![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Sức Khỏe - Y Tế | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 189 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23635 |
![]() ![]() ![]() |
Dấu hiệu cảnh báo cơ thể thiếu chất sắtĐây cũng là một trong những vấn đề có hại nhất đối với sức khỏe, gây suy giảm sự phát triển trí não ở trẻ em, tăng nguy cơ sa sút trí tuệ ở người lớn, cản trở chức năng nhận thức và miễn dịch kém ở mọi lứa tuổi. Vậy, đối tượng nào dễ có nguy cơ bị thiếu sắt và làm thế nào để tối ưu nồng độ sắt trong cơ thể? Trong khi trẻ em và phụ nữ mang thai thường xuyên được kiểm tra thiếu máu tình trạng không có đủ hồng cầu các bác sĩ thường không sàng lọc tình trạng thiếu sắt ở người lớn. Thiếu sắt ban đầu có thể nhẹ đến mức không được chú ý trong nhiều tháng hoặc thậm chí nhiều năm. Làm thế nào để phát hiện tình trạng thiếu sắt thầm lặng Thiếu sắt có thể biểu hiện rất đa dạng, từ khó chịu đến đau đầu, vì vậy thường hay bị bỏ qua. Dấu hiệu phổ biến nhất là mệt mỏi, nhưng những dấu hiệu khác có thể bao gồm: · Da nhợt nhạt. · Sức khỏe suy yếu, giảm sức mạnh và sức chịu đựng thể chất. · Khó thở, đặc biệt là khi hoạt động thể chất. · Đau đầu dai dẳng hoặc thường xuyên. · Chóng mặt. · Tay chân lạnh bất thường. · Móng tay mỏng và dễ gãy. · Cảm giác thèm ăn bất thường đối với những chất như nước đá hoặc bụi bẩn. · Hội chứng chân không yên: Cảm giác khó chịu ở chân khi nghỉ ngơi hoặc ngủ là phổ biến. · Dễ dàng trở nên kích động hoặc cáu kỉnh. · Khả năng tập trung kém. Khi kiểm tra tình trạng thiếu sắt, Tiến sĩ Matt Angove, một bác sĩ trị liệu tự nhiên được cấp phép khuyến nghị nên làm các xét nghiệm sau: · Ferritin. · Sắt huyết thanh. · Khả năng gắn sắt toàn phần (TIBC). · Độ bão hòa sắt. · Công thức máu toàn phần (CBC). Vai trò của sắt Nhiều người biết rằng thiếu sắt sẽ dẫn đến thiếu máu. Sắt cần thiết để tạo ra huyết sắc tố, một loại protein khiến tế bào hồng cầu có màu đỏ, giúp vận chuyển oxy đi khắp cơ thể. Nhưng sắt còn nhiều chức năng khác nữa. 1. Bệnh thần kinh Sắt tham gia vào quá trình sản xuất năng lượng. Bên trong hầu hết mọi tế bào, “nhà máy năng lượng” ty thể có vai trò tạo ra năng lượng cho tất cả các chức năng của cơ thể, từ việc ngồi xổm cho đến hình thành suy nghĩ. Năng lượng tế bào này được gọi là adenosine triphosphate, hay ATP. Sắt là nguyên liệu thô của ATP; thiếu sắt làm suy yếu việc sản xuất ATP, có thể biểu hiện dưới dạng các bệnh thoái hóa thần kinh. 2. Bệnh Parkinson Nồng độ sắt thấp có thể dẫn đến giảm sản xuất năng lượng ở tế bào thần kinh. Sự thiếu hụt năng lượng này có thể góp phần gây ra rối loạn chức năng và cuối cùng là tử vong của các tế bào thần kinh sản xuất dopamine. Điều này có khả năng làm trầm trọng thêm sự tiến triển của bệnh Parkinson. Nghiên cứu cho thấy nồng độ sắt thấp có liên quan đến mức độ bệnh trầm trọng ở bệnh nhân Parkinson, trong khi một nghiên cứu khác cho thấy mối liên quan giữa tình trạng thiếu máu ở giai đoạn đầu đời và sự phát triển bệnh Parkinson về sau. 3. Sa sút trí tuệ Tiến sĩ Matt Angove, một bác sĩ trị liệu tự nhiên được cấp phép, nói với The Epoch Times, “Sắt rất cần thiết cho sự phát triển và hoạt động bình thường của bộ não.” Thiếu máu là một yếu tố nguy cơ của sa sút trí tuệ. Bổ sung sắt làm giảm nguy cơ sa sút trí tuệ ở bệnh nhân thiếu máu do thiếu sắt. Một nghiên cứu năm 2023 tái khẳng định tình trạng thiếu sắt có liên quan đến nguy cơ bị sa sút trí tuệ do mọi nguyên nhân cao hơn ở phụ nữ. Tiến sĩ Angove cho biết, “Những phát hiện này không có gì đáng ngạc nhiên vì sắt đóng vai trò quan trọng trong việc tổng hợp chất dẫn truyền thần kinh và duy trì myelin.” Vỏ myelin, bao gồm các lớp protein và chất béo, giúp bảo vệ dây thần kinh não và tủy sống. Sự mất myelin chủ yếu gây ra bệnh đa xơ cứng. Sắt có thể sửa chữa các tổn thương mất myelin. 4. Mệt mỏi mãn tính Nghiên cứu năm 2020 trên tập san European Journal of Clinical Nutrition (Dinh dưỡng Lâm sàng Âu châu) đã tìm thấy mối liên quan giữa mệt mỏi và thiếu sắt ở 224 bệnh nhân nhập viện trong độ tuổi từ 65 đến 95. Nghiên cứu cũng báo cáo rằng 11% cư dân cộng đồng và hơn 50% cư dân viện dưỡng lão và bệnh nhân nội trú bị thiếu sắt. Vì sắt giúp vận chuyển oxy nên thiếu máu do thiếu sắt gây ra mệt mỏi và chức năng cơ kém. Ngay cả thiếu sắt mà không bị thiếu máu cũng có thể dẫn đến vô cùng mệt mỏi. Điều này làm nổi bật vai trò quan trọng của sắt. 5. Miễn dịch kém Vì sắt rất quan trọng đối với hệ tuần hoàn và hệ thần kinh nên sắt cũng giúp duy trì hệ miễn dịch mạnh mẽ. Sắt tham gia vào các phản ứng miễn dịch bẩm sinh và thích nghi chống lại những kẻ xâm lược từ bên ngoài. Ví dụ: lượng sắt thấp có liên quan đến các kết cục COVID-19 xấu hơn. Những bệnh nhân COVID-19 có ít chất sắt hơn trong máu và có nhiều chất như ferritin, một loại protein lưu trữ sắt, so với mức bình thường hoặc những người khỏe mạnh. Thậm chí hai tháng sau khi bị COVID-19, những bệnh nhân này vẫn có lượng sắt thấp và hàm lượng ferritin cao. “Ferritin là một chất phản ứng giai đoạn cấp tính. Tiến sĩ Angove cho biết ferritin cao là dấu hiệu của tình trạng viêm. Trong quá trình nhiễm trùng, cơ thể “rút sắt ra khỏi hệ tuần hoàn và giấu trong ferritin để virus không thể sử dụng sắt.” Ai có nguy cơ thiếu sắt cao nhất? Mặc dù bất cứ ai cũng có thể bị thiếu sắt nếu không có đủ chất sắt trong khẩu phần ăn, nhưng có ba nhóm có nguy cơ nhiều hơn, đó là trẻ em, phụ nữ và người lớn tuổi. 1_ Trẻ em Theo nghiên cứu, ở trẻ em, sự tăng trưởng nhanh chóng gây ra sự thiếu hụt sắt, làm suy yếu sự phát triển nhận thức, vận động, cảm xúc xã hội và sinh lý thần kinh ngắn hạn và dài hạn. Thiếu sắt cũng có khả năng gây tổn thương vĩnh viễn cho sự phát triển của bộ não. 2_ Phụ nữ Phụ nữ đang trong thời kỳ kinh nguyệt cũng có nguy cơ cao vì bị mất sắt hàng tháng do chảy máu. Nghiên cứu cho thấy 27% phụ nữ trong thời kỳ kinh nguyệt bị thiếu máu và 60% bị thiếu sắt trầm trọng. Tình trạng thiếu sắt thường gặp ở những phụ nữ năng động. Tiến sĩ Angove lấy ví dụ về một cầu thủ bóng chuyền 17 tuổi bị tê tay giữa trận đấu. Các bác sĩ nghi ngờ bệnh tự miễn dịch, nhưng nồng độ ferritin của cô chỉ là 2 ng/mL, thấp hơn nhiều so với mức tối ưu là 40 đến 300 ng/mL. Tiến sĩ Angove nói thêm, “Chúng tôi bắt đầu bổ sung sắt và một tuần sau, cô ấy thi đấu ở giải bóng chuyền cấp bang. Công thức máu toàn phần của cô ấy bình thường nên các bác sĩ không nghi ngờ vấn đề thiếu hụt.” Ông nói, “Cô ấy có thể dễ dàng đi hết bác sĩ chuyên khoa này đến chuyên gia khác và cuối cùng được chẩn đoán bệnh tâm thần nếu chúng tôi không kiểm tra ferritin và bổ sung sắt. Nhu cầu của bệnh nhân thường đơn giản đến mức khiến các bác sĩ tài giỏi bối rối.” Phụ nữ mang thai cũng có nguy cơ cao hơn nhiều. Thiếu sắt thường xảy ra do lượng máu tăng lên, nhu cầu phát triển của thai nhi, sự hình thành nhau thai và sự phát triển mô của mẹ. Cách tối ưu hóa mức độ sắt Có hai loại sắt trong khẩu phần ăn: · Sắt heme trong các sản phẩm động vật như thịt, hải sản và thịt gia cầm. · Sắt không heme trong thực phẩm thực vật như đậu, rau xanh và ngũ cốc tăng cường. Trong khi cơ thể hấp thụ sắt heme trong các sản phẩm động vật tốt hơn, chúng ta có thể tăng khả năng hấp thụ sắt không heme bằng cách ăn cùng vitamin C, chẳng hạn như trái cây họ cam quýt, dâu tây, kiwi hoặc ớt chuông. Bổ sung sắt thường được khuyến nghị khi thiếu hụt (ferritin dưới 25 ng/mL) hoặc mang thai nhưng có thể gây ra các vấn đề về đường tiêu hóa như đau bụng và táo bón. Để tránh tác dụng không mong muốn, Tiến sĩ Angove khuyên bạn nên bổ sung sắt chelate từ protein toàn phần thủy phân. Ngoài ra, bạn cũng có thể ăn tăng những thực phẩm chứa nhiều chất sắt. Vance Voetberg _ Tú Liên |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23635 |
![]() ![]() ![]() |
Phương Pháp Dưỡng SinhĐại cương Ngay từ thời xa xưa đã có nhiều người suy đi tính lại để tìm ra một phương cách giúp cho con người sống lâu và tránh bệnh tật. Kể từ các đạo sĩ thời tiền sử tới ngự y của các vua chúa đầy uy quyền, họ đều tận tâm tận lực nghiên cứu bí quyết trường sinh bất tử. Vậy mà theo các tài liệu ngàn xưa ghi lại thì không có một người nào đạt được kết quả như mong muốn. Hiện nay chúng ta sống trong một khung cảnh văn minh, khoa học phát triển không ngừng, thử hỏi có cách sinh hoạt nào giúp cho con người tăng tuổi thọ và tránh bệnh tật, chứ không nói tới thuật trường sinh bất tử viển vông như thời xưa nữa. Nếu như sống lâu mà lại bệnh tật liên miên thì cũng chẳng ích lợi gì, cho nên phương cách dưỡng sinh hiện nay là tìm cách tránh các bệnh tim mạch và bệnh tiểu đường là các bệnh thông thường của tuổi già. Các vị lão niên mà không bị vướng mắc các bệnh này tất sẽ sống thọ hơn. Trên thế giới, có rất nhiều nhóm nghiên cứu về vấn đề này. Cho tới nay có 2 nhóm nghiên cứu tại Hoa Kỳ đã đạt kết quả tốt, tìm ra một cách sinh hoạt dưỡng sinh tương đối giản dị có thể áp dụng cho đủ mọi người. Đặc biệt hơn nữa là họ đã vận động được rất đông người tham dự, áp dụng phương cách trên trong nhiều năm cho nên các kết quả thống kê đều có giá trị thực tế. Hai nhóm nghiên cứu này gồm có: thứ nhất là nhóm Nurses’ Health Study ngay từ lúc đầu đã có hơn 70 ngàn phụ nữ tham dự và thứ nhì là nhóm Health Professional Follow-up Study gồm lối 44 ngàn nam tình nguyện viên. Hai nhóm nghiên cứu này cùng phác họa ra một cách sinh hoạt để giữ gìn sức khỏe, chúng ta hãy gọi là “sinh hoạt lành mạnh”. Sau đó họ chia đôi số tình nguyện viên để cho một nửa áp dụng “sinh hoạt lành mạnh” và số người còn lại thì sinh hoạt tùy thích. Sau hơn 6 năm theo dõi sức khỏe của 2 nhóm, tổng kết thống kê cho thấy là so với số người sinh hoạt tùy thích thì bên phía “sinh hoạt lành mạnh” ít bệnh tật hơn:
Một loại bệnh khác cũng giảm bớt, mà còn giảm nhiều hơn dự liệu của nhóm nghiên cứu: đó là bệnh đột quỵ, bớt được 80% bên phía “sinh hoạt lành mạnh”. Bệnh ung thư cũng giảm bớt chút ít, nhưng thời gian 6 năm theo dõi tương đối quá ngắn hạn đối với ung thư nên kết quả này không được kể tới trong thống kê ban đầu. Tài liệu cập nhật: hai nhóm nghiên cứu kể trên đã liên lạc lại với các tình nguyện viên, 17 năm sau khi khởi đầu công cuộc nghiên cứu. Tuy không được nhiều người hồi âm, nhưng nói chung thì nhóm áp dụng sinh hoạt lành mạnh vẫn sống thọ hơn (nhiều người còn sống hơn) và ít bệnh hơn (kể cả ung thư) so với nhóm các tình nguyện viên sinh hoạt tùy thích.
“Sinh hoạt lành mạnh” Cách sinh hoạt này gồm 5 thành phần:
Thức ăn thường ngày, điều thứ nhất phải là khẩu phần cân bằng nghĩa là phải có đủ 5 loại bao gồm chất bột-đường (cơm, bún, bánh mì…), chất đạm (thịt, cá, trứng…), sữa, rau và trái cây. Điều kiện kế tiếp là ăn nhiều rau và trái cây đồng thời bớt 3 loại thức ăn kia. Sau nữa, phải bớt ăn các chất dầu mỡ và chất mặn là vì nếu nấu ăn theo khẩu vị thông thường của chúng ta thì luôn luôn dư các chất này so với nhu cầu của cơ thể. Trong khẩu phần kể trên, sữa là nói về sữa động vật (bò, dê…), nếu như bạn không uống được sữa bò do cơ thể không dung nạp đường lactose khiến đau bụng (lactose intolerance) thì có thể thay thế bằng sữa đậu nành.
Phải giữ cho cơ thể đừng bị mập, nghĩa là theo lý thuyết phải giữ cho chỉ số khối lượng cơ thể nhỏ hơn số 25. Về chỉ số này, quí vị có thể nhờ bác sĩ gia đình tính dùm cho hoặc có thể tìm trên mạng Internet. Một phương pháp giản dị hơn để tạm tính trọng lượng cơ thể đúng mức là mang chiều cao thân thể tính bằng cm trừ đi số 100. Số còn lại là trọng lượng đúng mức tính bằng Kg (áp dụng cho người lớn). Thí dụ người cao 1 mét 60 phân thì trọng lượng đúng mức là (160 – 100) 60Kg. Cách tìm chỉ số khối lương cơ thể trên mạng:
Cần phải vận động tối thiểu 30 phút một ngày. Nguyên tắc chung là vận động tùy theo khả năng mỗi người vì tập quá sức lại có hại cho sức khỏe. Mọi cách vận động đều có thể áp dụng được: thể thao tài tử, thái cực quyền (tài chi), đi bộ, bơi lội, khiêu vũ… Nếu vì lý do gì mà bạn bỏ vận động một vài ngày thì cũng phải sắp đặt cho đủ tối thiểu là 3 ngày tập thể dục trong một tuần lễ. Thời gian tổng cộng tập thể dục trong một tuần lễ phải giữ tối thiểu là 3 giờ 30 phút.
Tính chung cho những người mạnh khỏe thì số lượng rượu có thể uống tối đa trong một ngày là 30 gram cồn cho phái nam và phân nửa số lượng này cho phụ nữ. Như vậy có nghĩa là đàn bà trong một ngày có thể uống tối đa hoặc một ly nhỏ rượu mạnh, hoặc một ly trung bình rượu chát, hoặc một chai bia. Đàn ông có thể dùng gấp đôi số lượng này. Nếu đem so sánh các loại rượu thì tương đối rượu vang đỏ có ích lợi hơn chút ít cho sức khỏe vì có hiệu lực giúp biến dưỡng cô-let-tê-rôn. Tuy nhiên dù là rượu nào cũng phải hạn chế như đã nói trên đây.
Phần cuối cùng của “sinh hoạt lành mạnh” là không được dùng thuốc lá dưới bất kỳ hình thức nào, dù là thuốc điếu, noặc thuốc hút bằng tẩu, thuốc lào hoặc dùng thuốc lá nhai như nhai trầu người mình gọi là thuốc xỉa, thuốc rê… Có người lại nghĩ là hút thuốc có lọc qua một lớp nước như khi dùng điếu bát, điếu ống hoặc điếu cày thì sẽ bớt độc. Thực ra điều này không đúng vì thời gian làn khói thuốc lọc qua lớp nước chỉ có ít giây đồng hồ cho nên phần lớn các hóa chất độc hại vẫn xâm nhập vào phổi và bộ tuần hoàn của người hút thuốc. Kết luận Nếu ta suy diễn theo những thông tin trên đây thì phải công nhận là lề lối sinh hoạt chung hiện nay có hại cho sức khỏe. Vì vậy bí quyết dưỡng sinh nay đã có sẵn, ta phải chủ động thay đổi cách sống theo phác đồ sau đây:
Có người tin rằng mỗi ngày uống một ly rượu vang đỏ sẽ có lợi cho sức khỏe vì rượu này giúp sự biến dưỡng cô-let-tê-rôn. Thực ra, rượu vang đỏ ảnh hưởng rất ít trong sự biến dưỡng cô-let-tê-rôn. Nếu bạn bị dư cô-let-tê-rôn trong máu thì cần trị liệu theo chỉ dẫn của bác sĩ. Uống rượu để tự chữa bệnh thì đúng là lợi bất cập hại. Hơn nữa kể từ năm 2014, khoa học còn chứng minh được là rượu có khả năng gây ung thư. Vì vậy cho nên tránh uống rượu là điều hợp lý.
Nói tóm lại, bí quyết để sống khỏe và sống lâu đã được khoa học nghiên cứu rõ ràng, chúng ta chỉ cần đem áp dụng cho chính bản thân. Tất nhiên việc gì cần tuân thủ thường xuyên cũng dễ gây nhàm chán, bê trễ, nhưng khi làm theo đúng rồi sẽ có phần thưởng vô giá là sức khỏe lâu dài và tinh thần thoải mái. Cũng xin lưu ý bà con là lề lối sinh hoạt này càng áp dụng sớm càng tốt, giới thanh niên không nên để đến tuổi già mới bắt đầu lo dưỡng sinh. Đối chiếu danh từ y học Việt-Anh
Sinh hoạt lành mạnh Healthy lifestyle Dinh dưỡng đúng cách Appropriate nutrition Khẩu phần cân bằng Balanced diet Trọng lượng cơ thể tối ưu Optimum body weight Chỉ số khối lượng cơ thể Body m*** index Vận động thân thể Exercises Thể dục Physical exercises Thể thao tài tử Non-professional sports Không dung nạp đường lactose Lactose intolerance |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23635 |
![]() ![]() ![]() |
Học Cách Cải Thiện Thính Giác Của Bác Sĩ Nhật Bằng Cách Ấn Huyệt Giữa Ngón Tay Chỉ từ 5 – 10 phút/ngày, ấn, xoa bóp lên các huyệt vị trên bàn tay, những cơn đau nhức cũng như trạng thái mệt mỏi của nhiều bộ phận trên cơ thể sẽ dần biến mất… Có những cách bấm huyệt bàn tay chữa bệnh đơn giản mà chúng ta không ai ngờ đến. Thỉnh thoảng bị ù tai, hoa mắt, cộng thêm các triệu chứng như đau đầu gối, lưng, vai và cổ…, rất có thể là bởi cùng một lý do: máu lưu thông kém. Viện trưởng một bệnh viện của Nhật Bản giới thiệu một động tác đơn giản dễ dàng kích thích các huyệt đạo giữa các ngón tay. Không chỉ hỗ trợ giúp các vấn đề như ù tai, hoa mắt được cải thiện, mà các bộ phận khác như đau đầu gối, lưng, vai gáy, cứng cổ… đều có thể được dễ chịu hơn. Nếu xét tới các huyệt ở tay, thì mỗi ngón tay lại liên quan tới cả các cơ quan phủ tạng trong cơ thể. Day huyệt ở ngón cái: có tác dụng loại bỏ lo âu, trầm cảm và điều hòa hoạt động của dạ dày và lá lách. Day huyệt ở ngón trỏ: rất tốt cho hệ tiêu hóa. Ấn huyệt ở ngón giữa: Có thể giúp giảm nhức đầu, cải thiện các bệnh về mắt, sức khỏe tim mạch, giảm đau bụng kinh, giúp cho gan và hệ thần kinh hoạt động hiệu quả. Ấn huyệt ở ngón áp út: Rất tốt cho hệ tiêu hóa và phổi. Ấn huyệt ở ngón út: Có thể giúp giảm lo lắng, đau họng, tốt cho hoạt động của tim và hệ mạch, hỗ trợ điều trị bệnh về xương khớp. Ấn huyệt ở lòng bàn tay: Chi phối hầu hết rất nhiều cơ quan khác nhau. Ngón giữa nằm ở chính giữa bàn tay và cũng đóng vai trò quan trọng hơn so với những ngón còn lại. Ngón giữa tương ứng với phần trung tâm của cơ thể. Nó chi phối đầu, bụng, bộ phận sinh dục… Đặc biệt, huyệt ở đầu ngón giữa còn có rất nhiều công dụng trong điều trị bệnh. Điển hình nhất có thể kể đến bệnh cao huyết áp. Bấm vào huyệt ở đầu ngón giữa có thể làm giảm huyết áp, giảm sự phấn khích của hệ thần kinh giúp điều hòa lại huyết áp và nhịp tim. Khí huyết ứ trệ có thể gây ù tai và đau nhức cơ thể Theo quan điểm của viện trưởng viện Hòa Lạc Đường, Nhật Bản, ông No Kano Daidokoro, khí trong cơ thể là năng lượng của sinh mệnh, có thể tuần hoàn khắp thân. Duy trì sự lưu thông chính là chìa khóa quan trọng để đảm bảo sức khỏe. Đường thông đạo của khí chính là ‘kinh lạc’ tổng cộng có 12 chính, ở chân tay đặc biệt rất nhiều trong đó có vị trí ở giữa ngón tay. Tuy nhiên, vì tuổi tác cao, khớp chân tay trở nên cứng, khó có thể duỗi thẳng ra từ đó dẫn tới khí ứ trệ, gây cản trở cho sự hoạt động của các bộ phận trong cơ thể. Ngoài việc là nơi kinh lạc đi qua, nhìn nhận từ quan điểm giải phẫu học, vị trí giữa ngón cái và ngón trỏ có liên quan tới cặp dây thần kinh thứ sáu; vị trí giữa ngón trỏ và ngón giữa có liên quan tới cặp dây thần kinh thứ bảy; vị trí giữa ngón áp út và ngón út cũng có liên quan tới các dây thần kinh. Không những vậy, hệ thống dây thần kinh này có liên quan mật thiết đến sự hoạt động của tim và tuần hoàn máu của cơ thể. Do đó kích thích vào những vị trí này có thể thúc đẩy lưu thông máu toàn thân, từ đó hỗ trợ cải thiện những vấn đề do khí huyết không lưu thông gây ra như ù tai, hoa mắt, đau vai gáy, cứng khớp vai, đau lưng, đầu gối, thắt lưng… Theo viện trưởng viện Reverse Nhật Bản, bác sĩ Đông y Izumi Kiyoshi, đến nay đã có hơn 35.000 bệnh nhân thông qua phương pháp này mà cải thiện được các vấn đề về thính giác. Khi tuần hoàn máu gặp khó khăn, sẽ làm cho dinh dưỡng của cơ thể không thể vận chuyển tới tế bào của cơ thể. Đây là một trong những nguyên nhân chính gây ra các bệnh về thính giác như nặng tai, ù tai… Ông cũng đang viết tác phẩm về học cách ấn huyệt giữa các ngón tay để cải thiện các vấn đề khó chịu ở tai thông qua việc điều chỉnh dây thần kinh tự chủ. Các chuyên gia của tổ chức m***age Shiatsu ‘Toyokan’ bày tỏ, việc kích thích và m***age các huyệt giữa các ngón này, có thể hỗ trợ điều chỉnh sự cân bằng của hệ thần kinh; động tác còn có thể cải thiện tuần hoàn máu, hỗ trợ giúp tinh thần thư giãn, loại bỏ mệt mỏi toàn thân. Dưới đây là các động tác kích thích huyệt đạo giúp hỗ trợ lưu thông khí huyết. Chỉ trong 4 ngày có thể cải thiện triệu chứng hoa mắt, sau nửa tháng có thể khắc phục vấn đề về thính giác như ù tai… Bác sĩ No Kano Daidokoro có một bệnh nhân 68 tuổi. Cách đây 10 năm đột nhiên ông bị ù tai nghiêm trọng, khi đi khám ở khoa tai mũi họng ông được chẩn đoán điếc đột ngột, dù uống thuốc và tiêm đều không có kết quả. Sau khi thực hiện phương pháp này trong 4 ngày, không những có thể cải thiện tình trạng hoa mắt, và liên tục trong nửa tháng sau, vấn đề ù tai và điếc đột ngột cũng được cải thiện hiệu quả. Tay mở rộng kích thích giữa các ngón tay để hỗ trợ cải thiện lưu thông khí huyết Lòng bàn tay trái mở rộng, bàn tay phải mở rộng như hình lưỡi dao kích thích vào huyệt vị giữa các ngón tay, mỗi vị trí khoảng 20 lần, sau đó lại đổi tay và thực hiện các thao tác tương tự. Nếu gặp vấn đề cứng các khớp xương có thể trực tiếp mở rộng hai lòng bàn tay và kích thích vào giữa các ngón tay. Kiên Định |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23635 |
![]() ![]() ![]() |
Sinh Tố K2 cực kỳ quan trọng để phòng ngừa và chữa trị nhiều chứng bệnh của người già
