Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình  
Message Icon Chủ đề: MƯỜI ĐIỀU RĂN NGƯỜI GIÀ Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 69
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22292
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 14/May/2024 lúc 10:04am

Bơ Vơ Phận Già



Bài đăng lại nhân ngày Từ Mẫu.

******* 

Tôi đang đứng lơ mơ ở cột đèn giao thông chờ băng qua đường, bất chợt một bà bác chống gậy khập khiểng bước đến cạnh tôi lên tiếng hỏi

         - Cô ơi ! cho tôi hỏi thăm một chút.
         - Dạ, có chuyện chi đó bác?
Tôi quay lại sốt sắng hỏi. Bà bác với dáng điệu tất tả hoang mang khẩn khỏan nói:
- Tui muốn kiếm phòng mạch bác sĩ Hòang Mai, người ta chỉ tôi ở lối này nè mà không biết là căn nào. Với lại tui cũng muốn biết phòng mạch này ở dưới đất hay trên lầu. Nãy giờ tui đứng đây chờ coi có ai người Việt đi ngang để hỏi. Cô biết không làm ơn chỉ giùm tui đi.
Đèn xanh vừa bật lên cho khách bộ hành qua đường nhưng tôi đứng nán lại chờ nghe bác nói tiếp:
- Chân cẳng tui không thể lên cầu thang được cho nên muốn kiếm bác sĩ nào có phòng khám bệnh dưới lầu. Bác sĩ Mai này làm việc ‘’dưới đất’’ phải không cô?
Tôi chỉ căn nhà không xa phía trước nói:
- Con chưa từng đi bác sĩ này nhưng biết phòng mạch ở đằng trước kìa, chỉ cách đây mấy căn, để con dẫn bác đi và hỏi thử coi sao.
- Cám ơn cô quá, may là gặp cô tử tế, nói thiệt tui không biết chữ, cứ nhắm hướng đi cầu may rồi đi tới đâu hỏi tới đó thôi.
Nghe vậy, tôi nắm cánh tay bác vừa dìu đi vừa hỏi:
- Bác đi được không, ủa mà con cái bác đâu sao không đưa bác đi mà để bác  đi một mình vậy? Nhà bác ở đâu, từ nhà ra đây bác đi bằng cái gì?
- Tụi nó bận đi làm hết rồi, tui đi bộ, chống gậy đi từ từ, nói nào ngay sau khi mổ đầu gối một thời gian, tui đi lại được, chỉ không lên thang lầu được thôi. Hôm qua con gái tui có hỏi ‘’má muốn đi bác sĩ hông tui chở cho đi’’ nhưng tui thấy tui đi được, không muốn phiền tụi nó nên nói không, thằng rể tui nó khó lắm cô à ! Tui buồn lắm, nhiều lúc muốn bỏ đi mà không biết đi đâu bây giờ. Thân già này đâu còn làm lụng gì được  nữa đâu cô.

Vừa lúc tới trước cửa phòng mạch, tôi đẩy cửa dẫn bác vào gặp cô thơ ký. Tưởng ai xa lạ, ai dè cô này tên Chi, trước kia đã từng làm ở phòng mạch bác sĩ gia đình của tôi nên rất quen. Tôi hỏi:
- Bác sĩ Mai làm dưới lầu phải không Chi? Bà bác đây muốn khám bệnh mà sợ phải leo lầu vì chân yếu.
Chi nói:
- Dạ ở đây có hai bác sĩ, một nam một nữ đều làm ở từng dưới hết, bác muốn gặp bác sĩ nào vậy chị?
Tôi chưa kịp nói gì thì bà bác đã nhanh nhẩu trả lời huề vốn:
- Bác sĩ nào cũng được miễn là ở dưới đất thôi.
- Con đã nói là bác sĩ nào cũng làm ở từng dưới, bác phải nói rõ muốn gặp người nào mới được để con làm hồ sơ.
Chi hơi cau mày khó chịu. Tôi quyết định giùm cho bác:
- Cho gặp bác sĩ Hòang Mai đi Chi.
- Vậy bác cho biết ngày sanh và đưa con cái thẻ medicare đi bác.
Bà ngẩn người nói:
        - Ngày sanh hả? Tui đâu có biết, ba má tui chết sớm, còn tui thì không biết chữ, làm sao biết ngày sanh. Tui chỉ biết năm nay tui 85 tuổi thôi.
Tôi và Chi đều lấy làm lạ, Chi sẵng giọng nói:
         - Ủa sao kỳ vậy, mỗi khi làm giấy tờ gì người ta cũng cần phải biết ngày sanh tháng đẻ của đương sự, nếu bác không có ngày sanh thì đâu ai làm hồ sơ cho bác. Ai cũng phải có ngày sanh, dù ngày sanh thật hay ngày sanh giả gì cũng phải có một ngày để điền vô giấy tờ chớ. Vậy bác có giấy nhập quốc tịch hay p***port gì mang theo không, cho con mượn coi đi.
Bà ngập ngừng ú ớ :     
- Tui, tui cũng không biết, giấy tờ con tui nó cất hết cho tui. Bị tui già quá rồi, chắc nó sợ tui bỏ mất.
- Vậy thôi bác về hỏi lại con bác đi chớ không có ngày sanh con không giúp gì được cho bác hết.
Tôi đề nghị với Chi:
- Hay là Chi gọi văn phòng Medicare hỏi ngày sanh giùm bác đi khỏi mắc công bác trở đi trở lại. Chị cũng biết chuyện đó là confidential nhưng mình cứ thử coi sao.
Chi nhấc phone bấm số vừa gọi vừa nhăn nhó nói:
- Em cũng đang nghĩ tới chuyện đó nè nhưng chắc người ta không chịu nói hay nói đúng là không có quyền tiết lộ đâu chị à.
Quả thật hopeless. Chi gác điện thọai rồi bỗng phát sùng bâng quơ trách móc người nhà của bà:
- Mấy người này kỳ thiệt, biết má mình vậy sao không ghi sẵn một tấm giấy với đầy đủ chi tiết cho bà bỏ túi đi. Thiệt hết nói. Em đã biết là không được mà.

Thấy tình hình không giải quyết được gì, bà lấy cái hộp thuốc không trong túi xách ra đưa cho tôi và Chi coi rồi phân trần:
- Tui chỉ muốn gặp bác sĩ là để xin thuốc này thôi chớ không cần khám bệnh. Hồi trước tui đi bác sĩ Dũng bên kia đường kìa, nhưng bây giờ ổng dời đi chỗ khác xa quá tui đi không tới, nếu không được thì thôi để bữa khác tui trở lại. Thôi cám ơn hai cô nghe.
Tôi nhìn cái hộp thuốc rồi một tia sáng chợt lóe lên trong đầu, tôi hỏi bà:
- Bác mua thuốc này ở tiệm nào, có thể ở đó người ta có record ngày sanh của bác. Đi, con dẫn bác đi hỏi thử, biết đâu được.
Bà ái ngại nói:
- Nãy giờ tui làm mất giờ cô quá, thôi để tui đi một mình được rồi, tiệm thuốc cũng ở gần đây thôi. Cô lo đi công việc của cô đi, cô thiệt tốt bụng, tui cám ơn cô lắm.
- Không có gì đâu bác. Con cũng còn cha mẹ già cở tuổi bác, con rất hiểu sự buồn tủi, nỗi khổ của người già, nhứt là trong hòan cảnh bệnh tật không thể tự săn sóc mình. Như bản thân con đây từ từ rồi cũng sẽ tới giai đọan đó, chỉ cầu mong lúc đó có ai thưong tình ban bố cho chút tình người, đừng hất hủi đuổi xô mình là đủ an ủi rồi.
Nghe tôi thành thật tỏ bày, bà cũng tủi thân sụt sùi kể lể:
- Con tui nó bảo lãnh tui qua hồi năm 93. Tui có bốn thằng con trai một đứa con gái. Lúc đầu con cái tụi nó còn nhỏ, tụi nó còn cần tui coi cháu, giữ nhà. Bây giờ cháu lớn hết rồi, tụi nó thấy tôi hết xài, dư thừa chướng mắt cho nên đẩy tui qua hết đứa này tới đứa nọ. Con trai thì sợ vợ, con gái thì nể chồng, hiện giờ tui ở với con gái út, nó cũng thương tui nhưng thằng rể  tui khó khăn quá, ai muốn tới thăm tui nó cũng không vui, riết rồi tui không còn bạn bè gì hết. Nếu có chuyện gì cực chẳng đả nhờ nó thì nó nói nhà này không có ai ở không.

Tui biết đứa nào cũng phải đi làm, lo đời sống của tụi nó, tui đâu có dám đòi hỏi gì nhiều đâu . Tại tui sanh tụi nó ra thì phải nuôi nấng làm tròn bổn phận người mẹ chớ thiệt tình tui không trông mong gì tụi nó đền ơn báo hiếu cả, nhưng ngặt một nỗi ở xứ này cái gì tui cũng không biết thành ra phải sống nương tựa tụi nó đó thôi. Nếu lúc trước biết vậy thì tui đâu có qua đây làm gì, bây giờ trở về thì nhà cửa còn đâu mà ở. Nhiều khi tui cầu trời khẩn Phật cho tui chết quách cho xong cái thân già vô dụng này để khỏi làm phiền con cái, tui không hiểu sao có nhiều người lại ham sống thọ, thọ để làm gì, sống càng lâu càng thêm khổ chớ vui sướng gì mà chúc thọ cho nhau.
Tôi hưởng ứng:    
- Con cũng nghĩ như bác vậy. Những người bạn cở tuổi con ai cũng nói trong ba chữ ‘’Phước Lộc Thọ’’chỉ cần một chữ ‘’Phước’’ là đủ rồi. Chớ ham chi chữ ‘’Thọ’’, sống dai dẳng mà bệnh triền miên cũng là vô phước. Ai cũng “chơi khôn’’ cầu xin cho mình ngủ rồi được đi luôn êm thắm cho khỏe, kêu là chết tốt, không bị bệnh hành vật lên vật xuống khổ thân đó bác. Mà con thấy hiếm có người được phước như vậy lắm.    

Khi tới tiệm thuốc, gặp hai vợ chồng chủ tiệm người Việt Nam, tôi trình bày:   
- Chị à, bác đây muốn đi bác sĩ xin toa thuốc mà vì không nhớ ngày sanh nên không thể lập hồ sơ được. Tôi dẫn bác lại đây hỏi thử chị coi trong record mua thuốc của bác có ghi birthday của bác không.
Bà vợ bảo ông chồng đi lục hồ sơ ra coi và nói với bà bác:
- Nếu bác hết thuốc uống thì tụi con cho bác mượn trước một hộp rồi khi nào xin được toa bác sĩ, bác đưa lại cho con sau cũng được. Bác không cần phải có toa ngay bây giờ đâu.
Bà khóat tay phân bua:
- Thật ra tui còn thuốc ở nhà, chỉ muốn đi bác sĩ xin hờ để đó, hồi trước tui đi bác sĩ Dũng mà bây giờ ổng dời đi xa quá, tui định kiếm đại một bác sĩ nào ở gần đây để xin thuốc tiếp tục thôi, ai dè cô thơ ký nói phải có ngày sanh. Gặp cô này tử tế, cổ nhứt định dẫn tui đi phăng ra cho được.
Ông chồng chủ tiệm sau khi coi lại record bèn nói:
- Trong record chỉ có số mật mã pensioner chớ không có ngày sanh của bác, nếu bác hết thuốc thì con đưa trước cho bác dùng còn chuyện ngày sanh thì chắc bác phải về kêu con bác coi lại trong giấy tờ nào đó.
Tôi còn rán làm tài khôn:       
- Tôi biết kiếm ở đâu rồi. Chắc chắn là trong hồ sơ của bác sĩ Dũng. Anh chị có số phone của bác sĩ Dũng không? Nếu có thì gọi giùm cho bác hỏi cô thơ ký ở đó thì tìm ra chớ gì.
- Rất tiếc là chúng tôi không có.
Nghe bà chủ chemist nói vậy, bà bác bảo tôi:
- Thôi thôi khỏi làm phiền nữa đâu cô à, để bữa khác tui trở lại. Tui còn thuốc uống mà, nãy giờ cô dẫn tui đi vòng vòng mất cả tiếng đồng hồ của cô rồi, tui ngại lắm, thiệt là cám ơn cô hết sức.
Tôi buồn tình xuôi xị nói:      
- Dạ không có chi đâu bác, con muốn giúp bác cho được mà hết cách rồi. Vậy thôi bác về nói với con bác ghi một tờ giấy với đầy đủ chi tiết tên tuổi ngày sanh, địa chỉ và số điện thọai nhà cho bác bỏ sẵn trong túi để khi bác đi đâu một mình rủi có chuyện gì, người ta còn biết đường mà liên lạc với người nhà của bác. Nhớ nghe bác.

Dặn dò bác xong tôi đi lo công chuyện của tôi. Trông người mà ngẫm đến ta, vừa đi tôi vừa tư lự nghĩ thầm, rồi đây một mai già yếu bệnh họan chắc gì mình thóat khỏi hoàn cảnh bơ vơ buồn tủi như bà bác này. Phải chăng đây là viễn ảnh tương lai, là cảnh ngộ chung của phận già, những kẻ sắp kết thúc một cuộc hành trình đầy gian khổ ở trần gian trước khi về tới quê hương vĩnh hằng, lúc xác thân đã rã rời phờ phạc, như một chiếc lá vàng khô héo chỉ chờ một cơn gió nhẹ thỏang qua sẽ rơi rụng lìa cành yên ngủ thiên thu. Người đời thường nói ‘’Mẹ nuôi con biển hồ lai láng, con nuôi mẹ tính tháng tính ngày’’cũng đúng thôi. Chua chát thay! một bà mẹ có thể hy sinh cả cuộc đời chịu thương chịu khó để nuôi nấng đùm bọc năm mười đứa con nhưng năm mười đứa con không đủ sức cưu mang một mẹ già hay một người cha yếu trong tuổi già không còn khả năng tự chăm sóc. Bởi vì nước mắt bao giờ cũng chảy xuôi chớ có đâu mưa từ dưới đất mưa ngược lên trời, đó là lẽ đương nhiên!

Sinh thì phải dưỡng, kẻ sinh thành tất nhiên phải có trách nhiệm ‘’dưỡng nhi’’ đến nơi đến chốn, còn chuyện ‘’đãi lão’’ thì tùy ở lương tri và quan niệm báo hiếu của mỗi người con. Những người làm con chắc gì họ đã muốn có mặt ở thế gian này, chỉ tại cha với mẹ bắt họ ra đời, bất đắc dĩ họ phải tranh đấu vật lộn với cuộc sống đầy thử thách cam go mà biết đâu trong một lúc nào đó quá chán chường tuyệt vọng, họ đã không khỏi than thở kêu trời:

Ai có thể cho tôi lời đáp
Vì sao tôi hiện hữu cõi này
Tôi không xin nhập cảnh vào đây
Hà cớ bỗng dưng tôi có mặt !?

Nếu kẻ làm cha mẹ thấu đạt tình lý đó thì mới mong tránh khỏi sự buồn tủi thất vọng khi một ngày nào đó bị con cái ruồng rẫy bỏ rơi. Hơn nữa cho dù con cái có hiếu thảo với cha mẹ đến đâu cũng không ai có thể trường kỳ phụng dưỡng cha mẹ đến chóang hết thời gian mà họ có thể dành riêng để hưởng thụ  hoặc thực hiện hòai bảo gì đó của họ trong đời. Và điều đáng nói thêm là nếu cha mẹ sống thọ đến tám chín mươi thì tuổi đời của những người con cũng đã lên đến sáu bảy chục, cũng đã đi vào giai đọan lão bệnh thì sức khỏe đâu mà báo hiếu đỡ đần ngày này qua ngày nọ. Đó là chưa kể người già thường hay khó tánh, ít có người con nào có thể nhẫn nại chìu chuộng đến ngày cha mẹ qua đời.

Kinh nghiệm bản thân đã cho tôi thấy rõ điều đó. Lúc nhỏ tôi được ba má thương yêu cưng chìu, lớn lên lập gia đình rồi tôi cũng vẫn được ba má bảo bọc sống chung một nhà. Giờ đây khi ông bà già yếu đi đứng khó khăn thì tôi cũng đã tới tuổi bệnh, đau nhức quanh năm bốn mùa không một ngày biết khỏe. Vì vậy cho dù muốn phụng dưỡng đáp đền thì lực cũng bất tòng tâm. Tôi chỉ có thể nấu những món ăn mà ba má tôi thích, thăm viếng thường xuyên cho ba má vui, còn việc chăm sóc đỡ đần hằng ngày thì phải nhờ vào cô em gái mà thôi. Biết vậy cho nên tôi rất thông cảm với những người con còn cha mẹ già và tôi cũng không kỳ vọng gì con cái mình báo hiếu về sau.

Tôi vẫn thấy mỗi năm cứ đến ngày Hiễn Mẫu, ngày Từ Phụ hay là nhân dịp lễ Vu Lan, trên diễn đàn báo chí hay trang mạng, ôi thôi biết bao là lời hay ý đẹp ngợi ca vinh danh công ơn trời biển của đấng sinh thành. Mẹ là tất cả trên đời không còn gì có thể thay thế hoặc so sánh hơn được. Do đó, bất cứ văn nhân thi sĩ nào cũng đều dốc hết tâm tư đề cao tình phụ mẫu thiêng liêng bằng những vần thơ thắm thiết tận đáy lòng khiến những người con nào dù vô tình đến đâu đi nữa cũng phải chạnh lòng ăn năn…

Nhưng thực tế đời thường, chắc gì chính bản thân những tác giả đó đã có lấy một ngày chăm sóc phụng dưỡng song thân họ. Ai cũng than thở vì nghịch cảnh thế này thế nọ, không có cơ hội ở gần để phụng dưỡng báo hiếu, chỉ có thể bày tỏ bằng lời. Nói thì hay thì dễ nhưng giả sử như họ sống chung với cha mẹ, phải nuôi bệnh người cha mang chứng Alzheimer mất trí hay người mẹ bị stroke bại xuội nằm liệt giường, mỗi ngày phải canh giờ cho uống thuốc, đút ăn, thay tả, rửa ráy vệ sinh thì chừng đó chắc gì họ còn tinh thần thỏai mái để mà nhả ngọc phun châu?! Trong bản năng tiềm thức con người, có ai mà không biết ‘’thờ cha kính mẹ mới là đạo con’’. Nhưng nói là một chuyện, thực hành lại là một chuyện khác không dễ chi vuông tròn !


   Người Phương Nam
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22292
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 17/May/2024 lúc 10:03am

Một Đời Đau Thương

Hình minh họa

Chiếc xe lăn bằng điện cồng kềnh to lớn hơn xe lăn khổ thông thường nằm ngay trước cửa phòng 828 làm tôi giật mình để ý.


Khi tôi bước đến gần thì không cần quan sát kỹ tôi đã nhận ra sự quen thuộc của những dụng cụ linh tinh chung quanh chiếc xe lăn rất khác thường này.  Chiếc xe lăn bằng điện to gần gấp hai chiếc xe lăn thường và không có hai cái bánh xe lớn mà lại có bốn cái bánh nhỏ như bánh xe hơi nằm dưới một cái sườn vuông vứt bằng sắt cao chồng ngồng.  Trên cái sườn bằng sắt cao đó là một mặt ghế ngồi có lót bằng một miếng nệm khá dày bằng móp (eggcrate).  Phía bên phải của ghế có gắn một cái đèn chớp màu đỏ giống như đèn báo hiệu trên xe cảnh sát.  Phía bên trái cũng có một cái đèn giống như vậy chỉ khác là màu xanh.  Kế đó là cái tay cầm tròn như tay sang hộp số để điều khiển chiếc xe. Phía sau ghế có một cái khung cũng bằng sắt trong đó có đựng một hộp đổ nghề màu đen và một cái lồng chim bằng gỗ xiên xẹo. Một cái bình đựng nước bằng nylon màu xanh két, một sợi dây xích cũ máng ngay một bên tay ghế, cái áo thun màu đỏ với giòng chữ " Peace not War" bọc sau lưng chiếc ghế.

Mỗi ngày khi ngồi ăn trưa trong văn phòng nhìn qua phía bên kia đường của cái clinic đối diện, tôi thường bắt gặp hình ảnh của một người đàn ông với đầu tóc dài rối bù như chiếc dẻ xoắn lau nhà ngồi trên chiếc xe lăn đặc biệt này với những thứ  đồ lỉnh kỉnh đó.

Sở dĩ tôi chú ý đến ông ta vì dường như trưa nào đúng mười một gìờ rưỡi người đàn ông này cũng hùng hổ liều mạng lái chiếc xe lăn phăng phăng, bất chấp những dòng xe hơi nhộn nhịp, mạnh dạn băng qua phía bên kia đường để vào một quán café có cái tên là TÈO.  Mỗi lần ông ta rời quán TÈO thì tôi thấy ông ta cầm cái bình nylon màu xanh két dốc lên miệng.  Tôi đoán có lẽ ông ta vào quán đó mua café đổ vào bình.  Tôi không nhìn rõ khuôn mặt ông ta cho lắm vì từ văn phòng tôi nhìn qua khoảng cách khá xa.

Một bữa tôi có hẹn bên văn phòng ông bác sĩ gần đó cũng vào dịp trưa, khi đứng ở cột đèn chờ dấu hiệu đèn xanh bật lên để băng qua đường tôi tình cờ thấy ông ta rõ ràng hơn.  Mái tóc dài màu hung vàng rối bù không biết là dơ vì lâu ngày không gội hay màu hung hung đó là màu tóc nguyên thủy. Bộ râu cùng màu rập rạp che hơn nửa khuôn mặt, chỉ chừa lại cặp mắt dấu sau đôi kính đen to.  Trên người ông ta có lẽ cũng có chừng năm lớp áo mà cái áo ngoài hết là một áo rằn ri nhăn nheo.  Đôi giày bốt nâu bạc màu to như hai chiếc xuồng nằm lửng lơ trên hai miếng để chân mà tôi có cảm tưởng như hai bàn chân của ông ta quá nhỏ so với đôi giày. Ông ta ngồi bất động trên chiếc xe lăn, chỉ có đôi tay di chuyển để điều khiển chiếc xe thôi.  Mỗi khi chiếc xe lăn tới khiến những dụng cụ máng chung quanh tạo ra những tiếng động nhỏ kỳ khôi và cái đèn màu đỏ trên chiếc xe lăn thì cứ chớp liên hồi.

Trong khi tôi kiên nhẫn đứng chờ đèn xanh bật lên để băng qua bên kia đường thì ông ta nhìn tôi thách thức, và qua đôi kiếng màu đen đó tôi đã tưởng tượng được cặp mắt chế giễu trước khi ông ta bạc mạng lái vùn vụt chiếc xe lăn chạy qua phía bên kia lề bất chấp những giòng xe điên cuồng vội vã.

Hai buổi trưa vừa qua tôi nhìn qua cửa sổ không thấy bóng dáng người đàn ông này nên tôi cũng hơi làm lạ, không dè ông ta nhập viện và đang nằm trên lầu thứ tám này. Tôi  bước đến lật hồ sơ của phòng 828 xem, cái tên trên hồ sơ làm tôi khựng lại, Kevin Ngô.

Tôi nhủ thầm như vậy là chiếc xe lăn này để lộn qua phòng người khác rồi vì chủ của chiếc xe lăn có một không hai này không thể là người Việt Nam. Tôi định đẩy chiếc xe lăn qua một bên và đi tìm người chủ của nó thì lúc đó một ông y tá mặt đầy tàn nhang, tóc đỏ hoe đang đi trong hành lang ngừng lại cản tôi:

- Bà đừng đem xe đi vì ông Ngô sẽ giận dữ.

Tôi gặng hỏi:

- Ông Ngô?

Ông y tá tiếp tục nói:

- Đúng rồi, của cải của ông ta chỉ có bao nhiêu đó cho nên tôi phải hứa là "bảo vệ  chiếc xe thì ông ta mới đồng ý để nó ở ngoài này, nếu để trong phòng thì chật chội qúa, mỗi ngày vào chữa trị vết thương cho ông ta không có chổ để máy móc.

Tôi chất vấn:

- Phải ông Ngô nằm trong phòng 828 không?

Nhìn sự thắc mắc trên khuôn mặt của tôi ông y tá lật đật nói:

- Ông Ngô nằm trong phòng đó đã hai ngày.  Bà cần kiểm soát (audit) hồ sơ của ông ta hả?

Tôi không còn kiên nhẫn được nữa nên gật đầu đại cho xong chuyện:

- Ừ! Để tôi coi hồ sơ của ông ta xem sao

Kevin Ngô năm nay 54 tuổi, góa vợ, không nghề nghiệp và vô gia cư.  Ông ta nhập viện cách đây hai hôm với triệu chứng lở loét ở xương chậu (sacral decubitus).  Càng đọc tiểu sử của ông Kevin Ngô tôi càng thấy lạ thêm.

Kevin Ngô là Viet Nam Veteran, theo lý lịch hồ sơ thì ông ta là người Mỹ. Ông ta đã từng bị gãy xương sống, chấn động mạch máu não và sau khi bình phục thì hai chân ông ta rất yếu, đã phải dùng xe lăn từ bao nhiêu năm nay.

Sau khi đọc lướt qua hồ sơ, sự tò mò khiến tôi mạnh dạn gõ cửa phòng của ông để xem có phải đây là chủ nhân của chiếc xe lăn điện không.

Vì cái tên Việt nên mặc dù người đàn ông trước mặt qủa thật là người đàn ông mà tôi đã từng thấy bên lề đường hằng ngày, tôi giới thiệu với ông ta tôi là y tá trưởng và mở lời chào hỏi bằng tiếng Việt Nam:

- Chào anh Kevin, anh có khỏe không?

Đôi mắt không còn giấu sau làn kính đen nữa mà là đôi mắt xanh biếc với cái nhìn rất thờ ơ, ông ta ngạo mạn trả lời:

- Nằm một chỗ như thế này thì làm sao khỏe được.

Tôi ngạc nhiên khi nghe câu trả lời hằn học bằng tiếng Việt khá rõ ràng của ông ta.

- Xin lỗi anh nghe, đáng lẽ phải hỏi là anh có cần gì không thì mới phải.

Đôi mắt xanh bây giờ không nhìn tôi mà nhìn chăm lên trần nhà:

- Lỗi phải chi bà, mà bà có cần gì không?

Lại  là lời thách thức. Tôi từ tốn trả lời:

- Tôi tưởng anh người Việt Nam nên chỉ muốn vào thăm thôi.

 Ông ta nhìn tôi châm biếm:

- Như vậy là bà chỉ thăm viếng người Việt Nam thôi sao? Tôi người Mỹ nhưng nhờ có tên Việt, may qúa mới được bà vào thăm.

Tôi vẫn điềm đạm:

- Nếu có dịp ai tôi cũng thăm cả nhưng có những người Việt Nam không thông thạo Anh ngữ thì họ là những người được tôi ưu đãi giúp đỡ trước tiên.

Kevin bắt đầu dịu giọng:

- Bà giúp được những gì?

Tôi nói với ông ta là tôi thường thông dịch cho những người Việt Nam nếu cần và vì đây là nhà thương công giáo nên chỉ có mấy bà soeur vào thăm mỗi ngày.  Nếu những người đạo Phật muốn cầu an thì tôi có thể liên lạc với thầy ở chùa đến an ủi, cầu an cho họ.

Đôi mắt xanh của Kevin không dưng sáng lên và tia nhìn của ông trở nên thân thiện:

- Bà hay đi chùa phải không? Tôi cũng đạo Phật.

Tôi ngạc nhiên đến tột cùng.

Cuộc đàm thoại với người đàn ông Mỹ có cái tên Việt này bắt đầu kỳ thú.  Có lẽ bắt gặp cái nhìn nghi ngờ của tôi nên Kevin đưa tay vào cổ áo lôi ra một sợi giây chuyền vàng với cái tượng Phật Quan Thế Âm Bồ Tát bằng cẩm thạch rồi giọng buồn kể:

- Vợ tôi tặng cho tôi sợi dây chuyền này khi chúng tôi mới lấy nhau...

Rồi bỗng dưng Kevin ngưng kể, đôi mắt nhắm lại và lắc đầu:

- Chuyện tôi buồn lắm, lúc khác nói chuyện nữa nghe bà.

Tôi biết Kevin không muốn tiếp tục và vừa lúc đó người physical therapist đến phòng để chửa trị vết lở cho ông.

Nhìn cái máy Whirlpool kềng càng và cái giường khác biệt dành cho những bệnh nhân với vết thương lở nặng, tôi mới hiểu tại sao ban nãy ông y tá bảo là mỗi lần chữa trị vết thương không có chỗ xoay xở trong căn phòng chật hẹp.

Tôi cáo từ Kevin, cho số điện thoại và bảo nếu cần gì thì cứ gọi thẳng cho tôi.

Khi tôi bước vào Kevin có vẻ mừng rỡ.

Tôi nhìn thân thể yếu đuối của ông nằm bồng bềnh trên chiếc giường nước (pressure released bed), chưa kịp hỏi han thì mặc dầu kẹt ống Oxygen trên mũi, Kevin cũng gắng đùa, lần này bằng tiếng Anh:

- Tôi được...vinh dự lắm mới được nằm trên cái giường nước này đó bà.

Giọng Kevin không có gì mỉa mai cho nên tôi cũng đùa theo:

- Tại vì anh... đặc biệt...

Thật sự thì khi những người bệnh nhân nhập viện với vết lở khá nặng ăn sâu vào da thịt vì không có đủ khả năng di chuyển nên máu không lưu thông đều, tạo nên áp xuất mạnh gây ra sự lở loét (decubitus) thì chúng tôi phải dùng những chiếc giường nước như thế này để giảm bớt sức ép của mặt giường vào cơ thể với làn da vốn đã rất mỏng manh.

Vì hai bàn chân yếu Kevin phải ngồi trên xe lăn cả ngày, mặc dầu chiếc ghế có lót miếng nệm dày bằng móp như đã nói nhưng vì ngồi một chỗ quá lâu, sức ép của cả thân thể dồn vào phần xương chậu, cho nên Kevin mới phải nhập viện với vết lở đó

Kevin cười buồn:

- Bà coi đó, cái... bàn tọa của tôi thì lở loét, bây gìờ thì cái phổi cũng...lều bều đầy nước.

Tôi an ủi:

- Anh ráng tịnh dưỡng, năm ba bữa sẽ mạnh lại rồi về nhà...

Tôi nói chưa xong câu thì đã biết mình lỡ lời.  Ông bệnh nhân này là người vô gia cư. Dường như đoán được ý nghĩ của tôi, Kevin mệt mỏi thì thào:

- Nhà đâu mà về bà.  Tôi sống trên chiếc xe lăn bao năm nay, nhà là những con đường, những bờ bụi...

Kevin nói tới đây thì thở dài và có ý như không muốn tâm sự nữa:

- Thôi bà đi làm đi, không dám làm mất thì giờ của bà.

Lần này là lần thứ hai Kevin cố ý tránh kể chuyện riêng tư của chính mình.

Tôi làm việc với bệnh nhân lâu năm và lúc nào cũng tôn trọng sự riêng tư của họ, tôi cũng hiểu là đối với Kevin, sống trang trải một mình ngoài đường, góc xó và va chạm những thực tế hiểm hóc trong đời sống trên lề đường thì ông ta khó có thể tin tưởng ai để tâm sự về cuộc đời mình. Tôi chào Kevin sau khi chúc ông ta nhiều may mắn.

Những ngày kế tiếp tôi không đích thân đến thăm Kevin vì tôi nghĩ sự thăm viếng của tôi chỉ làm phiền ông ta thôi mặc dầu tôi vẫn hoài thắc mắc về cái tên họ Việt Nam của ông.  Tuy nhiên, mỗi ngày tôi vẫn theo dõi tình trạng sức khỏe của Kevin qua điện thoại với những người y tá săn sóc cho Kevin. Tôi cũng liên lạc với cô Nancy làm về xã hội nhờ cô lo cho Kevin một nơi chốn cư ngụ khi sau khi xuất viện.

Lúc nói chuyện với cô Nancy thì tôi mới khám phá ra Kevin là " khách hàng thường xuyên" của bệnh viện và cũng là người được cô Nancy dành rất nhiều thì gìờ lo lắng cho mỗi khi ông ta nhập  viện trong những năm qua.

Cô Nancy cho biết là Kevin rất bướng bỉnh vì cô đã từng lo cho Kevin đi đến ở viện dưỡng lão cũng như đến những nhà dành cho những người tàn tật, nhưng Kevin chỉ ở vài hôm sau đó lại bỏ đi ra sống lang thang trên đường phố trên chiếc xe lăn.  Chính cô Nancy là người xin giấy tờ cho Kevin có được chiếc xe lăn bằng điện để tiện việc di chuyển.

Cô Nancy cho tôi hay là Kevin đã và đang trải qua những khủng khoảng tinh thần sau khi rời quân ngũ (post traumatic stress), cho nên tính tình đôi lúc bất bình thường.

Một tuần sau đó thì cô y tá gọi cho tôi hay là Kevin đã đỡ nhiều và đã được đưa trở về lại lầu tám. Kevin có nhắn lại là ông ta muốn gặp tôi.  Tôi trở lên thăm và lần này thấy ông ta gầy guộc hẳn đi.

Sau khi chào hỏi qua loa, Kevin ngập ngừng:

- Có một chuyện làm phiền bà...

Trong khi tôi nhìn Kevin chờ đợi thì ông ta lấy từ dưới cái gối ra sợi giây chuyền có tượng Phật Bà bằng cẩm thạch mà lần trước Kevin đã khoe với tôi.  Lần này Kevin buồn bã nhắc lại:

- Tượng Phật này là của vợ tôi tặng cho tôi khi chúng tôi mới lấy nhau. Sợi dây chuyền bị đứt rồi, nhờ bà giữ giùm vì tôi không có chỗ cất sợ để mất đi.

Tôi cầm sợi giây chuyền vàng, thật sự sợi giây không bị đứt chỉ có cái móc bị gãy thôi. Trong khi tôi còn mân mê sợi giây chuyền trên tay thì dường như Kevin không cầm lòng được nên bắt đầu kể cho tôi nghe về cuộc đời bi thảm của ông.

Nếu nói theo số mệnh thì Kevin là người khổ hạnh cho nên cuộc đời của ông thật nhiều đớn đau.

Kevin lớn lên mồ côi cha mẹ, sống với một bà dì góa bụa.  Sau khi xong trung học hai năm thì Kevin bị động quân và được gửi qua Việt Nam đóng binh ở Kontum.  Nơi đây Kevin đem lòng thương một một cô gái miền cao nguyên chất phác, hiền lành.  Cha mẹ cô gái sống trong khu gia binh rất nghèo và đông con nên khi Kevin ngõ lời muốn cưới để đưa cô về Mỹ ở thì hai ông bà đồng ý ngay. Chẳng may sau một đêm khu gia binh bị pháo kích thì cô gái bị trúng đạn chết.  Kevin rất đau khổ và chỉ vài tháng sau khi ra chiến trường thì bị thương trên xương sống rồi được đưa trở về Mỹ.

Khi trở về với tấm thân tàn tật và sự ám ảnh tàn khốc của cuộc chiến điêu tàn ở Việt Nam khiến Kevin bị khủng khoảng tinh thần.  Vì phải mổ xương sống mấy lần nên Kevin nằm nhà thương gần cả năm trời. Lúc xuất viện thì bà dì góa bụa của ông ta qua đời.

Một thân một mình, Kevin sống qua ngày trong căn nhà nhỏ của bà dì cho đến khi bị bệnh chấn động mạch máu não thì không thể lo cho chính mình, và sau nhiều lần ra vào nhà thương thường xuyên, Kevin đồng ý vào một viện dưỡng lão ở tạm. Ngày tháng ở trong viện dưỡng lão này là một nỗi đọa đày đối với Kevin. Sống chung đụng với những người già nua nhiều thụ động càng làm cho Kevin qúa chán chường. Nhưng chính nơi chốn buồn tẻ này lại là môi trường mà Kevin đã gặp thêm một phụ nữ Việt Nam khác, người vợ mà ông quí trọng yêu thương nhất.

Cô Lài làm y tá phụ.  Một trong những phận sự của cô là mỗi tối giúp cho Kevin thay áo quần sửa soạn để đi ngủ. Vì hai chân của Kevin qúa yếu nên mỗi lần di chuyển từ cái xe lăn qua tới giường nằm thì cô Lài dường như phải dùng hết sức từ hai cánh tay của mình nâng cả cơ thể của Kevin để đưa qua. Dạo đó Kevin xử dụng chiếc xe lăn thường nên cái ghế không cao như xe lăn điện hiện đang có nên dự di chuyển từ chiếc xe lăn qua giường rất khó khăn.  Kevin thấy cô Lài nhỏ nhắn, mỗi lần cô phụ như vậy thì Kevin thấy rất áy náy.  Cô Lài tiếng Anh thì hạn chế nhưng cô cũng hiểu được sự quan tâm của Kevin đối với cô nên lần nào cô cũng nhắc Kevin là cô tuy nhỏ người nhưng lại mạnh, vả lại đây là nhiệm vụ của cô.

Mỗi ngày cô Lài đi làm vào ca chiều, Kevin ngồi ở ngay cửa nhìn cô thoăn thoắt đi vào và để ý là cô làm việc rất chăm chỉ, ai cô cũng lo lắng rất chu đáo cho nên tất cả mọi người trong viện dưỡng lão đó đều thương mến cô.

Kevin để ý là khoảng sáu giờ chiều sau khi phụ những bệnh nhân ăn uống xong thì cô Lài  ra ngồi một mình trên chiếc ghế đá ở một góc sân  bắt đầu ăn cơm và đọc một cuốn sách nhỏ trong tay. Sau vài tuần để ý thì Kevin mân mê lại làm quen.  Cô Lài lúc đầu còn rụt rè nhưng sau đó với vốn liếng Anh ngữ kém cỏi cô cũng hàn chuyện với Kevin.

Được biết cô Lài lúc trước ở miệt Phan Rang, khi cộng sản chiếm nước được vài năm sau thì  cha mẹ  cô mượn được một số vàng cho cô đi theo chiếc tàu chở mướn  qua được tận đảo bên Mã Lai.

Sau một thời gian đợi chờ mòn mỏi thì cô được bốc qua  Mỹ. Qua đến Texas cô vừa đi học chương trình ESL luyện Anh ngữ và vừa xin đi học ra làm y tá phụ. Với đồng lương có giới hạn của một phụ tá, cô Lài hàng tháng vẫn đều đặn gửi tiền về giúp cho cha mẹ nuôi đàn em ở Việt Nam.  Cô vẫn hằng mong muốn có dịp trở về thăm quê và thăm gia đình nhưng mỗi lần nghĩ tới tốn phí di chuyển thì cô lại tiếc, vả lại số vàng mà cha mẹ cô mượn bây giờ cô phải đi làm trả lại cho chủ nợ ở bên Mỹ này.

Kevin thấy cô cầm một cuốn sách mỏng bằng tiếng Việt Nam và mỗi ngày lại đọc vài trang sau khi ăn cơm. Cô Lài cho biết đó là cuốn phật kinh, cô đọc cho tâm hồn được thư thái. Cô là một phật tử sùng đạo với một niềm tin mãnh liệt là con người phải sống cho chân chính thì mọi việc sẽ tốt lành trong đời sống.

Lúc đầu nghe cô Lài nói thì Kevin chỉ cười ngạo báng, vì mỗi lần nhìn thân thể tàn tật của mình, nhớ tới những cảnh bom đạn, chết chóc trong cuộc chiến mà ông ta từng tham dự ở Việt Nam thì Kevin không khỏi giận dữ.  Kevin đâm ra nghi ngờ sự che chở của đấng linh thiêng.  Cô Lài nghe vậy vẫn không nản chí, cô tiếp tục đọc kinh và nhẫn nại nói về niềm tin của mình.

Sau một thời gian gặp gỡ, trò chuyện với cô Lài, Kevin cảm thấy lòng dịu lại. Nỗi buồn thì còn đó nhưng đã bớt được sự phẫn nộ đối với cuộc đời.  Riêng cô Lài cũng cảm thấy bớt cô đơn. Hai người trở nên tâm đầu hợp ý và môt năm sau thì tất cả mọi người trong viện dưỡng lảo GF hoan hỉ tổ chức một cái đám cưới nhỏ cho cả hai.  Kevin không ngờ đời mình lại may mắn như thế.  Cô Lài nhận lời cầu hôn của Kevin không một chút do dự, đắn đo.  Qùa cưới của Kevin dành cho cô Lài là lời tuyên bố sẽ ra tòa xin đổi họ theo họ của vợ là họ Ngô.

Tôi nghe câu chuyện tới đây thì cảm động rưng rưng nước mắt. Thì ra là như thế nên Kevin mới có họ Việt Nam. Nếu tôi là một nhà văn thì tôi có thể viết nên một câu chuyện tình rất tuyệt vời. Kevin tiếp tục kể:

- Bà biết không, Lài là một người vợ hiền và là một người đàn bà rộng lượng nhất trên đời. Tôi học được cái tính nhẫn nhục, vô vụ lợi của Lài.  Tôi tàn tật không lo được cho Lài, mỗi ngày Lài đi làm thì tôi chỉ biết đợi chờ và trong lúc đó thì tôi tìm hiểu thêm về đạo Phật.  Cuốn sách đầu tịên tôi đọc là cuốn sách của thiền sư Thích Nhất Hạnh.  Bà đã đọc "Đường Xưa Mây Trắng" chưa? Tôi không biết Phật giáo có bao nhiêu phái chỉ biết là thiền sư này viết sách qúa hay. Tôi càng đọc càng thấm thía những gì Lài đã cố nhẫn nại khuyên răn tôi sống một đời sống đầy ý nghĩa và rộng lượng bao dung bởi vì mai này ai cũng chết, chỉ có những gì mình để lại cho đời mới đáng kể thôi.

  Ông kể tiếp cho biết là sau khi làm đám cưới ông và cô Lài thuê một căn nhà nhỏ.  Cô Lài vừa đi làm vừa săn sóc cho ông.  Cuộc sống tuy vất vả vì cô Lài phải cáng đáng mọi chuyện trong nhà nhưng không bao giờ cô than vãn.  Nỗi mong muốn duy nhất của cô Lài là được trở về thăm gia đình.  Vì muốn có một số tiền chi phí cho chuyến đi nên cô Lài đi làm bất chấp gìờ giấc.  Kevin thấy xót xa cho vợ nên trong lúc ở nhà ông ta đóng những cái chuồng nuôi chim nho nhỏ và đứng trước những góc đường bán, hoặc bán cho những người làm trong nhà thương mà ông quen biết.

Nghe Kevin kể, tôi nghĩ tới hộp đồ nghề và cái chuồng chim xéo xẹo của ông trên chiếc xe lăn mà đâm ra tội nghiệp.  Tự nhủ là mai mốt Kevin lành bệnh thì tôi cũng sẽ đặt ông làm cho vài ba cái chuồng nhỏ nuôi chim sau sân nhà.

Kevin còn cho biết là cả hai vợ chồng ông đều ăn chay trường. Cô Lài ăn chay trường vì lời nguyền từ khi biết đưọc tin mẹ cô bị ung thư tử cung.  Cô mãnh liệt tin rằng với sự cầu nguyện hy sinh chân thành của cô thì mẹ cô sẽ tai qua nạn khỏi.  Kevin ăn chay vì trong lòng anh muốn cám ơn bà mẹ vợ đã có công nuôi dưỡng dạy dỗ vợ anh từ thuở nhỏ nên anh mới có được một cô vợ thật thà rộng lượng như vậy.

Tôi nhìn nét mặt khắc khổ của Kevin, không ngờ dưới bộ mặt hung hăng của người cựu chiến binh Việt Nam đó lại chất chứa môt tâm hồn dịu dàng chân thành.  Tôi đang tự hỏi không biết câu chuyện của Kevin kể sẽ đưa đến thêm những chi tiêt bi đát nào nữa thì không dưng Kevin nhìn tôi lạ lùng:

- Như tôi đã nói mai này ai cũng chết nhưng cái chết của vợ tôi thì quá tức tưởi, bất ngờ. Trời Phật không công bằng với tôi cho nên bắt tôi chịu đựng từ những khổ đau này đến tai biến khác.  Có lẽ kiếp trước tôi vụng tu đó bà.

Nói đến đây thì Kevin nghẹn lời, tia mắt quắc lên một tia nhìn giận dữ:

- Quê hương nhỏ bé của bà là mảnh đất oan nghiệt nhất mà tôi thấy trong đời. Chính mảnh đất ấy, bằng cách này hoặc cách khác đã cướp mất những yêu thương trong đời của tôi.  Lài là người đàn bà thứ hai đã bỏ tôi trên cuộc đời đầy cô đơn, buồn tẻ này.

Theo chuyện Kevin kể lại, tôi được biết cách đây ba năm, cô Lài mừng rỡ dành giụm được một số tiền để trở về Việt Nam thăm bà mẹ đang bệnh ung thư.  Kevin khuyến khích vợ nên về ngay để còn có thì gìờ ở bên mẹ trong lúc bà còn tỉnh táo.  Cô Lài hớn hở trở về và tính ở bên nhà cho trọn một tháng.  Hai tuần lễ đầu cô Lài điện thoại về cho chồng kể chuyện về gia đình nghe vui ghê lắm.  Rồi chỉ vài hôm sau đó anh nhận được một tin làm anh bàng hoàng, chới với.  Cô Lài trong lúc băng qua đường phố bị xe tông chết.

Tôi nhớ đến những lần bắt gặp Kevin lái chiếc xe lăn bất chấp hiểm nguy để băng qua đường trong làn sóng xe tấp nập. Phải chăng đây là sự thử thách ngạo mạn của ông với định mệnh? Như định mệnh đã cướp mất người vợ hiền lành cao qúi của ông.

Cô Lài chết trong lúc bà mẹ bệnh hoạn vẫn còn để thầm khóc nhớ thương con.  Kevin cũng thầm khóc thiết tha nhớ vợ. Trên đời này có lẽ không bao giờ anh có thể tìm được một người đàn bà nào khác đầy lòng từ bi như cô Lài.

Từ đó cuộc sống đối với Kevin không còn ý nghĩa, ông đâm ra gàn bướng, cáu kỉnh với mọi ngưòi.  Vài tháng sau Kevin gom góp hết chút tài sản chất lên chiếc xe lăn và ra sống dưới gầm cầu SC.

Tôi lặng người nghĩ đến số phận quá hẩm hiu của Kevin rồi bỗng thấy xót xa. Còn biết bao nhiêu người là nạn nhân của chiến tranh và nạn nhân của cuộc đời đầy rẫy thương đau này?

Tôi đem sợi dây chuyền đưa ra tiệm nữ trang nhờ người làm lại cái móc cho thật chắc.  Khi nhìn kỹ tôi thấy trên lớp vàng mạ phía sau tượng Phật bà, hai chữ LK quấn quít nhau như tên tuổi và cuộc đời của cô Lài và Kevin đã gắn chặt với nhau như một mối duyên được phật trời sắp đặt.

Ngày hôm sau tôi đi làm thật sớm ghé lên thăm Kevin trước khi đến văn phòng. Khi bước vào phòng của Kevin, tôi đụng ngay chiếc xe lăn bằng điện với đầy đủ "gia tài" của Kevin.  Kevin cho tôi biết là chiều nay ông ta phải chuyển qua một nhà thương dành cho cựu chiến binh cách đây một trăm dặm.  Vết thương lở loét của ông qúa sâu nên phải làm ghép da (skin graft) và nhà thương quân đội SW là nơi sẽ chịu tất cả phí tổn về việc mổ xẻ. Kevin chỉ ngay chiếc lồng chim xéo xẹo trên chiếc xe lăn và nói:

- Không có gì tặng bà làm kỷ niệm ngoài món qùa nhỏ này.  Bà tin đi bao giờ tôi khỏe, tôi sẽ trở về kiếm bà và sẽ sửa nó lại cho thẳng thớm.

Tôi cầm sợi giây chuyền bước đến đeo vào cổ cho Kevin:

- Đây là sự thương yêu của anh, hãy ráng giữ lấy niềm tin.

Trên khuôn mặt phong trần của người thương phế binh Mỹ bất ngờ có hai giòng lệ chảy dài và tôi bắt gặp một nỗi an hòa trong đôi mắt xanh biếc của Kevin khi anh bắt đầu thì thầm lời nguyện cầu: Nam Mô A Di Đà!


Nguyễn Thị Huế Xưa
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22292
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/May/2024 lúc 1:20pm
10%20Things%20Happy%20Couples%20Do%20Differently


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 20/May/2024 lúc 1:23pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22292
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: Hôm nay lúc 10:40am

Bà Năm Đi Mỹ 

(Hình minh họa: Fabian Møller/Unsplash) 


Mấy hôm nay, Bà Năm mất cả ăn, cả ngủ vì chỉ còn một ngày nữa thôi, sáng mai là Bà lên máy bay sang Mỹ đoàn tụ gia đình, sống với đứa con gái lớn đã sang sinh sống ở Mỹ dễ chừng hơn 20 năm rồi.

Lâu lâu nó vẫn gửi thư cho Bà và gửi tiền nữa. Với số tiền năm, sáu trăm đôla mỗi lần nó gửi về, đem đổi ra tiền Việt Nam hơn chục triệu lận. Bà ngồi mà ăn, cúng vô chỗ này, chỗ nọ để lo cho kẻ nghèo khổ, giúp đỡ bà con, chòm xóm, kẻ nhiều người ít, cũng không cách nào cho hết.

Bà già rồi, sống với đứa con gái út, hàng ngày chỉ có việc ăn hai ba bữa rồi đi đây, đi đó, thăm bà con, bè bạn. Về nhà thì mở TV, coi băng video cải lương, phim hài, phim chưởng… đủ thứ trên đời. Cuộc sống của Bà nghĩ thật sung sướng. Bao nhiêu người già cả ở quanh cái chợ Bà Chiểu, Quận Bình Thạnh nơi đất Sài Gòn này, ước mơ có được một phần cuộc sống của Bà mà đâu có được. Họ phải đầu tắt, mặt tối, chạy xuôi chạy ngược, buôn bán tảo tần nơi lề đường, hè phố, bị công an rượt đuổi chạy có cờ… để kiếm miếng ăn cho no cái bụng thôi mà cũng không nổi.

Bà Năm có đứa con gái vượt biển rồi đi Mỹ mà cuộc đời sướng như thế đó. Người ta bảo: “Bà Năm ăn ở phúc đức lắm mới được đứa con gái như thế. Chớ biết bao nhiêu người, sinh con đẻ cái, gái trai cả bầy mà có làm nên cơm cháo gì đâu?”

Cuộc đời của Bà quả là sướng như tiên ở Sài Gòn rồi còn chi nữa. Bảo đứa con gái út viết thư cho chị nó, Bà cứ bảo nó viết cái tên Sài Gòn, vừa quen, vừa gọn, vừa dễ nghe, chớ đâu lại có cái tên dài lòng thòng…Thành Phố ************, nghe mệt thấy mồ.

Mỗi khi nhận được thư của đứa con gái từ Mỹ gửi về Sài Gòn cho Bà, có lúc kèm theo vài tấm ảnh… theo thói quen từ hồi có… “loại thư Việt Kiều gửi về quê,” Bà lại dúi vào tay người đưa thư mấy ngàn bạc cho người ta vui vẻ, lương tiền nhà nước làm chỉ đủ sống.

Chu cha! Đất Mỹ đẹp quá trời! Con Nguyệt, con gái Bà, nói nó ở thành phố San Diego, tiểu bang Ca-li, một thành phố đẹp lắm. Coi những tấm ảnh, Bà thấy thành phố San Diego quả là đẹp thật. Nhà cửa, đồ đạc, xe cộ của con gái Bà sao mà đẹp chi lạ! Hai đứa con trai của nó trong ảnh còn đẹp hơn cả mấy đứa trẻ trong những bức tranh Tầu ôm quả đào tiên.

Con Nguyệt nó bảo làm thủ tục bảo lãnh cho Bà sang Mỹ ở với nó. Nó bảo Bà già rồi, sang Mỹ khỏi có phải làm ăn chi hết, rồi ít lâu sau thành dân Mỹ, lại có tiền chính phủ nuôi, chỉ ở nhà chơi với cháu thôi. Bà muốn coi cải lương hả? – Băng video phim Việt Nam, phim Tàu, phim chưởng Hồng Kông nhiều vô số kể. Chẳng thiếu thứ gì. Nó mua, nó thuê về nhà cả thùng lận. Bà tha hồ mà coi. Bà muốn đi Chùa hả? – Nó lái xe Mỹ, xe Nhật êm ru bà rù, chở Bà đi đây, đi đó, chỉ nháy mắt là tới nơi, chớ đâu có phải đi bộ mỏi cả giò, đổ mồ hôi hột hay đi xích lô chạy loạng quà loạng quạng, cứ như muốn ủi vào xe lam, xe đạp, xe Honda, ô tô con, ô tô mẹ, chạy tưới hạt sen, lộn xộn xà ngầu… kinh khủng, muốn chết quá!

Mấy năm trước, khi Ông Cụ còn sống mà ai nói tới chuyện kéo Ông đi Mỹ sống với con gái, là Ông chửi toáng cả lên: “Không có đi đâu cả! Ở quê nhà với bà con, chòm xóm bạn bè, mồ mả Tổ Tiên không sướng hơn hay sao? Tiền bạc nó gửi về, ngồi mà ăn đến chết cũng không hết. Già cả rồi, sang đó làm nên cái giống chi mà làm?”

Thế nhưng từ ngày Ông mất đi, Bà thấy buồn buồn làm sao ấy. Thiếu người bầu bạn, đôi khi có cằn nhằn gấu ó với nhau về cái chuyện “đi hay ở ” thật đấy, nhưng lúc này Bà Năm mới cảm thấy cô đơn, cô đơn thực sự.

Người già có cái tình yêu thương cũng như nỗi cô đơn của người gia. Thế là càng ngày Bà càng cảm thấy cần phải đi Mỹ để sống với đứa con gái mà Bà từng mang nặng, đẻ đau, rồi còn gian nan về những phen chạy giặc, chiến tranh nữa chớ. Bà phải đi Mỹ để sống với hai đứa cháu ngoại trong ảnh thật dễ thương. Lắm lúc Bà ngồi một mình mà nước mắt rưng rưng, Bà thương đứa con gái hiếu thảo và hai đứa cháu ngoại quá chừng chừng…

Sáng nay, Bà gọi con Lan, đứa con gái út, dậy thật sớm để kịp ra phi trường Tân Sơn Nhất. Máy bay cất cánh lúc 7 giờ sáng nhưng xe đón từ lúc 5 giờ.

Bà Năm có hai đứa con gái, con Nguyệt là lớn, vượt biển đi Mỹ đã hơn 20 năm. Con Lan là thứ nhì mà cũng là út, lúc ấy còn bé tí ti. Bây giờ con Lan đã lớn tướng rồi, đã vào đại học và theo mấy khoá Tiếng Anh. Chị nó bảo: “Sang Mỹ, con Lan sẽ vào đại học, tha hồ mà học.”

Con Lan đang ở cái tuổi mới lớn, nó còn thích đi Mỹ hơn cả bà Năm nữa, tuy rằng đi Mỹ thì nó phải xa vô số bạn bè, thân thiết, đã từng gắn bó với nhau trong những tháng ngày khốn khổ, gian nan, kinh hoàng nữa chớ. Nó nghĩ lại mới ngày nào đó, vậy mà Chị nó đi Mỹ cũng đã hơn 20 năm, mau dễ sợ! Nó tính trong đầu: sang Mỹ chịu khó mất vài bốn năm thì cũng lấy xong cái B.S. hay B.A. chi đó, như Chị nó nói. Học thêm vài năm cũng lấy được cái bằng Master cho nó hách, rồi đi làm. Thế là sẽ có vô số tiền. Nó sẽ đáp máy bay từ Mỹ về Sài Gòn. Lúc đó là đi thẳng cái một, khỏi có… quá cảnh xứ này, nước nọ lôi thôi. Bạn bè của nó kéo cả băng, cả đoàn đi đón. Vui ơi là vui! Nó sẽ cho tiền những đứa bạn nào nghèo khó, chồng con vất vả đầu hôm sớm mai. Nó sẽ lôi hết bạn bè cũ cùng học lớp 12 với nó ở Sài Gòn, thuê vài cái xe đi chơi khắp mọi chỗ kêu bằng… danh lam, thắng cảnh, quay video, chụp ảnh, đi ăn nhà hàng chết bỏ… cho bõ ghét những ngày… con nít chẳng dám đi đâu hay làm cái gì…

Có tiếng xe pin, pin ở ngoài cổng. Người ta tới đón mẹ con Bà Năm ra phi trường. Bà con, bạn bè lối xóm bu lại, nước mắt ngắn dài, kẻ ở người đi… Ôí! Cảnh biệt ly sao mà buồn thế! Mẹ con Bà Năm với mấy cái va-li bự chảng, hai cái xách tay nho nhỏ đã lên xe. Một số bà con thân thiết cũng leo lên xe để tiễn mẹ con bà Năm tới tận phi trường. Một số bà con ở lại, vẫy tay từ biệt khi cái xe 12 chỗ ngồi đã từ từ lăn bánh.

Bà Năm cố nhìn lại cái xóm cũ đã gắn bó, sống chết với Bà từ bao nhiêu năm nay. Những dãy nhà hai bên đường phố chạy thụt lùi lại phía sau cùng những bóng cây, cột đèn, thân thương quá đỗi. Vài chiếc xích-lô đưa khách sớm, dăm cái xe đạp, vài chiếc Honda rồ máy chạy ào ào… Tự nhiên Bà Năm thấy nhớ, thấy thương Sài Gòn quá đi mất thôi. Vậy mà Bà nỡ bỏ nó để đi xa, chẳng biết bao giờ mới trở lại nơi này.Bác tài xế bấm còi pim ! pim! khi tới chỗ ngã tư đông người lộn xộn làm con Lan giật mình khi còn đang ngủ gà, ngủ gật vì sáng nay nó phải dậy sớm. 

Xe qua cổng phi trường, vòng qua vòng lại rồi đậu phía trước một ngôi nhà đông nghẹt những người. Hai mẹ con Bà Năm đã lọt vào trong căn phòng “cách ly” để lại bên ngoài số bà con, bạn bè thân thiết với bao nhiêu nỗi niềm thương nhớ đến độ xót xa.

Thoát được cái cảnh lo sợ bị rạch, Bà Năm thấy an tâm đỡ khổ. Bà đã già, lẩm cẩm, may mà có con Lan đi theo chớ không dám chết quá. Bà có biết trời trăng, mây nước gì đâu. Hết nạp giấy tờ, kêu tên, rồi nạp tiền đủ thứ linh tinh. Đến chỗ mấy ông, mấy bà công an áo vàng, cầu vai đỏ choé, bà hơi run khi thấy họ lục xét, bới tung đồ đạc của mấy người đi trước. Con Lan hích hích cùi chỏ rồi thò tay bấm Bà: “Má để con!” Con nhỏ này nó học ở đâu mà bữa nay nó lanh như… quạ, dấm dúi tiền bạc cho đám công an bằng những cái phong bì “có nhân” ở bên trong. Kẹt quá, nó dúi đại cả mớ tiền Hồ vào tay bọn công an tỉnh bơ, chẳng còn coi ai ra gì cả.

Công việc đi qua nhanh như gió. Cuối cùng một lão công an, mặt lạnh như tiền, hất hàm hỏi “Bà và Cô có đem theo đôla không?” – Thưa không ! – Thế còn giữ tiền Việt Nam không?

Con Lan lại hích hích cái cùi chỏ vào ba sườn Mẹ nó. Bà Năm lôi trong người ra cái phong bì to bự đựng mớ tiền Hồ còn lại, đưa cho lão công an, miệng líu ríu: “Còn lại mấy trăm ngàn, xin biếu… đồng chí uống cà phê.” Lão công an phì cười khi nhét cái phong bì vào ngăn kéo bàn gần đó nhanh như người ta làm xiệc . Lão ta cười chắc là vì lão ta có đồng chí đồng choé gì với Bà Năm bao giờ đâu…

Hành khách lên xe, ra chỗ máy bay đậu. Ngồi trong máy bay rồi, con Lan buộc dây lưng an toàn cho Mẹ. Sau một hồi gầm gừ, lắc lư, chiếc máy bay Hàng Không Việt Nam từ từ cất cánh. Bà Năm nhăn mặt vì khó chịu, nôn nao trong người. Ngồi cạnh cửa kính máy bay, Bà thấy phố xá, đồng ruộng quanh vùng Sài Gòn lu mờ, xa dần rồi mất hẳn. Chung quanh chỉ còn là mây trắng xoá, mịt mờ…

Nỗi buồn xa xứ ở đâu tự nhiên kéo đến. Hai hàng nước mắt chạy quanh. Con Lan rương tròn đôi mắt nhìn Mẹ nhưng chắc là nó không làm sao hiểu nổi. Máy bay dừng lại ở Thái Lan để chuyển sang máy bay quốc tế, nghe nói bự lắm. Con Lan lúc này lanh lẹ, dễ thương vô cùng. Nó thương Mẹ nó. Nó lo cho Bà đủ chuyện trong chuyến đi nửa vòng trái đất đầu tiên và chắc cũng là cuối cùng của đời Bà. Mới ăn có một bữa trên máy bay với một bữa ở khách sạn để chờ chuyển máy bay mà Bà Năm đã thấy nhớ món cá lóc nấu canh chua, cá nục kho khô, nhất là điã giá sống… Con Lan cứ ăn tỉnh bơ, ào ào hết sạch. Con gái 17 bẻ gãy sừng trâu còn được, huống hồ năm nay nó đã lớn tướng, dư sức lấy chồng được rồi. Bà lẩm cẩm lo nghĩ vẩn vơ, nếu cứ ăn uống hoài kiểu này chắc chết quá! Mà không, con gái Bà nó bảo ở bên Mỹ đồ ăn không thiếu cái chi cả. Chợ Mỹ, Chợ Tàu, chợ Việt Nam có đủ hết. Tha hồ mà làm… bún bò giò heo, bún cá, phở, mì, bánh canh, bánh xèo, chả giò, bánh cuốn… Tự nhiên Bà Năm lại thấy … lên tinh thần.

Người ta hướng dẫn Mẹ con Bà Năm lên cái máy bay to chi lạ. Nghe nói nó chở cả mấy trăm con người và vô số đồ đạc, va-li, thùng, xách, linh tinh. Dễ sợ thật ! Bà thấy hành khách đông vô số kể, ngồi trông từa tựa như cái rạp cải lương ở gần Chợ Bà Chiểu thân quen của Bà. Mấy cái màn ảnh chiếu phim cả ngày cả đêm, hoạ hoằn mới cho chúng nó… giải lao nghỉ xả hơi một lúc. Cứ độ 2 tiếng đồng hồ, mấy cô tiếp viên lại đẩy cái xe đi quanh, dọn ăn, dọn uống cho khách. Bà nghe nói ở Mỹ cả chục triệu người béo phị, đi không nổi. Chắc tại họ ăn uống lu bù tối ngày sáng đêm như thế này chăng. Bà ăn đâu có nổi, Chỉ có con Lan là cứ tỉnh bơ như sáo sậu, hết coi phim lại ăn, lại uống. Bà bảo con Lan: “Con ăn nhiều thế, mai mốt béo phị ra thì ai nó thèm lấy!” Con Lan phì cười: “Má đừng có lo! Con biết hết trơn rồi.”

Máy bay hạ cánh xuống phi trường Mỹ. Con Lan bảo là Phi Trường quốc tế Los Angeles. Bà Năm mệt mỏi nhừ tử cả người, đứng lên muốn hết nổi.  Máy bay bay miết, bay hoài, dễ chứng cả ngày lẫn đêm chi đó. Bà Năm thấy cái lối sống ở trên máy bay và chắc cả ở Mỹ nữa nó không đơn giản như ở quê nhà, nơi gần chợ Bà Chiểu. Cái chi cũng máy với móc, lộn xà lộn xộn, không biết đâu mà rờ cả.

Con gái Bà, con Nguyệt sẽ lái xe từ San Diego lên đón Mẹ con Bà ngay tại nơi này. Người đâu mà đông thế? Người ta ăn mặc thật là kỳ cục. Cả đời, bây giờ Bà mới thấy người ta ăn mặc chẳng giống dân Sài Gòn của bà tí nào. Đàn ông, con trai thì lắm người mặc áo để phanh cả bộ ngực lông lá tùm lum. Có người ăn mặc đồ lớn như dân Sài Gòn đi ăn cưới, có người chỉ mặc có mỗi chiếc áo “may-ô ba lỗ,” có người cởi trần trùng trục đi lại tự nhiên, thoải mái. Đàn bà con gái cũng mặc quần, mặc váy như mấy cô, mấy bà hạng sang ở sài Gòn, nhưng có nhiều người lại mặc váy, quần cụt, ngắn cũn cỡn trông chẳng giống ai.

Ở chỗ đông người thế này mà đàn bà con gái chi lạ, cứ như ở trần, ở trên thì vú vê to nung núc, rùng rà rùng rình, để ra cả đống cho người ta coi, ở dưới cứ như là… để ra ngoài hết trơn, cái quần, cái váy ngắn tí teo, lại còn xẻ rạch lên một khúc nữa… Trông dễ sợ quá! Bà Năm không biết con gái mình, con Nguyệt nó có ăn mặc như thế này không? Nếu nó lại bắt Bà phải ăn mặc như thế nữa thì không biết rồi ra làm sao? Liệu Bà sống nổi hay không. Tự nhiên Bà chặc lưỡi… kệ nó tới đâu thì tới, đã đến đất Mỹ thì cũng như… leo lên lưng cọp rồi, tụt xuống đâu còn được nữa. Thôi thì …cũng liều nhắm mắt đưa chân, thử xem …đất Mỹ xoay vần tới đâu.

Sau khi làm thủ tục giấy tờ này nọ, Mẹ con Bà đẩy xe hành lý ra phía ngoài. Còn đang ngơ ngác thì con gái Bà, con Nguyệt, đã la lên: “Má! Má, con đây nè!” Con gái Bà lúc này nó cao, nó to con, nó đẹp như “đầm” ấy, Bà nhận ra không nổi. Nó chỉ người đàn ông đứng bên cạnh: “Đây là chồng con. Đây là hai đứa cháu ngoại của Má! Và đây là bạn bè của con…” Con Lan đứng sau lưng Bà, bây giờ mới đến phiên người ta ôm lấy nó cứng ngắc, hỏi thăm rối rít tít mù, làm cho nó đỏ bừng cả mặt, cả tai…

Mấy cái xe Mỹ, xe Nhật bóng láng đưa Mẹ con Bà Năm về nhà con gái. Bà thấy cái chi cũng lạ. Nhà to và đẹp quá, nhưng không bày đồ đạc tùm lum tà la như nhà của Bà ở gần Chợ Bà Chiểu. Con rể và con gái Bà chắc hẳn giàu lắm. Hai đứa cháu ngoại thì cứ nhìn Bà mà nói với nhau bằng thứ tiếng gì đó. Chắc là tiếng Mỹ! Vợ chồng con Nguyệt nói với Bà thì bằng tiếng Việt, còn khi chúng nó nói chuyện với nhau lại bằng tiếng Mỹ chi đó, làm Bà chẳng hiểu chi hết trơn.

Gặp mấy ngày nghỉ cuối tuần, bà con bạn bè người Việt ở gần, nghe tin Bà Năm sang Mỹ, cũng kéo tới thăm. Bà cũng thấy vui vui một chút. Cơm nước bày ra đầy cả bàn, nhưng Bà ăn sao nó dở ẹt, không bằng món cá bống kho tiêu, cá lóc nấu canh chua của Bà ở Sài Gòn. Chúng nó lấy xe chở Mẹ con Bà đi chơi tùm lum đủ chỗ, đẹp mắt và to lớn, vĩ đại vô cùng. Sạch sẽ nữa chớ, không có tạp nhạp, lộn xộn, dơ dáy như cái xóm cũ của Bà.

Đường phố San Diego. (Hình minh họa: Frank Rolando Romero/Unsplash)


Mấy ngày đầu đoàn tụ qua đi. Vợ chồng con Nguyệt đi làm, hai đứa cháu ngoại được đưa đến trường học con nít. Chỉ còn Bà với con Lan ở nhà, cái nhà rộng thinh rộng thang, phòng dưới nhà, phòng trên lầu, đủ kiểu. Chẳng bù với cái nhà của Bà gần Chợ Bà Chiểu, chỉ có một cái phòng để ngủ, một phòng cho khách ngồi chơi, còn lại là nhà bếp với bộ bàn ghế ăn cơm và linh tinh đủ thứ. Ấy vậy mà mới ở Mỹ chưa được một tháng, Bà Năm đã lại thấy nhớ nhung luyến tiếc nếp sống của Bà, một bà già hiền lành, chất phác, ở gần chợ Bà Chiểu. Đến cái ngày con Lan được chị nó dẫn đi học ở cái trường nào đó xa lắm, phải đi bằng xe hơi, chớ không có đi bộ hay đi xe đạp được đâu. Thế là chỉ còn có một mình Bà ở lại với ngôi nhà to lớn rộng thênh thang mà thôi.

Lúc này, Bà thấy quả thiệt là buồn, cái buồn miên man khó tả. Con Lan đã chỉ cho bà cách bật TV bằng cái… bấm cầm tay. Bật máy lên thì Bà chỉ thấy toàn là… đánh lộn, la hét um xùm. Bật sang kênh khác thì lại bắn súng đùng đùng, máu me tùm lum. Chán quá, Bà tắt máy. Hết đi ra lại đi vô, Bà đâm ra cứ muốn ngủ gà, ngủ vịt. Mà nằm xuống thì đâu có ngủ được…

Bà từng nghe nói thành phố San Diego là nơi ấm áp mà sao mùa lạnh mới sang Bà đã thấy lạnh chi mà lạnh dữ. Ở Sài Gòn, Bà có thấy lạnh bao giờ đâu. Buổi sáng sớm và ban đêm, ở Mỹ, Bà cứ phải mặc cả mớ quần áo, trông to bự chác như hình vẽ Ông già Nô-en vậy. Có bữa con Lan mở TV, Bà thấy cảnh động đất, mưa lụt, bão bùng, xe cộ tông nhau, người chết, nhà cửa tan tành…

Ở Mỹ cái gì đối với Bà cũng vĩ đại, to lớn, dễ sợ, kinh hoàng, dựng tóc gáy, nổi da gà. Nó không yên tĩnh, hiền lành như cái vùng đất chợ Bà Chiểu của Bà. Tối đến vợ chồng con Nguyệt đi làm về. Cả nhà chỉ gặp nhau vào lúc ăn cơm. Ăn xong, ai về phòng người nấy, hay vợ chồng con Nguyệt lại lấy xe đi đâu đến khuya. Bà Năm muốn chơi với hai đứa cháu ngoại. Khốn nỗi hai đứa nhỏ lại chỉ biết nói tiếng Mỹ mà thôi, Bà đâu có hiểu. Còn có con Lan thì nó lo học và làm bài túi bụi. Rảnh một tí, nó mở cái TV để coi ca nhạc mà kẻ đàn, người hát cứ như đánh vật với nhau, la hét um xùm. Hình như nó bảo nhạc Rốc, nhạc riếc chi đó, nghe đến chóng cả mặt, đau cả đầu. Không thế thì nó lại ôm cái điện thoại nói chuyện với bạn với bè. Nói liên hồi, không biết mệt. Chuyện chi mà nhiều thế?

Bà Năm đau nặng phải vô nằm bệnh viện, lắm lúc mê man rồi lại tỉnh. Vợ chồng con Nguyệt chỉ biết thương Bà, nhưng vẫn không hiểu được vì sao. Sau nó mới hiểu, hỏi: “Có phải ở đây Má buồn, Má không chuyện trò được với ai, nhất là với hai đứa cháu ngoại, Má nhớ quê hương, bạn bè của Má, Má nhớ mồ mả Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, Má nhớ Chợ Bà Chiểu… nên má đau, má bệnh phải không?” Bà Năm nắm lấy tay nó rồi gật đầu. Con Lan bỗng nhiên mím môi lại, nước mắt chảy hai hàng. “Sao Má không ở lại Việt Nam với chòm xóm, bạn bè, với Chợ Bà Chiểu của Má? Má không chịu đi Mỹ thì đâu con có đi! Con nhất định ở với Má cho đến khi nào Má… không còn nữa, Má đi với Ba cơ mà!” Rồi nó ôm mặt khóc rưng rức xót thương cho Mẹ, người đã suốt đời khổ cực vì chồng vì con, hình như chẳng có lúc nào để nghĩ đến chính mình… 

Bỗng Bà Năm tỉnh táo, vẫy tay cho vợ chồng con Nguyệt cùng tới gần. Bà nắm lấy tay hai đứa con gái, nói trong hơi thở nghẹn ngào: “Má chấp nhận rời bỏ tất cả để ra đi vì Má thấy thương con Nguyệt, nó muốn Má được an nhàn, sung sướng lúc tuổi già, nhất là Má thương con Lan, Má hy sinh vì mong cho nó được ăn học nên người và có một cuộc sống tốt đẹp như chị nó ở đất nước văn minh, giàu có, vĩ đại như thế này. Má già rồi nên không quen, nhưng Má chấp nhận… Má chỉ tiếc một điều là không được chết và nghỉ yên bên cạnh Ba con…”

Nguyệt lúc này mới cảm thấy một nỗi xót xa thật to lớn. Nguyệt đã chịu một phần trách nhiệm trong cái chết của Bà Năm. Vợ chồng Nguyệt đã không làm được một việc mà nhiều gia đình Việt Nam khác đã làm được. Đó là vợ chồng Nguyệt không để ý hay không làm được cái việc: dạy cho hai đứa con những khi ở nhà với Cha Mẹ, tập nói tiếng Việt. Nếu hai đứa con của Nguyệt nói được tiếng Việt như nhiều đứa trẻ gốc Việt khác thì Bà Năm đã có nhiều giờ phút khuây khỏa, vui chơi, chuyện trò với hai đứa cháu ngoại mà Bà thương hết mình. Đằng này, Bà không làm sao gần gũi được với chúng nó. Khi Bà và hai đứa cháu ngoại gần nhau, thay vì chuyện trò như nhiều gia đình gốc Việt Nam khác, thì lại chỉ biết nhìn nhau như những người xa lạ ở đâu đâu ấy.

Nguyệt cũng úp mặt vào hai bàn tay để giấu đi những giọt nước mắt xót thương người Mẹ già đã từ giã tất cả để đến nơi đây sống với mình. Nguyệt thương Mẹ nhưng không hiểu được Mẹ. Bây giờ thì mọi sự đã trễ mất rồi, không cách nào làm lại được nữa dù chỉ một lần… Nếu hai đứa con của Nguyệt nói được tiếng Việt để Bà cháu hủ hỉ với nhau thì… 

Bà Năm không nói được nữa, Bà đã vĩnh viễn ra đi để được sống với chồng Bà bên kia thế giới, có lẽ gần gũi hơn với Quê Hương Đất Tổ, ở đó có nhiều bạn bè thân thiết và có cái chợ Bà Chiểu thân thương gắn bó với Bà từ những ngày khốn khổ xa xưa…

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 69
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.285 seconds.