Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình  
Message Icon Chủ đề: NIỀM TIN & HY VỌNG&GƯƠNG TỐT&CHIA SẼ Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 146 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 15/Nov/2019 lúc 3:14pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 16/Nov/2019 lúc 7:44am

Chỉ Khi Đối Diến Với Cái Chết, Người Ta Mới Nghiệm Ra Ý Nghĩa Nhân Sinh

Ông Kha Văn Triết, thị trưởng Đài Bắc, Đài Loan, Trung Quốc.

Chỉ khi đối diện với cái chết, khi đứng trên ranh giới sinh tử, người ta mới nhìn lại đời người là gì, ý nghĩa nhân sinh đích thực là chi?

Ngày 29/11/2014, bác sĩ Kha Văn Triết chính thức đắc cử Thị trưởng thành phố Đài Bắc – Đài Loan với 840.000 phiếu bầu. Dù là một thị trưởng đầy quyền lực nhưng ông vẫn thường nói: "Vinh hoa phú quý đời người rốt cuộc cũng chỉ là một đống rác mà thôi".
Trong thời gian còn là bác sĩ ngoại khoa, ông Kha Văn Triết chính là người tạo ra quy trình cấy ghép tạng tiêu chuẩn của Đài Bắc và đưa vào ứng dụng phương pháp cấp cứu Oxy hóa máu bằng màng ngoài cơ thể (ECMO).
Không chỉ giỏi về chuyên môn, ông còn là người có ảnh hưởng lớn, có khả năng truyền cảm hứng, giác ngộ đông đảo người Đài Loan với  những bài diễn thuyết ấn tượng.

Một trong số đó là bài diễn thuyết mang tên "Trí tuệ của sự sống và cái chết" được ông Kha Văn Triết trình bày tại buổi hội thảo của giới trí thức về công nghệ, thiết kế và giải trí TED 1 năm trước khi ông chính thức tham gia vào sự nghiệp chính trị.
Với tôi, câu nói đáng nhớ nhất trong bài phát biểu đó là: "Chỉ khi đối diện với cái chết, khi đứng trên ranh giới giữa sự sống và cái chết, người ta mới nhìn lại đời người là gì, ý nghĩa nhân sinh đích thực là chi?"

Bài diễn thuyết gân ấn tượng của ông Kha Văn Triết về sinh tử 
Có lẽ tôi là bác sĩ Đài Loan đã từng nhìn thấy người chết nhiều nhất, vậy nên rất thích hợp để bàn luận về vấn đề sinh tử. Hãy để tôi bắt đầu nói từ "Diệp Khắc Mạc" – Oxy hóa máu bằng màng ngoài cơ thể (ECMO).

Có một người nông dân chạy đến bệnh viện Kì Mỹ Liễu Doanh, nói muốn được gặp bác sĩ Diệp. Người ở phòng cấp cứu nói, không có đâu, chỗ chúng tôi đây không có bác sĩ nào họ Diệp cả. Người nông dân nọ vẫn khẳng định chắc nịch tên bác sĩ ấy là Diệp Khắc Mạc (ECMO).
Diệp Khắc Mạc thật ra không phải là bác sĩ nào cả, nó chỉ là một phương pháp trị liệu. Vận hành của nó cũng rất đơn giản, chính là dẫn máu từ trong tĩnh mạch ra, trải qua một cái bơm huyết dịch (tim nhân tạo), rồi lại thông qua một thiết bị tạo ô-xy (buồng phổi nhân tạo), đưa vào cơ thể. Nó được dùng để thay thế chức năng tạm thời của phổi và tim.

ECMO chính là một máy chủ làm trái tim nhân tạo, bên cạnh là một buồng phổi nhân tạo, đưa máu trở về. Đúng là đã có những trường hợp vô cùng thành công.
Một vũ công trong nhóm múa của Châu Kiệt Luân, một ngày nọ bị viêm cơ tim đột ngột, tim không còn đập nữa. Lúc đó, con mắt của cô ấy mở to nhìn trừng trừng vào màn ảnh. Tín hiệu trên màn hình toàn bộ đều là một đường thẳng băng. 
Nhưng 9 ngày sau, cô ấy đã tiến hành cấy ghép tim và phổi. Chưa đến 1 tháng, đã có thể trở về tiếp tục nhảy múa rồi. Tất cả là nhờ ECMO.

Trong các tài liệu y khoa, thời gian hồi sức tim phổi dài nhất, còn có thể được cứu sống trở lại chính là trường hợp này. Mỗi lần nhìn lại tôi đều nói đây là thành tích thần kỳ của y học hiện đại. 
Một người đã trải qua hồi sức tim phổi trong 4 giờ đồng hồ, liên tục 9 ngày tim hoàn toàn không còn hoạt động mà vẫn có thể được cứu sống lại!
Lại có một thanh niên 26 tuổi, uống say rồi đi bơi, bị sặc nước đến viêm phổi nghiêm trọng (gọi là triệu chứng hô hấp cấp tính). Toàn bộ lá phổi của anh đều trắng xoá hết cả, không còn khả năng hô hấp.

Anh ta đã điều trị ECMO trong 117 ngày. Trong khoảng thời gian gần 1 tháng, lượng khí thông phổi của anh ta chỉ không đến 100cc. Nhưng rồi cuối cùng anh vẫn dần dần hồi phục trở lại.
Điều này quả thật quá thần kỳ. Vậy nên, dưới sự đồn thổi của giới truyền thông, ECMO ở Đài Loan đã trở nên nổi tiếng như vậy, và trên thực tế là đã có một vài trường hợp rất thành công. 

Nhưng các kênh truyền thông chỉ đưa tin về những trường hợp thành công chứ không đề cập đến những ca thất bại.
Là một bác sĩ, chứng kiến những ca thành công đương nhiên rất vui mừng, nhưng cũng không thể quên đi những ca thất bại. Nó thật sự ám ảnh tôi. Từng có một đứa trẻ vừa mới chào đời được nửa tháng đã mắc phải bệnh tim bẩm sinh.

Sau khi phẫu thuật tim, sự sống hoàn toàn nhờ vào máy trợ tim phổi, vậy nên đã lắp đặt ECMO. Nhưng không đến 3 ngày sau, chân của bé đã chuyển sang màu đen.
Lúc này, bác sĩ phải đối mặt với một lựa chọn đau lòng, hoặc phải cưa mất hai chân của bé rồi tiếp tục cứu chữa với cơ hội thấp, hoặc là chấm dứt điều trị tránh tổn thất, đau đớn. Đây chính là áp lực rất lớn, khiến bạn vô cùng khó xử, tiến thoái lưỡng nan.
Lại có một cậu bé 7 tuổi, mắc viêm phổi, ung thư máu khuẩn cầu đôi, khiến hô hấp vô cùng khó khăn, lại xuất hiện bệnh biến chứng, tứ chi đều đã chuyển sang màu đen.
Là một bác sĩ, bạn phải đối mặt với sự lựa chọn khủng khiếp này. Nếu muốn cứu bé, thì bạn phải cưa bỏ tứ chi, còn như không cứu, thì cần phải tháo các thiết bị đi. 
Nhưng đôi mắt long lanh của bé vẫn ngước nhìn bạn, ý thức vẫn còn rõ ràng, biết xin nước uống. Ai nỡ đành lòng chấm dứt cơ hội sinh tồn của sinh linh bé nhỏ ấy đây?

Mọi người hãy thử nghĩ xem, trong thời khắc sinh tử, khi bệnh nhân thần trí vẫn rõ ràng, tôi làm sao nói được với họ rằng: "Cậu bé này, nếu như cậu muốn sống tiếp, chúng tôi cần phải cắt bỏ tứ chi của cậu, hoặc là thôi, cậu không cần sống tiếp nữa". Bạn làm sao có thể nói chuyện sống chết này với một cậu bé 7 tuổi đây?

Ngoài 30 tuổi, tôi được làm chủ nhiệm, cảm thấy y học rất lợi hại, cái gì cũng đều có thể giải quyết.
Sau khi tôi hơn 40 tuổi, thường có những ca lắp đặt ECMO thất bại, người nhà bệnh nhân hỏi tôi: "Tại sao người khác thì cứu sống được, còn người nhà chúng tôi lại không thể cứu sống?".
Tôi không biết phải trả lời thế nào?Tại sao tứ chi của người bệnh lại chuyển sang màu đen? Nếu tôi biết được thì đã có thể tránh được rồi, nhưng tôi thật sự không hiểu gì cả.

Khi ngoài 50 tuổi, cuối cùng tôi cũng đã nghĩ thông suốt. Bác sĩ là người chứ không phải là Thần, chỉ có thể tận hết sức lực, chỉ vậy mà thôi. Dù cho y học phát triển đến mức nào thì vẫn là có giới hạn.
Với khoa học kỹ thuật hiện tại, không có tim, phổi, thận người ta vẫn có thể sống được, nhưng lẽ nào cứ đeo bên mình đống máy móc như vậy mà sống cả đời sao?

Trời đất có Xuân, Hạ, Thu, Đông, cây cỏ mùa Xuân thì đâm chồi, nẩy lộc, mùa Hạ thì kết quả, ra hoa, mùa Thu bắt đầu thay vỏ, vàng lá, đến khi Đông về thì trút lá xạc xào, cành khô, thân nứt.
Người làm vườn có cách nào thay đổi được loại quy luật ấy hay không? Họ chỉ có thể tận sức chăm sóc vun trồng để những bông hoa kia khi nở rộ trông đẹp đẽ hơn, sống được thời gian dài lâu hơn mà thôi.

Một bác sĩ có cách nào thay đổi được quy luật "Sinh – Lão – Bệnh – Tử" hay không? Điều này thực sự khó vô cùng. Bác sĩ chỉ là khiến cho người bệnh đang ở giữa vòng tuần hoàn "Sinh – Lão – Bệnh – Tử" ấy mà sống được dễ dàng hơn một chút, chỉ vậy mà thôi. 
Bác sĩ chỉ là người làm vườn trong vườn hoa của sinh mệnh, anh ta liệu có thể làm được gì khi đứng nhìn những cái cây đã khô héo, khi đối mặt với cái chết đây?

Một ngày nọ, trong lúc tôi đi thăm bệnh nhân, tôi đột nhiên hiểu ra đạo lý này. Kết cục của đời người chỉ có hai loại mà thôi: Cắm ống thở hay là không cắm ống thở. Nhưng rồi sau tất cả vẫn đều là cái chết.
Nếu có người hỏi tôi: "Cái chết là gì?" thì đáp án của tôi là: "Làm thế nào mới được coi là sống đây?".
Bởi vì con người nhất định đều sẽ chết, vậy nên cái chết không phải là mục đích của đời người. Đời người là một quá trình mà ở đó chúng ta không ngừng theo đuổi một điều gì đó, đây chính là đời người.

Đứng giữa sự sống và cái chết, con người mới lại ngẫm về cuộc đời, mới đặt câu hỏi đời người suy cho cùng là gì. Ảnh minh họa.

Có một lần, tôi mời thầy giáo đã nghỉ hưu của mình và lớp trưởng cùng đi dùng cơm.
Ba người chúng tôi lên lầu hai của một nhà hàng Pháp có tên Sheraton, kết quả đã tiêu hết 26.000 Đài tệ (gần 20 triệu đồng), bình quân mỗi người là 9.000 Đài tệ (6,7 triệu đồng).
Khi nhìn thấy hóa đơn, mặt mày tôi tái mét: "Sao lại đắt đến vậy chứ!". Tôi chưa từng đến dùng bữa ở nơi nào đắt đỏ như vậy cả, chỉ là chọn đại mấy món, cũng không hiểu đã dùng món gì mà mất đến 26.000 Đài tệ.

Cả ngày hôm ấy và hôm sau, tôi đã không ngừng suy nghĩ về chuyện này. Bữa cơm đã tiêu tốn của tôi mất 9.000 Đài tệ, so với một suất cơm bình dân ở bệnh viện ngày thường tôi vẫn ăn thật chẳng khác nhau chút nào.
Dù là cao lương mỹ vị, dù là gan rồng, tuỷ phượng, ăn vào dạ dày rồi lại phải bài tiết ra ngoài. Vinh hoa, phú quý của đời người cũng thế, tranh đoạt cả đời, gom góp một kiếp, chết rồi lại chẳng thể mang theo.
Và vì thế nên tôi cho rằng: "Tất cả những thứ người ta theo đuổi, vinh hoa phú quý của đời người chẳng qua chỉ là một đống rác bỏ đi".

Tư tưởng Nho gia ảnh hưởng rất mạnh mẽ ở Á Đông nhưng đối với vấn đề sự sống – cái chết, họ cũng chỉ bàn đến một mức độ rất bề mặt. "Luận Ngữ" viết: "Vị tri sinh, yên tri tử" (chưa biết đạo lý của đời sống, sao lại thắc mắc về cái chết).
Hoặc như Khổng Tử cũng nói: "Triêu văn Đạo, tịch khả tử" (sáng nghe đạo, chiều chết cũng yên lòng). Nói tóm lại chính là không thích luận đàm về sống chết.
Còn cá nhân tôi thì luôn nghĩ về cái gọi là "trải nghiệm cận tử". Chỉ khi đối diện với cái chết, khi đứng trên ranh giới giữa sự sống và cái chết, người ta mới nhìn lại đời người là gì, ý nghĩa nhân sinh đích thực là chi?

Con người cuối cùng rồi sẽ phải chết, đời người chẳng qua chỉ là một quá trình theo đuổi và tìm kiếm ý nghĩa của nhân sinh. Mà ý nghĩa nhân sinh đó đôi khi không thể dễ mà nhìn ra.
Trên con đường trở về với giá trị gốc của mình, người ta sẽ phải đi qua biết bao thống khổ, bơi qua một bể khổ vô bờ. Nghĩ lại thì kiếp sống này thật quá ư mông lung, nhân sinh này chính xác chỉ là giấc mộng.
Tôi xin dùng câu nói dưới đây làm lời kết cho bài thuyết trình hôm nay:
"Điều khó khăn nhất không phải là đối mặt với thất bại và sự đả kích, mà là khi phải hứng chịu những sự đả kích, dày vò, ta không hề đánh mất đi nhiệt tình đối với cuộc đời này". 

st,
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23789
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/Nov/2019 lúc 8:15am

Mẹ Bác Sĩ

Related%20image


Bà Mậu thoải mái ngồi đợi ở phi trường LAX, bà biết rằng 1 tiếng đồng hồ nữa, khi hết giờ ở phòng mạch thì con trai bà mới đến đón. Hai vợ chồng nó đều là bác sĩ, đều bận rộn nên sự chờ đợi vẫn là đặc ân và hãnh diện đối với bà.
Khi bà Mậu sửa soạn hành lý đi Calif. bà đã gởi gấm bà Diệu, hàng xóm cũng là bà bạn thân ở bên cạnh để ý trông nom nhà cửa giùm. Bà Diệu đã vui vẻ nhận lời và nói:
- Mẹ bác sĩ sướng thật, mỗi lần đến thăm con tha hồ mà khai bệnh cho con nó tận tình khám chữa. Con giỏi giang cha mẹ được nhờ.
Bà Diệu luôn gọi bà bằng cái tên dài “Mẹ bác sĩ ” vừa thân mật vừa nể nang. Bà Mậu thích thú nhưng vẫn khiêm nhường:
- Vậy chớ thằng nhỏ cũng còn khờ lắm chị à…
Bà Diệu dặn dò:
- Mẹ bác sĩ nhớ hỏi nó giùm tôi sao mấy tuần nay mắt trái tôi bị một chấm đen hiện ra nhé, không biết có nguy hiểm gì không?
- Chị thiệt lo xa, đằng nào cũng sắp đi khám bác sĩ mắt rồi mà.
- Biết rồi, nhưng 2 tuần sau mới đến hẹn, tôi nóng ruột quá, bà cứ hỏi giúp tôi.
- Tui nhớ chứ, tui sẽ hỏi nó và gọi phone cho chị hay liền...

Con gái bà Mậu đã đến chở mẹ ra phi trường.
Bà Mậu có 2 đứa con, thằng Thông là bác sĩ lấy vợ cùng nghề, sống ở California, cô Minh em gái thì học business và lấy chồng Mỹ, hiện sống cùng tiểu bang New Jersey, cùng thành phố với mẹ, cách nơi ở của mẹ không xa.
Ông Mậu mất cách đây 2 năm, nên chỉ còn mình bà sống trong căn phòng của apartment mà hai vợ chồng đã sống bấy lâu nay.
Bà Mậu ngồi ngắm nhìn thiên hạ xung quanh nhưng cũng không quên để mắt xem có bóng dáng con mình không, khi vừa thấy Thông đi tới là bà mừng rỡ đứng dậy kêu lên:
- Má nè con…
Gương mặt Thông không lộ vui mừng như bà mẹ, vừa kéo va ly cho mẹ vừa hối hả đi, làm bà Mậu chỉ biết hấp tấp bước nhanh theo cho kịp với con.
- Má à, má đến chơi vào thời điểm này vợ chồng con rất bận.
- Ừa, má biết lúc nào vợ chồng con cũng bận, má không làm gì phiền con đâu, má chỉ đến chơi, nhìn thấy mặt con và 2 đứa cháu nội là má thấy đủ vui rồi.
Khi ngồi vào chiếc xe sang đẹp của con trai, bà Mậu cũng cảm thấy chút khép nép như đang đi nhờ xe ai đó, bà cất tiếng hỏi phá tan sự im lặng:
- Vợ con khỏe không? Hai cháu nội má chắc lớn dữ ha?
- Cả nhà đều bình thường.
Chắc thấy mình trả lời cộc lốc nên Thông dịu giọng lại:
- Hàng tháng con gởi má 500 đồng có đủ không? Má cần thêm thì cứ nói con biết…
- Không sao, má còn lãnh tiền quả phụ của ba con mà, con Minh cũng cho má tiền, má còn dư chút đỉnh nữa nè, ráng hai năm nữa má đủ tuổi lãnh tiền gìa là khỏe re, con khỏi phải gởi tiền cho má nữa.

Xe về tới khu nhà của Thông, phải qua một cổng security mới vào trong, nơi có những ngôi nhà đẹp đắt tiền.
Cô Nguyệt con dâu bà Mậu đang đứng làm bếp chỉ chào “Hi, má” rồi tiếp tục công việc của mình.
Bà Mậu mang va ly vào một phòng trống, nơi mỗi lần đến bà thường ở, thay vội quần áo bà ra phòng khách tìm hai đứa cháu nội, ôm thằng Peter một cái, ôm con bé Sophia một cái, rồi bà ra chỗ bếp với con dâu:
- Con để đó má mần phụ cho…
Cô con dâu từ chối:
- Món này má không làm được đâu…
Con dâu bà luôn không cần sự giúp đỡ của bà, không phải vì cô tôn trọng bà như 1 người khách, mà cô muốn tạo ra một khoảng cách. Bà Mậu đã từng cảm thấy mình xa lạ và vô dụng khi đến nhà con trai mình.
Bà lại ra phòng khách chơi với cháu, cũng may còn 2 đứa trẻ ngây thơ, có người ôm ấp và chơi với chúng thì chúng vui thích lắm.
Con bé Sophia 4 tuổi, giống mẹ và đẹp gái như mẹ.
Thằng Peter năm nay 6 tuổi, thì giống y hệt cha nó nên bà Mậu vẫn gọi thầm nó là “thằng cu Đen” như cái tên ngày xưa vợ chồng bà hay gọi Thông, cũng đôi mắt một mí duyên dáng, cũng nụ cười đẹp, cũng dáng người cao ráo, chỉ khác là làn da nó không bị ảnh hưởng khí hậu và mùi biển mặn mà ngăm ngăm như cha nó ngày xưa.
Bà thương hai đứa cháu, bà nhớ thằng con trai, bây giờ nó là một bác sĩ có phòng mạch đông khách và nổi tiếng chẳng những trong cộng đồng người Việt mà cả với người bản xứ.
Bà không được gần gũi con trai cả về thực tế lẫn tình cảm, thì còn cháu bà, nhất là thằng Peter, mỗi lần bế cháu bà đã tìm lại cái cảm xúc hạnh phúc yêu thương như ngày xưa bế thằng Thông, thằng cu Đen vậy.
Vợ chồng bà Mậu là ngư dân nghèo vùng biển Phước Tỉnh, Vũng Tàu, ông Mậu lái ghe đánh cá mướn cho người ta, cái nghề cha truyền con nối.
Gia đình ông cũng nghèo cha truyền con nối, từ trước 1975, đến sau 1975 càng nghèo khó hơn.
Năm 1987 có người móc nối nhờ ông làm tài công cho một chiếc ghe vượt biên, cái gía họ trả công là vợ con ông được đi theo.
Bà Mậu và thằng Thông, con Minh cùng lên 1 chuyến “taxi”, chờ ghe lớn tới bốc đi, nhưng khi chiếc “taxi” chở bà Mậu cặp sát được ghe lớn, bà vừa đưa được 2 con xuống ghe lớn thì bể chuyện, ghe của công an đang đi tới, nên chiếc “taxi” phải vội vàng bỏ chạy, mang theo một số người chưa kịp lên ghe lớn, trong đó có bà Mậu.
Ghe lớn do ông Mậu lái đã thoát được ra khơi, còn những “taxi” đều bị bắt hết và người thì bị tù giam.
Những ngày đầu tiên ở trong tù bà Mậu như phát khùng vì lo lắng cho số phận chồng con, được tin chiếc ghe lớn đi trót lọt ra khơi, ra hải phận quốc tế, lòng bà càng thêm lo âu hơn là mừng rỡ. Ghe chồng con bà có vượt qua được sóng gío tới bến bờ bình an không? hai đứa nhỏ sẽ ra sao khi không có mẹ bên cạnh? Bà thầm trách số phận, trách chồng thà cứ bình yên ở nhà làm nghề cá no đói mà có nhau, còn hơn là ra đi thập tử nhứt sinh, hay ly tán như thế này.
Những ngày ngồi trong tù là những ngày bà khóc ròng, đau đớn, buồn bã vì nhớ con, nhớ chồng...
Ông Mậu đến đảo Mã Lai báo tin về, lòng bà Mậu cũng nguôi ngoai và vui mừng hi vọng đợi chờ ngày đoàn tụ với chồng con.
Nhưng ông chồng bà bao năm trong nghề đánh cá, cá mắc vào lưới của ông thì bây giờ trời qủa báo sao đó, ông mắc vào lưới tình với một bà bỏ chồng đi vượt biên tìm tự do, tìm hạnh phúc.
Hai người tằng tịu với nhau từ trên đảo Mã Lai, qua Mỹ họ tiếp tục chung sống ăn ở như vợ chồng nên ông Mậu cứ tìm cách thoái thác chưa chịu bảo lãnh vợ, cho đến khi ông bị bà kia bạc tình, phản bội, bỏ ông đi theo người đàn ông khác khá giả hơn ông, thì ông Mậu mới tỉnh cơn mê, lo giấy tờ cho vợ sang xum họp gia đình.
Bà Mậu sau đó biết chuyện này đã không oán trách chồng mà còn chất phác tuyên bố với người quen biết:
- Thiệt cám ơn chị ta hết sức, thời gian đầu ở Mỹ cuộc sống khó khăn chị đã chăm sóc an ủi ông Mậu, sau đó chị ra đi trả ông Mậu lại cho mẹ con tui.
Bà Mậu sang Mỹ năm 1993. Khi đó thằng Thông đã 16 tuổi và con bé Minh 14 tuổi, bà nhà quê, ít học, chữ Việt Nam viết không rành, nói chi đến học ăn học nói tiếng Mỹ mà đi làm, nên chỉ ở nhà lo chuyện nội trợ, cơm nước, chăm lo cho chồng con...

*
***

Buổi chiều thứ bảy vợ chồng Thông đều nhận khám ít bệnh nhân, phòng mạch đóng cửa sớm, để gia đình quây quần bên nhau. Họ thích ra biển để thư giãn sau một tuần lễ căng thẳng bù đầu vì công việc.
Bà Mậu cũng được dịp đi biển với con cháu, bà sửa soạn mặc quần áo cho Peter, cho Sophia, lấy những chiếc mũ, chiếc khắn tắm hay đôi giày đôi dép cho cháu… những thứ mà cô con dâu không thể ba đầu sáu tay làm hết được, dù cô khinh khỉnh không muốn bà mẹ chồng đụng tay vào chuyện nhà của cô.
California có nhiều bãi biển tắm, ngày nào mà chẳng đông người, vì đất California là nơi du lịch, ngày cuối tuần thì càng đông hơn.
Bà Mậu lăng xăng bên hai cháu nội. Bà âu yếm nhìn thằng Peter cởi trần vui đùa trên mép biển, mỗi khi cơn sóng nhào tới thằng bé lại vội vàng chạy lên bờ, có khi nó ôm chầm lấy bà tìm sự che chở và cười vang vì vui thích, nó nhút nhát không dám ra xa hơn, cứ trò chơi ấy mà không biết ngán.
Chẳng bù cho cha nó, thằng Thông ngày xưa, ngay từ lúc 3-4 tuổi đã dạn dĩ, quen với sóng với gió rồi. Những khi theo mẹ ra biển đón ghe cha về bến, nó dám lội ra xa khi thấy bóng cha trên chiếc ghe đang lửng lơ thả trôi vào bờ, để cha sẽ nhảy ra ẵm nó lên, công kênh nó lên vai mặc cho sóng biển xô tới phủ kín mặt mũi hai cha con.
Vợ chồng bà âu yếm gọi Thông là “Thằng Cu Đen” vì thằng bé được sinh ra nơi miền biển, nó được nuôi lớn bằng cá tôm từ biển, và được nếm bao lần mùi biển mặn, mùi gió chướng, mùi gió mùa, cái thứ gió chở đầy mùi tanh của biển cả ngay trước mặt hay dù từ chân trời, góc biển nào thổi về. Tất cả những thứ đó đã thấm vào thằng Thông, làn da nó xạm lại, rắn rỏi và khỏe mạnh, đúng là con nhà nòi ngư dân.
Ông Mậu thường khề khà bên chén rượu và hãnh diện nói với vợ:
- Thằng cu Đen lớn lên sẽ là tay đi biển giỏi như tui cho bà xem.
Nhưng ông đã đóan lầm, thời vận đã đẩy đưa cuộc đời gia đình ông sang hướng khác, thằng cu Đen đẹp trai cao ráo của ông không là anh ngư dân giỏi, mà trở thành một bác sĩ giỏi sống ở Mỹ, cái điều mà cả tổ tiên nhà ông, cho đến đời ông, chưa ai dám mơ tới.

*
***

Cả nhà còn đang ngủ muộn vì chiều qua chơi biển thật lâu và vui, sau khi ăn uống nhà hàng cho đến tối khuya mới về đến nhà.
Bà Mậu thức dậy trước đang dọn dẹp lau chùi chỗ bếp thì con trai đã đến bên cạnh:
- Má khỏi phải làm ba cái việc này, mỗi tuần vợ con đều thuê người đến dọn dẹp nhà cửa rồi.
- Không sao, má rảnh thì làm cho sạch, trong khi người ta chưa đến có sao đâu con…
Giọng Thông có vẻ ái ngại khi hỏi:
- Má có cần mua thêm quần áo gì không? Lát nữa con nói vợ con đưa má đi mua…
Bà Mậu ngạc nhiên:
- Chi vậy con? Khi không má mua quần áo làm gì chớ, đồ má mặc cả đời không hết…
- Chiều nay là buổi tiệc mừng sinh nhật bà mẹ vợ của con ở nhà hàng, mời nhiều khách khứa, cả nhà mình sẽ tham dự… chỗ đông người má cũng nên tươm tất một chút.
- À, má hiểu rồi...
Bà Mậu khựng lại rồi tiếp:
- Má có đem theo đồ đàng hoàng mà con, quần tây và chiếc áo có bông thiệt bự, cổ nhún tai bèo nè, chiếc áo sơ mi màu đọt chuối nè, bắt mắt lắm, người bạn mua về từ Việt Nam giùm má đó. Má ưng hết sức.
Thông bỏ đi, còn lại một mình bà Mậu tự nhiên thấy lòng xốn xang buồn.
Ôi, phải chi nó cứ mãi là thằng cu Đen bé bỏng đi đâu cũng níu áo mẹ, túm áo cha, dù là những chiếc áo cũ, chiếc áo rách sờn vai.
Mà thôi, bà đã quen với những điều này rồi, con bà là một bác sĩ tài ba thành đạt thì nó phải cao sang với đời chứ, chẳng lẽ bà muốn nó là một anh ngư dân nghèo khổ như bà hồi ở Việt Nam để mẹ con thông cảm, gần gũi với nhau sao!
Gia đình bên vợ của Thông rất danh giá, họ xuất thân giàu có từ trong trứng nước, hai ông bà sui gia đều là bác sĩ từ thời còn ở Việt Nam, anh em, con cháu, dâu, rể của họ cũng toàn là bác sĩ, nha sĩ, có lần bà nghe Thông hãnh diện kể về nhà vợ, tổng số bác sĩ và nha sĩ trong đại gia đình cha mẹ vợ lên đến hơn 20 người. Nghề nghiệp y khoa của họ cũng cha truyền con nối như nghề đánh cá đi biển nhà bà.
Nếu Thông không là bác sĩ thì khoảng cách giữa Thông và gia đình vợ là một trời một vực Bà Mậu vẫn hãnh diện khi kể cho bạn bè, người quen về bên sui gia danh gía của mình.
Buổi chiều trong khi vợ chồng Thông sửa soạn quần áo để đi dự tiệc thì bà Mậu than là bị đau bụng, bà hỏi xin con thuốc để uống và nằm đắp mền nghỉ ngơi.
Thông hỏi mẹ:
- Má thích ăn gì thì con sẽ mua về cho má?
Bà Mậu rên khe khẽ:
- Má đau bụng quá trời ăn gì nổi, mà nếu tối đói bụng thì có nhiều đồ trong tủ lạnh rồi.
Thế là bà không thể đi đến nhà hàng dự tiệc sinh nhật bà sui gia được.
Nhưng khi cả nhà Thông lên xe đi khỏi thì bà Mậu tung mền ra, nhà cửa vắng tanh chẳng có chuyện gì làm, bà bỗng nhớ đến một bà bạn cũng ở gần đây, là đồng hương Phước Tỉnh của bà, thuở đó hai bà nhà ở gần nhau, cùng nghèo khổ như nhau, cùng chia sẻ bao nỗi vất vả, bao nỗi buồn lo chồng chất của cuộc sống nơi miền biển, nơi chôn nhau cắt rốn của họ.
Lần nào đến Calif. bà Mậu chẳng ghé thăm bà Chung, nhân dịp trống trải này thì gặp bạn luôn.
Bà Chung cũng góa chồng, lớn hơn bà Mậu mấy tuổi nhưng lanh lợi hơn nhiều, qua Mỹ bà nhanh chóng hội nhập vào đời sống mới. Bà sống ở apartment diện housing, tiền nhà hầu hết do chính phủ trợ cấp, mấy con bà sống gần đó, nên bà vẫn chạy qua chạy lại phụ giúp con cháu khi cần, mà vẫn giữ được cuộc sống tự lập không lệ thuộc con cái là bao.
Bà Mậu mở cuốn sổ tay tìm số phone và gọi bạn, bà Chung nói sẽ lái xe đến đón bà Mậu đi chơi.
Bà Mậu hẹn bà Chung ở ngoài cổng khu nhà.
Bà Chung đưa bà Mậu đi vòng quanh thăm mấy chợ Việt Nam, vì sống ở tiểu bang New Jersey đâu có nhiều chợ, nhiều hàng quán Việt Nam như khu Bolsa này.
Rồi bà ghé vào một khu shopping rộng lớn, lái xe đến trước cửa một nhà hàng, bãi đậu xe đã đông, nên bà Chung đang tìm cách len lách vào, trong khi bà Mậu tò mò nhìn ngó xung quanh.
Bà Mậu bỗng giật mình khi nhìn thấy gia đình Thông đang sánh vai cùng bố mẹ vợ bước vào một nhà hàng, hai đứa cháu nội của bà đang tíu tít bên ông bà ngoại của chúng. Họ thật là những khách hàng lịch sự, sang trọng trong bữa tiệc sinh nhật chiều nay
Bà Mậu vội quay ra hốt hoảng hỏi bạn:
- Chị tính vào nhà hàng này hả?
Bà Chung khoe:
- Ừ, nhà hàng này có nhiều món ngon lắm, nhưng hôm nay chắc có người đặt tiệc nên đông qúa, tôi chưa tìm ra chỗ đậu xe…
- Thôi, thôi, thôi… đi chỗ khác, tôi không thích ăn nhà hàng đâu.
- Làm gì mà chị phản đối liên hồi như tôi sắp đưa chị vào hang hùm, ổ rắn vậy? Ở Mỹ mà, tiền già của tôi cũng dư sức bao chị vô bất kể nhà hàng nào. Chị thích đi ăn ở đâu, tôi sẽ đãi chị?
- Ra Phước Lộc Thọ đi, ở đó cũng ngon rồi.
Bà Chung cụt hứng trách bạn:
- Tưởng gì, lần nào đến Cali chị cũng đòi ra ăn hàng ở Phước Lộc Thọ, lúc nào cũng nhà quê in như hồi còn ở Phước Tỉnh với ba con cá con tôm vậy đó...
Bà Mậu chống chế:
- Tui theo con đi ăn nhà hàng nhiều lần rồi, lạ gì đâu, ra chỗ Phước Lộc Thọ, vừa ăn vừa ngắm nhìn ông đi qua bà đi lại cho vui, có khi lại gặp được người quen.
May quá, bà Chung đã mải lo tìm chỗ đậu xe trước nhà hàng nên không trông thấy những gì bà Mậu đã thấy. Nếu không, bà không biết giải thích làm sao với bà bạn thân này.
Đến khu Phước Lộc Thọ, hai bà ghé vào một tiệm, tiệm không đông khách, bàn ghế thênh thang nên bà Mậu tha hồ ngồi một ghế, gác chân lên một ghế, đủng đỉnh ngắt từng cọng rau răm xanh tươi ăn với hột vịt lộn hiệu Long An nóng hổi rắc muối tiêu ngon lành.
Rồi mỗi bà ăn một dĩa bánh bèo, một ly chè là vừa no bụng vừa ngon miệng...
Cách hai bà là một bàn khách đang ăn gỏi đu đủ bò khô, uống cà phê sữa đá, vui vẻ nhộn nhịp cứ như đang ở Việt Nam.
Thật thú vị và thoải mái khi đi với bà Chung, bà Mậu không phải e dè như khi đi với cô con dâu cao sang của bà. Bà từng theo vợ chồng Thông đi ăn nhà hàng coi bộ sang trọng lắm mà chưa cho bà cảm giác như thế này.
Bà Chung kể:
- Con trai và con dâu chị ăn nên làm ra tại Calif. này đó. Chồng bác sĩ nhãn khoa, vợ bác sĩ phụ khoa, toàn là nghề hốt bạc.
Bà Mậu sung sướng:
- Tui thiệt hãnh diện vì tụi nó đó chị Chung à…
Bà hãnh diện thật, khoe thêm:
- Hai ông bà sui gia cũng bác sĩ luôn. Chèng ơi, sao mà họ giỏi dữ vậy không biết!
Bà Chung gật gù:
- Tui phát ghanh với chị đó, được là mẹ bác sĩ.
Thật thế, bác sĩ vẫn là nghề cao siêu đối với bà Mậu từ đời tám hoánh nào rồi. Ngày xưa ở Việt Nam đâu có tiền mà mỗi chút mỗi gặp bác sĩ, mỗi lần ốm đau bất kể nhức đầu, đau bụng hay bịnh gì đi chăng nữa cứ… đè nhau ra cạo gió, xông hơi, cực chẳng đã bịnh không hết mới đi khám bác sĩ.
Sau 1975 càng tồi tệ hơn nữa, bác sĩ là cấp cao không thèm đếm xỉa tới bịnh nhân, thậm chí bịnh nhân lo lắng hỏi han cũng chẳng được bác sĩ mở miệng trả lời trả vốn cho mấy chữ, nội mấy cô y tá phường xã cũng đủ uy quyền gắt gỏng, nạt nộ những bịnh nhân vừa nghèo vừa dốt như bà.
Vậy mà bây giờ con trai bà là bác sĩ, có lần bà đến phòng khám của Thông để khám mắt, nhìn cơ ngơi của con với những dụng cụ, máy móc soi mắt tinh vi, nhìn mấy cô nhân viên vừa là Việt Nam vừa là người Mỹ răm rắp và nghiêm chỉnh làm việc cho bác sĩ và Thông nói tiếng Mỹ vèo vèo với nhân viên, bà Mậu càng tự hào và nể phục con trai mình.
Đến thăm phòng mạch của con dâu bà cũng cảm giác nể phục như thế. Cho nên bà vẫn tự hào, tự an ủi mình là chiều chuộng con, nhường nhịn con, thua thiệt con cũng xứng đáng lắm.
Bà Mậu thật thà nói với bà Chung:
- Tui cũng không ngờ con trai mình là bác sĩ, qua Mỹ chỉ cầu nó lớn lên đi mần việc công nhân, thoát khỏi nghề đi biển cực nhọc như cha ông nó ở Việt Nam là tui mừng rồi.
Hai bà ăn uống chuyện trò đủ thứ xong, bà Chung chở bà Mậu trả về nhà.
Vợ chồng Thông vẫn chưa về, bà Mậu lại thơ thẩn một mình trong căn nhà vắng.
Bà nào có đau bụng đau bão gì, chẳng qua bà nói thế để không đi dự đám tiệc sinh nhật bà sui, điều mà bà cảm thấy con trai cũng như con dâu bà không hề mong muốn bà có mặt, mà thật ra chính bà cũng thấy ngại ngùng giữa đám người giàu sang có học thức cao ấy. Tới đó bà biết ăn nói làm sao cho xứng với họ?
Số bà không may, chồng chết trước, lại không được gần gũi con cháu. Xưa có lần bà coi tử vi ông thày đã nói số bà “canh cô mồ quả” thui thủi một mình, thật không sai.
Hai đứa con qua Mỹ từ nhỏ, cách sống và cách suy nghĩ của chúng như người Mỹ. Con Minh lấy chồng Mỹ càng Mỹ hóa hơn, bà Mậu không thể đến nhà con gái thường xuyên chứ đừng nói chuyện dọn vào ở chung, dù bà đã từng mong muốn kể từ khi ông Mậu từ trần.
Mỗi lần đến nhà con gái, gặp con rể bà Mậu chỉ chào được một chữ “Hi.” rồi thôi, rồi bà cười trừ thay cho lời nói mỗi khi đối diện với thằng rể Mỹ, mà con rể cũng không mấy thân thiện với bà mẹ vợ, anh ta không muốn “người lạ” ở lâu trong nhà, dù người ấy là bà mẹ vợ.
Nó đã hỏi vợ nó:
- Tại sao mỗi lần mẹ em nhìn anh bà lại cười? Anh có cái gì khôi hài lắm sao???
Con Minh phải giải thích:
- Mẹ em cười là thân thiện với anh đó, vì mẹ không thể nói chuyện với anh.
Vợ chồng con gái vẫn thỉnh thoảng ghé đến apartment thăm bà, mỗi dịp lễ Mẹ, Lễ Tạ Ơn, Giáng Sinh và Năm Mới họ đều tặng bà quà, và bà phải hiểu rằng bà cũng chỉ được đến nhà thăm họ như khách thế thôi.
Chỉ khi nào con rể đi công tác xa nhà mấy hôm thì bà Mậu mới cảm thấy tự do thoải mái khi đến thăm con gái và cháu ngoại, bà được ngủ lại nhà con gái. Đó là những ngày bà sung sướng hạnh phúc mà không món quà tặng nào sánh nổi.
Thỉnh thoảng không thể đến thăm cháu ngoại, bà Mậu lại sốt ruột gọi phone cho con gái và thật thà hỏi:
- Chồng con sắp đi công tác chưa? Má trông nó đi quá trời nè…
Hoặc bà hỏi kỹ hơn:
- Chuyến này nó đi công tác mấy ngày, hả?
Chẳng ai như bà, cứ mong con rể thường xuyên đi công tác mà không sợ con gái buồn, miễn là bà được thảnh thơi đến nhà nó.
Còn về vợ chồng con trai bác sĩ của bà cũng chẳng khác vợ chồng con gái bà là bao, cả hai đều giữ khoảng cách với bà. Dù họ không tìm được người giúp việc, mấy lần bà Mậu ngỏ ý về ở chung để trông cháu và lo cơm nước cho hai vợ chồng, nhưng Thông đều từ chối với lý do:
- Má là má con làm sao con có thể để má làm như người giúp việc được.
Con trai bà cũng có lý của nó, nhưng bà mẹ nào chẳng muốn đỡ đần cho con cho cháu? đối với bà được chăm lo cho con cháu là niềm vui, bà tha thiết muốn được làm điều đó mà con không chịu thì bà đành phải tiếp tục sống một mình, càng rảnh rang bà càng buồn vì nhớ cháu. Cả cháu nội, cháu ngoại đều xa qúa tầm tay của bà. Nhưng bất cứ ai hỏi đến chuyện này thì bà Mậu đều hớn hở trả lời và gỉai thích luôn:
- Thằng con trai bác sĩ của tui, hai vợ chồng nó giàu có, lại có cha mẹ vợ ở gần, đâu cần tui giúp đỡ gì nữa, thỉnh thoảng tui đến thăm là chúng nó mừng vui rồi, tui ở gần con gái để chạy qua chạy lại thăm cháu ngoại, tụi Mỹ đâu thích mẹ vợ ở chung, nhà ai nấy ở cho thoải mái, chớ thằng rể Mỹ cũng biết điều với tui lắm. Bà Mậu ngồi suy nghĩ lan man và ngóng ra cửa chờ đợi vợ chồng Thông về. Bà nhớ hai cháu, chỉ mong có chúng nó để bà chơi đùa với chúng và âu yếm chúng .
Lòng bà rộn ràng chờ đợi, bà chẳng dại gì tự ái để mất con mất cháu, máu mủ ruột thịt của mình mà. Bà đánh đổi tất cả sự lạnh nhạt của vợ chồng Thông để được đến gần họ.

Nguyễn Thị Thanh Dương

 



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 20/Nov/2019 lúc 8:18am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 22/Nov/2019 lúc 8:03am

Từ Thuyền Nhân Tới “Thùng Nhân” 


Hai tuần qua, tin về vụ 39 người Việt Nam chết ngộp trong thùng lạnh một chiếc xe vận tải lớn “vô chủ” bỏ ở Essex, ngoại ô London, đã làm rúng động dư luận người Việt ở trong nước và cả ở hải ngoại. Ai cũng kinh hoàng khi biết những người này là nạn nhân của một đường dây buôn người lậu vào Âu Châu, xuất phát từ Nghệ An.
Tin tức về vụ này tràn ngập trên mạng, được cập nhật mỗi ngày với những chi tiết mới và bình luận khác nhau.
Ông Hoàng Huy, một người từng làm thông dịch viên cho Cảnh sát và Bộ Nội vụ Anh đã viết một bài ngắn cho biết người Việt tại nước Anh gọi những người nhập lậu vào nước Anh là “người rơm”, và ông ta giải thích:
“Người rơm” là một từ cay đắng! Nó chất chứa cả máu – nước mắt và vô vàn những gian khó, tủi nhục không dễ nói thành lời, mà cộng đồng người Việt Nam ở Anh dùng để nhắc tới những người nhập cư bất hợp pháp. Vì sao lại là “rơm”? Vì một khi bước vào con đường này, bạn hãy chấp nhận sinh mệnh của mình sẽ chỉ còn như rơm – như rạ, những thứ vô giá trị. Những cuốn hộ chiếu Việt Nam bị vứt bỏ hoặc đốt đi ngay khi “đường dây” đưa họ tới một nước Châu Âu nào đó qua con đường du lịch; nhằm chối bỏ quốc tịch, chính thức bước vào giai đoạn “sống không ai biết – chết không ai hay”. Bởi lẽ Liên minh Châu Âu (EU) có điều luật về tị nạn, nếu bạn bị phát hiện nhập cư trái phép và bị từ chối tị nạn, sẽ bị trục xuất về đất nước trước đó bạn đã đi qua. Nếu là người không quốc tịch (không còn hộ chiếu), sự việc bại lộ, họ sẽ bị trục xuất về Pháp, về Đức, về Bỉ…..hay một nước Châu Âu nào đó, chứ không phải là Việt Nam; và như thế có nghĩa là còn cơ hội….trốn tiếp. Đó là lý do, khi mở chiếc container tử thần kia ra, cảnh sát Anh sẽ dựa vào tóc đen da vàng mà tạm thời nhận định các nạn nhân là người Trung quốc chứ chắc chắn họ sẽ không có một dấu hiệu nào, một mẩu giấy tờ nào dính dáng đến nơi mà họ thực sự xuất phát.” (ngưng trích)
Ông Đỗ Công, không biết ở đâu và làm gì mà tỏ ra rành rẽ ngọn ngành của thảm kịch này. Trong bài “Thớt có tanh tao ruồi mới đến”, tác giả viết:
Nhiều người vẫn không hiểu tại sao 39 người Việt chết vừa rồi cứ phải đi Anh mới chịu. Có người có việc làm nhà hàng ở Pháp nhưng vẫn mượn nợ, mua vé đi chui qua Anh cả 10 ngàn Mỹ kim. Có người đến Đức, hay lao động ở Romania rồi, nhưng cũng nhập vào dòng đi chui để đến nước Anh. Có người mua vé đi từ Hà Nội, qua Bắc Kinh, Nga, Ukraine, vượt Pháp, Đức, đến Anh, tốn $30 ngàn Mỹ Kim.
Anh Quốc là nước có nhiều người di dân Việt đến từ miền Bắc. Hợp pháp cũng có, mà sống bất hợp pháp cũng nhiều. Họ làm tập trung vào các ngành gồm nhà hàng, móng tay và trồng “cỏ”, tức là Marijuana. Phụ nữ thì được hứa hẹn làm móng tay, đàn ông thì lao động tại nhà hàng và các nông trại ngầm trồng cỏ. Sau nhiều năm lao vào lãnh vực này, hiện nay giới giang hồ người Việt gốc Bắc kiểm soát gần 70% thị trường Marijuana ở Anh. Nói cách khác, thương trường này, theo cảnh sát Anh ước lượng $2.6 tỷ dollars và một vốn, chín lời. Lời đến nỗi, theo cảnh sát Anh, trồng 4 trại, bị bắt mất 3 trại cỏ, họ vẫn còn lời.
Vì kinh doanh lậu, và nhu cầu khát nhân công, lợi nhuận khủng. Lao động ở Nghệ An, Hà Tỉnh khi đến Anh thì luôn có việc làm, với đồng lương cao hơn lao động các nghành nghề khác, nếu tham gia trồng cỏ. Mấy năm trước, khi chưa có nhiều lao động đến từ Nghệ An, Hà Tỉnh. Những ông chủ trại "cỏ", cần lao động đến nỗi đã tìm cách mua hay ép thanh thiếu niên từ Việt Nam, rồi đưa lậu qua Anh, buộc họ làm lao động nô lệ trong các trại cỏ này. Nhờ cảnh sát Anh giải cứu nhiều trường hợp, và lao động chui qua nhiều, tình trạng bắt cóc thanh thiếu niên Việt làm nô lệ lao động ở Anh mới giảm.
Qua Anh, làm vài năm, dành dụm, khôn lanh, họ lại trở thành những ông chủ trại “cỏ” nhỏ, lời cả triệu dollars dễ dàng. Từ đó, nhà lầu, nhà ngói thi đua nhau mọc ở Hà Tỉnh, Nghệ An. Hình làng tỷ phú ở Nghệ An theo báo Reuter tường thuật là thí dụ điển hình.
Vì vậy, vay nóng, thế nhà, thế đất, nợ nần để chạy tiền từ 10 ngàn đến 30 ngàn Mỹ Kim để mua chỗ, đút lót đến cho được nước Anh. Dù có nguy hiễm, gian truân, hay tù tội thì mấy cũng thử là vậy. Liều lĩnh, và trưởng thành trong môi trường phức tạp, vô pháp. Đám di dân mới này, con cháu của bác và đảng, một số sẵn sàng lao vào con đường tội ác. Cám dỗ đổi đời, làm giàu và giàu nhanh, khủng thì chỉ có đường trồng cỏ và buôn cỏ, để có tiền trả nợ cả vốn lẫn lời, nếu không muốn bị giới giang hồ đòi nợ và thanh toán.
Nghệ An, Hà Tỉnh là hai nơi có thu nhập bình quân thấp nhất cả nước. Trung bình, thu nhập hàng năm hai Tỉnh khoảng $2000 Mỹ kim, so với cả nước $2540. Tỉnh nghèo, đói lại không có việc làm vì khủng hoảng của nhà máy Formosa. Cá chết, biển độc, nguồn nuôi dưỡng kinh tế bị co cụm. Kinh doanh du lịch, nhà nghỉ nhà hàng bị chết. Để sống thì chỉ còn cách đi lao động thuê, lao động chui ở nước ngoài. Thị trường lao động nước ngoài gửi ngoại tệ về hai tỉnh này, đã là nguồn nuôi sống gia đình, bộ máy đảng, chính quyền địa phương. Vì vậy, đảng csVN càng tạo điều kiện, toa rập, móc ngoặc, buôn bán giấy tờ, khuyến khích để dân đi lao động chui nước ngoài. Và nếu đi ở Anh, càng kiếm nhiều tiền thì càng tốt cho đảng.
Nghị quyết 274/2009 của Hội Đồng Nhân Dân Tỉnh Nghệ An kêu gọi; “xuất khẩu lao động là mối quan tâm hàng đầu của đảng, để có việc làm, xoá đói giảm nghèo”. Không quan tâm sao được, khi năm ngoái số tiền người đi lao động nước ngoài chuyển về cho gia đình trong Tỉnh Nghệ An là $255 triệu Mỹ Kim. Như vậy bao nhiêu Mỹ Kim chui vào túi đảng, để tiếp tục nuôi sống bộ máy chính quyền.
39 người Việt xấu số đã chết. Gia đình buồn nhưng viên chức chính quyền Nghệ An, Hà Tỉnh còn buồn nhiều hơn. Họ đang lo sợ vụ việc sẽ bị phanh phui, hé lộ đường giây buôn người ngầm mà họ có dính phần. Không ngạc nhiên khi thấy thái độ bất hợp tác và gây khó khăn của chính quyền địa phương, khi gần đây thông tin đang lộ dần, cảnh sát Anh đang ráo riết truy tìm hành tung ông Trùm, triệu phú Mỹ kim họ Trương gốc Nghệ An, người đã chỉ đạo đường dây đưa người đi lậu ra nước ngoài cả chục năm nay. Nếu vài hôm sau có ai họ Trương bị chết bất ngờ, thì có thể là Đảng đã ra tay cho giết người bịt khẩu, trước khi bị cảnh sát Anh bắt giữ, nếu đang trốn đâu đó ở nước ngoài.” (ngưng trích)
Ngày 29 tháng 10, ông Lê Thương viết một bài trên FaceBook, bác bỏ luận điệu cho rằng những người này ra đi vì họ nghèo đói, muốn tìm miếng cơm manh áo và luận điệu cho rằng những người này là nạn nhân của FORMOSA họ quá nghèo đói, ở quê không có việc gì làm nên phải tìm cách bỏ nước ra đi"...
Trong số nạn nhân, người được nhắc tới nhiều là cô Phạm Thị Trà Mi, người mà trước khi chết đã nhắn tin về cho mẹ: "Con xin lỗi bố mẹ nhiều. Con đường đi nước ngoài không thành. Con chết vì không thở được". Tin từ Nghệ An cho biết Trà Mi là chị của Phạm Mạnh Cường, một dư luận viên của đảng, và có người yêu là Nguyễn Công Thắng, một an ninh mạng của CHXHCN Việt Nam.
Theo tin đài VOA thì phát ngôn viên Bộ Ngoại giao CSVN Lê Thị Thu Hằng nói trong một phát biểu đăng trên website của bộ rằng: “Đây là một thảm kịch nhân đạo nghiêm trọng”, và rằng, “Chúng tôi hết sức đau lòng và xin gửi lời chia buồn sâu sắc nhất tới gia đình các nạn nhân và mong họ sớm vượt qua những đau thương, mất mát to lớn này.”
Không biết bà Lê Thị Thu Hằng có “hết sức đau lòng” thật hay không, nhưng ai là người Việt Nam, hay không phải người Việt Nam, mà không không cảm thấy đau buồn trước “thảm kịch nhân đạo nghiêm trọng này”, nếu còn có một trái tim con người.
Trước đây, sau ngày 30.4.1975, thế giới cũng đã bàng hoàng thương cảm khi thấy hàng triệu người Việt Nam bỏ nước ra đi tìm tự do trên những con tàu gỗ mong manh, bất chấp dông bão và hải tặc, mà khoảng một phần tư trong số này đã không đến được bến bờ tự do. “Thảm kịch nhân đạo nghiêm trọng” này đã kéo dài hơn mười năm, và thế giới đã dang tay cứu giúp những người mà họ gọi “thuyền nhân” (boat people) tràn ngập các bờ biển Vùng Đông Nam Á.
Những thuyền nhân ấy đã ra đi vì không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản, một lý‎ do chính trị và tinh thần cao đẹp, nên họ đã bỏ lại tất cả tài sản vật chất để ra đi mình không và đã xây dựng lại đời sống thành công trên quê hương mới từ con số không với sự lương thiện và chuyên cần. Họ góp mặt bình đẳng trong mọi lãnh vực của sinh hoạt trong xã hội và được kính nể.
Hai tuần lễ trước thảm kịch của những người Việt Nam chết trong thùng xe lạnh giá tại Essex trên đường nhập cảnh lậu vào nước Anh, thì tại thủ đô Washington đã diễn ra buổi lễ long trọng thăng chức Tướng cho một sĩ quan Hải Quân Hoa Kỳ, ông Nguyễn Từ Huấn.
Phó Đề Đốc Nguyễn Từ Huấn có một tiểu sử ly kỳ liên quan đến lịch sử Việt Nam và Hoa Kỳ, và vấn đề nhân đạo trong chiến tranh. Ông Huấn là con của một sĩ quan Quân lực VNCH, sinh tại Huế năm 1959, năm mà CSBV xé bỏ Hiệp Định Genève, bắt đầu phát động cuộc chiến tranh xâm lược Miền Nam. Cuộc chiến tranh leo thang ác liệt vào năm 1968, CSBV và du kích Việt Cộng đã lợi dụng cuộc hưu chiến vào dịp Tết Mậu Thân, mở cuộc tổng tấn công bất ngờ vào 41 thành phố và tỉnh lỵ tại Miền Nam.
Tại Sài-Gòn, mục tiêu chính của cuộc đánh trộm, du kích VC đã xâm nhập và chiếm giữ nhiều nơi trong thành phố, nhất là vùng ngoại ô, trong đó có Quận Gò Vấp, nơi gia đình Trung tá Nguyễn Tuân cư ngụ. Chỉ huy toán VC là Nguyễn Văn Lém, còn được gọi là Bảy Lốp, đã tàn sát cả gia đình ông Tuân gồm tám người. Cậu bé Nguyễn Từ Huấn, khi ấy lên 9, cũng bị trúng đạn, nhưng đã sống sót và ở bên cạnh mẹ trong hai giờ trước khi bà mất máu và qua đời.
Sau đó, Bảy Lốp bị một đơn vị Quân đội VNCH bắt và dẫn giải đến Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Loan, khi ấy là Tư lệnh Cảnh Sát Quốc Gia. Nghe báo cáo về tội ác của Bảy Lốp, Tướng Loan đã rút súng lục, xử tên khủng bố VC tại chỗ, trước Chùa Ấn Quang. Tình cờ, phóng viên nhiếp ảnh Eddie Adams đang có mặt tại hiện trường, đã không bỏ lỡ cơ hội để chụp “tấm hình lịch sử”. Tấm ảnh này, được đặt tên là “Saigon Execution”, năm 1969 đã được Giải Pulitzer về ảnh báo chí và được truyền thông thân cộng và đám phản chiến tại Mỹ khai thác, tố cáo VNCH vô nhân đạo, Tướng Loan tàn ác đã giết một tù binh bị trói tay mà không xét xử. Bức ảnh này không cho thấy tội ác khủng khiếp của tên khủng bố VC đã tàn sát thường dân, kể cả những đứa bé vô tội, và khi ấy cả Sài-Gòn đang là bãi chiến trường bốc lửa.
Bức ảnh ấy đã gây tai hại không nhỏ một cách bất công cho chính nghĩa của VNCH, cho Tướng Nguyễn Ngọc Loan, và cho cả Eddie Adams khi ông ta biết những sự thật mà tấm ảnh không “nói” hết được làm lương tâm ông ta đã bị cắn rứt trong nhiều năm. Sau khi Tướng Loan qua đời tại Virginia, Adams viết trên tạp chí TIME số đề ngày 27.7.1998: “Trong tấm ảnh đó có hai người bị giết, tên Việt Cộng bị ông tướng bắn và ông tướng bị tôi giết bằng máy ảnh của tôi. Dù không có ý đồ ngụy tạo nhưng đôi khi một tấm ảnh có thể nói dối. Tôi xin lỗi…”
Một lời xin lỗi muộn màng, sau khi Tự Do đã chết tại Nam Việt Nam và ông Nguyễn Ngọc Loan cũng đã qua đời. Nhưng trái đất vẫn không ngừng quay, đời sống trên hành tinh này vẫn tiếp tục và lịch sử vẫn ghi lại những sự thật không thể che dấu mãi.
Cậu bé Nguyễn Từ Huấn thoát chết năm xưa đã là một chứng nhân lịch sử, và đang làm lịch sử với tư cách một viên Tướng trong Hải Quân Hoa Kỳ, lực lượng trên biển hùng mạnh nhất thế giới, như ông đã nói trong buổi lễ thăng cấp ngày 10 tháng 10 vừa qua:
“Đây là nước Mỹ của chúng ta, một đất nước được xây dựng trên sự phục vụ, lòng tốt và sự quảng đại, cơ hội cho mọi người, tự do để hy vọng và ước mơ.
Tại một nơi nào khác, liệu một người tị nạn chính trị với một tương lai bất định, giống như cảnh ngộ của tôi 44 năm trước, có thể có được sự tin cậy của quốc gia dung nhận mình để sẽ phòng vệ mình vào lúc cần thiết ? Đứng trên nơi đây hôm nay là một tuyên hứa trung thành với quốc gia này của chúng ta, Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ.”
Không người Việt Nam nào mà không vui mừng và cảm thấy tự hào chung với Phó Đề Đốc Nguyễn Từ Huấn về sự thành công của ông, cũng như sự thành công của rất nhiều “thuyền nhân” khác trên khắp thế giới.
Cũng không có người Việt Nam nào không cảm thấy đau xót và tủi nhục cho những “thùng nhân” đã chết thảm tại Essex.
Ai đã gây ra thảm kịch ấy, và ai đã gây ra thảm kịch của những thuyền nhân đã bỏ mình ngoài biển khơi trước đây?
Câu hỏi để cho bà Lê Thị Thu Hằng trả lời.

Ký Thiệt

Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 27/Nov/2019 lúc 12:48pm

Tạ Ơn Hoa Kỳ


3539%201%20TaOnHKTQBao
Trời cho còn có hôm nay,
Lòng rưng rưng nhớ những ngày bi thương.
Rời Quê Hương. Bỏ chiến trường.
Ra đi, trước mặt đại dương ngàn trùng.
3539%202%20TaOnHKTQB
Trao nhau nhân ái, nụ cười,
Miếng cơm, manh áo tặng người Di Dân
Từ vật chất, đến tinh thần,
Cưu mang tận tụy, ân cần yêu thương.

Chúng tôi, lữ khách tha phương
Tới đây, xin nhận Quê Hương thứ nhì.
Tạ Ơn Người Bạn Hoa Kỳ,
Ủi an, khích lệ nhau khi cơ cùng.
3539%203%20TaonHoaKyTQB
Cho nhau mảnh đất tạm dung,
Cho nhau ngạo nghễ vươn chung Quốc Kỳ
Ơn này lòng dạ khắc ghi!
Nguyện cầu Thượng Đế quyền uy vô lường.

Hộ phù Nước Mỹ phú cường
Ban cho Dân Mỹ, bốn phương an bình.

Trần Quốc Bảo
Richmond, Virginia



Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 27/Nov/2019 lúc 12:53pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 29/Nov/2019 lúc 4:31pm

Lúc Trẻ Cứ Tưởng


1. Lúc trẻ, tưởng khóc là buồn. Bây giờ phát hiện buồn nhất là không thể khóc được, cứ trống rỗng, tỉnh táo và vô hồn.

2. Lúc trẻ, tưởng cười là vui. Bây giờ nghĩ lại, có những giọt nước mắt còn vui hơn cả một trận cười.

3. Lúc trẻ, tưởng đông bạn là hay. Bây giờ mới biết vẫn chỉ có mình mình.

4. Lúc trẻ, tưởng cô đơn ở đâu xa lắm, chỉ đến ở những chỗ không người. Bây giờ mới hiểu, lúc bên nhau, sự ấm áp mới thật mong manh, mà nỗi cô đơn sao lại gần gũi thế.

5. Lúc trẻ, tưởng yêu là tất cả, là mọi thứ. Lớn lên mới biết, sau yêu còn có chia tay.

6. Lúc trẻ, tưởng thành người lớn là lớn, bây giờ đã thấy có nhiều người lớn mà vẫn chưa thành người lớn, và đến khi thật sự thành người lớn thì người ta sẽ biết không bao giờ bé trở lại được.

7. Lúc trẻ, tưởng đóng đinh thì đóng đinh, không thích thì có thể nhổ. Bây giờ cảm nhận được đinh có thể nhổ nhưng vết sâu vẫn còn.

8. Lúc trẻ, tưởng mình có thể thay đổi cả thế giới. Giờ đây thấy được ngay cả một người còn chẳng có khả năng, có chăng vẫn chỉ là tự thay đổi mình.

9. Lúc trẻ, tưởng yêu một người thì dễ, quên một người mới khó. Giờ thấy mình quên đi nhiều người cũng dễ dàng,nhưng để yêu mới khó làm sao. 

10. Lúc trẻ, thích định nghĩa về tình yêu, tình yêu là X, là Y, là A,B,C,D. Bây giờ lớn rồi lại cuống cuồng vì hoang mang không biết tình yêu thật sự là gì cả.

11. Lúc trẻ,vẫn nghĩ rằng tình yêu là mãi mãi,tình yêu là thứ quan trọng nhất trong cuộc đời. Giờ thì biết yêu đến đó rồi đi đó, như mưa bóng mây,hay dù có như chớp bể mưa nguồn thì cũng vậy,có đó rồi mất đó. Và thực sự cũng chẳng biết thứ gì là quan trọng nhất. 

12. Lúc trẻ, tưởng chỉ có kẹo là ngọt. Giờ lớn lên mới biết có nhiều thứ còn ngọt ngào hơn cả kẹo.

13. Lúc trẻ, rất sợ phải chết. Nhưng bây giờ lớn khôn mới biết, sự lãng quên còn đáng sợ hơn cái chết rất nhiều.

14. Lúc trẻ, tưởng tượng rất nhiều. Giờ đây khi lớn lên mới biết chuyện cổ tích không bao giờ có thật.

15. Lúc trẻ, Mẹ nói yêu thương cho đi là yêu thương nhận lại. Giờ lớn lên chợt nhận ra, có những yêu thương chỉ cho mà không nhận.

16. Lúc trẻ, mong mình lớn. Giờ đây lớn lên rồi sao mong mình bé lại quá chừng.

17. Lúc trẻ, tưởng yêu một người là sống vì người đó. Giờ mới biết yêu một người là phải biết tự yêu lấy mình.

18. Lúc trẻ, tưởng sự sống và cái chết ở cách xa nhau lắm. Giờ mới biết nó chỉ cách nhau một lằn chỉ mong manh.

19. Lúc trẻ, tưởng nói dối là xấu, giờ mới biết lời nói dối đôi khi cũng giúp ích rất nhiều. 

20. Lúc trẻ, tưởng trung thực là điều tốt. Giờ mới biết sống trung thực với mình thôi cũng là điều khó khăn biết bao.

21. Lúc trẻ, tưởng những gì đến rồi sẽ đi. Giờ mới biết niềm vui đến thì qua mau,còn nỗi buồn đến thì cứ ở bên ta mãi.

22. Lúc trẻ, tưởng sau tình yêu sẽ là hôn nhân. Giờ mới biết có những cuộc hôn nhân không cần tình yêu. 

23. Lúc trẻ, cứ nghĩ "tiền bạc, tình yêu rồi mới đến sức khỏe ". Về già rồi mới khám phá ra sự đảo ngược "sức khỏe, tiền bạc rồi mới đến tình yêu "

24. Lúc trẻ, tưởng hạnh phúc là điều gì đó xa xôi lắm. Giờ mới biết hạnh phúc chỉ đơn giản là những thứ bình dị xung quanh ta,có chăng là mình đã không nhận thấy.

25. Lúc trẻ, tưởng nói quên là quên được. Giờ mới biết,có những chuyện càng muốn quên thì nó lại càng ở mãi trong lòng.

26. Lúc trẻ, cứ mơ ước lớn lên rồi sẽ trở thành người này người kia. Về già mới biết "được trở thành chính mình mới là điều hạnh phúc nhất "...

Sưu tầm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23789
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 02/Dec/2019 lúc 8:39am

127- LH -A stork true love story- Chuyện tình chung thủy của đôi cò trắng tại Croatia HD  <<<<<


Image%20result%20for%20Chuyện%20tình%20chung%20thủy%20của%20đôi%20cò%20trắng%20tại%20Croatia%20HD"


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 02/Dec/2019 lúc 8:41am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23789
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 04/Dec/2019 lúc 3:06am

Chuyện Chiếc Cầu Trên Sông Mỹ Thuận


Đã lâu lắm tôi không về lại Việt Nam. Nói vậy không có nghĩa là tôi không nhớ quê hay nhớ ít hơn những người đi đi về về từ mấy năm nay. Không, tôi nhớ quê tôi lắm chớ. Tôi nhớ đâu ngay từ khi mới vừa đặt chân xuống ghe trong đêm vượt biển. Nỗi nhớ như những lọn máu nhỏ từ đời kiếp nào vẫn chảy rì rầm trong trái tim héo mỏi. Tôi có quên đâu. Thấp thoáng giữa đám lau lách của trí nhớ bội bạc, quê hương vẫn còn đó, lẻ loi như một bông cúc vàng nở muộn, đẹp đến xót xa. Tôi nhớ như một người tình bị phụ rẫy nhớ lời đay nghiến, như người thương phế nhớ một phần thân thể đã thất lạc. Nhớ từ cơn đổ vở nhớ đi. Nhớ trong hồi đoạn lìa nhớ lại. Vậy mà tôi không về. Hay chưa về lại đó một lần. Nghe thì rắc rối như bày đặt. Nhưng mà cuộc đời cũng có suôn sẻ gì đâu.

Những năm mười tám, đôi mươi từ tỉnh nhỏ lên Sài-gòn trọ học, cách quê đâu chừng trên trăm cây số gì đó là tôi đã bắt đầu thấy nhớ. Hồi đó bạn bè cứ sửa câu hát ru em mộc mạc thành câu hát trêu chọc: “Đèn Sài-gòn ngọn xanh ngọn đỏ. Đèn lục tỉnh ngọn tỏ ngọn lu. Mới đi xa anh khóc lu bù. Chừng quen con nước bắt bỏ tù anh cũng đi”. Dĩ nhiên con trai mới nhổ giò nhổ cẳng, đứa nào chẳng có lần mơ mộng làm những chuyến giang hồ vặt để cứ tưởng mình đã lớn. Lẩn quẩn trong cái phố chợ nhỏ xíu đi tới đi lui chưa mỏi cẳng đã thấy vòng lại chỗ cũ, lòng cứ nôn nao những chuyến đi xa. Đọc hành Nguyễn Bính thấy mê làm sao cái hình ảnh hào tráng của người khách lữ, rũ áo phong sương một chiều cuối năm trên gác trọ, rượu say ngất ngưởng rồi cười khinh mạn mà nhắc tới mấy con mắt trắng với mắt xanh. Chưa hết đâu, còn cái hình ảnh não nùng của người em gái sầu muộn bên song cửa cứ vò võ trông chừng từng cánh nhạn đưa tin. Trời ơi được làm người tình cho người ta chờ đợi như vậy có nhuốm bụi cũng cam. Mơ thì mơ toàn chuyện động trời như vậy mà mới xách va-li đi khỏi nhà được đâu trăm cây số chừng đôi ba bữa là đã thấy nhớ cồn cào cả người. Có lạ không.

Vẫn có những chiều đang lang thang giữa phố, lòng bỗng nhiên chùng xuống khi chợt thấy chân mình lỡ đạp trùng lên mấy lọn nắng cũ vàng hoe. Hay những sớm thức dậy bỗng thấy buồn ngang vì một tiếng xe thổ mộ lăn lóc cóc đều đều như gõ nhịp vào thiên cổ. Cái thằng đang vui đời đô thị bỗng trở buồn ngang xương vì vệt nắng hoang, vì tiếng xe ngựa sao giống y như bóng nắng tiếng xe ở quê nhà. Có một cái gì trùng lẫn ở đâu đây. Dường như mấy góc phố nhỏ, cây me già cỗi, đêm mưa tỉnh lỵ, giọt trăng châu thổ… vẫn là một dù người ta đã thay nơi đổi chốn. Người đi bỏ lại hình ở chốn cũ mà quên bóng cứ lúc thúc theo sau. Có lúc giả bộ ngoảnh mặt mà thật ra có làm ngơ được đâu. Nó cặp kè, lẩn lút, chỉ đợi dịp là ló mặt ra trêu chọc. Bởi vậy mà trong khi đầu tôi thì háo hức lo đuổi bắt mấy cái bóng sắc mới lạ thì lòng tôi lại trì trì những kỷ niệm cũ xì. Cứ như vậy mà giằng co níu kéo hết tháng sang năm lòng vòng chơi mãi cái trò bắt trốn. Hết nhớ rồi quên. Hết quên rồi lại nhớ. Riết rồi tôi cứ thả mặc cho dòng đời xốc nổi, bởi gốc vốn từ đất ruộng bốc bụi bay đi thì làm sao chẳng có lúc tấp lại bên đường mà không nhớ xó đất quê!

Vậy đó, suốt mấy năm lang bạt ở Sài Gòn, mặc dầu lúc nào cũng tỏ ra là “tay chơi” sành sõi, nhẵn mặt khắp đầu trên xóm dưới, như một dân Sài-gòn chính hiệu, tôi vẫn cứ là một tên nhà quê đặc sệt ở trong lòng. Hở ra là nhớ. Nhớ từ cọng cỏ ướt sương nhớ đi. Nhớ từ bụi lúa trổ đòng đòng nhớ lại. Người tình đầu đời sao tôi quên cái một. Mà khoảnh đất quê nhà sao tôi lại nhớ hoài. Có lúc tôi thấy thèm về ngồi lại trên bực đá lở bên bờ sông Cái, một buổi trưa hè nào đó, lượm đá thảy lia thia trên mặt sóng mà đầu thì thả lông bông như một người vô tích sự. Có lúc tôi muốn được quay lại bãi cỏ xanh cạnh ngôi đền văn miếu cũ, chắp hai tay sau gáy nằm dài ra đó ngủ dật dờ ngó lơ mơ mặc cho cuộc đời xoay trở chung quanh. Cả cái tỉnh nhỏ mà gần như ai nấy đều biết mặt nhau, ở thì rầu muốn chết mà đi xa thì nhớ đến đứt ruột. Tôi cũng không biết tại sao. Có phải cái đó là cái mà mấy ông văn sĩ gọi là tình quê đó chăng?

Tôi nhớ những con đường lặng lẽ duổi dài theo bóng mấy hàng sao, tôi nhớ cái châu thành nhỏ xíu như chiếc khăn tay với những căn nhà xây cất nửa tây nửa ta, nhớ mấy quán sinh tố góc chợ chiều có mấy cô chiêu đãi quê mùa gọi mời đon đả. Tôi nhớ ngôi trường Tiểu Học với cái sân chơi lầy lội, ngôi trường Trung Học im ỉm uy nghiêm và tiếng trống gọi trường nghe dồn dập đến thót tim mỗi lần ham chơi tụ tập lê la ngoài phố. Tôi nhớ như in dãy phố tàu. Bạn bè dăm đứa rủ rê nhau. Áo phanh ngực đón mùi hương lạ. Háo hức chia nhau khói thuốc đầu. Còn nữa, còn nhiều lắm, làm sao kể hết. Ngay cả những thứ có lúc thấy tầm thường, nhạt nhẽo gì đâu mà sao cứ… nhớ ơi là nhớ!


Như cái bến phà Mỹ Thuận vậy đó, tôi đã đi qua lần đầu đâu thuở chín mười tuổi rồi cứ nhớ hoài mặc dầu sau này, lớn lên đã qua không biết bao nhiêu là bến đợi khác. Có một cái gì lạ lắm như nối kết tôi, thằng con trai sinh ra và lớn lên ở bên này sông cứ nhìn ngó bên kia sông như chót đỉnh của một giấc mơ phiêu lãng. Có phải con sông lớn mênh mông đó như một ranh giới vô tình đã chằng giữ những cơn mơ tuổi nhỏ. Có phải những con sóng cuồn cuộn đó đã một thời đẩy đưa hồn tôi phiêu lưu đến những chân trời xa tít, miễn phí và không nguy hiểm. Bằng lý do nào, thì đó vẫn là nơi ưa thích nhất và cũng là nơi tôi nhớ nhiều nhất, nhất là từ lúc biết mình khó có dịp qua lại nữa.

Những năm mới bỏ xứ ra đi, năm ba hôm là lại chiêm bao thấy mình về quê cũ. Mà lần nào cũng vậy, mỗi lần lại thấy đứng đợi phà qua bến Mỹ Thuận. Nghĩ cũng lạ. Lội sông lội suối cũng nhiều mà rồi cũng chỉ nhớ có khúc sông trắc trở đó thôi. Dĩ nhiên điều đó chắc không ăn nhằm gì với cái vị trí quan trọng của nó trong việc thông thương ở miền Tây. Quốc lộ số 4 từ Sài Gòn xuôi Nam đến đó là phải khựng lại. Sông rộng mênh mông, tách nguồn từ Tiền giang ở phía bắc chảy nghiêng nghiêng theo hướng Tây Nam đến đó phát đổ ròng ròng đến phát sợ. Thuở ấy, tiền bạc và kỹ thuật chắc còn non yếu quá, người ta chưa đủ sức bắc cầu. Xe đò, xe hàng tới đó là phải đậu lại, sắp hàng dài thậm thượt đợi lượt qua sông. Gặp lúc có công-voa nhà binh chiếm ưu tiên là thôi chờ đợi dài người ra. Xe cộ phì phò hục hặc, khách khứa nhốn nháo, mấy chú lơ xe hấp ta hấp tấp xách thùng xuống sông múc nước đổ máy cho hạ hỏa, mấy bà mấy cô cũng vội vội vàng vàng chạy tìm mấy chỗ giải thủy cho nhẹ mình, khi thì bờ ruộng lúc lại mấy lùm cây khuất khuất hở hở. Cái hoạt cảnh ồn ào náo nhiệt không có chỗ nào giống được. Lạ lắm.

Làm như đó là một nơi người ta rất mong cho mau tới, mà tới rồi lại cứ mong cho mau đi. Nói vậy mà không đi mau được là cũng vui vẻ như thường. Có khi thấy xe kẹt nhiều quá là thiên hạ cứ miệng lầm thầm rủa xả mà chân thì xắn xả nhắm hướng mấy cái quán nước thân tình. Hàng quán thì bán đủ thứ thượng vàng hạ cám. Người đi xa lỡ độ đường không sợ đói. Cơm nước trái cây bốn mùa, mùa nào thức nấy. Cứ nhìn mấy giỏ mận hồng đào chín mọng là bắt khát nước, mấy giỏ ổi xá-lỵ căng da xanh mướt mà phát thèm. Điệu nghệ hơn nữa, những xâu chim trao trảo quay vàng ngậy chảy mỡ bóng lưỡng chấp chới trong lồng kiếng quyến rũ còn hơn cao lâu Chợ Lớn, mấy miếng thịt sườn nướng than tại chỗ bốc mùi thơm thấu tới thiên đình. Kề đó mấy chai bia con cọp sắp hàng dọc ngang như nghinh nghinh thách đố ai mà chịu nổi. Bởi vậy mà khách giang hồ qua đó thế nào rồi cũng phải có lần ngả bàn nhậu dọc đường. Mà bởi vậy khách đa tình qua đó cũng không thiếu người vướng lại những cuộc tình tứ chiếng. Bà lớn bà nhỏ em gái em nuôi gì không biết chớ chuyện ghen bóng ghen gió vẫn xảy ra hà rằm làm cho cái bến đổ vốn đã ồn ào lại được thêm phần… ầm ĩ.

Nhưng mà tại sao là Mỹ Thuận mà không là một cái bến khác. Dọc theo miền Tây còn bao nhiêu là bến phà. Vàm Cống, Cần Thơ, Rạch Miểu, Chợ Gạo, Cổ Chiên… sao không nhớ. Mà chỉ nhớ rặt có Mỹ Thuận? Hay tại tôi cũng nòi tình như ông Cò quận chín trong tuồng cải lương Tuyệt Tình Ca có bà vợ nhỏ ở Vĩnh Long đã chèo xuồng đưa chồng qua sông Mỹ Thuận về Mỹ Tho thăm vợ lớn rồi biệt tăm biệt tích luôn mấy chục năm trời. Không, tôi biết cái bến phà đó từ lúc còn rất nhỏ, chưa tới tuổi có một vợ chớ đừng nói tới vợ hai. Kỷ niệm của tôi với cái bến phà đó không dính líu gì hết tới mấy cái chuyện tình duyên tấm mẳn. Nó chỉ dính líu tới cái tuổi nhỏ mà mộng lớn của tôi thôi. Vốn là quê tôi cách bến phà Mỹ Thuận đâu chừng chín mười cây số gì đó. Con đường nối liền bến nước với tỉnh lỵ chạy qua những thửa ruộng nho nhỏ cắt chia bằng mấy bờ đê lúp xúp, ngang qua vài xóm nhà lá lụp xụp và một hai chiếc cầu xi-măng bắt cong cong rất điệu. Con đường hiền lành thơ mộng một cách quê mùa, cũng chẳng có gì là đặc sắc.

Chỉ có điều con đường đó là cái ngõ thoát êm đềm nhất để chạy trốn nhịp sống đều đặn nhàm chán của tỉnh nhỏ buồn hiu. Con đường là cái gạch nối ngắn nhất đưa đứa con trai mới lớn từ thực tế vây khốn đến mộng mị phiêu lãng qua trung gian là cái bến phà rộn rịp đầy khách lữ hành xuôi ngược. Lần đầu tiên qua đó một lần năm chín tuổi là bắt mê ngay cái không khí chộn rộn, tất tả, lăng xăng của kẻ đến người đi, của người qua kẻ lại làm như ai nấy đều vội vã lắm. Người ta sốt ruột trông cho mau đến, đến rồi sốt ruột trông cho mau đi, đi hấp ta hấp tấp như chỉ sợ trễ một chuyến qua sông là sẽ trễ luôn cả một cuộc đời. Làm như cuộc sống không chịu ngừng lại một chút, cứ phải là những chuyến lên đường.

Ờ, những chuyến lên đường! Hình ảnh những khách bộ hành lật đật xuống xe, tay xách nách mang kéo nhau đi như chạy qua phà là cái biểu lộ tuyệt diệu nhất cho sức hút của dặm trường thiên lý, của kiểu đời gạo chợ nước sông đã làm tôi mê mẩn suốt một thời mới lớn.

Hình dung trở lại đứa trẻ sinh ra ở một tỉnh nhỏ lần đầu tiên được cha mẹ dẫn cho đi Sài Gòn. Chuyến xe tài nhứt khởi hành đâu khoảng bốn giờ sáng. Trời gần Tết đẫm sương. Lòng xe tối mò. Hơi khói xăng xông lên mũi kích thích. Đứa bé cố nhướng mắt thật to để nhìn cho hết con đường mơ trước mặt. Mà có được đâu. Cơn mê ngủ đậu chực trên mí mắt cứ đè sụp xuống hoài làm nó lắc lắc đầu như để phủi đi mà không phủi được. Tiếng xe chạy ù ù càng như ru thêm. Nhưng mà mới ngủ gà ngủ gật đâu được một chút đã giựt mình nghe tiếng anh lơ la oang oang. Bà con cô bác xuống xe qua đò. Có ăn gì thì xả rác trong xe bà con ơi… Đứa bé giựt mình mở choàng mắt dậy. Ôi thôi đâu mà đèn đuốc sáng trưng. Người qua lại rộn rịp, kêu réo thúc hối kèn cựa tự nhiên như giữa chỗ không người. Đứa bé ngơ ngác tưởng trong chiêm bao. Đâu mà mới chút nãy còn ở giữa đồng hoang tối mịt, mới ngủ quên một chút, bừng con mắt dậy đã thấy ở ngay giữa bữa chợ đông.

Bỡ ngỡ, chớp chớp con mắt mấy cái là tỉnh như sáo sậu. Nó khoái chí dòm cái hoạt cảnh mới thấy lần đầu. À thì ra người ta có ngủ như nó đâu. Người ta đi đi lại lại, chạy tới chạy lui, cười giỡn nạnh hẹ nhau suốt đêm suốt ngày. Cái cõi người lớn này lạ thiệt. Đêm hào hứng như vậy cách chỗ nó ở có bao xa, bằng đâu một chớp mắt thôi. Vậy mà ở nhà mới chạng vạng ba má đã bắt nó phải lên giường ngủ một mạch cho tới sáng trưng. Như vậy ở ngoài căn nhà nó ở, ngoài con đường tráng nhựa nó đi tới trường hàng ngày, ngoài ngôi chợ lớn cạnh bờ sông thỉnh thoảng có mấy gánh sơn đông về múa võ bán cao đơn hoàn tán, ngoài cái rạp xi-nê chiếu phim cao bồi bắn lộn với mọi da đỏ… còn có cả một thế giới lạ lùng, vui tươi, rộn rịp, chờn vờn một sức sống mãnh liệt bừng bừng ngay kề bên cái phố nhỏ buồn hiu của nó. Đúng là cả một khám phá kỳ diệu.

Xe chạy chậm lại rồi rà rà tìm chỗ đậu. Mọi người lục tục xuống xe. Thằng bé nắm chặt tay mẹ nó đi những bước như nhảy. Nó cố làm ra vẻ người lớn như để được hòa hết mình vào cái thế giới sôi sùng sục quanh nó. Nó nở mũi hít thật dài một hơi không khí mát lạnh từ ngoài sông thổi tới, thấy như hít luôn cả cái chộn rộn của đoàn người đang vội vã đi bên cạnh, luôn cả cái mùi kỳ lạ pha trộn đủ thứ thập vật trần gian: hơi người, hơi gà vịt treo buộc tòn teng dưới cặp đòn gánh của mấy bà bạn hàng, hơi trái cây vừa mới hái đổ đống trên sạp, hơi nước lèo của mấy xe hủ tiếu thơm phức, hơi xăng nhớt nồng nồng, cả hơi tinh sương của một ngày đang trổi dậy. Trong khi đó đoàn xe chạy chậm chậm cẩn thận từng chiếc một xuống phà theo sự chỉ dẫn của ông “xếp bắc”, miệng ngậm tu-huýt mặt câng câng như tự thấy mình quá sức quan trọng. Mỗi chiếc xe bò lên cầu từ tốn vừa chạy vừa run run chắc vì lòng cầu nhỏ quá chỉ vừa lọt chí mí. Kề bên một anh lơ chạy lúp xúp tay cầm cục gỗ chặn như để sẵn sàng can thiệp khi xe lỡ trớn.

Chiếc cầu sắt lót ván kêu rần rần dưới vòng bánh xe nặng trịch. Xe chạy tới đầu “bông-tông” thì ngừng lại, khục khà khục khặc như vừa thấy nguy hiểm chờn vờn trước mặt. Mà nguy hiểm thật. Ở giữa “bông-tông” là một cái cầu quay hình chữ thập, bề ngang đâu cũng chỉ vừa lọt hai bánh xe, cái nhánh thẳng nối với đường cầu đâu chỉ dài hơn chiều dài chiếc xe đò một chút mà lại đâm thẳng ra dòng sông đang chảy cuồn cuộn. Ngó mà thấy rùng mình. Hèn chi ngay đầu cầu lúc nãy thấy có một tấm bảng đỏ ghi mấy hàng chữ trắng:”Coi chừng thử thắng xe qua phà”. Điệu này không khéo xe chạy tuốt xuống sông như chơi. À thì ra tại vậy người ta bắt bộ hành xuống xe đi bộ bỏ mặc chiếc xe với ông tài xế thử thời vận. Mà chắc cũng không sao vì ông tài xế coi bộ bình tĩnh lắm, miệng ngậm trệch điếu thuốc lá, từ từ rà thắng cho xe rề rề chạy xuống tới mút bửng cầu thì ngừng lại đúng lúc ông kiểm soát khoát hai tay ra dấu ngừng. Tất cả ăn khớp đúng phốc như dứt hết sáu câu mà rơi ngay đúng nhịp song lang. Tức tốc, anh lơ xe chêm ngay hai khúc cây chặn cứng hai bánh xe hết đường nhúc nhích.


Rồi đợi đâu sẵn, bốn người phu đứng ngay bốn đầu cầu quay, người kéo người đẩy vận sức xoay bàn cầu quay một phần tư vòng tròn cho đầu mũi xe hướng ngay mũi phà đã hạ bửng đợi sẵn. Chiếc xe rú một hơi dài rồi chồm lên chạy xuống phà. Vậy là xong một chiếc xe. Phà nhỏ chở được có bốn năm xe là đầy một chuyến. Ông tài công ngồi tuốt trên phòng lái ra lệnh dỡ bửng. Ai đó đánh một tiếng kẻng. Vậy là coi như nội ngoại bất xuất, trên dưới không được lên xuống nữa, hành khách và xe cộ không được chộn rộn chàng ràng nữa. Phà dỡ đõi rồi từ từ lùi ra bến. Trời hưng hửng sáng. Gió bốc theo khói sóng thổi phần phật mấy tấm bạt che hàng trên mui xe. Nước bắn tung toé hai bên thành phà làm ướt nhem mấy dãy băng dành cho hành khách. Mặt trời hà tiện chút ánh sáng vàng cam không soi nổi con sông lớn quẩy sóng đen ngòm. Phà chạy chậm như thong thả lắm hay là tại không có sức nhanh hơn. Máy nổ rì rì đến sốt ruột. Ngồi trên mấy cái băng gỗ có lúc người ta tưởng chừng như đang đứng yên một chỗ nếu không có mấy dề lục bình trôi băng băng ngược chiều.

Gặp mùa lũ chướng xem chừng còn nhàn nhã hơn nữa. Phà qua ngang không nổi, phải thả trôi theo con nước xuống tuốt đuôi cồn rồi mới ì ạch vòng lên bờ bên kia. Như vậy mà chắc ăn nếu không phà tròng trành có thể lật ngang như chơi. Vậy mà thằng bé vẫn khoái như thường. Dễ chừng nó còn mong cho lâu tới nữa. Đâu phải lúc nào cũng được đi trên sông một cách nghênh ngang như vậy, ngó mấy chiếc tam bản chèo chống lê thê bị sóng tàu nhồi đờ đẫn mà tội nghiệp. Nó ngửa mặt hứng mấy giọt nước bay trong gió, tóc dựng đứng như bờm ngựa, lòng mơn man một nỗi vui kỳ lạ. Cùng lúc trời lộ hết bình minh. Con sông hiện rõ dần, lớn lao, chói lọi, bất trắc và mê hoặc như một huyền nhiệm. Đứa bé thấy con sông và bến nước lần đầu tiên mà sao có cảm tưởng như sẽ thấy muôn đời. Tấm lòng nhỏ xíu của nó như đã dành một chỗ rất lớn cho khoảnh sông nước đó. Nó chăm bẳm cái hình ảnh của thiên nhiên cựa mình sống dậy như một khám phá bất ngờ. Và lớn lên một cách đột ngột, từ đó.

Như vậy mà tôi qua phà Mỹ Thuận lần thứ nhất. Tôi trở ngược lại qua phà lần thứ hai ít ngày sau gì đó. Cũng y như lần đầu. Chỉ khác là vào buổi chiều, trời sắp tắt nắng. Bóng đêm chực chờ càng làm con sông, chiếc phà và người ta thêm gấp gáp. Cũng cái vội vã thêm một chút lo lắng. Cũng cái ồn ào nhưng bớt đi một chút náo nhiệt. Nhưng không có vẻ gì là sắp ngừng nghỉ. Sông nước có thôi chảy đâu. Và người ta cũng đâu có hết lên đường. Ở đó là hình ảnh một dòng sống không có khởi đầu và cũng không có kết cuộc.

Có phải tại vậy mà tôi mê cái bến Mỹ Thuận hay không? Tôi đã giữ trong tôi cái hình ảnh qua lại bất tận trên dòng sông bất tuyệt này rất lâu. Mãi đến khi lên Trung Học, tôi vẫn thường trốn nhà những ngày nghỉ học đạp cái xe đạp cà tàng chín cây số lên đó, đứng ngó ngu ngơ một đỗi rồi đạp xe trở về. Mệt đừ mà lòng lại thấy vui sướng như vừa làm một chuyến đi xa, hồn mê mải với cuộc mộng du tưởng tượng. Không biết có phải tại tôi chịu ảnh hưởng của đứa bé mê nhà ga và xe lửa trong thơ Tế Hanh hay không mà tôi cứ hay làm như nó. “Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt. Lòng buồn đau xót nỗi chia xa”. Cái hình ảnh đẹp và buồn đến dại người. Mà cũng dại thiệt. Tôi mê cái bến phà Mỹ Thuận đến dại dột.

Năm học lớp Đệ Tứ, cô bạn gái cùng lớp thân thích với tôi như quít với cam. Còn tôi thì cứ tưởng thiên hạ ai cũng mê thích kỳ quái như tôi. Lần đó tôi rủ cô ta trốn học, hai đứa lén ra bến xe lam đi Mỹ Thuận. Cô ta nghe tôi tả cái cảnh và cái tình của Mỹ Thuận nên cũng náo nức đi theo. Đến chừng lên tới đó thấy phố xá lu bu, người ta lật đật, sông nước thì vô tình cô ta đâm chán nản đòi bỏ về đi coi chớp bóng. Tôi đâu chịu. Thế là giặc giã nổi lên đùng đùng. Cô bạn thường ngày phụng phịu dỗi hờn dễ thương hết sức, hôm đó không biết nổi chứng gì mà quyết liệt còn hơn bà Trưng thù nhà hận nước dứt khoát bỏ tôi lên xe trở về. Tôi tự ái ở lại. Xui một cái là sau đó cô ta bị cha mẹ khám phá được chuyến giang hồ vặt, chắc bị nọc ra đánh đòn rồi đày vào lãnh cung hay sao đó mà thề cự tuyệt mặt tôi. Thế là “anh đi đường anh, tôi đường tôi…”

Nghĩ cũng uổng, chỉ vì ba cái vụ lên xe xuống xe mà đành rẽ thúy chia uyên. Nhưng mà tôi có tởn đâu. Tôi vẫn chứng nào tật nấy. Hể được cô nào thân ái là tôi cứ cà rà mời cho được lên chơi Mỹ Thuận một lần. Ở đó tôi huyên thuyên dẫn giải hoặc trầm ngâm tâm sự làm như chỗ đó là giang sơn riêng của tôi vậy. Có cô cũng kiên nhẫn ngồi nghe nhưng đa số thì giẩy nẩy đòi về. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại thì cũng đâu lỗi tại tôi. Nơi cái thành phố tôi ở thuở đó có chỗ nào thơ mộng đâu mà hẹn hò. Chẳng lẽ đưa nhau vào Văn Thánh Miếu, chỗ thờ ông Thánh Khổng chuyên trị lễ giáo mà đi lạng quạng dưới mấy gốc mù u tối om để nỉ non tâm sự. Lỡ ổng nghe được thì hóa ra tôi cũng lỗi đạo với bậc tiên sư. Nếu không thì dưới bóng cây da Cửa Hữu có miếu Bảy Bà sơn thủy cũng hữu tình nhưng thời đó nghe đồn bà hay xẹt đi xẹt lại thì càng nên tránh cái chuyện tới đó thề non hẹn biển.

Còn cái rạp xi-nê nhỏ như cái lổ mũi chuyên môn chiếu tuồng cao bồi đánh nhau với da đỏ thì giữa cảnh tên bay đạn lạc đó thì còn đâu tâm trí mà nói chuyện tâm tình. Vả lại ngay xuất chiếu buổi trưa rạp chẳng có máy lạnh lại còn đóng cửa kín bưng nên cứ vừa coi phim vừa quạt phành phạch thì hơi sức đâu nữa mà thủ thỉ. Chỉ có Mỹ Thuận của tôi là thượng hạng. Vừa có gió sông lồng lộng, có phà trôi rập rình, có đủ thứ quà cáp trần gian và nhất là có những vóc dáng giang hồ qua qua lại lại. Bến nước là nơi tao ngộ của những tay tứ chiếng, là ngã tư gặp gỡ của trăm họ miền Tây. Cà mau, Rạch Giá, Long Xuyên, Châu Đốc, Vĩnh Long, Sa Đéc, Trà Vinh… Họ băng ngang thì thôi chớ còn xổ dọc là gặp nhau ở đó. Không hẹn mà gặp. Gặp không chào không hỏi. Gặp một lần trong một đời. Rồi thôi. Rồi mất biệt như chưa từng đã gặp. Dĩ nhiên chắc họ cũng có trở đi trở lại nhưng rồi có ai gặp lại ai đâu. Tôi đã thấy ở đó bao nhiêu là mặt người, bao nhiêu là nhân dáng mà rồi có gặp lại ai bao giờ. Phải vậy không, ở đó giống y như cái cõi đời này mà một ông Tàu xưa đã cảm thán đến để rơi nước mắt: “tiền bất kiến cổ nhân, hậu bất kiến lai giã, niệm thiên địa chi du du, độc thương nhiên nhi lệ hạ”.

Đó là một quán trạm bên đường mà mọi người phải ghé qua trong cuộc hành thiên lý dù có muốn hay không. Ghé qua một chút, vui vẻ hay buồn rầu, nhẹ nhàng hay gồng gánh thì cũng phải ghé qua, đi tới đi lui, dòm ngó loanh quanh rồi quay lưng đi mất biệt. Đó chẳng giống cái đường trần thăm thẳm này sao mà khách lữ chính là chúng ta đó. Chúng ta đến rồi đi có ai biết, dòng đời vẫn chảy đến biệt mù cũng chẳng làm sao hay. Thuở ấy tôi đã triết lý vụn như vậy với bạn bè mà không ai chịu nghe tôi. Riết rồi chỉ còn mình tôi là đi lại chung tình với cái bến phà-bến đời náo nhiệt đó. Vậy mà hay, bởi vì ở đó tôi đã sống bao nhiêu cảnh tình mà cả chục năm sau tôi cũng chưa hề sống lại được. Bãi trường năm 66, 67 gì đó, tôi từ Sài Gòn về quê nghỉ hè, cô bạn con nhà trọc phú được cha mẹ lo cho đi du học ở Pháp, ngày đi quá bất ngờ cô ta đáp xe đò về tìm tôi từ giã. Không biết lúc ấy lòng buồn đến đâu mà sau khi đưa cô ta qua sông trở lại Sài-gòn, một mình đón phà ngược trở lại, bỗng nhiên tôi khải ngộ được một điều thắc mắc từ thuở mới mê thơ. Đưa người ta không đưa qua sông. Sao có tiếng sóng ở trong lòng.

Trời ơi lần ấy tôi mới thấy hết cái tài hoa của người thi sĩ mệnh bạc. Đưa người, ông không đưa qua sông mà nghe sóng vỗ ở trong lòng. Còn tôi đưa người, tôi lại đưa ngang sông thì sóng vỗ biết cơ man nào mà nói. Con tim dù lớn cách mấy cũng chỉ bằng nắm tay thì chỉ có nước chết đuối thôi. Lần đó tôi tôn ông Thâm Tâm làm sư phụ. Mấy thằng bạn trời đánh của tôi chỉ lo chạy xe lạng đào trong thành phố làm sao hiểu thấu được cái lớn lao u trầm của người thơ. Đời mộng và thực như vậy đó bàng bạc trên từng ngọn sóng, từng khúc quành, từng vết xe lăn, từng chuyến phà ngang trắc trở. Sao không tới đó mà coi, không tới đó mà nghe tiếng đời kêu réo. Phải rồi còn cái tiếng đời huyễn hoặc này nữa, tiếng độc huyền của ông ăn mày mù ngồi trước hàng ba một tiệm nước. Ông ta ngồi đó tự lúc nào tôi không biết.

Chỉ biết khi tôi bắt đầu quến thật sự cái sinh hoạt của bến Mỹ Thuận thì ông ta đã có ở đó rồi. Ông ta ngồi đó lặng lẽ, nhỏ nhoi, có mà như không có, giống như cây cột đèn bữa cháy bữa không. Sự có mặt của ông có làm bận tâm ai đâu họa chăng là mấy thầy phú-lít. Nhưng mà ông ta mờ nhạt quá, cũ kỹ quá nên riết rồi người ta cũng lờ đi coi như là một vai câm của vở kịch cứ đổi cảnh hoài. Như cái phần tĩnh của bức tranh động vậy. Ông ta ngồi yên như một khúc gỗ đẽo sần sùi, lưng cong vòng, mặt nghiêng nghiêng, đôi mắt sâu hoắm, hai chân xếp lại, gần như không nhúc nhích. Chỉ có tiếng đàn của ông là bay lượn thảm sầu. Cái giọng ỉ ôi như kêu rêu, như trách cứ mà cam phận, nghe nghèn nghẹn đến tức tưởi. Nó gần như gom hết tất cả cái gì oan nghiệt nhất, cái gì đoạn trường nhất, cái gì tang thương nhất của cuộc đời này lại rồi phát ra một lượt làm chết điếng lòng người. Đàn chỉ có một dây thôi mà đủ hết mùi trường hận.

Tôi khám phá ra ông một bữa về ngang trời đổ mưa bất chợt. Mọi người chạy túa vào mấy cái mái hiên tìm chỗ đụt. Vừa tấp vào một quán nước tôi để ý tới người đàn ông mù tức khắc. Có một vẻ gì lạ lắm toát ra trên gương mặt vô tri như trét sáp. Ông ta ngồi đó, lặng lờ như một vệt khói, mặc cơn mưa rào rơi lộp độp, mặc đám phàm nhân lao xao. Ông làm như không hay biết gì hết, ông chỉ biết tiếng đàn của ông thôi. Mấy ngón tay xương xẩu, đen đúa thoăn thoắt bắt nắm sợi dây đàn độc nhất, còn bàn tay trái vặn vẹo cái cần gỗ đã lên nước bóng ngời. Tôi không biết ông đàn bản gì chỉ nghe được cái não nuột của âm thanh như từng mũi kim chích thẳng vào da thịt mình đến nhức buốt. Tiếng đàn thoát đi bay lượn lẹo trong không khí ẩm đục nghe như tiếng khóc từ cõi âm vọng lại, kêu réo, van nài làm tôi rùng mình muốn phát lãnh. Nó bay ra xa, uốn éo rồi vòng lại, oằn oại. Nó vút lên cao, lanh lảnh rồi chùi xuống thấp, rụng rời. Người ăn mày mù vẫn say mê đàn như không biết cái tiếng đàn ma quái đang truyền nhiễm về đời bóng tối của u minh, dẫn đường cho những hồn oan kéo nhau về lướt thướt.

Một lúc mưa bỗng tạnh. Mọi người lục tục bỏ đi. Có bà nhón vài đồng bạc cắc bỏ nhẹ vào cái hộp thiếc đặt trên góc chiếu. Còn đa số thì chắc quá vội đi mà không kể gì đến tiếng đàn bỏ lại. Còn tôi sao tôi bỗng nhiên thấy đi không nỡ. Sao tôi có cảm giác như thiên hạ quá vô lễ với nghệ nhân. Người ăn xin mù đó đúng là một nghệ nhân. Con người đó, tiếng đàn đó sao tôi thấy tài hoa đến tột vời. Mù đã là một thiệt thòi. Mù mà tài hoa thì đúng là tội nghiệt. Có phải ông mù đã gởi tâm sự mình trong tiếng đàn tận tuyệt đó không? Tôi quay vào quán, gọi một ly cà-phê bảo người hầu bàn đem ra cho người ăn xin rồi đến ngồi trong một góc nhìn ra. Suốt buổi chiều, tôi ngồi nghe lóm hết khúc này đến khúc khác, lòng cứ thắc thỏm từng hồi theo mấy cung bạc mệnh. Mà thật ra tôi có biết bài bản nào đâu.

Thuở đó đối với tôi, những kim tiền bản, khốc hoàng thiên hay gì gì nữa cũng là quê mùa hết. Tôi chỉ khoái rum-ba với lại xì-lô. Đã nói tôi còn dại dột lắm mà. Vậy mà buổi chiều đó tôi ngồi im như chết trong góc quán, hồn mỏi mê như bị ma ám, lần đầu tiên khám phá ra cây độc huyền quái đản. Tại sao có loại đàn kỳ dị như vậy. Và tuyệt diệu như vậy. Còn người mù đó nữa, có phải chính cặp mắt đục lờ đó mới nhìn thấu được tới vô thanh để biến ngũ cung thành trăm bài kinh khổ? Đã có lúc tôi tưởng chừng ông ta biến đi đâu mất tiêu mà chỉ còn tiếng đàn ở đó thay ông kêu khóc. Hay có thể nói ông ta và đàn như nhập làm một. Làm sao có sự hóa thân kỳ diệu đó nếu không là một bậc dị nhân. Có lúc thần trí tôi mê hoang tưởng như Sư Khoáng đội mồ trở về vác đàn đi tìm bạn tri âm… Rồi tiếng đàn dứt. Tôi giựt mình thấy mình ngồi ủ rũ. Trời ngoài kia đã chạng vạng, bến phà cũng thưa bớt người qua.
Bữa đó khi ra về tôi đã dốc hết tiền còn lại trong túi cho ông ta rồi nhảy lên đeo xe hàng có giang về chợ.

Đấy cái bến Mỹ Thuận nó hỗn mang như vậy đó, nó tập trung tất cả mọi hạng người từ cùng căn mạt kiếp tới những tay đâm thuê chém mướn, coi trời bằng vung, trước ngực thì xăm “hận kẻ bạc tình” sau lưng thì xăm “thù người hại bạn” đến người cuồng sĩ tối ngày cứ đón phà từ bờ này qua bờ kia như để đón đợi một người nào đó chưa bao giờ gặp mặt mà hể mở miệng ra là cứ “liên hoành” với “hợp tung”. Tôi đã thấy có ông tự chặt ngón tay thề thôi cờ bạc, có ông cầm dao đòi rạch bụng khi người yêu đòi “tách bến sang ngang”, có ông dẫn cô nhân tình bụng mang dạ chửa đâu từ dưới quê lên tới đó rồi “quất ngựa truy phong” bỏ cô ngồi khóc bù lu bù loa bên bờ sông “định mạng”. Tôi đã thấy những anh lơ xe mở miệng ra là chửi thề thí mạng mà giữ chữ tín còn hơn cả đám anh hùng Lương Sơn Bạc, những em bé bán hàng rong nhỏ như ngón tay út tối ngày chạy theo mấy chuyến xe đò ép nài từng xâu mía ghim để nuôi bà mẹ tật nguyền. Mấy ông già ngồi bán báo mà thông hiểu trời đất không sót một mảy may, bình chuyện đời xưa không thua gì Mao Tôn Cương hay Kim Thánh Thán. Thôi thì đủ thứ cảnh đời mà có học đến già người trong trường lớp cũng không làm sao biết được. Bởi vậy tôi yêu mến Mỹ Thuận như một người tình chung thủy, như một người thầy lão luyện đã dạy tôi bao nhiêu ngón khôn khéo mà cũng không biết bao nhiêu món đoạn trường. Có lúc tôi tự thấy mình giàu có như một tay hào trưởng.
Bởi vậy bỏ đi xa rồi mới thấy mất mát biết bao nhiêu.

Ở đây xa quá lắm lúc nhớ quê, tôi hay làm thơ kể lể. Có khi nhắc tô canh chua tôm nấu với bông sua đũa, nhắc tộ cá lòng tong kho khô rắc chút tiêu thơm, có khi nhớ dĩa cơm sườn ram mặn, nhắc tô hủ tiếu của chú Thoòng có cái bụng to bằng thùng nước lèo, có khi thèm nghe lại một điệu vọng cổ mà hồi trước cứ chê lên chê xuống. Trời ơi bây giờ mà cho tôi chui vào rạp Miếu Quốc Công đeo tòn teng mấy chiếc cột chỗ hạng cá kèo mà coi tuồng cải lương Nửa Đời Hương Phấn chắc là tôi sướng lắm. Nhưng mà sướng hơn nữa nếu được về đứng lại dòm ngó ngu ngơ hai bên bờ sông Mỹ Thuận như ở tuổi mới vào đời.

Vậy đó tôi vẫn nhớ quê như mọi người nhớ quê của họ. Tôi còn nhớ thêm cái bến nước ơn nghĩa của tôi nữa. Nơi mà không ai chịu nhớ tới chỉ bởi cái tội nằm ở giữa một chặng đường. Người ta chỉ nhớ nơi đi và nơi đến. Đâu ai bỏ công đi thương nhớ một trạm dừng. Rồi bây giờ nghe đâu người ta đã bỏ luôn cái bến phà đó nữa. Người ta đã cất cầu treo ở trên dòng sông lớn. Những chuyến phà chắc đã kéo vào ụ hay rã ra đem bán sắt vụn. Hàng quán hai bên bờ chắc cũng phải đóng cửa. Mấy người chủ quán chắc đã đổi nghề khác làm ăn. Con đường đá chạy xuống phà chắc bây giờ bỏ hoang cho cỏ dại mọc lan. Tôi không về nên chỉ tưởng tượng được thôi. Sông kia rày đã nên đồng. Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai. Đêm nghe tiếng ếch bên tai. Giựt mình còn tưởng tiếng ai gọi đò. Đấy ông Tế Xương ngày xưa cảm khái như vậy đó sau khi con sông ở Nam Định quê ông bị Tây tới lấp đi. Nghe mà thấy tội tình. Tôi nghĩ ông chưa nói hết những điều muốn nói. Ông không chỉ nhớ tiếng gọi đò thôi đâu. Chắc chắn ông còn rất nhiều kỷ niệm khác mà ông giữ kín cho riêng mình. Bởi vì nói ra cũng không hết được. Mà lắm khi còn bị bĩu môi là hoài cổ, là không thức thời.

Cũng như tôi bây giờ vậy, tôi cứ bị người thân kẻ lạ rầy rà, lắm khi mắng nhiếc khi thấy tôi cứng đầu cứ khư khư giữ riết lấy cho mình những hình ảnh cũ, những thương tiếc này, những ngậm ngùi nọ. Chi mà mệt vậy. Quên phứt cái cho được việc. Cuộc đời còn hàng trăm chuyện phải lo, hàng ngàn chuyện phải làm, nhắc làm chi cái chuyện đất nước cũ xì, mốc thếch. Chuyện đời thay ngôi đổi chúa là thường tình, trăm họ có khốn khó thì cũng là vận số thôi. Thì vâng. Nhưng vận số gì mà quái đản. Kẻ quyền thế dư ăn dư mặc thì cứ ngày một phủ phê. Còn bạn bè anh em tôi vốn dĩ nghèo đói ngu dốt thì cứ tiếp tục trần ai khổ lụy. Nếu tin được vào vận số thì cũng phải tin vào một quyền lực thiêng liêng nào đó. Mà hễ thiêng liêng thì phải có công bằng. Đằng này chuyện bất công ngang trái cứ xảy ra nhan nhản. Như vậy thì đâu phải là vận số nữa. Mà cái này đúng là chuyện thế gian rồi. Ai đời một dân tộc với đức kiên nhẫn, tánh cần cù, lòng đạm bạc đã đi vào huyền thoại mà mấy mươi năm rồi vẫn không ngóc đầu lên nổi thì thử hỏi có lạ không. Đã không còn giặc giã để đổ thừa, cũng không ai chen vào phá đám. Vậy thì tại sao? Chắc chắn không phải tại đám con đỏ đang chạy gạo từng bữa toát mồ hôi, càng không phải tại đám con ghẻ lang bạt kỳ hồ tứ tán ngoài cõi tạm. Vậy thì tại ai? Hỏi thì cứ hỏi chớ câu trả lời đã sờ sờ ra đó.


Gần đây bè bạn ân cần gởi cho mấy tấm hình chụp chiếc cầu trên sông Mỹ Thuận. Cầu mới tinh, cất theo kiến trúc và kỹ thuật tân kỳ, thoạt nhìn ngất ngưởng chẳng thua gì Kim Môn Kiều ở Cựu Kim Sơn, chỉ thiếu có một chút sương muối lửng tha lửng thửng là lẫn lộn như chơi. Cũng mấy cột tháp cao treo mấy sợi dây cáp cong cong. Nhìn trong hình chắc không đẹp bằng cảnh thực. Ngoài đó có con sông lớn, có gió lồng lộng, có mặt trời dát vàng buổi sáng, có mặt trăng dát bạc đêm rằm chắc còn đẹp hơn nữa. Ở xa tôi hình dung xe cộ qua lại suôn sẻ, khách đi đường khỏi phải lên xe xuống phà lôi thôi. Nghĩ tới nghĩ lui thấy cũng mừng. Mặc dầu trong bụng vẫn có chút nao nao khi biết đã mất rồi nơi chốn cũ. Bến phà xưa không còn nữa thì những vóc dáng xưa chắc cũng đã biệt mù. Chén cơm nóng lỡ đường, giỏ ổi làm quà đường xa, ly nước mía mới ép ngọt lịm, người chủ quán hay kể chuyện Tam Quốc mấy buổi trưa ế khách, những cuộc tình xốc nổi, những gặp gỡ bất chợt, người hành khất mù và ngón đàn tận tuyệt… tất cả rồi sẽ được xếp vào loại chuyện cổ tích mà người kể nào cũng bắt đầu bằng hai tiếng “hồi xưa…”.

Có thể mấy chi tiết mà tôi vừa nhắc đã mất đâu từ nhiều năm trước. Có thể trong thời buổi gạo châu củi quế người ta phải vội vã hơn trước, ăn uống nhín nhút, nói cười dè sẻn chớ không còn bung thùa như thuở tôi còn đi lại. Có thể cái bến nước đó đã mất phong độ từ lúc mới đổi đời. Nếp tinh thần đã khác thì nếp sống cũng khác theo. Người đi lại ơ thờ thì sông nước cũng chỉ là một cõi bơ vơ có lấy gì làm thân thiết. Nếu bây giờ đường đi phải rẽ qua hướng khác để đắp cao dốc cầu, bỏ lại xóm cũ hắt hiu thì cũng chỉ là nối tiếp một cách hợp lý cái cuộc sống đã bị bỏ quên từ lâu lắm. Bởi vậy mà càng nhìn tấm hình chiếc cầu mới, tôi càng thấy buồn hơn vui. Chiếc cầu được xây cất bằng vốn liếng tiền bạc và kiến thức của người nước ngoài để nối hai bờ con sông trắc trở. Mừng thì có mừng cho việc đi lại đỡ phần vất vả nhưng sao vẫn tiếc cho một nếp đời đã ăn sâu trong lòng của một số không ít người.

Và nhất là cứ tự hỏi, sao còn hàng chục triệu chiếc cầu lỗi nhịp trong lòng người mà không chịu lo bắc lại để mọi tấm lòng người Việt không còn những bờ bến phân chia?
Chính vì những chiếc cầu lỗi nhịp đó mà tới giờ này tôi chưa trở lại được quê nhà.

Cao Vị Khanh
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23789
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 13/Dec/2019 lúc 10:58am

Tiếng Gà Gáy Nỗi Nhớ Quê Hương



Gà trong vườn tại một vùng đồng quê, miền Bắc nước Pháp. (Hình: Getty Images)HUY PHƯƠNG
Giữa trưa nghe vọng tiếng gà,

Bỗng dưng nhớ quá quê nhà xa xôi.”

(Khiếu Long)


Maurice là tên một con gà trống đang sống trên một hòn đảo mang tên Oléron, ngoài khơi bờ biển phía Tây nước Pháp. Maurice bị ra trước “vành móng ngựa” vì tội cất tiếng gáy mỗi buổi sáng, làm phiền đến một đôi vợ chồng già mới dọn đến nghỉ hưu ở đây, nên họ đã đâm đơn “thưa kiện.”

Corinne Fesseau, chủ của gà trống Maurice, đã trình bày tại phiên tòa rằng từ lâu nay, không một ai phàn nàn về tiếng gáy của con gà trên hòn đảo, trừ một đôi vợ chồng khó tính này. Nếu tòa ra phán quyết chống lại Maurice, chủ của con gà sẽ có 15 ngày để chuyển con gà trống đi nơi khác hoặc phải tìm cách làm cho nó im lặng.
Chủ nhân đã làm đủ mọi cách để cho Maurice ngưng tiếng gáy, nhưng làm sao để cho một con gà trống thôi gáy khi mặt trời bắt đầu ló dạng ở phương Đông được?
Để bảo vệ cho quyền được gáy của nhũng con gà trống, khoảng 140,000 người dân trên đảo Oleron đã ký vào đơn thỉnh nguyện “Cứu lấy Maurice.” Rồi, một phụ nữ ở khu chăn nuôi vịt tại Landes đã bị kiện ra tòa khi hàng xóm than phiền về tiếng vịt cạp cạp mỗi ngày. Kế hoạch “Ủng hộ vịt Hardy” sau đó cũng được đưa ra và nhận được khoảng 5,000 chữ ký ủng hộ quyền được kêu của vịt.
Những vụ kiện này không phải từ nông dân từ ngàn xưa đã lớn lên ở vùng nông thôn mà do những cư dân thành thị đến sinh sống nơi đây. Địa phương làm thế nào để bảo vệ những âm thanh đã có từ nghìn đời trước mà giờ đây bắt đầu bị than phiền bởi những cư dân nơi khác đến đây, như tiếng chuông nhà thờ, tiếng cừu, tiếng dê kêu và tiếng lục lạc của những đàn bò trên đường làng…
Chúng ta đã bao giờ sống ở nông thôn chưa, để buổi bình minh nghe tiếng gà gáy, tiếng chuông chùa buổi sáng, tiếng nghé ngọ của đàn trâu ra chuồng và cả tiếng ríu rít của đàn chim sẻ vừa sà xuống nhặt thóc trên sân. Ở những vùng núi Việt Bắc, qua những ngày lưu lạc, buổi sáng thức giấc, chúng tôi còn nghe được những tiếng chim kêu thánh thót trên cây vông bên ngọn suối ở đầu nhà. Cũng có khi chúng ta nghe được tiếng còi tàu, vẳng lại từ đâu đó, qua những dòng sông, những cánh rừng.
Ngày xưa trước năm 1975 ở trong Nam, khi nghe lời hát “trâu bò về giục mõ xa xôi, hỡi chiều!” trong nhạc khúc “Nương Chiều” của Phạm Duy, tôi cứ tưởng buổi chiều, người ta đánh mõ ra hiệu để lùa trâu bò về chuồng. Nhưng không, khi ra ở tù vùng Việt Bắc, tôi mới biết, để khỏi thất lạc, người ta cho trâu bò mang dưới cổ, những chiếc mõ nhỏ, khi di chuyển hoặc ăn cỏ,  cái đầu bò chuyển động, tạo nên những tiếng mõ nghe lốc cốc, đều đặn. Buổi chiều khi người ta lùa trâu bò về bản làng, trâu bò nhập bọn, tiếng kêu nghe lớn và đều đặn hơn.
Cho nên ở mỗi địa phương, mỗi vùng lại có những âm thanh khác hẳn nhau, như tiếng rao hàng rong, ở mỗi địa phương mỗi khác.
Ở thành phố Sài Gòn, buổi sáng chúng ta được nghe tiếng xích lô máy nổ dòn tan dưới đường, tiếng còi xe đâu đó. Ở những vùng ngoại ô, ban sáng, nhiều khi còn nghe được cả xe thổ mộ, với tiếng chân ngựa gõ trên đường, chở hoa tươi hay rau quả về thành phố. Mỗi ngày, trong xóm, chúng nghe tiếng rao hàng ngọt lịm như “sương sa, hột lựu” hay “nước dừa, đường cát,” tiếng chuông xe kem leng keng hay tiếng loảng xoảng của một xâu kim loại trong tay của một người mù tẩm quất!
Có một đêm nào, nơi lạ nhà, khó ngủ, bạn nghe không tiếng ru con của một bà mẹ bên nhà, tiếng ru não nuột, lời ru xót xa mang tâm sự của người ru, hơn là những tiếng dỗ dành cho đứa bé trong nôi.
Còn nhớ đến trang sách giáo khoa thư nói về những âm thanh của một đêm khó ngủ: “Ở dưới giường, con mọt nghiến gỗ kèn kẹt như người đưa võng. Ở đầu giường, cạnh cái tủ, chuột chạy sột sạt, bên cạnh mình, muỗi kêu vo ve. Thỉnh thoảng lại nghe tiếng con thằn lằn bắt muỗi. Con nắc nẻ bay xè xè bên vách.
Không những trong nhà, mà bên ngoài cũng có tiếng động. Cạnh nhà, gió thổi vào những tàu lá chuối, nghe như mưa; ngoài vườn, tiếng dế kêu ri rỉ. Trời mới mưa, các chỗ trũng đầy nước cả, nên cóc và ếch, nhái đều kêu inh ỏi. Xa xa thì nghe tiếng chó sủa trăng.”
Ưu thời, mẫn thế như nhà nho Nguyễn Khuyến, đêm khó ngủ, nghe tiếng: “Con trẻ u ơ chừng muốn dậy, ông già khúng khắng vẫn còn ho!” Nhớ nước, thương nòi như Trần Tế Xương: “Đêm nghe tiếng ếch bên tai, giật mình cứ tưởng tiếng ai gọi đò?”
Sau vụ thảm sát Mậu Thân năm 1968, khi trở về Huế, mỗi buổi tinh mơ, khi mặt trời chưa mọc, chừng bốn năm giờ sáng, trong vùng thành nội đổ nát, tôi đã luôn bị đánh thức tiếng chuông mõ và tiếng tụng kinh râm ran, khắp cùng từ những gia đình trong xóm. Không khí tang tóc bao trùm lên cả một thành phố oan khuất!
Bây giờ dù là ở đất khách, trên gác trọ, không còn được nghe tiếng pháo đón Xuân sang. Nơi này, có những đêm khó ngủ, có khi nửa khuya, gần thì nghe tiếng nước tự động tưới trong vườn, xa xa có tiếng còi của xe cấp cứu hay tiếng trực thăng ầm ì đâu đó trên bầu trời.
Bây giờ là thời đại mới, người ta có thể bực mình và có quyền khiếu nại vì một tiếng gà gáy hay tiếng một con chó sủa ban đêm, khi nghĩ tự do và an toàn của mình đang bị xâm phạm. Bây giờ là thời của những ngôi chùa không bao giờ có tiếng chuông chiều, chúng ta ít khi còn nghe được tiếng chim hót, trông thấy ánh đèn lập lòe của những xe phở về khuya, và những tiếng rao hàng từ đâu vẳng lại.
Nhưng trên tất cả âm thanh ngày cũ, tiếng gà gáy sáng hay chúng ta được nghe đâu đó vào một buổi trưa hè vắng lặng, như tác động đến tâm can, khơi lại cho chúng ta bao nhiêu nỗi nhớ.
Cả một đời đi xa lưu lạc quê hương, trưa nay lòng bỗng dưng bâng khuâng bởi một tiếng gà!

Huy Phương
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23789
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 14/Dec/2019 lúc 8:48am

Tình Người Biết Ơn _ Human Love for Gratitude

BM  
Mừng Lễ Chúa Sinh Ra Đời (Christmas) là một biến cố trọng đại nhất hàng năm và mang ý nghĩa thiêng liêng nhất, đối với tất cả những người quốc gia trên thế giới theo Kitô Giáo hay theo Đạo Tin Lành, đều tin vào cùng một Thiên Chúa (God), là Đấng Tối Cao tạo dựng ra loài người, loài vật, trời đất, cỏ cây và biển khơi.

Riêng tại Hoa Kỳ còn có thêm ngày Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving) Thiên Chúa, sau là tạ ơn Ông Bà, Cha Mẹ và những ân nhân đã giúp đỡ mình trong những năm qua. Ngoại trừ những người cộng sản vô thần chỉ tin vào Tổ Phụ của họ, là người lãnh tụ tối cao duy nhất và là người đầu tiên đã sáng lập ra đảng cộng sản vô thần của họ mà thôi.

BM
Note: hình trong bài là minh họa 
   
Năm nay, vào ngày 28 tháng 11 vừa qua là ngày Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving) tại Hoa Kỳ, là một ngày Đại Lễ của quốc gia Hoa Kỳ hàng năm, cho mọi người được nghỉ ngơi ở nhà, không cần phải đến sở làm việc, để có dịp tụ họp gia đình lại với nhau, mở tiệc ăn mừng cảm tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho dân chúng Hoa Kỳ nói riêng, được hưởng một đời sống tự do, no ấm, hạnh phúc như ngày nay và cũng là dịp để mọi người được bầy tỏ tấm lòng biết ơn về sự giúp đỡ lẫn nhau, trong quá khứ cũng như trong hiện tại.

Trong dịp ngày Lễ Tạ Ơn mỗi năm của người dân Hoa Kỳ, riêng những người quốc gia Tị nạn cộng sản thuộc 3 quốc gia Đông Nam Á như Việt Nam, Miên, Lào, cũng cùng nhau hiệp ý áp dụng một truyền thống tập tục tràn đầy ý nghĩa tốt đẹp của người Hoa Kỳ, mà vừa mới được kể trên đây, tất cả chúng ta đều một lòng tỏ bầy sự biết ơn sâu xa đối với quốc gia Hoa Kỳ, đã mở rộng đôi bàn tay nhân ái, vui mừng đón nhận chúng ta vào sinh sống trên mảnh đất tự do, dân chủ, no ấm, hạnh phúc này gần 45 năm qua, đồng thời cũng là một dịp đặc biệt để chúng ta trực tiếp hay gián tiếp bầy tỏ lòng cám ơn những người đã bảo trợ chúng ta, qua Nhà Thờ, qua Cơ Quan Từ Thiện, qua các Đoàn Thể, Hội  Đoàn Công Tư Chức hay qua các cá nhân người Hoa Kỳ, để cho chúng ta được phép rời khỏi các trại tạm cư Tị nạn ở trong nước Hoa Kỳ hay ở các trại Tị nạn quốc ngoại như Thailand, Malaysia, Indonesia, Philippine v.v… được phép hội nhập trực tiếp vào đời sống xã hội Hoa Kỳ và được quyền đi làm đủ mọi công việc bình thường trong các công tư sở tại địa phương, cho đến công việc lao động chân tay ngoài trời, như người dân Hoa Kỳ vậy.

BM
  
Để tiêu biểu cho lòng biết ơn sâu xa của người quốc gia Tị nạn công sản Việt Nam đối với người bảo trợ Hoa Kỳ, đã tận tình giúp đỡ chúng ta từ tinh thần đến vật chất, khi chúng ta mới ra khỏi trại Tị nạn với hai bàn tay trắng, mà tất cả những người Tị nạn cộng sản Việt Nam ở khắp mọi nơi trên thế giới, không thể nào quên được những câu nói mang ý nghĩa sâu đậm lòng biết ơn của chúng ta, đối với người bảo trợ chúng ta, đã giúp đỡ chúng ta khi bị hoạn nạn, mà các bậc tiền nhân của chúng ta đã nhắc nhở chúng ta rằng: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước phải nhớ nguồn và một miếng khi đói bằng một gói khi no. Để tiêu biểu trung thực cho ý nghĩa của những câu nói này, chúng tôi xin tường thuật lại 2 câu chuyện xẩy ra trong dịp Lễ Tạ Ơn Thanksgiving tại Hoa Kỳ như sau:

BM
  
Câu chuyện thứ nhất: Trước năm 1975, anh Thi là một quân nhân Địa Phương Quân, đồn trú tại một quận lỵ nhỏ, gần quê nhà của anh, Miền Nam Việt Nam, đã cùng vợ và 3 con còn nhỏ dại, đứa lớn nhất mới 10 tuổi, đứa thứ nhì 6 tuổi và đứa nhỏ nhất mới hơn 1 tuổi, sinh trong trại Tị nạn ở Thailand trước khi đến Hoa Kỳ. Cả gia đình anh đi vượt biên 2 lần đầu tiên trên con tầu nhỏ, chứa hơn 100 người trong năm 1975 đều thất bại và bị chính quyền cộng sản bắt giam một thời gian ngắn, cho mãi tới lần thứ ba cuộc vượt biên của gia đình anh mới thành công, đến được trại tạm cư Tị nạn Thailand và ở đây 1 năm thì được giới chức đại diện chính phủ Hoa Kỳ trong Cơ Quan Cao Ủy Tị Nạn Quốc Tế, cứu xét đơn xin Tị nạn của anh và cho phép anh Thi cùng vợ với 3 con vào Hoa Kỳ, theo diện Tị nạn cộng sản, tuy anh là quân nhân thuộc binh chủng Địa Phương Quân VNCH, nhưng trước kia anh đã từng hoạt động một thời gian dài cho Chiến Dịch Phượng Hoàng tại địa phương nơi anh ở, do Hoa Kỳ yểm trợ tài chánh, nên gia đình anh được giới chức Hoa Kỳ ưu tiên cứu xét, chấp thuận cho vào định cư tại Hoa Kỳ, vì có liên hệ ngành tình báo với chính phủ Hoa Kỳ và sau khi gia đình anh tới đảo Guam được 1 tuần lễ, thì anh cùng vợ 3 con được đưa vào trại Tị nạn tạm cư Fort Chaffee. Ở đây được gần 2 năm thì gia đình anh được một cặp vợ chồng người Mỹ giầu có không có con cái, bảo trợ cho gia đình anh ra khỏi trại tạm cư để đến định cư tại Oklahoma City.

BM
  
Thời gian hơn một năm đầu tiên ra khỏi trại Tị nạn, cả gia đình anh gồm 5 người cùng sống chung tại tư gia của vợ chồng người bảo trợ và chỉ có một mình anh đi làm, vợ anh không đi làm ở nhà trông con nhỏ, phụ bếp với bà bảo trợ nấu ăn và phụ giúp dọn dẹp nhà cửa với bà bảo trợ, trong khi ông chồng bà hàng ngày lái xe đưa 2 đứa con lớn của anh Thi đi học và chiều đến, ông lại đến trường đón chúng tan học trở về nhà. Rồi cứ mỗi tuần lễ vào ngày Thứ Bẩy cuối tuần, bà vợ ông lái xe chở vợ anh Thi đi chợ mua đồ về nấu cho cả 2 gia đình ăn, nhờ sự chỉ dẫn tận tình của bà bảo trợ về cách nấu các món ăn Mỹ nên chị Thi được ông bà bảo trợ khen ngợi chị là người nấu món ăn Mỹ rất giỏi và còn nấu ngon hơn người Mỹ nấu nữa. Cuộc sống chung trong cùng một nhà với ông bà bảo trợ thật là êm đềm hạnh phúc cho cả 2 gia đình, gia đình ông bà bảo trợ và gia đình anh Thi.

Ông bà bảo trợ không có con cái, chỉ có con mèo là bạn thân của bà và con chó là bạn thân của ông, nên nay có gia đình anh Thi về ở chung nhà với ông bà, ông bà rất vui mừng quí mến gia đình anh Thi, coi vợ chồng anh Thi như con ruột của ông bà và coi 3 đứa con của anh Thi như cháu ruột của ông bà. Cuộc sống êm đềm hạnh phúc như thế của gia đình anh Thi với ông bà bảo trợ kéo dài được hơn 1 năm, thì có một người bạn của anh Thi, quen nhau từ trong trại ty nạn ớ Thailand, nay gia đình anh ta được định cư tại California, anh này khuyên nhủ anh Thi nên về Cali sống, vì ở đây khí hậu quanh năm không lạnh và cũng không nóng bức như ở Oklahoma City, nhất là những gia đình nào có con nhỏ, đều được chính quyền tiểu bang trợ cấp tài chánh, nơi cư ngụ và y tế tối đa, không phải lo lắng gì hết. Nghe thấy thế, anh Thi mừng quá, cùng vợ quyết định đành phải từ giã ông bà bảo trợ đầy lòng bác ái thương người hoạn nạn, như trường hợp gia đình anh được ông bà bảo trợ ra khỏi trại tạm cư Fort Chaffee.

BM
  
Ngày ông bà bảo trợ tiễn chân gia đình anh Thi đi California, ông bà bảo trợ và vợ chồng anh Thi ôm nhau khóc sướt mướt như đưa đám tang. Hàng năm anh chị Thi vẫn thường xuyên điện thoại thăm hỏi sức khỏe ông bà bảo trợ và cách đây một năm, anh Thi cho ông bà biết là đứa con trai lớn nhất của vợ chồng anh, có bằng đại học MBA và nay đã là Giám Đốc của một hãng sản xuất đồ điện tử, đứa con gái thứ nhì nay là dược sĩ và đứa con trai út nay là kỹ sư điện toán. Ông bà bảo trợ nghe tin này rất mừng rỡ và hãnh diện, đi khoe với tất cả bạn hữu trong Nhà Thờ, là chúng tôi bảo trợ cho một gia đình Việt Nam có 3 người con còn nhỏ, nay con cái của họ đều trưởng thành và có bằng cấp đại học các ngành chuyên môn và có sự nghiệp vững chắc. Năm ngoái cũng vào dịp Lễ Tạ Ơn, vợ chồng anh Thi cùng 2 đứa con còn độc thân về thăm ông bà bảo trợ và gọi là một chút quà để đền đáp công ơn ông bà đã tận tình giúp đỡ gia đình anh Thi ra khỏi trại Tị nạn, về ở chung nhà với ông bà, nên trước khi anh Thi đưa vợ và 2 con đến thăm ông bà, anh Thi đã yêu cầu các con chung nhau đóng góp tiền, mua vé du thuyền cho ông bà đi nghỉ mát 1 tháng, tại vài hòn đảo thuộc 3 quốc gia Châu Mỹ La Tinh.

BM
  
Câu chuyện thứ hai: Ông bảo trợ độc thân này là chủ nhân một hãng bán xe hơi cũ (dealer of used cars), năm 1979 ông bảo trợ cho một cặp vợ chồng trẻ tuổi, chưa có con cái từ trại Tị nạn Indonesia tới Oklahoma. Ông giúp đỡ bỏ tiền mua một căn nhà cũ giá 20 ngàn đồng thời đó, bây giờ ít nhất phải là 80 ngàn đồng, cho hai vợ chồng anh chị này ở với nhau, để không phải trả tiền thuê nhà hàng tháng. Trước năm 1975, anh chồng là cựu sinh viên Trường Quân Y/VNCH, chỉ còn học thêm 2 năm nữa là anh ra trường trở thành bác sĩ quân y, nên anh ngỏ ý với ông bảo trợ là làm thế nào có thể giúp anh vào học trường y khoa ở đây hay ở bất cứ tiểu bang nào khác và cộng thêm lời yêu cầu tha thiết của vợ anh nữa. Nghe xong, ông bảo trợ tỏ ý sẵn lòng giúp đỡ ý nguyện này của anh, nhưng ông đề nghị là anh cần đi học Anh Ngữ full time từ 1 cho đến 2 năm, ông sẽ trả tiền học phí cho anh và ông sẽ trả lương hàng tháng cho vợ anh làm việc cho hãng bán xe hơi cũ của ông.

BM
  
Thế rồi anh Thi đi học Anh Ngữ full time 2 năm liên tục theo như lời ông bảo trợ đề nghị và sau 2 năm anh học xong Anh Ngữ, ông có quen thân với ông Khoa Trưởng của một trường y khoa tại New York và qua sự giới thiệu của ông bảo trợ, anh Thi đã được chấp thuận cho nhập học trường y khoa này. Hiện nay anh đã là một bác sĩ nội khoa gia đình (family medical doctor), làm việc cho một chẩn y viện (clinic) ở một tỉnh nhỏ thuộc tiểu bang Texas và vợ anh đã sanh cho anh 2 đứa con, các cháu đã trưởng thành đi làm cả rồi. Cứ mỗi năm vào dịp Lễ Tạ Ơn Thanksgiving, vợ chồng anh lại đến thăm ông và mỗi lần đến thăm ông đều mang theo một món quà đặc biệt, được đặt mua trước từ ngoại quốc, để tặng ông làm kỷ vật tỏ lòng biết ơn ông đã tận tình giúp đỡ vợ chồng anh từ vật chất lẫn tinh thần, từ ngày đầu tiên vợ chồng anh đươc phép ra khỏi trại Tị nạn đến với ông.

BM
  
Nhờ vậy mà ước mơ thầm kín trong thâm tâm anh, là muốn trở thành bác sĩ y khoa tại Hoa Kỳ, thì nay ước mơ đó đã trở thành sự thực hiển nhiên. Trong lời nói nghẹn ngào đầy xúc động, anh bầy tỏ với ông rằng công ơn trời biển bao la này của ông, đã giúp đỡ vợ chồng anh từ khi mới ra khỏi trại Tị nạn với 2 bàn tay trắng và cho tới ngày anh ra trường y khoa, sẽ không bao giờ vợ chồng anh có thể đền đáp lại công ơn của ông hết được, chỉ còn biết nguyện xin Thượng Đế ban cho ông dồi dào sức khỏe và làm ăn phát đạt, để ông tiếp tục giúp đỡ tha nhân, như ông đã giúp đỡ vợ chồng anh. Ngày nay ông đã hưu trí và vì tuổi già sức yếu, nên đã 3 lần ông bị lâm trọng bệnh và phải vào nằm trong nhà thương chữa bệnh và mỗi lần phải vào nằm trong nhà thương một tuần lễ, thì là những dịp để vợ chồng anh được đền đáp lại một chút ơn nghĩa với ông, so với công lao to tát của ông đã giúp đỡ vợ chồng anh, nên vợ anh đã tình nguyện đến săn sóc ông như Bố ruột của mình, cho tới khi ông được bác sĩ điều trị cho phép trở về nhà dưỡng bệnh, thì chị mới tạm biệt ông để quay trở về nhà xum họp với chồng con.

BM
  
Nói tóm lại, lòng biết ơn của con người đối với con người là một điều cao quí nhất trên đời này, vì nó còn nói lên lòng hiếu thảo của con cái đối với Ông Bà và Cha Mẹ và hơn thế nữa, nó còn là một triết lý truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam nói riêng, do các bậc tổ tiên truyền dạy lại cho con cháu, là hãy noi theo gương báo hiếu của các Ngài, tiếp tục từ đời này sang đời sau, qua câu thơ ca dao như “Công Cha như núi thái sơn, Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chẩy ra, Một lòng thờ Mẹ kính Cha, Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.

Nhiều người Hoa Kỳ đã bảo trợ những người VN Tị nạn cộng sản ra khỏi các trại tạm cư ở quốc nội cũng như ở quốc ngoại cách đây đã mấy chục năm, thường bầy tỏ lòng ngưỡng mộ về sự biết ơn sâu xa của người Tị nạn Việt Nam nói riêng. Vì trang báo có giới hạn nên chúng tôi không thể nào kể hết ra đây, những trường hợp khác biệt nhau của người Tị nạn VN tỏ lòng biết ơn người bảo trợ (sponsors), từ năm 1975 cho đến 1980 sau khi họ đã ổn định cuộc sống.

BM
  
Suốt trong thời gian 5 năm này, chúng tôi được đặc trách Chương Trình Tái Định Cư Người Tị Nạn Đông Nam Á (Southeast Asian Refugees Resettlement Program) cho Cơ Quan Thiện Nguyện Công Giáo Hoa Kỳ (United States Catholic Conference) gọi tắt là USCC, mà chúng tôi đã hoàn tất hồ sơ bảo trợ cho hơn 7 ngàn gia đình Tị nạn cộng sản đến định cư tại thành phố Oklahoma City và các vùng phụ cận, thuộc tiểu bang Oklahoma.

BM
PT. Nguyễn Mạnh San


Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 146 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.514 seconds.