![]() Từ hậu bán thế kỷ thứ 20 đến nay, tuổi thọ của con người đã tăng vọt, trung bình bây giờ là trên 80 tuổi. Với tuổi thọ gia tăng, các thứ bệnh như Ba Cao (Cao Mỡ, Cao Máu, Cao Đường loại 2), bệnh Suy Thận Mãn Tính, bệnh Tim Mạch, bệnh Xốp Xương và các bệnh Ung Thư cũng tăng theo. Y học tiến bộ mang đến các thuốc công hiệu giúp bệnh nhân sống lâu hơn như Statin cho Cao Mỡ, thuốc chống angiotensin cho Cao Máu, thuốc Metformin cho Cao Đường loại 2, v.v.. Tuy nhiên, các chứng Ba Cao về lâu về dài vẫn gây suy thận mãn tính khiến một số không ít bệnh nhân phải cần đến giải phẫu ghép thận hay lọc máu (dialysis) để sống còn. Bất kể điều trị tinh vi và cẩn thận bởi các bác sĩ chuyên về thận đến đâu, nhiều bệnh nhân vẫn bị bệnh mạch vành tim sau khi đã lọc máu hay ghép thận vài năm mà nguyên nhân vẫn chưa được biết rõ. Trong khi đó, các bà sau tuổi tắt kinh bắt đầu mất dần calcium trong người đưa đến chứng xốp xương. Dùng hoóc môn estrogen có thể làm chậm sự lão hóa ấy nhưng có thể tăng nguy cơ bị ung thư vú. Quý bà được bác sĩ khuyên uống thêm calcium và sinh tố D để làm chậm sự tiến triển của xốp xương. Nhưng uống nhiều calcium là một con dao hai lưỡi: ngoài việc gây sạn thận, quá nhiều calcium khiến thành mạch máu bị đóng vôi gây bệnh tim mạch và tăng tử vong, trước đây tưởng chỉ gặp ở đàn ông uống calcium, nhưng gần đây cho thấy phụ nữ cũng bị như vậy. May thay, trong những năm gần đây khảo cứu cho thấy một loại sinh tố K, gọi là K2, có thể giúp phòng ngừa và chữa việc Calcium đi nhầm chỗ, đóng trên thành mạch máu gây tắc nghẽn, thay vì đóng lên xương giúp xương bớt xốp loãng. Sinh Tố K2 là gì ? Nguồn ở đâu? Từ lâu, chúng ta đã biết sinh tố K đóng vai trò quan trọng trong việc cầm máu và đông máu. Thật ra có hai loại sinh tố K: sinh tố K1 (Phylloquinone) chiếm 90% thành phần, là loại cần thiết cho máu đông, có nhiều trong các loại rau xanh như rau dền; 10% còn lại là sinh tố K2 (Menaquinone) đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển calcium từ máu đến đúng mục tiêu ở xương và răng thay vì phân phối bừa bãi khắp nơi gây nên các chứng bệnh đề cập trong phần dẫn đầu của bài này. Sinh tố K2 tổng hợp một số ít từ vi trùng trong ruột nhưng đa số đến từ thịt, sữa, lòng đỏ trứng gà, bơ và phó mát. Vì sinh tố K hòa tan trong mỡ, sữa và phó mát bị lấy mất mỡ sẽ không còn sinh tố K2. Hai thực phẩm có nhiều sinh tố K2 nhất là gan bò và món đậu nành lên men của người Nhật gọi là Natto. Sinh tố K2 có side chain isoprenoid từ MK-4 (chuỗi ngắn) đến MK-14 (chuỗi dài). Chuỗi trung bình MK-7 là loại thông dụng nhất vì dễ được hấp thụ qua đường ruột. Trong các xứ kỹ nghệ, lượng sinh tố K2 từ thực phẩm chế biến ngày càng giảm thiểu bắt đầu từ thập niên 1950; và cho đến nay hầu như 100% người Mỹ không ăn đủ sinh tố K2 (cần tối thiểu khoảng 32mcg mỗi ngày). Những người Nhật có ăn đều món natto là nhóm dân duy nhất không thiếu K2 và họ sống lâu hơn, mạnh khỏe hơn với ít chứng bệnh lão suy hơn người Âu Mỹ. Tác dụng của sinh tố K2: Trên xương, sinh tố K2 tác động chất osteocalcin từ tế bào tạo xương osteoblast giúp điều động calcium kết với khoáng hydroxyapatite khiến xương thêm chắc và cứng, ngừa được xốp xương ở tuổi già. Trong mạch máu, sinh tố K2 có tác dụng vào chất đạm trên thành mạch máu Matrix GLA Protein (MGP), chống lại sự kết tụ của chất vôi trong mạch máu gây bệnh xơ cứng làm nghẽn tuần hoàn máu, đồng thời chống lại kết tụ calcium trong các mô mềm. Chúng ta có thể ví sinh tố K2 như cảnh sát lưu thông, giúp vận chuyển calcium trong máu đến đúng chỗ ở xương và răng thay vì đi lạc vào thành mạch máu và các mô mềm. Nhờ vậy mà răng và nướu răng cũng tốt hơn với sinh tố K2. Bệnh nhân suy thận mãn tính uống sinh tố K2 phụ gia mỗi ngày được giảm cả suy thận lẫn bệnh tim mạch có lẽ do tuần hoàn máu đến thận tốt hơn; tác động của MGP khiến máu lưu thông đến da tốt giúp giảm các biến chứng ngoài da của người bệnh thận. Bệnh nhân tim mạch dùng K2 phụ gia sau hai năm thì lượng calcium đóng trong thành mạch máu cũng thuyên giảm đáng kể. Ngoài ra, sinh tố K2 còn có thể chống viêm, chống kháng insulin, và, mặc dù chưa có kết quả lâm sàng, trên lý thuyết có thể giúp ngừa và chữa Tiểu Đường loại 2. Gần đây nhất, sinh tố K2 cho thấy khả năng chống ung thư, nhất là ung thư gan, một chứng bệnh không hiếm trên người già gốc Việt. Sinh tố K2 trên lý thuyết có tiềm năng kết hợp với hệ vi sinh vật ở ruột giúp ngừa các bệnh thoái hóa não bộ như Parkinson và Alzheimer nữa. Cách giản tiện nhất ở Mỹ để bảo đảm có đủ sinh tố K2 mỗi ngày là uống một viên từ 50mcg (micrograms) đến 100mcg Vitamin K2 MK-7 mỗi ngày, được bán trên thị trường mà không cần toa bác sĩ. Sinh tố K2 cùng với sinh tố D3 là hai phụ gia không thể thiếu để bảo đảm sức khỏe cho tuổi già. Nên bắt đầu dùng từ tuổi 50 trở lên (tuổi trung bình của phụ nữ tắt kinh). Các bệnh nhân bị xốp xương, bị bệnh tim mạch hay suy thận mãn tính nên uống sinh tố K2 ít nhất 100 mcg mỗi ngày để trị bệnh thay vì chỉ ngừa bệnh. Sinh tố K2 không làm giảm ảnh hưởng của thuốc chống đông máu trên các cụ có bệnh tim hay nghẽn mạch máu não. Trong những năm tới, chúng ta sẽ biết nhiều hơn về các lợi ích khác của sinh tố K2 trong tuổi già. Liem H. Pham, MD Former Jackson T. Stephens Professor and Vice-Chairman of the Donald W. Reynolds Department of Geriatrics, UAMS |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23635 |
![]() ![]() ![]() |
Hiện Tượng Mất Trí Nhớ Và Bệnh Alzheimer (Y Học) Tình trạng mất trí nhớ - dementia thường xảy ra cho người già, nhưng không phải mọi người khi già đều mất trí nhớ. Nhiều người tưởng lầm là sự mất trí nhớ và bệnh Alzheimer cùng là một thứ bệnh, nhưng thật ra không phải như vậy. Trung bình chỉ có 10% số người trên 65 tuổi bị bệnh Alzheimer, nhưng cho những cụ trên 85, tỷ số là 1/3. Hiện nay, theo ước tính, có khoảng năm triệu người Mỹ trên 65 tuổi bị bệnh Alzheimer và trên toàn thế giới có khoảng 35.6 triệu người bị mất trí nhớ. Nói đúng ra, trí nhớ của tất cả mọi người đều không hoàn hảo. Có những dữ kiện chúng ta tưởng là nhớ đúng 100% nhưng trên thực tế theo thời gian, trí nhớ bị phai mờ với những “lỗ hổng”. Bộ não chúng ta sẽ tìm cách điền vào những “chỗ trống” đó bằng những hư cấu không có thực hay không chính xác. Vì thế khi chúng ta lớn tuổi, chuyện giảm trí nhớ xảy ra cho tất cả mọi người, nhưng mức độ và tốc độ suy sụp tùy theo bản chất của mỗi cá nhân. Riêng những người bị Alzheimer, tốc độ suy sụp rất nhanh, có khi trong vòng vài tháng đã thấy sự khác biệt. Thế thì, những dấu hiệu khác biệt đó là gì ? Hầu hết các sách y khoa đều nói rằng dấu hiệu sớm nhất của bệnh Alzheimer là mất trí nhớ. Khổ nỗi là sự mất trí nhớ không xảy ra qua đêm trong thời gian đầu nên rất khó mà nhận biết. Mà nếu có chút lãng trí xảy ra thì thường bị bỏ qua hay bị người thân phán cho những chữ như “già rồi, lẩm cẩm” là xong câu chuyện. Một khi sự mất trí nhớ xảy ra có thể nhận thấy được thì thường là quá trễ. Người có triệu chứng Alzheimer thường bắt đầu lặp lại những câu chuyện hay câu hỏi nhiều lần và bất chợt. Ví dụ, có khi họ đang nói chuyện thời năm 1975, đùng một cái nhảy qua nói chuyện đánh football năm 2015, rồi quay lại thời cụ Diệm bị đảo chánh và vài ngày sau lại nhắc lại những chuyện đó. Hoặc, họ có vấn đề theo dõi câu chuyện của người khác. Ví dụ người ta đang bàn chuyện đám cưới, người có vấn đề lại “đóng góp” chuyện lính Mỹ đổ bộ ở Normandy ! Nghĩa là, nhớ đâu nói đó, không có thứ tự. Không nên nhầm lẫn với thói quen suy nghĩ của người bệnh. Đa số, thường bị bỏ qua là “lâu nay tánh vẫn thế !” Cùng lúc với chuyện lãng trí, quên chỗ này, chỗ kia, dấu hiệu sớm nhất của bệnh Alzheimer là việc đi đứng không vững và hay té ngã. Dĩ nhiên là khi người lớn tuổi hay bị té ngã có thể do nhiều nguyên do khác nhau đưa đến, nhưng không nên bỏ qua mà phán cho câu “già yếu nên như vậy”. Có người đang ngồi trên ghế vẫn bị té lăn quay xuống đất vì không giữ được thăng bằng, như vậy không phải hoàn toàn là yếu ! Người bị Alzheimer thường có dáng đi như lê lết trên mặt đất như chim cánh cụt. Họ không nhấc được bàn chân khỏi mặt đất và hai chân thường hay bị quíu như không biết chân nào phải bước trước và chân nào theo sau. Có khi họ như lúng túng muốn bước hai chân tới trước cùng một lúc. Đó là lý do tại sao họ dễ bị té. Ngoài ra, lý do dễ mất thăng bằng và hay bị té là khả năng nhìn vật thể chung quanh theo định thức không gian 3 chiều không còn chính xác nữa. Thí dụ cái bàn, cái ghế có thể bị nhìn méo đi hay khoảng cách ước lượng từ điểm A đến điểm B không còn đúng nữa. Khoa học vẫn chưa tìm ra gene di truyền gây ra bệnh Alzheimer. Người ta đã tìm khắp bộ DNA của con người và ghi nhận được 33 điểm khả nghi. Tuy nhiên những người có gene apolipoprotein E (APOE) ở trên nhiễm sắc thể số 19 sẽ có nguy cơ tăng cao. Ngoài ra nguy cơ có thể thay đổi qua sự tương tác giữa gene và môi trường. Căn nguyên của bệnh Alzheimer là do những vảy - plaques chung quanh tế bào não, tương tự như vảy đóng trong mạch máu. Khác với vảy cholesterol trong máu, những vảy trong não này được tạo thành bởi chất protein. Những vảy protein như những chất cách điện, hệ quả là những tín hiệu được truyền đi từ một tế bào thần kinh này đến tế bào khác bị ngăn chặn. Hiện tượng cách ly này không chỉ xảy ra giữa tế bào này với tế bào khác mà còn ở ngay trong tế bào thần kinh, như những chùm tơ nhện, gọi là “tangles of Tau protein”. Ngoài việc cách ly sóng điện những vảy protein còn tiết ra chất độc để hủy diệt tế bào thần kinh, vì thế não bộ dần dần teo nhỏ lại. Hiện tượng đóng vảy không xảy ra qua đêm mà kéo dài có khi cả chục năm trước khi triệu chứng đầu tiên xuất hiện. Nói cho dễ hiểu, “người thường” không có bệnh Alzheimer cũng bị đóng vảy trong não chút đỉnh khi… già yếu. Nhưng đối với người có bệnh, tốc độ suy sụp, đổ dốc sẽ rất nhanh. Dĩ nhiên, triệu chứng mấu chốt của bệnh mất trí nhớ phải là sự mất khả năng tư duy, khả năng nhớ, nhưng những triệu chứng khác do sự suy yếu của não bộ đưa đến, ví dụ như khả năng nói và vệ sinh cá nhân sẽ xảy ra cùng lúc, chứ không theo thứ tự. Như thế, sự suy yếu xảy ra một cách toàn bộ, từ trí nhớ, đến suy yếu thị giác và khả năng giữ thăng bằng. Khi bệnh càng nặng, người bệnh sẽ mất khả năng tư duy, không còn nhận biết người quen, không nhớ những chuyện mới xảy ra gần như tức thì. Họ sẽ có vấn đề hiểu câu hỏi, sử dụng từ ngữ để diễn tả hay tốn nhiều thì giờ để trả lời một câu hỏi có khi rất đơn giản. Khuôn mặt như khờ đi, không biểu lộ được cảm xúc. Họ mất khái niệm về thời gian và không gian. Tâm tính của người bị mất trí nhớ cũng thay đổi, có khi họ trở nên trầm cảm, cô đơn nhưng có lúc hung dữ, bướng bỉnh vì trong tư duy hạn hẹp, không ai hiểu được họ. Cuối cùng là mất luôn khả năng vệ sinh cá nhân như tiểu tiện và đại tiện. Người bệnh chỉ nhận biết được một vài người thân săn sóc cho họ. Khi thiếu những người này hay khi phải rời xa những môi trường quen thuộc, thường sẽ bị kích động những cơn sợ khủng hoảng tinh thần, gọi là panic attacks, làm cho họ cứng người đi, càng dễ bị té ngã thêm. Trong phạm vi bài viết này, tôi không đi sâu vào việc chẩn bệnh và thuốc chữa trị. Tuy nhiên, dựa trên những kiến thức cơ bản ở trên, tôi hy vọng bạn đọc có thể phát hiện ra bệnh tình của người thân và đưa họ đến gặp bác sĩ càng sớm càng tốt. Nên nhớ tất cả các loại “thuốc chữa” hiện nay không có khả năng chữa dứt bệnh mà chỉ làm cho tốc độ phát triển của bệnh chậm đi. Và nếu thuốc chữa càng sớm thì phẩm chất đời sống của bệnh nhân cũng như của người thân săn sóc cho bệnh nhân sẽ đỡ khổ hơn nhiều. Nói chung, mọi người khi lớn tuổi đều có nguy cơ bị mất trí nhớ. Để giảm bớt nguy cơ bị mất trí nhớ, một số biện pháp cần thực thi ngay từ bây giờ: Trước hết, bạn phải có một chế độ ăn uống cân bằng, điều độ, nhiều rau trái, tập thể dục đều đặn, như đi bộ ba tới năm giờ mỗi tuần và ngủ đủ tám tiếng mỗi ngày. Ngủ đêm không đủ thì tranh thủ ngủ ngày ! Những người ngủ đầy đủ và có ngủ trưa thường sống lâu và ít bị mất trí nhớ
Ta nói nôm na là tập… “nhảy đầm”. Nghiên cứu đăng trên tờ New England Journal of Medicine năm 2003 cho biết khiêu vũ vừa là một môn thể dục thể thao, vừa là một trò chơi đòi hỏi suy nghĩ, tiến thoái trong mỗi bước. Khi khiêu vũ, lượng máu không những chỉ dồn về bắp thịt mà còn đổ về phía não bộ nhiều hơn vì khiêu vũ đòi hỏi cả thể lực lẫn trí tuệ.
Nhiều nghiên cứu cho thấy người chơi nhạc cụ trên 10 năm sẽ có trí nhớ tốt hơn một người không chơi nhạc. Trong trường hợp bạn không có đủ thời giờ hay năng khiếu âm nhạc, nên tập nghe và thưởng thức âm nhạc.
Một nghiên cứu đăng trên tờ Neurology năm 2013 cho biết những người nói thông thạo hai thứ tiếng, khả năng bị mất trí nhớ chậm đi bốn năm rưỡi so với người chỉ biết một thứ tiếng.
Một nghiên cứu của Pháp năm 2013 cho thấy những ai chơi cờ, hay chơi các loại game như bingo, xì lát, poker… Nhưng đừng ghiền quá và cũng tránh “ngồi computer” hay TV nhiều nhé, khả năng bị mất trí nhớ giảm đi 15%.
Nghiền ngẫm nội dung của sách, truyện.Đọc truyện mới lạ có lợi hơn là đọc chuyện cũ đã biết. Đừng đọc Thiên Long Bát Bộ hay Tam Quốc Chí đến lần thứ 10!
Ví dụ khi ăn thì đừng xem TV ! Ngoài ra nên biết dùng thời giờ một cách hữu hiệu.
Khảo sát thống kê năm 2013 cho biết những người có những thú vui kể trên, trí óc minh mẫn hơn những người không có “thú vui ” để tiêu khiển.
Sống lạc quan, yêu đời và có giao thiệp với bạn bè người thân làm bớt tình trạng cô độc, sầu muộn.
Viết văn, viết truyện, viết thơ cho bạn bè, viết nhật ký, viết hồi ký… làm giảm khả năng mất trí nhớ về sau.
Những người làm lụng chân tay, làm việc trong nhà ít bị mất trí nhớ hơn người ngồi một chỗ xem TV hay nhìn “bóng câu qua khung cửa sổ”. Nói chung là phải tích cực “động não”. Tất cả các hoạt động trên đây nên bắt đầu từ hôm nay, bất kỳ ở lứa tuổi nào. Không nên đợi tới 60, 70 mới lo ngăn ngừa mất trí nhớ ! Bác Sĩ Hồ Ngọc Minh |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23635 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23635 |
![]() ![]() ![]() |
Hướng dẫn cơ bản về ung thư phổi Ung thư phổi nguyên phát (ung thư bắt đầu từ phổi) là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu liên quan đến ung thư trên toàn thế giới. Ung thư phổi nguyên phát là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong liên quan đến ung thư trên toàn thế giới và là bệnh ung thư phổ biến thứ ba ở Hoa Kỳ. Từ năm 2012-2018, những bệnh nhân được chẩn đoán ung thư phổi loại phổ biến nhất có tỷ lệ sống sót tương đối sau 5 năm là 28%.
Các loại ung thư phổi
Dựa trên kích thước tế bào ung thư, ung thư phổi có hai loại chính: ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC-UTPKTBN) và ung thư phổi tế bào nhỏ (SCLC-UTPTBN).
1. Ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN)
Chiếm 80%-85% tổng số trường hợp ung thư phổi, UTPKTBN là bất kỳ loại ung thư biểu mô của phổi không được phân loại là ung thư phổi tế bào nhỏ (UTPTBN). UTPKTBN có thể được phân thành nhiều loại, bao gồm cả ung thư biểu mô không phân loại:
· Ung thư biểu mô tuyến: Thông thường bắt nguồn từ các tế bào tuyến nằm ở ngoại vi của phổi, chiếm 40% tất cả các bệnh ung thư phổi.
· Ung thư biểu mô tế bào vảy hay ung thư biểu mô dạng biểu bì: Có thể bắt nguồn từ các tế bào dạng lát mỏng gọi là tế bào vảy, phủ lớp lót của phế quản, đường dẫn khí kéo dài từ khí quản vào phổi. Loại này có mối liên quan chặt chẽ với việc hút thuốc hơn so với các loại UTPKTBN khác, chiếm 25% tổng số ca ung thư phổi.
· Ung thư biểu mô tế bào lớn: Là một khối u ác tính không biệt hóa, không biểu hiện các đặc điểm tế bào đặc trưng của ung thư biểu mô vảy, ung thư biểu mô tuyến hoặc ung thư biểu mô tế bào nhỏ. Thường có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn các bệnh ung thư không phải tế bào nhỏ khác, khối u có thể xuất hiện ở bất kỳ phần nào của phổi và chiếm 10% tổng số ca ung thư phổi.
2. Ung thư phổi tế bào nhỏ (UTPTBN)
Có nguồn gốc chủ yếu từ các tế bào lót phế quản ở rốn phổi, UTPTBN là một loại ung thư tiến triển nhanh, có thể di căn xa đến nhiều vị trí của cơ thể. UTPTBN chủ yếu gặp ở những người nghiện thuốc lá nặng, chiếm khoảng 10%-15% tổng số ca ung thư phổi, gồm hai loại chính: Ung thư biểu mô tế bào nhỏ, còn được gọi là ung thư tế bào “lúa mạch.” Ung thư biểu mô tế bào nhỏ dạng kết hợp, một khối u hỗn hợp chứa tế bào vảy hoặc tuyến. Ngoài các loại chính, còn có các loại ung thư phổi hiếm gặp khác, bao gồm: Các khối u carcinoid ở phổi, bắt đầu từ các tế bào thần kinh nội tiết trong phổi và thường phát triển chậm. Các khối u phổi khác, là những khối u bao gồm ung thư biểu mô tuyến nang (từ các tế bào giống tuyến nước bọt trong khí quản hoặc phế quản), u lympho, sarcoma và khối u phổi lành tính (ví dụ, u mô thừa).
Các triệu chứng và dấu hiệu sớm của ung thư phổi
Ở giai đoạn sớm, ung thư phổi có thể không biểu hiện bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng nào đáng chú ý. Khi khối u tiến triển, các dấu hiệu và triệu chứng mới có xu hướng xuất hiện.
Các dấu hiệu và triệu chứng của cả UTPKTBN và UTPTBN thường có những điểm tương đồng, bao gồm:
· Ho nặng dần hoặc dai dẳng (kéo dài hơn ba tuần). · Khó thở. · Đau ngực dai dẳng, tăng lên khi hít sâu hoặc ho. · Đau vai dai dẳng. · Khò khè. · Sút cân không giải thích được. · Mệt mỏi liên tục. · Khó nuốt. · Hạch cổ trên xương đòn. · Ho máu lẫn nhầy. · Đau đầu. · Vã mồ hôi về đêm . · Viêm phổi tái đi tái lại. · Thay đổi giọng nói, như khàn tiếng. · Ngón tay và/hoặc ngón chân dùi trống. · Hội chứng tĩnh mạch chủ trên (phù mặt và cổ do khối u chèn ép tĩnh mạch chủ ở ngực). · Chèn ép tủy: Rối loạn bàng quang hoặc ruột và/hoặc yếu chi có thể xuất hiện do khối u chèn ép vào tủy sống.
1. Các triệu chứng đặc trưng của ung thư phổi không tế bào nhỏ
Hội chứng Horner có thể xảy ra khi UTPKTBN xuất hiện ở thùy trên của phổi (khối u Pancoast). Khối u có thể làm tổn thương dây thần kinh giao cảm gây ra sụp mí mắt, co đồng tử, giảm tiết mồ hôi và đỏ mặt cùng bên.
2. Các triệu chứng đặc trưng của ung thư phổi không tế bào nhỏ
UTPTBN gây ra hội chứng cận u nhiều hơn UTPKTBN. Hội chứng này bao gồm một nhóm các triệu chứng phát sinh đồng thời với bệnh ung thư, bao gồm:
· Hội chứng tiết hormone chống lợi niệu không phù hợp (SIADH): Nếu tế bào ung thư tiết ra hormone chống lợi niệu (ADH), thận sẽ giữ lại nước, dẫn đến giảm nồng độ muối trong máu. Các triệu chứng chính bao gồm yếu cơ hoặc chuột rút, chán ăn, bồn chồn, lú lẫn, mệt mỏi, buồn nôn và nôn. Nặng có thể gây co giật và hôn mê.
· Hội chứng Cushing: Khi tế bào ung thư sản xuất hormone adrenocorticotropic (ACTH), cơ thể sẽ sinh ra quá nhiều cortisol. Các triệu chứng bao gồm cao huyết áp và tăng đường máu, khuôn mặt tròn cùng với chân tay teo nhỏ, yếu ớt. Tăng mỡ bụng và phát triển các vết [rạn da] màu tím.
· Hội chứng Lambert-Eaton: Điều này được cho là do các kháng thể kháng u tấn công mối liên kết giữa thần kinh-cơ. Các triệu chứng bao gồm yếu cơ, giảm khả năng vận động và gặp khó khăn trong các hoạt động như đứng dậy từ tư thế ngồi, leo cầu thang hoặc mang vác.
· Tăng calcium máu: Tình trạng này xảy ra khi nồng độ calcium trong máu tăng cao, dẫn đến đi tiểu thường xuyên, khát nước, táo bón, mệt mỏi, chóng mặt và rối loạn ý thức.
· Cục máu đông.
Nguyên nhân gây ung thư phổi? Giống như tất cả các bệnh ung thư, ung thư phổi là do sự phân chia nhanh chóng của các tế bào bất thường từ đó hình thành khối u hoặc di căn xa theo đường máu hoặc bạch huyết. Các yếu tố môi trường và di truyền khác nhau có thể làm tổn thương tế bào, kích phát sự phân chia tế bào bất thường này. Các yếu tố sau đây là tác nhân chính gây ra ung thư phổi.
1. Hút thuốc
Hút thuốc lá là nguyên nhân hàng đầu gây ra ung thư phổi, chịu trách nhiệm cho hơn 70% các ca bệnh và khoảng 80% các ca tử vong do ung thư phổi. Những người hút thuốc phải đối mặt với nguy cơ tử vong do ung thư phổi cao gấp 25 lần so với những người chưa bao giờ hút thuốc.
Các loại sản phẩm thuốc lá khác, bao gồm tẩu, xì gà, thuốc lá thảo mộc, thuốc lá “không đốt cháy,” shisha, thuốc lá nhai, các sản phẩm thuốc lá hòa tan, thuốc lá có hàm lượng nhựa đường và nicotine thấp, cũng góp phần gây ra ung thư.
Hút cần sa trong thời gian dài cũng làm tăng nguy cơ ung thư phổi ở người trẻ tuổi do thành phần tương tự [thuốc lá] và hàm lượng chất gây ung thư cao hơn.
Mặc dù tác động sức khỏe lớn hơn của thuốc lá điện tử vẫn chưa rõ ràng, nhưng nghiên cứu cho thấy vape không phải là giải pháp thay thế lành mạnh hơn cho việc hút thuốc.
2. Hút thuốc thụ động
Hít khói thuốc thụ động được gọi là hút thuốc thụ động hoặc phơi nhiễm không chủ ý. Ngay cả khi tiếp xúc trong thời gian ngắn cũng có thể gây tổn thương tế bào, góp phần gây ra ung thư. Khoảng 10%-20% trường hợp ung thư phổi ở Hoa Kỳ xảy ra ở những người chưa bao giờ hút thuốc hoặc hút không quá 100 điếu trong cả đời. 3. Khí radon Phơi nhiễm radon là nguyên nhân chính thứ hai gây ung thư phổi và là nguyên nhân hàng đầu do môi trường gây ra mọi bệnh ung thư ở Hoa Kỳ. Radon là một loại khí phóng xạ tự nhiên không màu, không vị, không mùi, có nguồn gốc từ sự phân hủy tự nhiên của uranium, thorium và radium trong đá và đất. Radon xâm nhập vào các tòa nhà thông qua các vết nứt hoặc khe hở và tích tụ bên trong. Mức radon thường cao nhất ở tầng hầm và tầng một do chúng nằm gần mặt đất.
Khoảng 1/15 hộ gia đình trên khắp Hoa Kỳ được cho là có mức radon cao. Những ngôi nhà có mức radon tăng cao đã được tìm thấy ở tất cả các tiểu bang.
4. Amiăng và các chất khác
Tiếp xúc với các hóa chất sau đây làm tăng nguy cơ ung thư phổi:
Amiăng: Hít phải những sợi tự nhiên này có thể khiến chúng bị giữ lại trong phổi. Amiăng đã được sử dụng trong vật liệu xây dựng (ví dụ như tấm lợp mái và các sản phẩm xi măng amiăng), các sản phẩm chịu ma sát (ví dụ như các bộ phận phanh và truyền động) và vải chịu nhiệt.
Cadmium: Một nguyên tố tự nhiên hiện diện với số lượng nhỏ, chủ yếu được lấy ở Hoa Kỳ dưới dạng sản phẩm phụ của quá trình sản xuất các kim loại như kẽm, chì và đồng. Vì có khả năng chống ăn mòn nên cadmium đã được sử dụng trong sản xuất pin, bột màu, lớp phủ kim loại và nhựa. Cadmium cũng có trong khói thuốc lá.
Thạch tín: Một loại bán kim loại tồn tại tự nhiên, được phân bố rộng rãi khắp lớp vỏ Trái đất. Hiện nay, ở Hoa Kỳ, thạch tín mạ chromium đồng (CCA) được ứng dụng trong công nghiệp và các hợp chất thạch tín hữu cơ được sử dụng chủ yếu làm thuốc trừ sâu, chủ yếu trên cây bông. Thạch tín có thể xâm nhập vào nước uống từ các nguồn tự nhiên và có trong khói thuốc lá.
Chromium: Nguyên tố tự nhiên chromium phục vụ nhiều mục đích khác nhau, bao gồm sử dụng trong sản xuất thép, mạ chromium, tạo thuốc nhuộm và phẩm màu, thuộc da và bảo quản gỗ.
Silica: Thạch anh, được tìm thấy trong cát, sỏi, đất sét, đá granite và các loại đá khác, đại diện cho dạng silica tinh thể chiếm ưu thế, gây nguy hiểm cho phổi. Hiện tại, hàng triệu công nhân Hoa Kỳ đang hít phải với tinh thể silica trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau. Khí thải diesel: Một số nghiên cứu liên quan đến những người lao động tiếp xúc với khí thải diesel đã cho thấy nguy cơ ung thư phổi tăng nhẹ nhưng đáng chú ý. Ô nhiễm không khí: Hít phải các hạt bụi mịn PM 2.5 có thể làm tăng nguy cơ bị UTPKTBN, đặc biệt ở những người có đột biến gene EGFR. 5. Di truyền học Nếu cha mẹ, anh chị em ruột hoặc có con bị ung thư phổi, nguy cơ bị bệnh có thể tăng lên. Một số gia đình có tiền sử đáng chú ý về bệnh ung thư phổi có thể do đột biến gene. Ví dụ, những người thừa hưởng những đột biến DNA nhất định trên một nhiễm sắc thể cụ thể (ví dụ nhiễm sắc thể 6) tăng khả năng phát triển ung thư phổi hơn, bất kể tình trạng hút thuốc. Những đột biến gene liên quan đến ung thư phổi thường xảy ra do các yếu tố môi trường hơn là do di truyền. Một số đột biến có thể phát sinh ngẫu nhiên trong tế bào. Một số thay đổi gene mắc phải, chẳng hạn như gene ức chế khối u RB1, được cho là có vai trò quan trọng trong sự phát triển UTPTBN. Các giai đoạn của ung thư phổi Phân loại giai đoạn ung thư dựa trên sự lan tràn của ung thư trong cơ thể, kích thước và vị trí khối u. UTPKTBN và UTPTBN có hệ thống phân giai đoạn riêng biệt. 1. Ung thư phổi không tế bào nhỏ
Hệ thống TNM là hệ thống phân giai đoạn được sử dụng rộng rãi nhất cho UTPKTBN, bao gồm 5 giai đoạn. Trong hệ thống này:
· T cho biết kích thước và mức độ xâm lấn của khối u nguyên phát. · N chỉ ra sự hiện diện của ung thư ở các hạch bạch huyết gần đó. · M cho biết ung thư đã di căn sang các bộ phận cơ thể khác hay chưa. Giai đoạn tổng thể dựa trên kết hợp các cấu phần T, N và M: · Giai đoạn 0: Là giai đoạn sớm nhất. Các tế bào ung thư chỉ được tìm thấy ở lớp tế bào trên cùng biểu mô phủ đường dẫn khí và chưa xâm lấn sâu hơn vào nhu mô phổi. · Giai đoạn 1: Ung thư còn khu trú trong phổi. · Giai đoạn 2: Ung thư phổi vẫn khu trú trong phổi, nhưng khối u lớn hơn và xâm lấn hơn giai đoạn 1. · Giai đoạn 3: Ở giai đoạn này, ung thư thường lan tràn đến các hạch bạch huyết kế cận và có thể xâm lấn sâu hơn vào các mô xung quanh. · Giai đoạn 4: Đây là giai đoạn tiến triển nhất, cho thấy ung thư đã di căn đến các mô, cơ quan ở xa. 2. Ung thư phổi tế bào nhỏ Có hai giai đoạn Giai đoạn khu trú: Ung thư tồn tại ở một phổi và/hoặc các hạch bạch huyết kế cận ở cùng một bên lồng ngực. Giai đoạn lan tràn: Ung thư đã lan rộng trong nhu mô phổi cùng bên, phổi đối bên, các hạch bạch huyết ở đối bên hoặc các bộ phận khác của cơ thể. Di căn màng phổi (màng phổi chứa dịch lỏng bao quanh phổi) cũng được tính ở giai đoạn này. Ai có nhiều khả năng bị ung thư phổi? Các yếu tố nguy cơ gây ung thư phổi bao gồm:
· Hút thuốc.
· Tiếp xúc với radon.
· Tiếp xúc với amiăng và các chất khác: Những người làm việc trong các mỏ amiăng, ngành công nghiệp ô tô, nhà máy đóng tàu, nhà máy xi măng, buôn bán hệ thống ống nước và sưởi ấm, xây dựng và họa sĩ, thợ mộc và thợ điện đều dễ bị phơi nhiễm.
· Tiếp xúc với không khí ô nhiễm.
· Ăn nhiều thịt đỏ và/hoặc chất béo bão hòa: Tiêu thụ thịt đỏ có thể làm tăng khả năng phát triển ung thư phổi, trong khi thịt trắng, thịt chế biến sẵn, nội tạng và cá dường như không góp phần gây ra nguy cơ. Tiêu thụ nhiều tổng lượng chất béo và chất béo bão hòa có liên quan đến nguy cơ ung thư phổi cao hơn, đặc biệt là ở những người hút thuốc.
· Tuổi cao hơn: Những người dưới 40 tuổi hiếm khi bị loại ung thư này.
· Dân tộc: Đàn ông da đen có nguy cơ bị ung thư phổi cao hơn khoảng 12% so với đàn ông da trắng, trong khi tỷ lệ này ở phụ nữ da đen thấp hơn khoảng 16% so với phụ nữ da trắng. Mặc dù nguy cơ ung thư phổi nói chung thấp hơn ở người Mỹ gốc Á, người Hawaii bản địa và người dân đảo Thái Bình Dương, nhưng đây là nguyên nhân chính gây tử vong liên quan đến ung thư của nhóm người này. Trong số này, người Hawaii bản địa có tỷ lệ tử vong do ung thư phổi cao nhất.
· Tiền sử bản thân hoặc gia đình: Những người trước đây bị ung thư phổi phải đối mặt với nguy cơ tái phát cao. Khoảng 8% bệnh ung thư phổi xuất phát từ di truyền hoặc khuynh hướng di truyền, chẳng hạn như nhiễm sắc thể 6.
· Phơi nhiễm phóng xạ: Những người sống sót sau trải qua xạ trị ung thư vùng ngực phải đối mặt với nguy cơ bị ung thư phổi cao, đặc biệt nếu họ hút thuốc. Những cá nhân tiếp xúc với bức xạ ion hóa từ vụ nổ bom nguyên tử hoặc tai nạn hạt nhân có nguy cơ cao hơn.
· Một số bệnh lý: bệnh phổi đang diễn ra, như bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD), làm tăng khả năng bị bệnh ung thư phổi. Nguy cơ ung thư phổi cũng tăng lên đối với những người bị một số rối loạn tự miễn dịch, bao gồm lupus, viêm khớp dạng thấp, bệnh Crohn, bệnh Graves/cường giáp và bệnh sarcoidosis.
· Hệ miễn dịch suy yếu: Mặc dù không gây ung thư, nhưng do virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV) gây suy yếu hệ miễn dịch, nên những người bị hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS) có xu hướng phát triển một số loại ung thư, bao gồm cả ung thư phổi. Những người có hệ miễn dịch bị ức chế cũng có nguy cơ cao hơn.
· Lối sống tĩnh tại: Những người hút thuốc tham gia hoạt động mạnh ít nhất 1 lần 1 tuần có nguy cơ bị ung thư phổi thấp hơn 29% so với những người hiếm khi hoặc không bao giờ tham gia các hoạt động đó.
· Bổ sung beta-carotene: Beta carotene là sắc tố màu đỏ cam có trong nhiều loại thực vật và là chất chống oxy hóa giúp bảo vệ cơ thể khỏi các gốc tự do gây hại. Tuy nhiên, nghiên cứu đã chứng minh mối liên hệ đáng thuyết phục giữa bổ sung beta-carotene và nguy cơ ung thư phổi tăng lên ở những người hút thuốc. Vì vậy, những người hút thuốc được khuyến cáo chỉ nên bổ sung beta carotene thông qua các nguồn thực phẩm tự nhiên. Chẩn đoán ung thư phổi Nhiều xét nghiệm khác nhau có thể phát hiện và chẩn đoán ung thư phổi. 1. Sàng lọc Lực lượng Đặc nhiệm Dịch vụ Phòng ngừa Hoa Kỳ (USPSTF) khuyến nghị sàng lọc ung thư phổi hàng năm cho những người từ 50-80 tuổi có tiền sử hút thuốc 20 bao/năm, cho dù hiện đang hút thuốc hay những người đã bỏ thuốc trong vòng 15 năm qua. Một bao/năm tương ứng với việc hút trung bình một bao thuốc lá mỗi ngày trong một năm. Hiện tại chỉ có một xét nghiệm sàng lọc được khuyến nghị ở Hoa Kỳ: chụp cắt lớp vi tính (CLVT) liều thấp. CLVT liều thấp là một kỹ thuật nhanh chóng, không xâm lấn và tương tự như chụp CLVT tiêu chuẩn nhưng mức độ tiếp xúc với bức xạ thấp hơn nhiều, giảm các rủi ro tiềm ẩn liên quan đến các xét nghiệm thường niên hoặc thường xuyên. Nghiên cứu đã phát hiện ra rằng CLVT liều thấp là phương pháp duy nhất làm giảm nguy cơ tử vong do ung thư phổi ở những người nghiện thuốc lá nặng trong số tất cả các phương pháp sàng lọc hiện có.
2. Xét nghiệm chẩn đoán
Quá trình này thường bắt đầu bằng việc trao đổi với bác sĩ, hỏi về các triệu chứng, yếu tố nguy cơ, sức khỏe tổng quát và thăm khám lâm sàng. Dựa trên những phát hiện này, bác sĩ có thể hướng dẫn bạn đến bác sĩ chuyên khoa hoặc yêu cầu xét nghiệm để đánh giá bệnh ung thư phổi hoặc các vấn đề sức khỏe tiềm ẩn khác. Những xét nghiệm này có thể bao gồm: Chụp X-quang ngực: Chụp X-quang ngực thường là xét nghiệm đầu tiên để tìm kiếm bất kỳ bất thường nào trong phổi bằng cách quan sát các cơ quan và xương trong lồng ngực. |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23635 |
![]() ![]() ![]() |
Hướng dẫn cơ bản về ung thư phổi tt.Chụp CT: Chụp cắt lớp vi tính (CT hoặc CLVT) thường là xét nghiệm thứ hai trong quy trình chẩn đoán ung thư phổi. Hình thức dùng tia X chuyên dụng này ghi lại hình ảnh chi tiết của phổi. Chụp CT hiệu quả hơn trong việc phát hiện các khối u phổi so với chụp X-quang ngực tiêu chuẩn. Ngoài ra, chụp CT có thể cung cấp thông tin về kích thước, hình dạng và vị trí của khối u phổi và xác định các hạch bạch huyết tăng sinh có thể chứa ung thư di căn. Chụp PET: Chụp cắt lớp phát xạ positron (PET) là một loại chẩn đoán hình ảnh y học hạt nhân sử dụng đường gắn phóng xạ để tạo ra hình ảnh màu 3D sống động, phản ánh chức năng của các tế bào. Xét nghiệm này rất hữu ích khi bác sĩ nghi ngờ ung thư đã di căn nhưng không biết chắc về vị trí và xét nghiệm cũng có thể xác định giai đoạn ung thư phổi. Chụp MRI: Chụp cộng hưởng từ (MRI) cung cấp hình ảnh cắt ngang chi tiết của các mô mềm trong cơ thể nhưng sử dụng sóng vô tuyến và nam châm mạnh thay vì tia X. Chụp MRI đặc biệt có giá trị trong việc phát hiện di căn não, tim hoặc tủy sống. Siêu âm: Siêu âm sử dụng sóng âm tần số cao để tạo ra hình ảnh của các bộ phận cơ thể. Siêu âm phát hiện sự tích tụ dịch màng phổi và trợ giúp hướng dẫn sinh thiết hoặc dẫn lưu dịch màng phổi. Xét nghiệm tế bào học dịch đờm: Bác sĩ giải phẫu bệnh soi đờm, chất nhầy ho ra từ phổi, dưới kính hiển vi để phát hiện tế bào ung thư. Quá trình này có thể giúp xác định bệnh ung thư có nguồn gốc từ đường hô hấp lớn của phổi. Sinh thiết: Sinh thiết là một thủ thuật trong đó một mẫu mô nhỏ hoặc khối u được lấy ra khỏi cơ thể để kiểm tra bằng kính hiển vi. Sinh thiết được thực hiện để chẩn đoán ung thư phổi hoặc xác định xem một khối bất thường có phải là ung thư hay không. Đây là phương pháp hiệu quả nhất để chẩn đoán ung thư phổi và mức độ lan rộng của nó. Biến chứng của ung thư phổi Các biến chứng của ung thư phổi bao gồm: · Cục máu đông: Nguy cơ cao tạo huyết khối tĩnh mạch sâu do ảnh hưởng của bệnh ung thư đối với các yếu tố đông máu và có thể do hóa trị. Trong một số trường hợp, cục máu đông có thể bong ra và di chuyển đến phổi, dẫn đến thuyên tắc mạch phổi.
· Hội chứng cận u: Hội chứng này phổ biến nhất ở người trung tuổi đến lớn tuổi, cũng thường hay gặp trong ung thư phổi.
· Buồn nôn và nôn do hóa trị.
· Mệt mỏi.
· Khó thở: Các khối u phổi có thể dẫn đến khó thở do gây tắc nghẽn đường thở, từ đó cản trở thông khí. Ung thư phổi cũng có thể dẫn đến tràn dịch màng phổi cản trở sự giãn nở hoàn toàn của phổi. Ngoài ra, ung thư phổi có thể làm giảm lượng hồng cầu, ảnh hưởng đến sự vận chuyển oxy.
· Ho ra máu: Ho ra máu là khi ho trong đờm có máu. Máu này có thể đến từ nhu mô phổi hoặc các đường dẫn khí.
· Suy nhược: Điều này thường thấy ở những bệnh nhân ung thư phổi tiến triển kèm theo gầy sút cân, bao gồm cả mất khối lượng cơ. Tại thời điểm chẩn đoán, 60% bệnh nhân đã sụt cân rõ rệt.
· Thiếu máu: Thiếu máu thường gặp ở những người bị bệnh ung thư phổi, với sự xuất hiện và mức độ thiếu máu liên quan đến các yếu tố như giai đoạn của khối u, thời gian bị bệnh cũng như các phương pháp điều trị trước đây và hiện tại. · Giảm bạch cầu trung tính: Giảm bạch cầu trung tính (một loại tế bào bạch cầu) do hóa trị liệu.
· Độc tính trên thận: Độc tính trên thận là sự suy giảm nhanh chóng chức năng thận do tác dụng phụ của thuốc và hóa chất. Tràn dịch trung thất. · Tăng calcium máu: Trong một số trường hợp, ung thư phổi có thể gây tăng nồng độ calcium trong máu. Điều trị ung thư phổi Kế hoạch điều trị tùy thuộc vào loại ung thư phổi. Dưới đây là các phương pháp điều trị chính, ngoài ra còn có một số phương pháp khác. 1. Phẫu thuật Lựa chọn phẫu thuật được xác định chủ yếu dựa trên kích thước, vị trí và mức độ xâm lấn của khối u. Nếu bệnh nhân có UTPKTBN ở một bên phổi và có sức khỏe tốt thì nên phẫu thuật để loại bỏ tế bào ung thư. Vì UTPTBN thường ảnh hưởng đến cả hai phổi nên phẫu thuật đơn thuần thường không được khuyến cáo. Các hạch bạch huyết cũng có thể được loại bỏ trong quá trình phẫu thuật để xác định xem chúng có chứa tế bào ung thư hay không. Có bốn loại phẫu thuật ung thư phổi: · Cắt hình chêm hoặc cắt phân thùy phổi: Phẫu thuật này loại bỏ một phần nhỏ của phổi. Chỉ phù hợp với một nhóm bệnh nhân chọn lọc có khối u nhỏ, khu trú, thường ở giai đoạn sớm của UTPKTBN.
· Cắt thùy phổi: Điều này liên quan đến việc loại bỏ một trong những phần lớn hơn (thùy) của phổi. Thường được khuyến cáo khi ung thư chỉ giới hạn ở một phần nhất định của một phổi.
· Cắt một bên phổi: Trong thủ thuật này, toàn bộ phổi được cắt bỏ. Chỉ định khi ung thư nằm ở rốn phổi hoặc đã lan rộng khắp phổi.
· Cắt bỏ thùy phổi kiểu tay áo: Thủ tục này loại bỏ một phần của phế quản. 2. Xạ trị Xạ trị sử dụng chùm tia mang năng lượng mạnh để loại bỏ các tế bào ung thư. Đôi khi, sự kết hợp giữa hóa trị và xạ trị là phương pháp điều trị chính. Xạ trị có thể làm giảm các triệu chứng đau đớn khi bệnh ung thư phổi tiến triển hoặc đã di căn. Có hai kỹ thuật xạ trị chính: · Xạ trị ngoài: Xạ trị ngoài chiếu bức xạ từ bên ngoài cơ thể vào khối u. Phương pháp này không gây đau đớn, mỗi lần chỉ mất vài phút. Phương pháp điều trị này thường được thực hiện 5 ngày trên 1 tuần trong vòng 5 đến 7 tuần.
· Xạ trị áp sát: Còn được gọi là xạ trị nội phế quản, đây là một hình thức xạ trị bên trong, liên quan đến việc đặt nguồn phóng xạ vào bên trong phế quản thông qua nội soi phế quản. Liệu pháp áp sát được sử dụng cho các khối u ở phế quản và giảm thiểu tiếp xúc với bức xạ của các cơ quan lân cận.
Xạ trị dự phòng toàn não: sử dụng chùm tia bức xạ bên ngoài hướng vào toàn bộ não, được khuyến cáo cho những người bị UTPTBN giai đoạn khu trú hoặc lan rộng có đáp ứng tích cực với hóa trị và xạ trị. Tuy nhiên, nó không được cân nhắc đối với những người bị UTPTBN không đáp ứng với hóa trị. Bệnh nhân UTPKTBN không được hưởng lợi từ phương pháp điều trị này. Xạ trị dự phòng toàn não nhằm mục đích ngăn chặn sự di căn đến não trong UTPTBN hoặc tiêu diệt các tế bào ung thư có thể đã di căn nhưng không bị phát hiện. 3. Hóa trị Hóa trị sử dụng thuốc chống ung thư để ngăn chặn sự phát triển của tế bào ung thư, bằng cách loại bỏ hoặc cản trở sự phân chia tế bào. Hầu hết những bệnh nhân ung thư phổi đều được hóa trị tùy theo giai đoạn hoặc để giúp loại bỏ các tế bào ung thư còn sót lại sau phẫu thuật lần đầu.
Hóa trị thường được thực hiện theo chu kỳ: dùng thuốc trong vài ngày, sau đó nghỉ vài tuần để việc điều trị có hiệu quả và cơ thể phục hồi. Hầu hết mọi người cần 4-6 chu kỳ trong vòng 3-6 tháng.
Sau khi hoàn thành các chu kỳ, bác sĩ sẽ đánh giá đáp ứng. Nếu bệnh được cải thiện, việc điều trị thêm có thể không cần thiết. Nếu bệnh không cải thiện, bác sĩ có thể đề nghị một liệu pháp hóa trị khác hoặc hóa trị duy trì để kiểm soát ung thư. Hóa trị ung thư phổi bao gồm sự kết hợp của các loại thuốc được truyền qua đường tĩnh mạch ngoại vi hay tĩnh mạch trung ương. Thuốc đôi khi được dùng dưới dạng viên nang hoặc viên nén uống.
UTPTBN giai đoạn khu trú thường được điều trị bằng sự kết hợp giữa hóa trị và xạ trị (hóa xạ trị). Trong UTPTBN giai đoạn lan tràn, phương pháp điều trị chính thường bao gồm hóa trị, đôi khi kết hợp với liệu pháp miễn dịch. 4. Liệu pháp nhắm trúng đích Liệu pháp nhắm trúng đích, còn được gọi là liệu pháp sinh học, sử dụng các loại thuốc được tạo ra để cản trở sự phát triển của UTPKTBN giai đoạn tiến triển. Những liệu pháp điều trị này phù hợp với những người có những protein nhất định [đích tác động] trong tế bào ung thư. Việc lựa chọn liệu pháp nhắm trúng đích sẽ phụ thuộc vào đột biến gene được phát hiện trong các xét nghiệm sơ bộ toàn diện và sự sẵn có của các loại thuốc nhắm vào đột biến đó. Thuốc điều trị nhắm trúng đích có thể có hiệu quả khi hóa trị không mang lại kết quả. 5. Đốt sóng cao tần
Đốt sóng cao tần (RFA) có thể được xem xét cho những người có khối u nhỏ gần rìa phổi. Phương pháp sử dụng năng lượng sóng vô tuyến đốt khối u. Một thiết bị nhỏ giống như kim, dưới hướng dẫn chụp CLVT, được xuyên qua da và định vị cẩn thận bên trong khối u. Sau khi được đặt đúng cách, một dòng điện sẽ chạy qua đầu dò, tạo ra nhiệt để tiêu diệt các tế bào ung thư trong khối u.
6. Can thiệp qua nội soi khí phế quản Can thiệp qua nội soi khí quản giúp loại bỏ tắc nghẽn do khối u trong các dưỡng dẫn khí (phế quản hoặc tiểu phế quản). Khi phẫu thuật cắt bỏ khối u không khả thi do lo ngại về sức khỏe hoặc vị trí khối u, can thiệp qua nội soi khí phế quản có thể giảm các triệu chứng bằng cách giảm tắc nghẽn đường thở. 7. Liệu pháp miễn dịch Liệu pháp miễn dịch là một liệu pháp sinh học sử dụng hệ miễn dịch của chính bệnh nhân để chống lại ung thư. Thuốc trị liệu miễn dịch tăng cường, định hướng hoặc khôi phục khả năng phòng vệ tự nhiên của cơ thể chống lại bệnh ung thư. Liệu pháp ức chế điểm kiểm soát miễn dịch là một liệu pháp miễn dịch được sử dụng để điều trị một số bệnh nhân UTPKTBN tiến triển. Một ví dụ là liệu pháp ức chế PD-1 và PD-L1. PD-1 là một loại protein được tìm thấy trên bề mặt tế bào T giúp kiểm soát phản ứng miễn dịch của cơ thể. PD-L1 là một loại protein ở một số loại tế bào ung thư. Khi gắn vào PD-L1, PD-1 sẽ ngăn các tế bào T tiêu diệt tế bào ung thư. Các chất ức chế PD-1 và PD-L1 giữ cho các protein PD-1 và PD-L1 không gắn vào nhau cho phép tế bào T tiêu diệt tế bào ung thư. Sự kết hợp giữa liệu pháp miễn dịch PD-L1 với hóa trị cũng có thể giúp một số bệnh nhân UTPTBN sống lâu hơn. 8. Chăm sóc giảm nhẹ Chăm sóc giảm nhẹ hay chăm sóc trợ giúp, giúp kiểm soát các triệu chứng ung thư phổi và tác dụng phụ của điều trị. Gặp gỡ sớm với nhóm chăm sóc giảm nhẹ có thể bảo đảm sự thoải mái trong và sau khi điều trị.
Tâm thái ảnh hưởng đến ung thư phổi
Mặc dù một số nghiên cứu cho thấy rằng việc duy trì thái độ tích cực có thể không ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ sống sót hoặc tiến triển của bệnh ung thư phổi, nhưng nghiên cứu khác cho thấy sự lạc quan và cách suy nghĩ tích cực có thể góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống cho những người đang đối mặt với bệnh ung thư. Nhiều người sống sót sau ung thư và những người tích cực chiến đấu với căn bệnh này tin rằng việc duy trì sự lạc quan và tích cực sẽ nâng cao góc nhìn về cuộc sống. Một số người cũng tin rằng tư duy lạc quan và tích cực có thể ảnh hưởng đến việc quản lý bệnh tật, kết quả điều trị và cơ hội sống sót. Các phương pháp tiếp cận tự nhiên đối với bệnh ung thư phổi Các liệu pháp tự nhiên điều trị ung thư phổi bao gồm một số liệu pháp thay thế, có thể giúp đẩy nhanh sự chết tế bào ung thư và cải thiện các triệu chứng cũng như tác dụng phụ của điều trị, nhưng mục đích để bổ sung cho các phương pháp điều trị thông thường hơn là thay thế chúng. Trước khi sử dụng bất kỳ liệu pháp tự nhiên nào, vui lòng tham khảo ý kiến bác sĩ. 1. Tăng thân nhiệt toàn thân Còn được gọi là nhiệt trị liệu, đốt nhiệt hoặc liệu pháp nhiệt để điều trị ung thư, tăng thân nhiệt là phương pháp điều trị trong đó mô cơ thể được làm nóng đến nhiệt độ cao tới 1130F (450C), nhằm mục đích gây tổn hại và loại bỏ có chọn lọc các tế bào ung thư trong khi giữ lại các mô khỏe mạnh. Tăng thân nhiệt có thể được sử dụng để điều trị nhiều loại ung thư, bao gồm cả ung thư phổi. Tăng thân nhiệt gây phá vỡ cấu trúc và protein trong tế bào ung thư, làm giảm kích thước khối u. Ngoài ra, tăng thân nhiệt có thể tăng khả năng phản ứng của tế bào ung thư với các phương pháp điều trị khác, như được sử dụng cùng với hóa trị, xạ trị hoặc các hình thức điều trị khác. Các công cụ được sử dụng trong điều trị tăng thân nhiệt bao gồm đầu dò vi sóng, sóng cao tần, laser, chăn và buồng sưởi. Có nhiều loại điều trị tăng thân nhiệt khác nhau, bao gồm: · Tăng thân nhiệt cục bộ: Nhiệt được áp dụng cho một vùng nhỏ của cơ thể.
· Tăng thân nhiệt vùng: Nhiệt được áp dụng cho một cơ quan, chi hoặc vùng rộng lớn của cơ thể.
· Tăng thân nhiệt toàn thân: Bệnh nhân được điều trị trong buồng nhiệt hoặc đắp chăn nóng, nâng nhiệt độ cơ thể lên 1070F hoặc 1080F (420C) trong thời gian ngắn.
· Một nghiên cứu cho thấy phương pháp kết hợp giữa tăng thân nhiệt toàn thân cùng với điều trị kìm hãm tế bào (cyclophosphamide và melatonin) đã dẫn đến sự ức chế đáng kể quá trình phát triển ung thư sarcoma biểu mô Walker 256 nguyên phát. Phương pháp điều trị này cũng ngăn chặn hoạt động phân bào trong các tế bào khối u và đẩy nhanh quá trình chết tế bào theo chương trình. Điều trị tăng thân nhiệt hiện được xem là một “chiến lược chống ung thư đầy hứa hẹn.” 2. Thảo dược cổ truyền Y học cổ truyền từ lâu đã đóng vai trò quan trọng trong y học bổ sung và thay thế, hướng tới nhiều mục tiêu, với tác dụng phụ tối thiểu và lợi ích điều trị đáng kể. Thuốc sắc Jinfukang (Kim Phúc Khang – JFK), một bài thuốc thảo dược để điều trị UTPKTBN, bao gồm 12 loại thảo dược Trung y. Thuốc JFK hoạt động như chất ngăn chặn khối u phổi phát triển bằng ức chế DNA. Hơn nữa, các phát hiện lâm sàng cho thấy việc kết hợp thuốc sắc với hóa chất cisplatin giúp kéo dài khả năng sống sót ở bệnh nhân UTPKTBN giai đoạn 2 và 3, tăng miễn dịch và giảm tác dụng phụ do cisplatin gây ra. Một số loại thuốc sắc thảo dược có thể gây chết tế bào ung thư, làm cho tế bào dễ bị tổn thương hơn với các phương pháp điều trị ung thư khác, giảm tỷ lệ tái phát, điều chỉnh chức năng miễn dịch hoặc kéo dài thời gian sống không bệnh. Một số dược thảo và chiết xuất đã được phát hiện có tác dụng chống ung thư phổi, bao gồm: Hoàng kỳ: Astragalus membranaceus polysaccharides (APS), một thành phần của đơn thuốc JFK, đã được phát hiện là làm giảm sự tăng sinh và di chuyển của các tế bào UPTKTBN. Berberine: Berberine có nguồn gốc từ các loại thực vật như cây dâu tây và hải cẩu vàng của Trung Hoa. Một dạng berberine đặc biệt (berberine gắn phytantriol) có sức mạnh gấp khoảng 20 lần trong việc ngăn chặn sự phát triển và di căn của ung thư phổi so với berberine thông thường. Trong các thử nghiệm trong phòng thí nghiệm, berberine gắn phytantriol giúp kiểm soát các gene liên quan đến ung thư phổi, làm giảm hoạt động của các protein kích thích sự phát triển của tế bào ung thư và cũng ít tác dụng phụ hơn berberine thông thường.
Dâu tằm trắng: Albanol B (ABN-B), phân lập từ dâu tằm, có khả năng ức chế sự phát triển của bốn dòng tế bào ung thư phổi ở người và gây chết tế bào. Điều trị bằng Kuwanon M (KWM), một thành phần đặc trưng khác từ vỏ rễ dâu tằm, có thể ngăn chặn sự tăng sinh và di căn của tế bào ung thư phổi trong các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm. Cây lưỡi rắn trắng: Trong một nghiên cứu trên động vật, chiết xuất này đã ức chế hiệu quả và gây chết các tế bào ung thư phổi. Ngoài ra, cây còn ức chế đáng kể sự di căn mà không có bất kỳ tác dụng phụ đáng chú ý nào. Curcumin: Curcumin, có nguồn gốc từ củ nghệ, là một hợp chất quan trọng có nhiều đặc tính trị liệu, như chất chống oxy hóa và tác dụng chống viêm. Curcumin có thể trợ giúp hiệu quả trong điều trị các khối u đặc do khả năng điều chỉnh các gene gây ung thư và không có tác dụng có hại. Tuy nhiên, hầu hết các bằng chứng đều đến từ các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, vì vậy cần có nhiều nghiên cứu hơn trên bệnh nhân để xác nhận tính hiệu quả của hoạt chất này. Chiết xuất thảo dược Thái Lan: Một nghiên cứu đã tìm thấy một số chiết xuất từ dược liệu Thái Lan như Bi điền xoan, cây Cù đèn và Chi lim xanh có tác dụng gây độc trên một dòng tế bào ung thư phổi. Chiết xuất ethanol của Chi lim xanh là hiệu quả nhất và có tiềm năng đáng kể để điều trị ung thư phổi trong tương lai.
3. Trị liệu bằng hương thơm
Liệu pháp mùi hương sử dụng tinh dầu thực vật như một phương pháp bổ sung cho sức khỏe, thường được hít hoặc bôi da dưới dạng pha loãng. Các loại tinh dầu từ một số loại thực vật đã được chứng minh là có ảnh hưởng đến tế bào ung thư phổi trong các thử nghiệm trong phòng thí nghiệm và các sinh vật sống. Một nghiên cứu cho thấy hương tinh dầu của hạt Màng tang có thể tiêu diệt các tế bào ung thư phổi bằng cách gây ra hiện tượng chết tế bào theo chương trình và ngừng chu kỳ tế bào. 4. Các liệu pháp có khả năng làm giảm việc dùng thuốc hóa trị Một số liệu pháp có thể nâng cao hiệu quả của việc sử dụng thuốc điều trị ung thư, từ đó giúp việc điều trị trở nên an toàn hơn cho bệnh nhân. Bao gồm: Liệu pháp tăng insulin (IPT): Còn được gọi là liệu pháp insulin trúng đích liều thấp, cung cấp một phương pháp bổ sung để điều trị một số bệnh ung thư, bao gồm cả ung thư phổi. Thường được gọi là “hóa trị liệu liều thấp,” IPT là phương pháp điều trị bổ sung cùng với các liệu pháp điều trị ung thư khác. Vì insulin có thể làm tăng tính thấm của màng tế bào ung thư do có số lượng thụ thể insulin cao hơn nên liệu pháp này giúp hóa chất dễ dàng xâm nhập vào tế bào ung thư hơn. Do đó, cần ít hóa chất hơn để đạt được hiệu quả điều trị tương tự. Thuốc khí dung từ tính nhắm đích (MADT): Một kỹ thuật mới nổi có nhiều hứa hẹn trong điều trị ung thư phổi, MADT liên quan đến việc dùng nam châm vĩnh cửu để đưa thuốc đến các vị trí cụ thể trong phổi một cách chính xác. MADT có thể được thực hiện bằng cách dùng nam châm cấy ghép bên trong cơ thể hoặc nam châm đặt bên ngoài. Dùng nam châm vĩnh cửu có tác động rõ rệt đến mức độ hiệu quả của các hạt bị giữ lại. 5. Châm cứu và kích thích huyệt Việc kích thích các huyệt vị nhất định có tác động mạnh mẽ đến hệ miễn dịch của bệnh nhân ung thư phổi. Các nhà nghiên cứu đã quan sát thấy sự gia tăng đáng chú ý về nồng độ interleukin-2 điều hòa tế bào miễn dịch, cũng như sự gia tăng các tế bào miễn dịch, bao gồm các phân nhóm tế bào T và tế bào diệt tự nhiên. Hơn nữa, kích thích huyệt vị làm giảm đáng kể tình trạng ức chế tủy xương do điều trị thông thường gây ra như giảm lượng huyết sắc tố, tiểu cầu và bạch cầu. Châm cứu có thể cải thiện đáng kể các triệu chứng ung thư ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân, như đau, buồn nôn và nôn, mất ngủ, lo lắng và trầm cảm, mệt mỏi và táo bón. Phòng ngừa ung thư phổi Dựa trên các yếu tố nguy cơ gây ung thư phổi, có một số cách phòng ngừa dưới đây: · Tránh hoặc bỏ hút thuốc hoặc ở gần khói thuốc: Trong vòng 12 năm sau khi bỏ thuốc, nguy cơ ung thư phổi sẽ giảm hơn một nửa so với người hút thuốc.
· Kiểm tra mức radon trong nhà: bằng cách liên lạc với văn phòng radon của tiểu bang.
· Tránh hoặc giảm thiểu tiếp xúc với chất gây ung thư: Trước khi nhận một công việc mới, hãy thẩm định kỹ lưỡng để xác định xem liệu có tiếp xúc với các chất độc hại gây ung thư phổi như amiăng và silica hay không.
· Ăn ít chất béo, nhiều chất xơ: Ăn có nhiều trái cây, rau và các loại thịt tốt cho sức khỏe. Hạn chế thịt đỏ và chất béo bão hòa; thay vào đó hãy tiêu thụ thịt gia cầm, cá và rau. Tiêu thụ thường xuyên các loại rau họ cải, chẳng hạn như bắp cải, bông cải xanh và cải Brussels, đã được chứng minh là có tác dụng bảo vệ chống lại ung thư phổi.
· Cung cấp đủ omega-3: Ba acid béo omega-3 chính bao gồm acid alpha-linolenic (ALA) có trong dầu thực vật, acid eicosapentaenoic (EPA) có trong cá và các loại hải sản, và acid docosahexaenoic (DHA) có trong hải sản. Acid béo omega-3 có thể cản trở sự phát triển của tế bào ung thư và có khả năng điều chỉnh các con đường chính ảnh hưởng đến sự tiến triển hoặc biến chứng của ung thư phổi. · Tăng vitamin và chất chống oxy hóa: Căng thẳng oxy hóa là yếu tố chính gây ra tác hại do xạ trị và hóa trị ung thư. Các chất chống oxy hóa như vitamin A, C và E, cũng như selen và kẽm, giúp gia tăng khả năng phòng vệ của cơ thể chống lại căng thẳng oxy hóa. Mặt khác, nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cho thấy rằng vitamin C liều rất cao hoạt động như một chất chống oxy hóa, làm giảm mức năng lượng trong tế bào ung thư, làm hỏng DNA từ đó gây ra một chuỗi phản ứng cuối cùng dẫn đến chết tế bào.
· Tập thể dục ít nhất hai lần mỗi tuần: Người lớn nên dành 150 phút tập thể dục nhịp điệu với cường độ vừa phải mỗi tuần, kết hợp với rèn luyện sức mạnh hai lần một tuần. · Kiểm tra ung thư phổi nếu có nguy cơ cao: Nếu bạn có nguy cơ cao bị ung thư phổi, hãy trao đổi với bác sĩ để được làm các xét nghiệm sàng lọc thích hợp. |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23635 |
![]() ![]() ![]() |
Thủ phạm chính gây ra bệnh timTrong
nhiều thập niên, cholesterol trong máu cao được xem là nguyên nhân
chính gây bệnh tim mạch. Tuy nhiên, thời nay nhiều bác sĩ đang đặt ra
những nghi vấn về việc nhấn mạnh vai trò của cholesterol với bệnh tim đã
dẫn đến việc bỏ qua một thủ phạm quan trọng khác. Đó chính là tình
trạng kháng insulin. Kháng insulin là nguyên nhân đáng lo ngại Tiến sĩ Robert DuBroff, bác sĩ tim mạch và là giáo sư của trường Đại học New Mexico, có một bệnh nhân bị nhiều biến chứng tim mạch. Bệnh nhân này đã phẫu thuật bắc cầu động mạch vành ba lần và được điều trị tích cực bằng thuốc giảm mỡ máu statin. Mặc dù vậy, các biến chứng tim mạch vẫn tiếp diễn. Tiến sĩ DuBroff nhận thấy lượng đường trong máu của bệnh nhân đã ở ngưỡng tiền tiểu đường và anh này bị thừa cân. Tuy nhiên, những yếu tố nguy cơ này đã không được các bác sĩ trước đó chú ý. Và khi những yếu tố này được giải quyết, bệnh nhân không còn gặp thêm vấn đề nào nữa. Tình trạng kháng insulin là nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh tiểu đường loại 2, cũng là chỉ số đánh giá sức khỏe chuyển hóa. Một nghiên cứu cho thấy, có hơn 80% người Mỹ gặp vấn đề về chuyển hóa không lành mạnh,, với gần một nửa trong số họ bị bệnh tiểu đường. Bệnh nhân tiểu đường loại 2 phải đối mặt với nguy cơ bị bệnh tim mạch cao, ít nhất là gấp đôi và hầu hết họ đều tử vong vì các biến chứng tim mạch. Tuy nhiên, điều này thường bị bỏ qua trong y văn. Giáo sư Ian Givens, chuyên gia về dinh dưỡng tại trường Đại học Reading nói rằng: “Giấy chứng nhận tử vong nói về bệnh tim mạch không nhắc đến bệnh tiểu đường. Điều này đúng về mặt kỹ thuật vì đó là nguyên nhân cuối cùng gây tử vong.” Tuy nhiên, quan điểm này đã bỏ qua một thông tin quan trọng: Đó chính là bệnh tiểu đường đã làm người ta tử vong vì bệnh tim. Kháng insulin là gì? Insulin là một loại hormone được tiết vào máu khi lượng đường trong máu tăng lên sau khi cơ thể hấp thụ đường từ bữa ăn hoặc các nguồn khác. Insulin sẽ chỉ dẫn các mô mỡ, gan và cơ xương hấp thụ đường trong máu để chuyển hóa hoặc dự trữ năng lượng, giúp khôi phục lượng đường huyết về mức bình thường. Tình trạng kháng insulin xảy ra khi các mô của cơ thể không còn phản ứng với insulin và không hấp thụ đường trong máu. Khi đó, bộ não sẽ gửi tín hiệu cho các tế bào beta của tuyến tụy tiết ra nhiều insulin hơn để trợ giúp và theo thời gian thì tình trạng kháng insulin của cơ thể ngày càng gia tăng. Cuối cùng, các tế bào beta làm việc quá tải sẽ suy yếu, chết và nồng độ đường trong máu vượt khỏi tầm kiểm soát. Kháng insulin và bệnh tim mạch Trong một bài báo đăng trên tập san Dược phẩm, vốn là tập san chính thức của Hiệp hội Dược phẩm Hoàng gia, hai bác sĩ nổi tiếng là Aseem Malhotra và Robert Lustig đã viết rằng tình trạng kháng insulin là “thủ phạm chính” gây ra bệnh tim. Kháng insulin góp phần vào tất cả các yếu tố nguy cơ chính của bệnh tim. Xơ vữa động mạch Xơ vữa động mạch liên quan đến sự phát triển của các mảng bám trong mạch máu và cuối cùng là các biến chứng tim mạch như đau tim. Việc sản xuất insulin tăng cao đi kèm với kháng insulin dẫn đến mức insulin liên tục tăng trong cơ thể sẽ góp phần gia tăng tình trạng viêm mạn tính. Điều này làm hỏng nội mạc mạch máu và tạo điều kiện cho chứng xơ vữa động mạch. Ngoài ra, viêm nhiễm còn làm tăng hoạt động của tiểu cầu, làm tăng nguy cơ đông máu. Insulin cao cũng góp phần gây rối loạn lipid máu (mỡ máu) là tình trạng mất cân bằng lipid hoặc chất béo trong máu. Dấu hiệu của rối loạn lipid máu là chất béo trung tính triglyceride trong máu cao, nồng độ cholesterol tốt (HDL) thấp và nồng độ cholesterol xấu (LDL) cao, trong đó insulin ảnh hưởng đến cả ba thành phần này. Là một hormone lưu trữ, insulin yêu cầu gan tổng hợp lượng calo ăn vào thành chất béo trung tính, vốn là một loại chất béo phân phối khắp cơ thể để lưu trữ, làm tăng mức chất béo trung tính trong máu. Insulin ức chế sự hình thành hạt HDL, làm giảm cholesterol HDL “tốt”. Khi nồng độ insulin tăng lên, các protein phân hủy các hạt HDL cũng tăng lên, vốn làm tăng khả năng thanh thải các hạt HDL ra khỏi máu. Ông Benjamin Bikman, là tiến sĩ về năng lượng sinh học và là giáo sư sinh lý học và sinh học tế bào tại trường Đại học Brigham Young, chuyên về bệnh lý chuyển hóa và tác động bệnh lý của insulin cho biết: “Nhiệm vụ của hạt HDL là đưa lipid từ cơ thể trở lại gan, nơi chúng sẽ “được tái chế”. Tuy nhiên, insulin lại không muốn năng lượng quay trở lại.” Tăng huyết áp Insulin làm tăng nhịp tim và huyết áp. Một cách mà insulin thực hiện điều này là kích hoạt hệ thần kinh giao cảm. Hệ thần kinh giao cảm có trách nhiệm kích hoạt phản ứng chiến đấu hoặc bỏ chạy, thường xảy ra khi căng thẳng. Căng thẳng đó có thể là tinh thần hoặc thể chất. Insulin có thể kích hoạt phản ứng tương tự. Trong phản ứng chiến đấu hoặc bỏ chạy, adrenaline và cortisol được phóng thích vào máu, làm huyết áp tăng và tim đập nhanh hơn. Ngoài vai trò là hormone dự trữ, insulin còn thúc đẩy sự phát triển, vốn làm nội mạc mạch máu dày lên, gây tăng huyết áp. Béo phì Tiến sĩ Jason Fung, một chuyên gia về thận và trao đổi chất cho biết mức insulin cao dẫn đến việc lưu trữ đường đã tiêu thụ dưới dạng chất béo thay vì thúc đẩy tiêu thụ đường ngay lập tức để cung cấp năng lượng. Đây cũng là lý do tại sao những bữa ăn giàu carbs làm lượng insulin tăng đột ngột, thường gây ra cảm giác đói nhanh hơn. Ngăn ngừa tình trạng kháng insulin Giảm tiêu thụ carb tinh chế và tinh bột Insulin đặc biệt nhạy cảm với glucose, vì vậy việc giảm tiêu thụ thực phẩm có đường và tinh bột có thể ngăn ngừa lượng đường trong máu và insulin tăng đột biến. Ông Bikman cho biết, bất kỳ thực phẩm nào có vị ngọt, giòn hoặc đóng gói sẵn cũng thường chứa nhiều carbs. Các loại carbs phức hợp [chứa ít nhất 3 loại đường] như rau, các loại đậu và trái cây có hàm lượng glucose thấp, chủ yếu chứa chất xơ và có ảnh hưởng rất nhỏ đến lượng đường trong máu cũng như tình trạng kháng insulin. Ông Bikman cho biết, tiêu thụ chất béo và carbs đơn giản cùng nhau còn tệ hơn việc chỉ tiêu thụ carbs hoặc chất béo. Mặc dù chất béo có hàm lượng calo cao nhưng bản thân chất béo không kích hoạt insulin. Tuy nhiên, khi có đường hoặc tinh bột, lượng insulin sẽ tăng lên và tồn tại lâu hơn. Các nghiên cứu cho thấy thực phẩm kết hợp đường và chất béo làm tăng cảm giác thèm ăn, kích thích ăn quá nhiều. Thực hành nhịn ăn và nhai kỹ Trong thời gian nhịn ăn, cơ thể không có sự gia tăng lượng đường hoặc lượng insulin trong máu. Theo một nghiên cứu tổng quan năm 2021, nhịn ăn thúc đẩy quá trình phân hủy chất béo trong tế bào mỡ để cung cấp năng lượng và cải thiện độ nhạy của insulin. Theo ông Bikman, tình trạng kháng insulin thường bắt đầu từ tế bào mỡ. Ông Bikman cho biết, các tế bào mỡ cũng có thể khuếch đại gấp 20 lần đường kính ban đầu để chứa nhiều năng lượng hơn. Nhưng khi các tế bào mỡ đạt kích thước tối đa và insulin vẫn liên tục thúc đẩy tế bào tiếp tục phát triển, chúng trở nên kháng insulin. Việc phân hủy chất béo trong các kho dự trữ chất béo này giúp có thêm không gian, từ đó cải thiện độ nhạy của insulin. Nhai kỹ thức ăn cũng có tác dụng; việc ăn quá nhanh có thể dẫn đến lượng đường trong máu tăng đột biến, kích thích phản ứng insulin mạnh mẽ. Điều này cũng liên quan đến cảm giác no kém, khiến người ta có xu hướng ăn vặt sau bữa ăn. Ngủ và xây dựng cơ bắp Ngủ đủ giấc giúp ngăn ngừa căng thẳng và viêm vốn góp phần làm tăng lượng đường trong máu và tình trạng kháng insulin. Cơ bắp là cơ quan chủ yếu tiêu thụ glucose, dùng tới 80% lượng glucose ăn hàng ngày. Nếu một người giữ nguyên lượng đường tiêu thụ trong khi khối lượng cơ giảm, đường dư thừa không thể được đốt cháy hoàn toàn và sẽ được lưu trữ dưới dạng chất béo. Ông David Stensel từ trường Đại học Loughborough, một chuyên gia về tăng cường trao đổi chất bằng cách tập thể dục cho biết các bài tập luyện đối kháng là hiệu quả nhất để tăng khối lượng cơ bắp. Ông cũng khuyến nghị nên kết hợp các bài tập aerobic với các bài tập đối kháng. Các bài tập aerobic liên tục cho phép mọi người tập luyện lâu hơn. Aerobic kết hợp luyện tập đối kháng kích thích cơ thể tiết ra nhiều hơn hormone tăng trưởng, thúc đẩy sự phát triển cơ bắp và tăng cường tỷ lệ trao đổi chất. Marina Zhang _ Công Thành *** Nguyên nhân chính và 2 bước sơ cứu để ngăn ngừa tử vongNgừng tim, hay còn gọi là vô tâm thu và ngừng tim đột ngột, đề cập đến việc tim đột ngột mất chức năng và ngừng đập. Bệnh nhân có thể đã hoặc chưa được chẩn đoán bị bệnh tim từ trước. Ngừng tim có thể xảy ra đột ngột hoặc có các triệu chứng báo trước; bệnh nhân có thể dễ dàng tử vong nếu không được thực hiện các bước sơ cứu thích hợp. |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23635 |
![]() ![]() ![]() |
Nguy cơ ung thư ẩn giấu trong các loại thuốc phổ biếnKhi dùng thuốc vì những lý do thông thường như giảm cholesterol, điều trị chứng ợ nóng và ngừa thai, hầu hết mọi người đều tin tưởng những loại thuốc này là an toàn và hiệu quả. Tuy nhiên, một số loại thuốc phổ biến có thể chứa các thành phần hoặc chất tạp nhiễm làm tăng nguy cơ ung thư. Vấn đề này có thể trở nên xấu hơn khi Hoa Kỳ phụ thuộc nhiều hơn vào các nhà sản xuất nước ngoài với các quy định ít nghiêm ngặt hơn để phục vụ nhu cầu ngày càng tăng về thuốc generic (thuốc tương đương sinh học). Tỷ suất lợi nhuận thấp đã làm nản lòng sản xuất trong nước, buộc phải phụ thuộc vào các nhà máy nước ngoài vốn có thể thiếu kiểm soát chất lượng. Thuốc tránh thai nội tiết tố Tuy nhiên nghiên cứu cho thấy chúng có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú, mặc dù bằng chứng còn hạn chế. Hầu hết dữ liệu đến từ các nghiên cứu quan sát, không thể chứng minh được mối quan hệ nhân quả mà chỉ là mối liên quan. Tuy nhiên, một nghiên cứu lớn năm 2017 được công bố trên Tập san Y học New England (NEJM) với gần 2 triệu phụ nữ Đan Mạch cho thấy nguy cơ bị bệnh ung thư vú tăng nhẹ ở những phụ nữ dùng thuốc tránh thai nội tiết tố, đặc biệt là khi dùng trong thời gian dài hơn. Phụ nữ dùng thuốc tránh thai trong thời gian dài có thể phải đối mặt với nguy cơ ung thư cổ tử cung cao hơn. Viện Ung thư Quốc gia đã báo cáo rằng so với những người không dùng, phụ nữ dùng các thuốc này trong ít nhất 5 năm có xu hướng có tỷ lệ ung thư cổ tử cung cao hơn. Dữ liệu cho thấy nguy cơ dường như tăng lên khi dùng thuốc tránh thai đường uống lâu hơn, dưới 5 năm nguy cơ tăng 10%, dùng 5 đến 9 năm nguy cơ tăng 60% và 10 năm trở lên nguy cơ tăng gấp đôi. Tuy nhiên, sau khi ngừng dùng thuốc, nguy cơ ung thư cổ tử cung tăng cao dường như giảm dần theo thời gian. Statin Tuy nhiên, một số bằng chứng cho thấy việc uống statin có thể liên quan đến tăng nguy cơ bị một số bệnh ung thư. Một nghiên cứu có đối chứng năm 2011 cho thấy dùng statin trong hơn 4 năm có liên quan đến nguy cơ bị ung thư đại trực tràng, bàng quang và phổi cao hơn. Không có nguy cơ gia tăng nào giữa việc dùng statin và bất kỳ ung thư phổ biến nhất nào khác. Thuốc statin có thể làm tăng nguy cơ ung thư do tác động lên quá trình tế bào và thậm chí làm giảm độ nhạy insulin. Statin ức chế enzyme liên quan đến sản xuất cholesterol và điều hòa tăng trưởng tế bào. Trong một số trường hợp, việc giảm hoạt động của enzyme có thể ảnh hưởng đến đường truyền tín hiệu tế bào và phản ứng miễn dịch, có thể góp phần làm tăng nguy cơ bị một số bệnh ung thư. Nguy cơ tiềm ẩn này vẫn là một lĩnh vực đang được nghiên cứu. Thuốc trị chứng ợ nóng Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã yêu cầu ngừng bán Zantac sau khi phát hiện thấy NDMA ở mức cao hơn giới hạn tiêu thụ hàng ngày có thể chấp nhận được. Hàm lượng cao NDMA cũng dẫn đến việc thu hồi các loại thuốc huyết áp thông thường khác như valsartan, losartan và irbesartan vào năm 2018. Đây là các loại thuốc dùng để điều trị cao huyết áp và suy tim. Bà Emily Feivor, chuyên gia dinh dưỡng được cấp phép tại Northwell Long Island Do Thái Forest Hills ở New York nói: “Một số nitrosamine có thể làm tăng nguy cơ ung thư nếu tiếp xúc lâu dài trên mức chấp nhận được.” Bà Feivor cho biết hàm lượng thấp của hóa chất này cũng có trong một số loại thực phẩm, bao gồm thịt chế biến sẵn, rau, bia và các sản phẩm từ sữa. Bà nói thêm, “Nitrosamines đã được chứng minh là có thể gây tổn hại DNA và gây ung thư.” Thuốc ức chế bơm proton (PPI) Famotidine có thể gây ra các tác dụng phụ trầm trọng, bao gồm nhịp tim không đều, lo lắng, và khó thở. Các lựa chọn thay thế phổ biến là thuốc ức chế bơm proton (PPI). Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy PPI có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư dạ dày (nhưng không phải đại trực tràng). Một lý do khiến nguy cơ gia tăng có thể là do PPI làm giảm vi khuẩn đường ruột khỏe mạnh và kích thích sự phát triển của các sinh vật gây bệnh. Các tác giả nghiên cứu lưu ý, “Mặc dù PPI thường được xem là hiệu quả và an toàn nhưng cũng có nhiều rủi ro tiềm ẩn.” Họ cũng khuyến cáo nên dùng thuốc ở liều thấp nhất có thể và chỉ trong thời gian ngắn. Các nhà sản xuất thuốc ở nước ngoài và mối lo ngại về an toàn ngày càng tăng Sự phụ thuộc của Hoa Kỳ vào các nhà sản xuất thuốc nước ngoài có thể gây nguy hiểm cho sự an toàn. Bà Rodgers và các đồng nghiệp viết, “Chúng tôi lo lắng rằng Hoa Kỳ đang quá phụ thuộc vào nguồn cung ứng từ các nhà sản xuất nước ngoài với biểu hiện liên tục vi phạm các quy định an toàn của FDA.” Theo thông tin từ văn phòng của bà Rodger, hai quốc gia này nhận được nhiều cảnh báo nhất từ FDA. Những vi phạm này bao gồm: · Chất gây ung thư trong thuốc. · Tiêu hủy hoặc làm sai lệch dữ liệu. · Quy trình sản xuất không vô trùng. Để giải quyết những lo ngại, Bộ Quốc phòng và Valisure, một phòng thí nghiệm độc lập, đã đưa ra quan hệ đối tác để cải thiện việc giám sát chất lượng thuốc và loại trừ các sản phẩm kém chất lượng. George Citroner _ Tú Liên |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 189 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |