![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Tâm Tình | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 146 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Chỉ Khi Đối Diến Với Cái Chết, Người Ta Mới Nghiệm Ra Ý Nghĩa Nhân Sinh![]()
Ông Kha Văn Triết, thị trưởng Đài Bắc, Đài Loan, Trung Quốc.
Chỉ
khi đối diện với cái chết, khi đứng trên ranh giới sinh tử, người ta
mới nhìn lại đời người là gì, ý nghĩa nhân sinh đích thực là chi?
Ngày
29/11/2014, bác sĩ Kha Văn Triết chính thức đắc cử Thị trưởng thành phố
Đài Bắc – Đài Loan với 840.000 phiếu bầu. Dù là một thị trưởng đầy
quyền lực nhưng ông vẫn thường nói: "Vinh hoa phú quý đời người rốt cuộc
cũng chỉ là một đống rác mà thôi".
Trong
thời gian còn là bác sĩ ngoại khoa, ông Kha Văn Triết chính là người
tạo ra quy trình cấy ghép tạng tiêu chuẩn của Đài Bắc và đưa vào ứng
dụng phương pháp cấp cứu Oxy hóa máu bằng màng ngoài cơ thể (ECMO).
Không
chỉ giỏi về chuyên môn, ông còn là người có ảnh hưởng lớn, có khả năng
truyền cảm hứng, giác ngộ đông đảo người Đài Loan với những bài diễn
thuyết ấn tượng.
Một trong số đó là bài
diễn thuyết mang tên "Trí tuệ của sự sống và cái chết" được ông Kha Văn
Triết trình bày tại buổi hội thảo của giới trí thức về công nghệ, thiết
kế và giải trí TED 1 năm trước khi ông chính thức tham gia vào sự
nghiệp chính trị.
Với tôi, câu nói đáng
nhớ nhất trong bài phát biểu đó là: "Chỉ khi đối diện với cái chết, khi
đứng trên ranh giới giữa sự sống và cái chết, người ta mới nhìn lại đời
người là gì, ý nghĩa nhân sinh đích thực là chi?"
Bài diễn thuyết gân ấn tượng của ông Kha Văn Triết về sinh tử
Có
lẽ tôi là bác sĩ Đài Loan đã từng nhìn thấy người chết nhiều nhất, vậy
nên rất thích hợp để bàn luận về vấn đề sinh tử. Hãy để tôi bắt đầu nói
từ "Diệp Khắc Mạc" – Oxy hóa máu bằng màng ngoài cơ thể (ECMO).
Có
một người nông dân chạy đến bệnh viện Kì Mỹ Liễu Doanh, nói muốn được
gặp bác sĩ Diệp. Người ở phòng cấp cứu nói, không có đâu, chỗ chúng tôi
đây không có bác sĩ nào họ Diệp cả. Người nông dân nọ vẫn khẳng định
chắc nịch tên bác sĩ ấy là Diệp Khắc Mạc (ECMO).
Diệp
Khắc Mạc thật ra không phải là bác sĩ nào cả, nó chỉ là một phương pháp
trị liệu. Vận hành của nó cũng rất đơn giản, chính là dẫn máu từ trong
tĩnh mạch ra, trải qua một cái bơm huyết dịch (tim nhân tạo), rồi lại
thông qua một thiết bị tạo ô-xy (buồng phổi nhân tạo), đưa vào cơ thể.
Nó được dùng để thay thế chức năng tạm thời của phổi và tim.
ECMO
chính là một máy chủ làm trái tim nhân tạo, bên cạnh là một buồng phổi
nhân tạo, đưa máu trở về. Đúng là đã có những trường hợp vô cùng thành
công.
Một vũ công trong nhóm múa của
Châu Kiệt Luân, một ngày nọ bị viêm cơ tim đột ngột, tim không còn đập
nữa. Lúc đó, con mắt của cô ấy mở to nhìn trừng trừng vào màn ảnh. Tín
hiệu trên màn hình toàn bộ đều là một đường thẳng băng.
Nhưng
9 ngày sau, cô ấy đã tiến hành cấy ghép tim và phổi. Chưa đến 1 tháng,
đã có thể trở về tiếp tục nhảy múa rồi. Tất cả là nhờ ECMO.
Trong các tài liệu y khoa, thời gian hồi sức tim phổi dài nhất, còn có thể được cứu sống trở lại chính là trường hợp này. Mỗi lần nhìn lại tôi đều nói đây là thành tích thần kỳ của y học hiện đại.
Một
người đã trải qua hồi sức tim phổi trong 4 giờ đồng hồ, liên tục 9 ngày
tim hoàn toàn không còn hoạt động mà vẫn có thể được cứu sống lại!
Lại
có một thanh niên 26 tuổi, uống say rồi đi bơi, bị sặc nước đến viêm
phổi nghiêm trọng (gọi là triệu chứng hô hấp cấp tính). Toàn bộ lá phổi
của anh đều trắng xoá hết cả, không còn khả năng hô hấp.
Anh
ta đã điều trị ECMO trong 117 ngày. Trong khoảng thời gian gần 1 tháng,
lượng khí thông phổi của anh ta chỉ không đến 100cc. Nhưng rồi cuối
cùng anh vẫn dần dần hồi phục trở lại.
Điều
này quả thật quá thần kỳ. Vậy nên, dưới sự đồn thổi của giới truyền
thông, ECMO ở Đài Loan đã trở nên nổi tiếng như vậy, và trên thực tế là
đã có một vài trường hợp rất thành công.
Nhưng các kênh truyền thông chỉ đưa tin về những trường hợp thành công chứ không đề cập đến những ca thất bại.
Là
một bác sĩ, chứng kiến những ca thành công đương nhiên rất vui mừng,
nhưng cũng không thể quên đi những ca thất bại. Nó thật sự ám ảnh tôi.
Từng có một đứa trẻ vừa mới chào đời được nửa tháng đã mắc phải bệnh tim
bẩm sinh.
Sau khi phẫu thuật tim, sự
sống hoàn toàn nhờ vào máy trợ tim phổi, vậy nên đã lắp đặt ECMO. Nhưng
không đến 3 ngày sau, chân của bé đã chuyển sang màu đen.
Lúc
này, bác sĩ phải đối mặt với một lựa chọn đau lòng, hoặc phải cưa mất
hai chân của bé rồi tiếp tục cứu chữa với cơ hội thấp, hoặc là chấm dứt
điều trị tránh tổn thất, đau đớn. Đây chính là áp lực rất lớn, khiến bạn
vô cùng khó xử, tiến thoái lưỡng nan.
Lại
có một cậu bé 7 tuổi, mắc viêm phổi, ung thư máu khuẩn cầu đôi, khiến
hô hấp vô cùng khó khăn, lại xuất hiện bệnh biến chứng, tứ chi đều đã
chuyển sang màu đen.
Là một bác sĩ, bạn
phải đối mặt với sự lựa chọn khủng khiếp này. Nếu muốn cứu bé, thì bạn
phải cưa bỏ tứ chi, còn như không cứu, thì cần phải tháo các thiết bị
đi.
Nhưng đôi mắt long lanh của bé vẫn ngước
nhìn bạn, ý thức vẫn còn rõ ràng, biết xin nước uống. Ai nỡ đành lòng
chấm dứt cơ hội sinh tồn của sinh linh bé nhỏ ấy đây?
Mọi
người hãy thử nghĩ xem, trong thời khắc sinh tử, khi bệnh nhân thần trí
vẫn rõ ràng, tôi làm sao nói được với họ rằng: "Cậu bé này, nếu như cậu
muốn sống tiếp, chúng tôi cần phải cắt bỏ tứ chi của cậu, hoặc là thôi,
cậu không cần sống tiếp nữa". Bạn làm sao có thể nói chuyện sống chết
này với một cậu bé 7 tuổi đây?
Ngoài 30 tuổi, tôi được làm chủ nhiệm, cảm thấy y học rất lợi hại, cái gì cũng đều có thể giải quyết.
Sau
khi tôi hơn 40 tuổi, thường có những ca lắp đặt ECMO thất bại, người
nhà bệnh nhân hỏi tôi: "Tại sao người khác thì cứu sống được, còn người
nhà chúng tôi lại không thể cứu sống?".
Tôi
không biết phải trả lời thế nào?Tại sao tứ chi của người bệnh lại
chuyển sang màu đen? Nếu tôi biết được thì đã có thể tránh được rồi,
nhưng tôi thật sự không hiểu gì cả.
Khi
ngoài 50 tuổi, cuối cùng tôi cũng đã nghĩ thông suốt. Bác sĩ là người
chứ không phải là Thần, chỉ có thể tận hết sức lực, chỉ vậy mà thôi. Dù
cho y học phát triển đến mức nào thì vẫn là có giới hạn.
Với
khoa học kỹ thuật hiện tại, không có tim, phổi, thận người ta vẫn có
thể sống được, nhưng lẽ nào cứ đeo bên mình đống máy móc như vậy mà sống
cả đời sao?
Trời đất có Xuân, Hạ, Thu,
Đông, cây cỏ mùa Xuân thì đâm chồi, nẩy lộc, mùa Hạ thì kết quả, ra
hoa, mùa Thu bắt đầu thay vỏ, vàng lá, đến khi Đông về thì trút lá xạc
xào, cành khô, thân nứt.
Người làm vườn
có cách nào thay đổi được loại quy luật ấy hay không? Họ chỉ có thể tận
sức chăm sóc vun trồng để những bông hoa kia khi nở rộ trông đẹp đẽ
hơn, sống được thời gian dài lâu hơn mà thôi.
Một
bác sĩ có cách nào thay đổi được quy luật "Sinh – Lão – Bệnh – Tử" hay
không? Điều này thực sự khó vô cùng. Bác sĩ chỉ là khiến cho người bệnh
đang ở giữa vòng tuần hoàn "Sinh – Lão – Bệnh – Tử" ấy mà sống được dễ
dàng hơn một chút, chỉ vậy mà thôi.
Bác sĩ chỉ là người làm vườn trong vườn
hoa của sinh mệnh, anh ta liệu có thể làm được gì khi đứng nhìn những
cái cây đã khô héo, khi đối mặt với cái chết đây?
Một
ngày nọ, trong lúc tôi đi thăm bệnh nhân, tôi đột nhiên hiểu ra đạo lý
này. Kết cục của đời người chỉ có hai loại mà thôi: Cắm ống thở hay là
không cắm ống thở. Nhưng rồi sau tất cả vẫn đều là cái chết.
Nếu có người hỏi tôi: "Cái chết là gì?" thì đáp án của tôi là: "Làm thế nào mới được coi là sống đây?".
Bởi
vì con người nhất định đều sẽ chết, vậy nên cái chết không phải là mục
đích của đời người. Đời người là một quá trình mà ở đó chúng ta không
ngừng theo đuổi một điều gì đó, đây chính là đời người.
![]()
Đứng giữa sự sống và cái chết, con người mới lại ngẫm về cuộc đời, mới đặt câu hỏi đời người suy cho cùng là gì. Ảnh minh họa.
Có một lần, tôi mời thầy giáo đã nghỉ hưu của mình và lớp trưởng cùng đi dùng cơm.
Ba
người chúng tôi lên lầu hai của một nhà hàng Pháp có tên Sheraton, kết
quả đã tiêu hết 26.000 Đài tệ (gần 20 triệu đồng), bình quân mỗi người
là 9.000 Đài tệ (6,7 triệu đồng).
Khi
nhìn thấy hóa đơn, mặt mày tôi tái mét: "Sao lại đắt đến vậy chứ!". Tôi
chưa từng đến dùng bữa ở nơi nào đắt đỏ như vậy cả, chỉ là chọn đại mấy
món, cũng không hiểu đã dùng món gì mà mất đến 26.000 Đài tệ.
Cả
ngày hôm ấy và hôm sau, tôi đã không ngừng suy nghĩ về chuyện này. Bữa
cơm đã tiêu tốn của tôi mất 9.000 Đài tệ, so với một suất cơm bình dân ở
bệnh viện ngày thường tôi vẫn ăn thật chẳng khác nhau chút nào.
Dù
là cao lương mỹ vị, dù là gan rồng, tuỷ phượng, ăn vào dạ dày rồi lại
phải bài tiết ra ngoài. Vinh hoa, phú quý của đời người cũng thế, tranh
đoạt cả đời, gom góp một kiếp, chết rồi lại chẳng thể mang theo.
Và
vì thế nên tôi cho rằng: "Tất cả những thứ người ta theo đuổi, vinh hoa
phú quý của đời người chẳng qua chỉ là một đống rác bỏ đi".
Tư
tưởng Nho gia ảnh hưởng rất mạnh mẽ ở Á Đông nhưng đối với vấn đề sự
sống – cái chết, họ cũng chỉ bàn đến một mức độ rất bề mặt. "Luận Ngữ"
viết: "Vị tri sinh, yên tri tử" (chưa biết đạo lý của đời sống, sao lại
thắc mắc về cái chết).
Hoặc như Khổng
Tử cũng nói: "Triêu văn Đạo, tịch khả tử" (sáng nghe đạo, chiều chết
cũng yên lòng). Nói tóm lại chính là không thích luận đàm về sống chết.
Còn
cá nhân tôi thì luôn nghĩ về cái gọi là "trải nghiệm cận tử". Chỉ khi
đối diện với cái chết, khi đứng trên ranh giới giữa sự sống và cái chết,
người ta mới nhìn lại đời người là gì, ý nghĩa nhân sinh đích thực là
chi?
Con người cuối cùng rồi sẽ phải
chết, đời người chẳng qua chỉ là một quá trình theo đuổi và tìm kiếm ý
nghĩa của nhân sinh. Mà ý nghĩa nhân sinh đó đôi khi không thể dễ mà
nhìn ra.
Trên con đường trở về với giá
trị gốc của mình, người ta sẽ phải đi qua biết bao thống khổ, bơi qua
một bể khổ vô bờ. Nghĩ lại thì kiếp sống này thật quá ư mông lung, nhân
sinh này chính xác chỉ là giấc mộng.
Tôi xin dùng câu nói dưới đây làm lời kết cho bài thuyết trình hôm nay:
"Điều
khó khăn nhất không phải là đối mặt với thất bại và sự đả kích, mà là
khi phải hứng chịu những sự đả kích, dày vò, ta không hề đánh mất đi
nhiệt tình đối với cuộc đời này". st,
|
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23789 |
![]() ![]() ![]() |
Mẹ Bác SĩBà Mậu thoải mái ngồi đợi ở phi trường LAX, bà biết rằng 1 tiếng đồng
hồ nữa, khi hết giờ ở phòng mạch thì con trai bà mới đến đón. Hai vợ
chồng nó đều là bác sĩ, đều bận rộn nên sự chờ đợi vẫn là đặc ân và hãnh
diện đối với bà. Con gái bà Mậu đã đến chở mẹ ra phi trường. Xe về tới khu nhà của Thông, phải qua một cổng security mới vào trong, nơi có những ngôi nhà đẹp đắt tiền. * Buổi chiều thứ bảy vợ chồng Thông đều nhận khám ít bệnh nhân, phòng
mạch đóng cửa sớm, để gia đình quây quần bên nhau. Họ thích ra biển để
thư giãn sau một tuần lễ căng thẳng bù đầu vì công việc. * Cả nhà còn đang ngủ muộn vì chiều qua chơi biển thật lâu và vui, sau khi ăn uống nhà hàng cho đến tối khuya mới về đến nhà. Nguyễn Thị Thanh Dương
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 20/Nov/2019 lúc 8:18am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Từ Thuyền Nhân Tới “Thùng Nhân”![]() Hai tuần qua, tin về vụ 39 người Việt Nam chết ngộp trong thùng lạnh một chiếc xe vận tải lớn “vô chủ” bỏ ở Essex, ngoại ô London, đã làm rúng động dư luận người Việt ở trong nước và cả ở hải ngoại. Ai cũng kinh hoàng khi biết những người này là nạn nhân của một đường dây buôn người lậu vào Âu Châu, xuất phát từ Nghệ An.
Tin tức về vụ này tràn ngập trên mạng, được cập nhật mỗi ngày với những chi tiết mới và bình luận khác nhau.
Ông
Hoàng Huy, một người từng làm thông dịch viên cho Cảnh sát và Bộ Nội vụ
Anh đã viết một bài ngắn cho biết người Việt tại nước Anh gọi những
người nhập lậu vào nước Anh là “người rơm”, và ông ta giải thích:
“Người rơm” là một từ cay đắng! Nó chất chứa cả máu – nước mắt và vô
vàn những gian khó, tủi nhục không dễ nói thành lời, mà cộng đồng người
Việt Nam ở Anh dùng để nhắc tới những người nhập cư bất hợp pháp. Vì sao
lại là “rơm”? Vì một khi bước vào con đường này, bạn hãy chấp nhận sinh
mệnh của mình sẽ chỉ còn như rơm – như rạ, những thứ vô giá trị. Những
cuốn hộ chiếu Việt Nam bị vứt bỏ hoặc đốt đi ngay khi “đường dây” đưa họ
tới một nước Châu Âu nào đó qua con đường du lịch; nhằm chối bỏ quốc
tịch, chính thức bước vào giai đoạn “sống không ai biết – chết không ai
hay”. Bởi lẽ Liên minh Châu Âu (EU) có điều luật về tị nạn, nếu bạn bị
phát hiện nhập cư trái phép và bị từ chối tị nạn, sẽ bị trục xuất về đất
nước trước đó bạn đã đi qua. Nếu là người không quốc tịch (không còn hộ
chiếu), sự việc bại lộ, họ sẽ bị trục xuất về Pháp, về Đức, về Bỉ…..hay
một nước Châu Âu nào đó, chứ không phải là Việt Nam; và như thế có
nghĩa là còn cơ hội….trốn tiếp. Đó là lý do, khi mở chiếc container tử
thần kia ra, cảnh sát Anh sẽ dựa vào tóc đen da vàng mà tạm thời nhận
định các nạn nhân là người Trung quốc chứ chắc chắn họ sẽ không có một
dấu hiệu nào, một mẩu giấy tờ nào dính dáng đến nơi mà họ thực sự xuất
phát.” (ngưng trích)
Ông Đỗ Công, không biết ở đâu và làm gì mà tỏ ra rành rẽ ngọn ngành của thảm kịch này. Trong bài “Thớt có tanh tao ruồi mới đến”, tác giả viết:
Nhiều
người vẫn không hiểu tại sao 39 người Việt chết vừa rồi cứ phải đi Anh
mới chịu. Có người có việc làm nhà hàng ở Pháp nhưng vẫn mượn nợ, mua vé
đi chui qua Anh cả 10 ngàn Mỹ kim. Có người đến Đức, hay lao động ở
Romania rồi, nhưng cũng nhập vào dòng đi chui để đến nước Anh. Có người
mua vé đi từ Hà Nội, qua Bắc Kinh, Nga, Ukraine, vượt Pháp, Đức, đến
Anh, tốn $30 ngàn Mỹ Kim.
Anh Quốc là nước có nhiều người di dân Việt đến từ miền Bắc. Hợp pháp
cũng có, mà sống bất hợp pháp cũng nhiều. Họ làm tập trung vào các ngành
gồm nhà hàng, móng tay và trồng “cỏ”, tức là Marijuana. Phụ nữ thì được
hứa hẹn làm móng tay, đàn ông thì lao động tại nhà hàng và các nông
trại ngầm trồng cỏ. Sau nhiều năm lao vào lãnh vực này, hiện nay giới
giang hồ người Việt gốc Bắc kiểm soát gần 70% thị trường Marijuana ở
Anh. Nói cách khác, thương trường này, theo cảnh sát Anh ước lượng $2.6
tỷ dollars và một vốn, chín lời. Lời đến nỗi, theo cảnh sát Anh, trồng 4
trại, bị bắt mất 3 trại cỏ, họ vẫn còn lời.
Vì kinh doanh lậu, và nhu cầu khát nhân công, lợi nhuận khủng. Lao động
ở Nghệ An, Hà Tỉnh khi đến Anh thì luôn có việc làm, với đồng lương cao
hơn lao động các nghành nghề khác, nếu tham gia trồng cỏ. Mấy năm
trước, khi chưa có nhiều lao động đến từ Nghệ An, Hà Tỉnh. Những ông chủ
trại "cỏ", cần lao động đến nỗi đã tìm cách mua hay ép thanh thiếu niên
từ Việt Nam, rồi đưa lậu qua Anh, buộc họ làm lao động nô lệ trong các
trại cỏ này. Nhờ cảnh sát Anh giải cứu nhiều trường hợp, và lao động
chui qua nhiều, tình trạng bắt cóc thanh thiếu niên Việt làm nô lệ lao
động ở Anh mới giảm.
Qua Anh, làm vài năm, dành dụm, khôn lanh, họ lại trở thành những ông
chủ trại “cỏ” nhỏ, lời cả triệu dollars dễ dàng. Từ đó, nhà lầu, nhà
ngói thi đua nhau mọc ở Hà Tỉnh, Nghệ An. Hình làng tỷ phú ở Nghệ An
theo báo Reuter tường thuật là thí dụ điển hình.
Vì vậy, vay nóng, thế nhà, thế đất, nợ nần để chạy tiền từ 10 ngàn đến
30 ngàn Mỹ Kim để mua chỗ, đút lót đến cho được nước Anh. Dù có nguy
hiễm, gian truân, hay tù tội thì mấy cũng thử là vậy. Liều lĩnh, và
trưởng thành trong môi trường phức tạp, vô pháp. Đám di dân mới này, con
cháu của bác và đảng, một số sẵn sàng lao vào con đường tội ác. Cám dỗ
đổi đời, làm giàu và giàu nhanh, khủng thì chỉ có đường trồng cỏ và buôn
cỏ, để có tiền trả nợ cả vốn lẫn lời, nếu không muốn bị giới giang hồ
đòi nợ và thanh toán.
Nghệ An, Hà Tỉnh là hai nơi có thu nhập bình quân thấp nhất cả nước.
Trung bình, thu nhập hàng năm hai Tỉnh khoảng $2000 Mỹ kim, so với cả
nước $2540. Tỉnh nghèo, đói lại không có việc làm vì khủng hoảng của nhà
máy Formosa. Cá chết, biển độc, nguồn nuôi dưỡng kinh tế bị co cụm.
Kinh doanh du lịch, nhà nghỉ nhà hàng bị chết. Để sống thì chỉ còn cách
đi lao động thuê, lao động chui ở nước ngoài. Thị trường lao động nước
ngoài gửi ngoại tệ về hai tỉnh này, đã là nguồn nuôi sống gia đình, bộ
máy đảng, chính quyền địa phương. Vì vậy, đảng csVN càng tạo điều kiện,
toa rập, móc ngoặc, buôn bán giấy tờ, khuyến khích để dân đi lao động
chui nước ngoài. Và nếu đi ở Anh, càng kiếm nhiều tiền thì càng tốt cho
đảng.
Nghị quyết 274/2009 của Hội Đồng Nhân Dân Tỉnh Nghệ An kêu gọi; “xuất
khẩu lao động là mối quan tâm hàng đầu của đảng, để có việc làm, xoá đói
giảm nghèo”. Không quan tâm sao được, khi năm ngoái số tiền người đi
lao động nước ngoài chuyển về cho gia đình trong Tỉnh Nghệ An là $255
triệu Mỹ Kim. Như vậy bao nhiêu Mỹ Kim chui vào túi đảng, để tiếp tục
nuôi sống bộ máy chính quyền.
39 người Việt xấu số đã chết. Gia đình buồn nhưng viên chức chính quyền
Nghệ An, Hà Tỉnh còn buồn nhiều hơn. Họ đang lo sợ vụ việc sẽ bị phanh
phui, hé lộ đường giây buôn người ngầm mà họ có dính phần. Không ngạc
nhiên khi thấy thái độ bất hợp tác và gây khó khăn của chính quyền địa
phương, khi gần đây thông tin đang lộ dần, cảnh sát Anh đang ráo riết
truy tìm hành tung ông Trùm, triệu phú Mỹ kim họ Trương gốc Nghệ An,
người đã chỉ đạo đường dây đưa người đi lậu ra nước ngoài cả chục năm
nay. Nếu vài hôm sau có ai họ Trương bị chết bất ngờ, thì có thể là Đảng
đã ra tay cho giết người bịt khẩu, trước khi bị cảnh sát Anh bắt giữ,
nếu đang trốn đâu đó ở nước ngoài.” (ngưng trích)
Ngày
29 tháng 10, ông Lê Thương viết một bài trên FaceBook, bác bỏ luận điệu
cho rằng những người này ra đi vì họ nghèo đói, muốn tìm miếng cơm manh
áo và luận điệu cho rằng những người này là nạn nhân của FORMOSA họ quá
nghèo đói, ở quê không có việc gì làm nên phải tìm cách bỏ nước ra
đi"...
Trong số nạn nhân, người được nhắc tới nhiều là cô Phạm Thị Trà Mi, người mà trước khi chết đã nhắn tin về cho mẹ: "Con xin lỗi bố mẹ nhiều. Con đường đi nước ngoài không thành. Con chết vì không thở được".
Tin từ Nghệ An cho biết Trà Mi là chị của Phạm Mạnh Cường, một dư luận
viên của đảng, và có người yêu là Nguyễn Công Thắng, một an ninh mạng
của CHXHCN Việt Nam.
Theo tin đài VOA thì phát ngôn viên Bộ Ngoại giao CSVN Lê Thị Thu Hằng nói trong một phát biểu đăng trên website của bộ rằng: “Đây là một thảm kịch nhân đạo nghiêm trọng”, và rằng, “Chúng
tôi hết sức đau lòng và xin gửi lời chia buồn sâu sắc nhất tới gia đình
các nạn nhân và mong họ sớm vượt qua những đau thương, mất mát to lớn
này.”
Không
biết bà Lê Thị Thu Hằng có “hết sức đau lòng” thật hay không, nhưng ai
là người Việt Nam, hay không phải người Việt Nam, mà không không cảm
thấy đau buồn trước “thảm kịch nhân đạo nghiêm trọng này”, nếu còn có
một trái tim con người.
Trước
đây, sau ngày 30.4.1975, thế giới cũng đã bàng hoàng thương cảm khi
thấy hàng triệu người Việt Nam bỏ nước ra đi tìm tự do trên những con
tàu gỗ mong manh, bất chấp dông bão và hải tặc, mà khoảng một phần tư
trong số này đã không đến được bến bờ tự do. “Thảm kịch nhân đạo nghiêm
trọng” này đã kéo dài hơn mười năm, và thế giới đã dang tay cứu giúp
những người mà họ gọi “thuyền nhân” (boat people) tràn ngập các bờ biển
Vùng Đông Nam Á.
Những
thuyền nhân ấy đã ra đi vì không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản, một lý
do chính trị và tinh thần cao đẹp, nên họ đã bỏ lại tất cả tài sản vật
chất để ra đi mình không và đã xây dựng lại đời sống thành công trên quê
hương mới từ con số không với sự lương thiện và chuyên cần. Họ góp mặt
bình đẳng trong mọi lãnh vực của sinh hoạt trong xã hội và được kính nể.
Hai
tuần lễ trước thảm kịch của những người Việt Nam chết trong thùng xe
lạnh giá tại Essex trên đường nhập cảnh lậu vào nước Anh, thì tại thủ đô
Washington đã diễn ra buổi lễ long trọng thăng chức Tướng cho một sĩ
quan Hải Quân Hoa Kỳ, ông Nguyễn Từ Huấn.
Phó
Đề Đốc Nguyễn Từ Huấn có một tiểu sử ly kỳ liên quan đến lịch sử Việt
Nam và Hoa Kỳ, và vấn đề nhân đạo trong chiến tranh. Ông Huấn là con của
một sĩ quan Quân lực VNCH, sinh tại Huế năm 1959, năm mà CSBV xé bỏ
Hiệp Định Genève, bắt đầu phát động cuộc chiến tranh xâm lược Miền Nam.
Cuộc chiến tranh leo thang ác liệt vào năm 1968, CSBV và du kích Việt
Cộng đã lợi dụng cuộc hưu chiến vào dịp Tết Mậu Thân, mở cuộc tổng tấn
công bất ngờ vào 41 thành phố và tỉnh lỵ tại Miền Nam.
Tại
Sài-Gòn, mục tiêu chính của cuộc đánh trộm, du kích VC đã xâm nhập và
chiếm giữ nhiều nơi trong thành phố, nhất là vùng ngoại ô, trong đó có
Quận Gò Vấp, nơi gia đình Trung tá Nguyễn Tuân cư ngụ. Chỉ huy toán VC
là Nguyễn Văn Lém, còn được gọi là Bảy Lốp, đã tàn sát cả gia đình ông
Tuân gồm tám người. Cậu bé Nguyễn Từ Huấn, khi ấy lên 9, cũng bị trúng
đạn, nhưng đã sống sót và ở bên cạnh mẹ trong hai giờ trước khi bà mất
máu và qua đời.
Sau
đó, Bảy Lốp bị một đơn vị Quân đội VNCH bắt và dẫn giải đến Chuẩn Tướng
Nguyễn Ngọc Loan, khi ấy là Tư lệnh Cảnh Sát Quốc Gia. Nghe báo cáo về
tội ác của Bảy Lốp, Tướng Loan đã rút súng lục, xử tên khủng bố VC tại
chỗ, trước Chùa Ấn Quang. Tình cờ, phóng viên nhiếp ảnh Eddie Adams đang
có mặt tại hiện trường, đã không bỏ lỡ cơ hội để chụp “tấm hình lịch
sử”. Tấm ảnh này, được đặt tên là “Saigon Execution”, năm 1969 đã được
Giải Pulitzer về ảnh báo chí và được truyền thông thân cộng và đám phản
chiến tại Mỹ khai thác, tố cáo VNCH vô nhân đạo, Tướng Loan tàn ác đã
giết một tù binh bị trói tay mà không xét xử. Bức ảnh này không cho
thấy tội ác khủng khiếp của tên khủng bố VC đã tàn sát thường dân, kể cả
những đứa bé vô tội, và khi ấy cả Sài-Gòn đang là bãi chiến trường bốc
lửa.
Bức
ảnh ấy đã gây tai hại không nhỏ một cách bất công cho chính nghĩa của
VNCH, cho Tướng Nguyễn Ngọc Loan, và cho cả Eddie Adams khi ông ta biết
những sự thật mà tấm ảnh không “nói” hết được làm lương tâm ông ta đã bị
cắn rứt trong nhiều năm. Sau khi Tướng Loan qua đời tại Virginia, Adams
viết trên tạp chí TIME số đề ngày 27.7.1998: “Trong tấm ảnh đó có
hai người bị giết, tên Việt Cộng bị ông tướng bắn và ông tướng bị tôi
giết bằng máy ảnh của tôi. Dù không có ý đồ ngụy tạo nhưng đôi khi một
tấm ảnh có thể nói dối. Tôi xin lỗi…”
Một
lời xin lỗi muộn màng, sau khi Tự Do đã chết tại Nam Việt Nam và ông
Nguyễn Ngọc Loan cũng đã qua đời. Nhưng trái đất vẫn không ngừng quay,
đời sống trên hành tinh này vẫn tiếp tục và lịch sử vẫn ghi lại những sự
thật không thể che dấu mãi.
Cậu
bé Nguyễn Từ Huấn thoát chết năm xưa đã là một chứng nhân lịch sử, và
đang làm lịch sử với tư cách một viên Tướng trong Hải Quân Hoa Kỳ, lực
lượng trên biển hùng mạnh nhất thế giới, như ông đã nói trong buổi lễ
thăng cấp ngày 10 tháng 10 vừa qua:
“Đây
là nước Mỹ của chúng ta, một đất nước được xây dựng trên sự phục vụ,
lòng tốt và sự quảng đại, cơ hội cho mọi người, tự do để hy vọng và ước
mơ.
Tại
một nơi nào khác, liệu một người tị nạn chính trị với một tương lai bất
định, giống như cảnh ngộ của tôi 44 năm trước, có thể có được sự tin
cậy của quốc gia dung nhận mình để sẽ phòng vệ mình vào lúc cần thiết ?
Đứng trên nơi đây hôm nay là một tuyên hứa trung thành với quốc gia này
của chúng ta, Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ.”
Không
người Việt Nam nào mà không vui mừng và cảm thấy tự hào chung với Phó
Đề Đốc Nguyễn Từ Huấn về sự thành công của ông, cũng như sự thành công
của rất nhiều “thuyền nhân” khác trên khắp thế giới.
Cũng không có người Việt Nam nào không cảm thấy đau xót và tủi nhục cho những “thùng nhân” đã chết thảm tại Essex.
Ai đã gây ra thảm kịch ấy, và ai đã gây ra thảm kịch của những thuyền nhân đã bỏ mình ngoài biển khơi trước đây?
Câu hỏi để cho bà Lê Thị Thu Hằng trả lời. Ký Thiệt |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Tạ Ơn Hoa Kỳ
Chúng tôi, lữ khách tha phương Hộ phù Nước Mỹ phú cường Trần Quốc Bảo Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 27/Nov/2019 lúc 12:53pm |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Lúc Trẻ Cứ Tưởng![]()
1. Lúc trẻ, tưởng khóc
là buồn. Bây giờ phát hiện buồn nhất là không thể khóc được, cứ trống rỗng, tỉnh
táo và vô hồn.
2. Lúc trẻ, tưởng
cười là vui. Bây giờ nghĩ lại, có những giọt nước mắt còn vui hơn cả một trận
cười.
3. Lúc trẻ, tưởng
đông bạn là hay. Bây giờ mới biết vẫn chỉ có mình mình.
4. Lúc trẻ, tưởng
cô đơn ở đâu xa lắm, chỉ đến ở những chỗ không người. Bây giờ mới hiểu, lúc bên
nhau, sự ấm áp mới thật mong manh, mà nỗi cô đơn sao lại gần gũi thế.
5. Lúc trẻ, tưởng
yêu là tất cả, là mọi thứ. Lớn lên mới biết, sau yêu còn có chia tay.
6. Lúc trẻ, tưởng
thành người lớn là lớn, bây giờ đã thấy có nhiều người lớn mà vẫn chưa thành
người lớn, và đến khi thật sự thành người lớn thì người ta sẽ biết không bao giờ
bé trở lại được.
7. Lúc trẻ, tưởng
đóng đinh thì đóng đinh, không thích thì có thể nhổ. Bây giờ cảm nhận được đinh
có thể nhổ nhưng vết sâu vẫn còn.
8. Lúc trẻ, tưởng
mình có thể thay đổi cả thế giới. Giờ đây thấy được ngay cả một người còn chẳng
có khả năng, có chăng vẫn chỉ là tự thay đổi mình.
9. Lúc trẻ, tưởng
yêu một người thì dễ, quên một người mới khó. Giờ thấy mình quên đi nhiều người
cũng dễ dàng,nhưng để yêu mới khó làm sao.
10. Lúc trẻ,
thích định nghĩa về tình yêu, tình yêu là X, là Y, là A,B,C,D. Bây giờ lớn rồi lại
cuống cuồng vì hoang mang không biết tình yêu thật sự là gì cả.
11. Lúc trẻ,vẫn
nghĩ rằng tình yêu là mãi mãi,tình yêu là thứ quan trọng nhất trong cuộc đời.
Giờ thì biết yêu đến đó rồi đi đó, như mưa bóng mây,hay dù có như chớp bể mưa
nguồn thì cũng vậy,có đó rồi mất đó. Và thực sự cũng chẳng biết thứ gì là quan
trọng nhất.
12. Lúc trẻ,
tưởng chỉ có kẹo là ngọt. Giờ lớn lên mới biết có nhiều thứ còn ngọt ngào hơn
cả kẹo.
13. Lúc trẻ, rất
sợ phải chết. Nhưng bây giờ lớn khôn mới biết, sự lãng quên còn đáng sợ hơn cái
chết rất nhiều.
14. Lúc trẻ,
tưởng tượng rất nhiều. Giờ đây khi lớn lên mới biết chuyện cổ tích không bao
giờ có thật.
15. Lúc trẻ, Mẹ
nói yêu thương cho đi là yêu thương nhận lại. Giờ lớn lên chợt nhận ra, có
những yêu thương chỉ cho mà không nhận.
16. Lúc trẻ, mong
mình lớn. Giờ đây lớn lên rồi sao mong mình bé lại quá chừng.
17. Lúc trẻ,
tưởng yêu một người là sống vì người đó. Giờ mới biết yêu một người là phải
biết tự yêu lấy mình.
18. Lúc trẻ,
tưởng sự sống và cái chết ở cách xa nhau lắm. Giờ mới biết nó chỉ cách nhau một
lằn chỉ mong manh.
19. Lúc trẻ,
tưởng nói dối là xấu, giờ mới biết lời nói dối đôi khi cũng giúp ích rất nhiều.
20. Lúc trẻ,
tưởng trung thực là điều tốt. Giờ mới biết sống trung thực với mình thôi cũng
là điều khó khăn biết bao.
21. Lúc trẻ,
tưởng những gì đến rồi sẽ đi. Giờ mới biết niềm vui đến thì qua mau,còn nỗi
buồn đến thì cứ ở bên ta mãi.
22. Lúc trẻ, tưởng
sau tình yêu sẽ là hôn nhân. Giờ mới biết có những cuộc hôn nhân không cần tình
yêu.
23. Lúc trẻ, cứ
nghĩ "tiền bạc, tình yêu rồi mới đến sức khỏe ". Về già rồi mới khám
phá ra sự đảo ngược "sức khỏe, tiền bạc rồi mới đến tình yêu "
24. Lúc trẻ,
tưởng hạnh phúc là điều gì đó xa xôi lắm. Giờ mới biết hạnh phúc chỉ đơn giản
là những thứ bình dị xung quanh ta,có chăng là mình đã không nhận thấy.
25. Lúc trẻ,
tưởng nói quên là quên được. Giờ mới biết,có những chuyện càng muốn quên thì nó
lại càng ở mãi trong lòng.
26. Lúc trẻ, cứ
mơ ước lớn lên rồi sẽ trở thành người này người kia. Về già mới biết "được
trở thành chính mình mới là điều hạnh phúc nhất "...
Sưu tầm |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23789 |
![]() ![]() ![]() |
127- LH -A stork true love story- Chuyện tình chung thủy của đôi cò trắng tại Croatia HD <<<<<![]() Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 02/Dec/2019 lúc 8:41am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23789 |
![]() ![]() ![]() |
Chuyện Chiếc Cầu Trên Sông Mỹ ThuậnĐã lâu lắm tôi không về lại Việt Nam. Nói vậy không có nghĩa là tôi không nhớ quê hay nhớ ít hơn những người đi đi về về từ mấy năm nay. Không, tôi nhớ quê tôi lắm chớ. Tôi nhớ đâu ngay từ khi mới vừa đặt chân xuống ghe trong đêm vượt biển. Nỗi nhớ như những lọn máu nhỏ từ đời kiếp nào vẫn chảy rì rầm trong trái tim héo mỏi. Tôi có quên đâu. Thấp thoáng giữa đám lau lách của trí nhớ bội bạc, quê hương vẫn còn đó, lẻ loi như một bông cúc vàng nở muộn, đẹp đến xót xa. Tôi nhớ như một người tình bị phụ rẫy nhớ lời đay nghiến, như người thương phế nhớ một phần thân thể đã thất lạc. Nhớ từ cơn đổ vở nhớ đi. Nhớ trong hồi đoạn lìa nhớ lại. Vậy mà tôi không về. Hay chưa về lại đó một lần. Nghe thì rắc rối như bày đặt. Nhưng mà cuộc đời cũng có suôn sẻ gì đâu.
Những
năm mười tám, đôi mươi từ tỉnh nhỏ lên Sài-gòn trọ học, cách quê đâu
chừng trên trăm cây số gì đó là tôi đã bắt đầu thấy nhớ. Hồi đó bạn bè
cứ sửa câu hát ru em mộc mạc thành câu hát trêu chọc: “Đèn Sài-gòn
ngọn xanh ngọn đỏ. Đèn lục tỉnh ngọn tỏ ngọn lu. Mới đi xa anh khóc lu
bù. Chừng quen con nước bắt bỏ tù anh cũng đi”. Dĩ nhiên con trai
mới nhổ giò nhổ cẳng, đứa nào chẳng có lần mơ mộng làm những chuyến
giang hồ vặt để cứ tưởng mình đã lớn. Lẩn quẩn trong cái phố chợ nhỏ xíu
đi tới đi lui chưa mỏi cẳng đã thấy vòng lại chỗ cũ, lòng cứ nôn nao
những chuyến đi xa. Đọc hành Nguyễn Bính thấy mê làm sao cái hình ảnh
hào tráng của người khách lữ, rũ áo phong sương một chiều cuối năm trên
gác trọ, rượu say ngất ngưởng rồi cười khinh mạn mà nhắc tới mấy con mắt
trắng với mắt xanh. Chưa hết đâu, còn cái hình ảnh não nùng của người
em gái sầu muộn bên song cửa cứ vò võ trông chừng từng cánh nhạn đưa
tin. Trời ơi được làm người tình cho người ta chờ đợi như vậy có nhuốm
bụi cũng cam. Mơ thì mơ toàn chuyện động trời như vậy mà mới xách va-li
đi khỏi nhà được đâu trăm cây số chừng đôi ba bữa là đã thấy nhớ cồn cào
cả người. Có lạ không.
Vẫn
có những chiều đang lang thang giữa phố, lòng bỗng nhiên chùng xuống
khi chợt thấy chân mình lỡ đạp trùng lên mấy lọn nắng cũ vàng hoe. Hay
những sớm thức dậy bỗng thấy buồn ngang vì một tiếng xe thổ mộ lăn lóc
cóc đều đều như gõ nhịp vào thiên cổ. Cái thằng đang vui đời đô thị bỗng
trở buồn ngang xương vì vệt nắng hoang, vì tiếng xe ngựa sao giống y
như bóng nắng tiếng xe ở quê nhà. Có một cái gì trùng lẫn ở đâu đây.
Dường như mấy góc phố nhỏ, cây me già cỗi, đêm mưa tỉnh lỵ, giọt trăng
châu thổ… vẫn là một dù người ta đã thay nơi đổi chốn. Người đi bỏ lại
hình ở chốn cũ mà quên bóng cứ lúc thúc theo sau. Có lúc giả bộ ngoảnh
mặt mà thật ra có làm ngơ được đâu. Nó cặp kè, lẩn lút, chỉ đợi dịp là
ló mặt ra trêu chọc. Bởi vậy mà trong khi đầu tôi thì háo hức lo đuổi
bắt mấy cái bóng sắc mới lạ thì lòng tôi lại trì trì những kỷ niệm cũ
xì. Cứ như vậy mà giằng co níu kéo hết tháng sang năm lòng vòng chơi mãi
cái trò bắt trốn. Hết nhớ rồi quên. Hết quên rồi lại nhớ. Riết rồi tôi
cứ thả mặc cho dòng đời xốc nổi, bởi gốc vốn từ đất ruộng bốc bụi bay đi
thì làm sao chẳng có lúc tấp lại bên đường mà không nhớ xó đất quê!
Vậy đó, suốt mấy năm lang bạt ở Sài Gòn, mặc dầu lúc nào cũng tỏ ra là “tay chơi”
sành sõi, nhẵn mặt khắp đầu trên xóm dưới, như một dân Sài-gòn chính
hiệu, tôi vẫn cứ là một tên nhà quê đặc sệt ở trong lòng. Hở ra là nhớ.
Nhớ từ cọng cỏ ướt sương nhớ đi. Nhớ từ bụi lúa trổ đòng đòng nhớ lại.
Người tình đầu đời sao tôi quên cái một. Mà khoảnh đất quê nhà sao tôi
lại nhớ hoài. Có lúc tôi thấy thèm về ngồi lại trên bực đá lở bên bờ
sông Cái, một buổi trưa hè nào đó, lượm đá thảy lia thia trên mặt sóng
mà đầu thì thả lông bông như một người vô tích sự. Có lúc tôi muốn được
quay lại bãi cỏ xanh cạnh ngôi đền văn miếu cũ, chắp hai tay sau gáy nằm
dài ra đó ngủ dật dờ ngó lơ mơ mặc cho cuộc đời xoay trở chung quanh.
Cả cái tỉnh nhỏ mà gần như ai nấy đều biết mặt nhau, ở thì rầu muốn chết
mà đi xa thì nhớ đến đứt ruột. Tôi cũng không biết tại sao. Có phải cái
đó là cái mà mấy ông văn sĩ gọi là tình quê đó chăng?
Tôi
nhớ những con đường lặng lẽ duổi dài theo bóng mấy hàng sao, tôi nhớ
cái châu thành nhỏ xíu như chiếc khăn tay với những căn nhà xây cất nửa
tây nửa ta, nhớ mấy quán sinh tố góc chợ chiều có mấy cô chiêu đãi quê
mùa gọi mời đon đả. Tôi nhớ ngôi trường Tiểu Học với cái sân chơi lầy
lội, ngôi trường Trung Học im ỉm uy nghiêm và tiếng trống gọi trường
nghe dồn dập đến thót tim mỗi lần ham chơi tụ tập lê la ngoài phố. Tôi
nhớ như in dãy phố tàu. Bạn bè dăm đứa rủ rê nhau. Áo phanh ngực đón mùi
hương lạ. Háo hức chia nhau khói thuốc đầu. Còn nữa, còn nhiều lắm, làm
sao kể hết. Ngay cả những thứ có lúc thấy tầm thường, nhạt nhẽo gì đâu
mà sao cứ… nhớ ơi là nhớ!
![]()
Như
cái bến phà Mỹ Thuận vậy đó, tôi đã đi qua lần đầu đâu thuở chín mười
tuổi rồi cứ nhớ hoài mặc dầu sau này, lớn lên đã qua không biết bao
nhiêu là bến đợi khác. Có một cái gì lạ lắm như nối kết tôi, thằng con
trai sinh ra và lớn lên ở bên này sông cứ nhìn ngó bên kia sông như chót
đỉnh của một giấc mơ phiêu lãng. Có phải con sông lớn mênh mông đó như
một ranh giới vô tình đã chằng giữ những cơn mơ tuổi nhỏ. Có phải những
con sóng cuồn cuộn đó đã một thời đẩy đưa hồn tôi phiêu lưu đến những
chân trời xa tít, miễn phí và không nguy hiểm. Bằng lý do nào, thì đó
vẫn là nơi ưa thích nhất và cũng là nơi tôi nhớ nhiều nhất, nhất là từ
lúc biết mình khó có dịp qua lại nữa.
Những
năm mới bỏ xứ ra đi, năm ba hôm là lại chiêm bao thấy mình về quê cũ.
Mà lần nào cũng vậy, mỗi lần lại thấy đứng đợi phà qua bến Mỹ Thuận.
Nghĩ cũng lạ. Lội sông lội suối cũng nhiều mà rồi cũng chỉ nhớ có khúc
sông trắc trở đó thôi. Dĩ nhiên điều đó chắc không ăn nhằm gì với cái vị
trí quan trọng của nó trong việc thông thương ở miền Tây. Quốc lộ số 4
từ Sài Gòn xuôi Nam đến đó là phải khựng lại. Sông rộng mênh mông, tách
nguồn từ Tiền giang ở phía bắc chảy nghiêng nghiêng theo hướng Tây Nam
đến đó phát đổ ròng ròng đến phát sợ. Thuở ấy, tiền bạc và kỹ thuật chắc
còn non yếu quá, người ta chưa đủ sức bắc cầu. Xe đò, xe hàng tới đó là
phải đậu lại, sắp hàng dài thậm thượt đợi lượt qua sông. Gặp lúc có
công-voa nhà binh chiếm ưu tiên là thôi chờ đợi dài người ra. Xe cộ phì
phò hục hặc, khách khứa nhốn nháo, mấy chú lơ xe hấp ta hấp tấp xách
thùng xuống sông múc nước đổ máy cho hạ hỏa, mấy bà mấy cô cũng vội vội
vàng vàng chạy tìm mấy chỗ giải thủy cho nhẹ mình, khi thì bờ ruộng lúc
lại mấy lùm cây khuất khuất hở hở. Cái hoạt cảnh ồn ào náo nhiệt không
có chỗ nào giống được. Lạ lắm.
Làm
như đó là một nơi người ta rất mong cho mau tới, mà tới rồi lại cứ mong
cho mau đi. Nói vậy mà không đi mau được là cũng vui vẻ như thường. Có
khi thấy xe kẹt nhiều quá là thiên hạ cứ miệng lầm thầm rủa xả mà chân
thì xắn xả nhắm hướng mấy cái quán nước thân tình. Hàng quán thì bán đủ
thứ thượng vàng hạ cám. Người đi xa lỡ độ đường không sợ đói. Cơm nước
trái cây bốn mùa, mùa nào thức nấy. Cứ nhìn mấy giỏ mận hồng đào chín
mọng là bắt khát nước, mấy giỏ ổi xá-lỵ căng da xanh mướt mà phát thèm.
Điệu nghệ hơn nữa, những xâu chim trao trảo quay vàng ngậy chảy mỡ bóng
lưỡng chấp chới trong lồng kiếng quyến rũ còn hơn cao lâu Chợ Lớn, mấy
miếng thịt sườn nướng than tại chỗ bốc mùi thơm thấu tới thiên đình. Kề
đó mấy chai bia con cọp sắp hàng dọc ngang như nghinh nghinh thách đố ai
mà chịu nổi. Bởi vậy mà khách giang hồ qua đó thế nào rồi cũng phải có
lần ngả bàn nhậu dọc đường. Mà bởi vậy khách đa tình qua đó cũng không
thiếu người vướng lại những cuộc tình tứ chiếng. Bà lớn bà nhỏ em gái em
nuôi gì không biết chớ chuyện ghen bóng ghen gió vẫn xảy ra hà rằm làm
cho cái bến đổ vốn đã ồn ào lại được thêm phần… ầm ĩ.
Nhưng
mà tại sao là Mỹ Thuận mà không là một cái bến khác. Dọc theo miền Tây
còn bao nhiêu là bến phà. Vàm Cống, Cần Thơ, Rạch Miểu, Chợ Gạo, Cổ
Chiên… sao không nhớ. Mà chỉ nhớ rặt có Mỹ Thuận? Hay tại tôi cũng nòi
tình như ông Cò quận chín trong tuồng cải lương Tuyệt Tình Ca
có bà vợ nhỏ ở Vĩnh Long đã chèo xuồng đưa chồng qua sông Mỹ Thuận về Mỹ
Tho thăm vợ lớn rồi biệt tăm biệt tích luôn mấy chục năm trời. Không,
tôi biết cái bến phà đó từ lúc còn rất nhỏ, chưa tới tuổi có một vợ chớ
đừng nói tới vợ hai. Kỷ niệm của tôi với cái bến phà đó không dính líu
gì hết tới mấy cái chuyện tình duyên tấm mẳn. Nó chỉ dính líu tới cái
tuổi nhỏ mà mộng lớn của tôi thôi. Vốn là quê tôi cách bến phà Mỹ Thuận
đâu chừng chín mười cây số gì đó. Con đường nối liền bến nước với tỉnh
lỵ chạy qua những thửa ruộng nho nhỏ cắt chia bằng mấy bờ đê lúp xúp,
ngang qua vài xóm nhà lá lụp xụp và một hai chiếc cầu xi-măng bắt cong
cong rất điệu. Con đường hiền lành thơ mộng một cách quê mùa, cũng chẳng
có gì là đặc sắc.
Chỉ
có điều con đường đó là cái ngõ thoát êm đềm nhất để chạy trốn nhịp
sống đều đặn nhàm chán của tỉnh nhỏ buồn hiu. Con đường là cái gạch nối
ngắn nhất đưa đứa con trai mới lớn từ thực tế vây khốn đến mộng mị phiêu
lãng qua trung gian là cái bến phà rộn rịp đầy khách lữ hành xuôi
ngược. Lần đầu tiên qua đó một lần năm chín tuổi là bắt mê ngay cái
không khí chộn rộn, tất tả, lăng xăng của kẻ đến người đi, của người qua
kẻ lại làm như ai nấy đều vội vã lắm. Người ta sốt ruột trông cho mau
đến, đến rồi sốt ruột trông cho mau đi, đi hấp ta hấp tấp như chỉ sợ trễ
một chuyến qua sông là sẽ trễ luôn cả một cuộc đời. Làm như cuộc sống
không chịu ngừng lại một chút, cứ phải là những chuyến lên đường.
Ờ,
những chuyến lên đường! Hình ảnh những khách bộ hành lật đật xuống xe,
tay xách nách mang kéo nhau đi như chạy qua phà là cái biểu lộ tuyệt
diệu nhất cho sức hút của dặm trường thiên lý, của kiểu đời gạo chợ nước
sông đã làm tôi mê mẩn suốt một thời mới lớn.
Hình
dung trở lại đứa trẻ sinh ra ở một tỉnh nhỏ lần đầu tiên được cha mẹ
dẫn cho đi Sài Gòn. Chuyến xe tài nhứt khởi hành đâu khoảng bốn giờ
sáng. Trời gần Tết đẫm sương. Lòng xe tối mò. Hơi khói xăng xông lên mũi
kích thích. Đứa bé cố nhướng mắt thật to để nhìn cho hết con đường mơ
trước mặt. Mà có được đâu. Cơn mê ngủ đậu chực trên mí mắt cứ đè sụp
xuống hoài làm nó lắc lắc đầu như để phủi đi mà không phủi được. Tiếng
xe chạy ù ù càng như ru thêm. Nhưng mà mới ngủ gà ngủ gật đâu được một
chút đã giựt mình nghe tiếng anh lơ la oang oang. Bà con cô bác xuống xe qua đò. Có ăn gì thì xả rác trong xe bà con ơi… Đứa
bé giựt mình mở choàng mắt dậy. Ôi thôi đâu mà đèn đuốc sáng trưng.
Người qua lại rộn rịp, kêu réo thúc hối kèn cựa tự nhiên như giữa chỗ
không người. Đứa bé ngơ ngác tưởng trong chiêm bao. Đâu mà mới chút nãy
còn ở giữa đồng hoang tối mịt, mới ngủ quên một chút, bừng con mắt dậy
đã thấy ở ngay giữa bữa chợ đông.
Bỡ ngỡ,
chớp chớp con mắt mấy cái là tỉnh như sáo sậu. Nó khoái chí dòm cái
hoạt cảnh mới thấy lần đầu. À thì ra người ta có ngủ như nó đâu. Người
ta đi đi lại lại, chạy tới chạy lui, cười giỡn nạnh hẹ nhau suốt đêm
suốt ngày. Cái cõi người lớn này lạ thiệt. Đêm hào hứng như vậy cách chỗ
nó ở có bao xa, bằng đâu một chớp mắt thôi. Vậy mà ở nhà mới chạng vạng
ba má đã bắt nó phải lên giường ngủ một mạch cho tới sáng trưng. Như
vậy ở ngoài căn nhà nó ở, ngoài con đường tráng nhựa nó đi tới trường
hàng ngày, ngoài ngôi chợ lớn cạnh bờ sông thỉnh thoảng có mấy gánh sơn
đông về múa võ bán cao đơn hoàn tán, ngoài cái rạp xi-nê chiếu phim cao
bồi bắn lộn với mọi da đỏ… còn có cả một thế giới lạ lùng, vui tươi, rộn
rịp, chờn vờn một sức sống mãnh liệt bừng bừng ngay kề bên cái phố nhỏ
buồn hiu của nó. Đúng là cả một khám phá kỳ diệu.
Xe
chạy chậm lại rồi rà rà tìm chỗ đậu. Mọi người lục tục xuống xe. Thằng
bé nắm chặt tay mẹ nó đi những bước như nhảy. Nó cố làm ra vẻ người lớn
như để được hòa hết mình vào cái thế giới sôi sùng sục quanh nó. Nó nở
mũi hít thật dài một hơi không khí mát lạnh từ ngoài sông thổi tới, thấy
như hít luôn cả cái chộn rộn của đoàn người đang vội vã đi bên cạnh,
luôn cả cái mùi kỳ lạ pha trộn đủ thứ thập vật trần gian: hơi người, hơi
gà vịt treo buộc tòn teng dưới cặp đòn gánh của mấy bà bạn hàng, hơi
trái cây vừa mới hái đổ đống trên sạp, hơi nước lèo của mấy xe hủ tiếu
thơm phức, hơi xăng nhớt nồng nồng, cả hơi tinh sương của một ngày đang
trổi dậy. Trong khi đó đoàn xe chạy chậm chậm cẩn thận từng chiếc một
xuống phà theo sự chỉ dẫn của ông “xếp bắc”, miệng ngậm tu-huýt
mặt câng câng như tự thấy mình quá sức quan trọng. Mỗi chiếc xe bò lên
cầu từ tốn vừa chạy vừa run run chắc vì lòng cầu nhỏ quá chỉ vừa lọt chí
mí. Kề bên một anh lơ chạy lúp xúp tay cầm cục gỗ chặn như để sẵn sàng
can thiệp khi xe lỡ trớn.
Chiếc cầu sắt lót ván kêu rần rần dưới vòng bánh xe nặng trịch. Xe chạy tới đầu “bông-tông” thì ngừng lại, khục khà khục khặc như vừa thấy nguy hiểm chờn vờn trước mặt. Mà nguy hiểm thật. Ở giữa “bông-tông”
là một cái cầu quay hình chữ thập, bề ngang đâu cũng chỉ vừa lọt hai
bánh xe, cái nhánh thẳng nối với đường cầu đâu chỉ dài hơn chiều dài
chiếc xe đò một chút mà lại đâm thẳng ra dòng sông đang chảy cuồn cuộn.
Ngó mà thấy rùng mình. Hèn chi ngay đầu cầu lúc nãy thấy có một tấm bảng
đỏ ghi mấy hàng chữ trắng:”Coi chừng thử thắng xe qua phà”.
Điệu này không khéo xe chạy tuốt xuống sông như chơi. À thì ra tại vậy
người ta bắt bộ hành xuống xe đi bộ bỏ mặc chiếc xe với ông tài xế thử
thời vận. Mà chắc cũng không sao vì ông tài xế coi bộ bình tĩnh lắm,
miệng ngậm trệch điếu thuốc lá, từ từ rà thắng cho xe rề rề chạy xuống
tới mút bửng cầu thì ngừng lại đúng lúc ông kiểm soát khoát hai tay ra
dấu ngừng. Tất cả ăn khớp đúng phốc như dứt hết sáu câu mà rơi ngay đúng
nhịp song lang. Tức tốc, anh lơ xe chêm ngay hai khúc cây chặn cứng hai
bánh xe hết đường nhúc nhích.
![]()
Rồi
đợi đâu sẵn, bốn người phu đứng ngay bốn đầu cầu quay, người kéo người
đẩy vận sức xoay bàn cầu quay một phần tư vòng tròn cho đầu mũi xe hướng
ngay mũi phà đã hạ bửng đợi sẵn. Chiếc xe rú một hơi dài rồi chồm lên
chạy xuống phà. Vậy là xong một chiếc xe. Phà nhỏ chở được có bốn năm xe
là đầy một chuyến. Ông tài công ngồi tuốt trên phòng lái ra lệnh
dỡ bửng. Ai đó đánh một tiếng kẻng. Vậy là coi như nội ngoại bất xuất,
trên dưới không được lên xuống nữa, hành khách và xe cộ không được chộn
rộn chàng ràng nữa. Phà dỡ đõi rồi từ từ lùi ra bến. Trời hưng hửng
sáng. Gió bốc theo khói sóng thổi phần phật mấy tấm bạt che hàng trên
mui xe. Nước bắn tung toé hai bên thành phà làm ướt nhem mấy dãy băng
dành cho hành khách. Mặt trời hà tiện chút ánh sáng vàng cam không soi
nổi con sông lớn quẩy sóng đen ngòm. Phà chạy chậm như thong thả lắm hay
là tại không có sức nhanh hơn. Máy nổ rì rì đến sốt ruột. Ngồi trên mấy
cái băng gỗ có lúc người ta tưởng chừng như đang đứng yên một chỗ nếu
không có mấy dề lục bình trôi băng băng ngược chiều.
Gặp
mùa lũ chướng xem chừng còn nhàn nhã hơn nữa. Phà qua ngang không nổi,
phải thả trôi theo con nước xuống tuốt đuôi cồn rồi mới ì ạch vòng lên
bờ bên kia. Như vậy mà chắc ăn nếu không phà tròng trành có thể lật
ngang như chơi. Vậy mà thằng bé vẫn khoái như thường. Dễ chừng nó còn
mong cho lâu tới nữa. Đâu phải lúc nào cũng được đi trên sông một cách
nghênh ngang như vậy, ngó mấy chiếc tam bản chèo chống lê thê bị sóng
tàu nhồi đờ đẫn mà tội nghiệp. Nó ngửa mặt hứng mấy giọt nước bay trong
gió, tóc dựng đứng như bờm ngựa, lòng mơn man một nỗi vui kỳ lạ. Cùng
lúc trời lộ hết bình minh. Con sông hiện rõ dần, lớn lao, chói lọi, bất
trắc và mê hoặc như một huyền nhiệm. Đứa bé thấy con sông và bến nước
lần đầu tiên mà sao có cảm tưởng như sẽ thấy muôn đời. Tấm lòng nhỏ xíu
của nó như đã dành một chỗ rất lớn cho khoảnh sông nước đó. Nó chăm bẳm
cái hình ảnh của thiên nhiên cựa mình sống dậy như một khám phá bất ngờ.
Và lớn lên một cách đột ngột, từ đó.
Như
vậy mà tôi qua phà Mỹ Thuận lần thứ nhất. Tôi trở ngược lại qua phà lần
thứ hai ít ngày sau gì đó. Cũng y như lần đầu. Chỉ khác là vào buổi
chiều, trời sắp tắt nắng. Bóng đêm chực chờ càng làm con sông, chiếc phà
và người ta thêm gấp gáp. Cũng cái vội vã thêm một chút lo lắng. Cũng
cái ồn ào nhưng bớt đi một chút náo nhiệt. Nhưng không có vẻ gì là sắp
ngừng nghỉ. Sông nước có thôi chảy đâu. Và người ta cũng đâu có hết lên
đường. Ở đó là hình ảnh một dòng sống không có khởi đầu và cũng không có
kết cuộc.
Có
phải tại vậy mà tôi mê cái bến Mỹ Thuận hay không? Tôi đã giữ trong tôi
cái hình ảnh qua lại bất tận trên dòng sông bất tuyệt này rất lâu. Mãi
đến khi lên Trung Học, tôi vẫn thường trốn nhà những ngày nghỉ học đạp
cái xe đạp cà tàng chín cây số lên đó, đứng ngó ngu ngơ một đỗi rồi đạp
xe trở về. Mệt đừ mà lòng lại thấy vui sướng như vừa làm một chuyến đi
xa, hồn mê mải với cuộc mộng du tưởng tượng. Không biết có phải tại tôi
chịu ảnh hưởng của đứa bé mê nhà ga và xe lửa trong thơ Tế Hanh hay
không mà tôi cứ hay làm như nó. “Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt. Lòng buồn đau xót nỗi chia xa”. Cái hình ảnh đẹp và buồn đến dại người. Mà cũng dại thiệt. Tôi mê cái bến phà Mỹ Thuận đến dại dột.
Năm
học lớp Đệ Tứ, cô bạn gái cùng lớp thân thích với tôi như quít với cam.
Còn tôi thì cứ tưởng thiên hạ ai cũng mê thích kỳ quái như tôi. Lần đó
tôi rủ cô ta trốn học, hai đứa lén ra bến xe lam đi Mỹ Thuận. Cô ta nghe
tôi tả cái cảnh và cái tình của Mỹ Thuận nên cũng náo nức đi theo. Đến
chừng lên tới đó thấy phố xá lu bu, người ta lật đật, sông nước thì vô
tình cô ta đâm chán nản đòi bỏ về đi coi chớp bóng. Tôi đâu chịu. Thế là
giặc giã nổi lên đùng đùng. Cô bạn thường ngày phụng phịu dỗi hờn dễ
thương hết sức, hôm đó không biết nổi chứng gì mà quyết liệt còn hơn bà
Trưng thù nhà hận nước dứt khoát bỏ tôi lên xe trở về. Tôi tự ái ở lại.
Xui một cái là sau đó cô ta bị cha mẹ khám phá được chuyến giang hồ vặt,
chắc bị nọc ra đánh đòn rồi đày vào lãnh cung hay sao đó mà thề cự
tuyệt mặt tôi. Thế là “anh đi đường anh, tôi đường tôi…”
Nghĩ
cũng uổng, chỉ vì ba cái vụ lên xe xuống xe mà đành rẽ thúy chia uyên.
Nhưng mà tôi có tởn đâu. Tôi vẫn chứng nào tật nấy. Hể được cô nào thân
ái là tôi cứ cà rà mời cho được lên chơi Mỹ Thuận một lần. Ở đó tôi
huyên thuyên dẫn giải hoặc trầm ngâm tâm sự làm như chỗ đó là giang sơn
riêng của tôi vậy. Có cô cũng kiên nhẫn ngồi nghe nhưng đa số thì giẩy
nẩy đòi về. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại thì cũng đâu lỗi tại tôi. Nơi cái
thành phố tôi ở thuở đó có chỗ nào thơ mộng đâu mà hẹn hò. Chẳng lẽ đưa
nhau vào Văn Thánh Miếu, chỗ thờ ông Thánh Khổng chuyên trị lễ giáo mà
đi lạng quạng dưới mấy gốc mù u tối om để nỉ non tâm sự. Lỡ ổng nghe
được thì hóa ra tôi cũng lỗi đạo với bậc tiên sư. Nếu không thì dưới
bóng cây da Cửa Hữu có miếu Bảy Bà sơn thủy cũng hữu tình nhưng thời đó
nghe đồn bà hay xẹt đi xẹt lại thì càng nên tránh cái chuyện tới đó thề
non hẹn biển.
Còn
cái rạp xi-nê nhỏ như cái lổ mũi chuyên môn chiếu tuồng cao bồi đánh
nhau với da đỏ thì giữa cảnh tên bay đạn lạc đó thì còn đâu tâm trí mà
nói chuyện tâm tình. Vả lại ngay xuất chiếu buổi trưa rạp chẳng có máy
lạnh lại còn đóng cửa kín bưng nên cứ vừa coi phim vừa quạt phành phạch
thì hơi sức đâu nữa mà thủ thỉ. Chỉ có Mỹ Thuận của tôi là thượng hạng.
Vừa có gió sông lồng lộng, có phà trôi rập rình, có đủ thứ quà cáp trần
gian và nhất là có những vóc dáng giang hồ qua qua lại lại. Bến nước là
nơi tao ngộ của những tay tứ chiếng, là ngã tư gặp gỡ của trăm họ miền
Tây. Cà mau, Rạch Giá, Long Xuyên, Châu Đốc, Vĩnh Long, Sa Đéc, Trà
Vinh… Họ băng ngang thì thôi chớ còn xổ dọc là gặp nhau ở đó. Không hẹn
mà gặp. Gặp không chào không hỏi. Gặp một lần trong một đời. Rồi thôi.
Rồi mất biệt như chưa từng đã gặp. Dĩ nhiên chắc họ cũng có trở đi trở
lại nhưng rồi có ai gặp lại ai đâu. Tôi đã thấy ở đó bao nhiêu là mặt
người, bao nhiêu là nhân dáng mà rồi có gặp lại ai bao giờ. Phải vậy
không, ở đó giống y như cái cõi đời này mà một ông Tàu xưa đã cảm thán
đến để rơi nước mắt: “tiền bất kiến cổ nhân, hậu bất kiến lai giã, niệm thiên địa chi du du, độc thương nhiên nhi lệ hạ”.
Đó
là một quán trạm bên đường mà mọi người phải ghé qua trong cuộc hành
thiên lý dù có muốn hay không. Ghé qua một chút, vui vẻ hay buồn rầu,
nhẹ nhàng hay gồng gánh thì cũng phải ghé qua, đi tới đi lui, dòm ngó
loanh quanh rồi quay lưng đi mất biệt. Đó chẳng giống cái đường trần
thăm thẳm này sao mà khách lữ chính là chúng ta đó. Chúng ta đến rồi đi
có ai biết, dòng đời vẫn chảy đến biệt mù cũng chẳng làm sao hay. Thuở
ấy tôi đã triết lý vụn như vậy với bạn bè mà không ai chịu nghe tôi.
Riết rồi chỉ còn mình tôi là đi lại chung tình với cái bến phà-bến đời
náo nhiệt đó. Vậy mà hay, bởi vì ở đó tôi đã sống bao nhiêu cảnh tình mà
cả chục năm sau tôi cũng chưa hề sống lại được. Bãi trường năm 66, 67
gì đó, tôi từ Sài Gòn về quê nghỉ hè, cô bạn con nhà trọc phú được cha
mẹ lo cho đi du học ở Pháp, ngày đi quá bất ngờ cô ta đáp xe đò về tìm
tôi từ giã. Không biết lúc ấy lòng buồn đến đâu mà sau khi đưa cô ta qua
sông trở lại Sài-gòn, một mình đón phà ngược trở lại, bỗng nhiên tôi
khải ngộ được một điều thắc mắc từ thuở mới mê thơ. Đưa người ta không đưa qua sông. Sao có tiếng sóng ở trong lòng.
Trời
ơi lần ấy tôi mới thấy hết cái tài hoa của người thi sĩ mệnh bạc. Đưa
người, ông không đưa qua sông mà nghe sóng vỗ ở trong lòng. Còn tôi đưa
người, tôi lại đưa ngang sông thì sóng vỗ biết cơ man nào mà nói. Con
tim dù lớn cách mấy cũng chỉ bằng nắm tay thì chỉ có nước chết đuối
thôi. Lần đó tôi tôn ông Thâm Tâm làm sư phụ. Mấy thằng bạn trời đánh
của tôi chỉ lo chạy xe lạng đào trong thành phố làm sao hiểu thấu được
cái lớn lao u trầm của người thơ. Đời mộng và thực như vậy đó bàng bạc
trên từng ngọn sóng, từng khúc quành, từng vết xe lăn, từng chuyến phà
ngang trắc trở. Sao không tới đó mà coi, không tới đó mà nghe tiếng đời
kêu réo. Phải rồi còn cái tiếng đời huyễn hoặc này nữa, tiếng độc huyền
của ông ăn mày mù ngồi trước hàng ba một tiệm nước. Ông ta ngồi đó tự
lúc nào tôi không biết.
Chỉ
biết khi tôi bắt đầu quến thật sự cái sinh hoạt của bến Mỹ Thuận thì
ông ta đã có ở đó rồi. Ông ta ngồi đó lặng lẽ, nhỏ nhoi, có mà như không
có, giống như cây cột đèn bữa cháy bữa không. Sự có mặt của ông có làm
bận tâm ai đâu họa chăng là mấy thầy phú-lít. Nhưng mà ông ta mờ nhạt
quá, cũ kỹ quá nên riết rồi người ta cũng lờ đi coi như là một vai câm
của vở kịch cứ đổi cảnh hoài. Như cái phần tĩnh của bức tranh động vậy.
Ông ta ngồi yên như một khúc gỗ đẽo sần sùi, lưng cong vòng, mặt nghiêng
nghiêng, đôi mắt sâu hoắm, hai chân xếp lại, gần như không nhúc nhích.
Chỉ có tiếng đàn của ông là bay lượn thảm sầu. Cái giọng ỉ ôi như kêu
rêu, như trách cứ mà cam phận, nghe nghèn nghẹn đến tức tưởi. Nó gần như
gom hết tất cả cái gì oan nghiệt nhất, cái gì đoạn trường nhất, cái gì
tang thương nhất của cuộc đời này lại rồi phát ra một lượt làm chết
điếng lòng người. Đàn chỉ có một dây thôi mà đủ hết mùi trường hận.
Tôi
khám phá ra ông một bữa về ngang trời đổ mưa bất chợt. Mọi người chạy
túa vào mấy cái mái hiên tìm chỗ đụt. Vừa tấp vào một quán nước tôi để ý
tới người đàn ông mù tức khắc. Có một vẻ gì lạ lắm toát ra trên gương
mặt vô tri như trét sáp. Ông ta ngồi đó, lặng lờ như một vệt khói, mặc
cơn mưa rào rơi lộp độp, mặc đám phàm nhân lao xao. Ông làm như không
hay biết gì hết, ông chỉ biết tiếng đàn của ông thôi. Mấy ngón tay xương
xẩu, đen đúa thoăn thoắt bắt nắm sợi dây đàn độc nhất, còn bàn tay trái
vặn vẹo cái cần gỗ đã lên nước bóng ngời. Tôi không biết ông đàn bản gì
chỉ nghe được cái não nuột của âm thanh như từng mũi kim chích thẳng
vào da thịt mình đến nhức buốt. Tiếng đàn thoát đi bay lượn lẹo trong
không khí ẩm đục nghe như tiếng khóc từ cõi âm vọng lại, kêu réo, van
nài làm tôi rùng mình muốn phát lãnh. Nó bay ra xa, uốn éo rồi vòng lại,
oằn oại. Nó vút lên cao, lanh lảnh rồi chùi xuống thấp, rụng rời. Người
ăn mày mù vẫn say mê đàn như không biết cái tiếng đàn ma quái đang
truyền nhiễm về đời bóng tối của u minh, dẫn đường cho những hồn oan kéo
nhau về lướt thướt.
Một
lúc mưa bỗng tạnh. Mọi người lục tục bỏ đi. Có bà nhón vài đồng bạc cắc
bỏ nhẹ vào cái hộp thiếc đặt trên góc chiếu. Còn đa số thì chắc quá vội
đi mà không kể gì đến tiếng đàn bỏ lại. Còn tôi sao tôi bỗng nhiên thấy
đi không nỡ. Sao tôi có cảm giác như thiên hạ quá vô lễ với nghệ nhân.
Người ăn xin mù đó đúng là một nghệ nhân. Con người đó, tiếng đàn đó sao
tôi thấy tài hoa đến tột vời. Mù đã là một thiệt thòi. Mù mà tài hoa
thì đúng là tội nghiệt. Có phải ông mù đã gởi tâm sự mình trong tiếng
đàn tận tuyệt đó không? Tôi quay vào quán, gọi một ly cà-phê bảo người
hầu bàn đem ra cho người ăn xin rồi đến ngồi trong một góc nhìn ra. Suốt
buổi chiều, tôi ngồi nghe lóm hết khúc này đến khúc khác, lòng cứ thắc
thỏm từng hồi theo mấy cung bạc mệnh. Mà thật ra tôi có biết bài bản nào
đâu.
Thuở
đó đối với tôi, những kim tiền bản, khốc hoàng thiên hay gì gì nữa cũng
là quê mùa hết. Tôi chỉ khoái rum-ba với lại xì-lô. Đã nói tôi còn dại
dột lắm mà. Vậy mà buổi chiều đó tôi ngồi im như chết trong góc quán,
hồn mỏi mê như bị ma ám, lần đầu tiên khám phá ra cây độc huyền quái
đản. Tại sao có loại đàn kỳ dị như vậy. Và tuyệt diệu như vậy. Còn người
mù đó nữa, có phải chính cặp mắt đục lờ đó mới nhìn thấu được tới vô
thanh để biến ngũ cung thành trăm bài kinh khổ? Đã có lúc tôi tưởng
chừng ông ta biến đi đâu mất tiêu mà chỉ còn tiếng đàn ở đó thay ông kêu
khóc. Hay có thể nói ông ta và đàn như nhập làm một. Làm sao có sự hóa
thân kỳ diệu đó nếu không là một bậc dị nhân. Có lúc thần trí tôi mê
hoang tưởng như Sư Khoáng đội mồ trở về vác đàn đi tìm bạn tri âm… Rồi
tiếng đàn dứt. Tôi giựt mình thấy mình ngồi ủ rũ. Trời ngoài kia đã
chạng vạng, bến phà cũng thưa bớt người qua.
Bữa đó khi ra về tôi đã dốc hết tiền còn lại trong túi cho ông ta rồi nhảy lên đeo xe hàng có giang về chợ.
Đấy
cái bến Mỹ Thuận nó hỗn mang như vậy đó, nó tập trung tất cả mọi hạng
người từ cùng căn mạt kiếp tới những tay đâm thuê chém mướn, coi trời
bằng vung, trước ngực thì xăm “hận kẻ bạc tình” sau lưng thì xăm “thù người hại bạn”
đến người cuồng sĩ tối ngày cứ đón phà từ bờ này qua bờ kia như để đón
đợi một người nào đó chưa bao giờ gặp mặt mà hể mở miệng ra là cứ “liên hoành” với “hợp tung”. Tôi đã thấy có ông tự chặt ngón tay thề thôi cờ bạc, có ông cầm dao đòi rạch bụng khi người yêu đòi “tách bến sang ngang”, có ông dẫn cô nhân tình bụng mang dạ chửa đâu từ dưới quê lên tới đó rồi “quất ngựa truy phong” bỏ cô ngồi khóc bù lu bù loa bên bờ sông “định mạng”.
Tôi đã thấy những anh lơ xe mở miệng ra là chửi thề thí mạng mà giữ chữ
tín còn hơn cả đám anh hùng Lương Sơn Bạc, những em bé bán hàng rong
nhỏ như ngón tay út tối ngày chạy theo mấy chuyến xe đò ép nài từng xâu
mía ghim để nuôi bà mẹ tật nguyền. Mấy ông già ngồi bán báo mà thông
hiểu trời đất không sót một mảy may, bình chuyện đời xưa không thua gì
Mao Tôn Cương hay Kim Thánh Thán. Thôi thì đủ thứ cảnh đời mà có học đến
già người trong trường lớp cũng không làm sao biết được. Bởi vậy tôi
yêu mến Mỹ Thuận như một người tình chung thủy, như một người thầy lão
luyện đã dạy tôi bao nhiêu ngón khôn khéo mà cũng không biết bao nhiêu
món đoạn trường. Có lúc tôi tự thấy mình giàu có như một tay hào trưởng.
Bởi vậy bỏ đi xa rồi mới thấy mất mát biết bao nhiêu.
Ở
đây xa quá lắm lúc nhớ quê, tôi hay làm thơ kể lể. Có khi nhắc tô canh
chua tôm nấu với bông sua đũa, nhắc tộ cá lòng tong kho khô rắc chút
tiêu thơm, có khi nhớ dĩa cơm sườn ram mặn, nhắc tô hủ tiếu của chú
Thoòng có cái bụng to bằng thùng nước lèo, có khi thèm nghe lại một điệu
vọng cổ mà hồi trước cứ chê lên chê xuống. Trời ơi bây giờ mà cho tôi
chui vào rạp Miếu Quốc Công đeo tòn teng mấy chiếc cột chỗ hạng cá kèo
mà coi tuồng cải lương Nửa Đời Hương Phấn chắc là tôi sướng
lắm. Nhưng mà sướng hơn nữa nếu được về đứng lại dòm ngó ngu ngơ hai bên
bờ sông Mỹ Thuận như ở tuổi mới vào đời.
Vậy
đó tôi vẫn nhớ quê như mọi người nhớ quê của họ. Tôi còn nhớ thêm cái
bến nước ơn nghĩa của tôi nữa. Nơi mà không ai chịu nhớ tới chỉ bởi cái
tội nằm ở giữa một chặng đường. Người ta chỉ nhớ nơi đi và nơi đến. Đâu
ai bỏ công đi thương nhớ một trạm dừng. Rồi bây giờ nghe đâu người ta đã
bỏ luôn cái bến phà đó nữa. Người ta đã cất cầu treo ở trên dòng sông
lớn. Những chuyến phà chắc đã kéo vào ụ hay rã ra đem bán sắt vụn. Hàng
quán hai bên bờ chắc cũng phải đóng cửa. Mấy người chủ quán chắc đã đổi
nghề khác làm ăn. Con đường đá chạy xuống phà chắc bây giờ bỏ hoang cho
cỏ dại mọc lan. Tôi không về nên chỉ tưởng tượng được thôi. Sông kia rày
đã nên đồng. Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai. Đêm nghe tiếng ếch
bên tai. Giựt mình còn tưởng tiếng ai gọi đò. Đấy ông Tế Xương ngày xưa
cảm khái như vậy đó sau khi con sông ở Nam Định quê ông bị Tây tới lấp
đi. Nghe mà thấy tội tình. Tôi nghĩ ông chưa nói hết những điều muốn
nói. Ông không chỉ nhớ tiếng gọi đò thôi đâu. Chắc chắn ông còn rất
nhiều kỷ niệm khác mà ông giữ kín cho riêng mình. Bởi vì nói ra cũng
không hết được. Mà lắm khi còn bị bĩu môi là hoài cổ, là không thức
thời.
Cũng
như tôi bây giờ vậy, tôi cứ bị người thân kẻ lạ rầy rà, lắm khi mắng
nhiếc khi thấy tôi cứng đầu cứ khư khư giữ riết lấy cho mình những hình
ảnh cũ, những thương tiếc này, những ngậm ngùi nọ. Chi mà mệt vậy. Quên
phứt cái cho được việc. Cuộc đời còn hàng trăm chuyện phải lo, hàng ngàn
chuyện phải làm, nhắc làm chi cái chuyện đất nước cũ xì, mốc thếch.
Chuyện đời thay ngôi đổi chúa là thường tình, trăm họ có khốn khó thì
cũng là vận số thôi. Thì vâng. Nhưng vận số gì mà quái đản. Kẻ quyền thế
dư ăn dư mặc thì cứ ngày một phủ phê. Còn bạn bè anh em tôi vốn dĩ
nghèo đói ngu dốt thì cứ tiếp tục trần ai khổ lụy. Nếu tin được vào vận
số thì cũng phải tin vào một quyền lực thiêng liêng nào đó. Mà hễ thiêng
liêng thì phải có công bằng. Đằng này chuyện bất công ngang trái cứ xảy
ra nhan nhản. Như vậy thì đâu phải là vận số nữa. Mà cái này đúng là
chuyện thế gian rồi. Ai đời một dân tộc với đức kiên nhẫn, tánh cần cù,
lòng đạm bạc đã đi vào huyền thoại mà mấy mươi năm rồi vẫn không ngóc
đầu lên nổi thì thử hỏi có lạ không. Đã không còn giặc giã để đổ thừa,
cũng không ai chen vào phá đám. Vậy thì tại sao? Chắc chắn không phải
tại đám con đỏ đang chạy gạo từng bữa toát mồ hôi, càng không phải tại
đám con ghẻ lang bạt kỳ hồ tứ tán ngoài cõi tạm. Vậy thì tại ai? Hỏi thì
cứ hỏi chớ câu trả lời đã sờ sờ ra đó.
![]()
Gần
đây bè bạn ân cần gởi cho mấy tấm hình chụp chiếc cầu trên sông Mỹ
Thuận. Cầu mới tinh, cất theo kiến trúc và kỹ thuật tân kỳ, thoạt nhìn
ngất ngưởng chẳng thua gì Kim Môn Kiều ở Cựu Kim Sơn, chỉ thiếu có một
chút sương muối lửng tha lửng thửng là lẫn lộn như chơi. Cũng mấy cột
tháp cao treo mấy sợi dây cáp cong cong. Nhìn trong hình chắc không đẹp
bằng cảnh thực. Ngoài đó có con sông lớn, có gió lồng lộng, có mặt trời
dát vàng buổi sáng, có mặt trăng dát bạc đêm rằm chắc còn đẹp hơn nữa. Ở
xa tôi hình dung xe cộ qua lại suôn sẻ, khách đi đường khỏi phải lên xe
xuống phà lôi thôi. Nghĩ tới nghĩ lui thấy cũng mừng. Mặc dầu trong
bụng vẫn có chút nao nao khi biết đã mất rồi nơi chốn cũ. Bến phà xưa
không còn nữa thì những vóc dáng xưa chắc cũng đã biệt mù. Chén cơm nóng
lỡ đường, giỏ ổi làm quà đường xa, ly nước mía mới ép ngọt lịm, người
chủ quán hay kể chuyện Tam Quốc mấy buổi trưa ế khách, những cuộc tình
xốc nổi, những gặp gỡ bất chợt, người hành khất mù và ngón đàn tận
tuyệt… tất cả rồi sẽ được xếp vào loại chuyện cổ tích mà người kể nào
cũng bắt đầu bằng hai tiếng “hồi xưa…”.
Có
thể mấy chi tiết mà tôi vừa nhắc đã mất đâu từ nhiều năm trước. Có thể
trong thời buổi gạo châu củi quế người ta phải vội vã hơn trước, ăn uống
nhín nhút, nói cười dè sẻn chớ không còn bung thùa như thuở tôi còn đi
lại. Có thể cái bến nước đó đã mất phong độ từ lúc mới đổi đời. Nếp tinh
thần đã khác thì nếp sống cũng khác theo. Người đi lại ơ thờ thì sông
nước cũng chỉ là một cõi bơ vơ có lấy gì làm thân thiết. Nếu bây giờ
đường đi phải rẽ qua hướng khác để đắp cao dốc cầu, bỏ lại xóm cũ hắt
hiu thì cũng chỉ là nối tiếp một cách hợp lý cái cuộc sống đã bị bỏ quên
từ lâu lắm. Bởi vậy mà càng nhìn tấm hình chiếc cầu mới, tôi càng thấy
buồn hơn vui. Chiếc cầu được xây cất bằng vốn liếng tiền bạc và kiến
thức của người nước ngoài để nối hai bờ con sông trắc trở. Mừng thì có
mừng cho việc đi lại đỡ phần vất vả nhưng sao vẫn tiếc cho một nếp đời
đã ăn sâu trong lòng của một số không ít người.
Và
nhất là cứ tự hỏi, sao còn hàng chục triệu chiếc cầu lỗi nhịp trong
lòng người mà không chịu lo bắc lại để mọi tấm lòng người Việt không còn
những bờ bến phân chia?
Chính vì những chiếc cầu lỗi nhịp đó mà tới giờ này tôi chưa trở lại được quê nhà.
Cao Vị Khanh
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23789 |
![]() ![]() ![]() |
Tiếng Gà Gáy Nỗi Nhớ Quê Hương
“Giữa trưa nghe vọng tiếng gà,
Bỗng dưng nhớ quá quê nhà xa xôi.”
(Khiếu Long)
Maurice là tên một con gà trống đang sống trên một hòn đảo
mang tên Oléron, ngoài khơi bờ biển phía Tây nước Pháp. Maurice bị ra trước
“vành móng ngựa” vì tội cất tiếng gáy mỗi buổi sáng, làm phiền đến một đôi vợ
chồng già mới dọn đến nghỉ hưu ở đây, nên họ đã đâm đơn “thưa kiện.”
Corinne Fesseau, chủ của gà trống Maurice, đã trình bày tại
phiên tòa rằng từ lâu nay, không một ai phàn nàn về tiếng gáy của con gà trên
hòn đảo, trừ một đôi vợ chồng khó tính này. Nếu tòa ra phán quyết chống lại
Maurice, chủ của con gà sẽ có 15 ngày để chuyển con gà trống đi nơi khác hoặc
phải tìm cách làm cho nó im lặng.
Chủ nhân đã làm đủ mọi cách để cho Maurice ngưng tiếng
gáy, nhưng làm sao để cho một con gà trống thôi gáy khi mặt trời bắt đầu ló dạng
ở phương Đông được?
Để bảo vệ cho quyền được gáy của nhũng con gà trống, khoảng
140,000 người dân trên đảo Oleron đã ký vào đơn thỉnh nguyện “Cứu lấy Maurice.”
Rồi, một phụ nữ ở khu chăn nuôi vịt tại Landes đã bị kiện ra tòa khi hàng xóm
than phiền về tiếng vịt cạp cạp mỗi ngày. Kế hoạch “Ủng hộ vịt Hardy” sau đó
cũng được đưa ra và nhận được khoảng 5,000 chữ ký ủng hộ quyền được kêu của vịt.
Những vụ kiện này không phải từ nông dân từ ngàn xưa đã lớn
lên ở vùng nông thôn mà do những cư dân thành thị đến sinh sống nơi đây. Địa
phương làm thế nào để bảo vệ những âm thanh đã có từ nghìn đời trước mà giờ đây
bắt đầu bị than phiền bởi những cư dân nơi khác đến đây, như tiếng chuông nhà
thờ, tiếng cừu, tiếng dê kêu và tiếng lục lạc của những đàn bò trên đường làng…
Chúng ta đã bao giờ sống ở nông thôn chưa, để buổi bình
minh nghe tiếng gà gáy, tiếng chuông chùa buổi sáng, tiếng nghé ngọ của đàn
trâu ra chuồng và cả tiếng ríu rít của đàn chim sẻ vừa sà xuống nhặt thóc trên
sân. Ở những vùng núi Việt Bắc, qua những ngày lưu lạc, buổi sáng thức giấc,
chúng tôi còn nghe được những tiếng chim kêu thánh thót trên cây vông bên ngọn
suối ở đầu nhà. Cũng có khi chúng ta nghe được tiếng còi tàu, vẳng lại từ đâu
đó, qua những dòng sông, những cánh rừng.
Ngày xưa trước năm 1975 ở trong Nam, khi nghe lời hát
“trâu bò về giục mõ xa xôi, hỡi chiều!” trong nhạc khúc “Nương Chiều” của Phạm
Duy, tôi cứ tưởng buổi chiều, người ta đánh mõ ra hiệu để lùa trâu bò về chuồng.
Nhưng không, khi ra ở tù vùng Việt Bắc, tôi mới biết, để khỏi thất lạc, người
ta cho trâu bò mang dưới cổ, những chiếc mõ nhỏ, khi di chuyển hoặc ăn cỏ,
cái đầu bò chuyển động, tạo nên những tiếng mõ nghe lốc cốc, đều đặn. Buổi chiều
khi người ta lùa trâu bò về bản làng, trâu bò nhập bọn, tiếng kêu nghe lớn và đều
đặn hơn.
Cho nên ở mỗi địa phương, mỗi vùng lại có những âm thanh
khác hẳn nhau, như tiếng rao hàng rong, ở mỗi địa phương mỗi khác.
Ở thành phố Sài Gòn, buổi sáng chúng ta được nghe tiếng
xích lô máy nổ dòn tan dưới đường, tiếng còi xe đâu đó. Ở những vùng ngoại ô,
ban sáng, nhiều khi còn nghe được cả xe thổ mộ, với tiếng chân ngựa gõ trên đường,
chở hoa tươi hay rau quả về thành phố. Mỗi ngày, trong xóm, chúng nghe tiếng
rao hàng ngọt lịm như “sương sa, hột lựu” hay “nước dừa, đường cát,” tiếng
chuông xe kem leng keng hay tiếng loảng xoảng của một xâu kim loại trong tay của
một người mù tẩm quất!
Có một đêm nào, nơi lạ nhà, khó ngủ, bạn nghe không tiếng
ru con của một bà mẹ bên nhà, tiếng ru não nuột, lời ru xót xa mang tâm sự của
người ru, hơn là những tiếng dỗ dành cho đứa bé trong nôi.
Còn nhớ đến trang sách giáo khoa thư nói về những âm
thanh của một đêm khó ngủ: “Ở dưới giường, con mọt nghiến gỗ kèn kẹt như người
đưa võng. Ở đầu giường, cạnh cái tủ, chuột chạy sột sạt, bên cạnh mình, muỗi
kêu vo ve. Thỉnh thoảng lại nghe tiếng con thằn lằn bắt muỗi. Con nắc nẻ bay xè
xè bên vách.
Không những trong nhà, mà bên ngoài cũng có tiếng động. Cạnh
nhà, gió thổi vào những tàu lá chuối, nghe như mưa; ngoài vườn, tiếng dế kêu ri
rỉ. Trời mới mưa, các chỗ trũng đầy nước cả, nên cóc và ếch, nhái đều kêu inh ỏi.
Xa xa thì nghe tiếng chó sủa trăng.”
Ưu thời, mẫn thế như nhà nho Nguyễn Khuyến, đêm khó ngủ,
nghe tiếng: “Con trẻ u ơ chừng muốn dậy, ông già khúng khắng vẫn còn ho!” Nhớ
nước, thương nòi như Trần Tế Xương: “Đêm nghe tiếng ếch bên tai, giật mình cứ
tưởng tiếng ai gọi đò?”
Sau vụ thảm sát Mậu Thân năm 1968, khi trở về Huế, mỗi buổi
tinh mơ, khi mặt trời chưa mọc, chừng bốn năm giờ sáng, trong vùng thành nội đổ
nát, tôi đã luôn bị đánh thức tiếng chuông mõ và tiếng tụng kinh râm ran, khắp
cùng từ những gia đình trong xóm. Không khí tang tóc bao trùm lên cả một thành
phố oan khuất!
Bây giờ dù là ở đất khách, trên gác trọ, không còn được
nghe tiếng pháo đón Xuân sang. Nơi này, có những đêm khó ngủ, có khi nửa khuya,
gần thì nghe tiếng nước tự động tưới trong vườn, xa xa có tiếng còi của xe cấp
cứu hay tiếng trực thăng ầm ì đâu đó trên bầu trời.
Bây giờ là thời đại mới, người ta có thể bực mình và có
quyền khiếu nại vì một tiếng gà gáy hay tiếng một con chó sủa ban đêm, khi nghĩ
tự do và an toàn của mình đang bị xâm phạm. Bây giờ là thời của những ngôi chùa
không bao giờ có tiếng chuông chiều, chúng ta ít khi còn nghe được tiếng chim
hót, trông thấy ánh đèn lập lòe của những xe phở về khuya, và những tiếng rao
hàng từ đâu vẳng lại.
Nhưng trên tất cả âm thanh ngày cũ, tiếng gà gáy sáng hay
chúng ta được nghe đâu đó vào một buổi trưa hè vắng lặng, như tác động đến tâm
can, khơi lại cho chúng ta bao nhiêu nỗi nhớ.
Cả một đời đi xa lưu lạc quê hương, trưa nay lòng bỗng
dưng bâng khuâng bởi một tiếng gà! Huy Phương
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23789 |
![]() ![]() ![]() |
Tình Người Biết Ơn _ Human Love for Gratitude
Mừng Lễ
Chúa Sinh Ra Đời (Christmas) là một biến cố trọng đại nhất hàng năm và
mang ý nghĩa thiêng liêng nhất, đối với tất cả những người quốc gia trên
thế giới theo Kitô Giáo hay theo Đạo Tin Lành, đều tin vào cùng một
Thiên Chúa (God), là Đấng Tối Cao tạo dựng ra loài người, loài vật, trời
đất, cỏ cây và biển khơi.
Riêng tại
Hoa Kỳ còn có thêm ngày Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving) Thiên Chúa, sau là tạ
ơn Ông Bà, Cha Mẹ và những ân nhân đã giúp đỡ mình trong những năm qua.
Ngoại trừ những người cộng sản vô thần chỉ tin vào Tổ Phụ của họ, là
người lãnh tụ tối cao duy nhất và là người đầu tiên đã sáng lập ra đảng
cộng sản vô thần của họ mà thôi.
Note: hình trong bài là minh họa
Năm nay,
vào ngày 28 tháng 11 vừa qua là ngày Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving) tại Hoa Kỳ,
là một ngày Đại Lễ của quốc gia Hoa Kỳ hàng năm, cho mọi người được
nghỉ ngơi ở nhà, không cần phải đến sở làm việc, để có dịp tụ họp gia
đình lại với nhau, mở tiệc ăn mừng cảm tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho dân
chúng Hoa Kỳ nói riêng, được hưởng một đời sống tự do, no ấm, hạnh phúc
như ngày nay và cũng là dịp để mọi người được bầy tỏ tấm lòng biết ơn về
sự giúp đỡ lẫn nhau, trong quá khứ cũng như trong hiện tại.
Trong dịp
ngày Lễ Tạ Ơn mỗi năm của người dân Hoa Kỳ, riêng những người quốc gia
Tị nạn cộng sản thuộc 3 quốc gia Đông Nam Á như Việt Nam, Miên, Lào,
cũng cùng nhau hiệp ý áp dụng một truyền thống tập tục tràn đầy ý nghĩa
tốt đẹp của người Hoa Kỳ, mà vừa mới được kể trên đây, tất cả chúng ta
đều một lòng tỏ bầy sự biết ơn sâu xa đối với quốc gia Hoa Kỳ, đã mở
rộng đôi bàn tay nhân ái, vui mừng đón nhận chúng ta vào sinh sống trên
mảnh đất tự do, dân chủ, no ấm, hạnh phúc này gần 45 năm qua, đồng thời
cũng là một dịp đặc biệt để chúng ta trực tiếp hay gián tiếp bầy tỏ lòng
cám ơn những người đã bảo trợ chúng ta, qua Nhà Thờ, qua Cơ Quan Từ
Thiện, qua các Đoàn Thể, Hội Đoàn Công Tư Chức hay qua các cá nhân
người Hoa Kỳ, để cho chúng ta được phép rời khỏi các trại tạm cư Tị nạn ở
trong nước Hoa Kỳ hay ở các trại Tị nạn quốc ngoại như Thailand,
Malaysia, Indonesia, Philippine v.v… được phép hội nhập trực tiếp vào
đời sống xã hội Hoa Kỳ và được quyền đi làm đủ mọi công việc bình thường
trong các công tư sở tại địa phương, cho đến công việc lao động chân
tay ngoài trời, như người dân Hoa Kỳ vậy.
Để tiêu
biểu cho lòng biết ơn sâu xa của người quốc gia Tị nạn công sản Việt Nam
đối với người bảo trợ Hoa Kỳ, đã tận tình giúp đỡ chúng ta từ tinh thần
đến vật chất, khi chúng ta mới ra khỏi trại Tị nạn với hai bàn tay
trắng, mà tất cả những người Tị nạn cộng sản Việt Nam ở khắp mọi nơi
trên thế giới, không thể nào quên được những câu nói mang ý nghĩa sâu
đậm lòng biết ơn của chúng ta, đối với người bảo trợ chúng ta, đã giúp
đỡ chúng ta khi bị hoạn nạn, mà các bậc tiền nhân của chúng ta đã nhắc
nhở chúng ta rằng: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước phải nhớ nguồn và
một miếng khi đói bằng một gói khi no. Để tiêu biểu trung thực cho ý
nghĩa của những câu nói này, chúng tôi xin tường thuật lại 2 câu chuyện
xẩy ra trong dịp Lễ Tạ Ơn Thanksgiving tại Hoa Kỳ như sau:
Câu chuyện thứ nhất:
Trước năm 1975, anh Thi là một quân nhân Địa Phương Quân, đồn trú tại
một quận lỵ nhỏ, gần quê nhà của anh, Miền Nam Việt Nam, đã cùng vợ và 3
con còn nhỏ dại, đứa lớn nhất mới 10 tuổi, đứa thứ nhì 6 tuổi và đứa
nhỏ nhất mới hơn 1 tuổi, sinh trong trại Tị nạn ở Thailand trước khi đến
Hoa Kỳ. Cả gia đình anh đi vượt biên 2 lần đầu tiên trên con tầu nhỏ,
chứa hơn 100 người trong năm 1975 đều thất bại và bị chính quyền cộng
sản bắt giam một thời gian ngắn, cho mãi tới lần thứ ba cuộc vượt biên
của gia đình anh mới thành công, đến được trại tạm cư Tị nạn Thailand và
ở đây 1 năm thì được giới chức đại diện chính phủ Hoa Kỳ trong Cơ Quan
Cao Ủy Tị Nạn Quốc Tế, cứu xét đơn xin Tị nạn của anh và cho phép anh
Thi cùng vợ với 3 con vào Hoa Kỳ, theo diện Tị nạn cộng sản, tuy anh là
quân nhân thuộc binh chủng Địa Phương Quân VNCH, nhưng trước kia anh đã
từng hoạt động một thời gian dài cho Chiến Dịch Phượng Hoàng tại địa
phương nơi anh ở, do Hoa Kỳ yểm trợ tài chánh, nên gia đình anh được
giới chức Hoa Kỳ ưu tiên cứu xét, chấp thuận cho vào định cư tại Hoa Kỳ,
vì có liên hệ ngành tình báo với chính phủ Hoa Kỳ và sau khi gia đình
anh tới đảo Guam được 1 tuần lễ, thì anh cùng vợ 3 con được đưa vào trại
Tị nạn tạm cư Fort Chaffee. Ở đây được gần 2 năm thì gia đình anh được
một cặp vợ chồng người Mỹ giầu có không có con cái, bảo trợ cho gia đình
anh ra khỏi trại tạm cư để đến định cư tại Oklahoma City.
Thời gian
hơn một năm đầu tiên ra khỏi trại Tị nạn, cả gia đình anh gồm 5 người
cùng sống chung tại tư gia của vợ chồng người bảo trợ và chỉ có một mình
anh đi làm, vợ anh không đi làm ở nhà trông con nhỏ, phụ bếp với bà bảo
trợ nấu ăn và phụ giúp dọn dẹp nhà cửa với bà bảo trợ, trong khi ông
chồng bà hàng ngày lái xe đưa 2 đứa con lớn của anh Thi đi học và chiều
đến, ông lại đến trường đón chúng tan học trở về nhà. Rồi cứ mỗi tuần lễ
vào ngày Thứ Bẩy cuối tuần, bà vợ ông lái xe chở vợ anh Thi đi chợ mua
đồ về nấu cho cả 2 gia đình ăn, nhờ sự chỉ dẫn tận tình của bà bảo trợ
về cách nấu các món ăn Mỹ nên chị Thi được ông bà bảo trợ khen ngợi chị
là người nấu món ăn Mỹ rất giỏi và còn nấu ngon hơn người Mỹ nấu nữa.
Cuộc sống chung trong cùng một nhà với ông bà bảo trợ thật là êm đềm
hạnh phúc cho cả 2 gia đình, gia đình ông bà bảo trợ và gia đình anh
Thi.
Ông bà
bảo trợ không có con cái, chỉ có con mèo là bạn thân của bà và con chó
là bạn thân của ông, nên nay có gia đình anh Thi về ở chung nhà với ông
bà, ông bà rất vui mừng quí mến gia đình anh Thi, coi vợ chồng anh Thi
như con ruột của ông bà và coi 3 đứa con của anh Thi như cháu ruột của
ông bà. Cuộc sống êm đềm hạnh phúc như thế của gia đình anh Thi với ông
bà bảo trợ kéo dài được hơn 1 năm, thì có một người bạn của anh Thi,
quen nhau từ trong trại ty nạn ớ Thailand, nay gia đình anh ta được định
cư tại California, anh này khuyên nhủ anh Thi nên về Cali sống, vì ở
đây khí hậu quanh năm không lạnh và cũng không nóng bức như ở Oklahoma
City, nhất là những gia đình nào có con nhỏ, đều được chính quyền tiểu
bang trợ cấp tài chánh, nơi cư ngụ và y tế tối đa, không phải lo lắng gì
hết. Nghe thấy thế, anh Thi mừng quá, cùng vợ quyết định đành phải từ
giã ông bà bảo trợ đầy lòng bác ái thương người hoạn nạn, như trường hợp
gia đình anh được ông bà bảo trợ ra khỏi trại tạm cư Fort Chaffee.
Ngày ông
bà bảo trợ tiễn chân gia đình anh Thi đi California, ông bà bảo trợ và
vợ chồng anh Thi ôm nhau khóc sướt mướt như đưa đám tang. Hàng năm anh
chị Thi vẫn thường xuyên điện thoại thăm hỏi sức khỏe ông bà bảo trợ và
cách đây một năm, anh Thi cho ông bà biết là đứa con trai lớn nhất của
vợ chồng anh, có bằng đại học MBA và nay đã là Giám Đốc của một hãng sản
xuất đồ điện tử, đứa con gái thứ nhì nay là dược sĩ và đứa con trai út
nay là kỹ sư điện toán. Ông bà bảo trợ nghe tin này rất mừng rỡ và hãnh
diện, đi khoe với tất cả bạn hữu trong Nhà Thờ, là chúng tôi bảo trợ cho
một gia đình Việt Nam có 3 người con còn nhỏ, nay con cái của họ đều
trưởng thành và có bằng cấp đại học các ngành chuyên môn và có sự nghiệp
vững chắc. Năm ngoái cũng vào dịp Lễ Tạ Ơn, vợ chồng anh Thi cùng 2 đứa
con còn độc thân về thăm ông bà bảo trợ và gọi là một chút quà để đền
đáp công ơn ông bà đã tận tình giúp đỡ gia đình anh Thi ra khỏi trại Tị
nạn, về ở chung nhà với ông bà, nên trước khi anh Thi đưa vợ và 2 con
đến thăm ông bà, anh Thi đã yêu cầu các con chung nhau đóng góp tiền,
mua vé du thuyền cho ông bà đi nghỉ mát 1 tháng, tại vài hòn đảo thuộc 3
quốc gia Châu Mỹ La Tinh.
Câu chuyện thứ hai: Ông
bảo trợ độc thân này là chủ nhân một hãng bán xe hơi cũ (dealer of used
cars), năm 1979 ông bảo trợ cho một cặp vợ chồng trẻ tuổi, chưa có con
cái từ trại Tị nạn Indonesia tới Oklahoma. Ông giúp đỡ bỏ tiền mua một
căn nhà cũ giá 20 ngàn đồng thời đó, bây giờ ít nhất phải là 80 ngàn
đồng, cho hai vợ chồng anh chị này ở với nhau, để không phải trả tiền
thuê nhà hàng tháng. Trước năm 1975, anh chồng là cựu sinh viên Trường
Quân Y/VNCH, chỉ còn học thêm 2 năm nữa là anh ra trường trở thành bác
sĩ quân y, nên anh ngỏ ý với ông bảo trợ là làm thế nào có thể giúp anh
vào học trường y khoa ở đây hay ở bất cứ tiểu bang nào khác và cộng thêm
lời yêu cầu tha thiết của vợ anh nữa. Nghe xong, ông bảo trợ tỏ ý sẵn
lòng giúp đỡ ý nguyện này của anh, nhưng ông đề nghị là anh cần đi học
Anh Ngữ full time từ 1 cho đến 2 năm, ông sẽ trả tiền học phí cho anh và
ông sẽ trả lương hàng tháng cho vợ anh làm việc cho hãng bán xe hơi cũ
của ông.
Thế rồi
anh Thi đi học Anh Ngữ full time 2 năm liên tục theo như lời ông bảo trợ
đề nghị và sau 2 năm anh học xong Anh Ngữ, ông có quen thân với ông
Khoa Trưởng của một trường y khoa tại New York và qua sự giới thiệu của
ông bảo trợ, anh Thi đã được chấp thuận cho nhập học trường y khoa này.
Hiện nay anh đã là một bác sĩ nội khoa gia đình (family medical doctor),
làm việc cho một chẩn y viện (clinic) ở một tỉnh nhỏ thuộc tiểu bang
Texas và vợ anh đã sanh cho anh 2 đứa con, các cháu đã trưởng thành đi
làm cả rồi. Cứ mỗi năm vào dịp Lễ Tạ Ơn Thanksgiving, vợ chồng anh lại
đến thăm ông và mỗi lần đến thăm ông đều mang theo một món quà đặc biệt,
được đặt mua trước từ ngoại quốc, để tặng ông làm kỷ vật tỏ lòng biết
ơn ông đã tận tình giúp đỡ vợ chồng anh từ vật chất lẫn tinh thần, từ
ngày đầu tiên vợ chồng anh đươc phép ra khỏi trại Tị nạn đến với ông.
Nhờ vậy
mà ước mơ thầm kín trong thâm tâm anh, là muốn trở thành bác sĩ y khoa
tại Hoa Kỳ, thì nay ước mơ đó đã trở thành sự thực hiển nhiên. Trong lời
nói nghẹn ngào đầy xúc động, anh bầy tỏ với ông rằng công ơn trời biển
bao la này của ông, đã giúp đỡ vợ chồng anh từ khi mới ra khỏi trại Tị
nạn với 2 bàn tay trắng và cho tới ngày anh ra trường y khoa, sẽ không
bao giờ vợ chồng anh có thể đền đáp lại công ơn của ông hết được, chỉ
còn biết nguyện xin Thượng Đế ban cho ông dồi dào sức khỏe và làm ăn
phát đạt, để ông tiếp tục giúp đỡ tha nhân, như ông đã giúp đỡ vợ chồng
anh. Ngày nay ông đã hưu trí và vì tuổi già sức yếu, nên đã 3 lần ông bị
lâm trọng bệnh và phải vào nằm trong nhà thương chữa bệnh và mỗi lần
phải vào nằm trong nhà thương một tuần lễ, thì là những dịp để vợ chồng
anh được đền đáp lại một chút ơn nghĩa với ông, so với công lao to tát
của ông đã giúp đỡ vợ chồng anh, nên vợ anh đã tình nguyện đến săn sóc
ông như Bố ruột của mình, cho tới khi ông được bác sĩ điều trị cho phép
trở về nhà dưỡng bệnh, thì chị mới tạm biệt ông để quay trở về nhà xum
họp với chồng con.
Nói tóm
lại, lòng biết ơn của con người đối với con người là một điều cao quí
nhất trên đời này, vì nó còn nói lên lòng hiếu thảo của con cái đối với
Ông Bà và Cha Mẹ và hơn thế nữa, nó còn là một triết lý truyền thống đạo
đức của dân tộc Việt Nam nói riêng, do các bậc tổ tiên truyền dạy lại
cho con cháu, là hãy noi theo gương báo hiếu của các Ngài, tiếp tục từ
đời này sang đời sau, qua câu thơ ca dao như “Công Cha như núi thái sơn,
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chẩy ra, Một lòng thờ Mẹ kính Cha, Cho
tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Nhiều
người Hoa Kỳ đã bảo trợ những người VN Tị nạn cộng sản ra khỏi các trại
tạm cư ở quốc nội cũng như ở quốc ngoại cách đây đã mấy chục năm, thường
bầy tỏ lòng ngưỡng mộ về sự biết ơn sâu xa của người Tị nạn Việt Nam
nói riêng. Vì trang báo có giới hạn nên chúng tôi không thể nào kể hết
ra đây, những trường hợp khác biệt nhau của người Tị nạn VN tỏ lòng biết
ơn người bảo trợ (sponsors), từ năm 1975 cho đến 1980 sau khi họ đã ổn
định cuộc sống.
Suốt
trong thời gian 5 năm này, chúng tôi được đặc trách Chương Trình Tái
Định Cư Người Tị Nạn Đông Nam Á (Southeast Asian Refugees Resettlement
Program) cho Cơ Quan Thiện Nguyện Công Giáo Hoa Kỳ (United States
Catholic Conference) gọi tắt là USCC, mà chúng tôi đã hoàn tất hồ sơ bảo
trợ cho hơn 7 ngàn gia đình Tị nạn cộng sản đến định cư tại thành phố
Oklahoma City và các vùng phụ cận, thuộc tiểu bang Oklahoma.
PT. Nguyễn Mạnh San
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 146 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |