Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Chuyện Linh Tinh | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh |
Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. | |
<< phần trước Trang of 98 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | |||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22681 |
Gởi ngày: 13/Sep/2022 lúc 6:29am | |||
Đôi Nạng Gỗ Đã Què
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 13/Sep/2022 lúc 6:30am |
||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
IP Logged | ||||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22681 |
Gởi ngày: 19/Sep/2022 lúc 12:58pm | |||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
IP Logged | ||||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22681 |
Gởi ngày: 25/Sep/2022 lúc 11:14pm | |||
May Mà Có EmQuỳnh lấy vé máy bay về Việt
Nam một cách vội vàng, mấy ngày nay nàng ăn, nói, đi, đứng như người mộng du. Tình cờ sang Cali dự đám cưới người cháu, Quỳnh gặp lại
Trang, người bạn học thân nhất, ngồi cạnh nhau trong giảng đường Văn Khoa.
Trang cho Quỳnh biết mới sang Mỹ được hai tháng. Trước khi đi Trang về thăm quê
nội ở Trà Vinh và đã gặp Tân! Thương binh cụt một chân, ngồi bán vé số ngoài vỉa
hè độ nhật. Nghe tin Tân còn sống, tim Quỳnh co thắt, toát mồ hôi và xây xẩm cả
mặt mày. Quỳnh thì thầm như người mất hồn. “Trời ơi! Tân ơi! Anh còn sống sao?
Mấy chục năm rồi, Tân ơi! Anh có biết rằng em tiếc thương anh ngần nào không?
Cám ơn trời Phật đã cho Tân còn sống!!!” Dù hoàn cảnh thế nào Quỳnh cũng phải
trở về gặp lại Tân! Gặp lại sự sống của chính nàng. Theo gia đình Trang dự lễ mãn khóa 22 sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Ngồi
trên khán đài trong Vũ Đình Trường, sau bài diễn văn của Thiếu Tướng Chỉ Huy
Trưởng, tiếng loa uy nghi dõng dạc: - Quỳ xuống các sinh viên sĩ quan. Sinh viên sĩ quan thủ khoa nhận kiếm, cung bắn đi bốn hướng
tượng trưng chí trai tang bồng hồ thỉ, sau khi hàng ngàn sinh viên khác nhịp
nhàng quỳ xuống thẳng hàng để được gắn cấp bậc sĩ quan. - Đứng lên các tân sĩ quan. Chỉ cần hai động tác quỳ xuống, đứng lên với cấp bậc trên
cầu vai biết bao tháng ngày gian lao! Những bữa cơm chan mồ hôi, nước mưa trong
rừng cao su ... Ngoài bãi tập và biết bao gian nguy ngoài chiến trường chờ đón
họ! Sau mười ngày phép cuối khóa của những người trai trong thời ly loạn! Phải
“xếp bút nghiên theo việc đao cung”. Trên hai mươi năm qua rồi, đêm mãn khóa bập bùng kỷ niệm vẫn
còn mới nguyên trong tâm hồn Quỳnh, đêm định mệnh để Quỳnh quen Tân do anh trai
Trang; người bạn cùng khóa với Tân giới thiệu. Ngồi trong xe cạnh nhau, hai người chỉ trao đổi những lời
thăm hỏi xã giao chừng mực. Ở Tân, Quỳnh thấy người con trai đã được tôi luyện
qua gian lao, nắng mưa quân trường, tóc hớt cao, nước da bánh mật sạm nắng, tự
dưng với tuổi mười bảy của đứa con gái mới lớn, Quỳnh thấy thương và tội nghiệp
Tân quá đi thôi. Tân từ biệt mọi người – sau khi xin địa chỉ Quỳnh -ra bến xe
miền Tây về quê thăm mẹ! Tân chỉ có hai mẹ con. Trước ngày ra đơn vị, Tân chọn binh chủng mũ nâu Biệt Động
Quân như lời tâm sự: “Không đi lính thì thôi, đi phải chọn binh chủng xứng đáng
và phải đánh đấm ra trò”. Tân có đến thăm Quỳnh đi phố, ăn trưa và trong bóng tối
rạp Ciné Lê Lợi, cầm tay Quỳnh, Tân nói lời từ giã: - Mai anh đi! Quỳnh ở lại vui! Ráng học giỏi. Tân ra đơn vị, Quỳnh thấy hụt hẫng trong lòng và tình cờ,
tình tiết thương tâm trong cuốn phim “Le temps d’aimer c’est le temps de
mourir” mà Quỳnh và Tân đã xem! Suốt thời gian dài sau này Quỳnh cứ tự hỏi: “Tại
sao có một thời để yêu lại phải có một thời để chết???”. Chiến trận đã cuốn Tân đi biền biệt! Những địa danh mịt
mùng xa xôi: Bình Định, Bồng Sơn, Tam Quan, Sa Huỳnh, Phá Tam Giang...tiếp nối
trên đầu mỗi cánh thư đầy ắp yêu thương của Tân gởi về; một thứ hạnh phúc nhỏ
nhoi mà nhiều lần Quỳnh đã mang vào giấc ngủ. Tình yêu qua những cánh thư đã làm Quỳnh trưởng thành,
nàng đọc báo, nghe đài phát thanh, tin tức những trận đánh lớn đã khiến nàng bỏ
ăn! Đóng cửa nằm yên trong phòng một mình. Quỳnh thường đi chùa! Một lần nghe có ông thầy ở Thủ Đức rất
tài; làm phép trong tờ giấy bạc xếp thành hình tam giác, tránh được lằn tên mũi
đạn. Quỳnh vội vàng thỉnh phép bọc bằng vải nhung tím, ép nylon gởi cho Tân và
nàng bắt buộc Tân phải đeo bên mình, Tân phải sống để yêu thương nàng. Những
gói mè xửng, chiếc nón bài thơ! Nhận được quà của Tân gởi về, Quỳnh cảm động mừng
rơi nước mắt. Đơn vị Tân tham dự hành quân vượt biên sang Lào! Lam Sơn
719. Tiểu đoàn Tân vừa được đổ xuống một đỉnh đồi, và rồi trận chiến khóc liệt
xảy ra! Sau hai giờ chiến đấu bằng lựu đạn, đơn vị Tân đã bị tràn ngập...
Ra trường chưa được hai năm Tân đã được thăng cấp tại mặt trận hai lần và giữ
chức vụ Đại Đội Trưởng. Thân nhân gia đình đến hậu cứ đơn vị hỏi thăm tin tức về
chồng con họ một cách nhiệt tình, tự nhiên. Thấy Quỳnh đứng rụt rè bỡ ngỡ, người
sĩ quan hậu cứ đến hỏi: - Xin lỗi cô tìm ai? Quỳnh lí nhí: - Dạ! Em muốn biết tin tức Trung Úy Tân Đại Đội Trưởng. - Cô là gì của Trung Úy Tân? - Dạ! Vợ. Má Quỳnh ửng đỏ. Người sĩ quan hậu cứ ranh mãnh trả lời nàng: - Đơn vị đang trong vùng hành quân! Có tin tức gì tôi sẽ thông
báo cho bà sau. Chữ bà đã làm Quỳnh ngượng ngùng làm sao ấy. Nghĩ cho cùng
rồi cũng đúng thôi. Quỳnh đã trao đời con gái cho Tân sau lần thăm ở Pleiku,
khi Tân đang nằm điều trị ở Quân Y Viện để gắp một mảnh lựu đạn xuyên vào vai.
Quỳnh chưa biết đam mê xác thịt, nàng muốn có con với Tân. Nếu lỡ Tân không về
nàng còn giữ được giọt máu cho Tân! Cho mẹ Tân có người nối dõi tông đường! Quỳnh
không có thời gian chọn lựa trong vòng tay Tân! Tình yêu đếm bằng phút giây với
nỗi chết không rời! Tội cho Quỳnh biết bao! Khi lỡ có người yêu ngoài mặt trận. Quỳnh tỉnh dậy trong nhà thương, khi tuần sau lên hậu cứ
và được người sĩ quan trực trả lời: - Xin thành thật chia buồn cùng bà! Trung Úy Tân được báo cáo đã
mất tích. Ba năm trời Quỳnh đi mọi nơi, hỏi không biết bao người đội
mũ nâu; không nhận ra được một tin tức nào của Tân. Những ngày cuối tháng tư năm 1975, trong khi Xuân Lộc bị tấn
công, Biên Hòa bị pháo kích; gia đình gồm cha, mẹ Quỳnh và đứa em trai di tản,
sau đó định cư tại thành phố Montreal Canada. Chuyện
tình nàng và Tân phút chốc thoáng như mơ mà đã gần ba
mươi năm! Một nửa đời người rồi còn gì!!!
Phi cơ ở độ cao! Quỳnh kéo chăn đắp lên ngực và thì thầm với
chính mình: - Tân ơi! Em phải về gặp anh! Dù thế nào em cũng không thể dối
lòng mình được, em yêu anh suốt cuộc đời này. Người tiếp viên thông báo, phi cơ đã vào địa phận Việt Nam. Trước khi đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, phi cơ đảo đi
một vòng lớn, qua khung cửa kính Quỳnh vẫn thấy thửa ruộng, mái tranh lụp sụp,
sự nghèo khó làm vòng đai rộng lớn bao quanh thành phố Sài Gòn hoa lệ. Qua báo chí, Quỳnh biết rằng hơn bảy mươi lăm phần trăm
dân tộc mình là nông dân, suốt đời úp mặt xuống bùn cũng không kiếm đủ miếng ăn
cho gia đình! Giàu sang chỉ dành riêng cho thành phần thiểu số có quyền chức
trong xã hội! Sự chênh lệch lớn lao giữa nghèo và giàu đó sinh ra sự bất ổn xã
hội! Sài Gòn bây giờ là ô nhiễm, xe cộ đủ loại chen chúc luồn lách vô trật tự!
Sự công xúc tu sỉ xảy ra ở mọi gốc cây, nhiều lần Quỳnh phải quay mặt đi vì hổ
thẹn. Ra xa cảng miền Tây, đón xe tốc hành, Quỳnh về Trà Vinh,
thành phố Quỳnh đến lần đầu. Quỳnh xuống xe với hai chiếc va li nặng trĩu. Ngơ
ngác cố nhớ lời Trang tả; nàng đi lần về phía đầu chợ; thành phố đã lên đèn. Hàng
chục anh xe lôi, xúm quanh hỏi Quỳnh về đâu? Nàng hỏi thăm Tân, cụt
chân bán vé số ở đầu phố chợ. Có người nhanh nhẩu trả lời: - Trung úy Tân! Biệt động Quân bán vé số! Cô lên xe tôi chở đến
nhà ổng cho. - Tân! Biệt Động Quân! Những tiếng thân thương Quỳnh mừng khôn tả. Quỳnh đền ơn người chạy xe lôi hậu hĩnh! Trước khi mở cổng
bước vào căn nhà ngói ba gian loang lổ gạch vôi nói lên đời sống khó khăn của
chủ nhân nó. Quỳnh đưa tay đè lên trái tim, nén xúc động, Quỳnh gõ cửa. Người
đàn ông chống nạng bước ra! Nhìn sững nàng! Miệng há hốc kinh ngạc! Đất như sụp
dưới chân Quỳnh. Tân không còn tin ở mắt mình: - Có phải Quỳnh của anh đây không? Nàng phóng tới ôm chầm lấy Tân: - Vâng, em đây! Quỳnh của anh đây. Ngoài ngõ, hàng xóm và trẻ em thật đông, tò mò nhìn vào.
Người đàn bà tóc bạc như cước, từ nhà sau bước ra lắp bắp hỏi Tân: - Cô này là ai vậy con? Tân trả lời mẹ trong xúc động: - Thưa má! Quỳnh bạn con. Quỳnh chắp tay lễ phép chào bà. Mẹ Tân bước tới ôm tay Quỳnh vừa
mếu máo khóc, vừa nói: - Thằng Tân gặp lại con! Bây giờ có chết bác cũng vui lòng. Mẹ Tân vén tay áo lau nước mắt. Tân chống nạng phụ Quỳnh mang mấy
va li vào nhà. Quỳnh đi tắm, thay đồ mát và bữa cơm đạm bạc được dọn ra gồm:
một tô mắm chưng, hai trái cà nâu nướng chan nước mắm tỏi ớt, một dĩa bông so
đũa luộc. Ba người cầm đũa, Quỳnh ăn thật ngon miệng! Mấy chục năm ở Canada làm
gì có những món này. Tân và mẹ nhìn Quỳnh ăn một cách ái ngại. Gắp cho Quỳnh bông so đũa luộc, mẹ Tân hỏi Quỳnh: - Cháu ở đâu về? Lập gia đình được mấy đứa con rồi? Nàng liếc sang Tân, hình như anh hồi hộp chờ câu trả lời của Quỳnh. - Thưa Bác, con ở Canada về! Con chưa lập gia đình. Dạ thưa bác,
nãy giờ con quên hỏi thăm về vợ con anh Tân. Tân ngượng ngùng cúi đầu và mẹ Tân cười! Niềm vui trong ánh mắt: - Bác đã tám mươi tuổi rồi! Thèm cháu nội lắm. Thằng Tân nhiều lần
tâm sự với bác, thân nó tật nguyền và suốt đời nói chỉ thương mỗi mình con
thôi! Có mấy mối được lắm, nết na có học, nhưng nó đều từ chối. Mỗi chiều bán
vé số về tắm rửa cơm nước xong, nó nằm trên võng mắt nhìn lên tấm ảnh nó và con
chụp chung chưng trên bàn viết đó! Tay đàn, miệng hát tới khuya. Lần nào bác
cũng nghe nó hát bản...Em lây cu...lây cưa...gì đó. Nó hát bản đó hoài sao
không chán. Nó nói bản nhạc đó là cuộc đời nó. - Nghe xong, Quỳnh buông đũa, ngưng ăn! Nắm chặt tay Tân và Quỳnh
quay mặt đi để dấu dòng nước mắt tuôn trào. Hồi lâu, nén xúc động, nghẹn ngào
Quỳnh hỏi: - Anh thương em nhiều đến thế sao Tân? Tân xoa xoa vai Quỳnh giọng như muốn khóc: - Quỳnh! Em có biết tình yêu và hình bóng em đã nuôi sống cuộc đời
tật nguyền của anh. Hai người dìu nhau ra ngồi trên băng đá trước hiên nhà.
Gió đi lào xào trên tàng cây vú sữa xum xuê trước ngõ, với giọng xúc động, Tân
kể lại diễn biến cuộc hành quân sang Lào… và đơn vị Tân bị tràn ngập bởi thiết
giáp đối phương, Tân bị đạn đại liên tiện đi mất chân trái! Tân bị bắt làm tù
binh, và bị giam cầm 13 năm tại các tỉnh thượng du Bắc Việt, mười ba năm đầy
nghiệt ngã, cách biệt với thế giới bên ngoài! Năm 1985 họ thả anh, về đây sống với đời buồn tủi tật nguyền,
hằng ngày anh đi bán vé số! Hai mẹ con sống cuộc đời cháo rau túng thiếu trong
căn nhà kỉ niệm của ba anh, người sĩ quan dù đã chết trong trận Điện Biên Phủ. Quỳnh cũng kể cho Tân nghe! Từ năm 1972 sau nhiều lần hỏi thăm,
kiếm tìm, đơn vị cho biết Tân đã mất tích. Tháng 4 năm 1975 gia đình nàng di tản và định cư tại Canada; cha
mẹ nàng đã qua đời! Nàng làm việc ở một bệnh viện, em trai nàng đỗ bác sĩ đã lập
gia đình được hai con. Riêng Quỳnh vẫn ở vậy. Em nghĩ rằng anh đã chết và em sẽ sống với
hình bóng anh suốt cuộc đời này. Bây giờ đang ngồi bên anh em cứ nghĩ mình nằm
mơ. Tân cúi xuống, vén tóc Quỳnh, hai người hôn nhau say đắm! Một nụ
hôn của ba mươi năm và dài bằng nửa vòng trái đất. Buông nhau ra, Quỳnh nũng nịu: - Em muốn anh đàn và hát cho em nghe. Tân gật đầu và Quỳnh vào nhà mang đàn ra. Dáng hao gầy, gương mặt
nhiều nét kỷ hà học, dạo phiếm và Tân cất tiếng hát! Lời bài hát của một thi sĩ
té lầu chết trong một cơn say và Phạm Duy phổ nhạc: “Phố núi cao phố núi đầy sương Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn Anh khách lạ đi lên đi xuống May mà có em, đời còn dễ thương...” Tân có ngón đàn thật điêu luyện! Giọng hát khàn đục chất
ngất nỗi niềm, xoáy tận vào tim Quỳnh; xuôi về thành phố núi của những cô gái
má đỏ môi hồng, mái tóc ướt mềm! Thành phố đi năm phút đã về chốn cũ và trong
khách sạn Bồng Lai, trên chiếc giường ra trắng muốt, nàng đã trao thân cho Tân
trong một đêm mưa kéo dài. Trời thật khuya! Trăng thượng tuần sáng vằng vặc. Quỳnh
theo Tân vào phòng! Chiếc giường ngủ trải chiếu bông! Quỳnh ngất ngây trong
vòng tay Tân! Mùi đàn ông, mùi nếp non rạ mới đã làm Quỳnh phiêu diêu trong
hoan lạc tột cùng. Rõ ràng “đêm nay mới thật là đêm - ai đem trăng sáng trải
lên vườn chè”. Suốt ba tuần lễ ở nhà Tân! Quỳnh và mẹ Tân đi sắm đồ trang
trí lại nhà cửa theo sự yêu cầu nhiều lần của Quỳnh. Quỳnh thuê một chiếc xe du
lịch đưa mẹ, Tân và Quỳnh ngắm cảnh Ao Bà Ôm, Tân chỉ cho Quỳnh nơi chú Đạt hôn
cháu Diễm trong phim Yêu của Chu Tử do tài tử Anh Ngọc và Thanh Lan đóng. Những
hàng cổ thụ, rễ nhô cao trên mặt đất! Mặt hồ gió mát! Phong cảnh tuyệt vời. Ba
người cũng đi ngắm biển Long Toàn với những đồi cát chập chùng và những bữa ăn
cua luộc ngon nhớ đời. Bên Quỳnh, Tân như trẻ lại! ăn nói hào sảng như ngày nào khoác
áo hoa rừng và đội chiếc mũ nâu. Khỏi phải nói! Mẹ Tân thương Quỳnh qua cách đối xử phải đạo
của nàng! Nhiều lần bà cảm ơn Quỳnh đã mang về đây niềm vui, hạnh phúc cho Tân!
Đứa con trai duy nhất và cũng là tài sản của đời bà. Riêng Quỳnh, sau nhiều đêm ngỏ lời! Trước khi chấp nhận,
Tân hỏi Quỳnh suy nghĩ kỹ chưa khi chọn một người tật nguyền làm chồng. Quỳnh chọn căn nhà cũ kỹ! Có giếng nước mát lạnh, tàng cây
vú sữa cho bóng mát suốt ngày, làm nơi cư trú suốt đời bên tình yêu nồng nàn của
Tân. Quỳnh cùng Tân dạo phố! Không một mặc cảm ngại ngùng nào
“bên người yêu tật nguyền chai đá”. Trái lại, Quỳnh còn thầm hãnh diện có người
chồng đã hy sinh một phần thân thể cho quê hương đất nước. Trước khi Quỳnh trở lại Canada, gia đình Tân tổ chức một bữa
tiệc, mời một ít bà con và một số hàng xóm cạnh nhà để tuyên bố lễ cưới giữa
Tân và Quỳnh. Mọi người đều cảm động trước mối tình nồng thắm, cách chia gần ba
mươi năm của hai người. Trong tiệc cưới, mẹ Tân đã không cầm được nước mắt khi
nhìn thấy hạnh phúc của con trai mình. Ba tháng sau, trên chuyến bay Cathay Pacific Airline, Quỳnh
đã thu xếp mọi việc ổn thỏa để trở về sống suốt đời ở Việt Nam bên cạnh Tân -
chồng nàng. Khách cùng chuyến bay ngưỡng mộ nhìn Quỳnh, tay xách túi nhỏ và
vai mang một hộp da như đựng nhạc khí kèn đồng. Trong quầy khám hành lý! Nhân viên hải quan hách dịch hỏi nàng: - Sao không thấy bà kê khai hộp da bà mang trên vai. Chúng tôi
được lệnh khám xét. Quỳnh mở dây kéo! Mọi người đều ồ!!! lên một tiếng, ngạc nhiên
bên trong lót lớp nỉ đỏ! Không có thứ nhạc cụ nào cả mà là một cái chân giả tuyệt
đẹp. - Bà mang chân giả này về cho ai? Nguyên do nào người này bị tật?
Viên hải quan gắt gỏng. Quỳnh trả lời một cách bình tĩnh: - Nếu ở phi trường nước khác, tôi sẽ từ chối trả lời câu hỏi
này. Nhưng ở đây tôi xin trả lời ông: Tôi mang chân giả này về cho chồng tôi!
Anh bị thương trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở chiến trường Hạ Lào. Sau một lúc bàn thảo! Hải quan đồng ý cho Quỳnh đi. Đẩy xe
hành lý bước nhanh một đỗi, Quỳnh còn nghe rõ câu nói hằn học lớn tiếng sau
lưng: - Mẹ nó! Mấy thằng thương binh ngụy bây giờ có giá dữ ha!!! Quỳnh mỉm cười bước nhanh khi nhìn thấy Tân và mẹ vẫy tay chào
nàng ngoài khung của kính bên kia đường./. Tường Lam
|
||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
IP Logged | ||||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22681 |
Gởi ngày: 26/Sep/2022 lúc 5:42am | |||
Không chỉ là một giấc chiêm baoMùa hè Bắc Âu khá đẹp, đầu tháng sáu trời về đêm vẫn còn se lạnh. Cái lạnh tựa như Đà Lạt ngày nào, thường gây chút xao xuyến, nhớ nhung nhưng cũng dễ đưa người ta vào giấc ngủ. Tôi có thói quen đi ngủ muộn và ngủ khá ngon giấc, ít khi mộng mị, vậy mà khuya hôm nay tôi có một giấc mơ khá dài. Không nhớ dài bao lâu, nhưng nó gói ghém gần cả đời lính của mình, với đủ những khuôn mặt đồng đội, huynh đệ suốt một thời trận mạc. Tôi cũng không giật mình tỉnh mộng như các lần chiêm bao trước. Giấc mơ kết thúc yên ả như tôi vừa xem xong một cuốn phim tình cảm với buồn vui lẫn lộn. Thức dậy, nằm trằn trọc, mơ màng giữa mộng và thực rồi miên man hồi tưởng cả một thời quá khứ, dù hiểm nguy gian khổ, nhưng lại là quãng đời đẹp đẽ nhất của riêng mình.Người đã bất chợt bước vào giấc mơ và mang theo cho tôi cả một thời quá khứ ấy là Đặng Trung Đức. Anh đã tử trận tại khu vực Ngô Trang, phía Bắc thành phố Kontum trong trận chiến mùa Hè 1972, Cả một đời binh nghiệp của tôi gần như gắn liền với anh Đức, luôn theo phía sau anh để thay thế các chức vụ của anh giao lại. Khi mãn khóa 18 Thủ Đức, tôi được bổ nhậm về trình diện đơn vị thì gặp anh, và hai anh em ở cùng đại đội. Đức tốt nghiệp Khóa 19 Võ Bị Đà Lạt, ra trường về đơn vị trước tôi khoảng 5 tháng. Anh làm Trung đội trưởng Trung đội 1 còn tôi, Trung đội trưởng Trung đội 3. Đại đội trưởng lúc ấy là một anh trung úy, niên trưởng Khóa 16 Võ Bị của Đức, rất đa tài và yêu thương em út. Sau đó, Đức lên làm đại đội trưởng, tôi làm đại đội phó cho anh. Một thời gian sau, anh được điều động về làm Trưởng ban 3 tiểu đoàn, tôi lên thay anh, rồi sau đó lại thay anh một lần nữa, trong chức vụ Ban 3 tiểu đoàn để anh về làm Trưởng ban 3 trung đoàn. Và có một thời gian khá dài hai anh em cùng làm việc tại Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn, khi tôi về đảm trách một ban khác. Đầu năm 1971, khi anh ra nắm tiểu đoàn, tôi lại có thời gian thay anh ở chức vụ Ban 3 Trung Đoàn. Chúng tôi cùng một đơn vị từ lúc mới ra trường, luôn sống gần nhau cho tới khi anh hy sinh. Rất thân tình, xem nhau như anh em, mặc dù anh cũng trạc tuổi tôi. Trong giấc mơ, Đức đến thăm tôi trên một đỉnh đồi, nơi đơn vị đóng quân. Mặc quân phục, tay cầm khẩu M-18, nhưng không mang cấp bậc. Vẫn trẻ trung hào khí, nhưng không còn cái vui vẻ, dí dỏm ngày nào. Nét mặt đượm buồn. Đức hỏi thăm tôi từng người, những anh em cùng đơn vị cũ. Có điều lạ là không thấy anh nhắc những người đã mất. Khi tôi hỏi về anh Võ Anh Tài, các bạn Trần Công Lâm, Đỗ Bê, Dương Đình Chính, Đức bảo là họ cùng đang chiến đấu với anh. Nhưng những người bạn này, cũng là những tiểu đoàn trưởng, đã chết tại chiến trường Kontum, trước và sau ngày Đức hy sinh. Trong giấc mơ, tôi cũng mơ hồ là Đức đã qua đời từ lâu rồi, nên e dè hỏi, nhưng Đức bảo anh vẫn còn sống và luôn ở bên cạnh bạn bè đồng đội đây thôi. Đức tâm sự thật nhiều, kể cả chuyện riêng, chuyện gia đình lẫn chuyện nhà binh, đơn vị. Tôi cũng kể lẫn lộn chuyện tù đày, vượt biên, từng khốn cùng sống chết, cứ như từ kiếp trước. Đức cũng không thắc mắc, nắm tay tôi sụt sùi. Khác hẳn với những giấc chiêm bao khác, thường thì tôi giật mình tỉnh giấc, nhưng hôm nay, khi Đức chia tay từ giã, bước xuống triền đồi, tôi vẫn nhìn theo cho tới khi hình bóng anh biến mất sau một đám cây bên tảng đá… Tỉnh giấc, tôi vẫn nằm yên, như để cố níu giữ giấc mơ và nhất là hình bóng của Đức. Đã từ khá lâu rồi, thỉnh thoảng tôi có thoáng hình dung tới Đức, đặc biệt mỗi khi nhắc lại chuyện cũ với anh em cùng đơn vị, nhưng hôm nay, bất ngờ tôi đã “gặp” lại anh và ngồi bên nhau rất lâu, cho tôi cái cảm giác là anh vẫn còn sống ở đâu đó, bất chợt tìm tới thăm mình. Tôi vẫn cứ nằm khá lâu trên giường, nhắm mắt nghĩ tới Đức, nhớ lại tất cả những gì biết về anh, hình dung từng cử chỉ của anh. Một hành động như là không để cho anh thực sự biến mất. Đức sinh ra ở Đà Nẵng. Cha anh là người Quảng Nam, nhưng anh không hề có trong tâm trí hình ảnh của ông, vì khi anh mới lên ba thì ông đã (biến) mất. Mẹ là người Huế. Anh lớn lên trong vòng tay của mẹ. Bà khổ sở tảo tần để nuôi anh ăn học. Người mẹ cô đơn, nhỏ nhắn, nghèo khó ấy lại là cái bóng chở che anh cả một quãng đời cho đến khi anh vào lính. Cũng chính cái nghèo khó ấy mà cuộc hôn nhân của anh đã gặp rất nhiều khó khăn trắc trở, bởi người yêu (sau này là vợ anh) là thứ nữ của một gia đình thế giá, giàu có thuộc hoàng tộc triều Nguyễn. Cuộc hôn nhân tưởng đã không thành, nếu không có sự chở che hỗ trợ hết lòng của Kim Oanh, một cô bạn thân của hai người, sau này cũng là cô phù dâu và là người bạn thân thiết nhất của vợ chồng Đức. Đám cưới vội vàng, đơn giản diễn ra ngay sau ngày anh tốt nghiệp từ Trường Võ Bị. Với những đức tính từ khi còn là một Hướng Đạo Sinh đến khi được tôi luyện từ ngôi trường Võ Bị, Đức sớm tìm được thiện cảm và trở thành rể quý của gia đình vợ sau này. Nghe nói, khi biết tin Đức bị thương nhẹ mấy lần, ông bà nhạc lo lắng lắm. Do quen biết nhiều, ông bà có ý định lo cho Đức về nắm cái quận nào đó ở Bình Định. Ngày Đức mất, ông bà đã khóc hết nước mắt và nhận lo việc an táng Đức ở gần gia đình ông, trong thành phố Qui Nhơn. Đức được chôn cất ở Nghĩa trang Phật Giáo, Khu Gành Ráng, một vị trí khá đẹp, xa xa có mộ phần của nhà thơ Hàn Mặc Tử. Ông bà đưa chị Đức và hai con sang Pháp từ năm 1979, nhưng chị Đức mất sớm do một chứng bệnh nan y. Sau khi chị mất, ông bà quyết định ăn chay trường, tu tại gia và cũng mất khoảng hơn mười năm sau đó. Hai con của anh chị Đức, một trai một gái. Ngày Đức mất, cháu trai mới lên bốn và cháu gái chưa tròn một tuổi, chưa biết mặt cha. Hai cháu vẫn sống ở Pháp, thỉnh thoảng có liên lạc với chúng tôi để hỏi về người cha qua cố. Cô bạn thân, từng hết lòng giúp vợ chồng Đức trong cuộc hôn nhân, đang sống ở Houston, vẫn liên lạc thường xuyên với hai cháu như một bà mẹ đỡ đầu, và thỉnh thoảng về Việt Nam thăm và sửa sang mộ phần của Đức. Riêng bà cụ, mẹ của Đức cũng đã qui tiên sau vài năm được hai con của anh chị Đức bảo lãnh sang Pháp. Đặc biệt ông cụ thân sinh của Đức, không hề chết như anh đã nghĩ. Ông bỏ gia đình theo Việt Minh từ thời Cách Mạng Mùa Thu, rồi ở lại miền Bắc lập gia đình khác. Năm 1976, ông về Nam, sau khi đã “phục viên”, có gặp lại mẹ cùng vợ con của Đức và đến thắp hương trên mộ Đức. Không hiểu khi ấy ông nghĩ gì khi đứa con trai mà ông đành lòng bỏ rơi từ tấm bé để theo đuổi một lý tưởng huyễn hoặc, đã bị giết bởi bàn tay các đồng chí của chính ông. Ông cũng đã qua đời không lâu sau đó. Tôi lập gia đình sau Đức khoảng hai năm. Và gần như suốt thời gian tôi quen biết với bà xã tôi, Đức cũng thường ở bên cạnh chúng tôi, nên càng gần gũi thân tình. Sau này, vợ con tôi vẫn luôn ở cạnh vợ con Đức, từ những lúc còn phải đi thuê cho đến khi được cấp nhà trong khu cư xá sĩ quan. Chúng tôi thân thiết chẳng khác anh em trong nhà. Tính tình của Đức rất thẳng thắn, nhưng luôn vui vẻ, thân thiện giúp đỡ mọi người. Trong đơn vị, từ cấp chỉ huy đến thuộc cấp ai cũng quí mến. Hai ngày trước khi Đức hy sinh, khi tiểu đoàn anh tạm nghỉ quân hai bên Quộc Lộ 14 và tình hình tương đối yên tĩnh, tôi bay theo chiếc C&C mang cho anh mấy thùng lựu đạn, 20 khẩu M-72 theo yêu cầu của anh, và đặc biệt là một phóng đồ hành quân để đơn vị anh chuyển sang vùng hoạt động mới. Anh vào một tần số riêng, căn dặn tôi và cả anh phi công bay thật thấp và theo hướng chỉ dẫn của anh để tránh đạn phòng không của địch. Tôi bảo có mang quà riêng cho anh (một chai rượu lễ của vị linh mục người Pháp biếu tôi khi đến thăm ông ở Tòa Giám Mục Kontum, nơi đơn vị tôi đã giải tỏa hơn một tháng trước đó). Khi trực thăng vừa đáp xuống, anh chạy đến chỉ để kịp bắt tay tôi, nhận bản phóng đồ và chai rượu. Không ngờ đó là lần cuối cùng chúng tôi còn nhìn thấy nhau, trong vội vã. Trước đó, là cái chết đau đớn của anh Võ Anh Tài, niên trưởng Khóa 16 Võ Bị của Đức, người cùng quê với vợ tôi, và trong cư xá anh chị ở giữa nhà chúng tôi và anh chị Đức, nên cũng khá thân tình. Anh bị mìn, mất cả hai chân khi cùng tiểu đoàn vượt qua hàng rào phòng thủ để tái chiếm khu Bệnh Viện 2 Dã Chiến. Sau anh Đức, thêm một người bạn thân thiết của tôi cũng hy sinh. Trần Công Lâm, thằng bạn cùng khóa Thủ Đức, cùng trung đội sinh viên sĩ quan, nó nằm giường trên, tôi giường dưới, mãn khóa rủ nhau cùng về một đơn vị. Trước khi nắm tiểu đoàn, Lâm là đại đội trưởng Trinh Sát nổi tiếng cả Quân Đoàn. Sau ngày anh Đức và Lâm mất, hầu hết những sĩ quan cũ cũng đều bị thương hay thuyên chuyển đi đơn vị mới, tôi có cảm giác thật buồn và khá cô đơn. Đơn vị chúng tôi đã viết thêm một trang sử oai hùng cho QLVNCH khi tạo những chiến thắng lẫy lừng để giữ vững Kontum trong suốt Mùa Hè Đỏ Lửa và những năm gay go sau đó, nhưng cũng đã phải trả một cái giá không hề nhỏ khi nhiều đồng đội, bạn bè thân thiết của tôi đã nằm xuống ở chiến trường. Đã quá mệt mỏi, cùng với sự thiếu hụt vũ khí, đạn dược, do bị cắt giảm tối đa từ phía người bạn lớn đồng minh bội phản, kèm theo sự kém tài thiếu đức của một vài vị tư lệnh, đã đưa đến việc thất thủ nhanh chóng Ban Mê Thuột, tan hàng bi thảm trên Tỉnh Lộ 7 B để rồi kết thúc một cách đớn đau tức tưởi cho cả một Quân Lực hùng mạnh và nền Cộng Hòa tự do nhân bản, chỉ đúng 50 ngày sau đó! Đơn vị tôi cũng đã tan tác theo cùng vận nước. Như nhạn lạc bầy giữa cơn dông bão, kẻ bị bắt hay chết bỏ thây trên đường hành quân “triệt thoái”, người bị giam cầm khốn cùng trong các trại tù giữa rừng thiêng nước độc. Trong một vài trại tù xa xôi tận núi rừng Việt Bắc, tôi may mắn được gặp lại vài anh em, trong cảnh sa cơ vẫn giữ trọn tình huynh đệ. Người nào may mắn có vợ con còn bươn chải làm ăn, thường được thăm nuôi, chia sẻ đùm bọc những đứa kém may mắn. Khi ấy, cha tôi bị chết trong một trại tù khác trong Nam, vợ con nheo nhóc, nên được chị vợ một anh bạn cùng đơn vị, mỗi khi thăm chồng thì thăm cả tôi với quà cáp tiền bạc như nhau, giúp tôi lấy lại sức lực sau những lần bị bệnh kiết lỵ, đứng không vững. Tình cảm ấy thực sự đã làm tôi xúc động. Ra hải ngoại, tìm gặp thăm nhau. Thỉnh thoảng, nhân các ngày nghỉ lễ, hoặc có dịp con cháu làm đám cưới, bọn tôi hú nhau kéo về họp mặt, tổ chức thắp hương tưởng niệm các đồng đội đã ra đi, góp tay giúp đỡ những anh em bị thương tật hay sống khốn khổ ở quê nhà. Nhưng rồi những cuộc hẹn cũng thưa dần, bởi tuổi tác ngày thêm lớn. Đa phần đều trên dưới 80. Một số bị bệnh hoạn hay ra đi sớm. Chỉ thỉnh thoảng hỏi thăm nhau qua điện thoại, nhưng hiếm khi còn nghe được tiếng cười, bởi cái buồn nó vẫn còn mênh mang đâu đó. Cũng có bất đồng giữa vài người bởi không cùng một cái nhìn, đặc biệt về chuyện chính trị tại Hoa Kỳ, từ khi có ông D. Trump xuất hiện cùng các sự kiện MAGA và BLM, nhưng anh em nhắc bảo nhau rồi đâu cũng vào đấy. Cũng may, những người từng sống chết bên nhau vẫn còn trọng cái tình! Có thằng bạn cùng đơn vị và cũng cùng Khóa 18 Thủ Đức với tôi và Trần Công Lâm, từng làm tiểu đoàn trưởng, một thời đánh đấm ở Kontum. Trong lúc còn trong tù thì ở nhà vợ treo cổ quyên sinh. Sang Mỹ, muốn quên đời nên đem hết tâm trí, thì giờ vào việc học, có Master Of Psychology. Thành đạt nhưng vẫn buồn đời, thường than vãn, “tao tiếc là đã không được chết tại chiến trường như anh Tài, như anh Đức, như Lâm.” Một hôm, nói dối gia đình đi thuê khách sạn rồi ở đó bắn vào đầu tự vẫn, sau khi bình tĩnh ngồi viết mấy lá thư để lại cho bạn bè, bảo “đi trước để mở đường và chuẩn bị bãi đáp cho anh em.” Đọc thư của nó do Cảnh sát trao lại, bọn tôi lặng người nhưng không khóc được. Có lẽ chẳng ai còn nước mắt. Sau đúng năm mươi năm dâu biển, Đức đã từ một cõi xa xăm nào đó theo giấc mơ về ghé thăm tôi. Nửa thế kỷ có thể không dài hay ngắn lắm tùy theo quan niệm nhân sinh của mỗi con người, nhưng trong quãng thời gian ấy thế hệ chúng tôi lại có quá nhiều đổi thay, thăng trầm và mất mát. Vinh nhục đã trải, đớn đau cũng đã có lúc cùng cực. Nhưng có lẽ không có cái đau đớn tủi nhục nào hơn là sự bất lực trước món nợ máu xương của đồng đội bạn bè, nợ lời thề ngày nào đã từng quỳ gối đưa tay dõng dạc hô to trên vũ đình trường giữa hồn thiêng sông núi. Với những thân tình thiết tha ngày cũ tuy có đượm buồn trong ánh mắt, tôi nghĩ là Đức không hề trách tôi. Nhưng khi anh bước ra khỏi giấc mơ, tôi vẫn có cảm giác xấu hổ, như còn mắc nợ anh điều gì không trả được. Cũng như cái chết oan khuất của cha tôi trong trại tù Đá Bàn vào tháng 6 năm 1976, khi đã gần tuổi 70, để mỗi lần thắp hương trước bàn thờ trong ngày giỗ ông, tôi không giấu được nghẹn ngào. Thấy mình hèn mọn, tệ bạc quá, và ngượng ngùng khi nhớ tới những lời to lớn từng hô hào trước mặt bè bạn, vợ con ngày nào khi bước chân xuống thuyền bỏ nước ra đi. Nước mắt bỗng trào ra. Vết thương cũ trong lòng dường như vừa mới nhói đau trở lại. Tôi ngồi dậy, lau nước mắt, viết vội những dòng này, không phải để giãi bày với Đặng Trung Đức mà để tự xoa dịu, chữa thẹn cho chính mình. Tôi bỗng nhớ tới bài thơ của thi sĩ Cao Tần đã viết từ những ngày thật xa xưa, tháng 3 năm 1977, với cái tựa và cũng là câu kết mà tôi rất tâm đắc, cho dù có chút xót xa: “Ta làm gì cho hết nửa đời sau?”(*) Bắc Âu, 6.6. 2022 Phạm Tín An NinhChỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 26/Sep/2022 lúc 5:44am |
||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
IP Logged | ||||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22681 |
Gởi ngày: 26/Sep/2022 lúc 1:33pm | |||
|
||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
IP Logged | ||||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22681 |
Gởi ngày: 30/Sep/2022 lúc 3:10pm | |||
Linh Tử - Vũ Thanh Hoa <<<<< |
||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
IP Logged | ||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 05/Oct/2022 lúc 12:36pm | |||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||||
IP Logged | ||||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22681 |
Gởi ngày: 06/Oct/2022 lúc 9:00am | |||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
IP Logged | ||||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22681 |
Gởi ngày: 10/Oct/2022 lúc 8:59pm | |||
Ông già đạp xích lô
Đó là dịp tết năm 1995. Lần đầu tiên tôi về thăm quê hương.
Người đàn ông đạp xích lô, gầy guộc và khắc khổ. Nhìn ông già hơn tuổi. Có lẽ cuộc sống đầy khó khăn, nên sự lo âu, buồn buồn, hiện rõ trên nét mặt của ông.
Lúc đó, cũng có dăm ba người mời tôi đi xe của họ. Nhìn qua nhìn lại, tôi chọn đi xe của ông. Tôi nghĩ, ông già yếu hơn mấy anh kia, nên có thể ông ít được khách mời ông đi. Tôi muốn ông có thêm thu nhập, nên đồng ý lời mời của ông.
Hôm đó tôi bao xe đi nguyên ngày, đi vòng quanh Vũng Tàu, ngắm lại phong cảnh quê hương, sau 5 năm xa cách.
Khi biết ý muốn của tôi, ông mừng vui lắm. Nét mặt rạng rỡ hẳn ra. Trước khi lên xe, tôi nghe mấy anh kia còn nói. Trúng mánh nhe ông già. Gặp Việt kiều là ngon rồi.
Ông đạp xe chở tôi đi. Hai ông cháu nói chuyện rất thân thiện. Qua câu chuyện, tôi biết ông đi tù cải tạo về. Trải qua bao tháng ngày cực khổ trong chốn lao tù, hình như sức lực của ông cũng hao mòn, yếu dần đi. Cuộc sống vốn dĩ khó khăn, nay về nuôi thêm mẹ già, nên càng khó khăn hơn. Khi biết tôi qua Mỹ theo diện HO, ông trầm ngâm:
– Bác giờ cũng đã già. Với lại đang nuôi mẹ già. Giờ bác đi cũng được. Nhưng mẹ bác để cho ai coi đây. Bao nhiêu năm đi tù xa cách mẹ già, giờ bỏ đi nữa thì mang tội bất hiếu.
Rồi bác nói không biết bây giờ qua Mỹ bác sẽ làm gì. Bạn bè của bác đã đi gần hết. Họ nói họ đi vì tương lai của con cháu. Chứ bác đâu còn gia đình gì đâu nữa mà đi. Tôi hỏi bác vậy vợ con của bác đâu rồi. Bác im lặng một hồi. Tôi quay lại, ngước mắt lên nhìn bác. Bác vẫn đạp xe, nhưng hình như bác buồn lắm. Mắt bác đỏ hoe. Như đoán được chuyện gì, tôi chỉ im lặng nhìn theo hướng phía trước. Chừng 5 phút sau, bác mới nói được:
– Bác có 3 đứa con. Chúng nó đi vượt biên, khi bác còn ở trong tù. – Giờ mấy anh chị đang ở nước nào hả bác.
Bác lại im lặng…một hồi…rồi nói tiếp. – Chuyến đi đó mất tích luôn. Không một ai có tin tức gì hết.
Tôi lặng điếng người. Thật không ngờ, kiếp người sao khổ vậy trời. Tôi cũng khổ nhiều, nhưng so với ông, nỗi khổ kia chẳng thấm vào đâu. Lòng tôi cảm thấy thương bác nhiều hơn. Không biết là tình thương đồng loại, hay thương vì tội nghiệp cho những bất hạnh của ông. – Vậy bác gái đâu rồi bác. – Ngày xưa thời VNCH, một mình bác làm nuôi cả nhà. Sau năm 1975 bác bị đi tù, bác gái phải tần tảo mà cũng không nuôi nổi mấy đứa con. Rồi có người giúp đỡ…
Nói đến đó bác không nói nữa. Tự nhiên tôi thấy mình hơi tàn nhẫn khi vô tình khơi lại vết thương đau của bác.
Bác chở tôi đi về từ theo đường bãi Dâu, bãi Dứa. Con đường này, cách đây 20 năm, vẫn một bên là núi, một bên là vực sâu của biển. Có đoạn lên dốc, có đoạn xuống dốc rất khó đi. Nhưng vì muốn tôi ngắm cảnh đẹp của đất trời, mênh mông của biển cả, bác chọn hướng đi này. Những đoạn lên dốc, tôi nhảy xuống, vì sợ bác mệt đuối sức, nhưng ông nhất định ko chịu. Bác thấy chân tôi bị yếu đi cà quẹo, bác càng không để tôi bước xuống. Chỗ nào bác đạp không nổi, bác nhảy xuống đẩy hay kéo xe. Thật lòng những lúc đó, tôi cảm thấy khó chịu quá trời.
Thế rồi chuyện đời cũng lắm cái ngờ. Trong khi đang xuống dốc, chiếc xe chạy nhanh hơn, rồi nhanh hơn nữa, hơn nữa. Tôi nghe bác hốt hoảng la lên. – Chết rồi, thắng xe bị tuôn.
Xe càng chạy nhanh hơn. Tôi quá sợ hãi. Trong đầu lúc đó, tôi chỉ nghĩ mình sẽ bị lao xuống vực sâu. Bác vội nhảy xuống, dùng hết sức lực kéo chiếc xe lại, nhưng chiếc xe chỉ khựng lại tí xíu rồi vẫn chạy nhanh. Tôi nhắm mắt lại và nghĩ đến Gia đình. Cũng lúc đó, một tiếng đùng vang lên. Cả xe và tôi ngã nghiêng về vách núi và dừng lại.
Sau khi bình tĩnh trở lại, tôi thấy bác máu ra nhiều ở 2 bàn chân. Vì khi bác cố gắng kéo chiếc xe lại. Sức mạnh của chiếc xe đã kéo đôi chân của bác chà xát trên mặt đường, và bây giờ nhìn vào đôi chân ấy, chỉ thấy toàn là máu. Trong lúc xảy ra tình huống giữa chết và sống, bác lanh trí bẻ tay lái cho xe tông vào núi. Dù có bị gì đi nữa, còn hơn rơi xuống vực sâu.
Về đến nhà, bác không lấy tiền xe vì tai nạn xảy ra. Bác tha thiết năn nỉ tôi đừng bắt đền cái máy chụp hình, vì bác không có tiền. Thật sự lúc đó tôi thấy bác thật tội nghiệp và đáng thương. Tôi nói bác đừng lo gì cả, rồi tôi tặng cho bác 100 đô. Bác ngỡ ngàng nói đây là tờ 100 đô chứ không phải tờ 10 đô. Tôi nói tôi biết. Bác nói như vui mừng lắm. – Con cho bác 2 chỉ vàng hả con.
Đáng lý ra tôi không nên kể chuyện tặng bác tiền. Nhưng tôi nghĩ, nếu như những ai trong trường hợp của tôi lúc đó, tôi tin cũng đều làm như vậy.
Trước khi chia tay, tôi đã ôm bác thật lâu. Lúc đó tôi vẫn còn nhớ là có mùi khen khét từ làn da cháy nắng của bác.
Sau này tôi có dịp về thăm quê hương và có hỏi thăm bác. Người ta nói bác đã đi Mỹ theo diện HO rồi.
Chứng Đặng |
||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
IP Logged | ||||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22681 |
Gởi ngày: 14/Oct/2022 lúc 3:47pm | |||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
IP Logged | ||||
<< phần trước Trang of 98 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |