Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Chuyện Linh Tinh | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh |
Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. | |
<< phần trước Trang of 100 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 11/Jan/2024 lúc 11:40am |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 12/Jan/2024 lúc 11:45am |
Bóng tối một mùa Xuân
Tôi nhảy xuống khỏi chiếc xe vận tải đã đưa
tôi trở về Dalat, hôm ấy là ngày 16 tháng 5 năm 1975. Tôi đã rời bỏ
Dalat theo đoàn người di tản về Saigòn chỉ mới được hai tháng, thế mà
nay trở về ... Dalat sao lạ lùng quá!... thành phố mà tôi đã lớn lên với
tất cả thời thơ ấu và tuổi trẻ hiến dâng! ...Dalat, như có vẻ gì xa
la.... cái lạ lùng trống rỗng, như thiếu vắng một cái gì đó trong tôị
Dừng lại nơi bến xe, tôi nhìn quanh, bến vắng thưa người rải rác các góc
bến xe là những chiếc xe vận tải chở người trở về từ Saigòn hay những
thành phố khác. Tôi cầm chiếc ba-lô vác lên vai, cái ba-lô hơi nặng vì
chứa toàn sách... những quyển sách mà tôi đã lấy được từ thư viện Vũng
Tàụ Nhắc tôi nhớ lại ... khi Việt Cộng vào Vũng Tàu, ngày 30 tháng 4 lúc
9 giờ sáng!!.... Tôi vẫn còn ngơ ngác như một đứa trẻ lạc bầy, không
biết chạy đi đâu ? không biết tìm nơi nào để trú ẩn!?. Miên Du Đalạt Miên Du Ðàlạt
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 16/Jan/2024 lúc 11:42am |
MÙA XUÂN ĐÃ MẤT
Người đàn bà tay bế đứa con còn đỏ hỏn, tay
xách dỏ đi lẫn vào đám đông, nước mắt ràn rụa trên mi, nàng không biết
đêm nay nàng sẽ về đâu ? trời đất xứ người sao cay nghiệt quá, bao la mà
nàng không có chỗ dung thân, cơn đói vật vã, mồ hôi ướt lạnh toàn thân,
nhìn đứa con vô tội lòng Mai đòi đoạn từng cơn, không lẽ nàng tự vận,
ai chăm sóc con thơ vừa tròn ba ngày tuổi ? Cuộc đời Mai là một khối đau
thương, tình yêu đã mất, cuộc đời Mai cũng đã hết, Mai không còn thiết
tha chi cuộc đời tận cùng ô nhục này nhưng nghĩ đến đứa con thơ, kết
quả của tình yêu oan nghiệt, Mai đành nuốt đắng cay chịu nhục nhã mà
sống lê lết trên cõi đời này… Ngọc An |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 17/Jan/2024 lúc 11:01am |
Đêm Từ Giã Sài GònRồi
cũng cũng đến ngày đối diện với thực tế và chấp nhận định mệnh. Một
định mệnh nghiệt ngã đến không ngờ. Một tháng vui tạm để khỏa lấp nỗi
trống vắng, để đánh lừa tâm trạng chao đảo suốt từ khi rời Đà Lạt sau
ngày thi cuối khóa. Cả nhà thông cảm nỗi buồn của tôi nên từ Ba Má đến
các em, luôn cố gắng hết mức trong việc tạo một nguồn vui trong những
buổi cơm gia đình trong suốt thời gian qua. Hắn thầm cảm ơn Ba dù rất
buồn, nhưng đã tận dụng những lúc chỉ có hai cha con, đã kể cho nghe về
những ngày tầm vông vạt nhọn của thời chống Tây cùng những gian nguy mà
ông đã trải qua để an ủi và chuẩn bị cho tôi vững tinh thần qua những
gian nguy, khổ ải của những ngày chinh chiến. Má và các em thì không cần
giấu cảm giác thật của mình. Ai nấy đều buồn thiu và cả tháng qua những
nụ cười liến thoắng của mấy cô em, nhứt là của cô em kế, hầu như rất ít
khi được biểu lộ. Ai nấy đều mang nét rầu rầu trên khuôn mặt, và tôi
biết Má đêm nào cũng khóc. Vào lính là chuyện sẽ xa gia đình, sẽ vào
sinh ra tử, nên buồn phiền là lẽ tất nhiên. Ngay cả khi sắp soạn cho tôi
lên Đà Lạt trọ học Má cũng sụt sùi cả tuần lễ. Tôi hay trêu chọc bà:
“Sao Má ‘cải lương’ quá vậy?” Bà chỉ bật cười, mắng yêu “... Cha mầy!
Chọc quê hả?” Tôi là con trưởng, là niềm hy vọng của gia đình nên cả nhà
không thể không lo lắng cho một tương lai bất định đang chờ đợi tôi.
Không khí gia đình, vì vậy mà trầm lắng tới mức... thì thôi cũng đành! Biết
tôi sầu đời nên dù Sài Gòn đang lên cơn sốt chiến tranh và lệnh giới
nghiêm lúc 10 giờ đêm, Ba Má đã không rầy rà khi tôi đi chơi quá khuya
và nhậu nhẹt thường xuyên hơn trước. Tôi đi đâu, làm gì cũng không cần
thưa, báo như đã làm hằng bao năm qua. Hôm nay cũng vậy. Ngày cuối cùng
trước khi trình diện nhập ngũ là một ngày hè ngập nắng. Một vòng Sài Gòn
buổi sáng chỉ đủ để ngồi ngay góc Mai Hương nhìn ông đi qua, bà đi lại.
Sài Gòn thật bình thản. Sài Gòn vẫn vui. Phố Sài Gòn vẫn đẹp. Người Sài
Gòn vẫn thờ ơ với chiến tranh dù những màu áo trận và các loại quân xa
luôn nhan nhản trên đường. Mới chia tay với thằng bạn thân ngay trước
Casino Sài Gòn, vừa xong bữa ăn trưa thì anh chàng “mặt trắng như con
gái” Võ Hữu Trí lại xách xe xuống nhà rủ đi chơi. |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 21/Jan/2024 lúc 8:45am |
Mùa Xuân Cuối CùngKhi quân Nhật tràn vào Sai gòn thập niên 40 thì Saigon bị Mỹ dội bom tơi bời nhất là phi trường Tân Sơn Nhất, vùng phụ cận nầy nhà cửa tan hoang, ba của Tân vội vàng đưa gia đình tản cư về quê. Chẳng bao lâu Nhật đầu hàng, phong trào Việt Minh nổi lên, rồi quân Pháp trở lại đánh nhau với Việt Minh . Việt minh thua mau bỏ các thành thị rút về các vùng xa như ấp xã. Họ bắt đầu khủng bố như đạo Cao Đài, ban hội tề, các ông cai tổng, các ông hội đồng, các công chức cũ của Pháp. Ba của Tân xưa là công chức sở Họa đồ của Pháp nên bị liên lụy. Một đêm họ bắt ba má Tân ra nghĩa trang giết chết. Cô Sáu em của Ba Tân, dẫn Tân chay trốn qua Củ Chi theo quốc lộ 1 ,( lúc đó Pháp kiểm soát) , về Gia định vào khu Xóm Thơm Gò Vấp giao cho cậu Mười nuôi dưỡng hộ Tân. Cám cảnh cháu côi cút nên cậu mợ thương lắm, Câu mơ có 2 con Bạch 5 tuổi Vân mới 3 tuổi. Vào lúc mùa tựu trương , cậu dẫn Tân xin vào trường tiểu học quận, vì trễ mấy năm tản cư nên đã 10 tuổi mà chỉ được vào học lớp 2. Cậu nói với Tân , con quá tuổi học trễ, đáng lý nay phải học lớp 6, nếu học dỡ ở lại lớp thì bị đuổi nha con, chịu dốt đấy. Tân nghe như in vào lòng và rất chăm chỉ học. Thấy Câu mợ cực nhọc Tân cũng thương lắm. Cậu gác đường ray xe lửa ở ga Xóm Thơm còn mợ buôn bán ở chợ Cây quéo, sáng sớm phải gồng gánh ra chợ. Ngoài việc học Tân lo mọi việc trong nhà, săn sóc hai em, Nhờ vậy mà cậu mợ thương như con ruột. Thấm thoát Tân học hết lớp 5 , đậu bằng tiểu học , thi đậu vào trường Petrus -Ký; cậu mua cho chiếc xe đạp, mấy ngày đầu cậu hướng dẫn theo lộ Võ di Nguy ra Hai Bà Trưng quẹo qua Hồng thập Tự , đi thẳng , queo qua Nguyễn văn Cử là đến trường .Tội nghiệp cứ theo con đường đó đi từ lớp đệ thất (lớp 6 ) đến lớp đệ nhị (Lớp 11). Tân biết thân phận mồ côi rất chăm học nên đậu tú tài 1 cao hạng Bình. Buổi sáng chờ kết quả, Văn người bạn cùng lớp rất mến Tân, thường cho Tân mượn sách mới xuất bản. Hai người nói đủ thứ chuyện , bất chợt Văn hỏi: bạn ở Gò Vấp theo con đường nào đến trường. Tân đáp :- mấy năm nay tôi cứ đi theo con đường Hai Bà Trưng. Văn nói : -con đường Hai Bà Trưng có đường ray xe lửa cũ mình đi vô ý lọt bánh xe vào ray té đau lắm, tôi bị một lần tởn tới già!. Tân tiếp lời : trời ơi tôi cũng bị té 2 lần trầy đầu gối. Văn cười và nói nhà tôi ở đường Hiền Vương đi thẳng gặp đường Bà Huyện Thanh Quan, vui lắm gặp nhiều thiên nga. Tân thật thà : ủa thiên nga ở đâu giữa thành phố vậy? Văn bật cười , nói : cha nầy thật thà qúa, chính là mấy nữ sinh áo trăng Gia Long đó , đẹp lắm! Trong năm học đệ nhất (lớp 12) Tân đi theo con đường Bà Huyện Thanh Quan, Tân cảm thấy vui thật vì gặp những tà áo trắng Gia Long. Chợt một hôm trên đường Bà Huyện Thanh Quan gần đường Hồng Thập Tự có một nữ sinh té bên lề lây quay đứng dậy không được , Tân quanh xe qua ngay và đỡ dậy nhưng tà áo kẹt vào sên và ru líp. Tân nói:- chị ngồi yên đó, để tôi gở tà áo ra . Sau đó Tân đỡ chị dậy và hỏi:- chị có đau không? - Cái chân mặt hơi đau chứ không sao. Nhưng xe bị cong vành trước . Tân nói có ông già đang ngồi sửa xe đem cho ông rút cam lại mới chạy được , bây giờ chị đi xích lô vào trường kẻo trễ, khi tan trường nhờ bạn chở đến đây lấy xe. Bất chợt Tân lên tiếng :- Chị tên gì? - Dạ em tên Trúc, còn Anh ? - Tôi là Tân , đoạn Tân đưa Trúc lên xích lô và quây lại hỏi cụ già sửa xe bao giờ sửa xe xong? Cụ nói:- vì phải rút cam nên mất 1 giờ Vào lớp hình ảnh Trúc cứ lờn vờn trong đầu nên khi thầy gọi lên trả bài , thầy hỏi về nước Đức , nhưng Tân cứ đem nước Pháp mà nói, cả lớp cười ! Cũng không yên lòng , sau đó Tân lên phòng giám thị nói dối rằng phải vào bệnh viện thăm người thân nên xin nghĩ vào giờ chót ,thực sự để kịp gặp Trúc nơi sửa xe. Đợi một lúc thi bạn chở Trúc ra. Hai người gặp nhau lòng phấn khởi. Tân cất lời : xe sửa xong tôi có chạy thữ tốt lắm và trả tiền rồi. Trúc nhìn Tân nói nhẹ :- trời ơi làm phiền Anh quá! - Không sao ông chỉ lấy có 20 đồng.Tân lại nói tiếp :-cho hỏi nha Cô học lớp mấy ? - Dạ em học lớp Đệ Nhị A, năm nay thi Tú Tai 1 - Còn Anh ? - Tôi học lớp Đệ Nhứt C ban văn chương - Trời ơi giỏi quá Tân cất tiếng : thôi bây giờ cũng trưa rồi mình về gắng học cho có kết qua gặp nhau nói chuyện nhiều! Trúc đáp : dạ Anh khéo quá , xin chào anh mong có dịp gặp lại! Nhưng mỗi sáng đi học trên đường Bà Huyện Thanh Quan Thường gặp nhau cười chào nhau , cho nhau niềm vui nhỏ. Thấm thoát Tân thi Tú Tài 2 và đổ , sau đó 1 tháng Trúc thi Tu Tài 1. Tân dò biết lịch thi ngày nào cũng đón Trúc trước chùa Xá Lợi Gặp nhau hai người mừng lắm và Trúc bảo cùng lên lễ Phật , cầu nguyện cho buổi thi ngày mai. Sau cùng Trúc cũng đậu Tú Tài 1 Sau khi nghe kết quả hai người thật vui mừng , Tân ngõ ý rủ Trúc cùng đạp xe đến bến Bạch Đằng. Khi đã an tọa trên băng đá , Tân mở lời: bây giờ thi cử xong , thoải mái mình nói chuyện nhiều cho phép mình xưng anh em với nhau nha. Trúc đáp : - dạ em cũng chờ như vậy, riêng em còn phải học tú tài 2 nên còn lo lắm, không biết có qua nổi không ?Ờ hỏi anh cái nầy nha, - Quê Anh ở đâu? - Quê anh ở tỉnh Hậu Nghĩa , tức Long An cũ, quận Đức Hóa xã Hiệp Hòa , năm 1945 gia đình tản cư về đó . đến năm 1946 cha mẹ anh bị Việt Minh Công sản giết chết. anh được cậu mợ ở Gò Vấp nuôi từ lớp 2 đến bây giờ. - Vậy là anh giỏi quá , mồ côi nghèo mà năm nào cũng đậu lại đâu cao, tú tài 1 đậu bình , tú tài 2 đậu bình thứ, trời ơi ban C văn chương tỷ lệ đậu ít lắm! Tân thở ra và nói giọng rất thấp:- Nhờ cha mẹ phù hộ và nhờ công ơn nuôi dưỡng của cậu mợ! Trúc tiếp lời: mẹ em sinh ra thì giao cho dì Hai Em nuôi , cha mẹ em chỉ lo kinh doanh ít nghĩ đến con. Dì Hai em là người bất hạnh giữa đời, lấy chồng có một năm thì chồng tử trận. Trong cảnh góa bụa Dì Hai nhận nuôi em như con và em cũng coi dì như mẹ và giống đức tính của dì, em cũng thích đi chùa cầu nguyện. Lúc em đang học lớp 10 thì dì phát nguyện vào chùa tu trên Bình Dương , trời ơi làm em khóc biết bao nhiêu, Không có dì Hai em ở trong nhà thật cô đơn , ba mẹ em thì tiệc tùng với các bạn kinh doanh giàu có! Anh ngang qua nhà đường Hùng Vương có bản “ xuất Nhập Cảng Âu Dược “ đó là cơ sở của ba mẹ em.Từ ngày gặp anh em rất vui và yêu đời, Không biết trời có cho mình chung đường đời không? - Cái đó tùy tấm lòng của chúng ta. Bây giờ nói thực lòng là anh thương em vì thấy rõ em là người hiền đức. Lần nào đến chùa Xá Lơi em đều mở lòng bố thí cho người nghèo và ân cần với họ! - Anh ơi đời là một cõi vô thương! Bao nhiêu xí nghiệp nhà cao ở Chợ Lớn, phút chốc trong Tết Mậu Thân đã sụp đổ tan tành! Biết được anh, gặp anh và hiểu anh như trời cho em cái lộc, em phải giữ trọn tấm lòng nhân hậu yêu thương ! Tân nắm tay Trúc và nói nho nhỏ : “ Dù cho cuộc thế nhiễu nhương “ Thương nhau ta quyết chung đường mà đi “ Trúc nhìn Tân cười và nói: - mây người học Ban C thơ văn đầy bụng, em học Ban khoa học cục mịch lắm, mà nè câu thơ đó là lời nguyền trước dòng sông thiêng Bach Đằng nhớ nha anh ! - Nhớ chứ em, làm sao quên được- - Lên đại học , anh học ngành gì? - Anh sẽ thi và Đại học Sư Phạm ban Văn Chương. Chỉ có ban Sử Địa và Văn chương là dễ đậu vì ít người thi. - Thật sư anh muốn vào sư phạm vì có học bổng giúp cậu mợ phần nào. Riêng em gắng đậu Tú Tài 2, theo anh môn Triết đối với em là xa lạ nên hơi khó, vậy chú ý phần Luận lý học trong đó có phần toán học và khoa học thực nghiệm, em học Ban A ban khoa học, phải nhuần nhuyễn về phần khoa học thực nghiệm. lờ đi các phần Sử Học , Tâm Lý học Đạo đức học, mấy phần dó thuộc về ban C . Nói sơ như vậy, mai mốt em vào lớp đệ nhất anh giảng sâu và chỉ những bài tủ cho. - Trời ơi nếu được như vậy thì vui biết bao. Tân nhìn thẳng vào mặt Trúc muốn hôn một cái nhưng tỉnh lại chàng bảo : - thôi cũng chiều rồi về em, Tân đưa Trúc về tận nhà ở đường Hùng Vương, nhà lầu 3 tầng có một bản đồng “ Công Ty Xuất Nhập Cảng Âu Dược “ . Tân đạp xe lòng chợt ngẩn ngơ, nghĩ thầm , nhà Trúc giàu quá, biết đâu chuỵen môn đăng hộ đối sẽ gây bao nỗi buồn đầy nước mắt, rồi chàng tỉnh hồn nghĩ đến Trúc tin tưởng vào tấm lòng của nàng. Thấm thoát Trúc đậu Tú tài 2 và Tân vào Đại học Sư Phạm, một hôm ngày giáp tết, gặp nhau để xem văn nghệ xuân tại trường của Tân, bất chợt Trúc nói: anh ơi mồng một tết nầy em muốn lên nhà anh , và mình đi chơi hơi xa một chuyến. - Rồi mình đi đâu nữa - Lên Bình Dương thăm dì Hai ở trong chùa. - Ờ như vậy anh sẽ mươn chiếc xe gắn máy của cậu đi thăm dì trước , chiều ghé nhà em thăm cậu mơ. Sáng mồng một Tết Tân dùng xe của cậu đến nhà Trúc sớm và Trúc vội đi ra. Tân nhìn Trúc cất lời : ủa sao thấy em buồn và mắt lại sưng bộ khóc nhiều lắm ? Dạ không có chi , thôi mình kíp lên Bình Dương thăm dì Hai. Suốt quảng đừờng nhất là khu Fatima , người du xuân như trảy hội, Tân gợi chuyện nói nhưng Trúc cũng trả lời cầm chừng vì lòng đang buồn! Đến chùa Bình Dương dì Hai gặp hai cháu mừng lắm , dì ôm Trúc hôn lia lịa và cất lời :- con đậu Tú Tài 2 rồi hả, trời dì mừng lắm! Trúc đáp : - cũng nhờ ân phúc của dì Hai dó Xoay qua Tân dì cũng nắm tay Tân và nói : - con trông hiền và đẹp trai quá! Tân cười và lặng thinh Dì Hai bảo hai đứa vào ăn cơm với dì. Ăn cơm xong dì đưa hai người vào hậu liêu và hỏi Trúc:- hơn tuần nay con khóc lắm phải không ?Chú Tư con có lên đây cho biết Ba mẹ con buộc con phải đi Tây học phải không? Trúc đáp : - dạ phải rồi ! , Con năn nỉ Ba me con khóc lóc mà ba con nhất định là con phải đi ! Thôi con không cưởng lại ý của hai người đó đâu! Bây giờ dì và chú Tư có ý kiến thế nay con cứ đồng ý đi sang đó một thời gian, rồi cáo bênh trở về. Trúc nức nở , - hai tụi con phải chia xa ! Tới thời tụng kinh , dì lên chánh điện , hai người ra khuôn viên sau chùa ngồi trên gộp đá cạnh bờ sông , Trúc nhìn Tân và nắm tay chàng nói : - Em xin lỗi anh em khổ lắm sơ anh buồn em không dám nói! Tân ôm lấy bờ vai Trúc và ôn tồn : - em đâu có lỗi gì , do hoàn cảnh thôi, mà chừng nào em mới đi? Trúc đáp :- mau lắm mồng 3 nầy, tức ngày mốt . - Trời ơi sau mau vậy, Tân nói như than ! - Ừ Ba em ông có tiền nên ông muốn là được! - Trúc ơi vậy Tết nầy là mùa xuân cuối cùng của hai ta? Trúc ôm mặt khóc và nức nở :- những ngày đi học sao hạnh phúc bây giờ hai đứa mình phải lâm cảnh đoạn trường ! Tân vuốt tóc Trúc và nói nhe : Ăn thua hai chúng ta phải bền lòng chặt dạ thì cũng có lúc tương phùng, em cứ nghe lời dì hai đi ! Trời cũng xế chiều Tân đưa Trúc về thẳng nhà Trúc , không ghé nhà cậu. Khi gần đến nhà thì Trúc hỏi : sáng mồng 3 anh có tiễn em đi không? - Em đừng buồn, anh không đến chờ máy bay ngang nhà anh tưởng đến em . Chứ ra sân bay anh lạc lõng trong khúc đoạn trường theo dòng lệ của em và sư khó chịu của gia đình, tạo thêm cảnh ngỡ ngàng ! Đời anh mãi yêu Em! Trúc đáp : em thề em cũng vậy nàng khóc, và bước vội vào nhà! Tân bái xe đi nước mắt lưng tròng ! Ôi cảnh biệt ly nào cũng buồn! Đến ngày mồng năm Tết trên mâm cơm Tân nói với cậu mơ rằng Tân bỏ học Sư Phạm và đăng vào khóa sĩ quan Thủ Đức! Cậu hỏi sao kỳ vậy con , đang học sư phạm yên rồi mà. Tân đáp : cậu thấy không cha má con bị Cộng sản nó giết , nếu con cứ là thầy giáo thì con mang nợ suốt đời vì ơn nhà nợ nước con còn mang mãi ! Câu nghe vậy làm thinh , mơ cất lời : trời lúc nay đánh quá mà con ! Rồi 2 em Bạch và Vân buông đủa sang ôm tay Tân và nói: bộ anh đi đánh giặc hả? Tân vỗ về hai em : -không sao anh cũng về với hai em mà! Sau đó Tân vào trường bộ binh Thủ Đức và vào binh chủng nhảy dù. Chiến trân triền miên vào khốc liệt. Năm 1974 tiểu đòan của Tân đi giải cứu quận Thường Đức . Đến năm 1979 có người chiến hữu đến báo tin cho cậu biết rắng Tân đã tử trận và được chôn cất trong nghĩa trang của sư đoàn 22 tại Quy Nhơn. Kịp đến năm 1980 một chiến hữu dẫn cậu ra lấy cốt và thiêu cho vào lọ sành , Mợ không cho đem vào chùa , để chung trên bàn thờ bà ngoại, mợ nói lúc nó sống nó thương cả nhà nhất là 2 em nó, bây giờ để nó trong nhà cho ấm cúng và nó phù hộ hai em nó học giỏi như Tân vậy! Đến cuối năm 1980 ngày giáp Tết Trúc tìm được nhà cậu, Trúc vào cả nhà chưng hửng cậu hỏi phải con là Trúc hả . Sau biệt tăm lâu quá? Trúc đáp con bị ba má buộc qua Tây học nên con và anh Tân phải chia ly , ở bên Pháp sau 30 tháng tư 1975 tụi thân công nó quạy lắm chúng con phe quốc gia cũng chống lại và tổ chức ngày quốc tang. Năm 1977 con về nườc xui là đi chung chuyến phi cơ với đám Việt khiều yêu nước đo bác sĩ Nguyễn Ngọc Hà dẫn đầu. Xuống phi trường Tân Sơn Nhất là công an bắt con đưa về nhà tù Phan Đăng Lưu buộc con là gián điệp , về Việt Nam để kết họp với phục quốc. Đến năm 1978 nó đưa nhốt con ở nhà tù Hàm Tân, tới nay là năm 1980 nó mới thả con ra chừng được 2 tuần lễ. Con tìm suốt một tuần đến nay mới gặp cậu mợ! Mợ nắm tay Trúc mà than :- ở tù tụi nầy là khổ lắm, trước Tân có cho cậu mợ con xem ảnh con đẹp lắm! Trúc cất giọng tha thiết : con muốn biết tin tức của anh Tân! Mợ ôm Trúc và khóc : con ơi Tân nó chết rồi, Tân tử trận năm 1974. Cậu tiếp lời , từ lúc con đi thì nó vào lính đi đánh cộng sản triền miên và tử trận ở Thường Đức, cậu đã ra Quy Nhơn lấy cốt nó về, hủ cốt Tân đang để trên bàn thờ ngoại. Câu vội bưng hủ cốt trao cho Trúc có cả 2 tấm thẻ bài. Trúc ôm hủ cốt vào lòng và khóc : - Anh Tân ơi sao thế nầy được , chính em hay ai làm anh chết làm em khổ, ai gây chia cho tan tác tình mình! Trời ơi bức ảnh nây chụp tại trường anh trong đêm văn nghệ anh cũng cho em một tấm, trời ơi bây giờ bất động chỉ còn nụ cười hiền lành của anh nhưng biền biệt đâu rồi! Mợ kéo chiếc ghế đỡ Trúc ngồi xuống và nói : con bình tỉnh lại , bây giờ con muốn thế nào , vẫn để Tân ở đây hay đem vào chùa? Trúc lấy tay gạt nước mắt và nói trong nghẹn ngào : - Con đưa anh Tân vào chùa của đì Hai ở Bình Dương và con xuống tóc tu trong chùa để gần Tân mãi mãi! Mợ nói:- bây giờ mợ sẽ cùng con lên taxi đưa con ra bến xe Bình Dương và con nhớ bình tỉnh đừng xúc động lỡ cái bình nầy rơi bể thì khổ lắm! Trúc đáp : dạ con nghe lời mợ Mợ dìu Trúc ra ngõ, nắng chiều đổ xiêng trên mái lá, con chim sáo lạc đàn kêu thật buồn trên khóm trúc ! Hàn Thiên Lương |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 25/Jan/2024 lúc 11:23am |
Trại Tạm Giam T16Không biết các trại tù khác thì sao, chứ dạo gần đây, trại giam T16 thuộc Tổng cục 8 Bộ Công an cứ đông vui như ngày hội. Bao nhiêu là quan chức nhà nước xộ khám. Toàn tai to mặt lớn. Ngày nào cũng có xe tù chạy vào sân trại, cứ hai người khóa chung một còng, a-lê nào một hai ba nhảy xuống. Hôm trước bộ trưởng Son với bộ trưởng Tuấn nhảy không ăn ý, té dập mặt, cứ ông nọ đổ cho ông kia, chửi nhau như chó. Hôm trước trước nữa, lâu rồi, trung tướng công an Phan Hữu Tuấn mới đứng lên, chưa kịp đếm một hai ba, trung tướng thứ trưởng bộ công an Bùi Văn Thành đã nhảy, lôi theo Tuấn, đầu cắm xuống trước. Thế là đánh nhau. Mỗi người chỉ có một tay, đứa tay mặt, đứa tay trái, cứ thế im lặng thụi nhau túi bụi. Ông Đại tá Chánh giám thị mừng lắm. Đứng giữa sân đưa mắt nhìn toàn những là Bộ trưởng với Tổng giám đốc, với tướng công an, quân đội chạy ùa vào phòng giam dành nhau chỗ nằm, ông thấy họ không còn là thượng cấp hay lãnh đạo đảng đầy quyền uy, thở ra mùi đạo đức nữa, mà họ chỉ là những con gà tù đẻ trứng vàng mà ông giời đã ban phát cho ông. Mà thật đúng như vậy. Đang ngồi làm cái việc văn phòng trên Bộ đói meo, nhìn những thằng cùng cấp khác ăn mà sốt cả ruột gan. Bổng nhiên giời thương, giời xui khiến cho hai thằng tử tù là Thọ sứt và Nguyễn Văn Tình trốn trại. Thế là nguyên giàn giám thị cũ bị kỷ luật. Ông được Bộ đưa về thay thế, sau khi vợ ông đã cầm sổ đỏ cho ngân hàng để chạy cho bằng được cái ghế nóng này. Hôm làm lễ nhậm chức, một đồng chí thượng cấp còn thủ thỉ vào tai ông, ai về T16 cũng vài năm là xây nhà, lúc ấy cậu đừng quên là trong bao nhiêu thằng chạy ghế, tớ chỉ chiếu cố và ủng hộ cậu…. Làm giám thị ở đây thật sướng như tiên. Các cơ sở vật chất của T16 rất khang trang. Khu tạm giam, khu lao động, khu dạy nghề…đều là những khối nhà xây chắc chắn, tường quét vôi vàng, với những bãi cỏ bao quanh. Còn bọn tù, ngoài số tù hình sự mà trại giam nào cũng có, ở đây được đặc cách tiếp nhận những tù tham nhũng, tù kinh tế, toàn thứ gộc, toàn là những con bò sữa mập ú, tha hồ cho ban quản giáo bu lại mà vắt. Có gì đâu, muốn nằm rộng rãi, không phải đi lao động, vài chục triệu. Muốn xài điện thoại à ? Ấy chết cái này phạm nội quy, cứ đưa đây trăm triệu xài thoải mái, hết pin quản giáo đem về phòng riêng xạc giùm cho. Công an canh gác thì kiếm ít hơn nhưng thường xuyên hơn : Tù muốn ăn gì, bất kể ngày đêm, xách xe đi mua cho bằng được, kiếm vài trăm ngàn tiền bo về đưa cho vợ. Giữa khuya tù đòi gối ôm cũng có. Không biết khuya khoắt thế tiệm nào còn mở, chuyện này chịu. Có ông Thứ trưởng còn nhất định đòi mua quạt máy, trong khi các phòng giam theo quy luật không bao giờ có ổ cắm điện, Thế là phải nối dây từ căng tin gần đó vào tận chỗ ông nằm, Hết ca trực, mấy ông công an lại lui cui thu dây về, sợ hỏa hoạn hay có chuyện gì xảy ra thì đi tù cả nút. Mấy chuyện này Ban Chỉ huy trại đều biết, nhưng các ông Chánh và Phó giám thị quay mặt đi chỗ khác cho đó thôi. Các ông không ăn vặt như thế. Một năm các ông ấy chỉ ăn vài lần, vào các dịp lễ tết, cứu xét giảm án với lại đặc xá tha tù trước thời hạn thôi. Với tù thường thì vài trăm triệu, chứ với những con cá mập kia thì đơn vị cứ phải tính bạc tỷ cho một lần giảm án. Giá nhất định. Xin miễn trả giá, cảm ơn. Chúng tôi làm việc theo phương châm Vui lòng khách đến vừa lòng khách đi. Vì nhân dân phục vụ…. Nhưng cũng phải khéo, không khinh xuất được. Cái nghề coi tù nó thế, lúc nào cũng phải nâng cao cảnh giác cách mạng. Như cách đây không lâu, hai cái chết của Hưng Kính, trùm bảo kê chợ Long Biên và của tay đại ma đầu Trần Bắc Hà đã làm ông Chánh giám thị điêu đứng. Bao nhiêu là đoàn thanh tra đổ về trại. Ông có giết họ đâu. Hưng kính chết vì bịnh gan, còn Trần Bắc Hà bị ngộ độc. Nhưng kệ, nếu không chi ra hàng tấn phong bì với lại thanh toán hàng trăm hóa đơn của các nhà hàng sang trọng ở Hà Nội, thì chưa chắc giờ này ông đã được yên thân. Bao nhiêu thằng đại tá khác ngồi không trên Bộ đang nhằm nhằm vào cái ghế thơm như múi mít của ông. Chờ cho phạm nhân cuối cùng đã hoàn tất thủ tục nhập kho, sân trại đã vắng hoe, ông Chánh giám thị mới lững thững trở về văn phòng. Vừa đi ông vừa nghĩ đến miếng đất mà ông sắp mua ở Sóc Sơn. Đây là đất rừng phòng hộ. Nhưng đã sao ? Con bé ca sĩ Mỹ Linh còn cất biệt thự được, chẳng lẽ ông gần 40 tuổi đảng lại không xây được à ? Cùng lắm thì ông sẽ học tập theo lời dạy của Năm Cam : cái gì không mua được bằng tiền, thì sẽ mua được bằng rất nhiều tiền. Dù sao, nói có giời làm chứng, cái chế độ này nó đểu thế rồi, ông có muốn không đểu cũng không được. Loc Duong |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 29/Jan/2024 lúc 12:45pm |
