Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Tâm Tình | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình |
Chủ đề: ĐỜI SỐNG GIA DÌNH | |
<< phần trước Trang of 126 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22317 |
Gởi ngày: 01/Apr/2021 lúc 10:20am |
O LỰU
Và thật sung sướng khi đi học về đã thấy o Lựu trong nhà bếp. Hương Thủy |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22317 |
Gởi ngày: 03/Apr/2021 lúc 9:16am |
Tháng Ba, anh về…hôm nay sinh nhật, tại sao buồn?
thủa vào đời, thật dễ thương… một trưa 29 tháng Ba năm bẩy mốt vòng khói lửa, anh đi chiến hữu nhớ thương, duyên * Chiều Mệnh Danh Tổ Quốc, Nguyễn Tất Nhiên. (1941-1971), Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 03/Apr/2021 lúc 9:20am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22317 |
Gởi ngày: 05/Apr/2021 lúc 8:36am |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22317 |
Gởi ngày: 06/Apr/2021 lúc 9:26am |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22317 |
Gởi ngày: 08/Apr/2021 lúc 8:28am |
Đám Cưới Ngày Xưa‘Ngày xưa’ ở đây là thời tôi còn nhỏ – những năm
1935/40 – Tôi muốn kể lại một cái đám cưới ở quê tôi thời đó, để thấy hình ảnh
thật thà dễ thương của Việt Nam hồi chưa bị… ô nhiễm chất ngoại lai ! Bên đàng trai là ông Cả làng Bình Trước. Vì ổng thứ bảy nên thiên hạ gọi là ông
Cả Bảy để tránh kêu tên.
Làng này nằm cách tỉnh lỵ mười lăm cây số
Bên đàng gái là ông Cả làng Thới An nằm ngay trong thị xã. Người ta gọi ổng là ông Cả Dừa, vì ổng có vựa buôn bán dừa khá lớn trong vùng.
Cũng là ‘Ông Cả’ hết, nhưng ông Cả Thới An vẫn oai hơn ông Cả Bình Trước nhờ
dựa hơi vào ‘tòa tỉnh’, còn ông Cả Bình Trước dầu không có tiếng nhưng lại có
miếng nhờ ruộng vườn màu mỡ minh mông trải dài. Như vậy cũng ‘môn đăng hộ đối’!
Chú rể là con trai thứ nhì của ông Cả Bảy. Cậu nầy – người nhà gọi là Cậu Ba –
học hết lớp nhứt rồi ở nhà làm ruộng. Cô dâu là con gái út của ông Cả Dừa, sau tiểu học có đi Sài Gòn học hai năm
trung học rồi về phụ người chị Hai bán vải trong chợ nhà lồng thị xã.
Ông mai là thầy giáo Kiến, nhờ là bà con của hai bên nên mọi sự đều được dễ
dàng… Tuy vậy, ổng cũng gặp chút khó khăn khi tính chuyện đám cưới! Nguyên do là ông Cả Dừa đòi đàng trai đến rước dâu ‘bằng một con heo đứng’ –
nghĩa là heo sống – Nghe như vậy, ông Cả Bảy nói: “Cũng đúng chớ! Tập tục ông
bà để lại làm sao thì mình cứ làm theo y chang như vậy mới là phải đạo!” Vậy là ổng ra lịnh cho người nhà đạp xe vô xóm truyền rao kiếm heo. Mà phải
‘heo lang’ – nghĩa là heo trắng – cỡ trộng trộng ‘kẻo không người ta cười
mình’.
Nghe tin, mấy chủ heo đem heo tới nhà cho ông Cả lựa. Người ở gần thì cột một
chân con heo, dẫn bộ đi ụt ịt. Người ở xa thì cột chùm bốn chân con heo rồi để lên bọt-ba-ga xe đạp chở đi. Sân nhà ông Cả coi giống như chợ heo với heo đứng heo nằm kêu la eng éc!
Chọn được con heo vừa ý, ông Cả giao trách nhiệm giữ heo cho thằng Đực là cháu
kêu ổng bằng chú, ổng nuôi trong nhà từ nhỏ. Ông Cả giải nghĩa: “Mầy lanh lợi nên tao giao con heo cho mầy chăm sóc. Từ đây
đến ngày rước dâu, mấy phải kè theo nó, nuôi vỗ cho nó tươi tắn mạnh dạn, bởi
vì nó là lễ vật dẫn đường đám rước dâu, mầy hiểu hôn?”
Sau đó, thằng Đực đạp xe xuống trại hòm mời bác Ba thợ mộc chở thùng đồ nghề
lên đóng cái cũi để ngày rước dâu khiêng con heo. Mặc dầu bác Ba chuyên đóng
hòm nhưng nhờ khéo tay và ‘có con mắt’ nên bác đóng cái cũi có song bằng gỗ tạp
coi cũng đặng và khi đẩy con heo vô đứng thử thấy cũng rộng rãi thoải mái.
Sáng sớm ngày rước dâu, thằng Đực tắm rửa con heo sạch sẽ, vừa lau khô ráo thì
thầy Chơn – đệ tử thầy Năm Vàng dưới chùa – cũng vừa đạp xe đến, theo lời nhắn
của ông Cả, mang theo cái mộc gỗ có chữ ‘Song Hỉ’ to bằng bàn tay và hộp son
tàu. Chắc thầy đã quen làm vụ này nên chỉ một thoáng là thầy đã đóng xong mấy dấu đỏ
lên mình con heo lang.
Trước khi trở về chùa, thầy dặn: “Đừng cho con heo nằm. Cứ giữ cho nó đứng
chừng nửa giờ là son khô hè!” Một lúc sau, thằng Đực lùa heo vô cũi, đóng sập cửa rồi cột lại bằng sợi kẽm
nhỏ. Xong, nó đi thay quần áo: quần trắng, khăn đóng áo dài đen chỉnh tề, bởi
vì nó sẽ phụ chú Tư Bộn – người gia nhân tin cẩn của ông Cả – khiêng con heo đi
đầu đám rước dâu!
Đám rước dâu đi bằng xe ngựa (hồi thời đó xe hơi rất hiếm). Cứ bốn người là
chung một cỗ xe, đàn ông theo đàn ông, đàn bà theo đàn bà. Chỉ có chú rể là
ngồi riêng một xe với khai trầu rượu và mấy mâm lễ vật.
Đặc biệt, xe chú rể được kết bông hoa có tua có tụi bằng vải đỏ và bằng bông
hoa tươi! Và đặc biệt là con ngựa nào cũng mang đầy lục lạc trên đầu trên cổ và
ở đỉnh đầu có một chùm lông chim màu sắc hực hỡ. Thành ra, khi ngựa lúc lắc đầu thì lục lạc khua leng keng và khi ngựa chạy thì
lục lạc kêu rổn rẻng nghe rất vui tai hào hứng!
Giờ rước dâu được ấn định là đúng ngọ nên ông Cả Bảy đã canh giờ để đoàn rước
dâu có đủ thời gian đi hết mười lăm cây số là đến cách nhà đàng gái độ hai mươi
thước ngừng lại cho bà con bước xuống xe sửa soạn.
Người lớn trẻ con mấy nhà nằm dọc theo đường chỗ đoàn xe ngựa đậu, kéo nhau ra
đứng coi, chỉ trỏ. Thấy chộn rộn, mấy con chó cũng chạy ra đường thi nhau sủa
rân! Trong lúc ông Cả và ông mai lăng xăng sắp xếp ai đứng sau ai đứng trước, thằng
Đực và chú Tư Bộn đã khiêng cái cũi con heo đặt xuống đường, chờ.
Đằng nhà đàng gái có mấy người chạy ra nhìn rồi chạy vô, sau đó một người chạy
ra châm điếu thuốc đốt dây pháo treo trên cành vú sữa de ra ngoài đường. Pháo nổ điếc tai. Bầy chó hè nhau sủa mấy tiếng rồi cụp đuôi chạy trốn! Con heo hết hồn, vừa kêu eng éc vừa nhảy lồng lộn làm bể tung cái cũi. Nó phóng
ra, chui ngang hàng rào bông bụp nhà bên cạnh, chạy tuốt vô phía sau. Thằng Đực và chú Tư Bộn la chói lói: “Con heo sẩy! Con heo sẩy!”
Mọi người nhốn nháo, cũng la theo inh ỏi! Mấy người đàn bà hết hồn vội vã trèo
lên xe ngồi lại như hồi mới tới! Mấy người đang đứng coi trước nhà cũng chạy vào rượt theo con heo. Đàn ông
trong đám rước dâu đều chạy ùa vô, vừa chạy vừa cột hai vạt áo dài lại cho khỏi
bị vướng víu.
Nghe vẳng ra từ phía vườn cây sau nhà ‘Nó đây! Nó đây nè!’… ‘Nó chạy qua sàn
nước!’… ‘Nó kia kìa!’… ‘Chụp! Chụp!’… ‘Nó đó! Nó đó!’… Mấy con chó trong nhà
chắc cũng rượt theo nên nghe sủa rân.
Rồi chắc có con chó bị ai đạp hay bị heo lấy mũi húc nên nghe kêu ẳng ẳng. Lại
nghe ‘Coi chừng nó chui qua nhà thầy Năm. Chận cái lỗ hàng rào lại! Chận lại!’…
‘Rồi! Rồi! Xáp vô! Xáp vô!’… Sau đó, chỉ còn nghe có tiếng con heo kêu eng éc như bị thọc huyết! Chó cũng
thôi sủa, người cũng thôi la.
Một lát, thấy thằng Đực và chú Tư Bộn khiêng tòn ten con heo nằm ngửa bằng một
đòn tre xỏ giữa bốn chân heo cột thành một chùm! Đi theo sau là những người
trong đám rước dâu, người nào người nấy quần áo xốc xếch lấm lem son đỏ và bùn
đất!
Ông Cả và ông mai soát lại tình hình để ‘tính tới’ thì thấy thiếu mất chàng rể! Mọi người hết hồn! Lại chạy trở vô khu vườn rược heo hồi nãy, vừa chạy vừa gọi
lớn ‘Cậu Ba ơi! Cậu Ba!’ Vườn cây trái nầy khá rộng nên nghe tiếng gọi túa ra
nhiều chỗ.
Bỗng nghe ‘Tui đây! Tui đây!’, rồi có người hỏi ‘Lạm gì trỏng vậy?’… ‘Tui kiếm
cái khăn đống’… ‘Kiếm ra chưa?’… ‘Chưa!’ Im lặng một lúc, rồi nghe ‘Đây nè!’… ‘Đâu vậy?’… ‘Trên nhánh cây mận nè!’…
‘Thôi! Đi ra! Lẹ đi! Kẻo Cả đợi!’
Thấy đám rước dâu ‘ tả tơi ’ quá nên bà già chủ nhà mời hết vô nhà ‘uống miếng
nước’ và để lau chùi quần áo mặt mày. Thằng Đực và chú Tư Bộn thì khiêng con heo trở vô tắm rửa cho nó bên cái giếng
nằm phía sau hè. Họ cũng không quên cho con heo uống nước bằng cái chậu sành để gần miệng giếng.
Trong khi đó, ông Cả nhờ bà chủ nhà cho người gọi ông thợ mộc hàng xóm qua sửa
lại cái cũi, cũng may chỉ sút đinh sơ sơ thôi! Xong xuôi, ông Cả mới hỏi bà chủ nhà: “Thím có biết ai ở gần đây có con dấu
Song Hỉ để đóng son tàu lên con heo không?” Bà già trả lời: “Dạ! Để tôi biểu thằng nhỏ ở nhà đạp xe qua chùa thỉnh thầy Ba
qua làm vụ nầy cho!
Vậy là độ nửa giờ sau, con heo lang mang dấu đỏ đứng yên ổn trong cũi và đám
rước dâu sắp xếp hàng ngủ chỉnh tề đợi ông mai đi ‘đánh tiếng’ cho đàng gái. Một lúc lâu thấy ổng trở lại mặt mày tiu nghỉu: “Họ nói quá giờ rồi, họ không
tiếp!” Mọi người đều lắc đẩu kêu Trời, chắc lưỡi liên hồi rồi bàn tán góp ý ồn
ào.
Ông Cả đá vô cái cũi làm con heo giật mình rống lên eng éc. Ổng hét: “Thôi! Im
hết! Đi dìa!” Một con chó đứng gần đó bỗng sủa mấy tiếng làm ông Cả nổi sùng, quay qua đá nó
một cái làm nó kêu ẳng ẳng cúp đuôi chạy thẳng vô nhà! Mọi người đều im re, kẻ trước người sau leo lên xe. Mấy anh đánh xe dẫn ngựa
quay đầu lại. Cử động của mấy con ngựa làm lục lạc khua vang. Ông Cả lại hét lớn: “Mẹ bà nó!
Tụi bây lột hết lục lạc cho tao! Vui vẻ gì nữa mà nhã nhạc rùm trời!”
Từ đây về Bình Trước, chỉ còn nghe tiếng móng ngựa gõ lóc cóc khô khan trên mặt
đường nhựa…
Vài ngày sau, ông mai chạy đi chạy về để dàn xếp hai bên. Cuối cùng rồi cũng êm thấm: lễ rước dâu được ấn định lại vào ngày mười sáu âm
lịch tháng tới, nhưng lần nầy đàng gái không đòi ‘heo đứng’ mà chỉ xin ‘một con
heo quay’, bởi vì ông Cả Dừa nhứt định phải có đốt pháo để ổng ăn mừng ngày vu
qui của cô con gái út!
Tiểu Tử |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22317 |
Gởi ngày: 09/Apr/2021 lúc 12:37pm |
Ân nghĩa vợ chồngNgười xưa so sánh vợ chồng như là đôi chim uyên ương, ở bên nhau trọn đời. Có câu tục ngữ: ‘Nhất nhật phu thê bách nhật ân, bách nhật phu thê tỉ hải thâm” (một ngày vợ chồng trăm ngày ân nghĩa, trăm ngày vợ chồng sâu hơn biển cả). Giữa vợ chồng với nhau không chỉ có ‘nghĩa’, mà còn là một chữ ‘ân’. Từ ngàn năm nay, có được bao đôi vợ chồng được như câu “phu xướng phụ tùy”, đồng cam cộng khổ, mãi mãi không xa lìa. Trong văn hóa truyền thống, vợ chồng không chỉ nên “tương kính như tân” (kính nhau như khách), mà còn phải biết ơn nhau, bởi vậy người xưa mới nói “ân ái phu thê” (ân nghĩa và tình nghĩa của vợ chồng ).
Đối với một cô gái mà nói, không ai quan tâm đến mình và yêu thương mình nhất bằng bố mẹ sinh ra. Nhưng khi cô gái đến tuổi kết hôn, cô chọn người mình yêu và lấy anh ta, đây chính là niềm tin tưởng lớn lao mà cô gái và cha mẹ cô dành cho chàng trai đó. Vì vậy, chàng trai nên biết nhớ ân tình đó, có trách nhiệm chăm sóc, bảo vệ cô gái, làm hết sức mình để người vợ hạnh phúc suốt đời, chính là đền đáp sự tin tưởng, gửi gắm của cô gái và gia đình họ. Người xưa nói: “Nữ đại vô phu thân vô chủ, nam đại vô thê tài vô chủ”. Ý là: người con gái lớn rồi mà không có chồng thì như thân thể không có chủ nhân, người con trai lớn rồi mà không có vợ thì tiền tài không có ai nắm giữ. Chàng trai chọn người thương cho mình, sau khi kết hôn để vợ quản lý tài sản trong gia đình. Nếu người chồng làm quan người vợ giúp chồng bảo quản con dấu, nên có câu nói rằng: “chưởng ấn phu nhân” tức là người vợ tay cầm ấn”.
Trong quá khứ, nếu một vị quan làm mất phong ấn, cả gia đình bị chặt đầu, tương đương với việc một người đàn ông trao sinh mạng của cả gia đình cho một người phụ nữ. Vì vậy, người vợ nên đối xử với cha mẹ chồng như cha mẹ ruột của mình, xem danh dự hay sự ô nhục của chồng là danh dự hay sự ô nhục của chính mình, toàn tâm toàn ý giúp chồng thành tựu để báo đáp ân nghĩa của chồng. Con người được chia thành nam và nữ, nam tả nữ hữu. Bên trái chữ「人」 “Nhân” là một nét cao lên bao trùm như đầu đội trời chân đạp đất vậy để che chở cho nét bên phải, mà nét bên phải là đạp đất nhưng không đội trời ,đội trời phải là người chồng. vì vậy chữ 夫 “Phu” chính là chữ 天 “Thiên” (trời) nhô đầu lên. Vậy nên sự thành công của người đàn ông phần nhiều là nhờ công lao trợ giúp của người vợ, cho nên mới có câu “phu xướng phụ tùy”.
Trong hôn nhân thiện duyên, nam nữ phải luôn luôn tỉnh táo, không vì tình yêu mà phóng túng dục vọng, không nên vì tình mà tự tư tự lợi, không vì tình mà mất ý chí, cần ôn hòa và thủ trung, tâm trong sáng ít dục vọng, nam cương nữ nhu, âm dương tương hợp, sinh con đẻ cái, thừa tự cơ nghiệp của tổ tiên, đi hết con đường mỹ mãn của kiếp nhân sinh. Nếu hôn nhân không thuận buồm xuôi gió, nam nữ phải tự hướng vào nội tâm để suy xét, không tranh đấu mà làm tổn hại nhau, không được vì sắc mà phản bội, không bỏ rơi nhau vì của cả vật chất, không vì gặp tai ương mà quay lưng, biết nhẫn nhục mà gánh vác trách nhiệm, tránh nóng giận, tránh xa ô uế, và chịu đựng gian khổ để tiêu nghiệp, mới có thể được đề cao trong ma sát tâm tính.
Người xưa nói: “Thân, không ai thân bằng anh em, gần, không ai gần bằng vợ chồng.” Người xưa coi trọng ân nghĩa vợ chồng, vì vậy không nên bạc đãi với người vợ đã đồng cam cộng khổ với mình từ thuở hàn vi, và nên cùng nhau đầu bạc răng long, trăm năm hảo hợp.
NTD _ Mạnh Hải |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22317 |
Gởi ngày: 12/Apr/2021 lúc 9:17am |
TRUYỆN NGẮN : BONG BÓNG PHẬP PHỒNG <<<<<THANHNAM | GIỌNG ĐỌC : ANH KHÔIChỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 12/Apr/2021 lúc 9:19am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22317 |
Gởi ngày: 13/Apr/2021 lúc 12:13pm |
Chưa đến 7 giờ sáng, bên trong Câu Lạc Bộ chỉ còn vài ba bàn trống. Giờ này có nhiều người ghé vào để ăn sáng hay uống cà phê trước khi đi làm việc. Câu Lạc Bộ gần bên Tiểu Khu, dành cho lính, nên hầu như chỉ thấy người mặc quân phục. Cũng có vài người có thể là quân nhân nhưng mặc thường phục, hay là thường dân đi kèm theo bạn bè hoặc thân quyến và ngồi cùng bàn bên màu áo trận. Nhìn quân phục, thấy áo quần thẳng nếp, đồng màu, đồng bộ; thì biết, đa số là quân nhân làm việc văn phòng. Không cần nhìn huy hiệu, cũng nhận ra ai là lính trận về tỉnh thành. Lính trận thì mặc áo và quần có màu mới cũ trộn lộn, bất cần, có gì mặc nấy. Tuy chỉ có hai bộ, nhưng ướt rồi khô liên miên, chẳng ai để tâm mà thay, giặt hay mặc cho đúng bộ. Áo hay quần, cái nào cần và khi được dừng quân lâu thì mới tìm chỗ có nước mà giặc giũ. Gọi là giặc giũ, thực ra chỉ nhúng áo hay quần xuống sông rạch cho ướt nước, rồi vò vắt cho trôi bớt bùn sình, thế là đã sạch rồi. Không thì, cởi máng đâu đó một lúc cho khô ráo, hay có ánh mặt trời nung đốt bớt mồ hôi rồi mặc lại. Không như lính ở hậu cứ hay làm việc văn phòng, quân phục thường được bỏ tiệm giặt ủi theo bộ, bộ nào ra bộ đó; áo quần có phai màu thì cũng cùng một màu như nhau, trông đẹp mắt hơn. Cái quần trận của lính hành quân vùng sình lầy thì khác lắm; tùy theo thâm niên quân vụ của nó, màu phèn thâm vàng một đoạn ngắn, rồi nhuộm thành màu nâu đỏ cao đến nửa ống quần. Áo trận thì vạt áo bên dưới lưng thường bị sờn rách lỗ chỗ, trước khi cỗ bị sờn rách; do loại giây nịt TAB cộm cứng và các vật trang bị đeo theo, chúng nó cạ móc vào vải theo mỗi bước chân... Gì thì gì, người lính tác chiến thấy bộ đồ trận của mình như thế, vẫn có nét đẹp riêng mà các bộ quân phục ủi hồ sắc cạnh không thể nào có được. Có việc về tỉnh, tôi thường ghé vào Câu Lạc Bộ. Ở đây có cà phê và món ăn ngon, giá rẻ cho lính, và ở gần bên Tiểu Khu. Sáng thường có món trứng chiên còn nguyên tròng đỏ, dân mình quen gọi là trứng “ốp-la” (Oeufs au plat), ăn kèm với ổ bánh mì chỉ dài hơn gang tay một chút, nóng giòn và thơm ngon. Phần ăn sáng không làm no bụng như ăn bịt cơm gạo sấy, nhưng ngon hơn gắp cả trăm lần. Ở đây cũng có cà phê phin. Được lúc thư thả ngồi chờ cà phê trong phin chậm rãi kết thành từng giọt thơm đậm, rồi nhâm nhi từng hớp nhỏ và lắng nghe hương vị Café du Monde thấm tan dần thì thật là sảng khoái. Cái sảng khoái và ngon miệng ấy rồi cũng chỉ có vậy, chỉ là thoáng qua thế thôi, nhanh chóng chìm loãng trong vô nghĩa và không mấy nuối tiếc; không giống như món gạo sấy ngâm nước sông rạch, vừa đi vừa ăn khơi khơi vẫn ngon, hay chia nhau nước cà phê nấu trong nón sắt. Tình chiến hữu với từng miếng cơm gạo sấy hay hớp cà phê kho ấy, cứ nhớ hoài; 50 năm sau vẫn còn thèm nhớ. Trở về đơn vị, tôi bàng hoàng khi hay tin Chuẩn úy Tuyết; dẫn trung đội tăng phái cho Hải Quân đi đổ toán tối hôm qua, sáng nay đạp trúng mìn, anh bị mất bàn chân phải. Không phải lần đầu đơn vị bị tổn thất, thương vong. Tình chiến hữu, mất mát nào cũng để lại lắm thương tâm. Nhưng tội nghiệp cho Tuyết lắm. Tuyết mới ra trường, được điều động về bổ sung cho đơn vị chúng tôi chừng ba tháng nay. Hôm chúng tôi nghe máy báo tin có bổ sung nhân số, được biết anh tên Tuyết. Tên Tuyết của anh dễ gợi nhắc đến những bóng hồng, dáng ngọc nơi tỉnh thành; nơi có em gái hậu phương yêu kiều làm ngẩn ngơ các chàng tuổi trẻ, nơi có tà áo dài tha thước quyện lấy mộng mơ. Những mộng mơ xa xưa ấy đã ở lại cùng người tình, từ khi đoàn xe chở các chàng tuổi trẻ chạy vào bên trong cổng số 1 của quân trường. Và rồi ngày càng xa xôi quá; mộng mơ chừng như cũng quên đường, lạc lối, không còn tìm về trong giấc ngủ của tuổi trẻ đã nung cháy trong chiến trận. Đêm bây giờ chập chờn, ngắn ngủi. Tuyết cũng như các đồng đội kém may mắn của chúng tôi, anh rời đơn vị trong đau đớn tột cùng. Anh đã phải để lại một phần thân thể, với xương và thịt, của mẹ, của cha; trên mảnh đất có cái tên Giòng Trôm còn xa lạ với gia đình từ Sài Gòn. Thứ Năm này, Tuyết sẽ được đi phép. Ngày sẽ được về phép hôn lễ của Tuyết chỉ còn vài ngày sau cùng, đếm được trên một bàn tay. Hạnh phúc như mộng mơ, thấy đó rồi bất chợt vỡ tan. Chúng tôi ngậm ngùi nhìn nhau, mình hỏi lấy lòng mình, không biết là nên mừng cho Tuyết còn sống, hay là … cái chết biết đâu sẽ giúp anh thanh thoát nhẹ nhàng hơn. Chứng kiến nước mắt người thân yêu đến đơn vị, nhận lại kỷ vật của đồng đội bất hạnh thật là xót đau, nát rát trong lòng. Niềm đau tột cùng, khi cuộc chiến chưa tàn, người lính chiến phải bỏ cuộc với một hình hài không còn nguyên vẹn. Chiến tranh nào cũng lắm khắc nghiệt. Khoảng cách giữa sự sống và cái chết rất gần, ngắn hơn nhịp kim giây di động trên mặt đồng hồ. Thật ngậm ngùi khi phải rời đồng đội, trở về trên đôi nạng gỗ, dang dở cuộc đời của cả người thân yêu. Khi đó, tiếng đạn xé không trung nơi chiến trường, có lẽ … không đáng sợ bằng khoảnh khắc nhìn nhau xa lạ, nhìn nhau ánh mắt chưa quen! Có phải chăng, là người lính trận như
thế này, đừng kết vướng thêm tình cảm, thì chắc là … sẽ ít đau đớn
cho mình và … cho người khác! Nhà thơ Thái Tú Hạp sau khi ra khỏi trại tù “cải tạo”, tìm thăm người bạn là thương binh. Trên bến sông Hàn, Đà Nẵng, buổi chiều gặp nhau trước ngày chia tay. Hai chiến hữu, cùng mang vết thương không bao giờ lành được, trên thể xác và trong tâm hồn. Cả hai không ngờ, đó lại là lần gặp nhau cuối cùng. Uống với nhau men rượu cay đắng và rồi vĩnh viễn mất nhau. Thái Tú Hạp được đi theo diện HO. Người bạn thương binh phải ở lại, chết dần vì nghèo đói, bệnh tật. Bài thơ ghi trọn câu chuyện từ biệt của chiến hữu, được nhạc sĩ Anh Bằng thu gọn lời để phổ nhạc; ca khúc có cùng tựa với bài thơ Người Thương Binh của thi sĩ Thái Tú Hạp, với lời nhạc như sau: Rượu uống mềm môi bao chiều rồi “Bạn cứ đi … Ta một mình. Sống được với quê hương” Thế nhưng,… quê hương ấy đã không còn! Quê hương miền Nam của người thương
binh, đã mất từ buổi sáng 30 tháng 4 năm 1975. Tượng đài Tiếc Thương
còn bị kéo ngả gục, không chút thương tiếc. Nghĩa trang của chiến
hữu mình bị hủy diệt, thay tên. Nơi yên nghỉ nghìn thu của đồng đội,
bia mộ bị tàn phá bằng những viên đạn thù hận, đê hèn. Người đã chết
còn không được yên nghỉ, thì người còn sống và là thương binh thì
phải trăm đắng nghìn cay để mà: “Ta một mình. Sống được với quê
hương”. Thương binh của quân đội Việt Nam Cộng Hòa bị chế độ mới
cướp đoạt các căn nhà đã được chính phủ cấp dưỡng. Xót xa nào hơn
khi đã phải chứng kiến những người lính với vết thương còn đang cần
được điều trị; bất kể tình trạng thương tích ra sao, họ vẫn bị xua
đuổi ra khỏi bệnh viện. Làn hơi của một người đã cao tuổi, lại thêm kém sức khỏe, không còn đủ cho người bán vé số ngân dài hay hát cao giọng đúng theo dấu nhạc. Anh đàn thêm những nốt nhạc cuối và nói lời cám ơn kèm theo nụ cười thân thiện. Mượn tiếng đàn và hát thay lời chào thiện cảm. Người đàn ông gầy ốm, xoay cây đàn lên lưng, tay chống nạn khấp khễnh len giữa các bàn ăn, tay đưa sấp giấy số và nhỏ nhẹ mời. Các dãy bàn đặt san sát nhau bên ngoài nhà hàng, đều đầy kín người ngồi ăn. Hầu hết, người ta chú tâm vào cuộc vui riêng; tránh né các tờ giấy số trên bàn tay gầy guộc và ánh mắt khẩn khoản của người bán. Rồi cũng có người gọi mua và thân mật thăm hỏi. Anh dừng bước, gác đoạn chân bị cắt cụt đến đầu gối lên nạng, cho bàn tay được nghỉ ngơi và trả lời thăm hỏi của người thu hình cho chương trình Sài Gòn Ngày Nay. Anh nói cho biết: mình năm nay 69 tuổi, quê ở Khánh Hòa. Người phỏng vấn ngạc nhiên, vì quê anh ở tận Khánh Hòa, vào đây để bán vé số, hỏi lại: - Khánh Hòa à! … Chân chú bị sao…? Anh đáp lời: - Năm 72 chú dự trận … “Mùa hè đỏ lửa” … trận Pleime, tại Pleiku… - Dạ … chú đây là … thương phế binh à? - Tôi là thương phế binh! Người dân của Sài Gòn trước đây, và cả những người từ miền Bắc mới vào miền Nam sau năm 75, đều không còn xa lạ hay ngạc nhiên khi gặp những người thương binh miền Nam, sinh sống bằng nghề bán vé số như anh. Người phỏng vấn không ngạc nhiên cho lắm; chỉ lập lại chữ “thương phế binh” để làm một câu hỏi, không vì ngạc nhiên: - Thương phế binh a… ? Anh thương binh hiểu ý, mĩm cười tiếp lời ngay: - Việt Nam Cộng Hòa! Rồi anh cho biết về số quân của mình là 72/408849 và các vị chỉ huy của đơn vị anh trước đây. Số quân khởi đầu với 72, như vậy anh sinh năm 1952, cùng năm sinh với bạn tôi, Chuẩn Úy Tuyết. Tuyết cũng bị thương và bỏ lại nơi chiến trường một đoạn chân phải như anh. Anh cho biết, nếu bán hết 200 tờ vé số của đại lý giao thì được 200 ngàn đồng. 200 ngàn đồng, tiền Việt Nam bây giờ đấy! Nhiều món ăn trên các bàn quanh anh
có giá đến 150 ngàn đồng cho một dĩa, và có món ăn còn mắc tiền hơn
thế! Người thương binh chấp nhận cuộc đời nghiệt ngã đau thương của mình; anh vui vẻ mời các khách trẻ trong nhà hàng, nghe một bản nhạc do mình đàn hát, anh nói: - Bản nhạc này … chú hát lên để nhớ lại những kỷ niệm xa xưa, trong cuộc đời thanh niên của chú … đó là những người lính ngoài chiến trường của miền Nam này… để bảo vệ phần đất Việt Nam tự do … Anh dạo nhạc rồi nói lời dẫn vào ca khúc: Tôi là một người lính bộ binh, của Việt Nam Cộng Hòa, 21 tuổi đời, ba tháng quân trường, 4 năm chinh chiến, chưa lập gia đình, mới có tình yêu,... Tôi xin trả lời cho những người hay hỏi: “tại sao tôi yêu cuộc chiến như yêu chính bản thân mình?!” … và để giúp vui hết cho các em cháu với bản nhạc Biển Mặn của Trần Thiện Thanh! Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh viết ca khúc Biển Mặn như lời tâm tình của mình và của tuổi trẻ khoác áo chiến binh. Trong không gian nhà hàng, người ta ăn uống chuyện trò ồn ào, có tiếng đàn và tiếng hát của người thương binh Việt Nam Cộng Hòa. Và anh đã không đơn độc; đêm nay, có tuổi trẻ quanh anh cất lời cùng hát với anh… Hôm nay đây, người lính Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn sống mãi trong lòng dân tộc! Trên thành phố cùng những con đường
quen thuộc đã bị mất tên, và phải mang các thứ tên xa lạ; chống
chiếc nạn gỗ, đứng giữa đám đông, người thương binh vẫn can trường;
anh không dấu nét tự hào khi nhận mình là: “người lính bộ binh của
Việt Nam Cộng Hòa,.. là người lính ngoài chiến trường của miền Nam
này,… anh đã chiến đấu để bảo vệ phần đất Việt Nam tự do”! Có lẽ, có làm người lính trong chiến
trận, mới thấu hiểu tận cùng cho đời lính lắm nghiệt ngã đoạn
trường. Xót xa đau cho người còn ở lại, cùng mảnh đời bất hạnh của
người thương binh; trong cuộc sống phũ phàng của chế độ khắc nghiệt
hiện nay! Chiến hữu của tôi! Xin chào người vị quốc vong thân! Xin chào người còn ở lại, chịu khổ nhục với đời thương binh! “Người Thương Binh Việt Nam ! Non
sông nợ ơn người. |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22317 |
Gởi ngày: 14/Apr/2021 lúc 9:20am |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22317 |
Gởi ngày: 15/Apr/2021 lúc 8:24am |
“Bà Quại” Nghe Thật Gần Gũi Thân Thương Dân
Nam kỳ hễ thấy ai luống tuổi cỡ ông bà mình thì đều kêu hết thảy là : Quại ( Ngoại ) Chớ ít khi nào kêu là Nội. Bởi vì "Bà Quại" nghe nó gần gũi thân thương hơn, vì bà nội có thể không
nhìn cháu nội , chớ bà ngoại lúc nào cũng dang tay đón nhận đứa cháu
của mình cho dù nó là đứa con không ai nhìn nhận. Và cháu ngoại thì chắc
là cháu mình còn cháu nội là còn phải xét lại !
Không tự nhiên mà người ta có câu : "thắng về nội " " thối về
ngoại".
Con gái lỡ có con vô người nhận cũng "dzìa" quại Cháu không được gia đình nội nhìn nhận cũng dzìa quại Con gái bị gia đình chồng ruồng rẫy cũng ẵm con dzìa quại Con gái chẳng may làm goá phụ cũng dzìa quại.
Thiệt đúng : "Cháu bà nội mà tội bà quại"
Nên trong tâm tưởng người ta coi bà quại gần gũi tình cảm hơn. Nhìn đâu cũng thấy bóng dáng bà quại đầu đội khăn rằn lưng còng da nhăn lững thững mang bó rau về luộc cho tụi nhỏ chấm mắm nêm ăn cơm mà chảy nước mắt !
Nhưng hễ chửi cha nhau thì người ta lại lôi bà Nội ra chửi nào là : Mụ Nội mày , Bà nội cha mày.
Với
bị mấy ông "cha" cũng ta bà quá, tật mê gái hay lấy bậy rồi bỏ vợ con
bơ vơ không cha không họ hàng để bà quại nuôi thấy mụ nội nên con nít nó
mến bà quại hơn!
Thiệt
ra cũng hỏng phải bà nội hông thương cháu , nhưng do xã hội xưa bà mẹ
chồng và nàng dâu hay có khoảng cách với nhau nên cũng vì thế mà không
thân với cháu nội bằng cháu ngoại. Khoảng cách tâm lý nó dễ làm tình
cảm con người lợt lạt
Còn cháu ngoại là cháu của con gái mình đẻ ra rành rành, thương con gái từ đó phải thương luôn cháu "quại".
Khi
con gái có con là hủ hỉ bên con nhiều hơn cho nên nói gì con cũng nghe,
cái khoảng cách giữa con dâu và mẹ chồng thì chắc phải có nhưng với mẹ
ruột thì không.
Mẹ ruột mắng la con gái thì con gái buồn bực nhưng chỉ vài ngày thì quên
nhưng nếu mẹ chồng mắng la con dâu cũng cùng 1 nguyên nhân thì nàng dâu
sẽ để bụng không bao giờ quên !!!! Chính vì thế mà khi lấy chồng rồi
con gái vẫn hướng lòng về mẹ ruột hơn, điều này rất ảnh hưởng đến con
cái, chúng cũng hướng lòng về bà ngoại hơn.
Tội nghiệp bà nội cho dù cũng thương cháu nội y hệt bà ngoại nhưng lại không được có cơ hội như bà ngoại.
Trên
thực tế bây giờ có nhiều mẹ chồng thương con dâu như con gái, và cũng
có nhiều trường hợp người mẹ ghét bỏ con gái ruột của mình.
st. Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 15/Apr/2021 lúc 8:34am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 126 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |