. Một tên đập báng súng vào mặt mẹ, cháu nghe tiếng súng nổ và mẹ rơi xuống biển. Cháu chỉ biết thét lên hãi hùng. Sau đó cháu ngất lịm không còn biết gì nữa. Sau này cháu được biết cháu là một trong năm xác chết còn sống bị bỏ sót lại trên ghe mà người ta cứu được. Cháu đã mất thời gian bao năm tháng để lấy lại quân bình, và cứ thế cháu lớn lên đầy muộn phiền trong trại tị nạn Bidong Mã Lai cho đến khi được một gia đình từ tâm bên Mỹ nhận bảo trợ để qua đây. Hiện cháu đang sống bình thản như một người đã chết, còn những người đã chết thì đang sống muôn đời trong tận cùng nỗi đớn đau mà cháu ấp ủ." Cô gái ngừng nói. Tự nhiên cô nhoẻn miệng cười đưa chiếc khăn tay lên chậm chậm hai con mắt của mình. Ở đó là những giọt lệ long lanh: "Cháu bỗng dưng bắt chú nghe chuyện của cháu, kỳ ghê. Nhưng cháu cũng không hiểu sao ở chú dường như có một cái gì khiến cháu cầm lòng không nổi. Một cái gì đó đã gây cho cháu vô cùng xúc cảm." Chàng không trả lời cô gái, chàng chỉ hỏi một điều gần như lạc đề: "Cô bé có còn giữ tấm hình nào cuả mẹ hay không?" "Dạ còn, chú muốn xem à?" Chàng gật đầu. Cô gái đứng dậy lục trong xách tay, lấy đưa cho chàng một tấm hình đen trắng. Tấm hình đã muốn ố vàng vì thời gian năm tháng. Trong hình một người đàn bà khoảng 24, 25 tuổi đứng gần bên một đưá bé gái. Sau lưng là căn nhà tranh, một bên chái quỵ hẳn xuống được chống lên bằng cây nạng gỗ. Căn nhà trông giống như một phế binh lạc loài cô đơn. "Đây là mẹ cháu. Đưá bé gái này là cháu lúc đó lên năm tuổi." Người đàn bà mái tóc cắt ngắn, không còn dài như xưa, nhưng khuôn mặt kia làm sao chàng quên được. Khuôn mặt đó đã tan thành máu nuôi cơ thể chàng suốt bao năm. Chàng hốt hoảng quay sang nhìn cô gái. Lúc này chàng mới phát giác ra rằng: mái tóc đó, khuôn mặt đó, đôi mắt đó, vóc dáng đó là của Đành hai mươi năm về trước. Thảo nào khi gặp cô gái chàng đã có cảm giác thân quen như đâu từ muôn kiếp. Thật giản dị, tại sao mãi đến giờ phút này chàng mới biết được? Chàng cũng chợt nhớ, từ lúc quen cô gái đến giờ chàng vẫn chưa có dịp hỏi tên. Giờ thì chàng hỏi mà giống như kiểm chứng, xác nhận một điều: "Cô bé có phải tên là... Uyên Hạ?" Cô gái ngạc nhiên gật đầu, chàng tiếp: "Mẹ cô bé tên... Đành? Lần này thì cô gái thảng thốt: "Tại sao? ....Tại sao chú lại biết tên mẹ cháu?" Giống như vừa kéo xong một bi thuốc lào vào buổi sáng bụng trống, chàng nói trong cơn say dật dờ choáng váng như là nói cho riêng mình đã trở thành một hồn ma hiện về báo mộng: "Vì sao à?...Vì tấm hình này là hình của vợ con ta. Vì mái tranh nghèo đổ nát phía sau là chứng tích nơi ta đã từng đến đó, từng ở đó từ những năm tháng còn thơ. Trước mặt còn có một dòng sông, lần cuối ta ngồi bên ai vào một đêm tối trời để đặt tên cho con là Uyên Hạ. Và bởi vì ba là người lính thua trận mà hai mươi năm về trước, mẹ con tưởng rằng ba đã chết Quan Dương |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22933 |
Gởi ngày: 17/May/2024 lúc 10:16am |
Người Lính Miền Nam Anh HùngHình minh họa Bất cứ một quân nhân VNCH nào cũng xứng với danh hiệu anh hùng ( bất kể Việt Cộng cố gắng bằng mọi cách để nhục mạ họ, goi họ bằng tên này tên khác. Có quân đội nào trên thế giới khi thua trận lại chọn lấy cái chết cho cá nhân mình , như những người lính VNCH ?, Sĩ quan cao cấp thì còn hiểu được vì họ đã thụ hưỡng những đặc ân của chế độ, nhưng giải thích làm sao với những người lính hầu như ở dưới cùng của nấc thang cấp bậc ? Binh Nhì, Trung Sĩ, Hạ Sĩ ? những người lính chịu đựng nhiều nhất trong tập thể. Đơn giản vì họ thà " Chết Đứng Hơn Sống Quỳ" Có chăng chỉ là những người lính thấm nhuần tinh thần Vỏ Sĩ Đạo ( Samurai) Sau khi Nhật thua trận vào Thế Chiến Thứ Hai. Cái chết của những người lính miền nam chỉ muốn nói lên một điều là rõ ràng họ Không Sợ Chết Nhất Là CÁi Chết cho TỔ Quốc ( một cách Đền Ơn Tổ Quốc). Vì không làm tròn bổn phận mà Tổ Quốc và Nhân Dân đã giao phó cho mình . Thực ra họ đã làm tròn việc họ phải làm( và không ai có thể trách họ điều gì , nhưng hình như mỗi người đều tự trách móc bản thân đã buông súng khiến đất nước đồng bào phải chịu đầy ải đau thương như bây giờ.Tôi thấy rõ một điều: nếu DVM , không ra lệnh đầu hàng, còn lâu Việt Cộng mới chiếm được miền Nam như ngày hôm nay, Nếu họ cố gắng cầm cự cho dù họ không còn đầy dủ khí giới như ngày xưa Cho đến khi quốc tế can thiệp theo đúng hoà đàm Paris. Sẽ có chết chóc , nhưng muôn tự do chúng ta phải chịu hy sinh, khi không thể dùng ná cao su đánh nhau với T54, AK 47.... Tuy nhiên, VC cũng mở mắt chúng ta một điều là đừng quá lệ thuộc vào người khác. Chúng ta dã từng học đánh giặc theo kiểu nhà giàu của Mỹ, và khi Mỹ buông tay, chúng ta không có nguồn nào khác. Trong chiến tranh VN những lảnh đạo của chúng ta phải tiên liệu việc Mỹ rút lui, vì thiệt hại quá nhiều về người và của ( Đáng lẻ người Mỹ nên nghe theo lời Tổng Thống NĐD trước khi đổ quân vào miền Nam, nhưng sự kiêu căng của họ đã làm họ phải rút quân một cách thảm hại ). Các đơn vị miền Nam vẫn còn khả năng chiến đấu. Đó là lý do VC muốn đôn DVM lên làm Tổng Thống thật nhanh để có cớ buộc lính miền Nam buông súng càng nhanh càng tốt. VC biết rất rõ khả năng tác chiến của lính miền Nam , cho nên chúng ra sức trả thù họ trong nhựng trai cải tạo lao động khổ sai (chúng rất muốn nhưng không thể tàn sát họ trước thế giới (vì VC còn cần viện trợ, nên giết họ một cách từ từ cay độc- VC biết rõ là những người con miền Nam, Không Thể Bị Tẩy Nảo. Đừng nói gì những người lính hay viên chức chính quyền, mà cả dân miền Nam( khôngf nghe những trường hợp dân chúng tự sát như quân nhân nhưng ho có cách tự tử bi hùng trước con mắt thế giới (Họ chọn VƯỢT BIÊN và VỰƠT BIỂN) Tôi ngạc nhiên khi nghe Bò Đỏ và dư luận viên miệt thị những người lính miền Nam ĐU CÀNG . Bọn này không hiểu tại sao họ làm điều đó. Thực ra chuyện dể hiểu đến nổi con nít cũng hiểu được TRỪ BỌN BÒ. Trong cơn tuyệt vọng họ tìm mọi cách để thoát khỏi vùng lửa đạn ĐỂ SỐNG!!!( Mặc dù hành động này cũng nguy hiểm không thua chạm súng với địch trên chiến trường, nhưng dù sao cũng còn có hy vọng sống sót, tránh bi Việt Cộng bắt làm tù binh. Límh VNCH khám phá nhiều hầm hố VC bỏ chạy để lại, và khi phát giác ra thì toàn la cán binh bi thương, được cho viên đạn ân huệ ( Đó là lý do quân đội Cộng Sản không có thương binh). Không thể mang theo thương binh trên đường rút chạy vì dịch truy duổi quá gắt, mà hậu phương thì xa quá, trong trường hợp này thì cho một viên đạn là gọn và dể nhất . VC cũng đã dùng chiêu thức này hồi Mậu Thân khi bắt giữ dân và lính VNCH trong thành nội. Bắt rồi mà thả về thì sẽ bị lộ bí mật quân sựmà bắn thì sẽ thiếu đạn dược trong khi chống trả nên cách tốt nhất là dập bể đầu liệng xuống hố chôn- nhiều trường hợp nạn nhân bị chôn sống. Đó là lý do nhiều nạn nhân khi tìm thấy , tay bị cột, và xương sọ bị bể dằng sau gáy vì bị đập bằng vật cứng. Sau này Khờ Me Đỏ cùng giết dân Nam Vang cùng một cách. Có lẻ nếu VC đưa được toàn bộ tù nhân bị bắt giữ lên núi bình yên , co lẻ họ cũng dem dám này theo , nhưng đang trên dương chạy trốn sự truy đuổi của lính miền Nam và Mỹ- Nhất là Mỹ với B52 trên đầu thì không còn cách nào khác hơn là hy sinh toàn bộ số tù đang bắt giữ. Một trường hợp khác nữa làm phe VNCH không muốn bị bắt làm tù binh là họ dã tìm thấy vài tử thi của lính Biệt kích Mỹ bị xử tử và cắt bộ phận sinh dục nhét vào mồm để hạ nhục . Người lính miền Nam biết rằng không thể để cho VC bắt sống ( phải trãi qua những hình phạt khủng khiếp mà họ đã thấy , cho nên có diều kiện đi thoát khỏi chiến trường thì họ làm để lo cho mạng sống , chờ đợt thư hùng một trận khác, có thể thông cảm và hiểu được ( VC cũng biết điều đó , nhưng có điều kiện để bêu xấu thì khuấy động lên thôi, chứ cái gì người lính miền Nam cũng tốt và hay hết thì không tuyên truyền, khuấy động được). Giờ đây thì nét hào hùng , tinh thần chiến đấu của lính miền Nam thì ai _ từ Nam ra Bắc - cũng đều biết rõ. Đó là lý do cái gì thuộc về VNCH và người lính miền Nam đều tồn tại và lưu giữ một cách trang trọng trong tâm hồn của những người dân Việt Nam, Từ quân phục, tới những bài hát trước đây dành cho người lính miền nam thì hầu như dân miền Bắc trân quý và trình bày rất cuốn hút.
Đơn giản là cái gì thuộc về CHÍNH NGHĨA thi tồn tại và cái gì không CHÍNH NGHĨA thì mai một theo thời gian. Nguoiviettudo |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22933 |
Gởi ngày: 21/May/2024 lúc 8:51am |
Cái Nón Sắt (Đ.Văn) Ara Phát Nhớ lại một thời, lúc trình diện nhập ngũ tại trung tâm 3 tuyển mộ nhập ngũ nơi quân vụ thị trấn, là do hắn tình nguyện nhập ngũ vì còn đang được hoãn dịch đến gần 1 năm nữa với lý do công vụ, bố hắn bực mình bảo hắn « ngông » . Thủ tục xong xuôi, bắt đầu đến lúc khám sức khỏe, nhộn nhất là khi trở thành Adam không mảnh vải che thân, bác sĩ bảo giơ hai tay lên, nhảy lên nhảy xuống vài lần, sau đó ông ta cầm một que như là thước bản nâng 2 « quả cà pháo » lên xuống xong phán một câu « đủ sức khỏe », thằng nào thiếu cà hay quả to quả nhỏ phải ở lại cho bác sĩ chuyên môn khám để kết luận xem có được cầm súng hay không, chỉ cần có ba chữ này là an tâm kiếm vợ . Sau đó hồ sơ đóng 3 chữ Đ. S. K mà hắn lại đọc là » Đồ Sở Khanh ». Xe GMC chở những người trình diện vào Quang Trung để thụ huấn giai đoạn 1 ngay sau đó. Vào đây được ban quân nhu phát những trang bị của một quân nhân, quần áo ba lô, vật dụng cá nhân, thứ gồ ghề nặng nề nhất là cái nón sắt. Nón sắt này lúc đầu được viết nơi mặt trước bằng sơn trắng số 45 E, là tên đại đội của hắn, bên hông viết tắt tên tiểu đoàn ĐTH đúng là Đinh tiên Hoàng, nhưng lính tráng suy diễn kiểu khác gọi là Đêm tân Hôn phía bên kia ghi danh số của quân nhân…khi qua đến Thủ Đức được sơn lại số 31, hắn vào tiểu đoàn 3 đại đội 31, lại còn số 311 là số trung đội và danh số .Chín tháng quân trường làm bạn với nón sắt, ra khỏi doanh trại là có » em » trên đầu, mọi nơi, mọi chỗ…đi tắm cũng mang theo để múc nước, ăn cơm ngoài bãi có những lúc tập nơi xe khó vào cũng dùng nón sắt đựng cơm, canh cho cả toán, kể cả lúc ngủ cũng có em bên cạnh, lúc nghỉ ngơi ngoài bãi, nón sắt lại trở thành ghế ngồi, tóm lại chiếc nón sắt và người lính như bóng với hình. Lớp bên ngoài là một vỏ kim loại còn gọi là ”nồi thép“, phần ngoài của vỏ được sơn theo sắc phục của các đơn vị xử dụng Nón có hai lớp. Lớp bên ngoài là một vỏ kim loại bằng thép, phần ngoài của vỏ được sơn theo sắc phục của các đơn vị xử dụng. Bên trong, lớp thứ nhì là một nón bằng nhựa được chế tác đặc biệt để tăng thêm độ cứng, từ đó gia tăng thêm mức độ an toàn cho người lính. Lớp lót bên trong nón M1 Hôm mãn khóa, hắn chọn đơn vị là biệt động quân, Đang mùa hè đỏ lửa nên không có phép mãn khóa 10 ngày và tất cả các tân sĩ quan đều ra đơn vị trình diện, nên cũng cố gắng nhét theo em vào túi xách (sac marin) để ra đơn vị . Tiểu đoàn hắn đến, được anh em cho một bao vải phủ ngoài và một lưới dùng để cắm cành cây ngụy trang…hắn chỉ hiểu một cách đơn giản là mạng sống của hắn từ đây sẽ được « em » che chở khi lâm chiến, hắn cũng dặn dò với anh em trong trung đội là nón sắt không được rời khỏi đầu, an toàn trên hết. Đội nón sắt giúp người lính ngoài mặt trận giảm được mức độ thương vong bởi các mảnh văng do bom, đạn, lựu đạn, mìn… cũng dùng để chống lại mức độ sát thương bởi các loại đạn bắn thẳng như AK-47 khi ở khoảng cách xa hay tùy góc độ viên đạn, nhiều binh sĩ chiếc nón sắt còn để lại vết lõm trên nón . Nói với các binh sĩ để họ hiểu tầm quan trọng của chiếc nón sắt họ đội, đó là sản phẩm có tên gọi là chiếc nón sắt M1 ra đời 1969. Nhìn mọi ngừơi lính VNCH đều được che chở với chiếc nón sắt mới thấy được sự chăm sóc của chính quyền, quân đội VNCH với những người mang thân ra bảo vệ đất nước, khác hẳn sự chăm lo của phía bên kia, họ hành quân với chiếc nón tai bèo hay chiếc nón cối mỏng manh, nhà nước chẳng quan tâm mà chỉ tuyên truyền bằng những ca khúc ngợi khen « chiếc nón tai bèo » mong manh trong chiến trận, họ tự lừa dối binh sĩ là nón tai bèo cơ động trong khi lâm trận . Khi được trả về bộ giáo dục, lúc đó hắn đang đóng quân ở Trảng Sụp, Tây Ninh và tiểu đoàn đang chuẩn bị đi giải tỏa chi khu Hoài Đức, giấy tờ về chậm một chút là hắn biết thêm địa danh này, hắn để lại ở đơn vị cho ai cần thì xử dụng, trên mảnh vải phủ cũng linh tinh những câu thơ, những địa danh nơi hắn bước vào . Hắn cũng ngậm ngùi khi đọc được một câu của người bạn đồng minh gục ngã ở chiến trường VN viết trên mảnh vải hoa bọc chiếc nón sắt… « Anh từ miền bắc VN tràn xuống, tôi ở bên kia đại dương qua, chúng ta không thù hận mà lại tìm nhau giữa rừng già để giết nhau »…Tấm vải bọc chiếc nón sắt của hắn cũng được ai đó ghi hàng chữ « Một đi không trở lại ». Cái nón sắt đôi lúc cũng ngậm ngùi khi được dùng treo trên khẩu súng cắm xuống đất như tiếc thương một người bạn đường vừa bỏ lại cuộc chơi. Khi dạy học ở Phước Long có lúc hắn có mặt nơi đồn điền cao su ở Đồng Xoài, nơi đây hắn bắt gặp bóng dáng chiếc nón sắt của ai đó trong tiểu đoàn nhảy dù, bỏ sót lại,… »tôi có người yêu, ở chiến khu Đ, chết trận Đồng xoài »… không phải bên bờ lau sậy mà ở dưới gốc cây cao su trơ cành làm hắn nhớ lại bản nhạc được ca sĩ Lệ thu hát về chiếc nón sắt trong phim « Người tình không chân dung ». Lúc hắn đóng quân tại trại biên phòng Trảng Sụp, tiểu đoàn trưởng cũng ra lệnh tất cả sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ ra khỏi doanh trại là phải đội nón sắt . Có lúc về hậu cứ dưỡng quân, cùng anh em quây quần bên bàn rượu…những người cả cuộc đời xem cái chết nhẹ nhàng, khi uống rượu cũng có nét uống riêng. Chiếc nón sắt được đổ đầy rượu mà hình như rất nhiều thứ pha trộn, lại còn kèm theo nước dừa. Thơm, ngon, ngọt mà cũng chắc là đánh gục bao nhiêu người, cứ uống luân phiên cho đến hết, mà hết nón này lại lấp đầy nón khác, hắn gục trước nhiều người nên không biết họ uống đến nón sắt thứ mấy.có người vừa uống vừa gõ nhịp bài Lương châu Từ. Hai câu cuối của bài tứ tuyệt này lưu danh muôn thuở « …..Túy ngọa sa trường quân mặc tiếu / Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi « , cũng có người dịch là » ….Say khướt sa trường anh chớ mỉa/ Xưa nay chinh chiến mấy ai về? Người hát câu này là anh truyền tin đại đội, hắn gặp lại anh ta ở Phước Long năm 1973, nơi hắn trở về dạy học và tiểu đoàn tăng phái lên đây. Ngồi uống café với đồng đội cũ, hai hôm sau nghe tin anh được đưa vào bịnh viện tiểu khu Phước Long, chưa kịp vào thăm thì đã qua đời; không chết bởi hòn tên mũi đạn nơi sa trường mà lại gục ngã vì căn bịnh cấp tính sốt rét rừng, đã bảo là Phước Long lúc đó còn đầy sương lam chướng khí. Chào tiễn đưa anh lên trực thăng về nghĩa trang quân đội. Viết lại cảm nghĩ của hắn khi đọc được bài thơ của nhà thơ Nguyễn thị Thanh Dương, khi bà viết về » Cái nón sắt và người lính » nhân ngày quân lực 19/6 . Cám ơn nhà thơ Nguyễn thị Thanh Dương . Khi tôi chết, hãy chôn tôi lộn ngược để mọi người có thể hôn mông tôi Một gói thuốc Ruby Queen quân tiếp vụ màu xanh gắn trên nón sắt, chỗ kẹp này thường dành cho túi cứu thương , còn hắn dùng loại Bastos quân tiếp vụ màu trắng. Một cọp biên phòng đang chăm chú vào mục tiêu dưới vành nón sắt Cọp khác vác cây súng nặng trên vai, nón sắt cũng vẽ đầu cọp nhe đủ 13 chiếc răng và 6 râu *** Tháng Tư Đen: Nén Hương Lòng Thắp Muộn Tưởng Nhớ Các Chiến Sĩ Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân ~oOo~ |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22933 |
Gởi ngày: 31/May/2024 lúc 10:38am |
Trên Chuyến Tàu Cuối NămCuối năm đó, tôi mua vé tàu lửa về quê thăm mẹ. (Hình minh hoạ: Báo Phụ Nữ)
Năm 1980 tôi được “xá chế,” nhớ mẹ quá chừng mà không có tiền về thăm, tôi bán hai quyển sách cho mấy người buôn sách cũ trên đường Cách Mạng Tháng Tám (Lê văn Duyệt). Một cuốn là “Chiến Hữu” của E.M Remarque, một cuốn “Nạn Nhân Buổi Giao Thời” của Pearl Buck được ba chục đồng. Tôi mượn thằng bạn thân 20 đồng, chị hai gởi 30 đồng là 80 đồng. Cuối năm đó, tôi mua vé tàu lửa về quê thăm mẹ. Biết là không đủ tiền cho chuyến đi và về, nhưng cứ về gặp mẹ rồi hãy tính sau. Bốn giờ sáng vợ chở xuống ga Bình Triệu mua vé tàu nhanh để về Đà Nẵng. Tàu nhanh chạy ba đoạn: Từ ga Bình Triệu ra Nha Trang, Nha Trang ra Quy Nhơn và Quy Nhơn ra Đà Nẵng. Nói là tàu nhanh nhưng chạy chậm như rùa, cũng ngừng những ga nhỏ để đón khách và chở hàng hóa. Lấn vào sắp hàng mua được tấm vé rất trần ai, vì cuối năm bà con trở về quê quán ăn Tết và người đi buôn hàng chuyến từ Sài Gòn ra miền trung tấp nập… Mua được vé rồi mà lên tàu tìm chỗ ngồi lại càng khó hơn, vì trên ghế ngồi, lối đi chất đầy hàng hóa. Có lẽ kiểm soát viên trên tàu và những người đi buôn ăn chia nên những người đi buôn xem thường hành khách, chỗ nào trống là chất hàng. Tàu chạy khoảng mười phút thì những hàng hóa để trên ghế được sắp xếp vào dưới ghế nên hành khách có chỗ ngồi. Lo lắng cho chuyên đi, và gặp mẹ sau bao năm xa cách nên cả đêm tôi không ngủ được. Lên tàu vợ dặn cố gắng ngủ cho lại sức. Có chỗ ngồi, tôi cố dỗ giấc ngủ, mỗi lần thiu thiu là khách bỏ hàng lên xuống ồn ào như chợ chiều ba mươi Tết. Tàu chạy đến tám giờ tối mới đến Nha Trang. Những hành khách đi tiếp về Quy Nhơn hay Đà Nẵng ngủ tại ga để ngày mai mua vé sớm tiếp tục cuộc hành trình. Tôi tìm một góc vắng dựa vào tường, xắc tay mang theo ôm trước ngực, hành lý mang theo không có gì quý giá nên chẳng sợ bị đánh cắp. Tôi ngủ được một giấc thì giựt mình thức dậy vì hành khách đã sắp hàng mua vé. Tôi cũng sắp hàng và mua được vé. Đúng bảy giờ sáng tàu khởi hành. Tàu từ Nha Trang chạy ra Quy Nhơn ít người đi buôn nên không ồn ào như ở ga Bình Triệu. Tôi kéo mũ che mặt và cố ngủ một giấc để lấy lại sức. Đang lim dim ngủ thì nghe một người hát dạo từ phía cửa trước lên xuống nói thật lớn: – Kính thưa bà con cô bác, kính chúc cô bác nhiều sức khỏe, thượng lộ bình an, mua may bán đắt, gặp nhiều may mắn. Để giúp vui cho bà con đi đường bớt mệt nhọc, tôi xin trình bày bản nhạc: Tàu Đêm Năm Cũ. Tôi nhìn lên thì thấy một người thương phế binh cụt hai chân, tóc dài ngang cổ, mặc áo rằn ri Biệt động quân, đầu đội mũ đi rừng, ngồi trên một ghế thấp có 4 bánh xe phía dưới. Một thằng bé khoảng mười tuổi đi trước, tay cầm một ca nhựa để xin tiền. Tôi đoán người nầy là thương phế binh của Việt Nam Cộng Hòa. Giọng ca của anh, trầm, buồn, lưu luyến, tiếng đàn ghita đệm theo điệu bolero rất điêu luyện. Khi anh cất giọng hát: Trời đêm dần tàn tôi đến sân ga đưa tiễn người trai lính về ngàn… Cả toa tàu đang ồn ào chuyện trò, bỗng dưng im lặng để nghe. Có lẽ từ ngày 30 Tháng tư, 1975, Cộng sản chiếm miền Nam, tất cả những sách vở, báo chí… đều bị tịch thu và đốt hết, nhạc vàng của miền nam cấm hát, ai hát sẽ bị bắt. Thay vào là sách của Lenin, Kart Mart, ************… và hát nhạc miền Bắc. Bây giờ, nghe lại một bản nhạc xưa do một người thương binh Miền Nam hát gợi lại nhiều kỷ niệm, im lặng lắng nghe và nhớ những lần tiễn đưa cha, anh, chồng, em đi vào chiến trường… Tôi nhìn những hành khách trên tàu phần đông là đàn bà. Có nhiều cô gái còn rất trẻ khoảng trên dưới hai lăm, mặt mày sáng sủa, yểu điệu thục nữ nhưng ăn mặc xuề xòa, mộc mạc, trông có vẽ khổ cực lam lũ. Những đôi mắt sáng nhưng có long lanh những buồn phiền… Khi anh chấm dứt bài hát, bà con bỏ tiền đầy ca nhựa cho thằng bé, anh lết gần đến trước mặt và hỏi tôi: -Ông thầy mới gỡ lịch ra phải không? Tôi biết anh hỏi tôi mới ở tù ra phải không, nhưng tôi giả vờ không hiểu và trả lời anh: -Có lịch đâu mà gỡ, tôi về trung thăm gia đình. -Em đi trên tàu nầy hằng ngày em gặp nhiều người mới ra tù, em đoán là trúng chốc ông thầy ơi! Tôi thấy anh thương phế binh nầy là người cùng một chiến tuyến không may bị thương tật cụt hai chân, tôi cảm thấy xót xa thương cảm, tôi hỏi lại anh: -Trước anh binh chủng Biệt động quân hả và bị thương ở chiến trường nào? -Dạ, bị thương năm 1972 mùa hè đỏ lửa giải tỏa Kontum. Anh trả lời tôi với giọng buồn và chân thật: Em gia nhập vào binh chủng Biệt động quân năm 1968, (Hình: wikipedia) -Em gia nhập vào binh chủng Biệt động quân năm 1968, năm 1970 em cưới vợ, vợ em làm thợ may và sinh được đứa con trai. Năm 1972 em bị thương tàn phế, em được hưởng trọn lương và giải ngũ. Năm 1975 mấy ông nội nầy vào cúp hết nên rất khổ cực, vợ bỏ đi lấy chồng. Cũng may em có biết đàn và hát nên hai cha con đi hát trên tàu, bến xe kiếm ăn qua ngày. -Anh học đàn và hát bao giờ mà đàn hay quá vậy? Tôi hỏi để biết thêm về anh. -Dạ, em có một thằng bạn cùng đơn vị, nhà ở Sài Gòn, có đi học đàn, buồn chuyện tình nên tình nguyện đi lính Biệt Động Quân, hai đứa ở cùng một trung đội. Mỗi khi về hậu cứ dưỡng quân nó dạy em đàn. Năm 1972 em bị thương cụt hai chân, nó tử trận. -Con trai anh bây giờ ở đâu? -Dạ, đi cùng em đó, nó gần mười tuổi rồi, em cụt hai chân, nó giúp em nhiều việc, hai cha con sống đùm bọc lẫn nhau cũng đỡ tủi thân. -Bây giờ gia đình anh ở đâu? Tôi hỏi để biết thêm hoàn cảnh của anh. -Dạ, cha mẹ em ở Tuy Hòa, ông bà mất để lại cho em một căn nhà nhỏ, cũng may có chỗ cha con trú ngụ cũng đỡ khổ. Tôi thấy xót xa vời hoàn cảnh của anh, tôi hỏi tiếp. -Anh không cho thằng bé đi học sao? -Đi học làm sao theo em xin tiền cô bác để cha con sống qua ngày. Thời bây giờ không học cũng làm đại úy ông thầy ơi… Anh nói mắt nhìn về đứa con trai với chiếc áo thun và quần tà lỏn đã bạc màu, nón lưỡi trai đội ngược, đang đưa ca cho bà con hành khách bỏ tiền vào. Nhìn hai cha con người thương phế binh, tôi rất buồn và đau khổ. Chiến tranh đã qua rồi, nhưng để lại những đau thương tan tác cho dân miền Nam, nhất là những người lính Việt Nam Cộng Hòa bị thương tật tàn phế phải lê lết sống qua ngày. Anh nhìn tôi với đôi mắt đượm buồn và nói: -Ông thầy cũng như em, thỉnh thoảng nhớ lại những ngày đầu vào lính, em xin hát bài Biệt Kinh Kỳ để tặng ông thầy, hết cơn bĩ cực đến hồi thái lai ông thầy ơi. Nói xong, những ngón tay phải rảy nhẹ lên những dây đàn đệm nhạc và cất tiếng hát, mắt nhìn xa xăm ngoài cửa sổ toa tàu: “Bạn ơi quan hà xin cạn chén ly bôi, ngày mai tôi đã khoác chiến y rồi, người thư sinh ấy đã xếp bút nghiên, giã từ trường yêu với bao bạn hiền, có về là khi nước non vui bình yên…” Hành khách trên tàu cũng lặng yên lắng nghe, khuôn mặt người nào cũng đượm buồn… Hát xong bản nhạc anh chào tôi theo kiểu nhà binh và nhìn tôi nói nhỏ: -Sau cơn mưa trời lại sáng, chào ông thầy em đi kiếm cháo. Ở tù mới ra, chưa có công ăn việc làm, vợ con còn nheo nhóc, vay mượn được 80 đồng về thăm mẹ già nhưng tôi cũng bấm bụng bỏ vào ca thằng nhỏ 5 đồng và tôi nói với anh: -Tôi mới ở tù ra, nhưng tôi còn lành lặn hơn anh, hai anh em mình cùng chiến tuyến, tôi biếu anh mấy đồng và để kỷ niệm lần đầu gặp nhau, chúc cha con anh nhiều sức khỏe. Anh cúi đầu cảm ơn tôi và lếch lần qua toa tàu khác. *** Cha con người thương binh biệt động đi rồi, tôi nhớ lại bài hát Biệt Kinh Kỳ mà anh vừa hát tặng tôi. Năm 1968 tôi đang học ở Sài Gòn thì thằng bạn ở Đà Nẵng đánh điện vào cho biết tôi đã có lệnh gọi nhập ngũ vì tôi khai lược giải cá nhân ở nhà Lâm. Nhận được điện tín tôi không buồn cũng không vui vì những năm chiến tranh ác liệt những người bạn từ giáo chức, hành chánh, sinh viên đều gọi nhập ngũ. Tôi đến Air Việt Nam mua vé về quê thăm cha mẹ và đi trình diện trại nhập ngũ số 1 ở Đà Nẵng cho kịp thời gian đã ấn định trong giấy gọi. Tôi báo tin cho mấy thằng bạn chơi thân ở đường Hòa Hưng: Giang, Châu, Định, Hùng và Henry (lai Pháp bạn bè hay gọi hắn là Henret, vì có hai răng cửa bị sún). Ngày tôi về quê, đêm hôm đó mấy thằng bạn chung tiền mua một két bia 33 và một con gà (tiền gà thằng Henry mua vì nó con lai nên có tiền hơn mấy đứa bạn khác), lên căn gác của nhà Châu nhậu suốt đêm. Bia đổ hết vào một thau lớn, một cái ly uống xây chừng, con gà trộn với rau răm và củ hành đưa cay. Vì thằng nào cũng học sinh, sinh viên tửu lượng ít, uống được ba tuần bia thì ngà ngà say. Thằng Henry ôm đàn ghita hát bài Biệt Kinh Kỳ tặng tôi, mấy thằng bạn gõ đũa vào thau bia nhịp theo tiếng đàn và hát theo Henry. Henry xỉn xỉn cứ hát đi hát lại bản nhạc. Hát một đoạn uống xây chừng một tua. “Rồi đây mai ngày ai hỏi đến tên tôi Bạn ơi! hãy nói ‘khoác chiến y’ rồi Người thư sinh ấy đã xếp bút nghiên giã từ trường yêu với bao nhiêu bạn hiền có về là khi nước non vui bình yên.” Thau bia đã cạn, bạn nào cũng say mềm và lăng ra ngủ khò. Đến sáu giờ sáng tôi giựt mình thức dậy và gọi Henry chở tôi ra phi trường vì 7 giờ 30 máy bay cất cánh. Khi chia tay Henry ngậm ngùi nói: -Mày vào quân trường tau cũng về Pháp, tau có quốc tịch Pháp bà già sợ chiến tranh lan rộng không yên ổn nên đưa tau đi. Chúc mày thượng lộ bình an, vào quân trường vui khỏe và gặp nhiều may mắn. Sẽ gặp lại nhau… Henry bắt tay tôi và đi nhanh ra nơi gởi xe, Tôi nhìn theo bạn lưu luyến ngậm ngùi… * Mãi nhớ chuyện xưa và nhớ bản nhạc Biệt Kinh Kỳ mà Henry hát trong đêm chia tay, nhớ những thằng bạn từ thuở ấu thơ, những ngày sống ở Sài Gòn và những ngày trong quân ngũ, tôi thiếp vào giấc ngủ chập chờn. Đang lim dim ngủ, một người công an đứng sát ghế ngồi, nhìn thấy công an tôi sợ quá, kéo mũ che mặt ngủ tỉnh bơ như không để ý. Người công an lấy mũ che mặt đập vai tôi và hỏi: -Ông thầy quên em rồi sao? Bây giờ già rồi đầu óc lú lẫn nên chẳng nhớ ai. -Em là Dũng bóng làm trong phòng siêu tần số với thượng sĩ Bàu. Thật sự tôi nhìn lên tôi cũng biết là Dũng bóng làm phòng siêu tần số dưới quyền tôi làm trung tâm trưởng. Nhưng tôi trả lời: -Dũng hả anh nhớ rồi, em vào ngành công an lâu chưa? -Em vào ngành công an cũng được bốn năm. Ông thầy vẫn khỏe? Gặp và thấy ông thầy khỏe mạnh em mừng lắm. Em đi kiểm soát trên tàu hằng ngày mà em chưa gặp một người bạn cùng đơn vị, hôm nay em găp ông thầy và thấy ông thầy mạnh khỏe em rất vui. Xin phép ông thầy em đi làm nhiệm vụ, em đợi ông thầy ở ga Quy Nhơn, thầy trò mình nói chuyện nhiều. Nói xong Dũng đi lần qua toa tàu khác. * Đơn vị tôi là một trung tâm truyền tin diện địa đồn trú trong bộ tư lệnh quân đoàn 2. Truyền tin là mạch máu của quân đội, chịu trách nhiệm các đường dây liên lạc, công văn, công điện trong vùng 2 chiến thuật và điện thoại các phòng ban trong bộ tư lệnh và tiểu khu Pleiku… Trung tâm gồm có các ban: siêu tần số, tổng đài, viễn ấn tự, mật mã, điều chỉnh, giai tần đơn, quân xa, máy điện, đường dây cáp điện thoại. Làm việc theo ca, chia làm 3 ca trực ngày và đêm. Nguyễn Anh Dũng cấp bậc hạ sĩ nhất, độc thân, người hiền lành, nước da trắng trẻo thư sinh, ăn nói nhỏ nhẹ, làm việc chăm chỉ, tới phép thường niên 15 ngày là xin về thăm gia đình. Bạn bè thấy Dũng giống con gái nên gọi Dũng bóng. Binh chủng truyền tin điều chuẩn an ninh rất kỹ. Sáu tháng là ban an ninh đơn vị gởi giấy điều chuẩn an ninh về địa phương ký xác nhận gia đình, cha mẹ, anh chị em, bà con họ hàng có theo Cộng sản hoặc liên hệ với Cộng sản. Nếu có thì cho làm những công việc không quan trọng hoặc đổi ra tác chiến. Hồ sơ an ninh của Dũng rất trong sạch không có liên hệ với Cộng sản thế mà sau 1975 lại được vào ngành công an. Tôi nghĩ Dũng là Việt cộng nằm vùng khai man lý lịch trà trộn vào lính truyền tin chờ cơ hội đặc chất nổ phá hoại trung tâm. Nếu trung tâm mà bị đặt chất nổ hư hỏng là tôi sẽ bị ra tòa án quân sự bị tử hình hoặc ở tù rục xương. Mãi suy nghĩ tàu đã đến ga Quy Nhơn, tôi bước xuống và đi vào sân ga thì thấy Dũng đứng chờ tôi. Gặp tôi Dũng nói: -Thiệt tình em gặp lại ông thầy em mừng lắm, bây giờ cũng đã tối rồi, em mời ông thầy đi ăn cơm với em. Tôi nói với Dũng: -Bây giờ thầy trò gì nữa, gọi anh em với nhau cho thân mật. -Ông thầy cho phép em mới dám gọi. Mời anh vào tiệm cơm bên kia đường. Vào tiệm cơm Dũng gọi hai phần cơm 2 người, hai chai bia. Và Dũng tâm sự: -Chắc thấy em đi công an anh ngạc nhiên và không thích phải không? Tôi nói đãi đưa với Dũng: -Anh biết ngành công an phải lý lịch trong sạch, gia đình tham gia cách mạng… mới được tuyển vào. Anh rất mừng cho em. Không phải vậy, trường hợp em là khác. Dũng kể: Năm 1970 quốc lộ 19 do sư đoàn mãnh hổ Đại Hàn kiểm soát an ninh, mỗi sáng đi mở đường, nếu có du kích Việt Cộng nấp những làng hai bên đường bắn sẻ một người lính chết là tràn vào làng kéo thanh niên, thanh nữ ra bắn hết. Em có một thằng em cũng bị Đại Hàn bắn chết. Năm 1975 mấy ông nầy về, những gia đình có người bị bắn chết được cấp giấy gia đình liệt sĩ. -Nhờ gia đình liệt sĩ em được vào ngành công an phải không? -Dạ, đầu năm 1977 ở tỉnh Bình Định tuyển công an em lấy giấy gia đình liệt sĩ làm đơn xin vào. -Anh nghe nói ngành công an kiếm chát cũng khá hả em? -Dạ, khá lắm, nhưng đối với em là khác. Dù sao em cũng ở trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, có giáo dục nhân bản, thương dân mình bây giờ đang đói khổ, nhất là những vợ của lính cùng chiến tuyến với mình, bị đi ở tù, hoặc đi kinh tế mới, em không dám tìm cách bắt chặt những người đi buôn phải đóng chịu hằng ngày không biết hàng hóa nhiều hay ít, như những thằng công an ngoài Bắc ăn tàn nhẫn lắm. -Em không ăn tiền đâu mà nộp lên trên. Tôi hỏi Dũng để biết thêm về ngành công an mà dân ai cũng ghét. -Bởi vậy nên em nghèo hơn tụi Bắc kỳ. Chắc em làm một thời gian nữa em xin đổi qua ngành khác, để lấy đức cho vợ con. Nhắc đến vợ con, tôi hỏi để biết hoàn cảnh Dũng. -Bây giờ vợ con em đang ở đâu và làm nghề gì? -Dạ, nhà em ở thành phố nầy. Em cưới vợ năm 1978, nhân viên bán vé tàu ở ga Quy Nhơn và sinh một cháu trai được ba tuổi. Em dành dụm mua được căn nhà nho nhỏ để cho gia đình trú ngụ. -Như vậy em cũng yên ổn rồi, anh rất mừng cho em. -Thú thật với anh em cũng không muốn vào ngành nầy nhưng đổi đời không biết làm nghề gì nên phải chấp nhận. Tôi nói với Dũng: -Em có ý định chuyển ngành thì rất tốt, giữ phúc đức cho con cháu sau nầy. Dũng nhìn tôi hơi rụt rè và nói: -Gặp anh em mừng lắm, nhắc lại cho em những kỷ niệm thời còn bạn bè, công việc làm, em rất buồn biết bao giờ tìm lại. Anh mới ra tù còn vất vả lo cho vợ con, em xin biếu anh một ít tiền làm lộ phí và em đã mua vé cho anh về Đà Nẵng. Dù sao, với nhân cách của người sĩ quan quân đội miền nam, tôi từ chối và cảm ơn Dũng. Nhưng Dũng nài nỉ và nói: -Anh nhận cho em vui, xin anh cứ nghĩ em là lính của anh như ngày xưa, không thay đổi gì. Nghe Dũng nói rất chân thật, hơn nữa tôi mới ở tù ra cũng thiếu tiền cho chuyến đi. Tôi nói với Dũng: -Anh nhận số tiền nầy, sau nầy anh khá lên anh sẽ gởi lại cho em. Cảm ơn em rất nhiều. Tôi nhìn Dũng rất vui, tôi nói tiếp: -Thôi em về kẻo vợ con trông. Hy vọng chuyển vào anh sẻ gặp em, sẻ ghé lại thăm vợ con em. Anh em mình tâm sự nhiều. Tôi bắt tay Dũng và chúc Dũng nhiều sức khỏe và gặp nhiều may mắn. * Dũng đi rồi, tôi lang thang vào ga tìm một chỗ ngủ. Mãi suy nghĩ về Dũng mà tôi cứ thao thức không ngủ được. Cộng Sản đã xâm chiếm miền Nam, tất cả sĩ quan bị đi ở tù không biết ngày về, những người có chút học thức tham gia chế độ miền Nam không bị ở tù thì đày đi kinh tế mới, nhưng cái tình của người miền Nam vẫn còn thương yêu nhau, đùm bọc lẩn nhau… Nhất là những người lính huynh đệ chi binh. Khi còn tại chức trước năm 1975, người sĩ quan QLVN phải làm đúng bổn phận, trách nhiệm của người sĩ quan chỉ huy. Tôi cũng làm đúng bổn phận và trách nhiệm. Nghiêm khắc, la rầy, phạt trọng cấm, cúp phép… Tôi cứ nghĩ một người sĩ quan thất cơ lỡ vận bị Cộng Sản tuyên truyền, lính sẽ thù hận nhưng không ngờ vẫn còn kính nể, thương yêu nhiều hơn xưa. Lang man suy nghĩ, có vé tàu Dũng đã mua, tôi không lo thức sớm để sắp hàng mua vé, và có uống một chai bia, tôi thiếp vào giấc ngủ mặc dù nhiều hành khách đi lại nói chuyện ồn ào. Sáu giờ sáng thức dậy, mua một ổ bánh mì điểm tâm và lên tàu với tâm hồn nhẹ nhàng, vui tươi. Có tiền của Dũng đến ga Quảng Ngãi tôi mua một con gà luộc (ga QN bán gà đa luộc chín rất ngon) và kẹo mạch nha về làm quà cho mẹ. *** Tôi về ăn Tết với mẹ được một tháng vào lại Sài Gòn tìm việc làm nuôi vợ con. Khi vào tôi mua mè xửng Huế và bánh đậu xanh để làm quà cho Dũng, người thương phế binh và vợ con. Buổi tối nghỉ lại ga Quy Nhơn tôi đi lang thang hỏi thăm Vợ chồng Dũng không ai biết, có lẽ buổi tối nhân viên nghỉ hết. Trên đường tàu chạy vào Tuy Hòa tôi hỏi mấy anh công an kiểm soát họ trả lời là Dũng đã chuyển ngành và không biết ngành gì. Khi nghe tin Dũng đã chuyển ngành tôi rất vui và mừng cho Dũng đã giữ đúng lời hứa. Ít ra người quân nhân miền Nam cũng phải có bản lĩnh như vậy. Trên đường từ Tuy Hòa vào Nha Trang tôi cũng không thấy cha con người thương phế binh hát dạo, tôi hỏi hành khách trên tàu đi buôn hằng ngày họ trả lời cũng không thấy hai cha con người thương phế binh hơn nửa tháng rồi. Tôi rất buồn, không biết có mệnh hệ nào cho hai cha con… Anh lê lết trên tàu, bến xe hát những bản nhạc vàng của miền Nam như một cái gai trước mắt bôi bác chế độ họ muốn nhổ đi cho khuất mắt. Tôi thương và buồn vô cùng cho hai cha con người thương phế binh phải gánh chịu những tai ương sau chiến tranh điêu tàn… Chuyện đã xảy ra trên bốn mươi năm rồi, tôi vui, buồn mỗi khi nhớ lại… Bạn ơi! quan hà xin cạn chén ly bôi Ngày mai tôi đã đã đi xa rồi Thành đô lưu luyến chắn bước chân tôi trước giờ chia phôi mấy ai không bùi ngùi kỷ niệm buồn vui mãi ghi trong lòng tôi. Rồi đây mai ngày ai hỏi đến tên tôi Bạn ơi! hãy nói “khoác chiến y” rồi Người thư sinh ấy đã xếp bút nghiên giã từ trường yêu với bao nhiêu bạn hiền có về là khi nước non vui bình yên. Nhớ lúc lên đường đưa tiễn chân tôi, Thương lên khoé mắt mẹ nhắn đôi lời, Diệt thù lập công cho xứng tài trai, Sắt son ghi lòng chớ phai. Ai đi chinh chiến xây đắp tương lai, Con đi chinh chiến để nước yên vui Lời mẹ hiền khuyên nguyền khắc trong tim bao giờ dám quên. Bạn ơi! khi nào ai hỏi đến tên tôi Đời tôi lính chiến cánh chim tung trời. Ngày nào khi đất nước hết binh đao giữa đoàn hùng binh có tôi đi hàng đầu, trở về thành đô nắm tay ta mừng nhau. Người đi chiều ấy áo nhuộm bụi đường Chiều nay về giữa kinh kỳ say hương. Rồi đây mai ngày ai hỏi đến tên tôi Bạn ơi! hãy nói “khoác chiến y” rồi Người thư sinh ấy đã xếp bút nghiên giã từ trường yêu với bao nhiêu bạn hiền có về là khi nước non vui bình yên. Trần Thế Phong |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22933 |
Gởi ngày: 31/May/2024 lúc 1:18pm |
Những mẩu chuyện ngày cũKhông nhớ tôi và BT quen biết từ lúc nào. Trước 1975, ba chị là Quân cảnh, mẹ chị bán vải. Chị chỉ có một đứa em nhỏ nên cuộc sống gia đình của chị rất sung túc. BT lớn hơn tôi 2 tuổi nhưng chúng tôi xem nhau như cùng trang lứa. Trong chuyện này cũng cần nhắc đến một nhân vật phụ là anh NNH. Anh NNH mới ra trường (Vì thấy anh đeo lon Chuẩn úy) anh đổi về quận và trọ ở nhà sát vách nhà tôi. Khách quan nhận xét thì anh cũng khá đẹp trai, dễ cảm tình nhưng có vẻ … kiêu! Không thấy anh quen cô gái nào, cũng không thấy giao thiệp với ai, riêng tôi là hàng xóm nên thỉnh thoảng anh sang nhà nói vài chuyện trên trời dưới đất, đó là lý do tôi được vài cô lân la làm quen, kết bạn. Tôi cũng dư biết họ muốn tiếp cận với NNH nên đến chơi với tôi. Riêng BT thường xuyên đến nhà tôi, tôi cũng biết rằng không phải do chị thích tôi mà nhờ người hàng xóm của tôi nên chị tỏ ra thân thiện với tôi. Dĩ nhiên BT có ưu thế hơn các cô khác, chị tự nhiên đến nhà tôi bất cứ lúc nào chị muốn vì chị là bạn của tôi. Không biết chữ “đào hoa” là có thật? Hay vì người có nhiều điểm nổi trội thì sẽ được nhiều người thích hoặc ngược lại? Riêng BT, từ khi biết chị tôi chưa bao giờ nghe có người theo đuổi chị, vì vậy cái gọi là tình yêu chỉ có một phía chị! Khi tôi biết chị có “tình ý” với NNH, tôi cũng hiểu tâm lý lắm nên lúc nào biết có NNH ở nhà, tôi rủ BT sang nhà anh chơi. Nhưng con người “tự kiêu” kia ngó lơ không nhìn BT lấy một cái, anh ta ngồi cắm cúi đọc sách cho đến khi chúng tôi ra về. Nhưng nỗi ẩn tình của BT làm sao qua mắt được chị K chủ nhà, chị K ra sức lợi dụng BT nhiều thứ. Có lần chị K nói “Chú H thích ăn chè sâm bổ lượng lắm…(?!)”. Nghe vậy BT rủ tôi đến nhà BT để cùng nấu chè, chủ ý nấu cho… NNH!. Thời đó tôi chưa làm ra tiền nên việc nấu một nồi chè sâm bổ lượng to cỡ hai chục người ăn thì tôi thua, nhưng BT thì dư sức vì chị có sạp vải của mẹ chị mà. Ăn chơi chán, tôi rinh cả nồi chè về cho chị K (BT không quên gởi riêng một bịch thật to cho NNH!) Tôi làm “chim xanh” nhiệt tình chờ anh đi làm về để chuyển. Lần đó tôi bị NNH phản ứng “MH thích thì cứ ăn, đừng có đem về…”. Tôi ngạc nhiên hỏi: “Sao nghe anh thích ăn chè?”. Anh nghiêm mặt “Thích hồi nào?” rồi anh quay phắt đi. Trời đất! Tôi chẳng hiểu sao luôn …
Bảo Huân Sau 1975. Nhiều người thích nghi với chế độ mới rất nhanh, trong đó có BT. Chị mặc áo bà ba đen, quàng khăn rằn. BT tích cực công tác, lúc đó ai năng nổ là được “trọng dụng” ngay. BT được “đề cử” vào làm trưởng ban chấp hành thanh niên khu vực của tôi. Buổi giao thời chức gì nghe cũng to, nên chị hô đâu chúng tôi dạ đó. Thời đó thường là đi công tác thủy lợi (Ai có tên trong danh sách là phải đi, gạo và thực phẩm mang theo đều tự túc) ai đến lượt là phải đi, không ai kêu ca. BT rất có tài điều động thanh niên. Ban đêm các khu phố thay phiên nhau họp tổ để nghe chỉ thị và học tập chính trị liên miên. Riêng tôi được chị giao cho viết bài để làm bích báo thi đua với các tổ khác, khi bích báo được khen, được treo ở văn phòng ủy ban là hãnh diện cho tập thể lắm, nên lại càng phải viết. Có khi tôi còn phải đi tập văn nghệ tới khuya (Tôi hát cho người ta múa!). “trên” bảo sao làm vậy đố dám cãi, chị bảo “Đó là nhiệm vụ chính trị!”. Thời điểm đó ai cũng khổ. Nhà tôi đông người mà toàn trẻ nhỏ, nên tôi phải ra chợ buôn bán từ 5 giờ sáng tới 18 giờ mới về, thời gian không đủ cho tôi làm việc, nghỉ ngơi nhưng tôi không dám bỏ một buổi họp nào. BT có một “tay sai” tên là L. Bữa nào thanh niên phải họp, L ôm cuốn sổ đứng trước rạp ciné, chờ em nào trốn không họp mà đi xem phim là L ghi tên cho BT “làm việc”. Thanh niên sợ BT vì có thể bị chị báo cáo lên “trên” mà khi ấy cái gì cũng có thể bị cho là sai phạm. Tôi gọi (lén) BT là “Javert* thời đại!” Cũng có một số người bị BT theo dõi sao đó, rồi thấy họ bị bắt…(Chị không ngại khoe là nhờ công của chị) Lần lượt có vài “Ngụy-quân”, “Ngụy-quyền” được “thả về”. Những người này còn bị quản chế tại địa phương, hàng tháng các anh phải đi trình diện tại công an xã với bản tự khai đã tích cực chấp hành mọi chỉ thị của chính quyền, bản tự khai đó phải có chữ ký xác nhận của trưởng thôn. Mà đâu dễ gì được trưởng thôn ký, nên trước đó các anh phải ra trước buổi họp toàn dân để mọi người có nhận xét đã tốt thật chưa! Những buổi họp đó tôi thường đến với một số ý kiến viết sẵn trong giấy rồi đưa cho vài người quen đọc giùm, đại ý như “Tôi thấy anh… khi được gọi đi công tác thì làm tích cực, về địa phương cư xử với mọi người rất tốt…”, phần tôi chỉ có thể giúp họ bằng cách đó. BT còn muốn anh “ngụy” nào trong tuổi thanh niên thuộc quyền quản lý của chị phải được chị ký xác nhận trước, nên chị ra điều kiện với trưởng thôn: Nếu không có chữ ký của chị thì trưởng thôn không được xác nhận tờ tự khai của “Ngụy”, nếu không chị sẽ từ chức không làm trưởng ban chấp hành thanh niên nữa. Chị không làm thì có ai “giỏi” như chị để lên thay, nên ông thôn phải chấp nhận. Vậy là hàng tháng anh “Ngụy” nào còn tuổi thanh niên phải đến xin BT ký xác nhận trước rồi mới đến trưởng thôn. Quyền của chị to thêm một chút. Trong số “Ngụy” đó có một anh lọt vào mắt xanh của BT, nhờ đó có tháng đích thân BT đi lấy chữ ký của ông thôn giùm cho anh ấy! Có lần tôi có việc đến nhà BT vào ban đêm và “đụng độ” anh trước cổng nhà BT, anh giải thích vì BT hẹn anh đến để ký cho “cái giấy” đó?! Tôi phải lẳng lặng rút lui vờ như không biết gì về “kế hoạch” của BT, chữ ký của BT lúc ấy quan trọng biết bao với một người bị quản chế. Nhưng mãi sau đó thì BT cũng biết người ấy rất thân với tôi, BT đã “ra tay” với tôi vài vụ, nhưng vì thật sự là tôi không hề vi phạm nên tôi không gặp rắc rối. Rồi khi có lệnh những ai vay nợ ngân hàng trước 1975 vẫn phải trả, trong danh sách cũng có tên ba của BT bị đem ra đọc giữa buổi họp, chị càng được “trên” tin tưởng khi đứng giữa đoàn thể chị đấu tố ba mình, tôi nhớ đại khái như “..ông ấy đã lợi dụng sự thông cảm của nhà nước mà lần lữa không trả nợ ngân hàng …”. Một thời gian sau đó không biết do áp lực của chính quyền hay do BT mà ba chị đã bán nhà trả nợ cho ngân hàng rồi cả gia đình chị dọn về quê. Mấy năm sau BT trở lại, chị cho biết khi về quê, do hớ hênh của bà con trong dòng họ nói ra, chị mới biết chị là con nuôi. BT lên án ba mẹ nuôi của chị “Người sinh ra tao có thể vì cần tiền. Ông bà Đ đã ỷ có tiền mua tao…”, chị đã bỏ nhà ra đi với cái lý do đó, tôi thật ngỡ ngàng trước suy nghĩ và sự “trả ơn” của chị dành cho người đã nuôi chị khôn lớn như thế. Khi còn sống trong gia đình ba mẹ nuôi, tôi biết BT được thương yêu, muốn gì được nấy. Chị sung sướng hơn tôi nhiều vì chị không phải chăm sóc một bầy em như tôi. Vậy mà khi biết mình không phải là con ruột, chị đã bỏ những người đã nuôi chị mấy chục năm trời… BT đã trở lại nhưng chị không còn vị trí như trước ở địa phương này, dân cũng không còn ai “ngán” chị. BT vào làm việc gì đó ở một vùng nông nghiệp và lấy một người ở đó. Vậy là sau nhiều mối tình đơn phương cuối cùng chị cũng có chồng. Khi tôi gặp lại BT, nhìn chị tiều tụy đến tội nghiệp: “Nhà đó nghèo, khi tao sanh họ gọi một bà mụ nông thôn đến … con tao không qua khỏi. Chồng tao thì nghe lời gia đình hơn…”. Tôi cũng có chút chạnh lòng vì hiểu thân phận một người phụ nữ kém may mắn. BT mà tôi từng biết chưa bao giờ được người chị yêu đáp lại tình chị. Cuối cùng người chị gọi là chồng không biết có đem lại hạnh phúc, bình yên cho chị không? Đó cũng là lần sau cùng tôi gặp BT. Mấy chục năm rồi tôi và những người biết chị ở đây không ai nghe tin gì về chị nữa. Không biết hiện giờ chị ra sao … Người ta nói “Người mình thương yêu sẽ nằm trong trái tim. Còn người mình ghét sẽ nằm trong trí nhớ”. Đối với BT, tôi không thương mà cũng không ghét. Nhưng tôi không quên chị, không quên những việc chị đã làm với nhiều người trong cảnh tranh tối, tranh sáng thời đó. Còn với tôi, tôi đã tẩy xóa, nhạt mờ những gì chị có ý hại tôi, vì tôi tin rằng tất cả đều có luật nhân quả, mà tôi đã thấy điều đó trong lần sau cùng gặp chị … Lộc Nguyễn |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22933 |
Gởi ngày: 03/Jun/2024 lúc 10:54am |
Chai Rượu Vĩnh BiệtNgày 15/9/1972 là ngày QLVNCH hoàn toàn tái chiếm cổ thành ĐINH CÔNG TRÁNG (Quảng Trị). Và đó cũng là chấm dứt chiến dịch giành lại quê hương sau hơn sáu tháng oằn oại trong tay quân xâm lược CS/MIỀN BẮC. Cũng là lúc Sư Đoàn DÙ được giao trách nhiệm tiêu diệt những căn cứ bí mật, những điểm tựa của CS/Bắc Việt tại hướng tây và tây nam Quảng trị. Vùng núi rừng trùng điệp của dẫy Trường Sơn. Cả một vùng rừng núi rộng lớn bao gồm nhiều cao điểm chiến lược là căn cứ hậu cần vững chắc có thể áp lực lên 2 tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên (Huế ), nơi đây có cả bệnh viện dã chiến của địch. Do hai sư đoàn BV 324 và 312 phòng thủ kiên cố, có các cao điểm 118,124 ,235 ……. Quan trọng nhất là đỉnh 367 mét. Bao hàm một vùng rừng rậm Chiên Giồng và Động Ông Đô, còn có tên là Mật Khu Ba Lòng. Chỉ có 2 lữ đoàn Dù 2 và 3 (tổng cộng 6 tiểu đoàn ) đã tấn công vũ bão chiếm lại các cao điểm trên. Địch điên cuồng phản công giành lại nhiều lần, mỗi lần là những đơn vị mới từ 2 sư đoàn trên. Ngày 20/10/1972 họ tung 2 trung đoàn 24 và 66 của SĐ 304 phản công quyết liệt chiếm lại các cao điểm 118 và 124… Ngày 3/11 Lữ Đoàn 2/ND đã giành lại được trọng đểm A1 và đỉnh 367. Coi như làm chủ Động Ông Đô, địch hoảng hốt tung ngay trung đoàn 165 phối hợp với sư đoàn 304 phản công dữ dội. Nhưng họ thất bại ê chề trước sự dũng cảm và kiên cường của ND. Là ngày ND làm chủ Động Ông Đô hay mật khu Ba Lòng. Tiểu Đoàn 11/ND với Đại Đội 111 do Trung úy Đinh Viết Trinh ĐĐ Trưởng, và Đại Đội 112 do tôi chỉ huy là 2 mũi nhọn tấn công. Sau khi đánh bật địch ra khỏi mục tiêu, chưa kịp tái phòng thủ đã bị ngay một đơn vị mới của địch phản công . Cứ chiếm đi chiếm lại từng đồi như vậy, các chiến binh rất mệt mõi và vất vã. (Địch luôn tăng cường đơn vị mới để phản công, còn chúng tôi vẫn là đơn vị từ đầu tham chiến). Quân số bị hao hụt dần và súng đạn hạn chế, chúng tôi vẫn chiến đấu dũng cảm và kiên cường. Rồi cái đêm định mệnh đã tới, tôi gom hết các chiến binh còn lại xung phong lần cuối và tôi đã gục xuống cùng chiến hữu trên đồi hoang đẫm máu của núi rừng trường sơn vào ngày đầu tháng 11/1972. Dưới đây là câu chuyện thật, rất thật từ bối cảnh, nhân vật và hoàn cảnh thật trên chiến trường. Sau khi đẩy lùi các binh đoàn tinh nhuệ của CS/BV họ rút chạy về phía Bắc xa bờ Thạch Hãn. SĐ/ND sau nhiều tháng miệt mài không nghĩ, để giành lại từng tấc đất quê hương đã lọt vào tay bọn xâm lược. Được tạm nghỉ ngơi để bổ xung quân số và tái trang bị. Sẵn sàng nhân nhiệm vụ mới. Tôi còn nhớ, trước khi nhận lệnh Hành Quân một ngày. Một sỹ quan rất trẻ từ không quân chuyển qua ND, đó là Thiếu úy PHONG đến trình diện tôi. Phong cao ráo trắng trẻo nếu không nói là đẹp trai. Anh đến bên tôi với giọng buồn, anh nói anh từ bộ tư lệnh không quân về chưa được đi phép thăm gia đình và khẩn khoản xin tôi cho anh về Huế 24 giờ thăm cha mẹ và người vợ sắp cưới của anh đang ở Thành Nội Huế. Tôi đắn đo vì đơn vị đang ứng chiến hành quân 100/100, tôi không thể cho phép ai rời khỏi đơn vị lúc nầy. Mắt anh buồn thiu như rưng rưng lệ, tim tôi thắt lại, tôi hiểu cái tuyệt vong và nỗi buồn sâu thẵm trong anh. Tôi quyết định cho phép anh về thăm nhà trong 48 giờ và phải trình diện đúng ngày, không chấp nhận trể một ngày nào. Anh mừng quá vội vàng ra quốc lộ 1 đón xe về Huế. Thật oan nghiệt, đêm đó tôi nhận được lệnh hành quân khẩn cấp, đánh vào mật khu Ba Lòng (Động Ông Đô).Lòng tôi lo lắng vì thiếu một sĩ quan trung đội trưởng khi hành quân. Tiểu Đoàn 11/ND tấn công vũ bão vào các cao điểm phòng ngự của địch tại Động Ông Đô ngay phút đầu. Nhiều mục tiêu đã chiếm nhưng địch tung ngay đơn vị mới với quân số áp đảo chiếm lại. Các đỉnh chiến lược đổi chủ liên tục. Đại Đội tôi hao hụt nhiều chưa được bổ xung. Tôi đưa trung đội tương đối nguyên vẹn lấy lại mục tiêu. Đang cũng cố phòng thủ thì đêm ập đến núi rừng nhanh chóng phủ một màu đen u ám ghê rợn. Thầm mong địch không quay lại phản công đêm nay. Vừa ngã lưng trên chiếc võng thì toán tiếp tế đến và mấy lính mới tăng cường trong đó có Thiếu Úy Phong. Tôi mừng vì trung đội tuyến đầu không có sỹ quan, hiện do một hạ Sỹ quan thâm niên nắm quyền trung đội trưởng. Phong mừng rỡ ôm chầm tôi và chuyển lời cảm ơn của gia đình anh, nhất là cô vợ sắp cưới của anh. Đồng thời tặng tôi một chai rượu Hennessy, là món quà của gia đình anh gởi cho tôi. Sau khi nói qua tình hình địch và tình trạng trung đội trên đó, tôi nói anh ngủ lại đây vì đường rừng ban đêm khó đi và nguy hiễm, sáng mai tôi cho người đưa anh lên đó. Tôi trằn trọc không ngủ được, lo cho anh em trên đó, địch có để yên cho họ không đêm nay? Tôi gọi Chuẩn Úy BÚP (1) sỹ quan rất trẻ nhưng rất giỏi điều chỉnh pháo binh, anh đã dũng cảm theo sát tôi những lúc hiểm nguy nhất, quả là 1 tiền sát giỏi và can đảm. Chúng tôi xem lại các hỏa tập cận phòng pháo binh đã chấm và thêm một số mục tiêu bắn quấy rối, Phong cũng thao thức. Tôi chợt nghĩ, tại sao mình không khui chai rượu ra nhâm nhi cho ấm, chống lại cái giá rét của đêm trường sơn. Thế là mỗi người một nắp đầy xoay vòng. Đang chén anh chén tôi, rượu chưa mềm môi người lính chiến trên sa trường thì tiếng súng lớn nhỏ nổ rang, tiếng mìn, tiếng lựu đạn và ánh lửa lóe lên trên đồi. Tôi chụp ngay ống nghe ,tiếng hạ sỹ âm thoại viên như hét hòa vào tiếng súng… - Tụi nó tấn công Đích Thân ơi! Đông lắm. - Cố gắng cố thủ, tôi cho pháo binh bắn các hỏa tập cận phòng ngay. - Búp, gọi ngay pháo đội bắn đi, hỏa tập 1 sát vào 50 met………. Tiếng đại bác 105 ly bay vèo vèo trên đầu và tiếng nổ dồn dập trên đồi Sau hơn 30 phút tiếng súng và pháo thưa dần, iiếng âm thoại viên báo địch rút lui rồi, tôi ra lệnh cũng cố phòng thủ và kiểm điểm thương vong ngay cho tôi. Một lúc sau báo cáo sơ khởi: 5 em rách áo (bị thương) và 2 em chào vĩnh biệt. Địch chết nhiều không đếm được. Và quyền trung đội trưởng bị thương nặng. - Hãy bình tỉnh , canh gát cẩn thận, địch có thể tấn công lần nữa. Tôi sẽ cho người lên thay ngay để chỉ huy trung đội. Tiếp tế, tải thương đợi sáng mai. Tôi nói với T/U Phong đang đứng im lặng, anh dẫn 5 người lên đó bây giờ để chỉ huy trung đội, đừng để anh em hoang mang vì thiếu người chỉ huy. Mang thêm lựu đạn và đạn cho họ, cảnh giác tối đa và cũng cố tuyến phòng thủ . Tôi chợt nhìn chai rượi còn non phân nữa và nói với Phong. Mai tôi lên đó, chúng ta uống cạn chai nhé. Phong cúi đầu, dạ ! một tiếng dạ trầm và buồn bã! Thời gian sao quá chậm vậy? tôi đang nóng lòng và lo lắng chờ tin Phong và 5 chiến hữu đang mò mẫm giữa rừng khuya, chung quanh là mật khu địch. Rồi tiếng máy PRC 25 vang lên. - Đích Thân! tôi đã bắt tay với mấy đứa nhỏ rồi, có mấy đứa rách áo và ra đi vĩnh viễn. Xác địch la liệt trên đồi , tôi đang tăng cường phòng thủ. Tôi thở ra một hơi dài nhẹ nhõm, dặn dò những điều cần thiết cho Phong và chúc Bình An. Tôi thiếp đi lúc nào không hay. Bỗng choàng dậy do tiếng nổ ì ầm và tiếng la hét từ phía đồi Phong. Tôi nhìn đồng hồ dạ quang 2 giờ 45 sáng, và máy truyền tin vang lên - Đích Thân chúng tấn công dữ dội, đông lắm. Tôi gọi Búp bắn các hỏa tập đã dự phòng. Khoảng 15 phút sau máy vang lên - Ông Phong chết rồi, địch đang tràn ngập. - Anh cố gắng gom anh em rút xuống thung lũng, theo đường thông thủy về đây. Tôi cho người tiếp ứng dọc theo thông thủy. Nhớ mang theo ông Phong về đây cho tôi bằng mọi giá. Tiếng máy im lặng có nghĩa là anh em đã rút, trong khi đó tiếng máy của Tiểu đoàn vang vang, bắt tôi phải báo cáo sau 10 phút. Tôi cho một toán men theo dòng suối để đón, tiếng pháo và tiếng súng im dần, chỉ còn ánh lửa bập bùng như ma trơi trên mục tiêu. Hơn 3 giờ sáng, xác của Thiếu Úy Phong mang lên chổ tôi. Y tá và thường vụ đang lo cứu thương, anh bị 1 loạt AK bắn vào ngực máu đẫm chiến y, đôi mắt anh vẫn mở trừng trừng không nhắm, chắc anh đang chờ một điều gì? Tôi và Búp ngồi bên xác anh, tôi nhớ đã hứa sẽ cạn chai rượu nầy với Phong vào ngày mai. Bây giờ đã gần sáng. Và chúng tôi 3 người uống xoay vòng cho đến khi cạn chai. Miệng anh hé mở rượu tràn ra ngoài pha máu đỏ ao. Tôi tò mò cởi nút túi áo anh lấy ra một tấm hình loang máu, may quá nó được bọc trong 1 tấm nylon dầy, lau sạch máu, thì ra hình 1 người con gái rất đẹp tóc thề, có đôi mắt mơ màng và đa tình của các o Huế. Tôi đoán đây là người vợ sắp cưới của Phong. Tôi cẩn thận cho vào túi áo trên nghĩ sẽ có dịp ra Huế tôi sẽ tìm chủ nhân nó mà trao lại 1 kỷ niệm vô giá tận tay cô. Trong lòng tôi lúc đó thật nặng trĩu buồn thảm, tiếng máy PRC 25 oang oang. Sếp tôi đang gọi: - Tình hình sao rồi? - Địch tràn ngập mục tiêu rồi Đích Thân, thiếu Úy Phong hy sinh cùng anh em và một số bị rách áo. hiện xác anh đã về với tôi. - Tôi muốn anh chiếm lại mục tiêu ngay. - Tôi có 5 ngón tay, cụt hết 4 ngón rồi (4 trung đội và BCH) - Tôi không cần biết, anh phải chiếm lại ngay bây giờ, nếu chết hãy chết trên đó cho tôi. -Tuân lệnh Đích Thân, tôi lên ngay bây giờ. Tôi cho lệnh tắt hết máy liên lạc, im lặng vô tuyến. Tôi gom hết những chiến binh còn có thể chiến đấu hơn 20 người, trừ thương binh và tử sỹ ở lại. Trước khi xuất phát tôi nói với anh em : "Như Chúng ta tình nguyện là chiến binh ND, đã chọn nếp sống hùng và mạnh, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ đồng bào trong đó có gia đình chúng ta. Trung thành với tổ quốc và luôn chấp hành mệnh lệnh của thượng cấp. Có thể đây là trận chiến đấu cuối cùng, nhưng chúng ta chấp nhận và hãnh diện là một chiến binh Nhãy Dù _LUÔN CỐ GẮNG". Toán quân quyết tử âm thầm như những bóng ma mờ ảo trong rừng núi trường sơn. Địch không thể ngờ chúng tôi phản công quyết liệt trước trời sáng. Tiếng lưu đạn ầm ầm tóe lửa, tiếng đại liên M60 và M16 nổ dòn, địch hoảng hốt tháo chạy… Bổng dưng tôi rùng mình tim nhói mạnh, toàn thân tôi giật bắn lên, tê rần rần,như có dòng điện cao thế chạm vào. Bên tai tôi còn nghe tiếng thất thanh của người cận vệ, trung úy….trung úy… Tôi không còn ý thức được gì ngoài dòng máu nóng hổi đang phọt ra từ thân tôi… và gục xuống.
Khi tôi tỉnh lại nghe tiếng máy nổ dằn sóc trên đường đồi gồ ghề. Thì ra mình còn sống và đang được chuyển thương từ chiến xa M113. Tôi nhắm mắt lại rồi hôn mê lúc nào, có lẽ mất máu quá nhiều. TĐ đưa tôi về bệnh viện Nguyễn Tri Phương Huế bằng trực thăng. Sau khi sơ cấp cứu họ đưa tôi ra ngay phi trường Phú Bài bay về Sài Gòn bằng máy bay C130 của không quân VNCH. Nơi đây 1 chiếc xe cứu thương, cấp tốc chở tôi về bệnh viện Đỗ Vinh của Sư đoàn Dù. Trong phòng hồi sinh tôi chợt tỉnh và nghe 1 bác sỹ nói không được phải chuyển qua Tổng Y Viện CỘNG HÒA ngay . Khi tôi tỉnh lại lần nữa thấy mình đang nằm trong phòng hồi sinh của BV/Cộng Hòa, trên đầu tôi treo lũng lẳng những bịch máu và dịch truyền. Một bóng áo trắng của cô y tá với đôi mắt nhu hòa kề sát mặt tôi nhỏ nhẹ _ Anh tỉnh rồi hả? Sau một ngày tôi được đưa qua khu Tổng Quát 7 và ở đây cho đến ngày rời bệnh viện. Qua mấy lần 29 ngày tái khám. Khi vết thương chưa lành hẳn, tôi nhớ đơn vị và chiến hữu quá, tôi xin ra vùng hành quân cùng anh em . Lúc nầy TĐ/11 đang dưỡng quân tại PHÁ TAM GIANG, tôi được cho nghĩ ngơi vì vết thương chưa lành, không có trách nhiệm gì hết, thường ra Huế uống trà, đến chợ Cồn ăn chè, hay vào Quán ăn cơm Âm phủ ở đập đá và thường nhất đến hồ sen Tịnh Tâm trong thành nội uống café nghe nhạc. Bỗng một hôm tôi được giao nhiệm vụ Đại Đội trưởng ĐĐ 111 thay cho đại úy Trinh về TD7/ND. Lúc nầy tôi thăng 1 cấp là đại úy khi chưa tròn 23 tuổi. Một lần nữa tôi lại về với các chiến hữu 111. Và cùng anh em sống chết với nhau nhiều chiến trường cam go cho đến khi tôi lên chức vụ mới Trưởng Ban 3 Hành Quân và Quân Huấn của TĐ11/ND lừng danh trong quân sử. Hôm nay nhân dịp xuân về, ngồi nhâm nhi ly rượu mừng xuân Nhâm Dần giữa mùa băng tuyết xứ người. Hồi ức lại tuôn về, vội ghi lại câu chuyện thật “CHAI RƯỢU VĨNH BIỆT”mà nước mắt rưng rưng. Lòng ray rức không nguôi vì không thể trao tận tay tấm hình người con gái Huế vợ sắp cưới của Phong về chủ nhân thật sự của nó. Lúc bị thương chiến y rách tươm, đẫm máu. Họ đã quăng nó nơi nào đó đâu biết, trong mảnh chinh y đó có món vô giá với người đã hy sinh với cô ấy và cả với tôi.
Tăng Hoàng Quân Chú Thích : • Nhìn người lính UKRAINE hôm nay mà thương cho người chiến binh VNCH năm xưa, họ chiến đấu trong đơn độc với cả khối cộng sản thế giới. • Những đàm thoại ngoài chiến trường trên máy truyền tin , điều được mã hóa (bí mật) theo ám danh đàm thoại và bí mật truyền tin.Nếu có nghe được địch vẫn không hiểu gì. _ (1) Chuẩn Úy BÚP, một sỹ quan rất trẻ anh thuộc Pháo đội C ,Tiểu Đoàn 1 pháo binh Nhảy Dù. Là Tiền sát viên cho Đại Đội 112 khi tham chiến tại Động Ông Đô. Tăng Hoàng Quân |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22933 |
Gởi ngày: 06/Jun/2024 lúc 12:16pm |
Vùng Kinh Tế MớiKhác xa với Mẹ tôi, Dì Bảy nhanh nhẹn và rất tháo vát trong công việc làm ăn buôn bán Dì là người ngoài xã hội còn Mẹ chỉ quanh quẩn trong nhà săn sóc chồng con. Thực sự Mẹ và Dì Bảy chẳng phải chị em ruột thịt. Dì là người giúp việc cho Ngoại. Ngoại thương Dì Bảy vì mồ côi không nơi nương tựa, mặt mày xinh đẹp, trắng trẻo, giỏi giắn. Dì giúp Ngoại trông coi sạp vải ngoài chợ, buôn bán rất đắt hàng, nhờ cái miệng có duyên mời mọc khách, khó ai mà từ chối được. Lớn lên Ngoại gả chồng và giúp cho Dì chút vốn làm ăn. Chồng Dì là bạn rất thân của Ba tôi. Dì học hành không qua bậc tiểu học nhưng có tài tính toán giỏi, đầu óc rất “nhạy”, đánh hơi thấy chỗ nào làm ăn được là nhào vô ngay. Lúc quân đội Mỹ còn hoạt động mạnh mẽ ở VN, Dì thầu rác Mỹ và câu lạc bộ trong căn cứ Long Bình, ngay ngã ba Tam Hiệp cạnh xa lộ Sàigòn Biên Hòa. Rác từ căn cứ mỗi sáng được chở về nhà kho rất lớn, một toán nhân viên lựa chọn ra những thứ còn dùng được để bán lại, những đồ phế thải thì đưa ra bãi rác bên xa lộ Sàigòn-Biên Hòa. Đôi khi quân đội Mỹ di chuyển hay dọn dẹp nhà kho, họ vứt cả những hàng hóa hay thực phẩm còn nguyên xi trong thùng. Tất cả lương thực và đồ dùng đều chở từ Mỹ qua, kể cả nước uống đóng chai, xà bông tắm, dầu thơm, kem đánh răng, đồ hộp … cho nên gọi là rác nhưng lẫn trong đó có biết bao thứ quý giá có thể bán được. Chồng Dì, Dượng Bảy là thầy giáo quân nhân biệt phái, khỏi phải hành quân tác chiến. Nhờ dạy học Dượng được quanh quẩn ở nhà nên ngoài giờ làm việc trong trường, Dượng giúp Dì trong việc làm ăn buôn bán. Hai vợ chồng bận bịu suốt ngày lo ngoại giao, sổ sách, thầy thợ, bạn hàng… nên Thúy Yên (con gái Dì, Dượng) hầu như ở với gia đình tôi nhiều hơn với cha mẹ em. Mẹ rất thương yêu em, như Ngoại thương Dì Bảy vậy, ngược lại em cũng thương và quý mến tôi như người anh cả. Lúc thịnh thời, Dì giúp Mẹ rất nhiều, đôi khi thầu được một món hàng béo bở Dì lại nhờ Mẹ bỏ mối cho bạn hàng ngoài chợ Biên Hòa. Mẹ chỉ việc giao cho cô Năm, em Ba tôi, rồi tùy Cô muốn bán cho ai thì bán. Mẹ đứng trung gian kiếm lời. Thực sự, Dì có thể chẳng cần Mẹ, nhưng muốn giúp Mẹ có chút tiền còm để bù vào đồng lương quân đội rất hạn hẹp của Ba. Đôi khi đến nhà chơi, thế nào Dì cũng dúi cho tôi ít tiền may quần áo, mua sách vở hay tiêu vặt. Dì luôn nhắc nhở tôi coi chừng em cho Dì, mà dù Dì không nhắc tôi cũng cảm thấy có trách nhiệm với em. Tôi và Thúy Yên chơi với nhau từ nhỏ, tôi muốn có một đứa em gái để chiều chuộng, còn em, muốn có anh trai để vòi vĩnh. Lớn lên một chút em theo tôi đi học, lúc nào cũng quấn quýt bên tôi để mè nheo đủ chuyện. Có khi em làm biếng đi học, kêu đau chân, bắt tôi phải cõng đến trường. Có khi, đi đến cổng trường rồi khóc đòi về, tôi phải ghé hàng bán kẹo kéo, em thích lắm, bao giờ cũng giành quay số, luôn vỗ tay hăng hái để được trúng hai cây kẹo, quên đòi về. Có lần Mẹ may cho bộ đồ mới, em nghịch đất mặt mày lấm lem, chân tay dơ dáy, quần áo bẩn thỉu về bị Mẹ khẻ tay, thế là em khóc dỗi nức nở, tôi phải dẫn ra đầu xóm kiếm hàng cà rem em mới thôi khóc. Từ đó mỗi khi tay dơ em lại chìa tay ra cho tôi rửa, cầm bàn tay em nhỏ xíu, trắng trẻo, tôi hun mãi làm em cười như nắc nẻ. Một hôm Ba về phép dẫn tôi và em đi tắm hồ, Ba về nhà trước, tôi và em về sau, không biết sao, tôi dẫn em đi lạc rất xa. Lúc đó tôi độ 9 tuổi còn em chừng 3 tuổi. Em lẽo đẽo theo sau tôi, vừa đi vừa khóc. Tôi cũng sợ lắm, chẳng biết lối nào đi về nhà, càng đi càng chẳng thấy chỗ nào là quen thuộc cả, nhưng vẫn trấn an em: “Nín đi cưng, gần về đến nhà rồi!”, em nghe dỗ lại càng khóc to thêm. May quá, có một bà lớn tuổi, thấy hai đứa bé vừa đi vừa khóc, mới dẫn vô nhà cho ăn uống rồi hỏi thăm, dẫn hai anh em về nhà. Mẹ thấy hai anh em trở về bình an, vội ôm chầm lấy em, khóc hết nước mắt. Mẹ thương em lắm, chỉ sợ tôi bắt nạt em. Nếu không có cuộc đổi đời 30 tháng Tư năm 75, chắc anh em tôi cũng êm đềm sống bên cha mẹ, học hành, vui vẻ như bao nhiêu trẻ em khác chẳng có gì đáng nói.
Bảo Huân Sau ngày mất Sàigòn, Ba và Dượng Bảy bị đi tù cải tạo. Dượng là sĩ quan biệt phái lại giao dịch với quân đội Mỹ nên tội nặng lắm, đi tù mãi chẳng có ngày về. Nhằm lúc chánh quyền đánh tư sản, nửa đêm công an đến bao vây nhà, lục soát, đào xới cả vườn sau để tìm vàng bạc chôn giấu, rồi đuổi hai Mẹ con Dì đi kinh tế mới. Căn nhà lầu 4 tầng mặt tiền, đầy nhóc hàng hóa và đồ đạc, bị tịch thu cho cán bộ ngoài Bắc vô ở. Chẳng biết làm cách nào, Dì chạy chọt nhập hộ khẩu với Mẹ. Dì dẫn Mẹ ra buôn bán chui ngoài chợ, Dì có thể mua đi bán lại bất cứ thứ gì , từ những mớ rau muống, đến thuốc Tây, vải vóc, quần áo, sách báo chế độ cũ. Dì Bảy là kẻ sống ngoài chợ từ nhỏ mà! Thường thì Dì đi lùng mua hàng, Mẹ bày một ít hàng mẫu trong giỏ xách, nếu công an đuổi bắt chỉ mất bao nhiêu đó hàng thôi. Nhà tôi có một tủ lớn đủ các loại sách mà Ba rất quý, tôi nghĩ chắc đọc suốt đời cũng không hết, nhưng tôi mê nhất vẫn là bộ Tam Quốc Chí và mấy cuốn kiếm hiệp của Kim Dung, tôi đọc đi đọc lại bao nhiêu lần, thế mà mỗi lần cầm cuốn sách lên lại đọc quên ăn. Mẹ vẫn gọi tôi âu yếm là con mọt sách. Lúc túng quá, khi đã bán gần hết đồ đạc trong nhà, tủ sách của Ba cũng phải chung số phận. Mẹ biết tôi mê Tam Quốc Chí nên có người trả giá rất cao nhưng Mẹ thà nhịn đói nhất định giữ lại. Mẹ và Dì thay phiên nhau đi thăm nuôi Ba và Dượng, tôi bao giờ cũng được đi theo. Mỗi lần nhìn thấy Ba gầy ốm mặt mày hốc hác xanh xao, quần áo tả tơi, tôi và Mẹ không cầm được nước mắt, trước mặt cán bộ trại giam Ba lại khuyên tôi: “con trai lớn phải cứng rắn chứ, hay khóc nhè thế làm sao lớn lên được!”. Tôi giống Mẹ ở điểm mít ướt đó, chẳng giống Ba chút nào. Ba hứa với hai Mẹ con, sẽ cố gắng học tập “tốt” để nhà nước khoan hồng về với gia đình. Tôi chẳng hiểu học tập “tốt” nghĩa là gì nhưng cũng vâng dạ cho Ba yên lòng. Ba nhắc Mẹ chịu khó thay mặt Ba dắt tôi sang thăm hỏi và săn sóc cô Năm, cô già yếu bệnh tật không có ai bên cạnh thật đáng thương. Thật sự Ba đã biết vợ chồng Cô đã qua Mỹ từ những ngày đầu với ông bà Nội tôi, ý Ba muốn chúng tôi tìm đường vượt biên thôi. Mẹ chỉ hứa sẽ cố gắng, hoàn cảnh nhà mình cũng nghèo chưa chắc gì giúp được Cô, Ba thở dài không nói. Dịp gần Tết, Dì Bảy dẫn tôi đi thăm Dượng, tôi chẳng biết ở tận đâu, xa lắm, phải đi 2, 3 ngày mới tới, lúc thì đi xe đò, lúc đi xe trâu, có khi thì đi bộ băng qua rừng cùng với đám người thăm nom khác. Cuối cùng thì cũng đến được trại tù. Đợi 2 ngày ngoài cổng trại mới được sắp xếp cho gặp Dượng, Dượng ốm yếu đến nỗi chỉ còn hai con mắt là linh hoạt. Dì và tôi giả làm hai Mẹ con, khi nghe tôi chào Dượng bằng cha, hai mắt Dượng mờ đục hẳn đi. Dượng dặn tôi cố gắng học hành và săn sóc cho Thúy-Yên. Dượng nói: “Sau này, mọi sự đều nhờ ở con!” tôi lí nhí mấy câu hứa với Dượng , đó là lời nói sau cùng của Dượng tôi còn nhớ được. Tôi chỉ là thằng nhóc con vẫn còn phải bám gấu quần Mẹ thế mà từ nay phải thay thế Dượng săn sóc cho em. Tôi đã hứa và quyết tâm giữ lời hứa đó dù chẳng biết bằng cách nào. Trên đường trở về tôi cứ nghĩ mãi đến bài học lịch sử “Nguyễn Trãi từ giã Phi Khanh nơi biên giới Hoa Việt”. Tôi chẳng có chí lớn như Nguyễn Trãi, nhưng điều nhỏ nhặt hứa với Dượng tôi quyết thực hiện được. Một hôm công an giả làm người mua hàng, ập vào nhà tịch thu tất cả hàng hóa, thế là Mẹ và Dì lại trắng tay. Cuối cùng thì họ cũng đuổi gia đình tôi đi kinh tế mới để chiếm căn nhà gạch 2 tầng của Mẹ. Chính quyền “Cách Mạng” muốn chiếm nhà của ai, chỉ việc tìm cách đuổi đi kinh tế mới, thế là xong. Chúng tôi đi theo mấy người bà con xa bên Ba về Long Thành, rồi từ đó lội bộ khoảng 14, 15 cây số nữa gần mấy đồn điền cao su của người Pháp để lại. Dân đi kinh tế mới gọi vùng hoang vu này là Xóm Lá, nơi đây vẫn còn in dấu vết thời chiến tranh, những hàng cây bị bom đạn đốn gãy ngang, cháy chỉ còn trơ thân đen thui. Những hố bom B52 to như những cái ao. Mùa mưa nước từ trên nguồn chảy về, các con suối trở thành những con sông nhỏ, hố bom ngập đầy nước. Người ta cắt cỏ tranh về làm những túp lều nho nhỏ để chui ra chui vào, nước mưa dột tứ tung nhưng ai cũng mừng vì sẽ có rất nhiều ếch nhái, cua đồng, sò, hến ngoài suối. Tôi theo Mẹ và Dì làm việc đồng áng, khuân những tảng đá chất lên bờ làm ranh giới, đốt cỏ tranh để lấy đất làm rẫy, chúng tôi trồng rau muống, rau đay, rau lang quanh mấy hố bom. Trồng cà, mướp, bí, khoai lang, khoai mì chung quanh túp lều lý tưởng, trồng bắp, đậu phụng ngoài rẫy, đến mùa mưa trồng lúa. Nhìn bàn tay của Mẹ và Dì chai như bàn tay đàn ông, hai bà đã già hẳn đi, tôi đau đớn trong lòng khôn tả. Tôi đã được 15 tuổi, làm người “Đàn Ông” cột trụ của gia đình. Từ ngày đến Xóm Lá, tôi đã không còn cắp sách đến trường mà chỉ chuyên tâm vào việc đồng áng và lo tìm kiếm bất cứ cái gì có thể nhét vào mấy cái bao tử xẹp lép của gia đình, vả lại nơi xa xôi này làm gì có trường học. Tôi đã bắt đầu hiểu được thời thế và cuộc sống chung quanh mình. Hiểu được thân phận của những kẻ lưu đày, nỗi nhọc nhằn của những người như tôi chỉ là thứ công dân hạng bét trên chính quê hương mình. Xóm Lá nơi tôi ở, ban đầu chỉ có một số người đã sinh sống ở đây từ lâu, họ làm công trong mấy đồn điền cao su. Đời sống tuy lam lũ nhưng nhà cửa cũng tươm tất, mặc dầu chỉ là nhà tranh vách đất, chung quanh cũng có cây ăn trái, giàn bầu giàn bí xum xuê, có vài thửa ruộng cày cấy đủ ăn. Từ ngày chiến tranh lan tràn, mấy đồn điền đều bỏ hoang, cây cối um tùm chẳng ai săn sóc. Dân mới nhập cư tha hồ chặt cây về làm nhà, làm củi. Vào sâu hơn một chút là dân Sài Thành mới đến “cắm dùi” vì bị đẩy ra khỏi thành phố. “Dân cũ” cũng rộng lượng chia sẻ cho chút khoai hay bắp để sống qua ngày. Họ cũng giúp một tay xây dựng nhà cửa và chỉ cách trồng trọt, thứ nào trồng mau có ăn, thứ nào trồng sinh nhiều hoa trái … Xa hơn nữa sát bìa rừng là những nông dân từ ngoài Bắc theo chân quân đội “giải phóng” vô lập nghiệp. Họ chịu cực khổ quen rồi nên rất siêng năng, làm việc từ sáng sớm đến tối mịt mù. Có những đêm sáng trăng họ làm luôn ban đêm, đúng như câu “Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm” được học tập ở miền Bắc, họ là một thứ “Nô Lệ” cho chủ nghĩa đã quen rồi. Dì Bảy lúc này rất yếu, hay bị xỉu khi làm việc ngoài đồng. Mỗi lần xảy ra như vậy, tôi dìu Dì về nhà để em săn sóc. Em vẫn còn ngây thơ, thấy Dì bị xỉu thì sợ hãi lắm. Tôi bảo em, Dì bị say nắng, chỉ nằm một chút là tỉnh thôi, em đi lấy nước cho Dì uống, giặt khăn lau mặt và quạt cho Dì mát. Nơi chốn quê mùa, chẳng có thuốc thang gì, bệnh tật chỉ đành phó mặc cho Trời Phật. Nghỉ một lúc Dì tỉnh táo và khỏe mạnh lại, Dì cầm tay tôi thì thầm “Dì chắc không còn bao lâu nữa, không biết chờ được Dượng đến ngày nào, Nếu Dì có mệnh hệ nào con cố gắng lo cho em, nó còn bé bỏng lắm, bản tính nó ương ngạnh, cứng cỏi, con thương Dì thì nhớ nhường nhịn em nghe con.” Tôi chỉ biết khóc và hứa với Dì sẽ săn sóc em suốt đời. Dì mỉm cười héo hắt rồi ôm lấy tôi và em, nước mắt Dì ướt trên mặt tôi. Về vùng đất hứa độ hơn một năm, Dì và tôi lại đi thăm Dượng, Dì làm nhiều thức ăn đồng quê, cơm nắm để mang theo ăn dọc đường và tiếp tế cho Dượng. Chúng tôi vất vả mấy ngày mới đến nơi, lần này chẳng phải chờ đợi, người cán bộ trại tù cho biết Dượng đã qua đời, họ trao trả những gì còn lại của người tù quá cố, chẳng có gì đáng giá, nhưng Dì mang tất cả về. Dì xin cho ra mộ để cúng tế nhưng họ nhất quyết từ chối mặc cho Dì khóc lóc van xin. Sau lần đi thăm nuôi đó Dì không còn gượng dậy nổi nữa, nỗi buồn rầu và thất vọng đã đánh Dì gục ngã và cướp đi mạng sống của Dì. Em vẫn nghĩ rằng Dì chỉ bị “xỉu” thôi, tay vẫn quạt trên mặt Dì, miệng mếu máo gọi: “Má ơi tỉnh dậy đi, anh Hai sao Má xỉu lâu thế không tỉnh dậy?” Em vẫn chưa hiểu được chết là thế nào? Làm sao tôi giải thích cho em! Tôi chỉ biết ôm em khóc, em cũng khóc theo. Dân trong Xóm Lá phụ giúp Mẹ và tôi đưa Dì ra nghĩa trang bên bìa rừng. Khi mới đến lập cư, tôi chỉ thấy một vài nấm mộ, bây giờ sau hơn một năm, mộ đã đầy một khoảng đất lớn. Những người thành thị về đây đã đua nhau bỏ ra đi qua bên kia thế giới với tốc độ chóng mặt, phần vì thiếu thuốc men, thiếu ăn, phần vì lao động quá sức mà không đủ sống. Chung quanh chúng tôi, nhà nào cũng có người thân đã từ giã ra đi không hẹn ngày trở lại. Dì bỏ đi, Mẹ càng cô đơn hơn. Trước kia, có chuyện gì, Mẹ và Dì còn nương tựa, an ủi lẫn nhau, nay chỉ còn tôi và em, Mẹ không còn gượng nổi nữa. Mẹ nằm liệt giường mấy ngày, tôi sợ lắm, quỳ bên Mẹ khóc nỉ non xin Mẹ cố gắng sống đừng bỏ hai anh em tôi. Nếu Mẹ cũng bỏ chúng tôi ra đi, biết sẽ phải trông cậy vào ai.Tôi đun nước và hái lá về xông cho Mẹ, còn em nấu cháo cho Mẹ. Tôi nâng đầu Mẹ lên cao cho em múc cháo đút cho Mẹ. Nhờ Trời, dần dần Mẹ khỏe lại, nỗi thương nhớ Dì rồi cũng nguôi ngoai, Mẹ ôm chúng tôi hứa sẽ cố gắng sống để chờ Ba trở về. Chúng tôi lại lăn vào việc đồng áng, nuôi được một con bê con, em thích dắt con bê đi ăn cỏ trong khi Mẹ và tôi làm rẫy. Khi bê con thành con bò, Mẹ sai tôi dắt ra Long Thành giao cho người bà con quen, cho nó nhảy đực. Giao bò xong tôi đi chơi quanh quẩn ngoài chợ kiếm mua quà cho em và Mẹ rồi chiều dắt về. Người ngoài Bắc cũng bắt đầu vô lập nghiệp khá đông, nhà nào có nhân lực phá rừng tới đâu thì chiếm đất tới đó, cứ khuân đá đặt chung quanh làm ranh giới. Mỗi đêm lại xảy ra nạn chiếm đất giành dân như thời chiến tranh! Bởi vì người nào tham lam, chỉ việc xê dịch mấy tảng đá là ruộng họ sẽ lớn ra thêm trong một đêm. Một thời gian sau, Xóm Lá họp nhau cất lên ngôi trường Tiểu Học đầu tiên. Trường chỉ là căn nhà lá hai gian. Dân Xóm Lá mời hai cô con một người tù cải tạo, đã từng là sinh viên thời trước, làm cô giáo, một cô tên Ngọc, cô kia tên Lan. Hai cô thay phiên nhau dạy từ lớp Một đến lớp Năm. Mỗi lớp chỉ học mấy tiếng, thời giờ còn lại học trò theo cha mẹ ra làm việc ngoài đồng. Tôi không biết nhà nước có trả lương cho 2 cô không, nhưng dân Xóm Lá vẫn biếu tặng 2 cô nông phẩm của họ. Mẹ xin với cô Ngọc cho tôi được học riêng với cô. Từ đó tôi theo em cắp sách đến trường học nửa buổi. Hai cô thay phiên nhau dạy riêng cho tôi toán, vật lý và hóa học. Tôi học rất mau như người ăn trả bữa sau một cơn bệnh ngặt nghèo. Tôi thật sự ngưỡng mộ 2 cô, tận tâm và thương yêu học trò nhất là học trò chăm học như tôi. Cô luôn khuyến khích và chỉ bảo tôi tận tình. Cô cho tôi mượn sách về đọc thêm, nhờ sự say mê đọc sách tôi đã học được rất nhiều chỉ trong thời gian ngắn. Mẹ cũng kêu gọi dân trong xóm cất được ngôi nhà nguyện nhỏ, chỉ lớn hơn ngôi nhà chúng tôi đang ở một chút xíu, có bàn thờ và cây Thánh Giá bằng gỗ, không có ghế ngồi. Chiều nào Mẹ cũng dẫn em và tôi lên đó đọc kinh cầu nguyện cho Dì được an nghỉ trên nước Thiên Đàng và cho Ba chóng được về sum họp với gia đình. Những lời cầu kinh của Mẹ gõ đều trên trái tim nặng trĩu của tôi khiến tôi nghẹt thở và sụt sùi.Trên đường về mắt Mẹ vẫn còn đỏ hoe, tôi cũng vậy, còn em lẽo đẽo theo tôi vô tư như con chó nhỏ. Mùa mưa, em theo tôi đi soi ếch ban đêm ngoài bờ ruộng hay bên bờ mấy hố bom ngập đầy nước, có khi chúng tôi bắt cua đồng về cho Mẹ nấu canh rau đay. Ôi cua đồng nấu rau đay là món ăn ngon nhất trên đời, mà có thêm mấy quả cà muối nữa thì sơn hào hải vị cũng chịu thua! Chắc tôi sẽ không tìm được trên thế giới món nào ngon hơn thế. Đêm sáng trăng tôi dắt em ra ngồi trước hiên nhà, nhìn mông lung ra đám ruộng lúa xa xa, ánh trăng lướt nhẹ trên mấy đám cỏ tranh trên gò đất, ễnh ương kêu vang khắp mọi nơi, tôi tủi thân khóc thầm, có cha cũng như không, thương Ba tù đày, thương Mẹ vất vả lao đao, thương em côi cút, thương tôi chẳng biết ngày mai sẽ ra sao, nước mắt chảy ra lúc nào không biết. Em lắc tay tôi hỏi tại sao tôi khóc, em còn ngây thơ bé bỏng quá, tôi biết trả lời sao, chỉ biết ôm em vào lòng mà sụt sùi . Em bé tí teo nhưng đã phải xách nước tưới rau, phụ Mẹ nấu ăn, giặt quần áo cho cả nhà. Nhiều khi đi làm rẫy về mệt nhọc nhưng thấy em tưới rau tôi lại giành làm thay em. Em thích nghe tôi kể chuyện Thằng Người Gỗ có cái lỗ mũi dài, mỗi lần nói dối mũi lại dài ra thêm, có ngày nó nói dối nhiều quá, mũi dài tới chấm đất không quay đầu được nữa, em cười ngặt nghẽo nói “eo ơi, nếu vậy em không dám nói dối đâu”. Mấy đứa trẻ con hàng xóm cũng bu lại đòi tôi kể chuyện. Tôi kể những truyện con nít trong sách của Hà Mai Anh như Tâm Hồn Cao Thượng, Chim Hót Trong Lồng của Nhật Tiến, Con Sáo Của Em Tôi và Dzũng ĐaKao của Duyên Anh … những loại sách đó chẳng còn in lại trong thời “Cách Mạng” này nữa. Tôi kể chuyện nổi tiếng đến nỗi cả người lớn cũng đòi nghe, tôi kể cho họ nghe Tam Quốc Chí, Đông Châu Liệt Quốc, Anh Hùng Xạ Điêu, Thiên Long Bát Bộ, Cô Gái Đồ Long và nhiều bộ truyện tôi từng say mê của Kim Dung. Nhà tôi buổi tối trở thành nơi giải trí, họ đến tán gẫu và nghe tôi kể chuyện. Nhờ vậy anh em tôi có thêm của ăn do họ mang đến làm quà. Ở nơi rừng hoang, ánh sáng văn minh còn quá lu mờ làm sao rọi tới, chẳng có gì khác hơn là ngồi nói dóc trong bóng tối. Mỗi lần kể chuyện, em bao giờ cũng đòi ngồi sát cạnh tôi, nhiều khi nằm ngủ ngay trên đùi tôi. Nơi Xóm Lá, dường như người ta đang sống bên lề Xã Hội Chủ Nghĩa, chẳng ai quan tâm đến Bác và Đảng. Công an, du kích cũng có một hai chú nhưng đám dân lam lũ vất vả này chẳng còn gì để tước đoạt nữa nên mấy chú ấy cũng làm ngơ, thỉnh thoảng ghé lại xin củ khoai lang hay ăn ké một bữa cơm, chắc để kiểm soát từng hộ khẩu, xem có gì khác lạ không?. Mấy chú cũng rất mê nghe tôi kể những truyện của Kim Dung, ở ngoài Bắc chắc ngoài sách về chủ nghĩa Cộng Sản không còn thứ gì khác. Một hôm, đang đốt cỏ tranh để làm rẫy, gió nổi lên thổi tàn bay tứ tung lên nóc nhà thế là chỉ trong vài phút, nhà cửa đều ra tro, một ít sách vở của Ba còn lại cũng bị Thần Lửa lấy mất. May là chẳng có ai trong nhà. Mọi người chạy đến hỏi thăm, hôm sau cả xóm giúp dựng lại nhà mới mỗi người một tay không phân biệt Bắc hay Nam, mới hay cũ. Thế mới biết con người vẫn là con người, chỉ có chủ nghĩa làm cho phân biệt người với ngợm! Đời sống ở vùng kinh tế mới là như thế, làm lụng vất vả cực nhọc nhưng vẫn không đủ ăn. Thêm vào đó là bệnh tật chẳng có thuốc chữa. Thôi, hãy phó mặc cho số mệnh và ông Trời. Ông trời thì ở xa lắm chẳng bao giờ với tới, số mệnh của những người sống trong vùng kinh tế mới thì thật là đen đủi. Biết làm sao? Tôi thương Mẹ, thương em và thương tất cả những cư dân trong vùng kinh tế mới, vì họ cũng như tôi, đang phải chiến đấu với đủ thứ khó khăn bệnh tật, đói khát. Tôi và Mẹ vẫn chờ trông Ba được trở về từ trại tù. Những tháng ngày qua đi chậm chạp, mòn mỏi và nước mắt Mẹ rơi trên ruộng đất khô cằn vẫn không đủ cho hạt nảy mầm đơm hoa kết trái. Minh Đạo - Nguyễn Thạch Hãn |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22933 |
Gởi ngày: 10/Jul/2024 lúc 11:47am |
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 10/Jul/2024 lúc 11:49am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 100 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |