Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 100 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22937
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 23/Apr/2024 lúc 8:53am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22937
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 24/Apr/2024 lúc 7:56am

Món Nợ Năm Xưa

(Hình nhóm chụp ở trại)

Hôm ấy, trên facebook Group của nhóm cựu thuyền/ bộ nhân tị nạn Thailand, có xuất hiện bài post của Đức, chụp hình vợ chồng Đức đang tiễn con gái tại sân bay Tân Sơn Nhất đi qua Dallas Hoa Kỳ định cư theo chồng mới cưới. Ôi, chàng Đức chung chuyến tàu của tôi. Nhiều người quen cũ vào để lại những comments chúc mừng, cũng là những người tôi biết mặt biết tên, tôi liền vào tham dự, góp vui:
- Vậy là vài năm nữa con gái có quốc tịch Mỹ, sẽ bảo lãnh hai vợ chồng Đức qua đoàn tụ, chắc chắn sẽ có ngày chúng mình tái ngộ ở Dallas, Đức ơi!
Hắn trả lời liền:
- Cám ơn Nàng, nhưng lần này đừng... tài lanh làm mất giỏ đồ của tui nữa nha.
- Quỷ sứ, nhớ dai quá chừng! Tui hứa danh dự, lần tái ngộ sắp tới, sẽ mua một cái giỏ mới toanh, hàng hiệu, trả lại cho bà xã ông luôn nghen.
Hắn để icon mặt cười, rồi kết luận:
- Ừa, Đức mong đến ngày nhận cái giỏ của Nàng lắm.

Chúng tôi gặp nhau tại bãi hẹn vượt biên, là bến xe Bà Hạt Quận 10, chuẩn bị theo nhóm dẫn đường đưa lên xe đò chạy qua biên giới Mộc Hóa Long An, rồi tiến vào đất Cambodia trực chỉ thủ đô PnomPenh. Ngồi trên xe đò, từ xa lạ cũng trở thành quen biết, cả nhóm 41 người, vì từ đây sẽ cùng chung số phận trên con đường vượt biển tìm tự do.
Tôi và ba cô con gái, cũng mới quen trong chuyến đi, cùng vài thanh niên khác, trong đó có Đức, vì hơn kém nhau 1-2 tuổi, nên thường trò chuyện đùa giỡn với nhau.
Đức có giọng hát hay, biết chơi đàn organ, vừa tốt nghiệp trường Âm Nhạc Sài Gòn, tính tình hài hước có sẵn trong máu, hầu như ở mọi tình huống, lúc buồn lúc vui, lúc gặp hiểm nguy, Đức luôn biến thành những khoảnh khắc vui cười, khiến mọi căng thẳng và nỗi sợ tan biến .

Chỉ vài ngày đầu tiên trên đất Cambodia, đi chợ, đi dạo, đi chơi, tối về khu nhà trọ “nằm vùng” chờ lệnh lên đường đi phố biển Kongpom Som, chúng tôi đã biết khá rõ về mỗi người, gia đình ra sao, hoàn cảnh thế nào, càng thân nhau hơn trong cách xưng hô, thoải mái gọi ông gọi bà xưng tui, riêng Đức có cách gọi riêng khá dễ thương, là luôn gọi đám con gái chúng tôi là Nàng.

Đêm tàu ra khơi từ Cảng Kongpom Som, trời 8 giờ tối tháng 12 mù căm, gió lạnh, cả tàu nằm dưới hầm như cá hộp, chật chội, chỉ có tài công và người thợ máy, cùng người dẫn đường của ban tổ chức được ở trên boong tàu. Suốt những ngày qua mệt mỏi nơi đất Cambodia, nay vừa lên tàu, mọi người bắt đầu tìm vào giấc ngủ trong tiếng máy chạy đều đều của con tàu. Dưới hầm tàu tối như hũ nút, nhưng bốn đứa con gái chúng tôi biết mình nằm cạnh nhóm của Đức, mạnh ai nấy ngủ, co ro trong hầm tàu chật chội. Bỗng nửa đêm tôi giật mình vì nghe tiếng là hét, lộn xộn, ồn ào:
- Chuyện gì vậy cà?
- Máy thoát nước của tàu bị hư, bên ngoài đang có mưa bão.

Lúc này tôi mới để ý dưới sàn tàu có nước, ba cô bạn xung quanh tôi cũng đang dao dác hỏi tin tức từ boong tàu đưa xuống. Tình hình không mấy khả quan, thợ máy đang sửa ống thoát nước nhưng mưa gió càng mạnh hơn, lại có sấm chớp, con tàu nghiêng ngả mỗi khi nước biển và nước mưa tràn xuống hầm tàu. Mỗi lần như vậy, đàn bà con gái trong tàu rú lên, vì lạnh và vì sợ hãi.

Lúc này, có lệnh đưa ra, các thanh niên đàn ông trong tàu phải thay nhau lên boong phụ tát nước ra ngoài, dù biết đó là việc chẳng thấm thía gì so với nước mưa như thác lũ, nhưng đúng như câu “còn nước còn tát”, chứ chẳng lẽ chịu ngồi im chờ con tàu chìm xuống đáy đại dương.

Trong bóng tối mờ mờ, lúc này trời có lúc sáng lóe lên vì ánh sấm chớp và ánh đèn pin trên boong tàu thỉnh thoảng chiếu rọi xuống hầm tàu kêu người lên tát nước. Tôi thấy Đức ngồi ủ rũ như gà mắc mưa (mà đang mưa thiệt), tôi bảo:
- Tới phiên Đức lên tát nước kìa.
Đức uể oải đứng lên, vẫn không quên khôi hài:
- Từ hồi cha sanh mẹ đẻ chỉ biết cầm đờn, cầm micro, giờ kêu Đức cầm xô tát nước là coi như thua rồi đó, tàu có chìm đừng trách nha Nàng.
- Coi chừng cái miệng ông ăn mắm ăn muối!

Rồi thì đàn ông thanh niên kéo nhau lên boong, còn lại là những ông già bà cả, phụ nữ và con nít ở dưới hầm tàu, tiếng ồn ào không thua gì trên boong. Nhiều người bắt đầu ói mửa khi “lắc lư con tàu đi”, chúng tôi theo nhóm xúm lại đọc kinh, ai đạo gì thì đọc kinh theo đạo ấy, trong tiếng la, tiếng khóc hỗn độn của đủ thứ âm thanh.

Lại có lệnh đưa xuống, mọi người nên vứt bỏ thực phẩm và hành lý cá nhân ra ngoài biển để tàu nhẹ bớt. Bốn đứa con gái chúng tôi nghiêm chỉnh chấp hành, tôi cũng còn kịp nhớ giữ lại chiếc phao được cuộn tròn trong cái bịch nhỏ trước khi giao giỏ xách của mình cho người ta truyền nhau lên boong để quăng xuống biển. Cô Nhạn, người phụ nữ lớn tuổi nhất trong nhóm, đang nằm vật vờ nơi góc hầm, khều tay ra hiệu cho tôi chuyển mấy giỏ xách của cô ấy lên boong giùm, tôi mệt lắm, nhưng cũng cố làm, nhân tiện thấy một cái túi xách gần đó, tôi cũng chuyển lên boong, rồi tìm chỗ ngồi ngả lưng. Mưa có vẻ đang nhẹ dần, bão cũng bớt điên cuồng, tuy máy thoát nước chưa sửa xong nhưng con tàu đã lặng yên phần nào, Đức từ boong bước xuống hầm, đến hỏi tôi:
- Nàng có thấy cái túi xách của tui đâu không? Rõ ràng là hồi khuya tui nằm chỗ này mà.
Tôi hơi chột dạ, tỉnh hẳn người, lắp bắp:
- Có phải cái... túi da, có buộc... cái khăn bên ngoài?
- Đúng rồi, đúng rồi.
- Mình... lỡ tay đưa lên boong quăng ra ngoài biển rồi.
- Trời, ai xui ai khiến Nàng chớ!
- Thì lệnh của ban tổ chức, ai cũng phải nghe theo mà.
- Thì tui đang xuống đây để làm theo lệnh đó.
- Thì ai làm cũng vậy, làm gì dữ vậy!?
- Sao không dữ? Nàng có biết tui có 2 chỉ vàng ở trỏng không! Giời ạ!
Tôi giật mình, tá hỏa, chẳng biết phải nói gì, đây là tình huống đầu tiên Đức không hài hước. Tôi biết lỗi, nhưng vẫn cố cãi:
- Đi vượt biên thì vàng phải dấu trong người, trong áo quần đang mặc, ai lại để trong giỏ xách bao giờ.
Đức chẳng nói gì thêm nữa, đi ra phía đầu máy, nơi đó có miếng ván cao ráo, nằm xuống để ngủ bù sau một đêm mệt đừ tát nước. Tôi bước đến, lí nhí:
- Đức ơi, cho mình xin lỗi nhé, hồi khuya quay cuồng theo sóng gió con tàu, mình không được ... tỉnh táo cho lắm, chỉ nghe cô Nhạn nhờ quăng giùm mấy cái giỏ, nên tiện tay gom hết luôn, ai dè...
Đức xua tay, dịu giọng:
- Thôi cho qua đi, tui ngủ chút xíu.

Biển nổi cơn thịnh nộ, rồi biển cũng trở lại dịu dàng, máy thoát nước trên tàu cũng đã sửa xong, và chiều ngày hôm sau đã thấy vết đất liền Thailand ở xa xa. Đến mờ tối, tàu nhanh chóng thả 41 người chúng tôi xuống bãi san hô giữa biển, rồi vội vã quay tàu, tăng tốc độ đi ngược ra phía biển trở lại Cambodia. Chúng tôi chơ vơ giữa bãi san hô, cũng may nhờ tôi có chiếc phao, đem ra thổi, cho hai thanh niên trẻ bơi vào bờ, gọi ghe của dân đánh cá Thái ra cứu. Sau đó có 2 chiếc ghe chèo ra bãi san hô, nói chuyện với chúng tôi bằng Tiếng Anh “to quơ”, đại khái là mỗi nhóm tối đa 3-4 người được lên một ghe, và phải trả cho họ bằng tiền, vàng, hoặc bất kỳ trang sức nào đó như nhẫn, dây chuyền, đồng hồ. Tôi quay qua Đức:
- Chút Đức đi với mình nhe, vì Đức thì đâu còn vàng bạc gì.
Đức cười cười, liếc tôi:
- Đương nhiên rồi Nàng, còn phải hỏi!

Từng nhóm lần lượt lên hai chiếc ghe, xong mỗi chuyến, họ quay lại đón nhóm kế tiếp, tôi và Đức cùng một cô bạn là nhóm cuối cùng trên chiếc ghe cuối cùng đi vào bờ. Ôi trời ơi, vừa bước chân xuống đất, mới biết đó là vùng đầm lầy, sình ngập qua đầu gối, nặng chịch, không nhấc chân lên nổi. Cô bạn gặp được một chú đi trước giữa bãi sình, đứng đợi rồi họ giúp nhau, tôi chỉ còn biết dựa vào Đức. Mấy ngày nay trên tàu nào có ăn được gì vì lương thực quăng ra biển hết ráo, giờ mới thấy đói khát và kiệt sức. Tôi mềm như cọng bún, ôm cổ Đức ghì chặt, chàng thư sinh nhạc viện gầy yếu cũng ráng gồng hết sức kéo tôi lê lết qua bãi sình lầy rất khó nhọc nặng nề.

Có thể nói, trên con đường vượt biên, rồi đến trại tỵ nạn, những người chung chuyến tàu là những người thân thương nhất, vì cùng trải qua những chặng đường sinh tử trên biển, gắn bó có nhau, qua đến trại vẫn phải dính chùm nhau mọi nơi mọi lúc. Cao Ủy chia mỗi nhóm tàu một lô nhà ở chung, thành hàng xóm của nhau. Đi lãnh gạo lãnh thực phẩm cũng đi theo lô nhà, đi làm giấy tờ trên văn phòng trại cũng phải theo lô nhà, tới ngày dọn vệ sinh khu trại cũng phải đi theo lô nhà, hỏi sao không gần gũi như người trong một đại gia đình.

Có những buổi trưa rảnh rang, hoặc chiều mưa ướt chẳng đi đâu được, nhóm tàu chúng tôi quay quần tán dóc, nhắc về chuyến vượt biển, Đức lại hí hứng khoe với mọi người:
- Cái đêm đến bờ biển Tha Luông, chính tui là người ẵm nàng Loan này vào bờ chớ ai.
Mọi người cười ha hả, tôi phải đính chính:
- Ẵm, bế hồi nào vậy cà!? Nói chính xác là kéo lê kéo lết.
- Ối, lúc đó Nàng mệt lả người, mắt nhắm mắt mở, nhớ gì chớ!
Một buổi sáng, bốn đứa con gái chúng tôi vừa thức dậy, cây kem đánh răng cứng quá, đúng lúc Đức bước qua tính xin chút kem đánh răng, tôi nói:
- Nè, nhờ Đức bóp giùm.
Đức chớp thời cơ:
- Bóp trên hay bóp dưới?
Vì miệng chưa đánh răng, mặt mũi chưa rửa, nên tôi khép nép trả lời:
- Phải bóp từ dưới lên trên, mà phải bóp từ từ, đừng bóp mạnh quá.
Mấy chị mấy cô xung quanh lô cười rần rần, tôi mới biết đang bị Đức chọc phá.

Bữa khác, buổi chiều, chúng tôi chuẩn bị đi lễ nhà thờ, đi qua nhà Đức thấy Đức vẫn ngồi ngoài cửa:
- Ủa, sao bữa nay Đức không đi lễ?
- Có cái quần Jeans tối qua thằng bạn lô kế bên mượn đi chơi với bồ chưa trả.
- Trời đất! À mà nè, mặc quần shorts đi lễ cùng được mà, Chúa đâu chấp nhất chuyện áo quần.
- Không! Đức đi lễ hoặc đi hát, thì phải nghiêm chỉnh đàng hoàng, còn không thì ở nhà.
- Ở trại tị nạn mà cũng... chảnh dữ hen?
- Ừa, tui dzậy đó!
Có lẽ, cái máu thích đùa và máu “điên” tiềm ẩn từ lâu trong tôi, đã được đánh thức từ khi gặp Đức.

Đời tị nạn vẫn trôi qua, có ngày vui xen lẫn ngày buồn, thấm thoát đã qua năm thứ ba của đời tị nạn. Tình hình Thanh Lọc càng căng thẳng, chương trình cưỡng bách hồi hương thông báo sẽ bắt đầu, và thuyền nhân đã biểu tình rầm rộ. Đám đông phá hàng rào, tràn ra ngoài lộ, giương biểu ngữ chống cưỡng bách trước hàng trăm họng súng và xe cảnh sát Thái bao vây. Cả trại hoang tàn vì một số người bạo động đã phá các cửa hàng người Thái ngoài chợ, phá cửa nhà tù, khiến Bộ Nội Vụ Thái báo động khẩn cấp, các văn phòng thiện nguyện ngoại quốc đóng cửa, không dám vào trại, đại diện Cao Ủy phải đi máy bay trực thăng từ Bangkok đáp xuống bãi biểu tình để đàm phán với dân tị nạn.

Đi trong buổi chiều đầy vỡ vụn xung quanh, Đức hỏi tôi:
- Nếu rớt thanh lọc, Nàng có ghi danh hồi hương?
- Theo quy định, chúng ta được quyền xin tái thanh lọc 2 lần nếu có những giấy tờ mới bổ sung, nên mình sẽ chờ đủ hai lần tái, rồi sau đó tính tiếp, còn Đức thì sao? Thú thiệt, thấy nhóm tàu mình có người lai rai hồi hương, đôi lúc cũng thấy nản chí, lung lay.
- Đức sẽ theo Nàng, là chờ tái đến phút chót, cho đến khi “chín” thì thôi.
Hai đứa nhìn nhau, cười buồn. Sau đợt biểu tình đó, cả trại được chuyển lên trại mới Sikiew. Tương lai định cư đối với đa số đám đông vẫn là một giấc mơ xa vời, vì nhóm tàu của chúng tôi, chỉ có 8 người may mắn được đậu thanh lọc trong đó có tôi.
Buổi tối chia tay để sáng hôm sau đi qua trại transit dành cho người đậu thanh lọc, tôi đi dạo cùng Đức. Tôi nói:
- Thế là hành trình tỵ nạn đang khép lại, chỉ vì cuộc Thanh Lọc đáng ghét mà nhóm tàu chúng ta phân chia trăm ngả, mà ngã đông nhất là hồi hương về Việt Nam, thật là buồn.
Đức trầm ngâm:
- Chẳng ai muốn trở về nơi họ đã dứt áo ra đi, mà thôi, vượt biên có số định cư có phần. Riêng Đức sẽ nhớ mãi cái cảm giác sung sướng vỡ òa khi bước chân lên bờ biển đất Thái sau mấy ngày bão giông tơi tả. Những ngày ấy có lẽ là những ngày hạnh phúc nhất của đời tỵ nạn, vì chúng ta chưa nhập trại lớn, chưa biết gì về cuộc thanh lọc, ba tuần ở trại nhỏ vui và đẹp như cõi thần tiên.

Đúng vậy, khoảng thời gian ở trại Cảnh Sát Tha Luông êm đềm xiết bao. Sáng ngủ dậy, chào cờ Thái, xong mọi người tản ra xung quanh trại nhặt rác, gọi là vệ sinh chung, rồi sau đó tự do, từng nhóm tàu nấu cơm trưa, ai rảnh rang thì tụ năm tụ ba nói chuyện tán dóc, kể chuyện cười, cho hết thời gian. Sau bữa trưa, là ... ngủ trưa, rồi lại lo cơm chiều, rồi ra hồ nước kế bên trại tắm rửa giặt giũ, ôi vui còn hơn Tết. Buổi tối, mấy nhà cảnh sát Thái mở Tivi cho bà con tỵ nạn vào xem ké, riêng nhóm tàu chúng tôi náo động nhất trại, vì có một anh từng sinh hoạt trong Hướng Đạo, nên chúng tôi chơi trò chơi Mật Thư, hoặc sinh hoạt vòng tròn ca hát, các trò chơi tập thể. Nhiều người các nhóm tàu khác vây quanh xem chúng tôi chơi, thậm chí ông Cảnh Sát trưởng trại cũng có lần ghé đến xem, thích thú, rồi tặng cả nhóm một thùng mì gói Mama bồi dưỡng.

Đức ngập ngừng nói tiếp:
- Và dĩ nhiên, Đức nhớ nhất cái đêm tháng 12 lạnh lẽo không trăng không sao, đã được dìu Nàng vào trong bờ đất liền, kỷ niệm đẹp quá, Đức sẽ không bao giờ quên.
Tôi cũng mơ màng theo dòng cảm xúc kỷ niệm:
- Còn Loan ư, sẽ nhớ nhất tuần đầu tiên nhóm tàu mình ở khu trại Cảnh Sát Thái, được nấu nồi chè ăn mừng đến bờ tự do, Đức đã hát bài “Yêu Một Mình”, giọng ca ngọt ngào tha thiết, đúng là dân tốt nghiệp trường Âm Nhạc.
- Bài hát đó tặng Nàng chớ ai!
- Xạo vừa thôi! Mới gặp nhau trên đường vượt biển, biết gì mà tặng. Vả lại, nhà mình ở Việt Nam có giàn hoa giấy màu đỏ, đâu phải “nhà em có hoa vàng trước ngõ, tường thật là cao có dây leo kín rào ...”
- Lúc đó cũng biết nhau cả tháng rồi chớ bộ. Mà ai ngờ bài hát đó lại đúng y chang, sau này khi nhập trại Panatnikhom, là “mọi người thầm mong được đưa đón chân em ...” trong khi Đức chỉ là một chàng nhạc sĩ nghèo, con bà “Phước” ở trại, nào dám ngỏ lời, nào dám mơ xa ...
- Thôi, hổng nói tào lao nữa, Đức nói đùa y như nói thiệt, nhưng Loan sẽ nhớ mãi cuộc nói chuyện hôm nay, cám ơn Đức vì tất cả. Chẳng biết tụi mình có được gặp nhau nữa không, chúc Đức nhiều sức khỏe, may mắn và hạnh phúc trong cuộc sống tương lai.
- Nàng cũng vậy nhé, đừng bao giờ quên nhóm tàu 41 và trại tỵ nạn Thailand.

(Đức ngày nay, chụp với Cha Peter Namwong)

Chúng tôi từ biệt nhau từ đó, có ngờ đâu, hơn 30 năm sau giấc mơ tái ngộ sẽ trở thành sự thật, vấn đề chỉ là thời gian sớm muộn mà thôi. Tôi mong chờ đến ngày đó, để được thực hiện lời hứa tôi đã nói với Đức trên Facebook, là sẽ mua một cái giỏ mới, thật đẹp, tặng cho bà xã Đức, coi như “ nợ nần” xưa được xóa bỏ.

Đó là món nợ vật chất, còn cái nợ tình thân, Đức dìu tôi vào bờ biển Thái năm nào, và những kỷ niệm chia ngọt sẽ bùi của nhóm tàu 41 người, làm sao trả cho hết!

Edmonton, April 2024
Kim Loan
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22937
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 24/Apr/2024 lúc 8:21am

Tháng Tư Lại Về

 

Tháng Tư buồn lặng lẽ
Nắng hạ còn đơn côi
Sương mù giăng khắp lối
Lòng xao xuyến bồi hồi.

Em! Một thời để nhớ
Anh! Chinh chiến tơi bời
Sài Gòn thời hoa mộng
Lưu luyến một phương trời.

Con đường lá me bay
Đợi nhau mối tình đầy
Sông Sài Gòn dòng chảy
Cánh chim mờ chân mây.

Tháng Tư về hoang mang
Chiến tranh thật kinh hoàng
Đoàn người đi vội vã
Chia ly trong ngỡ ngàng.

Tháng Tư ta mất nhau
Hồn đau thấm nỗi sầu
Từ nay “Tự Do” mất
Chia đôi hai nhịp cầu.

Thái Bình Dương xa cách
Hai bên sóng vỗ bờ
Sóng thay màu tang trắng
Quê hương vẫn đợi chờ.

Em bây giờ mong đợi
Những yêu thương một thời
Sài Gòn ngày xưa ấy
Ta lạc nhau mất rồi.

Tế Luân
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22937
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 24/Apr/2024 lúc 9:29am
5118%201%20GoiHonThgTuNTTD
(Designed by Túy Hà)
Tháng tư về gọi hồn
Những cành cây ngọn cỏ
Đang khóc hờ trong gió
Một thuở người lao đao.

Dòng sông dòng suối nào
Của ngày xưa binh biến
Chưa chảy ra đến biển
Chưa cạn hết máu đào.

Những cánh rừng lao xao
Giữa đạn bom lửa cháy
Tháng Tư về thức dậy
Tro tàn chưa bay đi.

Những con đường phố xưa
Ta đã từng quen thuộc
Ngọn đèn đường đã khóc
Bước chân người xa xăm.

Còn gì em và anh
Trong tháng tư tan nát
Chốn lao tù đói khát
Cuộc đổi đời thương đau.

Những oan hồn nơi đâu?
Tháng Tư về nhang khói
Xác bên đường nằm đấy
Xác ngoài khơi lênh đênh.

Nếu mai người về thăm
Tìm lại ngày tháng cũ
Hồn tháng tư còn đó
Với nỗi buồn trăm năm.
Nguyễn Thị Thanh Dương

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22937
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 27/Apr/2024 lúc 9:42am

Những Ngày Tháng Tù Đày Không Thể Quên


Tôi bị bắt ngày 5 tháng 4 năm 1976, trong cái trò bắt người mà cộng sản gọi là “chiến dịch X2 đánh Văn Nghệ Sĩ phản động”. Chiến dịch X1 trước đó “đánh” tư sản mại bản (tức những nhà tỷ phú người Việt và người Việt gốc Hoa, đa số ở Chợ Lớn). Có 3 nhà tỷ phú người Việt bị bắt là cụ Hoàng Kim Quy (cựu Thượng Nghị Sĩ đệ nhị VNCH), 2 anh em vua tàu thủy Phạm Quang Khai và Phạm Quang Hoa. Trước và sau tôi bị bắt vài ngày có hơn trăm người gồm đủ bộ môn văn nghệ Miền Nam (Văn, Thơ, Báo chí, Nhạc, Kịch, Đạo diễn Điện ảnh, Đạo diễn Cải lương có đôi chút tên tuổi). Đa số giam ở T20 (số 4 Phan Đăng Lưu bên hông chợ Bà Chiểu, Gia Định) vài người đi khám Chí Hòa.


Khoảng mười tháng sau một số lớn được tha về, chỉ còn mươi người bị quy kết tội “có nợ máu nhân dân” và “chống cộng ở thượng tầng kiến trúc” bị giữ lại. Đây là những “tội” có thể đưa tới tử hình. Sau 2 năm tra vấn hỏi cung xong, họ đưa bọn tôi lên trại Gia Trung (xứ sương mù Pleiku) nằm trong khu rừng già, nghe nói trước đây là mật khu của Việt cộng, để lao động khổ sai. Tưởng cũng nên kể ra đây tôi là người trong giới Văn nghệ đầu tiên, mới nhập trại đã bị tống ngay vào “biệt giam” (cachot) khu B1, phòng 11 trại Phan Đăng Lưu. Có lẽ họ tưởng tôi là nhân vật quan trọng, là tay sai của CIA được dựng lên làm Chủ tịch Nghiệp Đoàn Ký Giả Việt Nam hoạt động trong báo giới. Vì ngoài Bắc chức vụ này “to” lắm, do đảng đưa ra và quyền hạn cũng như quyền lợi ngang bộ trưởng.


Trong cùng dẫy biệt giam khu B1 có những nhân vật tên tuổi như Thượng Tọa Thích Huyền Quang, Thượng Tọa Thích Quảng Độ, Linh mục Đỗ Bác Ái, Tiến sĩ Mai Văn Lễ (cựu Khoa trưởng Khoa Luật đại học Huế), Luật sư Nguyễn Hữu Doãn, Luật sư Nguyễn Khắc Chính, Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ, Nhà báo Hồ Văn Đồng, Nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến,Nhà Văn Nhà báo (nguyên dân biểu) Hồ Hữu Tường. Những người này lần lượt vào biệt giam sau tôi 1, 2 tuần. Đầu dẫy khu biệt giam buồng số 1 là “tướng phục quốc Nguyễn Việt Hưng”. Tôi rất tiếc khi đó không biết nhiều về nhân vật này. Ông là người đầu tiên cầm đầu một số dăm bẩy người trấn trong nhà thờ Vinh Sơn (đường Trần Quốc Toản) đánh CS với vài vũ khí thô sơ, khi CS vào Saigon mấy tháng. Sau đó ông bị CS xử bắn.Vụ “vùng lên” khởi đầu chống đối CS này đã gây tiếng vang rộng lớn làm trấn động dư luận khắp nước khi đó. CS phải điều động bộ đội công an cảnh sát vây hãm quanh khu vực Nhà Thờ mấy ngày liền mới trấn áp được. Tôi nghĩ chúng ta thật vô tình khi ở ngoài này, trải qua mấy chục năm, không thấy một ai nhắc nhở tới ông (người được gọi là tướng Nguyễn Việt Hưng mà dư luận khi đó đồn đãi là biệt danh của Tướng NCK hoặc Tướng cảnh sát NNL ở trong mật khu lãnh đạo cuộc chiến đấu với rất nhiều “hồ hởi phấn khởi”). Theo tôi đây là người chiến sĩ quốc gia can trường bất khuất, dám đứng ra chống CS ngay từ ngày đầu, chúng ta nên tỏ bày lòng ngưỡng mộ và khâm phục. Phía sau dẫy biệt giam B1 là dẫy biệt giam B2 có giáo sư Vũ Quốc Thông, ông chủ nhiệm nhật báo Lẽ Sống Mới Ngô Công Minh (vào đầu năm 1975 làm phụ tá Tổng Trưởng Thông Tin), ông Tống Đình Bắc, Trưởng ty Công an nổi tiếng sát cộng Miền Tây, ông chủ Nhà sách Khai Trí và một vài người nữa từng giữ chức vụ cao chế độ cũ. Riêng ông Ngô Công Minh sau khi lên trại tù lao động Gia Trung với chúng tôi hơn tháng thì CS đưa ông đi nơi khác. Từ đó không ai biết tin tức về ông. Có dư luận nói ông bị đem thủ tiêu vì mấy tay tổ văn nghệ, báo chí CS (từng quen biết ông trước kia) muốn cướp không ngôi nhà lớn của ông ở Saigon và vàng bạc của cải. Theo tôi, ông không phải nhà hoạt động chánh trị, chỉ là nhà báo thuần túy nên không thể bị sát hại vì lý do chánh trị. Khi tù về tôi có dò hỏi tin tức ông nhưng không ai biết một cách chính xác.


Trong thời gian “nằm” biệt giam tôi cũng có vài việc để nhớ xin kể ra đây. Cứ mỗi tháng tù biệt giam được cho ra ngoài cắt tóc. Bọn “thế nhân” chúng tôi tất cả đều bị “gọt” trọc đầu kể cả vị Linh mục, nhưng với 2 vị Thượng Tọa Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ thì cai tù lại bắt để tóc. Hai cụ phản đối, cai tù thản nhiên: “Đó là chính sách Nhà nước!” Việc thứ hai là vì biệt giam mới làm chưa lắp ống dẫn nước nên mỗi ngày chúng tôi chỉ được từ 2 tới 3 phút vòi nước ở ngoài thọc vào để làm vệ sinh. Tôi không biết nên thản nhiên chà xà bông gội đầu (bằng xà bông giặt). Đang làm nửa chừng vòi nước rút ra mặc cho tôi nài nỉ. Báo hại đêm đó đầu tôi bị xà bông làm ngứa ngáy khó chịu không tài nào nhắm mắt ngủ yên được. Cũng vì “nước” tôi phải tự “tranh đấu” với mình mãi mới nuốt xong phần cơm tù. Tôi chỉ có 2 cái tô nhựa: một dùng đựng cơm, một dùng đựng canh. Vì phải chứa nước làm vệ sinh (khi đi cầu) tôi nhịn tắm lấy nước chứa vào cái tô lớn màu xanh. Trong khi đi “làm việc” (hỏi cung) tôi viết mấy chữ bằng bút chì dặn anh tù hành sự để cơm vào nửa tờ giấy báo cũ, còn canh để vào tô nhựa màu đỏ. Nhưng anh ta đổ hết nước trữ đi, để cơm canh vào 2 cái tô và đặt ngay trên bệ cầu tiêu chưa được dội nước còn nồng nặc mùi phân của mình.Tôi ngồi hơn nửa tiếng đồng hồ nhìn 2 tô cơm canh muốn ứa nước mắt tự “tranh đấu” với mình. Ăn hay nhịn? Nếu ăn, khó nuốt trôi miếng cơm vì tởm lợm. Nhưng nếu không ăn sẽ bị đói tới trưa hôm sau. Tôi lại mắc chứng đau dạ dầy từ ngày CS chiếm Saigon nên sẽ khốn khổ lắm. Cuối cùng tôi đành nhắm mắt nuốt vội chút cơm canh lạnh ngắt với hai hàng nước mắt.

Tôi bị nhốt biệt giam hơn 10 tháng, vào một buổi sáng trời âm u, được gọi tên mang đồ ra khỏi buồng giam. Phía chéo buồng giam, tôi liếc nhìn thấy nhà văn Duyên Anh để mặt sát ô vuông cánh cửa sắt phòng giam tập thể hướng về phía tôi nói khá lớn: “Nhớ ghé nhà tao nói với vợ tao...” Tôi chỉ nghe được tới đây thì bị viên cai tù nạt nộ cấm nói. Thì ra Duyên Anh tưởng tôi được tha về nhờ tôi tới nhà nhắn tin vợ.


Khi đi đến trước sân “nhà khách” trại giam tôi thấy vài người quen ngồi đó với đồ đạc cá nhân lỉnh kỉnh.Chúng tôi chỉ đưa mắt chào nhau. Mấy phút sau họ điểm danh từng người xong còng tay lại đưa lên chiếc xe hơi bít bùng chuyển về cơ quan An ninh nội chính (Nha Công an thành phố Saigon cũ đường Trần Hưng Đạo). Cùng trên chuyến xe có tiến sĩ Mai Văn Lễ, thạc sĩ Vũ Quốc Thông, ông Tống Đình Bắc và một vài người nữa (giờ tôi quên mất tên). Trong lúc ngồi ngoài sân cơ quan chờ làm thủ tục gì đó, các bạn tù của tôi bàn cãi sôi nổi về dự đoán chúng tôi được đưa lên đây làm giấy tờ tha. Có vị còn “cá” một chầu ăn uống linh đình ở Chợ Lớn. Rồi lần lượt từng người được gọi tên đem hành lý đi vào phòng... biệt giam! Tôi được gọi tên sau chót (may mắn cho tôi vì biệt giam hết chỗ (?) – viên công an tiếp nhận tù nói vậy) nên được nhốt vào khu tập thể A (làm từ thời Pháp). Gần 100 người đủ thành phần già trẻ lớn bé, tư sản, chính trị gia, Linh mục, Mục sư,Thượng tọa, Đại đức, trộm cắp, buôn lậu, nhốt chung trong 1 phòng dài trên 10 mét, bề ngang nhỏ hẹp, u tối, ẩm ướt, thiếu ánh sáng và khí trời. Phòng có 2 “sàn”, sàn trên cao khoảng 1 mét. Mỗi người được cấp manh chiếu rách cáu bẩn, nồng nặc mùi chua mồ hôi người tích tụ lâu năm đã kết thành “cao”. Ở trên tôi nói may mắn không phải vào lại biệt giam vì mấy tháng sau anh Mai Văn Lễ được thả khỏi biệt giam vào phòng tôi kể cho nghe thảm cảnh trong buồng biệt giam anh đã “chết trong cõi sống” mấy tháng qua. Buồng biệt giam Sở An ninh nội chính được xây từ thời Pháp thuộc có tuổi đời trên mấy chục năm. Tường bẩn thỉu lam nham đầy cáu bẩn đen đúa, sàn xi măng ẩm ướt quanh năm. Mùi mồ hôi, mùi phân, nước tiểu người tích tụ bao năm tạo thành một thứ mùi hôi hám khó tả, ngửi phải muốn nôn ọe ngay. Khủng khiếp nhất là cái cầu tiêu đã nứt nẻ và vỡ nhiều mảnh, mỗi khi trời mưa nước từ trong lỗ cầu dâng lên tràn lan khắp buồng với những cục phân chưa tiêu hủy. Nếu mưa lâu khoảng một giờ, nước cầu tiêu dâng ngập buồng giam hơn gang tay, tù chỉ còn biết đứng dựa vào tường chờ cho nước rút hoặc ngủ đứng. Và khi nước vừa rút hết, sàn si măng còn ẩm ướt, tù mới ngả lưng nằm thì một hai chú chuột cống khá to, lông lởm chởm ghẻ lở khắp mình trông dơ dáy khủng khiếp chui lên từ miệng cầu, thản nhiên gặm bàn chân tù, đạp đuổi nó cũng cứ gan lỳ không chạy! Có lẽ từ lâu nó sống bằng xương thịt tù bị chết chưa kịp mang đi. Anh Mai Văn Lễ kết luận: “Đúng là tầng chót địa ngục trần gian, có một không hai trên thế giới!” Tôi được biết Linh mục Hoàng Quỳnh,người lãnh đạo giáo dân khu Bùi Chu Phát Diệm nổi tiếng chống CS bằng vũ lực hồi còn ngoài miềnBắc. Linh mục bị bắt từ ngày đầu tháng 5/1975, bị giam và chết trong “tầng chót địa ngục trần gian” này. Khi họ đem xác Linh mục đi trên cái băng ca, thân thể teo tóp gầy đét bé nhỏ như đứa trẻ lên 10.


Sau 2 ngày đêm 15 chiếc xe vận tải lớn,trước đây dùng chở heo, chở mấy trăm tù ngồi bó gối trên sàn xe chật cứng nhúc nhích cánh tay cũng không được. Với bao gian khổ đói khát trên con đường dài mệt lả người, chập choạng tối chúng tôi tới trại tù lao động cải tạo Gia Trung (thuộc tỉnh Pleiku) nằm trong khu rừng núi hoang vu. Nghe nói nơi này khi trước là mật khu của CS. Trại Gia Trung lúc bọn tôi tới đã có 3 trại giam, mỗi trại cách nhau khoảng cây số. Trại nào cũng đầy nhóc người: từ 700 tới 1000. Tù đa số là các viên chức cấp nhỏ, địa phương quân, nhân dân tự vệ và đông nhất vẫn là tù hành sự từ các nơi đưa tới, có án hoặc chưa có án. Có cả tù chưa đến 10 tuổi, đói quá liều ăn tô bún riêu ở chợ không tiền trả bỏ chạy bị bắt.

Những nỗi đói khổ nhục nhã, sống cuộc đời trung cổ, sách báo đã nói nhiều từ hơn 30 năm, tôi xin miễn kể ra đây. Sự khổ sở nhục nhã chúng tôi còn có thể chịu đựng được. Nhưng cái khủng khiếp nhất đối với chúng tôi là sự vô vọng ngày trở về đoàn tụ với gia đình, với đời sống ngoài xã hội. Bọn cai tù bắt chúng tôi “học tập” chính sách Nhà nước là đem vợ con lên vùng đất tù đày này cuốc đất trồng khoai sinh sống (như ngoài Bắc đã thực hiện). Tất nhiên chúng tôi không thể làm theo họ. Chúng tôi sẵn sàng hy sinh đời mình chứ không thể để vợ con đã khốn khổ ngoài đời lại phải gánh thêm cảnh tù đày.


Trong những năm tháng không tên dài dằng dặc như bao thế kỷ sống như cây cỏ, như súc vật, chúng tôi hết cả hy vọng, hết cả chờ mong thì có những tin tức như những làn gió mát mang theo hơi sống tới: tin đồn về chương trình HO, người Mỹ sẽ cứu chúng tôi đem sang Mỹ. Trong thời gian này các con tôi gửi thư cho tôi nói bóng nói gió là 2 hội Văn Bút QuốcTế và ViệtNam đang ráo riết can thiệp vận động cho anh em cầm bút chúng tôi. Và các con tôi cũng báo tin có nhận được “quà” của 2 hội gửi. Thời gian này bọn tù chúng tôi “hồ hởi phấn khởi” lắm. Chỗ nào cũng bàn tán về chương trình HO (mỗi người tán một kiểu toàn có lợi cho mình) với bao hy vọng tốt đẹp. Và chúng tôi cũng hết lời ca ngợi Tổng Thống Carter– vị ân nhân vĩ đại– sẽ lập cầu Không vận đưa chúng tôi từ VN qua Mỹ sống một đời ấm no tự do tươi sáng. Tôi cũng nghe nói tới tên một bà lúc ấy còn rất xa lạ với chúng tôi: bà Khúc Minh Thơ. Biết bao giai thoại đồn đại thêu dệt về bà được dựng lên. Qua câu chuyện và lời bình luận của anh em tù,tôi có cảm tưởng bà Khúc Minh Thơ như một bà tiên đang cầm cây đũa thần giúp chúng tôi từ vực thẳm lên. Rồi ngày tháng tiếp tục lặng lẽ trôi qua, tất cả mọi việc vẫn như cũ không có biến chuyển gì xẩy ra, chúng tôi lại tiếp tục buồn nản thất vọng lê cái thân tù đày mòn mỏi héo hắt trong quốc nạn khổ sai. “Mong nhưng không đợi không chờ” như câu thơ của Giáo sư Vũ Quốc Thông làm và đọc cho tôi nghe.

Sau gần 10 năm thân thể rã rời hư hao chỉ còn bộ da bọc xương, tinh thần suy sụp chán nản chẳng còn gì để mong để chờ và cũng hết cả “cú” tha bất ngờ thì anh Doãn Quốc Sỹ được gọi tên tha, năm sau anh Hồ Văn Đồng rồi thời gian sau nữa là giáo sư Vũ Quốc Thông. Những người này được tha về làm sự hy vọng tưởng tắt ngấm trong chúng tôi lại lóe lên, dù là ở cuối đường hầm mù mịt.


Có lẽ do nguồn từ gia đình ký giả Cao Sơn lên thăm nuôi nói đài VOA vừa loan tin tôi và họa sĩ CHÓE (Nguyễn Hải Chí) hiện bị giam tù ở trại Gia Trung, Pleiku. Thế là ầm cả trại đến nỗi viên quản giáo đội tôi cũng tò mò hỏi anh tù nấu nước có biết tôi không và hiện ở đội nào (vì đài VOA chỉ loan bút hiệu của tôi nên anh ta không biết). Báo hại tôi từ khi có tin này không được tự động đi gánh phân người từ trại ra ngoài đồng nữa, phải về đội cuốc đất chặt cây đào mương như mọi anh em tù khác. Gánh phân tuy có vất vả bẩn thỉu hôi hám mất vệ sinh thật nhưng chỉ nửabuổi là “thanh toán” xong các hố xí. Thời gian còn lại thoải mái xuống suối tắm giặt và đi “va tạt linh tinh” kiếm củ khoai mì hay vài cọng rau lang “cải thiện”cho “ấm” cái bụng thường trực rỗng. Nếu tôi nói đã hơn mt lần “tự động” ăn... phân người, có lẽ nhiều người không tin cho là tôi nói quá để kể khổ thân phận tù đày dưới chế độ cộng sản. Lần thứ nhất quãng hơn 10 giờ, tôi vừa đói vừa khát ghé vào chỗ chòi đun nước uống của đội để uống nước. Anh bạn được phân công đun nước, nguyên đại úy cảnh sát quốc gia, vốn quý mến tôi, thấy tôi đến, anh mắt nhìn chỗ khác nhưng miệng nói nhỏ: “Bác đi tới phía bụi cây bên trái”. Tôi biết là “có gì” rồi. Tới nơi nhìn vào trong bụi cây tôi thấy nửa trái dưa chuột nhỏ. Tôi cầm lên bỏ vào miệng nhai liền. Có lẽ trong đời tôi chưa bao giờ ăn miếng dưa chuột ngon đến thế (tôi vốn không thích ăn dưa chuột).Vừa nuốt xong nửa phần dưa chuột tôi chợt nhớ ra, ngừng nhai, tiến lại chỗ anh bạn đun nước, nói: “Này ông ơi, có phải trái dưa này “tẩm” phân người?” Anh bạn gắt nhẹ: “Đã bảo, bác cứ ăn đi, không chết đâu mà sợ!” Nghe anh bạn nói, tôi biết mình đã lỡ ăn rồi (hơn nữa cũng tại đói) nên tiếp tục cố nhai và nuốt nốt phần dưa chuột còn lại. Nguyên do thế này: Trong vườn ươm giống của đội trồng rau có 1 giàn dưa chuột. Khi dưa mới kết trái to hơn ngón tay đã bị tù (và cả cai tù) hái trộm ăn hết nên ban giám thị trại tù ra lệnh lấy phân tươi của người hòa với nước rồi hàng ngày quết vào những trái dưa chuột cho hết bị trộm. Nhưng tù vẫn hái trộm ăn sau khi rửa sơ qua. Thế là lần thứ nhất tôi ăn phân người. Lần thứ hai thì chính do tôi (và mấy ông bạn) chủ động ăn phân người. Tôi và mấy “đồng sự” được “bố trí” dọn phân cầu tiêu các phòng giam. Một số anh em tù hình sự ra ngoài đồng làm việc đã hái và ăn tươi nuốt sống các trái bắp. Vì ăn trộm nên không kịp nhai (sợ cai tù thấy) các bạn tù hình sự cứ thế mà nuốt. Bắp già hạt cứng dạ dầy không tiêu nổi, hôm sau đi cầu ra nguyên cả hạt. Chúng tôi lúc đầu còn sợ bẩn sợ hôi và bệnh nhưng sau khi sôi nổi “bàn thảo”, chúng tôi đi tới việc lấy những hạt bắp này đem ra suối rửa, luộc hai ba lần cho hết mùi hôi rồi ăn một cách ngon lành thoải mái! Nhiều bạn tù biết chuyện cũng xin ăn ké. Tôi được “ấm bụng” ít ngày thì bị “ngưng công tác” (vì tin đài Voa loan)? Đó là hai dấu ấn khủng khiếp trong trại tù cho tới ngày hôm nay, mỗi khi nghĩ tới tôi vẫn không khỏi rùng mình tự hỏi không hiểu sao mình lại có thể “ghê gớm” đến thế!


Còn một chuyện nhỏ nữa mà tôi cũng khó quên. Tôi vốn bị quy kết “học tập cải tạo” xấu, tư tưởng không ổn định và trây lười lao động nên thường xuyên bị ăn 13 ký một tháng (5 ký gạo, 8 ký khoai mì, nhưng bọn cai tù và bọn nhà bếp đồng lõa ăn chặn mất 2 ký gạo nên chỉ còn 3 ký). Trong 7 năm sống ở trại Gia Trung tôi được gia đình “thăm nuôi” có 3 lần. Đáng nhớ nhất là lần hai con tôi (còn vị thành niên: một trai 15 tuổi và một gái 13 tuổi) đi xe đò hơn ngàn cây số lên thăm bố với gói quà khoảng 10 ký. Khi đến cây số 25 (quốc lộ 18) thì xuống xe, lúc đó là 2 giờ đêm. Trời rất lạnh lại ở chốn rừng thưa hoang vắng không biết đường vào trại, hai anh em phải ngồi dựa lưng vào nhau chờ sáng trong lòng vừa sợ vừa lo mọi thứ, nhất là với thú dữ và kẻ cướp.


Sáng hôm sau tôi được gọi thăm nuôi. Tôi cố làm nét mặt lạnh lùng vô cảm để tránh trận nước mắt của 2 con tôi khi nhìn thấy thân thể tiều tụy mòn mỏi hết sinh lực của bố chúng. Như đã viết ở trên vì tôi học tập cải tạo xấu, lao động kém nên chỉ được nhận 2 ký đồ thăm nuôi.Tôi nhìn thấy 1 gói bột trắng khoảng 1 ký,tôi tưởng là bột gạo hoặc bột sữa nên lấy gói này và 1 gói xả xào mắm ruốc vừa đủ 2 ký. Hai con tôi đứng trước cửa nhà thăm nuôi nhìn theo, tôi biết chúng đang khóc nhưng không đủ can đảm quay lại nhìn:tôi sợ không cầm được nước mắt và òa khóc. Tôi nghe tiếng con gái tôi nói trong nước mắt: “Bố ráng gi gìn sức khỏe để còn sống trở về với các con”. Vào tới buồng tôi mở ngay gói bột ra pha nước vào cái tô nhựa và ngoắng cho tan bột. Bột bị ngoắng sủi bọt lên trắng xóa. Đang đói đang khát tôi đưa lên miệng uống liền một ngụm lớn. Nhưng chất bột vừa trôi vào cổ họng, thấm vào lưỡi đắng chát và nóng rát, không có mùi vị gì có thể gọi là sữa cả, dù là sữa quá “đát”, tôi muốn nôn ọe vội nhổ ra ngay. Thì ra đó là xà bông bột (mà tôi cứ đinh ninh là bột gạo hay bột sữa). Kể lại cho anh em trong trại nghe ai cũng ôm bụng cười. 2 con tôi thật ngây thơ đem xà bông bột cho tù giặt quần áo! Sau này tù về tôi mới biết hai con tôi cũng vô cùng khốn khổ trong chuyến về này. Vì xe đò hết chỗ chật cứng, chủ xe bảo 2 con tôi muốn đi thì lên mui xe mà “nằm”. Bát đắc dĩ chúng phải làm theo. Mấy lần suýt chết khi xe chạy qua nhng cái “cầu” thấp nhỏ bắc ngang đường, chỉ sơ sẩy một chút là bị vướng gạt ngã xuống đường chỉ có chết, nếu không thì cũng vỡ đầu gẫy chân tay.

Đầu năm 1985 tôi bất thần được gọi tên tha về cùng một số anh em quân nhân. Ngoài tôi không có thêm tên anh bạn văn nghệ sĩ nào. Các anh mừng cho tôi thì ít, lo lắng chán nản thất vọng cho mình thì nhiều. Viên quản giáo trở nên tử tế với tôi, gã chạy vào phòng nói: “Mừng cho anh nhé. Có thuốc men gì cho tớ xin”. Tôi cho gã mấy viên thuốc cảm, gã đòi lấy hết nhưng tôi không cho để cho anh em tù nghèo không thăm nuôi.


Trại tù phát cho chúng tôi 50 đồng tiền đi xe, trong khi giá xe về Saigon 150 đồng. Đi bộ từ trại tù ra tới quốc lộ 25 gần 5 cây số. Chúng tôi phải nài nỉ mãi bà chủ xe đò mới “thông cảm” lấy 50 đồng. Xe đy nhóc người ì ạch chạy như rùa bò trên con đường vòng vèo dốc núi cheo leo đầy bất trắc, nguy hiểm. Tôi và 3 anh tù đi cùng chuyến xe không một đồng bạc dính túi, phải nhịn đói nhịn khát 2 ngày đêm liền cho tới khi về tới nhà ở Saigon. Một anh có “sáng kiến” đem bộ quần áo tù mới tinh được trại tù phát khi tha, gạ bán cho mấy người trên xe để lấy tiền ăn, nhưng đều bị từ chối vì ai cũng sợ xui khi mặc đồ tù.


Rời nhà tù nhỏ ra nhà tù lớn sống mấy năm thì “phong trào HO” nở rộ và tên tuổi bà Khúc Minh Thơ được anh em tù về hết lời ca ngợi công đức. Bà là ân nhân của tù cải tạo. Tôi vì nghèo, tiền ăn không có lấy đâu ra vàng đút lót hối lộ để được đi HO. Nhưng nghe theo lời các bạn đồng nghiệp cũ may mắn thoát sang Mỹ trước, viết thư về khuyên tôi cứ đến đường Nguyễn Du nộp đơn kèm theo những giấy tờ can thiệp (từ trước tới nay) của các tổ chức như Hội Văn Bút Quốc Tế,Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Liên Đoàn Ký Giả Quốc Tế, Hội Nhân Quyền..v..v... Nhưng tất cả đều vô vọng. Lần nào cũng vậy, 2 lần, tôi “ôm” hồ sơ xin xuất cảnh tới Sở Ngoại Vụ đường Nguyễn Du đều được các viên chức hữu quyền (công an CS) trả lời dứt khoát: “Nhà Nước không có chính sách cho anh xuất cảnh. Bọn lính cũ không có súng ống đâu còn đánh được chúng tôi nhưng với bọn anh chỉ 1 cây viết vẫn có thể chống phá chúng tôi như các anh đã làm trước đây. Anh nên biết bên đó bọn báo chí phản động nhiều như nấm”. Thế là con đường sống bị triệt. Hết hy vọng, hết chờ mong. Tôi đành sống kiếp mạt rệp – một thứ công dân hạng bét – ngay trên quê hương đất nước mình. Nhưng tới cuối năm 1998 tôi được anh bạn nhà văn Hoàng Hải Thủy từ Mỹ gửi thư về báo cho biết tôi và Nhà văn Uyên Thao được bà Khúc Minh Thơ, chủ tịch Hội Bảo Vệ Gia Đình Tù Nhân Chính Trị Việt Nam đã tận tình can thiệp với Bộ Ngoại Giao Mỹ để chúng tôi được sang Mỹ định cư. Chính Hoàng Hải Thủy sốt sắng giới thiệu 2 chúng tôi với bà Khúc Minh Thơ và cộng tác mật thiết với bà trong công việc vận động. Con đường hy vọng, con đường sống, lại mở rộng trước mắt tôi.

Buổi tối ngày 18 tháng 5 năm 1999 tôi lên máy bay giã biệt quê hương tăm tối sang Mỹ định cư. Tôi lại được sống lại dưới bầu trời tự do dân chủ như tại Miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Tuy nhiên nhiều đêm vẫn giật mình thức giấc vì những ám ảnh não nề thê thảm khốn cùng của những năm tháng tù đày./.

 

Thanh Thương Hoàng

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22937
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 27/Apr/2024 lúc 11:14am

Nước Mắt, Nước Biển Và Thuyền Nhân Việt


Chúng tôi may mắn có ba Linh Mục , Cha Nguyễn Hùng đến từ Đài Loan, cha Phạm Hồng từ Úc và Phạm Tâm (cũng còn là Bác Sĩ Y Khoa) đến từ Houston, Hòa Thượng Thích Huyền Việt đến từ Houston, Thầy Tây Tạng Geshe Gawa đến từ Úc.

Trong nhóm còn một Bác Sĩ trẻ nữa là Kenneth Nguyễn đến từ California.


Trại Tỵ Nạn Songkla 

Chuyến hành hương đầu tiên của chúng tôi, bắt đầu trở lại thăm nền trại tỵ nạn Songkla. Từ thành phố ra tới địa điểm đó khoảng một tiếng lái xe.

Xe đi ra ngoại ô qua những vùng trồng mía, xoài và rất nhiều cánh rừng trồng cây cọ (Palm) dùng cho việc thủ công nghệ. Nhà cửa giống hệt những vùng quê Việt Nam thời chưa đổi mới. Cũng nhà tôn, nhà lá, thỉnh thoảng chen vào một ngôi nhà ngói, bên cạnh bụi chuối, cây hoa sứ. Cũng những con chó trước cửa sủa bâng quơ, những con gà trống nghiêng đầu ngơ ngác, thằng bé ở trần vừa chạy vừa ngã. Chiếc xe như mang chúng tôi trở về quê xưa ngày cũ.

Chiếc xe ca chở hơn 50 người đậu lại, biển xanh trước mặt, nắng gắt trên đầu. Mắt mở to, mọi người xôn xao chỉ tay về phía bên phải.

  • Cứ đi vào đây, hướng này đúng rồi. Sẽ thấy cái giếng.
  • Cái giếng mấy năm trước tôi trở lại còn thấy, bây giờ đã bị biển xâm thực rồi. Biển đã mang thêm cát vào, đã chôn mất miệng giếng, nhưng còn cây đa. Chính nơi này là trại tạm cư cho thuyền nhân chờ được định cư ở đệ tam quốc gia. (mặc dù cây đó trông giống một cây thùy dương hơn là cây đa. Có thể họ muốn gọi như thế để có một chút hơi hướm quê nhà) .

Vùng bờ biển, nền lều trại dựng ngày trước đã được dọn sạch không còn vết tích, một con đường trải nhựa, chạy song song với biển đã như có sẵn tự bao giờ. Chúng tôi tới gốc cây đa đó, vẫn thấy dấu thờ cúng chưa cũ lắm, có bát cơm đổ nghiêng ngả, hạt cơm vừa khô, có nhang đèn vứt lăn lóc, những bức tượng đổ vỡ, những đồ thờ cúng kiểu Thái cái gẫy, cái bể.

Tác giả và Miếu Thờ ở Songkhla


Ba linh mục và nhà sư kêu gọi mọi người tụ họp lại cùng thay nhau đọc kinh, tụng niệm.

Nhang được thắp lên, nước mắt thi nhau ràn rụa. Tên Chúa, tên Phật được thốt trên môi mọi người, để cầu cho người chết, kẻ lưu vong. Sau phần tụng niệm, cha Hồng bắt đầu giọng cho mọi người hát theo.

Giữa buổi trưa nắng chang chang, không một ngọn gió, tiếng hát của hơn năm mươi người hát vang vang như muốn át tiếng sóng biển đang đập vào bờ:

Tự Do ơi Tự Do, tôi trả bằng nước mắt

Tự Do hỡi Tự Do, anh trao bằng máu xương

Tự Do ơi Tự Do, em trả bằng thân xác

Vì hai chữ Tự Do, ta mang đời lưu vong

(Nam Lộc)

Mọi người xúm lại chụp hình. Các anh, chị làm phát thanh, truyền hình bắt đầu công việc của mình. Có người đi tách ra riêng một chỗ thì thầm với biển, với dĩ vãng, với kỷ niệm.

Bao nhiêu người đã được định cư ở nơi êm ấm? Bao nhiêu xác đã trôi giạt vào bãi bờ này?

Nước mắt, nước biển, trôi đi hai hàng oan nghiệt

Tóc bạc, tóc xanh, chìm sâu một khối tủi hờn.

Tôi cúi xuống vốc lên một nắm cát, nhặt một chiếc vỏ ốc đã vỡ, quay lưng lại với biển, chân thấp chân cao, vừa đi vừa lau nước mắt.

Nơi đây cũng đã dánh dấu bao cuộc tình tỵ nạn. Gặp nhau như rong rêu giạt vào bờ, bám lấy nhau rồi lại phải buông nhau ra vì mỗi người phải đi định cư ở hai nơi khác nhau, hay người đi người vẫn ở lại ngóng trông. Tương lai là một trang giấy trắng chờ tay ai vẽ xuống.

Chúng tôi rời bãi này để tới một bờ khác.

 

Tha Sala và 11 Cô Gái Việt

Trưởng nhóm, anh Hùng Lê cất tiếng:

  • Bây giờ Hùng đưa các cô chú đến thăm đền thờ Mười Một Cô.

Đó là chuyện 11 cô gái Việt, không một mảnh áo quần, bị trói cổ vào nhau, thả nổi trên biển. Xác các cô trôi tới bãi Tha Sala này, được người địa phương thương tình vớt vào chôn cất. Ai nghe cũng phải xót thương, rùng mình, uất hận.

Những nàng thiếu nữ như hoa đỏ

Một sớm theo nhau bước xuống thuyền

Hoa bỗng rơi ra từng cánh mỏng

Thả vào lòng biển máu oan khiên 

Tha Sala không chỉ vớt Mười Một Cô, Tha Sala còn vớt thêm bao nhiêu cái xác trôi đơn lẻ, trôi hai ba, trôi năm bẩy, giạt vào bờ.

Người đàn bà Thái khoảng 60 tuổi, gia đình hiện sống trên bãi đã lập một miếu thờ cho những vong linh này. Mỗi ngày bà mang ra miếu một bát cơm trắng, một chén nước lạnh và mấy cây nhang.

Đây là câu chuyện của bà: Khi gia đình bà tới ở trên bãi này thì vẫn còn rất hoang vu. Họ đào đất dựng nhà, chạm phải nguyên một chiếc thuyền chôn sâu trong cát. Họ tin là thuyền của người vượt biển bị đắm, sóng đánh vào và cát phủ lên. Bà cũng theo người lớn tuổi hơn ra biển mỗi lần có xác giạt vào. Khi đó tuổi của bà, khoảng tuổi các cô con gái Việt này. Gia đình bà dựng một ngôi đền nhỏ thờ vong linh của thuyền nhân và 11 cô gái. Chiếc thuyền cứ thế để nguyên trước cửa đền. Theo năm tháng, biển xâm thực và bão tố, ngôi đền chỉ còn lại cái nền vỡ và cái thuyền chỉ còn lại một mảnh ván dài, nhưng bà vẫn cơm trắng, nước lạnh và thắp nhang mỗi ngày.

Người Việt bị người Thái giết, thì cũng chính người Thái thờ cúng những oan hồn người Việt. Có phải đó là sự đền bù của đất trời không?

Sau Tha Sala, chúng tôi được đưa tới một địa điểm gần bờ biển phía lên đảo Koh Kra.

Nơi dừng chân là chùa Wat Samphreak, trong chùa còn có một ngôi trường Tiểu Học. Tối hôm đó chúng tôi được ngủ lại trong chùa. Chúng tôi trải chiếu của nhà chùa, nằm bình an trong chánh điện, dưới chân những tượng Phật. Tôi trăn trở vì nóng, vì muỗi hay vì câu chuyện thương tâm của mười một cô gái bất hạnh. Nghe nói tuổi của các cô khoảng từ 19 tới 23. Ôi cái tuổi tinh khôi, mơ mộng và tràn đầy ước vọng!

Biển gọi em hay em gọi biển

Sóng đang reo sao bỗng khóc gọi hồn.

Nước mắt tôi ứa ra, trái tim tôi thổn thức. Tôi thương các em, thương cha mẹ các em, thương cho dân tộc tôi quá đỗi! Chúa ở đâu? Phật ở đâu?


Lên thuyền ra đảo Koh Kra

Bốn giờ sáng ngày mồng 1 tháng 4, từ bãi của làng chài lưới Hua Sai, thuộc Nakhar Si Thammarat, cách đảo Koh Kra 80 cây số, chúng tôi lên thuyền ra biển đi tới đó.



Tại bãi biển.
Trên bãi biển tiếng gọi nhau khe khẽ, tiếng chân trên cát, ánh đèn pin lóe lên, dắt tay nhau, chúng tôi leo lên những chiếc thuyền tam bản của dân đánh cá Thái Lan, thuyền không mui, chạy bằng máy đuôi tôm.
  • Sao đi sớm thế?
  • Giờ này biển êm, không có sóng
  • Chạy bao lâu thì tới?
  • Khoảng hơn 3 tiếng

Ngồi sát vào nhau, tám người một thuyền. Bắt đầu tách bờ tiến về đảo Koh Kra.

Có tiếng nói khẽ cất lên:

  • Hồi đi vượt biên, chúng em đi bằng thuyền nhỏ như thế này, gọi là taxi, đưa ra ngoài có thuyền lớn hơn đón.
  • Nhưng hồi đó phải ngậm miệng, không được nói, và rất sợ bị bắt lại, cộng thêm nỗi sợ bão biển, sợ hải tặc và chúng em chẳng ai có áo phao mặc như thế này.

Tôi ngồi co rúm người lại, thuyền đang chạy, nước biển bắn tung tóe lên mặt, những hạt muối mặn trên môi. Trời vẫn tối chưa nhìn tỏ mặt nhau. Biển mênh mông, biển tối om, tôi bắt đầu hiểu mang máng thế nào là nỗi sợ của người vượt biển. Nếu thuyền lật bây giờ, cũng khó lòng mà tìm cứu được nhau trong bóng tối. Đây thực ra mới là vịnh chưa ra tới biển.

Trời dần sáng. Lên tới bãi san hô của đảo Koh Kra thì sáng hẳn. Bờ biển này không có cát, chỉ toàn những mảnh san hô, nên không thể đi chân trần được. Năm 1979 đã có tới hơn 2000 thuyền nhân bị hải tặc nhốt giam ở đây. Vợ chồng chị Vũ Thanh Thủy và anh Dương Phục cùng nhóm gần 200 người đã trốn hải tặc 21 ngày đêm ở đây. Những con thú mang hình người đã hành hạ thuyền nhân Việt ở mức độ dã man ngoài sự tưởng tượng của một đầu óc bình thường.

Hàng ngàn người đã bị hải tặc giam cầm trên đảo này, con số người chết ở đây không ai biết rõ là bao nhiêu? Bao nhiêu phụ nữ đã bị hãm hiếp, bao nhiêu người chồng, người yêu, cha mẹ, anh trai, bất lực và bất hạnh trước thảm nạn dưới tay hải tặc. Chỉ có Trời mới biết con số chính xác này.

Những cô gái nạn nhân này chịu nhiều khổ hạnh khác nhau. Có người bị bắt đi luôn không biết còn sống hay đã chết. Nếu sống, họ có còn muốn tìm về gặp lại những người thân yêu nữa hay không? Hay họ tự coi như cuộc đời cũ đã chấm hết, đã xóa tên họ. Họ đã chấp nhận sống hai đời trong một kiếp.

Có người khi được cứu đã mang thai nhưng họ can đảm không bỏ đi giọt máu oan khiên đó, nó là một phần xương thịt họ. Họ mang con đến một nơi khuất lấp, xa lánh cộng đồng Việt, không gặp những người thân và tự nuôi con. Họ là những người mẹ vượt lên trên tất cả mọi thử thách mà định mệnh đã đặt vào họ.

Có cô gái chọn nhảy xuống biển chết thay vì bị hải tặc hiếp, nhưng số phận không cho cô chết, cô sống kẹt trong một khe đá, cô đói, khát, lạnh và bị cá tôm rúc rỉa hai chân cô trong 21 ngày. Khi cứu được cô ra, người ta nhìn thấy hai ống xương chân không da thịt.

Tôi đau đớn tự hỏi: Nước mắt nào khóc rửa được những vết thương này.

Nghe bước chân mình trên đá nhọn

nghe trăm gai sắc nhói trong tim 

nghe sóng biển đập vào lồng ngực

nghe em gào khóc nỗi oan khiên.

Còn bao nhiêu câu chuyện nữa chưa được kể ra. Những người sống sót không ai muốn nhắc lại ký ức đau thương ấy. Họ im lặng, lãng quên đi hay thậm chí đã mất trí nhớ sau những tai nạn khốc liệt cho cả tâm hồn và thể xác ấy.

Tác giả Dương Phục và Vũ Thanh Thủy đã ghi lại trong hồi ký cả ngàn trang “Tình Yêu, Ngục Tù và Vượt Biển” của anh chị một phần nào những thảm cảnh trên đảo Koh Kra, những thảm cảnh mà Việt Nam và Thái Lan ngày nay đều cố tình phủ nhận và lẩn tránh. Tinh thần trách nhiệm và liêm sỉ của một quốc gia là chiếc hộp đen cả hai nước đều né tránh không muốn mở ra, nhìn lại.

Mỗi người bắt tay vào mỗi việc. Căng lều tập thể, căng lều cá nhân. Người lo dựng tượng Phật, tượng Đức Mẹ, Thánh Giá . Chúa thì phải lắp từng mảnh vào với nhau. (Những tượng này và vật liệu cần thiết đã được anh trưởng nhóm và một vài anh mang tới trước mấy hôm). Người lo mắc võng cá nhân, người lo treo những chiếc đèn lồng từ thân cây này sang thân cây kia. Sửa soạn sẵn cho một đêm hoa đăng trên đảo.

Chúng tôi xếp ra từ trong hộp những tấm mộ bia có khắc ghi tên tuổi thuyền nhân và những tấm khắc lời tưởng niệm (Được anh trưởng nhóm đặt mang từ Việt Nam sang), sửa soạn gắn những bia này chung quanh một bức tường tượng trưng cho khu nghĩa trang.

Buổi trưa nắng qua nhanh. Mỗi người được ăn trưa một tô mì gói, trước khi gạch, xi măng được chuyền tay nhau vác lên đồi tôn giáo. Một số người xuống tắm biển, có người leo lên thuyền trở về đất liền mua thêm vật dụng.

Công việc dựng tượng mới làm được một phần.

Buổi chiều, mọi người còn đang tất bật thì có hai chiếc thuyền tuần duyên từ đâu rẽ sóng tới, bốn năm người lính Thái có vũ trang nhảy vào bờ. Cô bé Nhung thông ngôn thiện nguyện (sống ở Thái) được gọi ra để trả lời những câu hỏi. Lính Thái bắt chúng tôi chia ra làm hai hàng, bên nam, bên nữ. Chúng tôi vội cho người đi mời mấy vị sư Thái (hiện tu hành trên đảo) xuống, cắt nghĩa rõ ràng là chúng tôi đến dựng tượng và thăm mộ thân nhân. Đất Thái là đất Phật, đi đến mỗi góc đường đều có am, miếu, thờ cúng, nên người dân Thái rất nể trọng các vị sư. Họ bắt chúng tôi cầm thông hành của mỗi người lên ngang mặt để họ chụp hình trước khi họ xuống thuyền. Sau khi nói chuyện với các nhà sư xong họ mới chịu xuống thuyền, rời bãi.

Khi họ đi rồi, một nỗi hoang mang dậy lên trong lòng những cựu thuyền nhân: Họ nói, không ai có thể biết được hải tặc có thông đồng với lính tuần duyên hay không? Nhưng chúng ta nhờ có các sư và hiện mang thông hành ngoại quốc nên tương đối an toàn.

style="background: white; text-align: justify;">Buổi chiều, cơn mưa to ập xuống, dù lều được dựng dưới những tán lá cây, nước mưa vẫn làm ướt đầm chúng tôi. Khổ nhất là công việc dựng tượng và gắn bia cho người đã chết không tiến hành được, cả những tấm ghi dòng tưởng niệm, cũng phải xếp vào thùng. Nhang đèn, gạch, xi măng, phải che chắn lại. Đêm “Hoa đăng tưởng niệm” như dự tính đã không thành.

Buổi tối vẫn còn mưa. Trong tình cảnh, dưới lưng là những mảnh san hô lớn, nhỏ, mấp mô, rồi nước chảy vào thành từng vũng, quần áo, dày dép ướt sũng. Nhưng các anh em cũng kéo nhau ra lều tập thể hát dưới những giọt mưa.

Tiếng hát hòa đồng với tiếng mưa. Trong ánh lửa nến nhỏ nhoi xoi không tỏ mặt người, họ hát cho nhau nghe, cho hồn ma bóng quế cùng nghe.

Có hay không! Những hồn ma bóng quế đang rủ nhau cùng về ngồi trong lều với những người đồng hương của mình?

Đêm vẫn rào rào đổ mưa xuống, nhóm 8 người chúng tôi, nằm giữa một tấm bạt to, gấp đôi lại, nửa trải dưới đất, nửa căng trên đầu, buộc hai góc bạt vào hai thân cây. Frank nằm sát ngoài cùng phía bên phải lều, rồi Tú, Trâm, Nguyệt, Trùng Dương, Thủy, Phục và ngoài cùng là Cha Tâm bìa bên trái. Tội nghiệp Cha Tâm và Frank là hai người nằm ngoài bìa lều, ướt như chuột từ đầu tóc, quần áo, đến giày dép.

Chắc chắn những nhóm khác, trong những chiếc lều nhỏ kiểu cắm trại, cũng ướt không kém gì chúng tôi. Nhưng may, sáng ra trời tạnh, phải dậy thu dọn và ra lều tập thể ngay để làm lễ liên tôn cho các vong linh trên đảo.

Lễ Cầu Siêu Trên Đảo Koh Kra


Các vị chủ tế cùng mọi người cùng quay lưng ra biển, mặt hướng về phía trong đảo, nơi có những nấm mồ của hơn 100 thuyền nhân được biết và thêm bao nhiêu mồ không được biết đích xác, được chôn vùi từ những ngày tháng đó của mấy ngàn thuyền nhân bị hải tặc lùa vào đây.

Chương trình hành lễ được Cha Tâm đề nghị, bắt đầu làm lễ với các Sư Thái đang ở đảo được mời tới cử hành đầu tiên bằng tiếng Phạn, sau đó đến Hòa Thượng Thích Huyền Việt và phần cuối là Cha Hùng, Cha Tâm Cha Hương chia nhau dâng lời nguyện.

Vừa xong hai phần về Phật Giáo, tiếng các Cha bên Công Giáo chưa cất lên thì có tiếng hốt hoảng gọi vào lều.

  • Xin chấm dứt và sửa soạn ra về ngay, vì có tin báo bão sẽ tới lúc 3 giờ.

Mọi người hấp tấp đứng dậy chạy ra khỏi lều để thu dọn hành lý, riêng các Cha, Hòa Thượng và những người Công Giáo vẫn ở lại.

Cha Hùng vừa cất tiếng lên đã nghẹn ngào:

Giữa biển khơi lồng lộng gió bốn phương

Chúng tôi những người sống sót trong cuộc chiến tranh huynh đệ đau thương, cùng nhau về đây chiêu hồn lưu xứ. 

Xin những đấng tối cao mở lòng đón nhận, vớt lên giữa bọt sóng lênh đênh những oan hồn, uổng tử.

Xin hãy mang hồn vào giấc ngủ ấm yên

Vòng tay Đức Mẹ, vòng tay Phật Bà xin hãy là những tấm khăn mềm thấm khô ngàn máu lệ.

Chúng tôi cúi đầu gửi lời kinh tiếng kệ

Tiếng chuông tiếng mõ gọi hồn về.

Giọng Cha trầm trầm, bi thương, nghẹn ngào, Cha đọc hết bốn trang bài “Văn Tế Muộn Màng.”

Rồi các Cha thay nhau đọc tên từng người trên những mộ bia mới làm. Sóng cứ nhô cao, bão cứ tới, mọi người vẫn bình tâm với những dòng kinh nguyện.

Chính lúc thứ tha là khi được tha thứ

Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời

(Kinh Hòa Bình-Thánh Francis)

Chiếc lều cuối cùng được kéo xuống, gấp lại, gấp cả những giọt nước mưa còn đọng đêm qua. Tôi lấy tay quẹt trên giọt nước, nếm thấy mặn như những giọt lệ.

Những chiếc thuyền tam bản, không mui, rẽ sóng trở lại đất liền. Trời không nắng, âm u, nước biển bắn tung từng đợt lên mặt mũi, quần áo. Trưởng nhóm Hùng khóc rưng rức nhìn hòn đảo Koh Kra chìm dần vào những đám mây đen đang từ từ kéo tới. Anh khóc vì nhiệm vụ chưa hoàn tất. Chúng tôi phải mỗi người nói một câu an ủi anh, nhưng thật sự trong lòng chúng tôi cũng đang thổn thức. Mây đen kéo mỗi lúc một dầy sau lưng chúng tôi, hòn đảo như chìm từ từ xuống biển, tiếng kêu của những vong linh không vọng được lên trên tiếng sóng. Hòn đảo như biến mất, giữa kẻ chết và người sống một đường vạch dài và đen chia đôi.


Bidong và Những Ngôi Mộ Tập Thể Ở Mã Lai

Xe ca đi từ Thái Lan sang Mã Lai, mất 8 tiếng, qua những chặng đường biên giới, phải làm thủ tục nhập cảnh. Chúng tôi tới Mã Lai thì đã trời chiều.

Phụ nữ ở đây đa số mặc quốc phục nhiều màu sắc, khăn chùm đầu của họ rất đẹp, đủ màu, đủ kiểu quấn khác nhau chung quanh khuôn mặt. Bạn tha hồ ngắm mắt môi và nguyên khuôn mặt thân thiện, hay cười của họ. Hiếm hoi lắm mới thấy một vài bà đứng tuổi quấn mình kín mít trong tấm vải đen chỉ để lộ hai con mắt đủ nhìn bước chân mình. Đàn ông cũng thân thiện không kém, ông tài xế taxi hay nói về đời sống gia đình cho bạn nghe, về việc họ vẫn cầu nguyện năm lần một ngày, mỗi lần bảy phút.

Mã Lai là nước đã nhận gần 300 ngàn người tỵ nạn Việt Nam trong hai thập niên 1975-1995. Những thuyền nhân đi trong nhóm kể lại: nạn hải tặc Mã ít hơn hải tặc Thái rất nhiều. Lính Mã ban đêm có vào trại kiếm những cô vừa mắt mang về làm vợ, không ai can thiệp được. Nhưng lính Mã không hiếp phụ nữ và giết người ngay trước mặt mình.

Mã Lai cũng là nơi có nhiều xác thuyền nhân tạt vào bờ nhất nên cũng là nơi duy nhất có nhiều mộ tập thể. Những người bạn thuyền nhân trong nhóm nói có khi thuyền gần vào tới bờ vẫn bị lật như thường, người đến trước trên bờ có thể nhìn thấy người chết chìm trước mặt mà không làm gì cứu được. Về sau được người địa phương cho biết là khúc biển gần vào đến bãi, dọc biển đó có nhiều vũng xoáy, có khi thuyền vào trúng chỗ xoáy mà không biết, gặp biển êm thì thoát, khi biển lúc đó động thì chỗ xoáy hút thuyền vào, thuyền lật, không cách nào cứu được. Đó là trường hợp của rất nhiều chiếc thuyền đã nhìn thấy bờ mà không vào được bến.

Viếng Ngôi Mộ Tập Thể Đầu Tiên Ở Kelanta.


Mã cũng là quốc gia duy nhất có nhiều mộ tập thể của thuyền nhân, có đầy đủ lý lịch, vì họ chết gần bờ.

Ngôi mộ tập thể số 1 chúng tôi tới ở Balai Bachock thuộc tỉnh Terengganu, mộ đó có 46 người, trong đó có 3 em nhỏ.

Lần đầu tiên trong đời người, đứng trước một ngôi mộ tập thể. Ngôi mộ chơ vơ trên đồng đất nước người với những cái tên Việt Nam, tôi không cầm nổi lòng mình, nghe nôn nao, quặn đau trong ruột, nước mắt ràn rụa. Từ bao lâu nay chỉ nghe tiếng “Thuyền Nhân” chỉ nhìn “HìnhThuyền Nhân”, cái thương cảm đó có đấy, nhưng chỉ thoáng ngậm ngùi như vết xước ngoài da. Phải tới đó, trên một đất nước xa lạ nhìn thấy nấm mộ đó mới hiểu được tình người trong một nước nó sâu đậm đến đâu, mới hiểu rõ hai chữ “Đồng Bào” cùng một cội nguồn dân tộc với nhau. Mình bỗng chốc thấy thương dân, thương nước mình quá đỗi! Vì đâu, vì ai , vì nghiệp lực nào mà chết thảm, chết khổ, đến thế này! Cá nhân mình có lãnh một phần trách nhiệm nào trong đó không?

Nhang, nến, thắp lên, lời kinh hòa đồng, Phật, Chúa có nhìn xuống chúng sinh không?

Tôi nghĩ tới lời Sư Huyền Việt nói với tôi: Nghiệp lực làm khổ nhau. Cái khổ phải xảy ra một lần trong cuộc đời và cái khổ vẫn tiếp tục xảy ra.

Ngôi mộ thứ hai tại Cherang Ruku, cách nơi này không xa còn to hơn nữa, còn nhiều người hơn nữa, nó cho ta cái cảm tưởng đây là một cái nghĩa trang nhỏ chứ không phải là một nấm mồ. Mộ chôn 123 người, sau nhận thêm 5 người nữa chôn ở nơi khác được đưa về. Tổng cộng là 128 người. Những ngôi mộ tập thể đã được chôn chung như thế nào? Đây là lời kể của bà vợ ông Alcoh Wong Yahao (Sẽ nói đến vị ân nhân này sau)

“Chúng tôi xếp xác từng lớp, không phân biệt nam nữ, tuổi tác. Cứ một lớp xác người xếp lên một lớp khăn liệm, rồi lại tiếp một lớp xác người khác, trên cùng chúng tôi đặt một lớp ván ép, rồi xúc đất đổ lên. Thế là thành một ngôi mộ lớn.

Ngôi mộ thứ hai này và ngôi mộ thứ nhất với 46 người, cộng thêm 5 người mang tới sau, họ cùng đi với nhau trên chiếc tàu khởi hành từ Mỹ Tho, tên tàu là MT- 065, khỏi hành ngày 1 tháng 12, tới gần biển Mã Lai ngày 4 tháng 12 thì bị lật chìm. Tổng số người đi trên thuyền là 300 người.

Mộ Tổng Cộng 128 Người


Chúng tôi cúi đầu khấn nguyện Chúa, Phật, cầu xin các vong linh về chứng giám cho lòng thành của chúng tôi. Chúng tôi, những phụ nữ dựa vào vai nhau mà đẫm lệ.

Sau đó cha Tâm đề nghị mỗi người cầm nhang đi chung quanh ngôi mộ cắm xuống. Mỗi nén nhang có mang theo những giọt nước mắt.

Hỡi hồn bập bềnh trên biển

Về đây nghe lời kinh an

Trăm ngàn mảnh hồn ướt sũng

Muối nào trong lệ không tan.

Mắt Nào Không Lệ Chảy


Đừng khóc vội, tôi xin kể một câu chuyện liên quan đến nấm mộ to như một nghĩa trang nhỏ này.

Trong mấy ngày hôm sau khi chúng tôi đi thăm những nghĩa trang có chôn rải rác thuyền nhân, tôi thấy xuất hiện trong đoàn một thanh niên rất trẻ, tôi hỏi chuyện làm quen, khi em giúp nắm tay tôi dắt bước qua những mô đất. Em tên là Alex Trần, 28 tuổi, em đi thăm mộ ông bà ngoại và các chú, bác, của mẹ em. Vì thời khóa biểu không trùng hợp với nhóm nên em đến chậm một đôi ngày, em phải đi thăm ông bà ngoại một mình.

  • Tại sao mẹ không đi với con?
  • Mẹ sợ , mẹ không dám nhìn lại.

Em nói tiếng Việt rất giỏi, rất lễ phép, chứng tỏ em được lớn lên trong một gia đình tốt. Em kể:

Gia đình của mẹ con, tất cả 18 người đi trên chiếc tàu MT-065 này. Lúc đó mẹ con là một cô bé 12 tuổi, dì của con lên 10. Khi tàu lật, họ kẹt trong khoang, dì con 10 tuổi dùng đầu đập vào cửa kính thuyền, hai chị em chui được ra bên ngoài. Cả hai chị em cùng không biết bơi, ngất xỉu. Sóng đánh họ giạt vào bờ, được cứu sống. Cả gia đình chết 13 người, còn lại 5 người trong đó có mẹ con, dì con và ba người họ hàng.

Em thơ dại sao mà em may mắn

Cả một thuyền chết hết chỉ còn em

Sau đó hai chị em được một gia đình Mỹ bảo trợ, nuôi ăn học, cho tới lúc lập gia đình. May mắn gia đình đó ở Orange County, California ngay trung tâm của người Việt nên hai cô bé đó đã vẫn giữ và nói tiếng Việt. (Khi làm mẹ, cô cũng cho con đi học tiếng Việt).

Hai chị em cô bé này quả thật trong bất hạnh có lồng may mắn. Hai cô được cha mẹ Mỹ cho đi học tiếng Việt và lớn lên với cộng đồng Việt.

Nhìn cậu thanh niên khôi ngô, đĩnh ngộ, lớn lên ở Mỹ, nói tiếng Việt rõ ràng, lễ phép trong một gia đình có hoàn cảnh như thế, tôi thấy mình không khóc được nữa. Tôi đứng sững nhìn cậu, nghe cậu kể lại câu chuyện nhiều lần (vì nhiều người hỏi). Tôi hình dung ra mẹ và dì của cậu như những viên ngọc lăn rơi xuống từ những mỏn đá cao và sắc mà không hề xây xát. Không có viên ngọc nào có thể đẹp hơn nữa.

Tôi nghĩ đến đôi ngày vừa qua, khi cậu một mình đứng trước ngôi mộ tập thể, cậu chạm tay mình lên trên tên ông bà ngoại, tôi biết chắc cậu đã khóc bằng đôi mắt của mẹ mình.

Một Mộ Bia Tập Thể Của Người Việt Trên Đất Mã Lai

Người Chủ của Những Ngôi Mộ Thuyền Nhân
Một khu nghĩa trang của người Hoa cũng ở Terengganu với những ngôi mộ xây theo hình vòng cung như cái bào thai của người mẹ (Người Hoa nói đó là tượng trưng cho ta trở về nơi ta đã từ đó ra đi) Trong nghĩa trang này có 4 khu A, B,C,D. Khu A có hơn 400 thuyền nhân được chôn ở đây. Khu B,C,D có hơn 200. Mộ chôn rải rác, khi thì một người, khi thì ba hay bốn người, tùy theo có bao nhiêu giạt vào bờ lúc đó. Có mộ thấy lên tới bảy người, mười người.

Hỏi anh Lưu Dân, một thuyền nhân ở Úc đã tổ chức tới đây nhiều lần, có gia đình nào về lại Mã Lai cải táng thân nhân đem đi không? Anh nói, có một người đã làm được. Nhưng người Mã ở thành phố này, không muốn cho người Việt đến cải táng mang đi. Họ nêu ra ba lý do:

Thứ nhất, đã chết ở Mã là người Mã.

Thứ hai, mộ ở đây lâu năm đã thành mộ bạn.

Thứ ba, nếu người Việt ai cũng cải táng thì đâu còn ai tới thành phố này (Terengganu là một thành phố cần du khách)

Cha Tâm mặc áo lễ, dâng bánh Thánh ngay trong nghĩa trang này. Tôi và Vũ Thanh Thủy, Ngọc Hân cùng cất tiếng hát: Chúa nhân từ xin lắng nghe linh hồn con tha thiết. Ăn năn kêu van, lạy Chúa xin dủ thương, ban xuống niềm tin ấp ủ cho tâm hồn.

Hình Cha Tâm Dâng Lễ


Nắng rát da, trời cao vời vợi, những hạt nước mắt rơi trong tiếng hát, rơi nhòe trên trang giấy hát.

Hòa Thượng Huyền Việt đã rời Thái lan sau khi ở Koh Kra về, nên anh Ngô Đức Hữu từ Úc đại diện Phật Giáo mỗi lần tới các phần mộ, anh phụ trách khấn nguyện. Tiếng Việt miền Nam của anh nhẹ nhàng, ấm áp, bài kinh anh rút ra từ đạo Ông Bà, nghe thật cảm động, xin trích một đoạn:

"Cầu Thượng đế từ bi hỉ xả. Cho linh hồn ổn thỏa nghe kinh. Cầu xin giảm bớt tội tình. Cho vong nhàn hạ nhẹ mình thảnh thơi. Cảnh ly biệt hỡi ôi thê thảm. Đức Thần Minh phất phưởng tràng phan. Cho hồn noi đó nhẹ nhàng. Trở về cứu vị an nhàn hưởng vui"…..

Sau lễ chúng tôi đi thắp nhang trên các ngôi mộ, không phân biệt Hoa, Việt, người địa phương hay thuyền nhân. Nghi thức hóa vàng mã tiếp theo rất phong phú, các anh chị trong nhóm mua ngay tại địa phương nên mua được rất nhiều (Theo thống kê năm 2010 Mã Lai có 19.8 % theo đạo Phật).

Chúng tôi hóa vàng xong thì xuất hiện một người đàn bà Hoa, được những người trong nhóm giới thiệu đó là bà Alice Wong, vợ của ông Alcoh Wong một vị ân nhân chôn cất gần như là hầu hết những xác thuyền nhân trôi vào bờ bãi Mã Lai.

Chân Dung Ông Wong 


Ông chính là người đã chôn cất những ngôi mộ Tập Thể, hơn thế nữa bao giờ có xác táp vào bờ là người ta đi gọi ông. Ông in ra cuốn sách The Vietnamese Boat People (VBP) along The East Coast Of Malaysia Peninsula để hướng dẫn những người đi tìm mộ thân nhân dọc theo bờ biển phía đông vùng biển Mã Lai. Vùng biển phía đông Mã Lai đối diện với mũi Cà Mau là nơi thuyền nhân tới đông nhất và cũng chết đắm nhiều nhất.

Chân Dung Ông Wong và Bia Công Đức.


Ông để hết thời gian của mình chỉ để lo cho những cái xác của thuyền nhân Việt Nam trôi giạt vào vùng bãi biển Mã Lai, gần nơi ông cư ngụ. Chiếc thuyền đầu tiên của người Việt tỵ nạn ông Wong được nhìn thấy vào ngày 23 tháng 11 năm 1978 đã vào gần tới bãi nhưng chưa được lên bờ. Ông nhìn thấy những khuôn mặt hốc hác, sợ hãi nhưng tràn đầy hy vọng. (Về sau ông được Hội Hồng Nguyệt Red Cresent cho biết, chiếc thuyền đó đã bị lật trong khi được hướng dẫn vào bờ ngay trong cùng ngày. Cả thuyền 137 người bị chết đuối).

Ông và những người bạn của ông ngoài việc chôn cất, còn đi tìm những phần mộ của thuyền nhân rải rác trên đất Mã đem về gần nhau.

Những nấm mộ thuyền nhân tập thể được nhìn như “Mồ vô chủ” thì trên một ý nghĩa nào đó, ông Wong chính là “Chủ” những nấm mồ này.

Cho tới khi ông mất, năm 2006 trước đó một tuần ông vào nghĩa trang thăm mộ thuyền nhân ông đã hát bài “I will follow you forever.”

Nói theo nhà Phật, kiếp trước ông có nợ người Việt Nam hay chính ông là một người Việt Nam trong tiền kiếp?

Tấm lòng của ông Wong đối với thuyền nhân từ năm đầu tiên 1978, khi ông nhìn thấy chiếc thuyền tị nạn 137 người kéo vào vùng vịnh Kuala Terengganu, tới năm ông qua đời 2006 là 28 năm dài.


Đảo Bidong và Những khu mộ

Chúng tôi cũng tới đảo Bidong bằng thuyền. Thuyền này chạy bằng máy cao tốc và từ đất liền ra tới đảo khoảng 20 phút. Đi giữa trưa nắng gắt.

Từ năm 1975- 1991 đã có 250,000 thuyền nhân sống sót tạt thuyền vào sinh sống ở đây. Nhiều người chờ bảo lãnh có thể ở trên đảo từ hai tới bốn năm, nhiều người bị trả lại. Có người bệnh chết, có người tự tử. Họ được mang lên đỉnh đảo chôn cất.

Mộ chia ra từng khu A, B, C… Khu cho trẻ em riêng. Khu F được coi là đông nhất tới hơn 200 ngôi mộ. Chúng tôi kéo nhau lên đó. Bước thấp, bước cao, chống gậy, cầm dao, vừa leo vừa phạt cây rẽ lối. Cuối cùng cũng lên tới tấm bia có ghi 151 người (có bia mộ) Thật ra số mộ ở đây trên con số 200.

Đồi Tôn Giáo nơi trước đây có nhà thờ Công Giáo, Tin Lành, Cao Đài và Chùa thì nay đã vừa bị phá, vừa xụp đổ theo thời gian, trông vô cùng hoang phế. Đau lòng hơn nữa những tượng Phật, tượng Đức Mẹ đều bị chém cụt đầu (vì một số người cuồng tín tin là mất đầu thì không còn linh thiêng nữa) Thánh giá Chúa thì chỉ còn dấu vết trên tường mà thôi.

Tôi và Thái hai chị em đi lang thang chung quanh đồi, Thái lo chụp hình, tôi lo… buồn. Tôi đứng trên cao nhìn mông lung bao quát bãi cát dưới chân đồi.

Nơi đây bao nhiêu người dân Việt của tôi giạt vào, giạt vào bằng thân xác còn thở được, còn hy vọng sẽ được chuyển tới một quốc gia nào đó để gây dựng lại cuộc đời cho con,cháu hay chính bản thân mình? Bao nhiêu người chỉ còn là những cái xác bập bềnh giạt vào bờ? Bao nhiêu cảnh chia ly của những mối tình vừa nhận được sau những đau thương mất mát? Bao cảnh đời uất hận bị gửi trả về nơi mình đã không sống được phải bỏ đi? Bao nhiêu người đã phải ở đây cả ba, bốn năm trong hy vọng, trong tuyệt vọng trước khi được rời nơi này?

Biển dưới kia đang ập vào từng đợc sóng, nước mắt của mấy mươi năm về trước còn giọt nào pha trong muối đại dương?

Biển phải làm gì để giữ mãi được những giọt lệ, những tiếng khóc, tiếng cười, hy vọng và tuyệt vọng của một dân tộc luôn luôn “Đi không yên ổn, ngồi không vững vàng” ngay trên chính đất nước mình.

Chúng tôi xuống đồi để sửa soạn quay về đất liền. Xuống đến chân đồi ngoái đầu nhìn lại, một cánh bướm đen thật lớn từ trên đồi bay xuống lượn vòng ngay sau lưng tôi. Một thoáng rùng mình, một thoáng rưng rưng, tôi dừng lại, nói thầm trong cuống họng mình. “Thôi nhé, tôi về, nhớ mãi hôm nay.” Giơ tay áo lên, quẹt ngang dòng nước mắt. Cánh bướm bay mất hút lên đồi.

Sau một đêm mắc võng, chùm chăn (cho khỏi muỗi) ngủ lăn lóc trên cầu tàu, chúng tôi trở về đất liền, tiếp tục cuộc hành trình tìm mộ thuyền nhân.


Rải Rác Mộ Thuyền Nhân Dọc Đường

Trên đường sang Kuala Lumpur, trong tỉnh Dungun có hai nghĩa trang. Hai nghĩa trang này có biển trước mặt nên khi xác thuyền nhân giạt vào được vớt lên chôn ngay tại đây. Khi họ vớt được 1 xác, khi được 2,3, khi được 5,7. Có khi cả trên 10 xác vào một lúc.

Nghĩa trang thứ nhất lối vào có đền thờ với hàng chữ Tao Yan Dian Temple, có 80 ngôi mộ thuyền nhân, trong đó 38 mộ có tên. Một ngôi mộ tập thể nằm dưới gốc một cây bàng lớn, chôn trên 100 người, được khắc chung một tấm bia. Bia được Văn Khố Thuyền Nhân xây ngày 23 tháng 3 năm 2007.

Những ngôi mộ trong khu thứ hai được đặt trong một nghĩa trang đặc biệt do nhà thờ Công Giáo St.Thomas trông coi. Những thân xác thuyền nhân được bao quanh bởi ba ngôi thánh đường của: Thiên Chúa Giáo, Phật Giáo và Hồi Giáo. Còn được gọi là Migrants Cemetery.

Những linh hồn này thật được chúc phúc an ủi biết bao!

Nhang được thắp lên, lời kinh được cất lên, nước mắt lại chảy xuống, Chúa, Phật trên cao được mời xuống dự tiệc bi ai của nhân loại.

Viết tới đây. Tôi tưởng tượng ra, tôi là người dân Mã Lai sống dọc theo miền đông biển Mã Lai, mỗi sáng trở dậy nghe tiếng gọi nhau ơi ới bên ngoài cánh cửa: Ra vớt xác thuyền nhân Việt đang giạt vào bờ. Không phải một xác, hai xác, mà vô số xác. Rồi cùng nhau tẩm liệm, chôn cất, có khi lập miếu thờ.

Tôi tưởng tượng ra trong những cái xác bất hạnh đó, một cái xác của chính mình.

Những cái xác của đồng bào mình (hay của chính mình) đã được những người không cùng chủng tộc xót thương, được ghi lại in thành sách (như sách của ông Wong) để sau chính những người Việt về tìm lại.

Chôn cất cả trăm, ngàn, nấm mộ không phải là chuyện giản dị. Việc xây cất làm sao chu đáo được. Theo thời gian, mưa nắng những ngôi mộ không tồn tại được.

May mắn thay Văn Khố Thuyền Nhân của người Việt (Do ông Trần Đông, từ Úc-Sáng lập 2004), đã tới Mã Lai, Thái Lan, Nam Dương trùng tu lại hầu hết những nấm mộ này. (Theo VKTN-Trong vùng Đông Nam Á có hơn 2000 nấm mộ vừa tập thể vừa cá nhân).

 

Tôi Đọc Tên Tôi 

Hội Hồng Nguyệt (Malaysian Red Cresent Societ - Hồng Thập Tự Mã Lai) đã lưu trữ hai trăm ngàn (200,000) hồ sơ của những người sống sót. Để hôm nay những thuyền nhân trong nhóm chúng tôi đến tìm lại. Mỗi khi tìm được tên của mình hay thân nhân mình, họ òa vỡ ra cùng một lúc tiếng cười và giọt lệ:

Tôi vừa đọc tên tôi trên tấm thẻ

Có phải tôi không trên lý lịch này

Ngày tháng đó tưởng vùi chôn đáy biển

Bỗng sóng đánh vào bờ sáng hôm nay

 

Khi chúng tôi tới viếng Hội, câu chào hỏi đầu tiên của ông Dato’ Sayed A. Rahman,Tổng Thư Ký hội Hồng Nguyệt là: “Chúng tôi không cần biết anh là người nước nào, chúng tôi chỉ biết giúp đỡ một con người.” Nghe mà ứa nước mắt.

Ông Misnan, nhân viên điều hành của Hội, nói được vài câu bằng tiếng Việt rất thân tình. Đặc biệt là ông hát cho chúng tôi nghe bằng tiếng Việt, bài hát “Bài Tình Ca Cho Em” của Vũ Thành An thật hay. Hay một cách bất ngờ!

Thế gian đầy quỷ dữ, nhưng Trời cũng ban phát xuống những thiên thần cứu trợ.

Sau 42 năm nhìn lại, chúng ta có rất nhiều những trang Sử mới. Trên hết, mỗi một cái chết của thuyền nhân, của tù cải tạo, của người Quốc Gia chết cho Tự Do là một trang Sử mới được cộng vào.

Tất cả con dân Việt đều phải học Sử Việt.


Trần mộng Tú
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22937
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 29/Apr/2024 lúc 7:29am

Sóng Bạc Đầu


Hôm nay là sáng Thứ Hai cho nên Bãi Dứa của Vũng Tàu thật hoang vắng. Từng cụm mây đen lơ lửng treo trên đầu làm cho bầu trời thấp xuống và ánh sáng trở nên kỳ dị. Từng ngọn gió lành lạnh từ ngòai khơi thổi vào trên mặt biển đen ngòm, hung dữ. Tít tắp từ xa những con sóng bạc đầu nổi bật trên nền trời xám trông tựa như những con cá mập nhe răng khi nó nhô lên khỏi mặt nước. Từng đợt sóng nhấp nhô chạy vào bờ rồi đập mạnh vào những tảng đá nghe ầm ầm.

Vào những ngày thời tiết xấu như thế này có lẽ chỉ những người điên hay “mát giây” mới mò ra Bãi Dứa để tắm biển. Thế nhưng từ hướng Bãi Trước một cái bóng bỗng xuất hiện từ xa. Đó là thằng Đực Lớn. Hôm nay, hay nói đúng ra từ lâu lắm rồi thằng Đực Lớn lúc nào cũng mặc chiếc quần lính, chiếc áo sơ-mi cụt tay màu cháo lòng. Chiếc áo sơ-mi lại bị đứt một hai cái nút cho nên thỉnh thỏang người ta thấy nó lòi cả rốn ra. Có lẽ vì nó thường xuyên đi chân đất cho nên ngón chân thô kệch của nó bè ra như chân người Giao Chỉ. Theo đúng trào lưu của thanh niên nó cũng để tóc dài nhưng vì bộ dạng nó rất ngờ nghệch và cái trán lại vồ ra cho nên bộ mặt nó trông rất tức cười. Đôi mắt nó lúc nào cũng mở to, ươn ướt như khóc. Qua cái dáng dấp bự con, nếu nhìn từ xa người ta có cảm tưởng nó là một người lớn nhưng lại gần mới biết đó chỉ là một thằng thanh niên ô dề. Nó đi lang thang dọc bãi biển, vừa đi vừa chỉ trỏ cho nên người ta nghĩ rằng nó đang nói chuyện với chính nó. Khi tới mấy tảng đá lớn xếp vòng cánh cung nó nghiêng đầu dòm tới dòm lui rồi cắn móng tay suy nghĩ. Suy nghĩ xong nó cười vu vơ rồi từ từ ngồi xuống, dựa lưng vào một tảng đá lớn. Vừa ngồi xuống nó thu mình, bó gối mắt đăm đăm nhìn ra phía biển xa xa. Nhìn một hồi nó thở dài rồi lấy cát đắp lên đôi chân chè bè. Đắp chán rồi nó bốc cát ra rồi đắp lại. Cuối cùng không hiểu sao nó đạp tung cả đống cát rồi gục mặt vào đầu gối. Giây lát sau nó rầu rĩ nói:
-Chiều nay về thế nào má cũng chửi. Bả lại nói, “Thằng chết bầm sao mày còn vác mặt về đây làm gì? Sao mày không theo đám cô hồn các đẳng cho rồi? Cùng tuổi với mày tụi nó vượt biên rồi gửi tiền về cho cha mẹ nó. Còn mày ở lại đây sang năm tới tuổi thi hành nghĩa vụ thì thấy tía mày. Lại bỏ xác bên Camphuchia thôi. To đầu bằng ấy rồi mà chẳng làm được gì cả. Thật khổ cho cái thân già! Từ ngày cách mạng về tao cũng chẳng nuôi nổi thân tao nữa. Nhớ ngày thằng tía mày còn sống tao đâu đến nỗi nào?”
Nói đến đây dường như bị xúc động bởi cái chết của ba nó cho nên nó lấy tay vẽ chữ “Ba “lên trên cát rồi lẩm bẩm như thể muốn nói với má nó:
-Ba tụi nó là lính ngụy, lính cộng hòa cho nên tụi nó vượt biên. Còn ba mình là Nhân Dân Tự Vệ cao ủy đâu có nhận. Vượt biên qua đó ở mục đảo đó!
Song dường như má nó không chịu cái lý luận này cho nên tự miệng nó lại phát ra những lời chửi rủa của má nó:
-Thằng tía mày! Mày ở lại đây rồi cuối cùng cũng chết ở Campuchia thôi! Mày cứ vượt biên đi. Dù mày có chết trên biển tao cũng mát lòng mát dạ. Chín tháng mang nặng đẻ đau tao đâu có muốn mày chết ở Cam phuchia? Thằng tía mày!

Có lẽ cái lý luận của má nó quá sắc bén khiến nó không thể cãi lại cho nên nó rầu rĩ gục mặt xuống đầu gối. Giây lát sau như để xua đuổi hình ảnh của má nó. Nó đưa tay vuốt mặt rồi lắc đầu vài cái như con chó tắm xong nó rung cả thân hình để lông mau khô. Nó lặng lẽ đưa tay xóa chữ “Ba” mà hồi nẫy nó vẽ rồi dùng ngón tay vẽ chữ “Hường” lên đó. Vẽ xong chữ “Hường” tự nhiên nó bật cười khúc khích. Nó nhớ lại chiều qua nó qua nhà con Hường để chẻ dùm mớ củi. Khác với má nó lúc nào cũng chê nó là đồ vô dụng, con Hường luôn luôn khen ngợi nó. Con Hường nói, “Anh Đực Lớn dễ thương ghê vậy đó. Bữa nào gánh dùm em ít gánh nước nghe? ”Nghe con Hường khen thế nó mát cả lòng cả dạ. Tuy nhiên nó rất ghét mấy bà lối xóm cứ hay chê bai, chế nhạo con Hường là, “Con trâu nước, đi đến đâu làm đổ đình đổ chùa đến đó.” Hôm qua đi xem phim ở Thắng Tam thấy con Hường đi đôi dép đứt quai phải cột bằng sợi dây kẽm nó thương quá. Nó định bụng khi nào có tiền nó sẽ mua tặng con Hường một đôi guốc Dakao có bán ở Chợ Vũng Tàu. Tuy nhiên nghĩ đến tiền nó lại rầu rĩ. Nó lặng lẽ xóa chữ “Hường” trên cát. Nhưng không hiểu sao lát sau nó lại đưa tay vẽ lại cái tên đó một lần nữa.

Trong khi thằng Đực Lớn ngồi ủ rũ như thế thì từ mé con đường tráng nhựa chạy vòng ngay trên đầu xuất hiện một bóng người thứ hai. Đó là thằng Tư Cụt. Hôm nay thằng Tư Cụt mặc chiếc áo Montague màu huyết dụ thứ dệt ở Chợ Lớn đã bạc màu. Chiếc quần tây màu xám bằng Dacron làm cho nó trông có vẻ như một công nhân viên. Nhưng đôi dép Nhật cũ, đen đúa lại tố cáo nó là một thứ công nhân hạng bét. Thằng Tư Cụt có bộ mặt rất lanh lợi. Sở dĩ người ta gọi nó là Tự Cụt là vì nó tên Tư nhưng ngón tay bóp cò của nó bị cụt mất một lóng. Mới đầu người ta ngạc nhiên là ngón tay trỏ của nó bị cụt đúng vào lúc nhà nước bắt lính đi Camphuchia thế mà công an không hỏi thăm sức khỏe. Nhưng sau người ta mới vỡ lẽ ra nó có người chú nằm trong ban chỉ huy quân sự Vũng Tàu. Rồi cũng nhờ thế lực đó nó được tuyển vào hợp tác xã đan và sửa lưới. Nhưng thực ra nó chỉ làm lấy lệ. Chủ yếu sống bằng nghề mánh mung.
Nãy giờ dù đã nhìn thấy thằng Đực Lớn nhưng nó vẫn trầm ngâm với điếu thuốc trên tay. Giây lát sau nó quyết định quăng mẩu thuốc rồi tiến về phía mấy tảng đá là chỗ thằng Đực Lớn đang ngồi ủ rũ. Mặc dù nó đã đến gần sát bên cạnh nhưng thằng Đực Lớn vẫn chưa hề hay biết. Nó yên lặng đứng ngắm thằng Đực Lớn một hồi rồi mới lên tiếng:
-Thằng khùng! Mày đang làm gì đó?
Nghe tiếng người nói thằng Đực Lớn giật thót mình. Nó hốt hỏang nhìn lên rồi vội vã lấy tay che chữ “Hường” mà nó vẽ hồi nãy. Nó ấp úng nói:
-Tui có làm gì đâu!
-Mày không làm gì hả?
Thằng Tư Cụt vừa nói vừa bước tới rồi lấy chân gạt tay thằng Đực Lớn sang một bên khiến chữ “Hường” mà nó đang che dấu lộ ra trên cát. Nó nói với giọng chễ diễu.
-Thế mày làm cái gì đây?
Rồi không để thằng Đực Lớn kịp biện minh, thằng Tư Cụt nói luôn:
-Là bạn mày tao biết quá mà. Hôm đi xem phim ở Thắng Tam tao thấy mày tò tò theo đuôi nó và nhìn nó như đứa mất hồn. Mày mê nó phải không?
-Tui…tui đâu có mê nó. Tui chỉ…thích nó thôi.
Khẽ xì một cái thằng Tư Cụt nói:
-Từ thích đến mê mấy hồi. Nhưng nè…tao hỏi thiệt mày. Mày có biết làm thế nào để con gái mê mày không?
Nghe hỏi thế thằng Đực Lớn bật cười khúc khích rồi nó e thẹn đáp:
-Tui đâu có biết.
-Mày khờ quá! Muốn con gái mê thì mày phải cho nó quà, phải dẫn nó đi ăn rồi tán tỉnh nó. Đứa con gái nào cũng vậy.
-Mẹ ơi! Anh nói đúng quá! Tui sẽ cho con Hường đôi guốc Dakao!
Thằng Đực Lớn háo hức reo lên.
-Phải! Mày sẽ cho nó đôi guốc Dakao. Sẽ dẫn nó đi ăn. Rồi mày khen nó đẹp lia chia. Rồi nó sẽ thương mày. Rồi hai đứa sẽ lấy nhau. Nhưng tới khúc này thì mày lấy tiền đâu ra để cuới nó?

Nói xong thằng Tư Cụt nheo mắt, hóm hỉnh ngắm nghía cái khuôn mặt khờ khạo của thằng Đực Lớn lúc này đã méo mó đi vì câu hỏi quá hóc búa. Giây lát sau thằng Tư Cụt từ từ ngồi xuống bên cạnh nó rồi nói như dỗ dành:
-Đấy mày thấy không? Không tiền thì nguy hiểm lắm. Không tiền thì gái không theo. Mà gái không theo thì làm gì có vợ? Nói tóm lại không tiền thì chẳng có ma nào lấy mày. Mày hiểu không?

Nghe nói thế thằng Đực Lớn lại thở dài. Nó ủ rũ cúi mặt đăm đăm nhìn vào chữ “Hường” nằm trên cát. Giây lát sau nó ngửng đầu lên nhìn thằng Tư Cụt nói như thể van nài:
-Anh chỉ tui đi. Tui phải làm sao đây?
-Phải làm sao à? Phải tìm cách kiếm ra tiền. Mày muốn có nhiều tiền không?
-Tui muốn có tiền cho má tui để bả khỏi chửi và mua đôi guốc cho con Hường.
-Nếu mày biết khôn như vậy tao sẽ giúp mày.
Nói đến đây thằng Tư Cụt dòm trước dòm sau rồi hạ thấp giọng:
-Nhưng mày thấy đó bây giờ làm gì cho ra tiền? Tao đã nghĩ nát óc ra rồi. Chỉ có cách này là đảm bảo.
Nói xong nó kề miệng vào tai thằng Đực Lớn thì thào. Không hiểu thằng Tư Cụt nói gì mà chỉ thấy thằng Đực Lớn lắc đầu quầy quậy:
-Không được đâu anh! Cải tạo mút chỉ đó!
Nghe nói thế thằng Tư Cụt đâm nổi cáu:
-Mày ngu thấy mẹ! Người ta làm có tổ chức sức mấy công an biết được? Bây giờ bao nhiêu đứa làm giàu vì dịch vụ tổ chức vượt biên. Mẹ nó! Nhát như mày thì cứt cũng không có mà ăn chứ đừng nói đến gái!
-Nhưng tui sợ công an lắm!
Thằng Đực Lớn vẫn cứ lắc đầu.
-Phải! Mày sợ công an. Thế nhưng mày có sợ con Hường bỏ mày đi lấy thằng khác không? Mày có sợ má mày chửi mày là đồ vô dụng không?
Nghe nói thế thằng Đực Lớn kinh hỏang la lên:
-Không! Tui không muốn con Hường lấy ai hết!
-Nếu mày không muốn con Hường đi lấy thằng khác thì mày phải có tiền. Đấy tao cho mày suy nghĩ đó.
Tới mức này thì rõ ràng thằng Đực Lớn đã bị dao động rất nhiều. Nó nắm lấy tay thằng Tư Cụt năn nỉ:
-Nói con Hường đừng lấy ai nghe.
-Ừa. Tao sẽ nói nó không lấy ai hết để chờ mày nhưng với điều kiện là mày phải nghe lời tao. Nè, nếu mày bằng lòng thì tao sẽ dẫn mày đi gặp người ta. Tổ chức sẽ chung trước cho mày phân nửa. Khi nào “đánh” xong sẽ nhận phần còn lại. Thôi bây giờ bọn mình ra Chợ Vũng Tàu kiếm cái gì bỏ vào bụng đã. Từ sáng tới giờ tao cũng chưa ăn gì cả.
Cùng với câu nói đó nó lấy tay kéo thằng Đực Lớn đứng dậy. Như một con cừu non, thằng Đực Lớn nặng nề đứng lên rồi hai đứa leo lên con đường tráng nhựa đi về hướng Chợ Vũng Tàu.


Tại một tiệm bán hủ tíu gần khu nhà lồng Chợ Vũng Tàu người ta thấy Thằng Tư Cụt và thằng Đực Lớn ngồi ở một góc. Với điếu thuốc lá trên tay thằng Tư Cụt lúc nào cũng kín đáo liếc ngang, liếc dọc. Còn thằng Đực Lớn thì ngồi ngay như ông phỗng đá. Hai tay nó thòng xuống và dáng điệu của nó trông nghiêm trọng một cách tức cười. Khi chú ba Tàu bồi bàn tiến tới vỗ vào vai nó, nói “Hầy à. Nị dùng cái chi?” thì nó giật thót mình ấp úng nói với Thằng Tư Cụt:
-Mình ăn cái gì?
Thằng Tư Cụt muốn nổi nóng nhưng nó dằn lại:
-Mày muốn ăn cái gì thì mày cứ kêu.
Sau một hồi suy nghĩ thằng Đực Lớn nuốt nước bọt rồi rụt rè nói:
-Tui…tui muốn ăn hủ tíu với một tô xương súp.
Không muốn để mất thì giờ, thằng Tư Cụt nóng nảy nói với người bồi bàn:
-Thôi được rồi! Cho nó hủ tíu với tô xương súp thật bự. Còn tui…cho ly cà-phê, tô hủ tíu và cái bánh bao.
Sau khi người bồi bàn đi rồi, nó hạ thấp giọng nói với thằng Đực Lớn:
-ĐM. ăn cho no vào. Có thể tối nay “đánh” rồi đó. Từ đây tới khuya không được đòi ăn nữa nghe không. ĐM. tao sẽ mua thêm cho mày hai cái bánh bao để phòng xa. Tao biết cái mặt mày quá mà. Hơi đói một tí là kêu ầm ĩ cả lên!

Nghe thằng Tư Cụt nói thế thằng Đực Lớn chẳng nói năng chi. Nó chỉ đưa mắt nhìn láo liên rồi gật đầu. Khi người bồi bàn mang đồ ăn ra, thoáng một cái thằng Đực Lớn đã ăn xong tô hủ tíu và tô xương súp. Tuy vậy nó vẫn còn tiếc rẻ cho nên nó gặm lại mấy mảnh xương heo. Giấy lát sau thằng Tư Cụt cũng ăn xong. Nó lấy tay vói chiếc bình trà bằng nhôm rồi cẩn thận tráng chiến chén rồi đưa lên nhấp nhấp vài ngụm. Nhấp xong nó đổ phần trà dư đó lên mấy ngón tay rồi đưa mấy ngón tay đó lên chùi miệng. Chùi miệng xong nó xoa tay vào nhau, hất hàm ra lệnh cho thằng Đực Lớn đứng dậy.

Sau khi trả tiền xong, hai đứa bước ra khỏi tiệm hủ tíu nhắm hướng bến xe Bà Rịa-Vũng Tàu đi tới. Khoảng mười lăm phút sau hai đứa đã có mặt tại bến xe. Thằng Tư Cụt lanh lẹ chạy tới đám tài xế xe Lam đang tụ tập binh xập-xám. Tại các bến xe bây giờ đang có lối cờ bạc tạm gọi là cờ bạc lưu động bởi vì sau khi chia bài xong, đám con bạc tản mác ra từng gốc cây ngồi binh rồi sau đó tụ hội lại để xem ai ăn ai thua. Lối cờ bạc chợ này mục đích qua mắt bọn công an nhưng xét cho cùng cũng chẳng qua mắt được ai.

Sau khi hỏi thăm đám con bạc xem xe nào chạy trước, thằng Tư Cụt ra hiệu cho thằng Đực Lớn rồi hai đứa leo lên chiếc xe Lam trống đậu ở bên kia con đường. Rải rác một vài bà đi chợ, một vài công nhân, bộ đội đi tới. Họ hỏi thăm rồi cũng lần lượt leo lên xe chờ. Lát sau từ trong đám cờ bạc tách ra một người. Gã vừa đi vừa móc túi đếm tiền vừa làu bàu. Khi đến bên chiếc xe Lam gã lớn tiếng nói:
“Cho xin tiền nghe bà con.”
Sau khi thu tiền xong gã bắt đầu rồ máy xe. Có lẽ gã phải đạp tới mười lăm hai chục lần thì chiếc xe Lam mới chịu nổ máy. Rồi chiếc xe lật ngược lại phía đằng sau khi gã tài xế sang số, ngả nghiêng lao về phía con lộ chính hướng ra ngã Bà Rịa để lại một đám khói và bụi đường bay mù mịt.
Khỏang hai mươi phút sau chiếc xe lại ngả nghiêng lao vào Bà Rịa rồi dừng lại trước một bãi đất trống bên cạnh chợ. Suốt chặng đường, thằng Đực Lớn ngả lưng vào thành xe ngủ gà ngủ gật và nước dãi của nó nhểu xuống cả ngực áo. Khi thằng Tư Cụt thúc mạnh vào cạnh sườn nó một cái thì nó giật mình thức dậy rồi hối hả bước xuống xe. Nhưng khi nó bước vội lên để đi ngang thằng Tư Cụt thì thằng Tư Cụt quắc mắt nói như rít qua hai hàm răng:
-ĐM. đi lùi lại phía sau làm bộ như tao với mày không quen nhau. Nhớ tao đi đâu thì đi theo đó. Không được hỏi gì nghe không!

Nghe nói vậy thằng Đực Lớn hốt hoảng bước chậm lại và mặt nó ánh lên một vẻ hết sức lo lắng. Dường như sợ có người theo dõi, thằng Tư Cụt đi vào nhà lồng chợ rồi nó loanh quanh giả bộ ghé vào vài sạp bán hàng. Cuối cùng nó băng ngang để đi vào con phố chính. Lát sau nó từ giã con phố để quẹo vào một con đường nhỏ rồi dừng lại trước một cái quán nằm dưới tàng cây bã đậu. Trên thân cây, chỗ ngang tầm mắt có đóng một tấm bảng gỗ với hàng chữ “Sống Ở Trên Đời! Thịt Chó Trứ Danh”. Từ bên trong mùi chả nướng bốc ra làm điếc cả mũi, và làm người ta chảy nước miếng. Dường như để chờ thằng Đực Lớn đang lẽo đẽo ở phía sau cho nên thằng Tư Cụt đứng tần ngần dưới tàng cây ít phút trước khi bước vào. Sau khi đã vào hẳn bên trong nó lựa một chỗ gần ngay quầy tính tiền rồi lặng lẽ ngồi xuống. Chỉ thoáng sau thì cái bóng ô dề của thằng Đực Lớn cũng xuất hiện ở ngưỡng cửa. Sau khi dáo dác dòm quanh, nó hối hả bước lại chỗ thằng Tư Cụt. Sau khi ngồi yên nó đưa mắt thò lõ nhìn thằng Tư Cụt như chờ lệnh. Liếc nhìn một vài thực khách trong quán, thằng Tư Cụt nói vọng vào trong nhà:
-Cho một dĩa dồi chó. Thêm giềng và nhiều mắm tôm.
Từ bên trong một gã thanh niên chạy ra với chiếc khăn lau tay. Hắn bước tới bên thằng Tư Cụt nói:
-Dồi chó đang làm. Xin vui lòng chờ chút xíu được không?
-Rất tiếc bọn này phải đi gấp nên không chờ được.
Thằng Tư Cụt đáp ngay. Trong khi hai người đối đáp qua lại như vậy thì thằng Đực Lớn chỉ há hốc miệng nhìn rồi nuốt nước miếng ừng ực. Nhưng thực ra cuộc đối đáp vừa qua chỉ là dấu hiệu nhận nhau cho nên khi nghe thằng Tư Cụt đáp xong thì gã thanh niên giả bộ cúi xuống lau bàn rồi nói khẽ vừa đủ nghe:
-Chờ chút xíu sẽ có người đàn bà đưa các anh đi.
Nói xong gã bỏ vào nhà trong. Giây lát sau một người đàn bà tay cầm chiếc nón lá từ phía nhà bếp bước ra. Đợi cho bóng người đàn bà khuấg sau cánh cửa trước, thằng Tư Cụt mới đứng dậy bước ra ngòai. Thằng Đực Lớn cũng hối hả bước theo sau.
Với dáng đi rất lanh lẹn, người đàn bà sau khi băng qua một ngã tư chị ta quẹo vào một con đường nhỏ. Đi một đỗi chị ta rẽ vào một con hẻm cây cối mọc um tùm hai bên, rồi cuối cùng dừng lại trước sân một căn nhà cổ. Dường như để chờ thằng Tư Cụt và thằng Đực Lớn, chị ta đi đi lại lại trước sân vừa lấy nón quạt vừa nói vọng vào bên trong:
- Thầy Ba, có người đến thăm bịnh đây!
Độ vài phút sau thì có tiếng lạch cạch mở cửa. Lúc này thì thằng Tư Cụt và thằng Đực Lớn cũng đã xuất hiện ở cổng. Chị đàn bà lanh lẹ bước vào nhà rồi ít phút sau quay ra nói với thằng Tư Cụt:
-Thầy Ba mời anh vào để thầy coi bịnh cho.
Vẻ mặt của thằng Tư Cụt lúc này bỗng trở nên nghiêm trọng. Nó quay qua nói với thằng Đực Lớn:
-Mày ngồi tạm dưới gốc cây nhãn này. Tuyệt đối không được đi đâu. Tao vào “hốt thuốc” rồi ra ngay.
Nghe nói vậy thằng Đực Lớn chỉ biết há hốc miệng rồi lặng lẽ gật đầu. Trong khi thằng Tư Cụt dặn dò thằng Đực Lớn thì người đàn bà cũng đã le te đi về phía sau nhà rồi bóng chị ta mất hút vào đám vườn cây phía sau nhà.

Khi người đàn bà đi rồi thì thằng Tư Cụt mới rụt rè bước vào. Bên trong là một người đàn ông khỏang ngòai ba mươi tuổi đang ngồi trước một cái bàn trên có một cuốn sổ, bao thuốc lá, ly la-de. Phía sau lưng là một cái kệ có bày một vài cuốn sách dạy bào chế thuốc Nam. Rải rác chung quanh là mấy cái bao bố chứa đầy những cây thuốc đã phơi khô như kinh giới, hương nhu, tía tô, cỏ mường trầu, hà thủ ô, xuyên tâm liên, lá xả v.v..Nằm ở trong góc là một con dao cầu và chiếc thuyền tán. Lại có cả vài cái mẹt bên trên đựng cơm nguội để làm thuốc tễ. Da người đàn ông đen xạm, rắn chắc, nét mặt đanh thép và đôi mắt hết sức sắc sảo chứng tỏ gã là một tay bản lãnh dám làm chuyện kinh thiên động địa chứ không có dáng vẻ hiền lành của một thày thuốc Đông Y. Vừa thấy gã thì thằng Tư Cụt đã khúm núm lên tiếng:
-Dạ thưa Anh Ba.
Vẫn dán mắt vào cuốn sổ, gã đàn ông nói:
-Sao? Mày đã tìm được đứa nào chưa?
Thằng Tư Cụt cẩn thận bước tới một vài bước rồi nó lễ phép nói:
-Dạ thưa Anh Ba, em đã kiếm được một thằng. Thằng này nó khờ lắm. Nhưng vì nó khờ thế cho nên nó mới dám làm chuyện nguy hiểm này.
Lấy bút gạch gạch cái gì đó trên cuốn sổ xong gã đàn ông ngước mắt nhìn thằng Tư Cụt nói:
-ĐM. hành khách đi chuyến này trêm trăm người. Mọi chuyện đều êm xuôi cả ngọai trừ vấn đề xăng dầu. Không hiểu có đứa nào đưa tin ra ngòai hay không mà tụi nó báo cáo rằng mấy hôm rày tàu công an lảng vảng ở địa điểm chôn dầu khiến không một đứa nào dám tình nguyện vào đó chở dầu ra “con cá lớn”. Khuya nay “đánh” rồi. Nếu dầu không ra kịp thì chết cả đám.
-Dạ thưa Anh Ba, em đã dụ được thằng ngốc này. Em sẽ giao cho nó một chiếc ghe để nó đào dầu chở ra điểm hẹn. Em sẽ chờ cách đó khoảng hai trăm thước. Khi dầu đã lên ghe an tòan, em sẽ chớp đèn ba lần để Anh Ba cho “con cá lớn” cặp vào. Nếu như em khóat đèn ba lần thì có nghĩa là bị động thì Anh Ba cho “con cá lớn” lui ngay.
Nghe thằng Tư Cụt nói thế gã đàn ông gật gù nói:
-Được lắm! Rủi thằng ngốc đó bị bắt thì nó cũng chẳng biết mẹ gì để khai. Nếu vụ này thành công tao sẽ thưởng cho mày thêm một chỉ nữa. Đây, cầm lấy một ngàn đồng giao cho nó và dặn nó phải cẩn thận. Nhớ khuya nay “đánh” rồi đó.

Thằng Tư Cụt lễ phép đưa tay cầm lấy một ngàn đồng, cúi chào gã đàn ông rồi quay ra ngòai. Khi nó bước ra ngòai thì thằng Đực Lớn đang ngồi bó gối, lưng tựa vào gốc cây nhãn. Lanh lẹ như một con sóc, thằng Tư Cụt xà xuống bên cạnh nó, nói:
-Mọi việc êm xuôi cả rồi. Tao phải năn nỉ gẫy lưỡi Anh Ba mới chịu cho mày cộng tác. Tuy nhiên chuyện này hết sức quan trọng. Nếu mày làm hỏng chuyện thì không những người ta cắt cổ mày mà còn cắt cổ cả tao nữa nghe không?
Nghe nói vậy thằng Đực Lớn kinh hãi la lên:
-Tui sợ quá! Không biết tui có làm được không?
Thằng Tư Cụt vội vàng an ủi nó:
-Mày làm được. Tao biết mày sẽ làm được việc này. Tuy nhiên gặp lúc nguy hiểm mà mày định tháo chạy thì mày nhớ đến con Hường nghe. Chính con Hường sẽ cho mày can đảm. Mày nhớ không?
-Tui nhớ. Tui sẽ nhớ đến con Hường.
-Được lắm! Mày nghe rõ đây.
-Tui nghe.
Thằng Tư Cụt vội bẻ một cành cây nhãn rồi nó vẽ lòang ngoằng một vài nhánh sông rồi nó giải thích cho thằng Đực Lớn:
-Mày còn nhớ cái Vàm Láng không?
-Tui nhớ.
-Tốt lắm!
Thằng Tư Cụt vỗ vai thằng Đực Lớn nói tiếp:
-Ngay chỗ sắp sửa ra cửa có một cái cù lao cây cối rậm rạp. Ngay giữa cù lao có một khỏang đất trống bên trên chất một đống cây bần khô…
Nói đến đây nó liếc vội chung quanh rồi hạ thấp giọng:
-Người ta chôn mười can dầu ở đó. Nhiệm vụ của mày là tới đào lên, đem xuống ghe rồi chở ra “con cá lớn”.
-Nhưng tui không biết “con cá lớn” ở đâu.
-Mày khỏi lo. Tao sẽ chờ mày cách đó khỏang hai trăm thước. Khi nào đem dầu xuống ghe nhớ chớp đèn cho tao hay. Nhưng tao dặn hờ, nếu công an tóm được mày thì mày phải khai là đi bắt cua nghe. Trước sau cứ khai như thế.

Nghe dặn thế thằng mặt thằng Đực Lớn lại căng ra. Nó ngồi ngây một lúc rồi hỏi thằng Tư Cụt:
-Tui ra đó bằng cách nào?
-Mày khỏi lo. Mày còn nhớ Xã Phú Mỹ không? Mày băng qua cái xã đó, tới mé sông, ngay dưới tàng cây da có một chiếc ghe với mọi thứ cần thiết cho mày.
Tới đây thì thằng Đực Lớn không hỏi thêm gì nữa nhưng khuôn mặt nó ánh lên một vẻ hết sức lo lắng. Đưa mắt liếc nhìn thằng Đực Lớn, thằng Tư Cụt từ từ thò tay vào túi móc ra một mớ bạc. Nó ấn mớ bạc vào tay thằng Đực Lớn, nói:
-Đây là 500 đồng. Người ta đưa trước cho mày phân nửa. Khi nào “đánh” xong người ta sẽ đưa thêm. ĐM. nửa chỉ vàng đó. Mày tha hồ hồ mua guốc cho con Hường và dẫn nó đi ăn tiệm nhé.
-Mẹ ơi! Sao nhiều quá vậy?
Thằng Đực Lớn buột miệng la lên.
-Vì tao thương mày. Vì người ta thương mày cho nên mới cho mày nhiều thế. Thôi! Đ.M be bé cái miệng một tí!
Dường như mớ bạc đã làm cho thằng Đực Lớn quên mất bao hiểm nguy cho nên nó vừa đưa tay nhét mớ bạc vào túi nó vừa sung sướng nói:
-Tui sẽ mua guốc cho con Hường rồi con Hường sẽ thương tui rồi má tui sẽ thương tui…
-Mọi người sẽ thương mày! Cả thế giới sẽ thương mày! ĐM. đừng nói lôi thôi nữa. Nghe tao dặn đây.
Nghe thằng Tư Cụt nói thế thằng Đực Lớn mất cả hứng nhưng rõ ràng lòng nó đang rạo rực cho nên nó nhẫn nại nghe thằng Tư Cụt nói tiếp:
-Bây giờ là ba giờ chiều rồi. Mày quanh quẩn ở đây tới năm giờ chiều thì lấy xe đi Phú Mỹ. Đợi lúc chạng vạng tối mới khởi sự nghe chưa. Bây giờ tao cũng phải đi lo chuyện của tao. Thôi bọn mình chia tay. Hẹn gặp lại mày tại Vàm Láng.
Với câu nói đó thằng Tư Cụt đứng dậy rồi bóng nó phút chốc biến mất ở cuối con ngõ.

Khi mặt trời đã khuất về phía tây và ánh nắng chỉ con thoi thóp trên mấy ngọn cây thì những ngọn gió mát rượi từ hướng biển cũng bắt đầu thổi tới. Ngọn gió đem theo mùi tanh tanh của đất bùn, mùi muối quyện lẫn với mùi thơm ngát của lúa Thần Nông đang trổ đòng đòng. Xa xa chạy dài về hướng Rừng Sát, khu rừng bần bạt ngàn bắt đầu trở nên tím thẫm và trên trời cánh Sao Hôm bắt đầu nhấp nháy. Tiếng cóc nhái, nhá nheng, ễng ương âm vang bốn bề như một bản hợp tấu, vỗ về, dìu Xã Phú Mỹ đi vào đêm đen cô quạnh, đìu hiu, buồn muôn thuở nhưng cũng đầy nghẹt thở, gay cấn bởi những chuyến vượt biên có thể diễn ra bất cứ lúc nào.

Ngay lúc đó từ mé quốc lộ, cái bóng cao lớn của thằng Đực Lớn cũng xuất hiện. Như một tên ăn trộm, nó dòm trước dòm sau rồi hối hả băng qua một đám ruộng lúa. Nếu quan sát kỹ người ta thấy có lúc nó lầm lũi bước đi song có lúc nó đứng lại suy tính. Nó men theo mấy bờ ruộng và cố tránh mấy gò đất cao là nơi mà đám du kích xã hay tụ tập. Khi qua khỏi đám ruộng lúa để đi vào ven xã, nó dừng lại rồi đưa lên miệng nhắc lại lời căn dặn của thằng Tư Cụt, “Nếu công an bắt được thì nói là đi bắt cua nghe. Trong trường hợp nguy hiểm hãy nhớ tới con Hường để có thêm can đảm nghe!”

Nói dứt câu nó hăm hở lao mình về phía trước nhưng nó kinh hoảng dội ngược lại bởi hai cái bóng lù lù xuất hiện ở phía trước. Đó là hai tên du kích xã với hai khẩu súng AK vác trên vai. Về phần hai tên du kích, nhìn thấy cái bóng cao lớn, tàng tàng của nó đâm xầm tới chúng nó cũng hốt hỏang né sang một bên rồi làu bàu chửi:
-ĐM, đui sao không thấy đường? Chút xíu nữa đâm vào tụi ông!
Chửi rồi thấy thằng khùng nào đó không lên tiếng đáp lại, hai tên du kích phá lên cười ngặt nghẽo. Còn thằng Đực Lớn sau khi lướt qua hai tên du kích nó le lưỡi ngóai cổ lại rồi hấp tấp lao đầu về phía trước. Nó băng qua một khu xóm lúc này đã tối thui và rải rác có ánh đèn leo lét. Mặc dù nó cố tránh xóm nhà nhưng có lẽ tiếng chân thình thịch của nó làm kinh động mấy con chó cho nên văng vẳng có tiếng chó sủa dài theo hướng đi của nó. Khi tiếng chó sủa bắt đầu thưa và nhỏ dần thì nó cũng đã bỏ xa xóm nhà và tới gần một đám đồng lầy. Lúc này mặt trăng đã lên khỏi ngọn cây và chiếu sáng cả một vùng ruộng mênh mông mọc đầy những cây bần thấp lè tè. Cách đó không xa, một con sông nằm uốn lượn và thỉnh thoảng phơi mình sau đám lá dầy đặc. Thằng Đực Lớn dừng lại định hướng rồi cuối cùng nó quyết định lao mình về hướng bờ sông. Khi tới bên một gốc cây cao, nó ngó ngang ngó dọc rồi chui vào một bụi cây mọc um tùm ngay dưới gốc tàng cây cổ thụ. Đúng như lời thằng Tư Cụt nói một chiếc ghe tam bản dài chừng bốn thước được dấu ở đó. Nó mừng rỡ nắm lấy thành ghe rồi lần mò tìm mối dây.
Khi đã mò ra được đầu mối, nó tháo sợi dây cột ở gốc cây bần rồi leo lên. Dường như bắt đầu cảm thấy đói, nó thò tay xuống sông rửa tay rồi lấy ra hai cái bánh bao mà nó bỏ vào hai túi trước của chiếc quần lính. Trong bóng đêm tiếng nhai nhem nhép của nó hòa lẫn với tiếng róc rách của con nước ròng cọ vào mấy gốc cây bần mọc dài theo mé sông. Khi ăn xong nó đưa tay chùi miệng, nắm lấy chiếc mái chèo, đẩy chiếc ghe ra xa rồi chèo xuôi theo dòng nước.
Vì giờ này con nước chảy xiết ra hướng biển cho nên chiếc ghe lao đi vùn vụt. Nó khôn ngoan bám sát bờ sông và đôi tai lúc nào cũng vểnh ra để nghe ngóng. Không biết nó đã chèo như thế được bao lâu nhưng người nó đã ướt đẫm mồ hôi và thở phì phò. Khi tới ngã ba là nơi mà nhánh sông mà nó đang ở nhập vào nhánh sông lớn thì nó dừng lại. Đầu óc nó nảy ra một sự suy tính dữ dội. Nó ước lượng với sức chèo của nó ít nhất cũng phải mất năm mười phút mới có thể băng qua bờ phía bên kia. Nếu như trong khoảng thời gian nó đang ở giữa lòng con sông mà tầu tuần tra của công an xuất hiện thì cuộc đời của nó coi như đi đứt. Nó e ngại nhìn khu sóng nước rộng mênh mông rồi đưa tay bốc nước vã vào mặt trong khi mồ hôi trong người nó lại tháo ra. Dưới ánh trăng xuyên qua đám cành lá, khuôn mặt nó trở nên loang lổ và méo mó đi vì lo sợ. Nó rên khe khẽ:
-Má ơi, chắc chết mất!

Nhưng rồi nó nhớ lại lời thằng Tư Cụt dặn nó nhớ tới con Hường cho nên tự nhiên nó thấy vững tin. Nó vểnh tai nghe ngóng xem có động tĩnh thêm gì không rồi nó nghiến răng xiết mạnh tay chèo. Rất may cho nó trong suốt thời gian này bốn bề yên tĩnh. Nhưng khi nó sắp sửa chèo tới bờ thì tiếng máy tàu bỗng vang lên từ xa rồi ánh đèn pha quét ngang, quét dọc và tiếng súng nổ ròn rã, âm vang cả dòng sông. Đó là tàu của công an đang đi tuần tra. Thằng Đực Lớn kinh hoảng giật mạnh tay chèo, cố sống cố chết phóng vào bờ. Thoáng một cái tầu tuần tra đã lại gần và đèn pha quét dọc về phía nó. Nhưng thật hú vía. Có lẽ bọn công an chỉ chiếu đèn phỏng chừng vậy thôi cho nên khi chiếc ghe của thằng Đực Lớn đã lao vào đám bần mọc ở ven sông thì chiếc tàu cũng lướt qua để lại hai làn sóng chạy giạt vào hai bên bờ. Có lẽ phải mất đến năm, mười phút sau thằng Đực Lớn mới hòan hồn. Nó nín thở, vểnh tai nghe ngóng thêm một lần nữa trước khi đẩy chiếc ghe đi về phía trước.

Bây giờ có lẽ cũng gần mười giờ đêm cho nên con nước đã đổi chiều và sóng vỗ vào mạn ghe nghe bì bõm. Càng tiến lên phía trước lòng con sông càng mở rộng và gió thổi lồng lộng. Khỏang độ dăm phút sau thì chiếc cù lao đã nằm trong tầm mắt của nó. Nó ráng sức chèo và cho chiếc ghe tắp vào dưới rặng bần mọc rậm rạp quanh bờ. Vì con nước đã lên cao cho nên chiếc cù lao thu hẹp lại bằng diện tích của mảnh ruộng. Dưới ánh trăng mờ ảo, khung cảnh tứ bề vắng lặng và tỏa ra một cái gì đó rờn rợn. Mặc dù đã cặp sát bờ thằng Đực Lớn vẫn ngồi, nín thở chưa dám động tĩnh gì. Nó chỉ sợ nếu công an đã phục kích sẵn trên đó mà nó mò lên thì chẳng khác nào nộp mạng cho chằng tinh. Cuối cùng nó liều mạng cột chiếc ghe vào một gốc cây bần rồi lội xuống nước. Lội một đỗi nó bắt đầu bước lên phần đất khô và thân hình của nó nhô hẳn lên. Nó hốt hỏang ngồi thụp xuống để quan sát rồi từ từ bò về phía trước. Bò một đỗi thì đúng như lời thằng Tư Cụt, ngay ở giữa là khỏang đất trống với bụi cây rậm rạp. Nó đưa mắt quan sát rồi rón rén đi về phía khỏang đất trống. Khi nó tới gần bụi cây thì đột nhiên nó kinh hỏang la lên:
-Ma! Chết con rồi má ơi! Ma!
Rồi nó cắm đầu cắm cổ chạy và rõ ràng trong lúc thần hồn nát thần tính, nó nghe thấy cả tiếng ma đuổi hùynh hụych sau lưng. Khi chạy tới bìa nước nó cố ngóai cổ lại để nhìn cho rõ con ma. Nhưng cái nó tưởng là ma chỉ là cây bần khô chôn vội vã cho nên bất ngờ đổ xụp khi có ngọn gió thổi tới. Sau màn kinh dị này, ngồi ôm lấy ngực một hồi, nó đưa ngón tay lên miệng lẩm bẩm, “Xuỵt! Không được sợ ma nghe! Khi nào gặp ma phải nhớ tới con Hường!”

Có lẽ câu nói tự trấn an đó đã làm nó thêm can đảm cho nên nó lội tới chiếc ghe tìm chiếc xẻng rồi hùng dũng tiến tới khỏang đất trống. Nó vung tay nhổ phăng đám bần khô, quăng ra xa rồi bắt đầu đào. Đào xuống mặt đất khỏang hơn gang tay, chiếc xẻng bắt đầu đụng phải vật gì cưng cứng. Nó mừng rỡ quăng chiếc xẻng qua một bên rồi lấy tay bốc đất. Lát sau nó lần lượt lôi lên từng can dầu rồi khệ nệ xách xuống ghe. Thoáng một cái nó đã chất xuống ghe đủ mười can dầu đúng như lời thằng Tư Cụt.
Mặc dù mệt đứt hơi nhưng nó cảm thầy phần khởi vô cùng. Nó nghĩ chỉ chút xíu nữa thôi khi nó giao xong mớ dầu cho thằng Tư Cụt là nó có thể thong thả chèo về nhà và bao nhiêu mộng đẹp đang chờ đợi nó. Nó từ từ đưa chiếc mái chèo đẩy chiếc ghe ra khỏi bụi rậm rồi men theo mé bờ. Khi đã tới đầu của cù lao, nó cẩn thận tắp vào đám cây rậm rạp rồi lấy đèn pin hướng ra phía cửa biển chớp chớp ba lần. Nhưng trước sự ngạc nhiên của nó, từ phía cửa vẫn không có đốm sáng đáp lại. Nó lo sợ chớp thêm ba lần nữa rồi hồi hộp chờ đợi. Thật hú vía! Tít tắp từ xa bỗng lóe lên đốm sáng chớp tắt ba lần cả thảy. Nó mừng rỡ xiết mạnh tay chèo để tiến về nơi vừa có ánh đèn lóe lên. Khi chèo được khỏang hai trăm thước thì từ trong bóng tối có tiếng gọi cất lên:
-Đực Lớn! Tắp vào đây! Tao đây nè!
Nghe tiếng kêu nó thất kinh hồn vía nhưng khi nhận ra tiếng nói của thằng Tư Cụt thì nó dùng mái chèo hãm đà chiếc ghe lại rồi từ từ tắp vào bờ. Từ trong bóng tối có tiếng chèo khua bì bõm rồi một chiếc ghe nhô ra cùng với tiếng nói:
-ĐM tao biết mày làm được mà. Giỏi lắm Đực Lớn! Nhưng thời gian gấp lắm. Mày ráng chèo theo tao nghe.

Cùng với câu nói đó thằng Tư Cụt đưa chiếc đèn pin hướng ra phía biển chớp chớp ba lần rồi nó lướt chiếc ghe lên phía trước. Lúc này thì cửa sông đã mở rộng mênh mông, từng cụm bần mọc nhô lên tứ phía khiến chẳng còn phân biệt đâu là bến bờ. Thằng Đực Lớn cố bám theo chiếc ghe của thằng Tư Cụt. Nhưng trong khi hai đứa đang cố gắng tìm cách gần tới “con cá lớn” thì từ phía trước tiếng máy tàu bỗng vang lên ầm ầm rồi ánh đèn pha hung hãn quét đi quét lại trên mặt nước. Thằng Tư Cụt hốt hỏang la lên:
-Tắp vào đám bần ngay Đực Lớn!
Nhưng trong khi hai chiếc ghe còn đang loay hoay tắp vào bụi cây thì tiếng máy tàu áp đến thật gần. Tiếng súng nổ ròn rã và tiếng đạn rít trên mặt nước. Không hiểu cái gì đang xảy ra nhưng từ chiếc ghe của thằng Đực Lớn phát ra một tiếng “hự”. Chỉ trong phút chốc chiếc tàu tuần tiễu lướt qua và tiếng máy tàu nhỏ dần, nhỏ dần để lại sự im lặng đến nghẹt thở cho khoảng trời nước mênh mông. Liệu chừng chiếc tàu tuần tra đã đi xa thằng Tư Cụt lên tiếng gọi khe khẽ:
-Đực Lớn! Mày có sao không?
Im lặng, không có tiếng trả lời. Thằng Tư Cụt lại gọi lớn hơn một lần nữa:
-Đực Lớn! ĐM. mày có sao không?
Nhưng thay vì chờ tiếng đáp lại, nó chèo chiếc ghe tiến về phía thằng Đực Lớn. Khi hai chiếc ghe áp sát nhau thì một cảnh tượng khủng khiếp diễn ra trước mắt. Trong khoang thuyền, thằng Đực Lớn nằm ngoẹo đầu sang một bên và một đùm ruột lòi ra ngòai. Thằng Đực Lớn kinh hỏang leo qua chiếc ghe của thằng Đực Lớn rồi bò tới sát bên cạnh nó, hỏi:
-Mày có sao không Đực Lớn?

Thằng Đực Lớn không trả lời, nó từ từ mở mắt rồi từ miệng nó phát ra tiếng rên khe khẽ. Dù nó đang ở vào tình trạng đau đớn khủng khiếp như thế nhưng dưới bóng trăng khuôn mặt của nó trông rất hiền từ. Trước tình thế bất ngờ như vậy thằng Tư Cụt cũng rất bình tĩnh. Nó lấy đèn pin chớp chớp ba lần về phía cửa biển rồi nó hối hả chèo chiếc ghe về phía trước. Khỏang năm phút sau nó nhận ra một đốm sáng ở phía tay phải. Rồi đốm sáng mỗi lúc mỗi lớn dần. Cuối cùng hình dáng một con tàu hiện ra rõ mồn một. Dường như người ta đã nhận ra được chiếc ghe chở dầu cho nên trên con tàu quang cảnh thật chộn rộn. Khi chiếc ghe của thằng Tư Cụt gần áp sát con tàu thì nhao nhao có tiếng hỏi cất lên:
-ĐM, có lấy được dầu không?
-Dầu lấy được đầy đủ nhưng thằng Đực Lớn bị bắn đổ ruột rồi!
Một phút im lặng rồi trên tàu có tiếng cất lên:
-ĐM. đem dầu lên trước rồi tính sau!
Rồi dưới sự giúp đỡ của mấy người, thằng Tư Cụt lần lượt đưa mười can dầu lên tàu. Xong xuôi nó lên tiếng:
-Bây giờ còn thằng Đực Lớn, Anh Ba tính sao đây?
Người chỉ huy trên tàu không ai khác hơn là gã thày thuốc Đông Y. Sau một vài giây suy nghĩ hắn nói:
-ĐM. nếu để nó chết dưới ghe sáng sớm công an phát giác ra thì bể tổ chức. Bay đâu, giúp đưa nó lên tàu. Nếu may nó còn sống thì cho nó vượt biên luôn. Rủi nó chết thì quăng xác nó xuống biển, ông nội công an cũng chẳng biết đâu mà điều tra.


Thế là một người trên tàu được lệnh leo xuống ghe. Thằng Tư Cụt lanh lẹ cởi chiếc áo nó đang mặc rồi lấy tay ấn chùm ruột vào bụng thằng Đực Lớn rồi lấy tấm áo cột quanh bụng nó. Trên mặt chiếc ghe tròng trành nghiêng ngả, phải chật vật lắm hai người mới xốc được nách nó rồi mấy người trên tàu phụ giúp mới có thể kéo được nó lên. Lúc này người thằng Đực Lớn đã mềm như cọng bún và máu đổ ra làm ướt đẫm cái quần lính. Sau khi kéo được thằng Đực Lớn lên rồi, con tàu được lệnh nổ máy hướng ra ngòai cửa biển.

Giờ đây trời đã vào nửa khuya. Vầng trăng đã xế ngang đầu và con gió bắt đầu trở lạnh. Thằng Đực Lớn nằm ngả lưng vào thành tàu. Dưới ánh trăng sáng bạc, đôi mắt nó nhắm nghiền. Bao nhiêu nét căng thẳng, ngờ nghệch biến đâu mất và vẻ mặt nó trông thật man dại, dễ thương. Dường như nó đang mơ màng thiếp đi vào một giấc ngủ thật yên bình cho đến khi thằng Tư Cụt khẽ vỗ vào má nó rồi gọi khe khẽ:
- Đực Lớn! Mày tỉnh lại chưa Đực Lớn?
Nhưng đôi mắt nó vẫn nhắm nghiền khiến thằng Tư Cụt phải vỗ vỗ như vậy đến hai ba lần thì nó mới từ từ, nặng nề hé mở đôi mắt. Trộn lẫn với tiếng rên khe khẽ, nó cất tiếng hỏi:
-Đây là đâu hả anh Tư Cụt?
-Mày đang ở trên tàu vượt biên. Ba ngày nữa tới đảo rồi. Người ta cho mày đi không lấy tiền đó.
-Ba tui là nhân dân tự vệ Cao Ủy đâu có nhận. Qua đó ở mục đảo đó!
-Bây giờ có lệnh mới rồi. Ai cũng nhận hết. Nhân dân tự vệ cũng kể như lính mày hiểu không?
-Vậy hả? Anh có dối tui không anh Tự Cụt?
-Thiệt đó! Tao dối mày làm chi?
-Nếu vậy má tui bả mừng lắm. Bả sẽ không còn chửi tui là đồ vô dụng.
-Ừa, bả sẽ không còn chửi mày là đồ vô dụng nữa đâu. Bả sẽ thương mày, sẽ mãi mãi thương mày!
-Vậy hả anh Tự Cụt?
Nói đến đây dường như thằng Đực Lớn quá mệt cho nên nó lại nhắm nghiền đôi mắt. Giây lát sau nó gắng gượng mở mắt, hỏi tiếp:
-Trên đảo có bán guốc Đakao không anh Tự Cụt?
-Thiếu gì! Cả triệu đôi cũng có.
-Vậy hả? Tui sẽ mua cho con Hường một đôi guốc Đakao.
-Phải, mày sẽ mua tặng nó. Mó sẽ thương mày, sẽ mãi mãi nhớ mày, rồi mày sẽ…
Thằng Tư Cụt định nói tiếp nhưng không kịp nữa rồi. Thằng Đực Lớn sẽ rướn lên một cái rồi đôi mắt nó trợn trừng rồi đầu lật qua một bên. Tới lúc này thì bao nhiêu cái tinh khôn, lưu manh trong con người của thằng Tự Cụt tựa như tảng đang tan rã dưới ánh mặt trời. Nó ôm lấy thằng Đực Lớn, rống lên:
-Đực Lớn! Mày đi rồi hả Đực Lớn!
Rồi nó ôm mặt khóc hu hu như một đứa trẻ.

Giờ đây con tàu đã ra ngoài cửa biển và gió thổi lồng lộng. Như một con chó bị xiềng xích lâu ngày nay được tháo cũi sổ lồng, nó hối hả, háo hức lao lên để giã từ vùng đất ngục tù để hướng về nẻo biên cương tự do đang trải rộng trước mặt. Dưới bóng trăng thằng Đực Lớn nằm ngọeo đầu như một người đang say ngủ. Trên trời một cánh sao băng bỗng vụt rơi xuống biển như để tiễn đưa một linh hồn về nơi an nghỉ cuối cùng.

Đào Văn Bình
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22937
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 29/Apr/2024 lúc 2:57pm

Những Cảm Xúc Khi Nhìn Lại Hình Ảnh!…

Người Tù, cái gọi là "cải tạo" được trở về sau 13 năm bị giam cầm hành hạ!...


Sau khi hai miền Nam và Bắc của đất nước đã thống nhất, hoàn toàn ngưng tiếng súng, chi còn nghe thấy tiếng pháo nổ reo hò mừng vui mỗi hằng năm của phe thắng cuộc, bên cạnh hằng bao nổi đau thương khốn khổ tận Trời xanh bị vùi chôn và bỏ quên...

Những tinh hoa của miền Nam văn minh, nhân ái, nhân bản một thời đã trở thành như thế này đây ! và còn rất nhiều nữa ... Dù đau đớn tận đáy lòng nhưng trong sâu thẳm tôi vẫn còn có cái nhìn khác, sự ngưỡng mộ và niềm hãnh diện... Một hình hài vóc dáng vẫn còn rất đẹp, nét đẹp tinh thần của người quân tử hào hùng ở tấm lòng nhân ái vị tha tình thương yêu nhân thế, vòng tay ôm và đôi mắt chùng xuống nhìn người vợ yêu dấu anh như muốn nói “Ta không màng cuộc đời ta bị doạ dày, chỉ xót xa cho bao thân phận đã vì thương ta mà chịu khổ!” Trân quý quá nụ cười người vợ một thời son sắc nay đã tàn tạ sau 13 năm chờ đợi “Em vẫn rất vui, sung sướng vẫn còn có thời gian chặng cuối đời được bên anh!".  Hai người con trai tóc cũng đã hoa râm do thời cuộc, đứa lau nước mắt mừng giây phút trùng phùng, đứa vẫn chưa tin được cha tôi là đây sao !? Vì ai và do đâu mà ra nông nỗi!?

Chưa đặt vấn đề đúng sai của cuộc chiến, chỉ nói đến tình người nhất là cùng chung tiếng nói cội nguồn. Chỉ có những ai vô cảm , đầu óc hẹp hòi kém cỏi quen lối sống rừng rú, bàn tay từng nhúng máu tanh mới có lối hành xử này sau khi đất nước đã tàn cuộc chiến “ nồi da xáo thịt “... Rất mong và hy vọng các thế hệ sau nhận ra sự thật!


PHIEU LE

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22937
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 30/Apr/2024 lúc 9:42am

Truyện Tháng Tư: Dưới Tầng Địa Ngục 

 

Vận nước chuyển đổi, sau ngày 30 tháng 4, 1975 cuộc chiến tranh giữa Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) kết thúc! Thay vì hòa hợp, hòa giải dân tộc để cùng nhau xây dựng một nước Việt Nam phú cường thì ngược lại nhà cầm quyền Hà Nội say men chiến thắng, tạo dựng lên hằng trăm nhà tù lớn, nhỏ với mỹ từ “cải tạo” để giam giữ: Quân, Dân, Cán, Chính. Ðảng phái, tôn giáo, giới trí thức, văn nghệ sĩ,… của Việt Nam Cộng Hòa còn ở lại trong nước vì nhiều lý do khác nhau.

Qua thông cáo của Ủy Ban Quân Quản Saigon và các địa phương họ đã ra lệnh tập trung thành phần trên trong thời hạn một tháng để học tập chính sách của đảng Cộng Sản. Bản chất Cộng Sản đã lộ nguyên hình khi họ ấn định thời gian ngắn hạn là “một tháng” để đánh lừa sự thành tâm của các viên chức và sĩ quan của miền Nam Việt Nam muốn thi hành đúng đắn mọi yêu cầu của kẻ chiến thắng để rồi an phận trở về với công việc canh tác, sản xuất,… của người công dân trong thời hậu chiến.

Nhưng tiếc thay, họ đã tráo trở lợi dụng cơ hội nầy để giam giữ những người chiến bại một cách dài hạn “không bản án” và được mệnh danh “trại tập trung cải tạo.” Thời gian bị tù đã kéo dài ít nhất là 3 năm, còn lại đa số chịu đựng khổ nhục trong vòng 7, 10, 18 hay 20 năm.

Trong số tù nhân có hơn 30 tướng lãnh và trên 400 đại tá. Căn bản chính yếu để giam tù được căn cứ theo lý lịch của tù nhân để trả hận thù bằng nhiều hình thức như bắn bỏ, tra tấn, nằm nhà cùm, giam vào ngục tối để chịu đói lạnh, lao động khổ sai, bệnh nặng không thuốc men làm cho nhiều người phải vùi thây dưới tầng địa ngục.

Trong vòng ba mươi năm nữa, những quân nhân thuộc vào thế hệ trẻ nhất của cả hai bên đã tham gia vào cuộc chiến 1945-1975 sẽ lần lượt qua đời. Thế hệ kế tiếp muốn tìm hiểu lịch sử của thời cha ông sẽ phải tìm đọc những tài liệu, sách báo, phim ảnh có tính cách lịch sử do những người trong cuộc lưu lại.

Là tù nhân qua hai trại Kỳ Sơn và Tiên Lãnh, tôi xin ghi lại những chuyện đau thương nhất mà chính tôi đã từng chứng kiến.

Các chuyện được hình thành không nhằm mục đích gây thêm lòng hận thù và chia rẽ mà chỉ nêu lên những kinh nghiệm đau thương trong lịch sử cận đại để cho các thế hệ tiếp nối học được những kinh nghiệm quý báu hầu tránh được những lỗi lầm tai hại của những người đi trước vì thiếu đạo đức cũng như kiến thức trong việc lãnh đạo toàn dân mà chỉ dựa trên lòng đố kỵ và mưu đồ trả thù khiến cho tương lai của dân tộc Việt mỗi ngày một tuột xuống hàng thấp nhứt của lịch sử nhân loại.

Cộng Quân tiến vào Ðà Nẵng:

Vào ngày 29 tháng 3, 1975, Cộng Quân tiến vào thành phố Ðà Nẵng không gặp một sự kháng cự nào đáng kể vì những đơn vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) đã triệt thoái bằng không và hải vận vào Nha Trang hay Sài Gòn…

Tổ chức hành chánh của thành phố Ðà Nẵng và tỉnh Quảng Nam:

Dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, thành phố Ðà Nẵng trực thuộc Trung Ương còn hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín được biệt lập. Khi Cộng quân cưỡng chiếm thành phố Ðà Nẵng và 2 tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín, họ đã sát nhập lại gọi là tỉnh Quảng Nam Ðà Nẵng.

Các trại tù tại Quảng Nam Ðà Nẵng:

Những trại tù mang tên của những địa danh: Hội An, Vĩnh Ðiện, Hiếu Ðức, Hòa Cầm, Phú Túc, Thượng Ðức, An Ðiềm, Kỳ Sơn, Tiên Lãnh,… là nơi ngục tù của các sĩ quan và viên chức Việt Nam Cộng Hòa.

Lừa bịp ngay ngày đầu:

Cưỡng chiếm các thành phố miền Nam, Ủy Ban Quân Quản kêu gọi những viên chức, sĩ quan của chế độ cũ mang theo tiền ăn 1 tháng để học tập. Nhưng tại Ðà Nẵng vào sáng ngày 5 tháng 4, 1975 Ủy Ban Quân Quản thông báo: “Ðúng 8 giờ sáng hôm nay, tất cả sĩ quan chế độ cũ tập trung đầy đủ, không chậm trễ tại số 2, Ðống Ða để nghe nói chuyện tình hình đất nước.” Tập đoàn Cộng Sản đã dùng nơi nầy như cái “nôm” để tóm gọn các sĩ quan. Ðến tối họ chuyển tất cả những người đã đến trình diện về Vĩnh Ðiện, Hội An để giam giữ.

Không đưa tù quan trọng ra Bắc:

Cuối năm 1975, Trung Ương ra lệnh chuyển ra Bắc tất cả các sĩ quan chế độ cũ trước đây giữ chức vụ quan trọng đang bị giam giữ tại Kỳ Sơn, Tiên Lãnh và An Ðiềm. Viên Tỉnh Ủy Quảng Nam Ðà Nẵng liền trình xin Trung Ương giữ tại chỗ các cải tạo viên qua các lý do sau đây:

– Quân đội Mỹ đã chọn Ðà Nẵng để đổ bộ đầu tiên 2 Tiểu Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến vào ngày 8 tháng 3, 1965.

– Quảng Nam Ðà Nẵng đi đầu trong công tác diệt Mỹ cứu nước.

– Bộ đội, công an Quảng Nam Ðà Nẵng có đủ khả năng, kinh nghiệm để quản lý cải tạo tốt, làm ra nhiều của cải vật chất để nuôi tù, cung cấp cho tỉnh và đóng góp về trung ương.

Trung ương đã chấp thuận đề nghị trên.

Trại tù “cải tạo” Kỳ Sơn (Hình minh họa)


Kỳ Sơn là tên của một xã thuộc huyện Tam Kỳ gần mỏ vàng Bông Miêu chừng 3 cây số, có đường trải nhựa và sông Bông Miêu chảy qua, rừng già âm u, thời tiết rất lạnh, có nhiều thung lũng để canh tác. Kỳ Sơn có 4 trại tù: trại 1, 2, 3 và 4 giam giữ toàn sĩ quan từ cấp chuẩn úy đến cấp đại tá, phần đông phục vụ tại Quân Ðoàn I. Các trại trên trực thuộc Tổng Trại 2 do bộ đội quản lý. Trung Tá Việt Cộng Ngô Câu làm tổng trại trưởng. Ðến ngày 28 tháng 9, 1978, tổng trại chuyển giao tù còn lại cho công an quản lý tại hai trại Tiên Lãnh và An Ðiềm.

Sau đây là những chuyện đau buồn nhất đã xảy ra tại địa ngục Kỳ Sơn:

Trung Tá Lê Ðình Ái, Ðại Úy Nguyễn Văn Lộc vượt thoát khỏi trại tù Kỳ Sơn.

– Trung Tá Lê Ðình Ái, sinh ngày 12 tháng 3, 1943 tại Huế, khóa 13 Ấp Chiến Lược, sĩ quan trừ bị Thủ Ðức, quận trưởng quận Tiên Phước.

– Ðại Úy Nguyễn Văn Lộc, số quân 58/600.570, sinh tháng 10, 1938 tại Ðịnh Tường, Trường Không Quân Việt Nam, phi công quan sát Sư Ðoàn 1 Không Quân.

Hai anh Ái và Lộc bị tù trại 1 Kỳ Sơn. Tuy khác tổ trong lao động thường gặp nhau trò chuyện, cả hai đồng tâm muốn trốn trại nên bàn kế hoạch vượt thoát. Móc nối được người thân cung cấp cho giấy tờ. Ðúng 9 giờ sáng ngày 20 tháng 11, 1975, hai người trốn khỏi nơi lao động gặp nhau tại điểm hẹn rồi tức tốc di chuyển nhanh bằng xe Honda chờ sẵn ra khỏi khu vực, băng theo đường rừng vượt thoát về hướng Nam. Hay tin tù trốn, Tổng Trại 2 bủa vây lục kiếm suốt 2 tuần không tìm được. Cuộc vượt thoát hết sức gian nan. Hai anh biết rất rõ địa thế rừng núi của 2 tỉnh Quảng Tín và Quảng Ngãi vì thường hành quân trước đây. Bài học mưu sinh thoát hiểm lúc học sĩ quan được áp dụng để sống còn.

Qua 27 ngày len lỏi trong rừng già khi ra đồng trống hết sức mừng vui nhìn thấy xe chạy ở Quốc Lộ 1 nên bàn nhau ra lộ đón xe đò đi tiếp. Tắm rửa, cạo râu, thay quần áo dân sự xong điền tên vào giấy tờ, nghĩ lấy lại sức rồi đến cầu Bà Di, Ðập Ðá Bình Ðịnh đón xe. Khi xe ngừng xui ơi là xui! Lại gặp ngay đoàn xe chở công an từ Bắc vào công tác trong Nam. Lỡ rồi, hai anh vẫn lên xe tự nhiên. Phụ xe cho ngồi ghế xếp phía sau. Qua cặp mắt nghi ngờ của tên công an ngồi cạnh. Ðến trạm kiểm soát Cam Ranh tên công an ngồi cạnh báo nhân viên kiểm soát để xét giấy tờ. Kiểm soát giấy thấy không nghi ngờ nên tiếp tục cho đi. Hú hồn ! Hai anh vui mừng không xiết kể.

Về đến Saigon, anh Lộc tìm đường vượt biển. Thật tội nghiệp về sau nghe tin anh Lộc đã mất tích trên biển cả. Còn anh Ái gia nhập Mặt Trận Quốc Gia Giải Phóng Việt Nam. Ðến ngày 27 tháng 12, 1977 lại bị bắt, tiếp tục ăn cơm tù. Tháng 9,1986 được thả ra rồi tổ chức vượt biển thành công. Tháng 4, 1990 cả gia đình định cư tại Hoa Kỳ.

(Tuy cuộc vượt thoát của anh Ái thành công song những đau thương tan vỡ gia đình rồi tù tội từ ngày về lại Saigon qua câu chuyện dài chính anh Ái kể lại hết sức thương tâm cho một chiến hữu VNCH đã gãy súng theo vận nước).

*Y Sĩ Thiếu Tá Phạm Văn Lương tự tử sau một năm trong tù!

Thiếu Tá Phạm Văn Lương số quân 54/226-453, sinh vào tháng 11, 1934 tại Quảng Trị, xuất thân khóa 4 Cương Quyết Thủ Ðức, sau theo học ngành Quân Y. Nguyên bác sĩ trưởng khu Ngoại Thương, Tổng Y Viện Duy Tân Ðà Nẵng.

Trước 1975, qua hệ thống truyền thông và báo chí khá đông người miền Nam biết đến Thiếu Tá Phạm Văn Lương qua các việc ông đã làm:

– Mang lựu đạn đến tiền đình Hạ Viện yêu cầu Hạ Viện điều tra làm sáng tỏ việc bắn chết Y Sĩ Ðại Úy Hà Thúc Nhơn, người bạn cùng khóa Quân Y, phục vụ tại Quân Y Viện Nguyễn Huệ Nha Trang đã can đảm đứng lên chống bọn tham nhũng giết một sĩ quan tố tham nhũng tại bãi biển Nha Trang.

– Thực hiện thành công cuộc giải phẫu lấy đầu đạn M79 ghim trong người quân nhân Ðinh Né.

– Trách nhiệm tổ chức việc gom tử thi trên đại lộ Kinh Hoàng (Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972) đưa về mai táng, lập bia kỷ niệm tại Quảng Trị.

– Xây dựng làng Ðồng Thạnh tại Hội An, Quảng Nam định cư đồng bào phía Bắc Quân Khu 1 lánh nạn Cộng Sản (ngân khoản do Bác Sĩ Phan Quang Ðán, Quốc Vụ Khanh, tài trợ).

– Ngày 29 tháng 3, 1975, Cộng Quân cưỡng chiếm Ðà Nẵng, Bác Sĩ Lương cùng một số bác sĩ khác ở lại nhiệm sở Tổng Y Viện Duy Tân cứu chữa đồng bào và thương binh. Cùng lúc Ðài BBC Luân Ðôn loan tin Bác Sĩ Phạm Văn Lương đã được Cộng Sản cử làm thị trưởng Ðà Nẵng.

– Ngày 5 tháng 4, 1975, Cộng quân tập trung các bác sĩ đưa vào giam tại Hội An, trong số có Bác Sĩ Lương, rồi di chuyển đến Tổng Trại 2 Kỳ Sơn, Quảng Tín. Các bác sĩ đều bị đưa về trạm xá Kỳ Sơn làm việc chuyên môn ngoại trừ Bác Sĩ Vương Ngọc Lâm cho đi lao động bởi gia đình ông chống Cộng triệt để.

– Ngày 25 tháng 8, 1975, có thêm Y Sĩ Trung Tá Nguyễn Văn Cơ (gốc Y Sĩ Dù) nguyên chỉ huy trưởng Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương Huế từ trại giam Hiếu Ðức chuyển lên trạm xá.

Qua một năm trong trạm xá Tổng Trại 2 tù Kỳ Sơn, Bác Sĩ Lương cùng các bác sĩ khác tận tình cứu chữa các bệnh nhân gồm bộ đội, tù binh và dân chúng trong vùng.

– Chủ Nhật, 28 tháng 3, 1976, bà Ðỗ Khánh Niệm lên thăm chồng, trong dịp nầy Bác Sĩ Lương ngồi bên vợ, bà Lương sắp thức ăn mời chồng. Ông không thiết tha việc ăn uống mà chỉ than cùng vợ: “Chắc anh khó về lắm em ơi!!! Có người tố cáo anh cùng Bác Sĩ Phan Quang Ðán là CIA,…”

Hai vợ chồng đang bịn rịn dặn dò việc nuôi dạy các con, bỗng có tiếng la lớn của vệ binh: “Hết giờ thăm nuôi, về lại trạm xá.” Bác Sĩ Lương và vợ đứng dậy, nước mắt bà Lương trào ra, chân ông Lương không dỡ lên được, đàng sau lưng tên vệ binh mang súng AK hối thúc đi về, bà Lương lau nước mắt nhìn đồng hồ lúc ấy là 12 giờ trưa. Ðó là giây phút biệt ly định mệnh của hai vợ chồng Bác Sĩ Phạm Văn Lương. Khoảng cách giữa hai người mỗi lúc một xa thêm, rồi hình bóng Bác Sĩ Lương khuất dần dưới ngọn đồi thăm nuôi trại Kỳ Sơn.

Một tuần sau, vào ngày 3 tháng 4, 1976, Bác Sĩ Lương đã uống nhiều viên thuốc ngủ cùng 10 viên cloroquine làm người ông quay cuồng, lăn lộn. Bằng mọi cách các bác sĩ tại trạm xá cố gắng cứu chữa nhưng ông Lương báo là đã uống quá nhiều thuốc nên không thể cứu được. Sau khi thốt lên lời từ biệt mọi người, mắt ông từ từ nhắm lại.

Tin Bác Sĩ Lương tự tử được loan truyền nhanh chóng trong anh em tù, ngược lại Ban Chỉ Huy Trại cho biết Bác Sĩ Lương chết vì trúng gió!

Ít ngày sau, thân nhân thăm nuôi đưa tin về Ðà Nẵng: Bác Sĩ Lương đã tự tử chết.

Nhận được hung tin, bà Lương lên trạm xá khóc lóc đòi biết rõ nguyên nhân cái chết của chồng mình. Lúc đầu cán bộ trạm xá cho biết không có chuyện Bác Sĩ Lương chết nhưng bà tiếp tục than khóc và la ầm lên. Thiếu Tá Việt Cộng Ðinh Văn Nhất là trưởng Trại 1 liền tới cho bà biết: Bác Sĩ Lương chết vì trúng gió. Viên y sĩ Việt Cộng nói thêm là đã chôn cất Bác Sĩ Lương cẩn thận. Số ván dự trù để đóng bàn mổ cho Bác Sĩ Lương sử dụng lại được dùng vào việc đóng quan tài cho ông. Bà Lương xin chuyển xác chồng về Ðà Nẵng nhưng trại không chấp thuận.

– 1984, mộ phần Bác Sĩ Lương được dời về Hội An, an nghỉ trong nghĩa trang gia đình người bạn thân.

– 1985, bà quả phụ Phạm Văn Lương cùng 7 người con (4 trai, 3 gái) và các cháu được thân nhân bảo lãnh sang định cư tại Hoa Kỳ. 
 

Trung Tá Võ Vàng bị bắn chết như thế nào? ̣Hình minh họa)


Trung Tá Võ Vàng, số quân 60/211.412, sinh tháng 10 năm 1940 tại Quảng Ngãi, khóa 17 Lê Lai, trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 21/BÐQ, quân sự vụ trưởng trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 5, Sư Ðoàn 2 Bộ Binh.

Ðược chỉ thị của Ban Chỉ Huy trại 1 Kỳ Sơn, hai vệ binh Ðinh Văn Hương và Âu Thái Trương tức Bốn hướng dẫn toán tù binh thuộc nhà 9, khối 2 đi lao động tại khu Cò Bay, Bông Miêu. Sau khi cắt đặt lao động, hai vệ binh gọi đích danh anh Võ Vàng đi theo vệ binh Trương cắt đốt về làm chổi.

Ðộ chừng 15 phút, một loạt AK nổ dồn lúc ấy là 10 giờ sáng ngày 13 tháng 4, 1976. Anh em tù nghi là vệ binh Trương đã bắn anh Vàng vì ngày hôm trước có sự sắp đặt để cãi nhau giữa vệ binh nầy và anh Vàng tại khu thăm nuôi. Quả thật liền thấy tên Trương chạy ra hớt hải la lên: “Tên Vàng đá, đạp tôi để giật súng, may phát hiện kịp nên bắn chết nó rồi.”

Thật ra đây là một hành động sắp xếp bắn anh Vàng để trả thù của Cộng Sản. Trước đây Trung Tá Vàng đã chỉ huy Tiểu Ðoàn 21 Biệt Ðộng Quân tham chiến vào dịp Tết Mậu Thân 1968 tại Huế. Ðến năm 1973, anh chỉ huy Trung Ðoàn 5, Sư Ðoàn 2, tái chiếm cửa khẩu Sa Huỳnh. Tại hai nơi nầy đều gây tổn thất nặng cho Cộng Quân thuộc Liên Khu 5.

Ít ngày sau bà Võ Vàng nhận được hung tin tức tốc đến trại Kỳ Sơn, tại đây Ban Chỉ Huy trại đã báo cho bà biết là chồng bà đã đánh vệ binh, cướp súng nên bị bắn chết. Trại có trao cho bà 1 biên bản về sự việc xẩy ra trong đó có 5 chữ ký của đại diện trại và tù, cùng 1 biên bản kiểm kê tư trang.

Sau khi Trung Tá Vàng bị bắn chết, bà quả phụ Võ Vàng nhũ danh Lê Thị Ðường, giáo sư trung học tại Quảng Ngãi, bị nhà trường thông báo cho nghỉ dạy (trước 1975 bà Ðường là hiệu trưởng Trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi).

Ðể tránh hậu quả của việc xét lý lịch ba đời cho các con nên bà cùng 6 con (2 trai, 4 gái) đành liều chết vượt biển qua Hồng Kông. Cuối cùng gia đình cố Trung Tá Võ Vàng được may mắn định cư tại Hoa Kỳ vào tháng 8, 1984.

Ngôi mộ anh Vàng được cải táng vào năm 1997.

*Âm mưu ám hại Trung Tá Võ Vàng đã được nhân chứng sống, Thiếu Tá Phạm Văn Hồng, số quân 61/203.947, sinh tháng 10-,1941 tại Nam Ðịnh (cựu SVSQ khóa 20 Nguyễn Công Trứ Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, bị Trung Cộng bắt giữ tại Quảng Châu, sau cuộc hải chiến với VNCH ngày 20 tháng 1, 1974 tại quần đảo Hoàng Sa) trình bày rất chi tiết trong chương trình Huynh Ðệ Chi Binh của đài truyền hình SBTN do nhà văn Huy Phương phụ trách vào tháng 4 năm 2008.

*Trung Tá Nguyễn Văn Tố và Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Công Anh Kiệt thoát chết trong đêm tối

– Trung Tá Nguyễn Văn Tố, sinh tháng 5, 1930 tại Thừa Thiên. Số quân 50/201.605, khóa 2 VBÐP Huế.

+ Tham mưu trưởng Tiểu Khu Thừa Thiên
+ Phó thị trưởng thành phố Huế.
+ Tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Phú Yên.
+ Trung tâm phó Trung Tâm Ðiều Hợp Bình Ðịnh Phát Triển Quân khu 1.

– Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Công Anh Kiệt sinh tháng 6, 1940 tại Saigon, số quân 60/701.173, khóa 13 Ðệ Nhị Dương Cưu Trường HQNT. Phân cuộc trưởng Hải Cảng Sâu Tiên Sa Ðà Nẵng (con rể ông Nguyễn Văn Kiểu, nguyên đại sứ VNCH tại Ðài Loan, bào huynh cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu).

Vào lúc 12 giờ 30 một đêm đầu tháng 7, 1976 tại Trại 1 Kỳ Sơn, một vệ binh mang súng AK vào nhà 9 gọi anh Nguyễn Văn Tố và sang nhà 6 gọi anh Nguyễn Công Anh Kiệt đi nhanh ra ngoài rồi dẫn đến phía ngoài vọng gác cổng chính của trại. Nơi đây có sẵn vệ binh Trương tức (Bốn) tay cầm AK chờ sẵn. Anh Tố và Kiệt đoán chúng sắp đem mình đi bắn rồi vì trước đây vệ binh Bốn đã được chọn bắn Trung Tá Võ Vàng vào ngày 13 tháng 4, 1976 tại khu Cò Bay Bồng Miêu.

Sau khi Bốn nhận 2 anh Tố và Kiệt xong chỉ tới ngồi nơi tảng đá gần đó. Tại đây anh Tố nói nhỏ với anh Kiệt: “Chắc chúng đưa mình ra bờ rào bắn rồi hô hoán là trốn trại. Sự tù tội chắc còn lâu dài lắm. Thôi chết sớm khỏe xác mình, vợ con bớt khổ trong việc lặn lội lên rừng sâu, núi thẳm thăm nuôi.” Qua lời anh Tố, anh Kiệt thở dài!!!.

Thời gian lo lắng lần đến 2 giờ 30 sáng, thấy đèn pile lập lòe sáng rồi lần hồi một cán bộ từ Bộ Chỉ Huy xuống nói nhỏ gì với tên Bốn xong về lại. Lúc nầy hai anh Tố và Kiệt rất hồi hộp, chắc chúng sắp đem mình đi bắn rồi. Hai anh thầm cầu nguyện theo tôn giáo của mỗi người. Năm phút sau, tên Bốn gọi anh Tố và Kiệt đến rồi bảo hai anh về lại nhà ngủ để mai tiếp tục lao động.

Suốt đêm nầy hai anh không sao ngủ được và cứ lo lắng mãi, kể từ sáng hôm sau hai anh Tố và Kiệt luôn được quản giáo theo dõi sát cho đến khi chuyển qua Trại 4 rồi đến Trại Tiên Lãnh.

Ðến ngày 28 tháng 9, 1978, toàn bộ tù nhân Kỳ Sơn được chuyển đến trại Tiên Lãnh. Ba ngày sau khi đến Tiên Lãnh, hai anh Tố và Kiệt liền vào nhà cùm cùng với một số sĩ quan khác chúng cho là nguy hiểm.

Hai tháng sau khi đến Tiên Lãnh, một buổi chiều qua âm thanh rùng rợn của 2 tiếng kẻng, tất cả mọi tù nhân vào phòng đóng cửa sắt. Công an trang bị vũ khí rải canh giữ từng phòng một. Các cửa nhà cùm được mở ra, khoảng 100 tù nhân từ các phòng biệt giam được đưa ra ngoài trói lại bằng dây dù cột vào nhau với 5 người một do một công an canh giữ rồi chuyển đến Trại Ðồng Mộ, Nhà Trắng để giam tiếp, trong số tù trên có hai anh Tố và Kiệt bị giam cho đến 1983.

Ðến 1988, cả hai anh Tố và Kiệt mới nhận giấy ra trại sum họp gia đình. Ngày 24 tháng 6, 1992, anh Tố cùng vợ và 4 người con được các con cháu cùng đông thân hữu vui mừng chào đón tại phi trường Los Angeles theo diện H.O. 10.

Anh Kiệt đã sang Hoa Kỳ và định cư tại Houston, Texas. Chắc chắn hai anh Tố và Kiệt chỉ quên đêm tối ấy tại Trại 1 Kỳ Sơn khi nào được thuyên chuyển về Vùng 5 Chiến Thuật (thế giới bên kia, hy vọng bên ấy không có hận thù). 
Thiếu Tá Nguyễn Tâm Miên trốn trại thành công, thời gian sau bị bắt lại (Hình minh họa)

Thiếu Tá Nguyễn Tâm Miên sinh tháng 1, 1946 tại Thừa Thiên, Số quân 66/100.004, thiếu sinh quân khóa 20 Nguyễn Công Trứ/Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Khối Kế Hoạch, tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 2 SVSQ Trường Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị, tiểu đoàn trưởng Sư Ðoàn 3 Bộ Binh.

Vận nước đổi thay, Thiếu Tá Nguyễn Tâm Miên cũng như hằng trăm ngàn chiến hữu của mình không thoát khỏi ngục tù khổ sai Cộng Sản. Chúng đưa anh vào Trại 1 Tổng Trại 2 Kỳ Sơn Quảng Nam Ðà Nẵng.

5 tháng 9, 1976: Sau khi thả một số tù, Trại 1 giải tỏa, số tù còn lại nhập vào Trại 4. Chúng tôi khoảng 40 người đưa vào Nhà 9, Khối 4. Ða số cấp bậc trung tá, về thiếu tá có các anh Nguyễn Tâm Miên, Phạm Văn Hồng, Nguyễn Văn Lai và tôi. Ðặc biệt ít ngày sau có Thiếu Úy Ông Văn Tụng nhập vào! Từ đó chúng tôi rất dè dặt qua các câu chuyện khi có viên thiếu úy nầy!

Những chiến hữu xuất thân từ Thiếu Sinh Quân, Võ Bị Quốc Gia trong tinh thần giúp đỡ bao bọc khắng khít nhau với các bạn đồng khóa, đồng môn bất cứ hoàn cảnh nào nhất là trong lao tù Cộng Sản. Một phần thời gian họ học ở trường lâu dài, hơn nữa với nội quy, chương trình học được sắp xếp rất ư khoa học để khi tốt nghiệp trở thành cán bộ có đạo đức, văn võ song toàn. Cùng xuất thân Khóa 20 Ðà Lạt nên hai thiếu tá Miên và Hồng chơi thân nhau, luôn chia sẻ ngọt bùi, lại có tâm ý trùng hợp là muốn trốn trại. Ðến khi thực hiện trốn trại tiếc thay Thiếu Tá Hồng không cùng đi được lý do bịnh hoạn kéo dài.

Sắp xếp xong với người thân qua chuyến thăm nuôi trước đó, người nhà đã đưa cho Miên 1 thẻ bầu cử chưa điền tên với đầy đủ chữ ký, con dấu cùng vài giấy tờ khác. Trước đó 1 ngày, chính Hồng là người đã điền tên vào chỗ trống lý lịch cho Miên sử dụng trong lúc đi đường.

Là nhà trưởng nên việc cắt đặt lao động do chính Miên phụ trách.

Một ngày đầu tháng 9, 1977, sau khi phân công anh em đi lao động, Miên liền lấy cây rựa ra cổng trại báo cáo vệ binh đi đốn củi. Thật nhanh đến điểm hẹn có người chờ sẵn với xe Honda. Thay xong quần áo dân sự chạy nhanh vào hướng Saigon. Chiều lại, điểm danh thấy thiếu Miên. Trại báo động, tìm kiếm thâu đêm, lúc nầy Miên đã thoát ra khỏi khu vực trách nhiệm của Quân Khu 5 Việt Cộng.

Cuộc vượt thoát thành công, sống tại Saigon ít tháng, đáng tiếc! Vì lý do nào đó cán bộ trại tìm được vào tận Saigon bắt Miên đem về trại đưa vào nhà cùm.

28 tháng 9, 1978: Tất cả tù do bộ đội quản lý được chuyển giao công an trại Tiên Lãnh trong đó có Miên và không thoát khỏi cảnh vào phòng biệt giam, qua nhiều năm kế tiếp.

Sau nầy nghe tin Thiếu Tá Miên đã sang Hoa Kỳ qua chương trình H.O.

*Trung Tá Ngô Hoàng, bị bắn tại Kỳ Sơn!

Trung Tá Ngô Hoàng, sinh vào tháng 2, 1932 tại Thừa Thiên. Số quân 52/200.968, Khóa 10, Trần Bình Trọng, Võ Bị Ðà Lạt.

– Trưởng phòng Phản Gián An Ninh Quân Ðội Quân Khu 2.

– Trưởng ty An Ninh Quân Ðội, tham mưu trưởng Tiểu Khu Phú Yên.

– Sĩ quan thanh tra Trung Tâm Ðiều Hợp Bình Ðịnh và Phát Triển Quân Khu 1.

1977: Từ Trại 1, Trung Tá Ngô Hoàng, khối phó khối 4 chuyển qua Trại 4 Kỳ Sơn. Ông bị cận thị rất nặng. Sau thời gian dài cùng anh em tù đến Phú Ninh, Tam Kỳ để khai hoang làm lòng hồ, khi trở về Trại 4 được ít tuần lễ thì xảy ra vụ Thiếu Tá Nguyễn Tâm Miên trốn trại. Hai anh Hoàng và Miên thường ăn cơm chung với nhau.

1978: Vào một ngày đầu năm, khối 4 được lịnh sang Trại 2 để đào sắn. Cơm trưa vừa xong, vệ binh tên Tư đến bảo Ðại Úy Công Binh Nguyễn Ðắc Phúc (khối trưởng) cho người theo anh ta để đi xem bãi sắn khác để ngày hôm sau đào tiếp.

Anh Phúc hỏi: Tôi đi với cán bộ? Vệ binh Tư lắc đầu và nói: Anh ở lại trông coi anh em. Anh cho anh Hoàng, khối phó, theo tôi. Anh Hoàng liền xách cúp đi theo. Vệ binh Tư bảo: rẫy có nhiều gai, anh đem theo rựa để phát quang tiện hơn. Sau khoảng 20 phút, nghe tiếng nổ của một loạt AK. Anh em tù nhìn nhau thở dài, ai nấy đều lo lắng, vì thầm nghĩ chắc anh Hoàng bị tên Tư sát hại. Quả nhiên, vài phút sau tên Tư cầm súng AK chạy ra và hô lớn: “Các anh ngồi yên tại chỗ, thằng Hoàng lấy rựa chặt tôi định giật súng, may tôi nhanh tay đỡ kịp, đã bắn nó chết rồi. Lúc nầy anh em tù nhìn khẩu súng của tên Tư không thấy dấu rựa chặt nơi báng súng. Nhưng đến khi Bộ Chỉ Huy trại lập biên bản cần có chữ ký của anh Phúc, đại diện tù, thì khẩu súng trưng bày có dấu rựa chặt vào báng súng.

Liền sau đó, một số anh em tù trong đó có Trung Tá Lê Văn Thành (số quân 60/211.374, khóa 17, Lê Lai, Ðà Lạt) lấy ván tại khu nhà Trại 2 đóng quan tài chôn anh Ngô Hoàng tại rẫy sắn.

Có điều gây chú ý về con số 4 là con số “kỵ” đối với Trung Tá Võ Vàng và Trung Tá Ngô Hoàng vì hai vệ binh sát thủ gây cái chết cho hai anh, một có tên là Trương tự “Bốn” và một có tên là “Tư.”

Sau 2 cái chết oan nghiệt của anh Vàng và Hoàng, anh em tù Kỳ Sơn hết sức hoang mang lo lắng nhất là các anh cấp tá. Người lo nhiều nhất là anh Tố và anh Kiệt vì khi anh Nguyễn Văn Tố làm tỉnh trưởng Phú Yên thì anh Hoàng là tham mưu trưởng Tiểu Khu. Anh Tố muốn báo tin cho chị Hoàng biết là anh Hoàng bị bắn rồi, chôn ở rẫy sắn, cây cối um tùm rất khó tìm. Khổ nỗi vì chị Tố đã đi thăm anh trong tuần vừa qua, nên anh phải chờ 3 tháng sau, trong lần thăm nuôi kế tiếp, anh mới nhờ vợ về báo tin cho chị Hoàng biết.

Nhận được hung tin, chị Hoàng cùng gia đình liền đến trại Kỳ Sơn 2 để tìm hiểu cái chết của anh Hoàng và xin bốc mộ chồng. Khi khai quật mộ, thi thể anh Hoàng chưa bị phân hủy nên phải dùng rượu để tuốt thịt ra đốt tại chỗ, còn xương thì đem về để mai táng. Cái chết đau thương đầy tủi hận nầy đã gieo vào lòng chị Hoàng một nỗi buồn sâu đậm khiến chị Hoàng phải lâm bịnh nặng trong một thời gian rất dài.

1992: Khi lập hồ sơ theo chương trình H.O. vì các con đã lớn và có gia đình, không hội đủ tiêu chuẩn để xuất ngoại nên chị Hoàng đã quyết định cùng ở lại quê nhà với con cháu.

1994: Từ Hoa Kỳ, anh Tố nhận được thư của chị Ngô Hoàng nhũ danh Nguyễn Thị Hương Thủy, nguyên là y tá của bệnh viện Tuy Hòa trước năm 1975, cho biết về tình trạng gia đình đang gặp khó khăn. Anh Tố cùng một số anh em cựu tù Tiên Lãnh đóng góp được 700 Mỹ kim để gửi giúp chị Hoàng. Chị dùng số tiền nầy để mở quán cơm chay, rồi chuyển sang bán xì dầu, nhưng tiếc thay công việc mưu sinh của chị đều bị thất bại và từ đó anh Tố mất liên lạc với chị Hoàng.

Ngoài những chuyện nêu trên, Tổng Trại 2 Kỳ Sơn còn xảy ra những cái chết đau lòng khác:

– Thiếu Tá Lũy (Trung Tâm Hành Quân Quân Ðoàn I) chết dưới suối do vệ binh sai bắt cá, không may bị đạp phải lựu đạn ném cá từ trước chưa nổ.

– Thiếu Tá Khóa (phi công phản lực) đói lạnh kiệt sức nằm chết trong lùm cây bên bờ sông trong ngày mưa to, gió lớn.

– Thiếu Tá Bình (TTHL Hòa Cầm) ăn chay trường, quản giáo bắt ăn mặn, ông tuyệt thực đến chết.

Riêng tại Trại 2 Kỳ Sơn có nhiều sĩ quan trốn trại, nhiều ngày sau mới bị phát hiện, một số đã vượt thoát, số người bị bắt lại bị chuyển đến trại An Ðiềm để lãnh án tử hình. Còn nhiều chiến hữu khác đã qua đời tại các Trại 2, 3, 4 do trốn trại, đau bịnh, đói lạnh… (người viết không biết rõ chi tiết)

Ðến ngày 28 tháng 9, 1978, số tù còn lại tại Tổng Trại 2 Kỳ Sơn được bộ đội chuyển giao cho công an quản lý tại hai trại Tiên Lãnh và An Ðiềm. 
Trại tù Tiên Lãnh (Hình minh họa)

Tiên Lãnh là một xã thuộc huyện Tiên Phước Quảng Nam, Ðà Nẵng. Thời VNCH là xã Phước Lãnh, quận Tiên Phước, tỉnh Quảng Tín. Trại tù mang tên Tiên Lãnh nằm cạnh ngã ba sông Tranh, cạnh trại có đường trải đá. Theo đường tỉnh lộ cách Tam Kỳ 50 cây số. Ngoài trại chính Tiên Lãnh còn các trại trực thuộc như: Trại Thôn Tư, Thôn Năm, Na Sơn, Ðồng Mộ và Trại Nữ do Công an quản lý. Khác với Trại Kỳ Sơn do bộ đội quản lý chỉ giam sĩ quan chế độ cũ. Trại Tiên Lãnh ngoài sĩ quan còn có thành phần hành chánh, đảng phái, văn nghệ sĩ,… VNCH, tù hình sự và tù phạm Cộng Sản. Các nhà giam xây gạch, cửa sắt, bao bọc bởi nhiều rào kẽm gai kiên cố. Ðặc biệt cán bộ quản lý trại đều là cán binh, bộ đội từng hoạt động tại Liên Khu 5 trước tháng 4, 1975.

Trước 1954 tại Tiên Phước có nhà tù khét tiếng Liên Khu 5 mang tên nhà lao Tiên Hội.

Nhắc đến Tiên Lãnh có biết bao nhiêu điều cần nói. Xin kể hai sự cố đau lòng nhất như sau:

*Trung Tá Nguyễn Văn Bình và Ðại Úy Trần Văn Quy trốn trại Tiên Lãnh không thoát khỏi!

– Trung Tá Nguyễn Văn Bình, sinh tháng 10, 1943 tại Thừa Thiên. Số quân 63/210.574, khóa 19 Nguyễn Trãi, Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 51, Sư Ðoàn 1 Bộ Binh.

– Ðại Úy Trần văn Quy, sinh tháng 9, 1939 tại Kiến An. Số quân 59/153.270, sĩ quan Thủ Ðức. Tiểu Ðoàn 39 BÐQ.

28 tháng 9, 1978: Từ trại tù Kỳ Sơn chuyển giao công an quản lý tại trại tù Tiên Lãnh. Sau khi đến trại chừng 2 tháng, một buổi sáng nhân cơ hội đi vác củi từ xa về trại. Trung Tá Nguyễn Văn Bình cùng Ðại Úy Trần Văn Quy liền bỏ trốn. Ðoàn tù về đến trại, điểm danh lại thấy thiếu 2 người tù. Ban Chỉ Huy trại tức tốc báo động lùng kiếm suốt một tuần không thấy. Trại báo các Buôn Thượng trong khu vực để theo dõi. Qua tuần lễ thứ 2 không rõ hai anh Bình và Quy qua mưu sinh thoát hiểm thế nào không may bị địch phát hiện. Anh Bình bị bắn chết còn anh Quy bị bắt sống. Thi hài anh Bình đưa về chôn bên vệ đường mòn nơi anh em tù thường đi lao động ngang qua. Anh Quy đưa vào nhà cùm sau một ngày trói ngay nơi cổng để dằn mặt anh em tù.

Nhân dịp nầy người viết xin ghi lại cử chỉ bất khuất của anh Nguyễn Văn Bình: Sáng hôm sau ngày nhập trại Tiên Lãnh, anh em tù tập họp trình diện viên đại úy công an để xác nhận lý lịch. Mỗi tù khi nghe đọc tên phải lấy mũ xuống rồi hô lớn có mặt. Ðến lượt anh Bình (đứng trước tôi) không lấy mũ, chỉ nói nhỏ có thay vì “có mặt” như anh em khác. Tên đại úy nhìn thẳng anh Bình giận dữ lớn tiếng: “Anh có biết lấy mũ xuống không? Anh coi thường tôi. Giờ nầy anh là tù phạm, không phải tù binh hay trung tá ‘ngụy’ đâu.” Anh Bình hết sức tức giận, trước kẻ thù anh đành nuốt hận!

Hành động của anh Bình, in đậm tâm trí tôi không bao giờ quên.

*Thiếu Úy Trần Quang Trân với bản án tử hình

Thiếu Úy Trần Quang Trân, sinh 30 tháng 9, 1949 tại Phú Lộc, Thừa Thiên, sĩ quan an ninh, chi An Ninh Phú Lộc, Thừa Thiên.

Nói đến trại tù Tiên Lãnh phải kể vụ án Trần Quang Trân, một vụ án chấn động Quảng Nam Ðà Nẵng. Cuối 1975 tại Kỳ Sơn có phái đoàn địa chất của tỉnh Quảng Nam Ðà Nẵng đã sử dụng máy dò tìm địa chất của Trung Cộng để tìm vàng tại Bông Miêu. Máy bị hỏng về Ðà Nẵng không tìm ra chuyên viên sửa chữa. Phái đoàn nhờ Tổng Trại 2 tìm cho người sửa. Anh Trân nhận sửa và máy hoạt động tốt trở lại. Từ đó anh Trân được đưa về Bộ Chỉ Huy Tổng Trại để sửa máy. Cán bộ có radio hỏng đều nhờ anh Trân sửa. Anh lén nghe đài BBC, VOA,… có tin hay tìm cách phổ biến cho các bạn tù được tin tưởng biết hầu an tâm.

Ngày 28 tháng 9, 1978, bộ đội bàn giao số tù còn lại tại Kỳ Sơn cho công an trại Tiên Lãnh. Anh Trân được giao theo danh sách chuyên viên. Qua tin đồn anh Trân sửa máy giỏi công an trại nhờ sửa Radio. Có máy anh lén nghe các đài ngoại quốc về sau ráp 1 máy nhỏ để nghe. Những tin quan trọng như: Tôn Ðức Thắng qua đời, Việt Nam đánh qua Campuchia, Trung Quốc xâm lăng miền Bắc, nhất là Hoa Kỳ và Việt Nam thương thảo để chuyển tù Việt Nam Cộng Hòa sang định cư tại Hoa Kỳ,…

Ðược tin anh em tù hết sức vui mừng và phổ biến cho nhau. Ðầu 1981 vụ nghe lén radio bị bại lộ. Ban Chỉ Huy trại cho điều tra, gom bắt gần 100 tù nhân liên quan trong tổ chức nghe radio đưa vào nhà cùm. Ðến ngày 5 tháng 11, 1981 Tòa án Nhân dân Quảng Nam Ðà Nẵng mở phiên tòa suốt một ngày tại Tiên Lãnh để xét xử 92 tù nhân với tội: Âm mưu tổ chức lật đổ chính quyền nhà nước Việt Nam.

Bản án tuyên đọc anh Trần Quang Trân tử hình. Một số khác từ chung thân, 20, 18, 13, 12, 10, 5 và nhẹ nhất là 3 năm còn lại 75 người miễn truy tố chỉ bị phạt giam. Ðặc biệt trong phiên xử anh Trân không gọi ban xử án là quan tòa mà gọi các ông. Anh nói: “Các ông không xứng đáng và có quyền xử chúng tôi, lịch sử Việt Nam sẽ xử tội các ông…”

Viên chánh án luôn đập bàn gọi anh Trân phải thưa quan tòa không được gọi các ông. Sau khi tuyên án tử hình viên chánh án cho anh Trân nói lời cuối cùng. Anh không mất tinh thần, không sợ hãi và hùng hồn tuyên bố: “Tôi không có gì nói với các ông, chỉ tiếc là khả năng của tôi không có cơ hội để phục vụ tổ quốc sau khi chế độ Cộng Sản sụp đổ!!!”

Vào lúc 12 giờ trưa ngày 19 tháng 6, 1982, chúng đưa xe đến tận phòng giam rồi bịt mắt anh Trân để chuyển ra pháp trường. Khi xe ra đến cổng trại anh cố hô to: “Ðả đảo ************! Ðả đảo Cộng Sản.”

Khoảng hai mươi phút sau nhiều tiếng súng oan nghiệt nổ để tiễn đưa linh hồn của một anh hùng Việt Nam Cộng Hòa thuộc Trại Tiên Lãnh đã hiên ngang đi vào lòng dân tộc.

Ngày 10 tháng 5, 1989 mộ phần anh Trân được gia đình cải táng và chôn tại xã Lộc Ðiền, Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên.

Chị Trân nhũ danh Vũ Thị Rần cùng hai con là Trần Diễm Trang và Trần Diễm Nga đã lập thủ tục xin định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. Công an Ðà Nẵng từ chối không cấp giấy khai tử nên hồ sơ chưa được giải quyết. Ngày 30 tháng 1, 2008, Ban Ðại Diện Hội Tù Tiên Lãnh gửi đơn đến Tòa Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ ở Sài Gòn, nhờ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cứu xét và giải quyết nguyện vọng của chị Trân.

***

Những người tù không bản án tại trại Tiên Lãnh không thể nào quên được. Hàng trăm người đã chết trong tù hoặc mang bệnh về nhà rồi chết. Trong số người chết trong trại người viết chỉ nhớ các bạn như sau:

-Trung Tá Trần Phước Xáng, khóa 10, Trần Bình Trọng Ðà Lạt, tiểu khu phó Quảng Nam chết tại khu Nhà Trắng Thôn 5 do bịnh kiết lỵ kéo dài quá lâu.

– Trung Tá Nguyễn Trinh, khóa 4 Cương Quyết Thủ Ðức, tham mưu phó CTCT Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Ðoàn I, chết vì bệnh nặng tại Tiên Lãnh.

– Trung Tá Huỳnh Như Xuân, khóa 19 Nguyễn Trãi Ðà Lạt, trung đoàn phó Trung Ðoàn 3 Sư Ðoàn 1 BB chết tại Ðồng Mộ do bịnh gan.

– Ông Ðinh Văn Biền, bí thư Quốc Dân Ðảng Quảng Nam chết tại Ðồng Mộ do bịnh suyễn kinh niên.

– Thiếu Tá Hồ Minh, phó ủy viên chính phủ Tòa Án Quân Sự Thường Trực Quân Khu 1 nhịn đói đến chết tại Nhà Trắng Thôn 5.

– Thiếu Tá Ðoàn Văn Luyến, Tiểu Khu Quảng Nam, vì đói quá nên ăn nhiều lá sắn và môn, bị phù thũng và qua đời tại Tiên Lãnh.

-Thiếu Tá Trương Ðình Phước, xuất thân Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, thanh tra Quân Tiếp Vụ Quân Khu 1. Chết vì bệnh nặng.

Thành phần sĩ quan và tù chính trị tại Tiên Lãnh, do bị tù quá lâu nên anh em biết nhau nhiều. Ra hải ngoại rất đông anh em tiếp tục sinh hoạt chính trị, tiêu biểu trong số có người bạn tù chúng tôi hằng quý mến ngay từ trong trại như Bác Sĩ Phùng Văn Hạnh: 

Y Sĩ Thiếu Tá Phùng Văn Hạnh cứu sống nhiều tù nhân Tiên Lãnh (Hình minh họa)


Y Sĩ Thiếu Tá Phùng Văn Hạnh, số quân 51/120.936, sinh tháng 10, 1931 tại Quảng Nam, được trưng dụng vào quân đội. Nhiệm vụ sau cùng là bác sĩ chỉnh hình tại Trung Tâm Y Tế toàn khoa Ðà Nẵng đồng thời Ông cũng là giám đốc dưỡng đường Ðộc Lập tại Ðà Nẵng (dưỡng đường tư của bác sĩ).

Anh em trại tù Tiên Lãnh không quên được một bạn tù đăc biệt như Bác Sĩ Phùng Văn Hạnh. Tinh thần chống Cộng rất cao, khi vào tù trại bắt lao động rồi đưa vào trạm t tế chữa bệnh cho anh em tù. Qua lần lao động sau cùng ông đạp nhằm đinh sét bị phong đòn gánh rất nặng phải đưa về bệnh viện Tam Kỳ chạy chữa. Nhờ một số bác sĩ tại đây là học trò cũ của ông đã tận tình chữa khỏi bịnh. Khi trở về Tiên Lãnh ông được tiếp tục giao phó việc chữa bệnh cho các anh em tù. Bác Sĩ Hạnh đã cứu sống biết bao đồng đội bịnh nặng sắp đi vào cõi chết.

Ông được phóng thích sau 12 năm tù, ông vượt biển vào năm 1989, sau đó được sum họp cùng phu nhân là bà Nguyễn Thị Bạch Nhạn và 7 người con gồm 4 trai, 3 gái tại Montréal, Canada. Hiện ông đang vui hưởng tuổi già cùng 8 cháu nội ngoại. Ðiều đáng ghi nhận là tất cả các con của ông đều thành đạt mỹ mãn.

Ông ghi lại những nỗi vui buồn của cuộc đời mình qua 2 tác phẩm:

– Tình Yêu Hiện Sinh, xuất bản năm 2000.

– Một Kiếp Người, xuất bản năm 2004.

Thay lời kết:

Qua tâm ý của người viết cố hồi tưởng lại những gì mắt thấy, tai nghe trong thời gian bị tù Cộng Sản tại Kỳ Sơn và Tiên Lãnh cùng nghe qua lời kể của các bạn tù. Tham khảo ít tài liệu Quân Ðội trước 1975.

Xin cám ơn tất cả mọi người trong cuộc cùng thân nhân và anh em cựu tù Kỳ Sơn, Tiên Lãnh đã cung cấp hình ảnh, tin tức và khuyến khích tôi viết lại các câu chuyện đầy thương tâm để hoàn thành loạt bài này.

Nhân tiện người viết xin có mấy lời cùng các bạn trẻ thân mến:

Sau biến cố năm 1975, các bạn được cha ông tạo cơ hội vượt thoát khỏi chế độ bạo tàn Cộng Sản và may mắn có nhiều cơ hội để học hỏi và tiến thân mưu cầu một tương lại ổn định và tươi sáng. Sự thuận lợi các bạn đang có đã đánh đổi bao sự hy sinh của cha ông đã lâm vào cảnh lao lý. Các chuyện kể trên tiêu biểu cho hàng ngàn vụ đau thương xảy ra trong các trại tù trên toàn quốc.

Hiểu được lý do chính đáng về sự hiện diện của các bạn tại quê người, các bạn nên luôn ghi ơn các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã đóng góp phần xương máu để xây dựng và bảo vệ miền Nam. Trước 1975 cuộc sống của đồng bào Miền Nam được tự do, hạnh phúc hơn hẳn một số quốc gia trong vùng Ðông Nam Á, thủ đô Sài Gòn được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Ðông. Các bạn hãy hãnh diện về thành quả trước đây, nỗ lực hơn nữa để phục hưng nước Việt trong tương lai được phú cường và không Cộng Sản hầu thực hiện nguyện vọng của toàn dân hiện đang mong ước từng ngày.

Hiện nay, tình hình chính trị trong nước đã chín mùi, ngày toàn dân mong ước không còn xa.

Hồ Ðắc Huân
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22937
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 01/May/2024 lúc 8:53am

Như Mới Hôm Qua 


Chiếc trực thăng giảm cao độ chỉ còn trên ngọn cây, lượn theo dãy đồi thấp toàn cỏ dại và cuối cùng đáp xuống sân cờ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II. Tôi chui ra khỏi lòng tàu bé tí, ngơ ngác nhìn căn nhà đồ sộ, dùng làm bộ chỉ huy toàn miền cao nguyên, đứng chơ vơ trong khoảng đất mênh mông, đằng sau ẩn hiện dãy núi mờ nhạt vùng biên giới.

Đang sống những ngày lè phè trên đảo Bình Ba, sáng uống cà phê, thụt bi-da ghi sổ, trưa sách ghe “Ya-bu-cây” đi bắn cá, bắt tôm, chiều xuống làng nhậu đến khuya, để hôm sau lại tiếp tục “cung đàn cũ”, đợi cuối tuần theo ghe vào bờ thăm động số 9, nghe bầy tiên hạ giới vừa nhai kẹo cao su, vừa ca cải lương: “ Anh ơi đừng có gì ngăn sông cách biển hay thiếu thuốc penicilline mà anh đây nỡ bỏ em dzò dzõ...ớ..ơ..một mình.” Cuộc sống cứ thế lặng lờ trôi trong buồn chán. Bỗng một hôm nhận được công điện từ Bộ Tư Lệnh Hải Quân cần huấn luyện gấp một số sĩ quan liên lạc tình báo, tôi bèn làm đơn xin đi vì đã ở đơn vị này hai năm và hơn bốn năm sống ngoài đảo. Nếu tôi không thuyên chuyển khỏi đây thì sớm muộn gì cuộc đời cũng “hai năm mươi” vì những bình rượu thuốc tầm bậy tầm bạ ngâm cắc kè, kỳ nhông, rắn mối hay những chai Kỳ Lân khạc ra lửa, cọp bay, chó chồm, xé nát cổ họng.


Về lại Sài Gòn sau nhiều năm xa cách, tôi giống như một tên Mán rừng trước những xa hoa của thành phố. Những cô học trò trong những chiếc áo dài trắng thướt tha của thủa còn là sinh viên sĩ quan năm nào đã được thay bằng những bộ mini-jupe cũn cỡn đầy màu sắc và lớp phấn son lòe loẹt trên khuôn mặt còn măng sữa của lớp con gái vị thành niên khiến tôi tưởng mình đã già quá đỗi. Chiến tranh càng khốc liệt, mọi người càng hối hả ăn chơi, sợ ngày mai không còn dịp nào nữa.


Tôi bắt đầu làm quen với những nguyên tắc kỹ thuật căn bản tình báo. Nào là hòm thư, bí số, nhà an toàn, theo dõi, ngụy tích, .v..v..Những lần thực tập lấy tài liệu từ một “agent” (điệp viên) khác trong rạp ci-nê hay theo dõi một tên “điệp báo địch” trên xe buýt đã khiến đôi lúc tôi tưởng mình là một điệp viên thứ thiệt, gần bằng anh chàng Tống Văn Bình Z28. Chỉ khác Z28 chuyên dắt gái đẹp đi chơi trên chiếc Carmaro lộng lẫy, còn tôi cuốc bộ mờ người một mình dưới cái nóng đổ lửa của Sài Gòn đầy bụi khói vì trong túi không đếm đủ 10 đồng lẻ đi xe Lam. Chả mấy chốc đến ngày mãn khóa. Tôi tính thầm thế nào cũng chọn nhiệm sở tại vùng 4 vì chưa bao giờ tôi đặt chân đến vùng này, ngoại trừ du lịch tưởng tượng qua những tác phẩm văn chương của Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam hoặc Lê Xuyên với dòng sông Trèm Trẹm và cô thôn nữ có sức quyến rũ lạ thường. Trí tưởng tượng đẩy tôi đi xa hơn nữa, tôi thấy mình mở tiệm sửa xe đạp bên đường (ngụy tích mà) ngày ngày la cà trong thôn lấy tin và uống rượu nếp than với mấy ông già trong xóm, tối tối theo bầy thôn nữ giã gạo dưới trăng...Thử hỏi trên đời này còn tuyệt thú nào hơn? Ước mơ cỏn con của tôi đã bị bóp nát trước khi biến thành nòng nọc có đuôi ngo ngoe khi ông chỉ huy trưởng gọi tôi vào nhận nhiệm sở. Chỉ tay trên tấm bản đồ hành quân chi chít những dấu sao đỏ, vùng ghi nhận có địch quân trú đóng chung quanh toàn đồi núi của thành phố Pleiku, ông nói: “Tôi quyết định gửi anh lên Quân Đoàn II làm sĩ quan liên lạc tình báo của Hải Quân tại đây, trong tất cả các khóa sinh tốt nghiệp không ai am tường địa hình, địa vật cũng như đời sống, cá tính của dân tộc thiểu số bằng anh.” Tôi cứng họng, ú ớ định trình bày là tôi chẳng biết mẹ gì về vùng cao nguyên có “phố núi cao, phố núi đầy sương” đó cả thì ông đã khoát tay đứng dậy, không quên dặn là tôi phải chuyển tin ngay lập tức khi đến nhiệm sở. Tôi đi ra với tâm trạng não nề, thất vọng như lần đầu viết thư tình bị trả về với lời phê “tán dở quá, về viết lại”. Tôi tự trách mình đã ba hoa với lũ bạn trong lúc trà dư tửu hậu rằng thì là đã từng sống ở cao nguyên nhiều năm, biết “bắt cái nước ọt ẹc” và quả quyết rằng bộ đồ nghề của người đàn bà Thượng nằm ngang. Đôi lúc cao hứng tôi còn tuôn dăm câu tiếng Thượng ngon lành, đại loại như :” mai nao buôn hả?” (em đi về buôn phải không) hay “toi dao co biet ma” (tôi đâu có biết mà). Chính những tiếng Thượng tầm bậy tầm bun, tốc cái xà rông coi chơi này đã hại tôi, để hôm nay một mình đứng lêu bêu trên ngọn đồi lộng gió, giữa thành phố biên trấn này.


Sau khi thu xếp xong chỗ ở, tôi đáp xe Lam xuống phố. Đúng như bài nhạc “Phố Núi Cao” diễn tả, cả thành phố chỉ có hai dãy nhà lụp xụp cất dọc hai bên đường đất đỏ, “đi dăm phút đã về chốn cũ” rồi sau đó chẳng biết đi đâu nữa ngoài chui vào cà-phê nghe nhạc “Mẹ ơi biên cương giờ đây, trời tuy không mưa nhưng nhiều mây...” và những dòng thơ viết trong cơn say:

Giày nhà binh bết bùn cầu Hộ Phú

Cà phê Chồn bên chợ cũ chiều mưa

Quán thịt chó cùng dăm ba xị đế

Ta say mèm mặc ngày tháng đong đưa..

Tôi đã quen dần với những buổi sáng mù sương lành lạnh, những ngày mưa dai dẳng và những con đường trơn như mỡ trong thành phố cũ kỹ đầy bụi này. Sáng cà phê đen đốt điếu thuốc Quân Tiếp Vụ đầu ngày tìm chút hơi ấm. Tối cà phê đen ru hồn trong tiếng nhạc lê thê kể lể “nàng yêu anh quân nhân Biệt Động trong một chiều cuối đông...” Công việc của tôi chẳng có gì khó khăn, ngoài hàng ngày đến Phòng II Bộ Tư Lệnh lấy tin, hoặc xuống Trung Tâm Hành Quân xem diễn tiến những cuộc đụng độ với các đơn vị địch. Quờ quạng một chút cho phải phép, tôi bèn chuồn ra phố thụt bi da, uống cà phê cho hết ngày, vì những tin tức toàn là của Bộ Binh, chẳng ăn nhậu gì đến Hải Quân cả. Những tin tức chiến lược rất hiếm, hoặc những nghị quyết của trung ương đảng Cộng Sản hay những tài liệu về vũ khí mới, là những thứ tôi cần sưu tầm thì lơ thơ như đám cây trên ngọn đồi trọc chung quanh thị xã. Tin tức của tôi thường được sáng tác trong quán cà phê, đại loại như: “Một toán địch quân, quân số khoảng gần đại đội trừ, quân phục ô hợp, vũ khí cộng đồng và cá nhân, di chuyển từ hướng Đông Bắc xuống Tây Nam, ý định không rõ. Tin A-2 của mật báo viên thông manh.”


Khoảng đầu tháng Ba 75, tình hình càng trở nên tồi tệ. Cộng quân gia tăng tấn công nhiều nơi, các căn cứ biên phòng bị tràn ngập vì không được tiếp viện kịp thời, tiếng kêu cứu thảm thiết vang trong máy truyền tin khuếch đại trong hầm Trung Tâm Hành Quân Quân Đoàn. Tôi đã có mặt thường xuyên tại đây để đọc được nét lo âu trên gương mặt của các người bạn bộ binh, đau chung với họ khi một đơn vị vừa tan hàng vì thiếu tiếp tế đạn dược, không yểm hay pháo yểm. Phẫn nộ, gào thét cùng họ khi pháo binh yểm trợ nhỏ giọt, chỉ đủ đánh thức Việt Cộng sau giấc ngủ muộn khi pháo binh không đủ đạn cung ứng cho các chiến trường nóng bỏng hơn, chiến lược hơn. Những người lính Bộ Binh Quân Lực VNCH như con mãnh hổ bị thương, gầm thét trong uất nghẹn, lùi dần đến lúc lưng dựa vào vách đá cheo leo, không đường tiến thối. Họ đã dùng hết tàn lực giơ móng vuốt đã cùn cố ngăn bầy lang sói nhe nanh tràn tới như nước vỡ bờ. Các căn cứ chiến lược chung quanh thị xã Kontum lần lượt thất thủ khiến thành phố co rúm lại trong sự bảo vệ của Trung Đoàn 45 thuộc Sư Đoàn 23 Bộ Binh khi tướng Phạm Văn Phú, người hùng của chiến trường Trị Thiên trong “mùa hè đỏ lửa”, được cử làm Tư Lệnh Quân Đoàn II, Quân Khu II. Ông là một người tầm thước, có vóc dáng văn nhân hơn là một võ tướng, tuy nhiên khuôn mặt lại có vẻ khắc khổ phong sương vì bao năm tháng miệt mài chinh chiến từ chiến trường Việt Bắc trước khi đất nước chia đôi bờ Bến Hải. Nhận trách nhiệm trấn thủ vùng II dầu sôi lửa bỏng trong lúc này chẳng khác nào như nhất kiếm trấn ải Nhạn Môn ngăn chặn Rợ Hồ tràn sang từ vùng ba biên giới Việt-Miên-Lào.


Hàng ngày tôi đều gặp ông ngồi trong Trung Tâm Hành Quân Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn trực tiếp nhận báo cáo hành quân từ các đơn vị trưởng trong vùng trách nhiệm. Cho đến một hôm, như thường lệ vào buổi sáng, tôi chui xuống hầm chỉ huy, đã thấy tướng Phú ngồi trước máy truyền tin tự bao giờ, nét mặt nghiêm nghị, thoáng chút âu lo. Tất cả nhân viên trong phòng đều mang vẻ mặt nghiêm trọng. Không một tiếng động, tiếng ồn ào như mọi ngày , ngoài tiếng rù rì của máy truyền tin và tiếng âm thoại đứt quãng, cùng những tiếng nổ của trọng pháo thỉnh thoảng vọng đến. Một sĩ quan phòng 3 rỉ tai tôi nói nhỏ: ”Việt Cộng đã chiếm quận Đức Lập và đang tiến quân về Ban Mê Thuật, Tiểu Khu Đặc Lắc báo động đỏ.” Lát sau lại có báo cáo mất liên lạc với Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Sư Đoàn 23 Bộ Binh đóng tại hậu cứ Sư Đoàn. Tướng Phú ra lệnh trực thăng vận Trung Đoàn 45 về giải vây, giọng ông hơi run, có lẽ vì xúc động trước biến cố bất ngờ, hoặc vì ông đã biết trước giải cứu Ban Mê Thuật chỉ là hành động tuyệt vọng trong lúc này, bởi lực lượng tấn công gồm ba sư đoàn chính quy, chưa kể đến các lực lượng miền và địa phương. Làm sao một trung đoàn trừ và Tiểu Khu Đắc Lắc có thể chống đỡ nổi. Buổi chiều cùng ngày, ông buông ống liên hợp, ngồi thừ bất động trong lúc hệ thống viễn liên với Ban Mê Thuật hoàn toàn im bặt. Ngay hôm đó, ông đã bay về Phan Rang họp với Tổng Thống và không trở ra  vùng II nữa cho đến khi ông tự sát tại bệnh viện Đồn Đất Sài Gòn. Ông đã đền nợ nước như một người lính trong cơn binh lửa và một vị tướng thời tao loạn đúng như:

Mỹ nhân tự cổ như danh tướng

Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu

Hôm sau tôi vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn đã thấy không khí nhốn nháo, rối loạn. Mọi người lăng xăng chạy tới chạy lui tìm phương tiện rời thành phố. Hỏi ra mới biết là Đại Tá Tất, chỉ huy trưởng Biệt Động Quân vừa được vinh thăng Chuẩn Tướng để điều động cuộc triệt thoái khỏi cao nguyên.

Tôi thẫn thờ rời Bộ Chỉ Huy Hành Quân, đứng nhìn cột cờ cao, trên đó ngạo nghễ lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ phất phới bay lần chót trước khi bị kéo xuống, cùng toán quân di tản.

Gọi điên thoại cho người bạn Không Quân trong phi trường Cù Hanh ra đón, tôi đáp chuyến trực thăng cuối cùng rời Pleiku, bỏ lại đằng sau thành phố đang bốc lửa, nơi tôi đã sống một thời gian không dài lắm nhưng đã có thật nhiều kỷ niệm.


Mây Hải Đảo
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 100 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.334 seconds.