Người Nữ Tu Trong Cô Nhi Viện PleikuHình minh họa Hơn sáu tháng sống chết với chiến trường và giữ vững được Kontum, đầu tháng 10 1972, đơn vị tôi được kéo về Pleiku dưỡng quân và bổ sung quân số. Đây là phần thưởng đặc biệt dành cho một đơn vị đã tạo nên kỳ tích trong trận chiến đẫm máu để có một “Kontum Kiêu Hùng”. Một tháng đóng trên Đồi Đức Mẹ lại là một tháng gió mưa lầy lội. Hình ảnh của bao nhiêu bạn bè đồng đội vừa hy sinh trên chiến trường Kontum lúc nào cũng hiện ra trước mặt, đau đớn tựa hồ như những vết chém đang còn rỉ máu trong lòng. Muốn tạm quên trong chốc lát đã là một điều không dễ. Bọn tôi thèm những cơn say. Rất may, tôi có một anh bạn, phải nói là ông anh mới đúng, là Liên Đoàn Trưởng của một Liên Đoàn Biệt Động Quân, có căn cứ tại Biển Hồ. Vợ và hai đứa con bị chết thảm tại Quảng Đức hơn một năm trước, khi xe bị VC giật mìn, nên bây giờ anh chỉ còn làm người tình với rượu. Những ngày không bận hành quân, anh đến đón tôi đi uống rượu trong một cái quán nằm trong Khu Chợ Mới, đã vậy mỗi khi trở về, anh còn dúi cho tôi một chai Hennessy. Trước kia anh từng là một cấp chỉ huy có tiếng trong binh chủng này, nhưng vì bản tính ngang bướng bất cần, nên nhân một lý do phe phái chính trị nào đó, anh bị ngồi tù một thời gian ngắn. Ra tù, anh bị thuyên chuyển về đơn vị tôi với cái lệnh “không được giữ bất cứ chức vụ chỉ huy nào”. Biết anh là một niên trưởng và từng dạn dày lửa đạn, tôi tận tình giúp đỡ, an ủi anh và kéo anh về ở chung nhà trong khu cư xá, vợ tôi lo chuyện cơm nước cho anh. Một thời gian sau, bỗng dưng anh được xét cho “vô tội”, trở lại binh chủng, thăng cấp và chỉ huy một liên đoàn Biệt Động Quân. Do cái ân tình đó mà anh quý mến tôi, kéo tôi theo các cuộc giải sầu này. Dường như ngoài quán rượu ra, thỉnh thoảng anh chỉ ghé đến thăm một cô nhi viện. Nói là viện nhưng thực ra đây chỉ là một ngôi trường cũ, được chỉnh trang lại, tạm đáp ứng nhu cầu cần thiết cho một trại cô nhi. Có lẽ anh muốn tìm lại bóng dáng của hai đứa con đã phải chết oan một cách đau đớn qua hình ảnh các cháu cô nhi mà đa số là con của tử sĩ, có cả con của những người lính Biệt Động Quân của anh, mà cả người mẹ cũng chết, hay vì một lý do nào đó không có khả năng nuôi dưỡng, nên đành phải gởi lại nơi đây, nương nhờ vào bàn tay và tấm lòng nhân ái của những bà sœur. Anh bảo là từ sau trận chiến Tân Cảnh và Kontum, cô nhi viện này nhận thêm khá nhiều cô nhi. Hằng tháng, anh ghé lại đây thăm và tặng cho viện một số tiền, bởi bây giờ anh sống độc thân, không còn phải chu cấp cho ai. Biết điều này, tôi càng kính quí anh hơn. Một người ngang tàng không biết sợ ai, sống bất cần đời, nhưng bên trong là cả một tấm lòng vị tha nhân ái. Một hôm theo anh đến đây, chúng tôi được một bà sœur ra tiếp và mời vào văn phòng uống trà. Anh bạn tôi thì đã là người quen biết từ lâu, trong cách giao tiếp, anh được các sœur xem như một ân nhân bảo trợ, chỉ có tôi là người lạ. Nhưng khi chào tôi, sœur bảo thấy tôi giống một người thân quen nào đó. Còn tôi, thì cũng mơ hồ như đã từng gặp người nữ tu này ở đâu rồi. Cũng có thể vì khuôn mặt khả ái, hiền thục của sœur phảng phất gương mặt của Đức Mẹ Maria mà tôi thường thấy trên các bức ảnh hay bức tượng trong các nhà thờ. Được giới thiệu là sœur Anna, tôi biết đây chỉ là tên thánh của bà. Khi tôi vừa ngồi xuống phía đối diện, sœur nhìn chăm chú vào cái bảng tên của tôi trên nắp tùi áo, bỗng mắt sœur như sáng lên: – Có phải lúc trước đại úy ở Tiểu Đoàn 3/44? Tôi khựng lại, ngạc nhiên: – Dạ, đúng là trước kia có mấy năm tôi ở tiểu đoàn này. Nhưng cách nay đã 6, 7 năm rồi! – Đại úy còn nhớ trận Quảng Nhiêu. Hình như đại úy suýt chết trong trận ấy? Tôi càng ngạc nhiên hơn, không hiểu tại sao người nữ tu này biết rõ mình như thế. Tôi vừa trả lời vừa nghĩ ngợi, thăm dò: – Dạ đúng, nhưng sao sœur biết. Chuyện đã xảy ra lâu lắm rồi mà. Sœur Anna không trả lời mà hỏi lại tôi: – Đại úy thoát chết, nhưng người nằm hố bên cạnh thì bị nguyên một quả đạn súng cối 60 hay 80 gì đó, phải không? Tôi giật mình, từ ký ức hiện ra rất nhanh hình ảnh hãi hùng này, và ngay lúc ấy, trước mắt tôi sœur Anna cũng phảng phất bóng dáng của một người con gái khác. *** Vào khoảng đầu mùa hè năm 1966, tôi đang làm đại đội phó Đại Đội 3 thuộc Tiểu Đoàn 3/44. Thời gian này hậu cứ tại Ban Mê Thuột, nhưng tiểu đoàn được chọn làm đơn vị trừ bị lưu động cho Sư đoàn và Khu 23 Chiến Thuật. Thời ấy chưa có các đại đội trinh sát. Đơn vị tôi có mặt gần như trên khắp lãnh thổ Khu 23 Chiến Thuật, kéo dài từ vùng cao nguyên có biên giới với Cam Bốt cho đến tận miền duyên hải. Có khi hôm trước còn hành quân ở Quảng Đức, Lâm Đồng, hôm sau lại có mặt ở Bình Tuy, Tuy Hòa, Phan Thiết… Một hôm, sau cuộc hành quân dài hạn ở khu Cà Ná, thuộc tỉnh Ninh Thuận, tiểu đoàn được lệnh di chuyển về Cam Ranh, vừa nghỉ dưỡng quân vừa giữ an ninh các đảo ngoài khơi để lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu đổ quân xuống đây thiết lập căn cứ. Trong một đợt bổ sung quân số, đại đội tiếp nhận ba hạ sĩ quan và gần hai mươi tân binh vừa rời khỏi quân trường. Tôi đến bộ chỉ huy tiểu đoàn nhận lãnh và đưa về trình diện anh đại đội trưởng. Trong ba trung sĩ, một anh có dáng dấp, nói năng hiền lành như một thầy tu. Xem qua lý lịch và nhất là sau khi nói chuyện, tôi biết anh là thầy giáo một trường dòng và cũng là trưởng ca đoàn của một nhà thờ ở ngoại ô thành phố Nha Trang, quê hương tôi. Tôi không phải là người Công giáo, nên không mấy am tường các sinh hoạt này, nhưng biết chắc một điều, trưởng ca đoàn phải là một người hát hay và giỏi về nhạc lý. Vốn có máu văn nghệ, lại là người đồng hương, nên tôi dễ thân tình và thường bắt anh hát cho cả đại đội nghe. Tôi đề nghi anh đại đội trưởng cho anh làm Hạ Sĩ Quan Tâm Lý Chiến của đại đội. Từ đó chúng tôi rất thân nhau, ăn cơm chung và treo võng ngủ gần nhau dưới một vòm cây dương liễu. Thấy anh có cái tên hơi lạ, Nguyễn Phú Hùng Em, tôi đoán và hỏi anh có phải anh có người anh tên Nguyễn Phú Hùng Anh. Anh cười mà nét mặt không vui: – Dạ, đúng là có một người là Nguyễn Phú Hùng Anh, nhưng không phải là anh ruột. Chúng tôi lớn lên trong viện mồ côi, vì trùng tên, và anh ấy lớn hơn tôi ba tuổi, nên các sœur đặt lại tên chúng tôi như thế. Bọn tôi cũng rất thân nhau và xem như anh em. Điều buồn, là anh ấy đi lính trước, vào Trường Sĩ QuanThủ Đức và tử trận cách nay hơn một năm rồi. Thời gian này, đơn vị chúng tôi rất may mắn, chẳng khác nào được đi nghỉ mát. Hải đảo lại là nơi thực tập cho các toán Biệt kích của Trung Tâm Huấn Luyện Lực Lượng Đặc Biệt Đồng Bà Thìn, nên khá an toàn. Suốt ngày bọn tôi chỉ tắm biển, câu cá, ban đêm nằm nghe sóng vỗ, đàn hát nghêu ngao. Có lẽ đây là thời gian đặc biệt thoải mái nhất trong cuộc đời làm lính của tôi. Nhân cơ hội hiếm hoi này, ông Tiểu đoàn trưởng cho phép binh sĩ được luân phiên đón vợ con ra thăm và được ở lại trong hai tuần lễ. Một hôm anh Trung sĩ Hùng Em xin tôi cho được đón người yêu mà anh cho biết, nếu anh không bị động viên thì chắc hai người đã làm đám cưới. Tôi sắp xếp, dọn sang nằm với người lính ô-đô và nhường chiếc võng lại cho anh. Cả Nhà Thờ Núi Nha Trang bọn tôi khá bất ngờ khi anh đưa người yêu đến chào. Là một cô con gái đẹp, làn da trắng, khuôn mặt phúc hậu, đôi môi mọng đỏ với nụ cười hiền lành, lễ độ. So với anh, cô còn khá trẻ. Cô có cái tên cũng rất khả ái: Thụy Khanh. Đặc biệt còn có giọng hát rất hay. Mỗi lần cô hát, cả đám lính tráng bọn tôi ngồi nghe mê mẩn. Sau đó, cô đến đảo thăm anh vài lần nữa. Những ngày có cô, núi rừng trên đảo dường như bỗng trở nên đẹp, thơ mộng và vui vẻ hơn, sóng biển thì êm ả hơn như để cùng hòa theo tiếng hát của cô. Ngoài ra cô còn có tài nấu ăn, thường đãi bọn tôi những bữa cơm rất ngon miệng. Tất cả đơn vị, từ quan tới lính ai cũng nghĩ anh Trung sĩ Hùng Em thật là tốt phước, ông trời đã cho anh một người tình, một người vợ lý tưởng sau này. Qua tâm tình, chúng tôi được biết, hai người quen biết nhau trong viện mồ côi từ khi còn rất nhỏ. Sau này anh vừa là thầy dạy học, dạy nhạc vừa là trưởng ca đoàn của cô trong cùng một nhà thờ. Hai người đều chơi dương cầm và hát hay nhất trong ca đoàn. Tình yêu bắt đầu nẩy nở từ môi trường cô nhi và âm nhạc. Và cuộc tình của hai người được các vị linh mục cùng các sœur đồng tình, khuyến khích, như là một sự kết hợp nhiệm mầu của Thiên Chúa. Hơn ba tháng thần tiên ở đảo Cam Ranh, khi các đơn vị tiền trạm của Hoa Kỳ được ào ạt đổ xuống thành lập “Cam Ranh Air Base”, tiểu đoàn tôi có lệnh rời khỏi đảo, di chuyển để tiếp tục lưu động khắp nơi. Lâm Đồng, Bình Thuận rồi Ninh Thuận, Sau những cuộc hành quân dài hạn trong rừng, mỗi lần đơn vị được về phố ít ngày hoặc đóng quân trong các làng mạc nằm khu ngoại ô, chúng tôi lại thấy người con gái xinh đẹp Thụy Khanh đến thăm và ở lại với người yêu. Đó là một đôi tình nhân gắn bó, đẹp và lãng mạn nhất mà bọn tôi chứng kiến, và có lẽ ai cũng thèm thuồng có được một hạnh phúc như thế. Tháng bảy năm 1966, khi đơn vị nghỉ quân ở Tháp Chàm – Phan Rang, Trung sĩ Hùng Em xin một tuần phép đặc biệt để về Nha Trang làm đám hỏi. Anh bảo cả hai người đều không có cha mẹ anh em, nên lễ đính hôn đều do các vị linh mục và các sœur đỡ đầu tổ chức. Đúng lúc anh vừa mãn phép trở lại, thì đơn vị có lệnh không vận khẩn cấp lên Ban Mê Thuột để tiếp viện cho một đơn vị Biệt Động Quân và Thiết Giáp bị thiệt hại khá nặng tại trận chiến Quảng Nhiêu, nằm phía Tây Bắc, cách thành phố Ban Mê Thuột khoảng hơn mười cây số. Trận chiến khá cam go, ác liệt. Một lực lượng địch cấp trung đoàn, sau khi tổ chức phục kích gây tổn thất cho chi đoàn Thiết Quân Vận và một đại đội Biệt Động Quân tùng thiết, bọn chúng đào nhiều giao thông hào và hầm hố cá nhân kiên cố trong các vườn cà phê, để chặn đánh các cánh quân của ta tiếp viện. Tiểu đoàn tôi cùng một chi đoàn Thiết Vận Xa khác được tăng phái cho Trung Đoàn 45, đặt dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Võ Văn Cảnh, đảm trách cuộc hành quân phản công, bao vây tiêu diệt địch. Địch chiếm ưu thế về vị trí, chuẩn bị trận địa, bên ta có sức mạnh của thiết giáp và không yểm. Sau suốt năm ngày đêm không ngủ, lăn mình trong mịt mù lửa đạn quần thảo với địch, cuối cùng chúng tôi đã đạt được chiến thắng. Một số lớn địch quân bị tiêu diệt và bắt sống, nhưng bên ta cũng phải trả một cái giá không nhỏ. Đại đội tôi may mắn, chỉ có ba quân nhân tử trận và khoảng mười người bị thương, trong đó có anh đại đội trưởng. Tôi được chỉ định tạm thời chỉ huy đại đội. Cuộc hành quân vẫn chưa kết thúc, một số đơn vị tiếp tục truy kích địch, riêng tiểu đoàn tôi được lệnh ở lại Quảng Nhiêu. Ban ngày tung các cuộc hành quân tảo thanh chung quanh, ban đêm phòng thủ bảo vệ khu vực dân cư, mà đa số là người Công giáo, đề phòng địch quay lại quấy rối, phục thù. Đại đội tôi được chỉ định bảo vệ một Pháo đội Pháo Binh 105 ly. Điều tồi tệ là vị trí Pháo đội này nằm trên một khu đất trống trải, trong phòng tuyến và cả phía bên ngoài cũng không có một cành cây, dưới đất chỉ toàn là bụi đỏ, dày cả một gang tay. Mỗi lần Pháo binh tác xạ, cả đất trời gần như chỉ toàn là bụi. Đám lính chúng tôi từ đầu tới chân cũng phủ đầy bụi đỏ. Đơn vị Pháo Binh thì đã có sẵn hầm hố kiên cố từ trước, còn đại đội tôi phải tự đào lấy những hố cá nhân, nhưng không thể đào sâu được, vì dưới đất chỉ toàn bụi và bụi, đào đến đâu bụi đỏ tràn theo tới đó, và mỗi lần Pháo Binh tác xạ, những cái hố này bị bụi lấp cạn thêm. Ban đêm, chúng tôi nằm trong những chiếc hố ấy, nhưng không che đủ nửa thân người. Cái hố của tôi dành cho hai người nằm, tôi và anh Hạ sĩ mang máy truyền tin. Hố kế bên trái là Trung sĩ Hùng Em và anh lính ô-đô của tôi. Một hôm, khoảng hai giờ sáng, khi tôi đang ngủ chập chờn, bỗng một tiếng nổ chát chúa ngay bên cạnh, mảnh đạn và bụi phủ đầy người, tôi bật dậy chụp vội cây súng chạy ra hàng rào phòng thủ, nơi vọng gác có đặt khẩu đại liên. Rờ nắn vội qua khắp người xem có thương tích gì không, tôi thở phào vì không thấy dấu hiệu đau đớn nào, nhưng khi các trái sáng bắn lên, nhìn bụi đỏ phủ đầy người tôi giật mình cứ ngỡ là máu. Địch quân đã pháo kích chúng tôi hơn 10 quả bằng hai khẩu súng cối 61 ly từ hai địa điểm khác nhau. Pháo Binh đã phản pháo chính xác làm bọn chúng câm họng. Khi tình hình ổn định, trở về hố, tôi bàng hoàng nghe anh lính ô-đô báo là Trung sĩ Hùng Em đã chết. Anh đã lãnh nguyên một quả đạn 61 ly, rớt ngay sát bên cạnh, ruột đổ ra ngoài và thân thể nhuộm đầy máu. Điều kỳ lạ, là anh lính ô-đô của tôi nằm ngay một bên mà không hề hấn gì, chỉ có áo quần dính đầy máu và thịt của người đồng đội xấu số. Tôi theo hai người lính khiêng thi thể Trung sĩ Hùng Em, được gói tạm trong tấm poncho, vào hầm cứu thương của Pháo Đội. Anh chết thật thê thảm. Tôi đứng lặng người, sau khi vuốt đôi mắt cho anh. Từ khi ấy cho đến sáng, tôi không hề chợp mắt. Tôi nghĩ đến Thụy Khanh, cô con gái xinh đẹp hiền thục, có giọng hát khuấy động cả trái tim người, vừa trở thành vị hôn thê của anh chỉ mới hai tuần trước. Trưa hôm qua, khi rủ nhau vào thăm ông cha xứ trong xóm đạo và để xin được tắm giặt ở cái giếng sâu phía sau nhà thờ, anh đã khoe tôi tấm hình anh chị chụp chung trong lễ đính hôn, và bảo rằng cuối năm này hai người sẽ làm đám cưới. Anh còn nói nhỏ với tôi, ông cha xứ của anh hứa sẽ giới thiệu anh với vị Linh mục Tuyên Úy của Sư Đoàn để xin anh về làm ở Phòng Tuyên Úy, vì hai ngài là bạn tu với nhau và được thụ phong cùng một ngày. Nhớ tới hai khuôn mặt hiền lành với nụ cười rạng rỡ trong tấm hình đính hôn, lòng tôi se lại. Chiến tranh tàn ác quá, đã chia ly biết bao nhiêu người, và làm dang dở biết bao mối tình đẹp đẽ như anh Hùng Em và cô gái Thụy Khanh. Tôi bỗng chạnh lòng, nhớ tới người yêu, cũng là vị hôn thê của chính mình, hằng đêm cầu nguyện cho tôi, từ một thị trấn nhỏ, mà giờ đây đang xa tít mịt mùng. Một năm sau đó, tôi được nghỉ mười lăm ngày phép về Nha Trang làm đám cưới. Nhớ đến Hùng Em, tôi rủ vợ cùng tìm đến nhà thờ gần khu Đồng Đế để hỏi thăm tin tức về nơi chôn cất anh. Chúng tôi được một vị linh mục trẻ đón tiếp niềm nở và hướng dẫn đến thăm mộ Hùng Em, nằm trong một nghĩa trang nhỏ của giáo xứ, gần biển. Từ đó, tôi có thể nhìn thấy Hòn Chồng, nơi chôn giấu nhiều hang động của tuổi thơ tôi. Đọc trên tấm bia, tôi thấy tên người lập mộ được ghi vỏn vẹn hai chữ: Thụy Khanh. Nhớ tới người con gái xinh đẹp, phúc hậu, có giọng hát rất hay ấy, tôi hỏi vị linh mục: – Thưa cha, chị Thụy Khanh, vị hôn thê của anh Hùng Em có khỏe không, và bây giờ chị đang ở đâu? Vị linh mục buồn bã: – Chị ấy đã di chuyển đến một nơi khác, khoảng ba tháng sau khi anh Hùng Em qua đời, nhưng thi thoảng chị có ghé về đây ít hôm thăm giáo xứ và viếng mộ anh ấy. Tôi không dám tò mò thêm nữa. Cám ơn cha và đưa ngài về lại nhà thờ rồi xin phép cáo từ. Sau đó, cuộc chiến ngày càng khốc liệt, tôi theo đơn vị hành quân liên miên, bao nhiêu lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Người lính chiến, chuyện sống chết chỉ tùy vào số mệnh, không ai có thể tránh được lằn tên mũi đạn. Đồng đội tôi đã có biết bao người ngã xuống. Có những cái chết còn thê thảm hơn cả cái chết của anh Trung sĩ Hùng Em lúc trước. Tôi đã chứng kiến cảnh một người vợ trẻ ngất xỉu khi đến nhận xác chồng mà không tìm thầy cái đầu, một bà mẹ đã lăn đùng ra chết ngất khi thi thể đứa con hy sinh chỉ còn lại một phần và bà không thể nhận diện được con mình. Những khủng khiếp của chiến tranh sau này, cùng với thời gian, dần dà làm tôi tạm quên nhiều chuyện đau đớn cũ. – Ông Trung úy Điệp, người Huế, làm đại đội trưởng lúc ở ngoài Cam Ranh, bây giờ ra sao rồi, đại úy? Câu hỏi của sœur Anna làm tôi giật mình, trở về thực tại: – Dạ, anh Điệp đã chết lâu rồi. Anh tử trận tại Thiện Giáo – Phan Thiết, chỉ sau hai tuần làm đám cưới với cô giáo Diệu, cũng người Huế, nhưng sống ở Ninh Hòa. Hai người quen nhau khi đơn vị tôi về thụ huấn bổ túc tại TTHL Lam Sơn. Không ngờ sœur vẫn còn nhớ tên anh ấy. Sœur cúi xuống, trầm ngâm giây lát. Khi ngước lên, bà lấy khăn tay lau nước mắt. – Tôi và anh Hùng Em cũng làm đám hỏi đúng hai tuần. Cô giáo Diệu nào đó không biết may mắn hay là bất hạnh hơn tôi khi đã được làm vợ, cũng chỉ mới hai tuần? Vừa nói xong, sœur vội vàng nói lời xin lỗi, bảo đúng ra, một người đi tu, không nên suy nghĩ đến những điều như thế. Bốn tháng sau lần gặp gỡ bất ngờ đó, tôi đến thăm cô nhi viện môt lần nữa, nhưng lần này, tôi cùng đi với cô trung úy Trưởng Ban Xã Hội, để giới thiệu với sœur Anna, nhờ cô nhi viện tạm chăm sóc hai đứa bé, con của một anh chuẩn úy. Cả hai vợ chồng bị chết bởi đạn pháo ở Kontum. Sœur Anna rất vui vẻ, ân cần, sẵn sàng nhận giúp và bảo tôi bất cứ khi nào có dịp về Pleiku, nhớ ghé lại thăm. Chúng tôi cám ơn, biếu cô nhi viện một ít tiền, và hứa nhất định sẽ trở lại thăm sœur và hai đứa bé. Nhưng rồi tôi đã không giữ được lời hứa ấy. Từ đầu năm 1973, sau khi Mỹ ký hiệp định Paris trên xương máu của người bạn đồng minh, những người lính VNCH đã phải chống đỡ làn sóng xâm lăng của Cộng sản phương Bắc, ồ ạt đưa đại quân, xe pháo vào quyết chiếm miền Nam, tôi đã cùng đồng đội miệt mài với chiến trường, súng đạn, mà sự viện trợ ngày một cạn dần, nên xương máu anh em lại càng đổ ra nhiều hơn nữa. Ngày 11.3.75, Ban Mê Thuột thất thủ. Đơn vị tôi đang hành quân ở khu vực Tây Nam Pleiku, có lệnh kéo về Hàm Rồng để được trực thăng vận xuống Phước An, quân lỵ cuối cùng còn lại của tỉnh Đắc Lắc, nhằm tái chiếm Ban Mê Thuột, nơi có bản doanh Sư Đoàn và hậu cứ của đơn vị chúng tôi. Khi BCH Trung Đoàn và một tiểu đoàn cùng đại đội Trinh Sát vừa được đổ xuống Phước An thì Pleiku có lệnh di tản. Hai tiểu đoàn còn lại của chúng tôi phải di chuyển theo đoàn quân di tản trên Tỉnh Lộ 7B. Một kế hoạch triệt thoái tồi tệ đã đưa đến thất bại nặng nề bi thảm. Cả hai tiểu đoàn khi về đến Tuy Hòa chỉ còn lại một phần tư quân số, hai anh tiểu đoàn trưởng đã phải tự sát để không lọt vào tay giặc. Cuối cùng, miền Nam cũng mất. Tôi và cả cha tôi đều bị tù đày khốn khổ. Cha tôi, tuổi già sức yếu, không đủ sức để chịu đựng bao đòn thù tra tấn, hành hạ, nên đã chết trong trại tù Đá Bàn vào tháng 6 năm 1976, còn tôi bị đày ải qua nhiều trại tù, từ Nam ra Bắc. Sau gần tám năm tôi được thả về để chứng kiến một quê hương nghèo khổ điêu tàn, vợ con nheo nhóc. Tôi quyết định vượt biên, dù có phải chấp nhận bao hệ lụy khôn lường. Tôi rủ vài người bạn tù cùng tổ chức vượt biển, trong số này có một anh bạn nguyên là sĩ quan Hải quân có nhiều kinh nghiệm hải hành. Nơi bọn tôi hẹn gặp gỡ là một cái quán nhỏ của gia đình người bạn tù khác nằm gần khu Hòn Chồng. Một hôm, sau khi bàn công việc và ăn uống xong, tôi bỗng nghĩ tới anh Trung sĩ Hùng Em, khi nhớ ngôi mộ của anh cũng nằm gần nơi này. Tôi nhờ anh bạn chở tôi đến đó. Vì nghĩa trang nhỏ, nên tôi dễ dàng tìm ra ngôi mộ của anh Hùng Em. Điều làm tôi sửng sờ là ngôi mộ nằm bên cạnh có tấm bia ghi đậm tên người quá cố: Sœur Anna Phan Thụy Khanh, được Chúa gọi về ngày 15.3.1975. Tôi không biết vì sao cô chết, chỉ còn nhớ thời gian này đã từng xảy ra cuộc di tản kinh hoàng trên Tỉnh Lộ 7B. Chúng tôi tìm đến nhà thờ với ý định hỏi thăm cha xứ, nhưng rất tiếc ngài đi vắng, trong nhà thờ chỉ có hai thiếu niên rất trẻ, không hề biết sœur Anna là ai. Khi rời khỏi nơi này, trong cái man mác buồn tôi bất chợt thấy vui vui, và buột miệng như để nói với chính mình: -Cuối cùng thì hai người cũng được ở bên nhau. Tôi chưa (và có lẽ không) có cơ hội nào để trở lại Pleiku. Ngày xưa, tôi chỉ ghé lại thành phố bụi đỏ này một đôi lần ngắn ngủi, như chỉ một thoáng chợt đến chợt đi, chưa hề làm quen với một “em Pleiku má đỏ môi hồng”nào. Ngoài Đồi Đức Mẹ, nơi đơn vị đóng quân một tháng, cả một tháng “gió lạnh mưa mùa”, tôi chỉ còn nhớ cái quán rượu trong Khu Chợ Mới, nơi anh bạn Biệt Động Quân đưa tôi đến để tìm những cơn say, và một ngôi trường được dùng làm cô nhi viện, nơi có sœur Anna xinh đẹp, đã gợi lại trong tôi hình ảnh của những đồng đội đáng mến mà vắn số như Nguyễn Phú Hùng Em. Tôi da diết nhớ đơn vị xưa, thời chúng tôi còn trai trẻ, nhớ từng khuôn mặt bạn bè đã nằm lại trên các chiến trường xưa hay đang lưu lạc muôn phương, tiếc thương cho cuộc tình đẹp của những người lính trẻ, lãng mạn, thơ mộng, nồng nàn nhưng sớm chia lìa đớn đau bởi cuộc chiến tranh oan nghiệt. Phạm Tín An Ninh |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 30/Jan/2024 lúc 3:30pm |
Thơ : "ĐÔI BỜ " THƯƠNG NHỚ... V2 Nhạc: Tiếng Xưa & Biệt Ly - 8-2023 <<<<<<Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 30/Jan/2024 lúc 3:33pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 05/Feb/2024 lúc 10:07am |
Từ Dưới Đỉnh Đồi Nhìn Lên Chân Núi1. Mười ba tuổi tôi bị văng ra khỏi gia đình, văng ra khỏi quê quán, tôi thất kinh
chạy tán loạn theo đoàn người tản cư ra khỏi cái thị trấn tan hoang bình địa.
Ban đêm quân trong rừng pháo kích như mưa rồi bộ đội nón cối xung phong ùa vào
như đàn ong vỡ tổ tràn ngập thị trấn. Họ bắc loa phóng thanh tuyên truyền và
lùng sục bắt những người lính quốc gia bắn chết tại chỗ hoặc trói dặt khuỷu tay
dắt vào rừng. Ban ngày, gần trưa, đến lượt máy bay quốc gia oanh tạc rồi pháo
binh bắn phủ khắp thị trấn, xong trực thăng chở quân lính đổ xuống, quân hai
bên đối diện bắn nhau.
Người dân trong thị trấn kéo nhau chạy ra phía quốc lộ, không dám ngoảnh nhìn lại
vùng khói lửa mịt mù phía sau. Tôi là con bé nương theo đoàn người chạy giặc ấy.
Sau này thì tôi được biết cả gia đình cha mẹ anh chị em tôi đều đã bị chết tan
xác trong ngôi nhà hoàn toàn sụp đổ. Tôi nghe theo người ta đến ở trong một trại
tạm cư để được cứu trợ, có chỗ ngủ trong lều vải, có cơm ăn. Sống vật vờ trong
trại cứu tế nạn nhân chiến tranh một thời gian, tôi lại theo đoàn người đi về
phía thành phố. Sau nhiều ngày xin ăn và ngủ đêm ở vỉa hè, tôi được ông chủ vựa
bia và nước ngọt nhận làm cháu cho vào làm việc ăn ở trong trong kho chứa hàng. Bà vợ đã qua đời từ lâu, cụ Chánh chỉ có một người con trai nhưng anh ta tính
tình bất thường, hàng xóm vẫn coi là một kẻ dở hơi. Anh ta không giúp gì được
cho cụ Chánh trong công việc buôn bán làm ăn nhưng anh ta hiền lành không phá
phách nên cũng chưa bị coi là thằng điên. Từ ngày tôi đươc cụ bảo bọc cho ăn ở
trong nhà, tôi thấy mọi công việc kinh doanh đều một mình cụ lo liệu hết. Cụ
làm việc đầu tắt mặt tối, vất vả sáng chiều, từ việc đặt hàng, nhận hàng của
các hãng chở tới đến việc phân phối cho các tiệm bán lẻ trong vùng, cụ làm sổ
sách thu tiền trả tiền mọi sự rất trơn tru. Cụ hoạt động tháo vát nhanh nhẹn mặc
dù bà con lối xóm goi là cụ, có lẽ vì tôn kính chức tước của cụ hồi xưa. Tôi là
đứa cho cụ sai vặt và lo hầu hạ cơm nước cho anh con trai bệnh hoạn của cụ. Một hôm, có một thanh niên xách cái túi hành lý đến nhà và được cụ cho ở trọ học.
Anh ta có lẽ là cháu thứ thiệt của cụ Chánh không phải thứ cháu nhận như tôi.
Trong cách xưng hô khi chuyện trò đối đáp đã có những liên hệ tình cảm, hình
như giữa cụ Chánh và thân phụ của anh có ân sâu nghĩa nặng gì đó xưa kia, anh
được cụ chứa chấp bảo bọc có phần giúp đỡ cưu mang học hành tương lai. Anh được
ở trên căn gác chung với anh con trai của cụ. Với anh con trai thì cụ mặc tôi
muốn xưng hô thế nào tùy ý, gọi là… thằng cũng được, nhưng với chàng trai trẻ mới
tới, cụ Chánh bảo tôi phải gọi bằng cậu. Ngoài giờ đạp xe lên Saigòn học, về nhà cậu cũng phụ vào làm các công việc
trong cửa hàng cùng với tôi và cậu trở thành người thân cận gần gũi tôi nhất. Cậu
ôm quyển sách học trong gian nhà kho xếp đầy những két bia và nước ngọt cao từng
chồng từng chồng. Khi rảnh cậu học bài của cậu, khi có việc cậu phụ làm với
tôi. Nói là cậu phụ làm chứ có khi cậu là chính mà tôi mới là kẻ làm phụ bởi lẽ
cậu là con trai tôi là con gái. Như xếp các két hàng thì cậu bê những két bia lớn
La Rue nặng nề còn tôi bê những két nước ngọt hay bia 33 nhỏ hơn, nhẹ hơn. Nếu
phải trèo lên cao thì cậu trên tôi đứng dưới. Khi giao hàng cho các tiệm giải
khát bằng xe 3 bánh thì cậu đạp xe, cậu cho tôi ngồi nghễu nghện lên trên các
thùng két, cậu cháu nói chuyện huyên thuyên trong những giờ phút tự do thoáng
đãng. Những năm sau, tôi quen dần những công việc của dépot, tôi biết làm nhiều việc
của cụ Chánh. Có khi cụ còn giao cho tôi tính tiền, đi thu tiền và cả việc đem
tiền đi đóng cho nhà máy sản xuất bia. Cụ cũng sai tôi đi dàn xếp những vụ rắc
rối do anh con trai cụ gây ra với chòm xóm, hoặc phải can thiệp khi anh ta bị bắt
nạt. Thậm chí có khi cụ còn bảo tôi đi cãi nhau với cái bà lắm điều ngoài đầu
ngõ để cho mụ bớt gây chuyện. Cụ cho tôi uống những chai bia chẳng may bị nứt vỏ
kẻo phí của trời. Thế là có dịp cho cậu cháu tôi say sưa đỏ mặt tía tai, cậu
sinh viên chẳng phải dân nhậu, hai người cưa nhau một chai La Rue là đã bí tỉ. Tôi có thể trả lời những câu hỏi của khách hàng, tôi theo dõi và nhớ biết giá cả
hàng hóa lên xuống, tôi còn có thể tính toán làm sao để chặt đá cục bán cho có
lời từ những cây đá chứa trong thùng trấu hoặc mạt cưa. Cụ Chánh rất khen ngợi
và tin giao cho tôi trông coi cửa hàng. Cụ có thể đi vắng sau khi dặn dò công
việc nhà cho tôi và dặn dò cậu sinh viên ở nhà trông coi tôi và thằng dở hơi.
Nhưng mỗi khi có tiệm nước đặt hàng, cậu lại phải hỏi tôi, hoặc là hãng nước ngọt
gọi hỏi cần bao nhiêu hàng để chở tới cậu cũng lại phải đưa điện thọai cho tôi
trả lời. Cụ Chánh đi vắng giao cho cậu chỉ huy nhưng tôi là người làm việc. Cả
cái việc cho anh con trai ăn gì bữa trưa cũng là tôi sắp đặt. Nhưng có một việc hoàn toàn do cậu chủ động định đoạt tính toán là việc hai người
thương nhau trong góc nhà kho. Cậu kéo tay tôi vào dìu tôi nằm ngả lưng trên những
két bia, tôi hùa theo nhịp nhàng đúng ý cậu bởi vì chính những thèm muốn đó
cũng đúng ý tôi. Tôi sung sướng hứng lấy cậu trên những két bia cọ kẹ ken két,
chúng tôi đưa đẩy nhau lung lay trên cái dàn thùng két trong bóng tối nhá nhem.
Ngày nào cũng thế, ngày nào tôi cũng được cậu ôm ấp vỗ về yêu thương, cậu còn
khen ngực tôi đã nẩy nở, đã là hai cái chũm cậu rất thích sờ nắn, cậu nói cậu
thương tôi vô vàn, cậu thích tôi vô vàn, cậu yêu tôi vô vàn. Cậu cho tôi biết là cậu học luật, cậu sẽ làm luật sư hoặc thầy giáo nếu không
phải đi Thủ Đức và cậu sẽ lấy tôi làm vợ. Những khi ngồi trên xe ba bánh của cậu
đi giao hàng, cậu thường kể đủ thứ chuyện cho tôi nghe, có khi cậu còn hát nho
nhỏ cho một mình tôi nghe. Khi chiếc xe thả dốc cậu để cho nó lao xuống vù vù,
tôi ngồi trên mà tưởng như mình được bay bổng, hết dốc xuống đến dốc lên, chúng
tôi cùng nhảy xuống dùng hết sức đẩy xe lên. Chúng tôi thở hổn hển nhìn nhau
sung sướng. Mãi mãi về sau, nhớ lại, bao giờ tôi cũng thấy rằng những giờ phút ấy
là những giờ phút hạnh phúc nhất đời tôi. Cậu cho tôi rất nhiều sách cũ của cậu và bảo: “Đọc đi, lúc nào rảnh thì đọc.”
Đó là những quyển sách cậu đã đọc và cậu thích, tôi bị thất học nên cậu muốn
truyền cho tôi chút ít nào đó những gì mà cậu cho là hay. Tôi làm theo lời dạy.
Rồi tôi hỏi. Rồi cậu giải thích. Tôi hiểu. Tôi không hiểu. Tôi hiểu theo nghĩa
khác. Ngay trên xe ba bánh. Ngay trong kho bia. Ngay trong nhà tắm. Tôi rất thích tờ tạp chí tiếng Anh, trong đó có một bài viết về một hoạ sĩ, in
kèm là những tấm hình chụp các bức họa đàn bà khỏa thân. Tôi đâu biết tiếng Anh
vì tôi mới chỉ theo tới lớp 8 đã phải bỏ học chạy loạn, đọc không hiểu, nhìn những
tấm hình các bức họa khỏa thân tôi cũng không thấy ở đó có gì làm tôi phải chú
ý, thậm chí tôi còn coi đó là những cái gì kỳ cục dị hợm, chỉ liếc sơ rồi đỏ mặt
lật qua trang khác, nhưng cậu nói miết, cậu bảo cứ nhìn kỹ sẽ thấy vẻ đẹp của
những bức danh họa, cậu cũng bảo tôi cứ đọc bài tiếng Anh rồi sẽ có lúc hiểu
ra. Cậu dịch cho tôi biết sơ về cuộc đời và những tác phẩm hội họa của hoạ sĩ.
Mà quả thật xem hình chụp những bức họa khỏa thân nhiều lần, dần dần, tôi thấy
ra là đẹp, rất đẹp, đó không chỉ là những tấm hình đàn bà cởi truồng. Có lúc
tôi thấy người trong tranh như sống động, mỉm cười với tôi. Ở một bức khác tôi
nhìn ra vẻ u uất nơi khuôn mặt của người đàn bà trong tranh. Tôi biết cậu rất
mê những bức tranh, cậu nói chỉ được xem hình chụp in lại trên báo mà đã thích
rồi, nếu được tận mắt xem những bức tranh thật này còn sướng biết bao. Nhưng cậu
nói sẽ chẳng bao giờ cậu được thấy chúng vì chúng ở những nơi thật xa và thật
sang trọng. Tôi rồi cũng giống cậu, lây cái tật thích tranh khỏa thân, tôi nhìn
miết những tấm hình, nhìn hồi lâu những đường nét ở ngực, đùi… của người trong
tranh. Tôi cắt bài báo và những tấm hình kẹp trong một quyển tập cất giữ cẩn thận.
Trong số các sách báo cậu cho tôi còn có những tập thơ, những bộ tiểu thuyết võ
hiệp… Tôi đọc không kịp vì công việc của con ở lu bu tối ngày, cho nên tôi thường
đọc theo những gợi ý của cậu. Nói cho đúng tôi là một kẻ a dua của cậu, cậu vui
đâu tôi âu đấy. Khi cậu nói về nhân vật Lệnh Hồ Sung yêu ai nhất trong ba người
yêu Doanh Doanh, Nghi Lâm và Nhạc Linh San, là lập tức sau đó tôi tìm dịp lật
qua những trang Tiếu Ngạo Giang Hồ, tôi phải thuộc tên những nhân vật trong câu
chuyện của cậu để khi nghe cậu nói tôi có thể nương theo cậu ma sống. Khi cậu
bình câu thơ “Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu...” là tối đó tôi phải lục lọi
bài thơ trong tập Đường thi có dịch âm dịch nghĩa mà cậu đã cho tôi, để tìm hiểu
“nhị kiều” là ai mà lại ngự trong lòng cậu. Tất cả những kiến thức đó cậu đã
quen thuộc vì cậu đã học qua nhưng với tôi thì hoàn toàn mới lạ, tôi chạy theo
cậu muốn hụt hơi như là khi chạy đuổi theo chiếc xe ba bánh cậu phóng đi đùa rỡn
bỏ tôi lại sau.
Ở góc sân sau có nhà tắm quây bằng mấy tấm tôn, cửa che vải bạt nhà binh, nước
đựng trong thùng gánh nước xách vào, chiều nào tôi cũng phải xách nước tắm vào
đó cho cụ Chánh, cho anh con trai và cho cậu, dĩ nhiên là tôi phải xách nước tắm
cho tôi. Đặc biệt cho cậu bao giờ tôi cũng xách cho hai thùng để cậu xối nước
thoải mái hơn. Có khi đang tắm cậu gọi tôi vào gội đầu cho cậu. Tôi không giám
tự ý vào phòng tắm với cậu nhưng nghe cậu gọi là tôi vào ngay. Trước khi cậu tắm
tôi đã sắp sẵn đủ cả: nước, gầu múc, xà phòng, khăn tắm… đâu có thiếu thứ gì,
cho nên cậu chỉ có thể kiếm cớ gội đầu, kỳ lưng, để gọi tôi. Có lần cụ Chánh gọi
tôi ở ngoài sân, tôi vội chạy ra hai tay đầy bọt xà phòng, cậu cũng mặc vội cái
quần đùi rồi chạy ra đầu tóc mặt mũi cũng đầy xà phòng, cụ Chánh mắng: - Chúng mày mần giặc gì ở trong đó ? Tôi thưa: - Cậu bảo con giúp cậu gội đầu xà phòng. - Kể xác nó, lớn tướng rồi không gội đầu được hay sao
mà phải sai mày. Đi, mày lấy xe đạp đi kêu thêm năm cây nước đá nữa bán từ giờ
đến đêm, hôm nay trời nóng bức người ta mua đá cục nhiều lắm đó. Tôi vâng dạ, lấy xe đạp nhưng còn nói vọng vào phòng tắm: - Cậu chịu khó gội một mình à nhe. * Năm học thứ 3 thì cậu vắng nhà nhiều hơn, cậu có kể cho tôi biết cậu tham dự
vào ban đại diện sinh viên, cậu cũng kể về những vụ hội thảo, xuống đường, biểu
tình chống quân phiệt, chống độc tài, chống chiến tranh… Cậu còn nói thêm… “vui
lắm, giá mà em được đi học thì cậu cũng kéo em theo”. Có hôm cậu về khuya, tôi
định xách “cặp lồng” đi mua phở cho cậu ăn nhưng cậu giữ lại, kéo tôi vào kho
bia, chiếc “cặp lồng” rơi loảng xoảng xuống nền nhà, rồi những két bia kèn kẹt
dưới lưng tôi, tôi đong đưa trên dãy thùng két đó. Khi cậu thở hắt buông tôi
ra, tôi lặng lẽ cúi xuống nền nhà sờ soạng tìm những ngăn cặp lồng, tìm cả cái
nắp, lắp vào, rảo bước sang phía hàng phở đêm gần đó. Tôi sung sướng đem phở về
xúc cho cậu ăn, cậu vẫn còn nằm ngả nghiêng trên những két bia, trong ánh đèn
đường rọi vào qua cửa kho, cậu há miệng đón những thià phở tôi đút vào. Nuốt
xong tô phở cậu tỉnh ra, ôm nựng hai cái chũm của tôi và của cậu. Trước khi đi
lên gác ngủ cậu nói: “Lần nào cậu cũng là kẻ gục ngã trước… quân thù sung sức!”.
Sau đó “quân thù” cũng lăn quay ra ngủ say như chết.
Nhưng những ngày sau, và cả nhiều ngày sau nữa, cậu không về nhà.
Ban ngày cậu không về, tối đến đóng cửa vựa, tôi đi ra đi vào nóng lòng chờ
mong cũng không thấy cậu về. Chiếc “cặp lồng” đã sẵn đấy vẫn còn để không qua
những ngày sau. Tôi nhớ cậu điên cuồng. Ban đêm nằm ngủ trong kho, tôi nghe những
két bia kẽo kẹt rạo rực như những cây tre trong bụi tre kẽo kẹt khi gặp cơn gió
lớn. Một tuần sau cụ Chánh nói cho biết cậu bị bắt đưa đi trại nhập ngũ, cụ còn nói
vì tội biểu tình gây rối, nặng thì lao công đào binh, nhẹ làm lính trơn, chứ
không được học trường sĩ quan như những người có bằng cấp khác. Thôi thế là sẽ
chẳng có dịp cho cậu lấy tôi làm vợ, cậu ngưng ngang học hành làm luật sư, làm
thầy giáo, cậu cũng không được làm sĩ quan, cậu sẽ làm lính trơn cầm súng trường
đi đánh nhau ngay tuyến đầu và sẽ trúng đạn chết như những anh lính đã bị trúng
đạn chết trong thị trấn quê tôi ngày ấy! Tôi buồn quá thể. Tôi nhớ cậu quá thể.
Nhưng tôi chỉ khóc được trong bóng đêm. Ban ngày tôi vẫn làm ra vẻ bình thường.
Cậu vẫn bặt tin, chưa được về thăm nhà. Cũng không có tin báo tử. Mãi một năm sau, cậu bất chợt về thăm cụ Chánh trong bộ quân phục sinh viên sĩ
quan trừ bị Thủ Đức. Cậu cho biết là cậu được tha án phạt nhưng phải tiếp tục
quân ngũ, chuyển sang học ở trường huấn luyện sĩ quan. Cậu ở nhà ăn một bữa cơm
trưa rồi sau đó lại ra đi, tôi không có dịp gặp riêng cậu trong kho bia. Và những
tuần lễ sau đó, những tháng sau đó, cả năm sau đó cũng không thấy cậu về. Rồi một hôm cậu lại về, lần này cậu mặc quân phục rằn ri đeo lon chuẩn uý trên
cổ áo. Cậu đi đứng ngang tàng, cậu nói năng ngổ ngáo. Cụ Chánh đi vắng, cậu kéo
tôi lên gác vào phòng, cậu vung tay lột quần áo tôi ra và yêu tôi cuồng bạo, cậu
thưởng thức tôi kiểu khác xưa, có lẽ là kiểu độc tài quân phiệt như cậu nói, rồi
cậu cũng đòi tôi phải làm theo cách của cậu chỉ bảo, tôi líu ríu vâng lời. Cửa
phòng vẫn mở, anh con trai cụ Chánh đứng hát nghêu ngao bên ngòai. Cậu chửi thề:
“đ.m. thằng điên”. Khi xong cậu không cho tôi mặc quần áo ngay, cậu bắt tôi để
nguyên thân thể trống trải nằm ngửa, nằm sấp, lăn bên này, lăn bên kia, co chân
duỗi cẳng, đứng lên ngồi xuống, đi tới đi lui... cho cậu xem. Rồi cậu nhào tới
hôn hít trên toàn thân tôi. Rồi tôi thấy cậu khóc hu hu. Rồi tôi nghe cậu nói
thì thầm trên ngực tôi giữa hai cái chũm của cậu: - Em thế này làm sao tôi chết đi được. Chết thì vô lý
quá. Chết đi thì làm sao còn cắn được hai cái chũm em.
Tôi nói: - Cậu nay đã là sĩ quan, đâu phải là lính dễ chết. Được
nghỉ ngày nào cậu về đây với em, em nhớ cậu, em thích cậu, em sẽ chiều chuộng cậu
tất cả, em mồ côi, tứ cố vô thân, chẳng còn ai ngoài cậu trên cõi đời này, tối
qua coi TV thấy cô Thanh Nga hát “chỉ còn anh thôi… chỉ cần anh thôi...”
Cậu nói: - Làm trưởng toán coi mười hai lính, lội ruộng, băng rừng
thì cũng giống nhau cả, hòn tên mũi đạn nó đâu phân biệt ai với ai. Đánh “bụp”
một cái vào mặt thằng nào là thằng ấy lãnh. Với lại cậu làm chỉ huy thì cậu phải
đứng thẳng, đi trước, cho nó muốn “bụp” thì cứ “bụp”. Lỡ mà nó đánh “bụp” vào mặt
cậu một cái là rồi đời.
Tôi ghì chặt cái con người oai hùng của tôi vào ngực mình, ôi chao, sao mà tôi
mê say cậu của tôi đến thế này. Có tiếng anh con trai cụ Chánh réo gọi tên tôi, tôi mặc vội áo quần chạy ra,
anh ta đứng ngay cửa, sai: - Mày đi mua cái gì cho tao ăn chiều, đói quá! Tôi đành phải bỏ cậu trong phòng, tôi còn nhớ lúc ấy cậu vẫn ở truồng, trên người
cậu chỉ có cái áo rằn ri cài lon chuẩn úy. Tôi chạy sang quán mua thức ăn cho
con cụ chủ. Khi đem thức ăn về cho anh ta thì cậu đã bỏ đi. Đó là lần cuối cùng tôi được gặp cậu !
2 Cụ Chánh bắt đầu đau yếu, một hôm cụ gọi tôi vào bảo: -Tao sức khoẻ suy giảm, chẳng biết còn sống bao lâu nữa, nhưng tao lo cho cái
thằng khờ nhà tao quá, tao chết không nhắm mắt được… Nói đến đó cụ nín bặt, hai mắt cụ rưng rưng, tôi quì xuống bên ghế nhìn cụ cũng
không biết nói gì, mắt tôi cũng rưng rưng. Lát sau cụ nói: - Tao muốn trao cả cái tài sản này và cả cái thằng khờ
cho con, mày có chịu giúp ông không, nếu mày chịu tao sẽ làm đám cưới cho hai đứa
chúng mày, con sẽ quán xuyến cơ ngơi gia tài này, con sẽ quản lý luôn cái thằng
chồng mày, ông nghĩ chỉ có con giúp cho ông được việc này mà thôi. Khi ông chết,
mày lo cho nó được bao nhiêu là ông mừng bấy nhiêu, con ạ.
Tôi lặng thinh nghĩ tới cậu, giờ này cậu ở đâu? “Bến Hải hay Cà Mau? Trong Nam
hay ngoài Bắc?” Đằng đẵng hai năm cậu không về với em, cũng không một tin tức
gì từ nơi chiến địa. Cậu có còn nhớ tới em ? Cậu có còn nhớ tới cái kho bia
ngày cũ, cậu có còn thích những cái chũm trên ngực em dành riêng cho cậu ? Cậu
mà về đây thì em sẽ chiều cậu tất thẩy mọi thứ, cậu muốn em đi đứng nằm ngồi
cách nào em cũng chiều được hết. Hay là... trời ơi, hay là đã có một cái “bụp”
nào xảy ra rồi ?
Chợt cụ Chánh hỏi dồn:
- Con nghĩ sao? Trả lời cho ông đi. Con bằng lòng thì gật
đầu để ông lo mọi sự !
Tôi hốt hoảng mếu máo gật đầu. Cụ Chánh ôm chầm lấy tôi:
- Cám ơn con. Từ nay con là con ta. Con không còn là
cháu hờ hay là đứa ở nữa. Con là con ta, tất cả nhà cửa này là của con, con
toàn quyền điều khiển, định đoạt.
Những ngày sau cụ Chánh tổ chức đám cưới cho con trai. Hàng xóm nói tôi trúng số,
khi không được nguyên cả một gia tài lớn. Căn gác được sửa chữa thành phòng
riêng cho vợ chồng mới. Tôi sẽ ở trên gác chứ không còn phải chui rúc trong nhà
kho nữa. Không rõ nằm trên những két bia và nằm trên giường đệm nó sẽ khác nhau
thế nào ? Đám cưới diễn ra êm xuôi, thằng chú rể ngoan ngoãn làm theo những gì người lớn
chỉ dẫn. Tiệc tùng xong khách khứa ra về, cụ Chánh kêu tôi bảo “Bắt nó đi ngủ,
từ nay con phải cho nó vào khuôn vào phép, ăn uống, ngủ nghê, tắm rửa... phải
có giờ giấc, cấm nó không được lang thang ngòai đường ngoài quán...”. Tôi dắt
tay chồng tôi lên phòng, nó ngoan ngoãn làm theo, tôi nói thay quần áo tắm rửa
lên giường ngủ, nó không nghe, có lẽ suốt ngày lễ lậy anh ta mệt quá cứ để
nguyên thế lăn ra ngủ, anh ta chẳng ngó ngàng săn sóc cô dâu gì cả. Tôi cũng
thây kệ, rồi từ từ anh ta sẽ biết phận mình, sẽ biết phải làm gì cho vợ. Cụ
Chánh giao nhà cửa công việc cho tôi thì tôi sẽ lo chu đáo, còn việc vợ chồng
là của vợ chồng tự nhiên rồi sẽ đâu vào đấy. Chỉ tội một điều là chồng tôi chưa
hề biết việc đực cái, chưa, chưa bao giờ, nói ngay ra là anh ta vẫn trai tân,
tôi biết chắc chắn điều đó, anh vẫn chỉ là kẻ ngơ ngơ ngác ngác; còn tôi thì
tôi đã được cậu dạy cho đủ điều, biết trao và biết hưởng, biết từ cổ điển biết
đến tân thời. Tôi đã biết thương biết xót, biết tình biết nghĩa, biết dịu dàng
êm ái và biết oai hùng dũng cảm, tôi đã biết trước biết sau, biết khởi đầu cũng
như kết thúc. Tôi đã được cậu tôi lột xác, nhưng tôi cũng đã mất trắng sạch
banh, mất người làm cho tôi được sung sướng, mất hút vào trong cõi vô cùng, “bụp!
bụp! bụp!”. Tôi đi tắm, nước mát làm tôi dễ chịu, tôi gột rửa son phấn đầu đời cụ Chánh
thuê người đến trang điểm trên mặt cho tôi hồi sáng sớm hôm nay. Tôi tắm xà
phòng thơm, tôi kỳ cọ kỹ càng toàn thân, khắp chân tơ kẽ tóc phải thật sạch sẽ,
thật thơm tho và tôi sẽ lựa chiều lèo lái chỉ dẫn cho anh ta biết cách lần mò
qua các ngõ ngách mà thụ hưởng trọn vẹn người vợ tình cờ của anh, nhưng tôi thì
tôi sẽ tưởng tượng cậu đang là anh ta trong bóng tối. Những gì cậu đã làm cho
tôi, tôi sẽ đưa đẩy sao cho anh ta biết làm như thế. Dạy một người chưa biết gì
có lẽ khó nhưng có lẽ cũng dễ, cách hay nhất là làm trước để học viên bắt chước
làm theo. Tôi thay bộ đồ ngủ đẹp mới mua, nhìn mình trong gương tôi thấy tôi đã
khác lạ. Tôi vén màn chui vào giường đệm mới với chồng tôi. Cậu ơi, em đang đi vào một vùng chiến địa khủng khiếp như quê em, ở đó may ra
em gặp được cậu với mười hai chiến binh dũng cảm và oai hùng, tất cả, không chỉ
mình cấp chỉ huy, em nhìn thấy tất cả mười ba đều đứng thẳng và tiến tới ...
* Nửa đêm yên ắng, mọi người đang ngủ say thì chợt có tiếng kêu la cầu cứu. Trong
nhà thức dậy, hàng xóm thức dậy, thằng chú rể ở truồng tay ôm quần đứng ngoài
đường ngay trước cửa dépot bia nói oang oang: “Nó cởi quần tôi, nó cởi quần tôi
ra rồi thò tay vào bóp bóp con cu tôi, ối giời ơi, cứu tôi với, cứu tôi với!” Mọi người hiểu chuyện, phì cười trở vào nhà đi ngủ lại. Cụ Chánh bạt tai thằng
con trai rồi lôi nó vào nhà, miệng chửi: “Thằng ngu!” * Tôi quơ vội vài bộ quần áo và mấy thứ cần thiết vào trong cái xách tay, lẻn ra
khỏi nhà, đi một đoạn gặp xe lam vẫy ngừng trèo lên. Đến bến sang xe đi tiếp. Rồi
sang xe khác đi nữa. Sáng ra tôi thấy mình ở một khu đông người như họp chợ,
đâu đây như ven xa lộ Biên Hoà. Tôi ôm túi đồ lang thang nghe ngóng những người
trong từng đám đông nói chuyện với nhau, thì ra nơi đây đang là cái chợ tuyển
người làm sở Mỹ. Trên bước đường cùng, tôi thấy đây là cơ hội, tôi mon men nghe
ngóng rồi quyết định sẽ gia nhập vào đám người kiếm sống này. Đến trưa thì có một
đại diện hãng thầu nhận đơn của tôi, họ sẽ làm hồ sơ, sẽ chỉ dẫn cách thức, sẽ
đưa đi làm điều chuẩn an ninh, sẽ giới thiệu với phòng tuyển mộ của căn cứ Long
Bình, tôi sẽ được vào làm bồi bàn trong nhà ăn của lính Mỹ. Tôi sẽ phải trả cho
“hãng thầu người” này hai mươi lăm phần trăm tiền lương hàng tháng. Tôi mừng
quá nhận lời ngay, làm được bốn đồng, đóng sở hụi một đồng đâu có sao, tôi nghĩ
nếu họ đòi hai đồng tôi cũng chịu, còn hơn là chưa biết ngày mai lấy gì mà ăn.
Tôi kiếm nhà trọ ở xóm chợ đó. Một tuần sau tôi được gọi đi học làm bồi, học
hai ngày thì nhận việc. Làm bồi bàn sở Mỹ mặc đồng phục váy trắng và phải trang
điểm, đây là lần thứ hai trong đời tôi phải trét phấn và là lần đầu trong đời
tôi mặc váy ngắn hở đùi. Tôi thấy như lúc nào cũng có người đang nhìn vào đùi
mình, nó cứ hớ hênh thế nào ấy. Chỉ có cậu và chỉ với cậu thôi tôi có thể làm
gì cũng được, làm gì cho cậu cũng là đương nhiên đúng.
Ở nơi đây, từ nơi đây, từ cái nơi tôi bắt đầu đánh phấn tô son mỗi ngày, ở cái
nơi mỗi ngày tôi phải mặc váy ngắn hở đùi, đời tôi gặp một lối rẽ, một bước ngoặt
gắt gao. * Ông cao lớn, tôi kiễng chân cũng chỉ đứng ngang tầm nách ông. Ông đi đứng khoan
thai, nói năng nhỏ nhẹ, chậm rãi, ôn tồn. Ông có đôi mắt xanh lộ ra vẻ bao dung
nhân ái. Ngày nào ông cũng dùng bữa ở phòng ăn này. Chỉ qua vài bữa đầu tôi đã
thuộc lòng ý thích của ông. Ông luôn chọn chỗ ngồi ở cái bàn nhỏ nơi phía góc
phòng từ đó ông có thể nhìn ra vườn cỏ xanh mướt bên ngoài cửa kính và ngọn núi
Châu Thới mờ mờ xa xa. Ông cầm cái khay từ quầy thức ăn đi vào thì tôi đã đứng
chờ ông ở cái bàn đó. Không biết có phải tôi... cố tình giữ cái bàn nhỏ đó cho
ông không nhưng tôi luôn luôn e ngại có người khác chiếm chỗ đó của ông. Từ khi
mở cửa phòng ăn, nếu có khách bước vào là tôi tìm cách lái họ mời đến những chỗ
khác. Cho đến khi ông tới và ngồi yên vị ở cái chỗ quen thuộc mà ông thích đó
tôi mới thở phào yên tâm nhẹ nhõm. Tôi đem trà đến cho ông, tách nước sôi, tôi
bóc gói trà thả vào nước sôi, sợi dây buộc giấy nhãn vắt ra ngoài tách, một miếng
chanh ngon lành không có lõi để trên đĩa. Tôi nói “please” ông nhìn tôi trìu mến
“thank”. Về sau thói quen đã làu, ông muốn tôi nói tiếng Việt “xin mời” và ông
nói “cám ơn cô”.
Hai tháng sau, một hôm ông nói tôi cuối giờ làm, ông sẽ đưa tôi về. Đúng như thế,
ông lái xe jeep đón tôi ngay cửa BOQ, tôi rụt rè không dám lên xe, ông xuống xe
đi vòng sang ẵm tôi đặt ngồi trên ghế, tôi bàng hoàng cả người. Khi xe ra tới cổng
căn cứ, ông ngừng lại cho tôi xuống đi bộ chui qua cửa an ninh bấm thẻ đúng thủ
tục. Một nhân viên kiểm soát nháy mắt nói với anh đồng sự:
“Mới hai tháng đã bắt được con cá mập, trung tá Mỹ chứ bộ.”
Tôi trở lại xe, lần này tôi mạnh dạn trèo lên. Ông lái xe đưa tôi về chỗ trọ, mấy
người hàng xóm ra nhìn, có người nói: “Cũng lại lấy Mỹ rồi”. Những ngày sau đó
ông đều lái xe đưa tôi về và rồi ông hỏi cưới tôi làm vợ đem về Mỹ. Bằng thứ tiếng
Anh hầu bàn, tôi bập bẹ nói và loáng thoáng hiểu sự việc làm đảo lộn đời tôi. Vợ
ông đã đòi ly dị với ông ngay từ ngày ông tình nguyện sang chiến trường Việt
Nam, bà ấy không chấp nhận việc ông xa nhà, mọi sự đã giải quyết xong, ông chưa
có con cái, ông sẽ giã từ đời quân ngũ, ông sẽ thôi chức vụ trung tá không quân
để đem tôi về sống cuộc đời dân sự bình an ở bên Mỹ. Ông xin tôi nhận lời cầu
hôn của ông vì ông thích tôi qua những bữa ăn tối ở câu lạc bộ sĩ quan. Tôi
hoang mang không biết xử trí ra sao. Chưa gì đã nghe những lời đàm tiếu “me Mỹ”,
nhưng quả tình tôi rất kính trọng ông, tôi rất tin tưởng nơi ông, con người như
ông tôi nghĩ không thể xấu xa được. Và tôi rất muốn đi khỏi nơi này, tôi rất muốn
đi xa, thật xa, tôi muốn chạy trốn để dứt khoát với dĩ vãng, dứt khoát với cái
nơi không còn chút liên hệ nào. Không còn quê quán, không còn cha mẹ anh chị
em, không còn cậu. Cậu tôi đã bị “bụp” ! Tôi cũng đã bị “bụp”. Chúng tôi đều đã
vỡ mặt, cậu cháu tôi đều đã rồi đời. Hôm sau tôi trả lời ông là tôi bằng lòng theo ông suốt cuộc đời. Tôi cũng xin
ông đừng bỏ tôi bơ vơ ở nước Mỹ, tôi đã bơ vơ ở Việt Nam, xin đừng bỏ tôi bơ vơ
trên chốn dương gian này. Ông ôm tôi vào lòng ngay tại phòng ăn câu lạc bộ trước
mắt bao người. Ông gọi quản lý xin cho tôi nghỉ việc ngay hôm đó. Ông đưa tôi về
ngôi nhà ở làng đại học Thủ Đức. Tôi được biết ngôi nhà này do một kỹ sư hãng
thầu xây dựng RMK thuê để ở với một cô vợ Việt nam, nay ông kỹ sư về Mỹ sang lại
nhà và cô vợ cho ông trung tá không quân, nhưng ông trung tá chỉ nhận sang nhà,
ông mang tới một cô vợ Việt nam khác. Làng đại học Thủ Đức gồm toàn những ngôi biệt thự lớn được xây dựng dành riêng
cho các giáo sư đại học, ông cố vấn chính trị chế độ Cộng-Hoà-cũ đã gọi khu cư
xá cao cấp này là một ấp chiến lược kiểu mẫu, sang chế độ Cộng-Hoà-mới gặp lúc
kinh tế khó khăn, chiến tranh bế tắc, vị giáo sư đại học phải thu xếp cho gia
đình xuống ở căn nhà ngang vốn là nơi dành cho người ở đợ, ngôi nhà trên cho Mỹ
mướn lấy tiền nuôi vợ con. Ấp chiến lược là quốc sách chống lại xâm lăng cộng sản,
trong đó các đơn vị gia đình hợp lại với nhau thành cộng đồng đồng tiến, quí
phu nhân thì liên đới với nhau thành phong trào, ngăn chặn không cho cộng sản
len lỏi vào. Làng đại học Thủ đức đã thành công trong việc vận dụng “lý thuyết
tam túc tam giác”, không thấy cộng sản trong đó. Cộng sản không vào được thì
người Mỹ vào. Vào bằng xe jeep US Army hay xe hãng thầu RMK, thuê gần hết cả
trăm căn biệt thự nguy nga lộng lẫy xây dựng bằng tiền viện trợ Mỹ. Trẻ con
trong ấp thường hát nhái rằng: “Cái nhà là nhà của ta, USAID, USOM làm ra... Ông đem tôi đến ở ngôi nhà đó, ông thuê người nấu ăn và bồi phòng để hầu hạ
tôi. Ông dẫn tôi lên toà đại sứ Mỹ ở Saigon làm giấy giá thú, để sẽ biến tôi
thành một công dân Mỹ. Ông cho tôi đi học tiếng Anh, chính ông tập ăn tập nói
cho tôi và hướng dẫn tôi hội nhập vào với dòng chính của nước Mỹ. Sáng sáng ông
lái xe đi làm trong căn cứ, tôi ở nhà ngủ nướng, thức dậy ăn, ngâm mình trong hồ
bơi, nằm phơi xác dưới cây dù mầu, có hai người hầu hạ ăn uống ngủ nghỉ…rồi chờ
ông về. Chiều ông lái xe về mang theo bao nhiêu là thứ hàng mua trong PX hay
Commis- sary, dư xài tôi đem cho gia đình vị giáo sư đại học, mọi người đều gọi
tôi là cô, ở đây tôi chưa nghe ai nhắc đến tiếng “me Mỹ”. 3. Ngay những ngày đầu tiên từ Việt Nam về Mỹ, chồng tôi đã đưa tôi đến ở ngôi nhà
trên đồi. Rồi sau đó thỉnh thoảng ông mới lần lượt đưa tôi đi đến các ngôi nhà
khác, có khi là mùa hè ông dẫn tôi ra miền biển nghỉ mát, tập cho tôi chơi
surfing, cũng có khi là mùa đông ông dẫn tôi lên ngôi nhà trên núi cao dạy cho
tôi trượt tuyết, hoặc là có khi ông cho tôi về ở trong những căn phòng trên
building giữa thành phố, để thỉnh thoảng ông dắt tay tôi đi lang thang trên các
vỉa hè khu thương mại, ông đưa tôi vào các quán ăn mà tôi nghĩ rằng rất quen
thuộc với ông vì những chủ quán hay cả những người bồi bàn, quản lý… đều tiếp
đón ông kính trọng và thân tình. Họ nói với nhau những chuyện thời quá khứ, những
câu chuyện từ hồi ông còn trẻ, từ hồi ông chưa sang tham chiến ở Việt Nam. Có
khi họ hỏi ông những chuyện Việt Nam và cũng có khi ông hỏi họ về những chuyện
của thành phố thời gian ông vắng mặt. Ông kể chuyện chiến tranh Việt Nam cho họ
nghe, ông đã chỉ tôi và giới thiệu “Việt Nam đó”. Một buổi chiều ông đưa tôi đi uống bia ly, một quán bia rất nhỏ, với những hàng
quán của nước Mỹ thì quán bia này chỉ như một thứ “quán cóc”, giông giống một
“quán cóc” bên đường nơi quê cũ. Quán bia ở ngay đầu một ngõ hẻm, mấy bộ bàn ghế
bên trong bằng gỗ mộc và một chiếc quầy dài có hàng ghế cao cẳng cũng bằng gỗ mộc.
Độc nhất quán chỉ bán một thứ bia, chính là thứ bia của hãng sản xuất thuộc gia
đình ông ngay bên cạnh đó. Bia bán từng ly vại do người quản lý hứng từ cái vòi
chui ra ở vách tường. Một vài món nhậu lai rai như hạt điều, fromage... chiều
theo một vài vị khách nào đó, nhưng phần đông khách đến đây chỉ để uống một vài
vại bia còn âm ấm chảy thẳng từ trong lò nấu bên kia hãng sản xuất chảy sang.
Chồng tôi cũng chỉ uống bia không như thế và ông cũng gọi cho tôi một ly để
nhâm nhi với ông. Nhìn thứ nước vàng vàng sủi bọt trong ly thủy tinh tôi liên
tưởng tới những chai bia bị lay động cũng bị sủi bọt dưới lưng tôi trong nhà
kho của cụ Chánh. Uống những hớp bia tôi lại nhớ những ngụm bia đã bí tỉ chung với
cậu. Ông cho tôi biết hãng sản xuất bia có từ hồi ông chưa sinh ra đời do ông nội
ông lập nên, nhưng quán bán bia lẻ uống nếm thử này thì có từ hồi ông còn nhỏ
do bố ông sáng kiến mở ra. Uống xong mấy ly bia, ông trả tiền rồi dắt tay tôi
ra khỏi quán để đi ăn tối ở một tiệm ăn khác. Đi bên cạnh chồng trên hè phố dưới
ánh đèn đường tôi nhớ tới Saigòn. Chợt chồng tôi nói:
- Hãng làm bia là của em, cái tiệm bán bia lẻ nhỏ bé đó cũng là của em, nhưng nếu sau này có lúc nào đó em đi ngang tạt vào uống một ly bia thì nhớ là em cũng sẽ trả tiền ly bia đó như những khách hàng khác nhé. Tôi yes nhỏ trong miệng, đầu vẫn còn lảng vảng ý nghĩ về chốn cũ nơi quê nhà. * Ngôi nhà lớn nhiều phòng đẹp đẽ sang trọng nằm trên một quả đồi nhỏ trong một
vùng thung lũng mênh mông, có thảm cỏ, có vườn cây, có chuồng ngựa và những con
đường đất ngoằn ngoèo. Từ ngôi nhà đó tôi có thể nhìn ra xa không bị một che chắn
nào. Cũng từ ngôi nhà đó tôi có thể phóng tầm mắt nhìn tuốt lên dãy núi xanh
cao mà ở trên đó cũng có một ngôi nhà của ông. Có lần tôi nói ngôi nhà trên đỉnh
đồi thì chồng tôi ôn tồn sửa lại là ngôi nhà dưới đỉnh đồi. Ông nói từ ngôi nhà
dưới đỉnh đồi này hôm nào trời quang em có thể nhìn thấy mờ mờ ngôi nhà trên
chân núi kia, ngôi nhà ấy đúng ra mới chỉ ở chân núi vì em thấy đó nó chỉ là một
chấm nhỏ dưới cùng của dãy núi xanh cao vút chín tầng mây. Rồi chồng tôi tập
cho tôi nói câu “Từ dưới đỉnh đồi nhìn lên chân núi”. Tôi tập nói, lập đi lập lại
nhiều lần câu nói đó và nhớ đến hồi tôi mới được ông lấy làm vợ, ông cũng dạy
tôi nói tiếng Anh bắt lập đi lập lại như thế. Ông dạy tôi từng chữ từng câu, tập
đọc tập viết cho tôi, sửa chữa từng câu từng chữ, cho đến khi nào tôi nói được
viết được nhuần nhuyễn ông mới hài lòng.
Ông hướng dẫn cho tôi hội nhập vào nước Mỹ bằng cách cho tôi đi làm các công việc
ở các hãng xưởng sản suất, mỗi nơi một thời gian, ông nói để tôi quen với những
tiếp xúc kiểu Mỹ, quen với lối sống Mỹ, quen với giọng nói Mỹ và nhất là hiểu
được trị giá của đồng dollar Mỹ. Tôi công nhận là ông thực dụng. Tôi cũng được tập cưỡi ngựa, tập lái xe, tập leo núi, tập trượt tuyết, tập chơi
golf, tập khiêu vũ, tập chơi đàn piano... Ông mướn thầy dạy tôi những thứ đó.
Ông mở chương mục ngân hàng cho tôi, dạy tôi cách xử dụng thẻ tín dụng, ký ngân
phiếu, mặc dù tôi chẳng bao giờ phải xài đến nó bởi vì mọi công việc đã có
nguyên một phòng hành chánh tài chánh lo liệu, tôi cần gì tôi muốn gì ông quản
lý biết ý hết và giải quyết cho tôi ngay. Thậm chí tôi còn không cần phải có tiền
trong người, tôi có phải móc ví ra chi trả đâu. Tôi có bao giờ phải xách cặp lồng
cầm tiền lẻ đi mua đồ ăn sáng ăn tối cho ai đâu. Chồng tôi muốn nâng tôi lên
cao, muốn biến tôi thành người của giới thượng lưu như ông để cùng sống chung với
ông. Tôi hiểu điều đó, tôi cố gắng học, tôi cố gắng hội nhập, tôi cố gắng làm
cho ông hài lòng. Nhưng tận trong thâm tâm, có lúc tôi vẫn sống lại với quá khứ,
có những lúc tôi thấy mình là đứa con gái học trò ở một quận lỵ miền quê, có
lúc tôi chợt thấy mình là con lọ lem ngủ đường ngủ chợ, khi thì nhớ ra rằng
mình là con ở tay cầm tiền lẻ tay cầm cặp lồng. Tận trong tim tôi vẫn ấp ủ hình
bóng cậu, tình yêu của cậu, cái xe ba bánh, kho chứa bia, nhà tắm nơi góc sân,
tôi không thể quên được những hình ảnh ấy. Tháng tư năm 1975 tình hình chiến sự ở Việt nam sôi động, tôi ngồi trước máy
truyền hình theo dõi suốt ngày đêm, cộng sản miền bắc vi phạm hiệp định ngưng bắn
xua quân tiến chiếm miền nam, hình ảnh những người lính cộng hòa lui quân tan
rã súng ống vứt bừa bãi khắp nơi, lang thang trên các nẻo đường chiến địa, đã
thu hút sự chú ý của tôi. Tôi cố tìm cậu của tôi trong đám quân bại trận đó.
Tôi vẫn cố hy vọng thấy được cậu còn sống sót trong cuộc đổ vỡ này. Ông chồng
tôi thấy tôi ủ rũ lại nghĩ là tôi thương nước thương nòi, ông an ủi tôi: - Thôi em đừng nghĩ ngợi gì về cuộc chiến đó nữa. Chúng
ta đã thua ngay từ lâu lắm rồi, từ cái ngày nước Mỹ bỏ ngỏ Đông Âu cho cộng sản
Liên sô xâm chiếm.
Tôi không hiểu được những điều ông nói, tôi chỉ biết ngồi yên với nỗi buồn của
riêng mình, chồng tôi nói tiếp, có lẽ là muốn giảng giải cho tôi về những quan
niệm của ông: - Khi Hoa kỳ từ bên nước Anh đổ bộ lên nước Pháp đánh
phát xít Đức giải phóng châu Âu, đáng lẽ ra phải tiến quân đi tới, nhưng
Roosevelt lại nghe lời bàn lui của Churchill, nhường cho Liên sô chiếm trọn
đông Âu. Đông Âu thoát khỏi phát xít lại sa vào vòng kiềm tỏa của cộng sản.
Stalin chôn sống mấy chục ngàn sĩ quan ưu tú của Ba lan, thâu tóm nhuộm đỏ được
gần một nửa thế giới. Nước Mỹ đã để cho cộng sản tràn lan, thế giới vỡ bờ, chỉ
vì giao tiếp với những tay hoạt đầu chính trị như, một De Gaulle cơ hội, một Churchill
láu cá, một Stalin hung bạo… Nước Mỹ đã nhiều lần trợ giúp những tổ chức nổi dậy
để rồi sau đó chúng đánh lại Mỹ. Mỹ viện trợ giúp đỡ khắp thế giới nhưng khắp
thế giới đâu đâu cũng chống Mỹ. Ở Việt nam cũng thế, Mỹ đã từng cho biệt kích
nhảy dù xuống Việt bắc giúp đỡ họ Hồ. Sau này họ “chống Mỹ cứu nước” mới vỡ lẽ
ra thì đã muộn. Tôi tình nguyện sang Việt nam chiến đấu những mong làm được một
cái gì đó để cứu vãn phần nào, nhưng một thời gian tôi thấy ra rằng chỉ là vô vọng.
Chẳng thể cứu nổi Việt nam cho nên tôi bỏ cuộc, tôi cưới em đem về Mỹ là để cứu
em ra khỏi vùng chiến địa đó. Không cứu được cả một xứ sở thì tôi cứu lấy một
người. Khi em bằng lòng theo tôi về Mỹ là em đã giúp tôi làm được việc đó. Đây
là lần thứ nhì trong đời tôi đã tự giải thoát được chính mình.
Tôi định hỏi ông cái lần thứ nhất ông giải thoát mình nhưng thấy ông nghiêm nghị
trầm ngâm quá nên không dám. Mãi sau này tôi mới tình cờ biết được sự đó. Chồng tôi cũng không là kẻ hẹp hòi, khi không còn chiến tranh, nhiều Việt kiều
về thăm quê hương, ông chồng tôi cũng gợi ý cho tôi về thăm Việt nam một lần,
ông nói: - Em còn có một nơi gọi là quê hương để mà nhớ thì em nên về thăm. Chứ như tôi
đây, trải qua mấy đời rồi tôi chỉ còn biết mang máng là giòng giống mình ở tận
bên Scotland, chỉ có thế, tôi không biết một tên người nào, tôi không biết một
địa chỉ nào để mà lần mò tìm ra cội nguồn mình. Tôi đã mất gốc. Một người Mỹ
thuộc dòng chính là một người Mỹ đã hoàn toàn mất gốc. Phải nhiều đời nữa hắn mới
nẩy mầm ra và bám rễ thành một cái gốc khác, nhưng em biết đó, tôi không có con
cái, đến đời tôi là dừng lại. Em mới bắt đầu vào cuộc thì em còn chút dây mơ rễ
má để mà tìm về. Nếu em muốn thì em cứ đi. Tiền bạc đó em muốn tiêu xài việc gì
cho quê hương em thì em cứ xử dụng. Em muốn làm gì để có một cái phao bám víu
thì em cứ làm. Tôi chỉ mong em happy. Thấy em happy là tôi hạnh phúc. Tôi mang
ơn em đã mang lại hạnh phúc cho tôi.
Tôi ôm ông khóc ròng. Tôi có còn ai đâu. Gia đình bố mẹ anh chị em tôi đã bị
xóa sạch cùng với nhà cửa và thị trấn, xóa sạch không còn dấu vết gì bởi bom đạn
cào qua cào lại của cả hai bên. Người tình thì mất hút. Tôi còn biết về đâu bây
giờ? Về với ai bây giờ? Tiền bạc để cho ai bây giờ? Thấy tôi khóc, ông ẵm tôi
trên tay đi tới đi lui trong phòng như người ta ẵm một đứa trẻ. Tôi muốn đẻ cho
ông một đứa con nối dõi nhưng suốt mấy năm qua ăn ở với ông tôi vẫn không làm
sao có bầu được. Tôi hứng tất cả những gì của ông cũng như trước đây tôi đã hứng
tất cả những gì của cậu trút sang nhưng chưa một lần nào tôi tạo thành ra cái
gì cả. Tôi là một giống cái không biết tạo ra sự sống, không biết truyền sinh,
tôi đúng là thứ đồ bỏ, tôi hoàn toàn là một kẻ bất nhân. Có lẽ rồi ông mất gốc,
tôi mất gốc, hai kẻ mất gốc sẽ ôm nhau mà chết rục trong quạnh hiu và vô vọng
thôi. THẢO TRƯỜNG |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 05/Feb/2024 lúc 10:10am |
Vài Cái Tết Của Một Thời Để NhớChiều cuối năm, Minh cố gắng xem lại hồ sơ bệnh lý một vài người bệnh nặng, dặn dò y tá các chỉ dẫn cần thiết để chuẩn bị những ngày nghỉ Tết dài. Giữa cái không khí đặc biệt của những giờ phút cuối cùng năm Nhâm Tý (1972), trong niềm nôn nao chuẩn bị và chờ đợi, có một chút gì thiêng liêng, khi mỗi người đều đi vào thế giới thầm kín của riêng mình, từ cuối trại bệnh vọng lại mồn một, tiếng hát thật tâm tình: “Con biết bây giờ mẹ chờ tin con, khi thấy mai đào nở vàng bên nương. Năm trước con hẹn đầu xuân sẽ về‚ nay én bay đầy trước ngõ, mà tin con vẫn xa ngàn xa.” “Ôi nhớ xuân nào thuở trời yên vui‚ nghe pháo giao thừa rộn ràng nơi nơi‚ bên mái tranh nghèo ngồi quanh bếp hồng, trông bánh chưng chờ trời sáng‚ đỏ hay hay những đôi má đào.” “Nếu con không về chắc mẹ buồn lắm‚ mái tranh nghèo không người sửa sang‚ khu vườn thiếu hoa vàng mừng xuân, đàn trẻ thơ ngây chờ mong anh trai, sẽ đem về cho tà áo mới, bao ngày xuân đi khoe xóm giềng.” ”Con biết không về mẹ chờ em trông‚ nhưng nếu con về bạn bè thương mong, bao lứa trai cùng chào xuân chiến trường‚ không lẽ riêng mình êm ấm. Mẹ ơi, con xuân này vắng nhà!” Tiếng hát ngừng trong giây lát, rồi lại tiếp tục vang lên trở lại như cố gửi về đâu đó tâm tư mình qua lời ca bản nhạc. Trong cái vắng lặng chiều ba mươi Tết, tiếng hát nghe thật ngậm ngùi, xót xa đã được mọi người đón nhận với tất cả tâm tình. Ghi xong những chỉ dẫn cần thiết trên những hồ sơ bệnh lý cuối cùng, Minh tò mò tìm đến chỗ phát ra tiếng hát. Trước mặt Minh, một thương binh trên chiếc nạng gỗ, vai tựa vào cột hành lang trại bệnh, mặt nhìn về một phương trời xa thật là xa. Anh ta mải mê với tâm tình bản nhạc, nên không biết Minh đang tiến về phía anh cũng như bất cứ chuyện gì xảy ra xung quanh. Khi khoảng cách chỉ còn độ mươi bước chân, không muốn phá tan không khí thiêng liêng của người thương bệnh binh, Minh đã quay trở lại văn phòng, thả mình xuống chiếc ghế dựa. Một cảm giác buồn man mác bỗng nhiên xâm chiếm tâm hồn Minh. Ðã bao năm rồi không về quê vui hưởng những ngày đầu xuân với ba mẹ già, bản nhạc rõ ràng cũng đánh động ngay cả đến Minh. ******** Trí óc đem Minh về những lần đón xuân đã qua đi trong đời, nào là thời thơ ấu khi gia đình còn ở bên kia vĩ tuyến 17. Mỗi lần chuẩn bị đón xuân về thật nhộn nhịp và linh đình, khi những người giúp việc làm thịt chú heo, thế nào họ cũng để dành cái bong bóng để phơi khô cho Minh. Cái bong bóng chẳng dễ bể tý nào nầy Minh chẳng ưa gì mấy, vì còn phải qua bao nhiêu ngày chờ đợi mới được sử dụng, hơn nữa, trông nó chẳng trơn tru, mỹ thuật tý nào. Thế nhưng cái đuôi heo mà năm nào Minh cũng được dành phần cho, có lẽ tại Minh là con út trong gia đình thì Minh thích hơn nhiều. Tay cầm cái đuôi heo chạy tung tăng khắp nhà, vừa chạy vừa gặm thật là thích, hơn nữa khi gặm nghe sần sật thật khoái miệng. ***** Minh nhớ đến những năm học tại Sao Biển, nhớ đến những đêm chờ sáng gần như không ngủ. Minh thì chẳng phá phách gì, nhưng một số bạn thì đúng như trong thành ngữ: “nhất quỉ, nhì ma, thứ ba học trò”. Những người ở trong danh sách nghịch ngợm, phá phách này ai mà chẳng biết, huống hồ gì thầy giám thị, thế nhưng không lẽ thầy lại thức suốt đêm canh chừng, vả lại đêm cuối cùng trước khi rời trường, thôi thì cũng đành lơ đi cho mấy ông tướng, miễn là đừng có quậy lắm thì thôi! Ðây là đêm mà các bợm nghịch phá ra tay! Có người đã chuẩn bị từ nhiều tháng trước những gì họ cần để chỉ dùng cho đêm cuối này, hầu thỏa mãn tính phá phách, tinh nghịch đã bị dồn nén bao nhiêu tháng trời, khi phải nép mình trong kỷ luật khắt khe của nhà trường. Họ phải thực hiện quỉ kế như thế nào để thu hút được sự chú ý và tham gia của những người khác, gây rối làm sao để không bị bạn bè biết, và cũng chẳng làm thiệt hại gì đến cho ai, và nhất là làm sao để thầy giám thị không phát giác được mình. Minh nhớ đến bữa điểm tâm vội vã, hình như chẳng còn ai muốn ăn gì nữa. Tất cả chỉ chờ tiếng chuông báo hiệu bữa ăn chấm dứt. Sau câu kinh đáp cám ơn “Deo Gratias” và “Amen”, cùng với các bạn, Minh như đàn chim non túa ra khỏi sân trường, tung tăng trên khắp các nẻo đường, tìm về tổ ấm trong niềm vui sum họp những ngày xuân. ***** Minh nhớ đến lần cùng đáp chuyến xe đò với Hường về quê ăn Tết năm Ất Tỵ 1965, dạo hai đứa mới quen nhau. Năm ấy Minh học đệ Nhất ở Pétrus Ký và Hường, đệ tam Nguyễn Bá Tòng. Hai đứa đều lấy xích lô để đến bến xe lục tỉnh nằm trên đường Pétrus Ký. Minh đi một mình, trong khi Hường có hai cô bạn đưa tiễn. Những ngày cuối năm trời buổi sáng se se lạnh, tuy thế bến xe thật tấp nập. May mà Minh đã mua vé cho cả hai từ hôm trước, chứ không thì cũng không dễ gì có được một chỗ trên chuyến xe hôm đó. Trời còn tờ mờ sáng, xe đã chuyển bánh. Chiếc xe chạy qua những con đường phố nhộn nhịp ngập đầy các loại xe từ xe đạp, xe xích lô thường và gắn máy, xe ba gác, xe scooters, xe lam ba bánh, xe đò, xe vận tải. Tất cả đều cố tranh nhau chạy trên những con đường chật hẹp. Ngoài chiếc còi xe bác tài xế bấm gần như liên hồi kêu inh ỏi, các chú lơ xe, đứng trên hai cửa ra vào, trước và sau, một tay nắm chặt vào thành, một tay đập mạnh liên hồi vào thùng xe, miệng không ngừng kêu la bai bải để mọi người tránh đường cho xe chạy. Âm thanh, cùng với hình ảnh sinh hoạt trên con đường từ Sàigòn ra xa lộ Biên Hòa, và các tỉnh miền Trung lúc trời vừa sáng có một nét rất đặc biệt. Ai đã có dịp chứng kiến một lần trong đời sẽ không làm sao có thể xóa nhòa trong tâm trí được. Trời đã sáng hẳn khi xe vượt địa phận thị trấn Thủ Ðức, chạy bon bon trên xa lộ Biên Hòa đi qua các xóm đạo với những nóc giáo đường khang trang, những phố thị sầm uất nối tiếp nhau, qua những khu vườn cây ăn trái xanh tươi, các rừng cao su bát ngát, trồng trên những mảnh đất đỏ mầu mỡ chạy dài hết cây số này đến cây số nọ. Dầu xe chạy nhanh Minh cũng có thể thấy các công nhân đang thu hoạch mủ cao su từ những chiếc tô hứng, đặt trên những thanh sắt hình dấu hỏi thật lớn gắn ở giữa thân cây, hay đang dùng những dụng cụ trông như chiếc liềm để nạo trên những đường mương hình xoắn ốc ở thân cây làm cho mủ cao su. Chất nhựa trăng trắng, tựa như những dòng sữa tuôn chảy từ vỏ cây theo đường mương xuống tô hứng. Khi nhà cửa bắt đầu thưa dần, thay vào đó bằng các xe chở gỗ nằm rải đó đây, thì cũng là lúc núi rừng lần lần xuất hiện. Ðường xá trở nên xấu hơn, cạnh quốc lộ số 1 mọc đầy những cây cao khoảng hai ba thước, người ta gọi là những cây kè với những chiếc lá như những chiếc quạt to thật là to đâm thẳng lên trời cao đang mãi vui đùa, phe phẩy với gió. Xe chạy qua những khúc đường bị phá hoại chưa được sửa sang kịp thời. Những cơn mưa đem nguồn nước đến tắm mát vạn vật sau những tháng nắng hạ oi bức, giúp những khu rừng cây lá xanh tươi, nhưng cũng đã làm cho tình trạng con đường huyết mạch nối liền Nam Bắc trở nên lầy lội, khó sử dụng. Chiếc xe chạy thật vất vả, khi lắc lư vượt qua những hố sâu, bắn tung bùn vương vãi lên trên các cây cỏ quanh vệ đường, khi chồng chềnh làm hành khách nghiêng hẳn về một phía, chiếc xe như muốn vật ngã xuống bên đường vì mệt mỏi. Người tài xế điều khiển chiếc xe một cách hết sức bình tĩnh, tài tình và điêu luyện qua những đoạn đường cam go. Vượt qua đoạn đường xấu, bắt đầu tăng tốc độ, mọi người thở ra thoải mái vui mừng, bỗng dưng chiếc xe chạy chậm dần và cuối cùng ngừng hẳn lại. Trong xe nhôn nhao chẳng biết chuyện gì xảy ra. Một đôi phút qua đi trong khi mọi người xì xầm nhỏ to từ đầu đến cuối xe, thế rồi không ai bảo ai, tất cả đều im lặng. Tất cả các hành khách trên xe, như đã hình dung ra chuyện gì phải đối phó, đang gần như nín thở chờ đợi chuyện xảy ra và cầu mong sự bất hạnh ấy không xảy đến với mình. Minh có thể nghe được tiếng tim đập trong lồng ngực mình, nhìn Hường ái ngại, chàng không lo cho mình bằng cho Hường, vì biết rõ những gì sẽ xảy ra nếu sự bất hạnh chẳng may xảy đến cho mình hay cho Hường. Những giây phút chờ đợi quả thật là lâu. Im lặng vẫn bao trùm trên toàn chiếc xe. Người ta có thể nghe cả tiếng thở của một vài người nhát dạ. Thế rồi Minh nghe tiếng người nói chuyện đang tiến dần về phía xe, sau đó chú lơ cùng với mấy người ăn mặc không giống bất cứ một binh chủng nào của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, đầu đội mũ tai bèo, bị gạo quấn chéo từ vai qua hông đối diện, chân đi dép râu, tay cầm súng xuất hiện. Họ đi ngang qua phía ngoài xe từ trước ra sau, hình như để kiểm chứng lại lời khai người lơ xe. Tất cả mọi người đều nín thở chờ đợi số phận. Tim Minh đập mạnh như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực khi họ đi ngang qua hàng ghế chàng và Hường ngồi. Chỉ có chưa đầy một phút mà Minh cứ tưởng như hàng giờ trôi qua. May quá, họ không mời một ai xuống xe, cũng như không bắt bất cứ một người nào trong xe ở lại, có lẽ nhờ lời khai người lơ xe, hay vì họ không gặp đối tượng tìm kiếm. Sau khi kiểm soát, xe được tiếp tục chuyển bánh. Cùng với tất cả hành khách trên xe, Minh và Hường cùng thở ra nhẹ nhõm. Giá mà họ trở lại khám một lần nữa, chắc tim Minh rụng ra khỏi lồng ngực mất. Nhìn ra cửa xe, Minh có thể thấy một số người chắc cũng thuộc nhóm người này ở rải rác trong các bụi cây dọc đường. Ðó là lần đầu tiên Minh thấy tận mắt những người trong quân đội Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Cái cảm giác sợ hãi kèm theo một ít hiếu kỳ ban đầu đã nhường chỗ cho một chút nào nể vì, bởi những gì Minh nghe đến trước đây về họ đã không xảy ra: không cướp bóc, không hiếp dâm, không bắt bớ bất cứ một ai. Minh và Hường có thể dễ dàng trở thành nạn nhân nếu việc ấy xảy đến. Ngoài chuyện gặp bộ đội giải phóng ở Rừng Lá, khu rừng chạy dài hằng mấy mươi cây số nằm giữa Long Khánh và Phan Thiết, chuyến xe đã không găp một rắc rối nào khác. Minh và Hường về đến quê trước sự ngỡ ngàng của tất cả mọi người, vì tuy là láng giềng, cả hai chưa quen biết thân thiết đến độ cùng đáp chuyến xe từ Sàigòn về quê ăn Tết một lần với nhau. ***** Minh nhớ đến Tết Mậu Thân, 1968. Năm ấy vì tình hình mất an ninh, gia đình Minh không về quê ăn Tết với ba mẹ và các anh chị. Ðang ngủ yên giấc thì cộng quân đã bắn bừa bãi hỏa tiễn 122 ly vào Sàigòn. Minh đã ôm Anh Tuấn, dạo ấy mới có mấy tháng tuổi nằm tránh đạn dưới giường. Sáng hôm sau khi đi ngang trên đường Bắc Hải, Minh đã chứng kiến tận mắt cảnh hãi hùng gây ra, khi một trong số các hỏa tiễn rơi vào nhà một gia đình thường dân vô tội. Trái hỏa tiễn oan nghiệt đâm thẳng từ mái xuyên qua căn gác, nổ tung ở sàn nhà gây thiệt mạng cho toàn thể mọi người trong căn nhà kém may mắn ấy, để lại một hố thật sâu ngay giữa nhà, như là môt trong những chứng tích giải phóng dân lành của họ. Ngoài ra còn bao nhiêu cảnh chiến tranh ngay tại đường phố Sàigòn, cảnh trực thăng cobra và các chiến đấu cơ oanh kích vùng bị địch chiếm. Ðau lòng nhất là cảnh Minh phải vào nghĩa địa Hòa Hưng kiếm xác người anh rể, theo lời yêu cầu của chị Loan. Chị kể với Minh, anh Linh, chồng chị rời nhà trưa mồng 2 Tết, với ý định trở lại đơn vị sau khi được đài phát thanh Saigon loan báo tin cộng quân, bất chấp lệnh đình chiến đôi bên thỏa thuận nhân dịp Tết, đồng loạt tấn công trên gần như khắp các tỉnh miền Nam kể cả thủ đô Sàigòn, các quân nhân được lệnh trình diện đơn vị mình gấp để đối phó với tình hình chiến cuộc. Phục vụ tại Trung Tâm Tiếp Huyết, một đơn vị chuyên tiếp tế máu và huyết thanh cho nhu cầu các thương bệnh binh ở các quân y viện, đơn vị anh nằm cạnh Tổng Y Viện Cộng Hòa ở ngay ngã Ba Chú Ía. Căn cứ vào tin tức trên đài phát thanh sau đó cho biết, đoạn đường anh đi qua đã rơi vào tay đối phương, khi chúng tấn công Bộ Tổng Tham Mưu. Mỗi ngày từ sáng đến tối, xe chở xác chết tìm thấy được trên khắp các đường phố kế cận về tập trung tại đây. Ða số họ là các sĩ quan hay cảnh sát, vì thi hành lệnh gọi trình diện, đã bị hạ sát khi đi qua những đường phố cộng quân chiếm đóng. Minh không khỏi bùi ngùi nhìn thấy một thiếu phụ khóc ngất bên xác chồng. Chị làm sao tin được chồng chị đã không ngã gục tại chiến trường sau bao nhiêu năm chiến đấu vào sinh ra tử, mà lại chết tức tưởi trên đường phố Saigon, kế cận Bộ Chỉ Huy toàn thể Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một nơi được xem như là bất khả xâm phạm, an toàn nhất trên toàn lãnh thổ miền Nam. Chị ôm xác chồng vừa khóc vừa kể lể, nào là mặc cho chị khuyên anh nên xem xét tình hình ra sao đã rồi trình diện, nhưng anh viện lẽ bổn phận và trách nhiệm của mình khi đất nước lâm nguy, hứa với chị sẽ xem xét công việc tại sở, sẽ trở về nhà ngay để vui xuân với chị và các con, sau đó anh nhảy lên chiếc xe jeep, phóng như bay ra khỏi nhà để lại bao nhiêu lo âu cho chị; nào là anh mới ôm hôn chị, các con đây sao bây giờ đã chết tức tưởi như thế này, chị phải giải thích với các con ra sao? Chị tiếp tục khóc và kể cho đến khi ngất lịm bên xác chồng. Cảnh chị khóc đã làm mủi lòng tất cả những ai có mặt tại đó. Xác chết ngày qua ngày vẫn được tiếp tục chở về. Ngoài số các sĩ quan, chiến binh và cảnh sát đã được thân nhân nhận đưa về nhà lo việc tống táng, còn rất nhiều xác thường dân vô thừa nhận. Nhà xác không đủ chỗ chứa ở trong, đã phải đặt bừa bộn ra cả trên sân bên ngoài. Ruồi nhặng bám đầy, xác nằm chờ đợi lâu ngày bắt đầu trương sình, tỏa ra một mùi hôi thối hết sức khó chịu bay ra khắp những vùng dân cư kế cận. Gia đình anh chị Ðiểm Liên ở ngay tại khu vực kế cận, đã phải tạm dọn đến ở nhà anh chị Linh Loan để tránh mùi hôi thối từ nghĩa địa toát ra này. Minh vẫn ngày ngày vào kiếm xác anh Linh, không biết là may mắn hay xui xẻo, anh đã không nằm trong số các xác được đưa về Hòa Hưng. Khi lệnh thiết quân luật được tạm thời giải tỏa một thời gian rất ngắn ban ngày, để dân chúng có thể đi lại mua sắm thức ăn, thuốc uống và các vật dụng cần thiết. Chị Loan đã nhờ Minh đưa chị đi tìm chồng. Tình hình không biết rõ như thế nào, tiếng súng vẫn chưa chấm dứt ở một vài nơi, hơn nữa tin tức không được chính xác lắm, tuy thế vì tình thương Minh đã dùng chiếc xe Lambretta của mình đưa chị đi qua vùng lửa đạn tìm chồng. Không có gì thay đổi khi Minh lái xe qua những khu dân cư ở Ngã Ba Ông Tạ ngoài việc phố xá đóng cửa, sinh hoạt thương mãi đình trệ, thế nhưng, càng tiến về gần khu Tổng Tham Mưu, càng có nhiều hàng rào ngựa cản, xe thiết giáp án ngữ và đó đây mọc lên các nút chặn kiểm soát. Sự hiện diện các binh sĩ nhảy dù dọc bên đường đem đến cho Minh một chút nào an tâm, tuy thế cũng làm cho Minh lo sợ, vì đó là những dấu chỉ chiến cuộc vẫn chưa yên. Tại các nút chặn, sau khi được biết lý do, các binh sĩ đã mở rào cản để cho hai chị em tiếp tục đi tiếp, tuy thế khi được hỏi đường đến Ngã Ba Chú Ía có an toàn hay không, họ không biết trả lời gì hơn là đề nghị cứ đi tiếp xem sao. Qua bao nhiêu nút chặn và rào cản hai chị em càng lúc càng tiến gần đến mục tiêu tìm kiếm. Những chứng tích về các cuộc giao tranh vừa xảy ra lần lần hiện rõ trên khu vực Bộ Tổng Tham Mưu trên đường Võ Duy Nguy nối dài. Hàng rào và cổng chào loang lổ vết đạn. Nhiều nơi đã bị phá tung, thay vào đó là những con ngựa cản và xe thiết giáp bảo vệ với họng súng đen ngòm chĩa ra đường. Hai chị em thở ra nhẹ nhõm khi thấy cổng Trung Tâm Tiếp Huyết. Chưa kịp mừng cả hai đã hú hồn khi nghe một tiếng động rất lớn phát ra từ căn nhà bên cạnh đường. Hồn vía cả hai chị em lên chín tầng mây. May quá từ phía phát ra tiếng động, xuất hiện một anh chiến sĩ Biệt Ðộng Quân. Anh khoát tay ra dấu không có gì nguy hiểm, đừng sợ. Thật là một phen hú vía! Khi cánh cổng Trung Tâm Tiếp Huyết được mở ra cho hai chị em, chị Loan rất đỗi vui mừng gặp lại chồng. Nhờ ơn trên phù hộ, anh đã may mắn đi qua vùng hiểm nguy vào một lúc nào đó mà không bị hại đến sinh mạng. Minh vui lây nhìn thấy anh chị quấn quýt bên nhau. Chị Loan kể hết bao nhiêu đêm không ngủ thao thức lo cho tính mạng chồng và những gì Minh đã làm trong lúc tìm tin tức của anh. Cuộc hội ngộ thật cảm động nhưng ngắn ngủi, vì hai chị em còn phải trở về nhà trước giờ giới nghiêm. ********* Tiếng gõ cửa văn phòng mang Minh khỏi cơn nhật mộng về với thực trạng. Người y tá trưởng nhanh nhẹn cho Minh biết nguồn gốc tiếng hát xuất phát từ trại bệnh, mặc dầu không hề được giao cho nhiệm vụ điều tra. Trung, tên người thương bệnh binh trẻ đã hát với tất cả tâm tình bản nhac “Xuân Này Con Không Về,” quê mãi tận Phú Quốc. Là con út trong gia đình, có nhiều anh em. Tất cả đã lập gia đình nhưng không ai chịu ở với mẹ. Trung tình nguyện sống và phụng dưỡng mẹ già cho đến khi bị gọi nhập ngũ vì đến tuổi động viên. Không biết lý do nào mà Trung bị thuyên chuyển về mãi tận Trung Đoàn 56, Sư Đoàn 3, Quân Đoàn 1. Về đơn vị đã hơn một năm rồi, vì nhu cầu chiến cuộc, Trung chưa có một lần nào về thăm mẹ. Trong một cuộc giao tranh với đối phương, anh bị trọng thương ở chân phải, được di chuyển từ Tổng Y Viện Duy Tân về Trung Tâm I Hồi Lực chưa được một tháng. Trong lần khám vừa rồi, anh năn nỉ Minh cho nghỉ 29 ngày tái khám về quê ăn Tết, nhưng Minh từ chối vì vết thương chưa lành. Phúc trình người y tá làm cho Minh cảm thấy ân hận. Mặc dầu quyết định của Minh đúng, nhưng chàng không ngờ có thể ảnh hưởng Trung đến như vậy. Trước khi rời văn phòng về vui hưởng những ngày nghỉ Tết dài, ngoài việc dặn dò người y tá trưởng chịu khó tận tình thuốc thang cho tất cả các thương bệnh binh, Minh nhấn mạnh đến việc chuẩn bị hồ sơ cho những người ra hội đồng sau Tết, trong đó có cả hồ sơ của Trung. Lần này Minh muốn để cho các đồng nghiệp quyết định. Hy vọng sau một vài tuần vết thương tốt hơn, Trung có thể về quê thăm mẹ già trong không khí vẫn còn Xuân. Sau tết trở lại Hồi Lực, Minh an lòng khi Trung được cho nghỉ 29 ngày tái khám, lần họp đầu tiên sau Tết theo đề nghị của Minh. Hôm Trung khập khễnh trên đôi nạng gỗ rời trại bệnh, Minh không khỏi bùi ngùi liên tưởng đến cảnh sum họp giữa người con thương binh trở về từ vùng địa đầu giới tuyến đầy lửa khói và người mẹ già đã bao ngày mòn mỏi chờ mong tin con. Chợt nghĩ đến bản nhạc ”Ngày Trở Về” của Phạm Duy, Minh thầm hát như để tiễn đưa Trung, cũng như hàng vạn người thương binh của cuộc chiến tương tàn về trên muôn nẻo đường đất nước: “Ngày trở về, anh bước lê trên quãng đường đê đến bên lũy tre. Nắng vàng hoe, vườn rau trước hè cười đón người về. Mẹ lần mò ra trước ao, nắm áo người xưa ngỡ trong giấc mơ. Tiếc rằng ta, đôi mắt đã lòa vì quá đợi chờ.” Mấy hôm sau, Minh rời Trung Tâm I Hồi Lực để lên đường nhận một sứ mạng mới, trở lại tăng phái Thiết Giáp. |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 100 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |