Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Tâm Tình | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình |
Chủ đề: ĐỜI SỐNG GIA DÌNH | |
<< phần trước Trang of 130 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 30/Sep/2019 lúc 9:15am |
ĐÔI MẮT
Nguyên tác: Vision, Tác giả: Rabindranath Tagore I Hồi tôi còn là một cô vợ trẻ, tôi bị sẩy một cháu lúc lọt lòng mà chính tôi cũng suýt vong mạng kỳ đó. Phải rất lâu sau sức khỏe tôi mới hồi phục lại, nhưng mắt tôi càng lúc càng yếu dần. Chồng tôi lúc bấy giờ đang là sinh viên y khoa. Anh chẳng bỏ dịp để dùng tôi làm thí nghiệm kiến thức của anh nên anh tự mình chữa cho tôi. Anh hai của tôi lúc ấy đang sửa soạn thi ra trường Luật. Một ngày nọ, anh đến thăm tôi và lo sợ cho tình trạng của tôi. Anh cật vấn chồng tôi: “ Chú làm cái gì vậy? Chú sẽ làm hỏng mắt của Kumo mất thôi. Chú nên đem Kumo đến một bác sĩ nhãn khoa thật giỏi ngay lập tức. ” Chồng tôi trả lời với vẻ bực bội: ” Sao chứ ! Một bác sĩ giỏi thì làm gì được hơn tôi nào? Trường hợp này đơn giản quá mà, mấy môn thuốc chữa nó, ai mà không rành. ” Anh hai tôi cau mày trả lời chua chát: “ Bộ chú nghĩ là chẳng có gì khác biệt giữa chú và vị giáo sư trong trường Y Khoa chú đang học chắc?” Chồng tôi cũng giận dữ đáp: “Nếu anh cũng lập gia đình, và nếu có một cuộc tranh cãi về tài sản của vợ anh, anh có nghe theo lời cố vấn của tôi về Luật không? Hả? Vì cớ gì mà anh lại cố vấn tôi về chuyện thuốc men?” Trong khi cả hai đang cãi vã như thế, tôi tự nhủ thầm mình rằng trâu bò húc nhau thì ruồi muỗi chết. Hai người này cứ to tiếng vậy thì chỉ có mình là chịu thiệt mà thôi. Tôi cũng cảm thấy thật là bất công hết sức. Lý ra, khi gia đình tôi gả tôi đi, đáng lẽ họ cũng phải thường xuyên lui tới theo dõi tôi mới phải. Rốt cuộc, chỉ có chồng tôi là lo lắng mọi nỗi buồn vui của tôi thôi chứ đâu phải họ. Từ hôm đó trở đi, chỉ tại vì cái bệnh mắt của tôi mà mối liên hệ giữa anh hai và chồng tôi trở nên thật là căng thẳng. Một ngày nọ, khi chồng tôi phải vắng nhà, anh hai tôi bất ngờ đến nhà, mang theo một bác sĩ để khám cho tôi. Ông ấy xem xét mắt tôi thật cẩn thận và tỏ vẻ nghiêm trọng lắm. Ông bảo nếu cứ để như vậy thì rất nguy hiểm. Ông viết cho tôi một toa thuốc và anh hai tôi sai người đi mua ngay tức khắc. Khi ông bác sĩ lạ đi rồi, tôi van anh tôi đừng có can thiệp nữa, bởi vì khám chui như thế thì kết quả có được cũng chẳng hay ho gì đâu. Chính tôi cũng ngạc nhiên vì mình dám có can đảm nói với anh tôi vậy. Từ trước đến giờ tôi vẫn sợ anh. Và tôi tin chắc là anh tôi cũng sửng sờ vì cái lớn gan của tôi. Anh im lặng ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo tôi: “Thôi được rồi Kumo. Anh sẽ không đem bác sĩ tới khám cho em nữa. Nhưng khi nào thuốc gởi về thì em nhớ dùng nhé. ” Anh tôi đi rồi thì thuốc từ nhà thuốc được gởi tới. Tôi ôm liệng hết xuống giếng, thuốc bột, thuốc nước, luôn cả toa thuốc, mọi thứ tuốt tuột. Chồng tôi bực bội vì chuyện anh tôi can thiệp nên quyết định trị chữa mắt cho tôi thêm cần mẫn. Anh lôi hết ra những mẹo chữa mắt anh tìm ra. Khi anh biểu tôi băng mắt thì tôi băng mắt; anh đưa tôi kính màu thì tôi mang kính màu; tôi nhỏ thuốc nước, tôi uống thuốc bột, tôi nuốt dầu cá thu dù cho cổ tôi có nhợn nhạo đi nữa. Mỗi khi từ bệnh viện trở về, anh lại lăng xăng hỏi tôi cảm thấy thế nào, và tôi lúc nào cũng trả lời: “ Em thấy đỡ hơn nhiều lắm rồi. ” Thật tình tôi đã trở thành một chuyên viên phỉnh phờ. Khi tôi thấy rằng mắt tôi vẫn chảy nước ngày một nhiều hơn, tôi tự an ủi mình rằng cũng chẳng sao đâu, nước dơ ấy mà, chảy ra ngoài cũng tốt thôi. Và khi nước mắt tôi dần khô, tôi lại thấy hân hoan vì chồng tôi tài giỏi. Nhưng đến một thời gian sau nữa thì nỗi đau đớn trở nên thật khó mà chịu đựng. Thị lực của tôi càng ngày càng tệ, mà đầu tôi thì đau nhức liên tục cả ngày lẫn đêm. Tôi thấy rõ chồng tôi trở nên quýnh quáng. Qua cách anh cư xử, tôi thấy rõ anh muốn gọi bác sĩ đến nơi rồi, vì vậy tôi mập mờ nói với anh là có lẽ nên mời một bác sĩ để nói chuyện cho biết. Nghe tôi nói vậy, tôi thấy rõ chồng tôi thở ra nhẹ cả người. Anh gọi một bác sĩ người Anh đến mỗi ngày. Tôi chẳng hiểu hai người nói với nhau những gì, nhưng tôi cảm thấy rõ ông ta gay gắt với chồng tôi lắm. Sau khi ông bác sĩ đi rồi, chồng tôi trầm ngâm rất lâu. Tôi cầm lấy tay anh an ủi: “Cái ông đó sao mà khó chịu quá. Sao anh không gọi một bác sĩ người Ấn có lẽ dễ chịu hơn. Ông bác sĩ đó chắc gì biết rõ bệnh mắt của em hơn anh. ” Chồng tôi yên lặng một lúc rồi mới nói, giọng khàn đặc: “ Kumo, mắt em phải giải phẩu em ạ. ” Tôi giả vờ giận anh vì anh đã giấu giếm tôi từ lâu nay: “ Em biết anh đã hay chuyện từ lâu rồi. Vậy mà anh không chịu nói cho em biết. Bộ anh cho là em là con nít, sợ chuyện mổ xẻ hay sao chứ. ” Nghe tôi nói, chồng tôi lên tinh thần. Anh nói: “Đàn ông cũng đâu có mấy ai gan dạ đến không sợ chuyện mổ xẻ đâu em. ” Tôi cười lớn: “ Ừ ừ, đúng vậy đó. Đàn ông chỉ tỏ ra anh hùng trước mặt vợ thôi hà. ” Chồng tôi nhìn tôi buồn bã: ” Em nói đúng lắm. Đàn ông chúng anh thật là vô dụng. ” Tôi lại cười sự nghiêm trang của anh: “Anh có chắc đàn ông các anh gan hơn đàn bà tụi em không đó?” Khi anh hai của tôi đến thăm, tôi kéo anh sang một bên: ” Anh hai à, thuốc mà ông bác sĩ của anh cho tốt lắm, có điều rủi cho em là em dùng nhầm thuốc uống với thuốc bôi, vì vậy mắt em càng ngày càng tệ đi. Đến giờ này, mắt em cần phải mổ. ” Anh tôi bảo tôi: “Tại vì chồng em muốn chữa cho em nên anh lâu nay không đến thăm em. ” “Không phải đâu, ” tôi nói, “Thực ra, em giấu ảnh, tự chữa cho em theo lời bác sĩ của anh hai đó. ” Thiệt tình, sao đàn bà cứ phải nói dối hoài. Khi chúng ta là mẹ, chúng ta nói dối để các con chúng ta an tâm, và khi chúng ta là vợ, chúng ta phải dối để cha của con chúng ta an lòng. Chẳng bao giờ chúng ta thoát ra được tình trạng như thế cả. Lời dối trá của tôi có hiệu lực làm cho tình cảm giữa chồng tôi và anh tôi trở nên tốt đẹp hơn. Anh hai tôi tự trách mình đã phải làm cho tôi giấu giếm chồng tôi về chuyện chữa trị, còn chồng tôi thì tiếc hối đã không chịu nghe lời anh tôi khuyên từ lúc khởi đầu. Cuối cùng, với sự đồng ý của cả hai người, một bác sĩ người Anh được mời tới và mổ con mắt trái của tôi. Con mắt ấy, tuy nhiên, đã quá yếu để chịu đựng cuộc giải phẫu, và thế là ánh sáng yếu ớt của nó tắt phụt. Rồi đến con mắt kia cũng dần dần chìm vào bóng tối. Một ngày nọ, chồng tôi đến ngồi bên giường tôi: “ Anh chẳng còn thể trơ mắt ra mà nhìn em nữa. Kumo, hãy cho anh biết, có phải anh đã làm hư mắt em không?” Tôi cảm thấy giọng của anh ẩm nước mắt nên tôi vội ôm tay phải của anh trong hai tay tôi và nói: ” Không đâu, anh đã làm rất đúng. Anh chỉ nên nghĩ đến những gì anh đã làm cho em thôi. Hãy tưởng tượng xem, nếu mà tự nhiên có một bác sĩ nào lạ hoắc đến lấy đi đôi mắt của em, làm sao em biết đâu mà an ủi. Em nghĩ mọi chuyện đều xảy ra tốt đẹp. Em rất mừng, an tâm rằng em đã mất đi ánh sáng trong tay anh. Khi Ramchandra thiếu một đóa sen để cúng Trời, ngài đã hiến dâng đôi mắt mình thay cho đóa hoa sen. Và em, em cũng đã dâng hiến đôi mắt mình cho Trời như thế. Từ đây, bất cứ khi nào anh thấy gì xinh đẹp thì anh hãy tả cho em nghe nhé, và em sẽ xem lời tả của anh như một món quà thiêng liêng từ thị lực của anh. ” Dĩ nhiên là tôi không nói được trơn tru như thế, vì thật là khó mà nói được những điều ấy ra cùng một lần. Nhưng ngày này sang ngày khác, tôi đã suy nghĩ, gom góp từng chữ, từng lời. Khi nào tôi cảm thấy trầm uất, hoặc lúc nào niềm tin của tôi chợt nguội đi, hoặc khi tôi cảm thấy xót xa than trách cho thân phận mình thì tôi lại quyết tâm nhắc đi nhắc lại những câu trên, từng câu từng chữ một, như thể một đứa trẻ nhắc lại lời người lớn dạy nói. Làm vậy, tôi lại có thể thở một hơi dài, hít vào làn không khí trong trẻo của Tình Yêu và Bình Lặng. Đúng vào lúc hai chúng tôi cùng ngồi xuống với nhau, tôi đã nói được ra những gì trong tâm tôi cho chồng tôi hiểu. “Kumo, ” chồng tôi nói, “ những gì lầm lỗi mà anh đã dại dột phạm phải, anh chẳng thể nào làm lại cho tốt đẹp được, nhưng anh có một điều anh có thể làm, đó là anh sẽ suốt đời ở bên em để đền bù cho đôi mắt của em với hết sức của anh. ” “Không, không được đâu. ” Tôi nói, “ Em đâu thể đòi anh biến căn nhà của anh thành ra cái bệnh viện cho người mù được. Chỉ có thể có một cách thôi, là anh phải lấy một người vợ khác. ” Với giọng hơi nghẹn ngào, tôi cố giải thích cho chồng tôi hiểu rằng chuyện đó cần lắm. Tôi bật ho, cố giấu đi cảm xúc của mình, nhưng anh đã kêu lên: “ Kumo, anh biết anh là một tên ngốc, một tên ba hoa, đủ thứ, nhưng anh đâu phải là kẻ tệ bạc. Nếu mà anh lấy vợ thêm lần nữa, anh xin thề với em, anh xin thề độc với đấng cao cả của anh- Gopinath- rằng nếu anh làm vậy, xin Trời phạt anh, như phạt kẻ giết người ghê gớm nhất, giáng xuống đầu anh hình phạt độc địa nhất. ” Ôi trời, tôi chẳng bao giờ, chẳng đời nào lại để cho chồng tôi lại
thề độc đến thế. Nhưng nước mắt đã nghẹn lời tôi và tôi không sao nói ra
được nỗi hân hoan trong lòng. Tôi giấu khuôn mặt mù lòa của tôi xuống
gối, nức nở, khóc, khóc mãi. Cuối cùng, khi dòng nước mắt đã vơi, tôi
kéo đầu anh xuống ngực mình: “Phục vụ ư? “ Anh la lên, “Phục vụ thì đã có mấy gia nhân. Bộ em tưởng anh điên hay sao mà lại rước một đứa nô lệ vào nhà mình, và lại còn cho nó sẻ chia cái ngai vàng của Nữ Thánh của anh nữa, hả?” Khi anh nói đến chữ “Nữ Thánh”, anh nâng mặt tôi lên trong tay anh, hôn lên trán tôi, ngay giữa hai chân mày. Đúng ngay giây phút ấy, con mắt thứ ba huyền nhiệm, ngay chỗ anh đặt chiếc hôn, bỗng mở choàng ra và tôi đột nhiên được thánh hóa. Tôi tự nhủ thầm: ” Hay quá. Mình không còn có thể phục vụ anh với những việc nhà tầm thường nữa được, nhưng mình sẽ bước lên một cấp cao hơn. Mình sẽ nhận thiên ân từ trên cao, sẽ thôi không cần phải dối trá, không cần phải nói quanh. Tất cả những gì nhỏ mọn chi li, những gì đạo đức giả trong đời trước sẽ bị tẩy xóa sạch trơn, mãi mãi. ” Hôm ấy, trong lòng tôi biết bao nhiêu mâu thuẫn cứ lãng vãng suốt. Nỗi vui về ý nghĩ rằng chồng tôi đã thề sẽ không bao giờ lấy vợ khác bám chặt, mọc rễ trong tim tôi không dứt ra được nữa. Nhưng vị nữ thánh vừa mới được phong ngôi trong tôi lại nói: ” Này cô kia, rồi sẽ có một lúc phải để cho chồng cô xóa lời thề mà lấy người khác chứ. ” Rồi người đàn bà trong tôi lại cãi: “ Có thể lắm, nhưng mà thề là thề, làm sao khác được. ” Rồi Nữ Thánh trong tôi lại trả lời: ” Chẳng có lý do gì mà cô lại không buông bỏ lời thề kia được. ” Và người đàn bà trong tôi lại nói: ” Những gì cô nói cũng đúng, không nghi ngờ gì; thế nhưng anh ấy đã lỡ thề rồi. ” Cứ vậy, hai bên đối đáp nhau mãi. Cuối cùng, Nữ Thánh cau mày lặng yên, và bóng tối hãi hùng trùm hết lên tôi. Chồng tôi ăn năn hối lỗi chẳng chịu cho mấy người làm giúp tôi; anh dành làm lấy hết. Lúc đầu, lòng tôi hân hoan biết bao khi phải dựa vào chồng tôi mọi điều kể cả những chuyện nhỏ mọn nhất. Đó là một cách giữ chồng tôi phải luôn luôn ở bên tôi, và nỗi khao khát có anh bên cạnh tôi càng lúc càng tăng kể từ khi tôi trở thành mù lòa. Việc anh sẻ chia cùng tôi khi tôi không còn thị lực khiến cho những giác quan khác của tôi cũng đòi hỏi được như thế. Không có anh bên cạnh, tôi có cảm tưởng như tôi bị lơ lửng giữa trời, rối nùi, chẳng bám víu vào được cái gì hết. Trước kia, mỗi khi chồng tôi ở bệnh viện về trễ, tôi thường mở cửa sổ ngóng ra đường. Con đường ấy là cái mắc xích tiếp nối thế giới của anh với thế giới của tôi. Giờ đây, vì mù, tôi mất đi cái mắc xích ấy, cả người tôi đều loay loay đi tìm anh. Cái cầu nối giữa tôi và anh sụp đổ, và bây giờ chỉ còn là một hố sâu chẳng thể vượt qua. Khi anh rời tôi ra, vực sâu ấy càng há rộng thêm ra. Tôi chỉ còn có thể ngồi đợi cho đến khi anh băng qua nó, nối lại bờ anh với bờ tôi mà thôi. Tuy nhiên, nỗi mong đợi căng thẳng như thế, sự nương tựa gắn bó như thế chẳng bao giờ là điều tốt cả. Một người vợ đã là một gánh nặng cho người chồng rồi, nghĩ cho cùng thì đèo thêm một gánh nặng mù lòa vào nữa sẽ làm cho đời sống người chồng thật khó mà chịu đựng nổi. Tôi tự hứa rằng mình chỉ nên chịu đau khổ một mình thôi, đừng có lôi chồng tôi vào cái màn đen tối tăm mênh mông nữa. Chỉ trong một thời gian ngắn đáng ngạc nhiên, tôi tự mình mò mẫm làm hết mọi công việc trong nhà, sử dụng hết khả năng của xúc giác, thính giác, và khứu giác. Nói cho đúng, tôi chẳng bao lâu nhận ra là mình làm còn tốt hơn cả trước kia nữa, bởi vì thị giác thường hay làm cho chúng ta bị xao lãng hơn là giúp đỡ chúng ta tập trung. Và như thế, khi đã vượt qua được điều ấy, khi mắt tôi không còn khả năng hoạt động nữa, các giác quan khác lặng lẽ thay thế chúng làm việc một cách toàn hảo. Khi tôi đã thực tập và đã đầy đủ kinh nghiệm rồi, tôi không còn để chồng tôi phải làm việc nhà giùm tôi nữa. Ban đầu, anh chua chát than phiền là tôi đã tước đoạt, không cho anh được hối lỗi, nhưng tôi không tin. Anh nói gì thì nói, tôi đã cảm nhận được sự khoan khoái của anh khi anh thôi chẳng còn phải động đến việc nhà. Phục vụ một người vợ mù chẳng bao giờ làm cho đời một người đàn ông thấy toàn hảo cả.
II Cuối cùng thì chồng tôi cũng học xong chương trình y khoa. Anh chuyển từ Calcutta đến một thành phố nhỏ để thực tập. Nơi vùng đồng quê này, tôi cảm thấy rất vui vì qua sự mù lòa, tôi như cảm ra được vòng tay của mẹ. Tôi xa nơi sinh ra để đến Calcutta lúc tôi lên tám. Trong mười năm sau đó, sống giữa thành phố lớn, ký ức của tôi về nơi chôn nhau cắt rốn dần nhạt phai. Nếu tôi còn sáng mắt, Calcutta với cuộc sống tất bật đã lọc đi những ngày tôi còn bé. Nhưng khi tôi đã mất đi ánh sáng, lần đầu tiên tôi biết rằng Calcutta chỉ quyến rũ được đôi mắt thôi chứ chẳng làm đầy được tâm trí. Và giờ đây, trong mù lòa, những hình ảnh thời thơ ấu của tôi lại chiếu sáng rực rỡ một lần nữa, như những ngôi sao từng chiếc hiện ra trên bầu trời chiều cuối ngày. Đó là vào tháng Mười Một khi chúng tôi rời Calcutta để đi Harsingpur. Đây là vùng lạ đối với tôi, nhưng mùi hương và tiếng động của vùng quê như ôm lấy tôi, ép sát vào tôi. Cơn gió nhẹ buổi sáng thổi đến tươi mùi đất mới cày, mùi hương hoa cải vàng thật là ngọt nhẹ, tiếng sáo mục đồng ngân vọng từ xa, và ngay cả tiếng xe bò cót két khi lăn trên con đường làng mấp mô cũng làm cho thế giới của tôi tràn vui thích. Ký ức của tôi về cuộc đời cũ, với tất cả hương nồng và âm thanh khó tả trở thành hiện tại sống động mà đôi mắt mù lòa của tôi không thể nào bảo rằng tôi đã sai lầm. Tôi đã quay về quá khứ, sống lại thời thơ ấu của mình. Chỉ có một điều vắng mặt: mẹ tôi không còn ở bên tôi nữa.
Tôi có thể thấy căn nhà của tôi với những cây đa thật lớn vươn lên dọc theo cái ao làng. Tôi có thể hình dung trong mắt tôi bà nội tôi đã già ngồi trên sân, mái tóc phất phơ không cài, phơi lưng cho ấm, tay vắt đậu lăng thành từng viên tròn để phơi khô dùng trong việc nấu ăn. Nhưng chẳng biết sao mà tôi không thể nhớ lại được những câu ca mà bà thường ư ử với cái giọng run run yếu ớt của bà. Buổi chiều, mỗi khi tôi nghe tiếng đàn súc vật chộn rộn, tôi gần như có thể thấy bóng dáng mẹ tôi đi quanh mấy cái chuồng với ngọn đèn dầu trên tay. Mùi cỏ ướt và mùi khói rơm đậm đà như xuyên thẳng vào tim tôi. Và tôi dường như có thể nghe được từ xa, tiếng chuông chùa đổ vang theo gió từ bờ sông vọng về. Calcutta, với cái náo động và những chuyện lê la làm cho tim đông cứng lại. Ở đó, tất cả những sinh hoạt đẹp đẽ của đời sống mất đi sự tươi mát và ngây thơ. Tôi còn nhớ một hôm, một người bạn tôi đến nói với tôi: “ Này Kumo, sao bạn lại không nổi giận vậy? Tớ mà bị chồng đối xử với tớ như bạn thì tớ chẳng bao giờ thèm nhìn mặt ổng nữa đâu !” Bạn tôi đang cố tìm cách làm cho tôi căm phẫn bởi vì chồng tôi đã chần chừ lâu mới chịu mời bác sĩ đến chữa cho tôi. Tôi nói: “Chuyện tôi bị mù đã là một điều khổ rồi, tại sao còn làm khổ mình thêm bằng cách để cho cái ghét trương lên chống lại chồng tôi?” Bạn tôi lắc đầu không bằng lòng chút nào khi nghe một đứa con gái mới lớn như tôi nói chuyện như bà già xưa cổ. Bạn tôi khinh miệt bỏ đi mất. Nhưng cho dù tôi hôm ấy trả lời thế nào đi nữa, những lời bạn tôi nói hôm ấy đã để lại chất độc, và một khi nọc độc đã được chích vào tâm rồi thì chẳng bao giờ có thể trục nó ra khỏi hoàn toàn được. Đó, bạn thấy không, Calcutta với những chuyện ngồi lê như thế làm tim
ta cứng lại, nhưng khi tôi trở về lại đồng quê thì tất cả những hy
vọng, niềm tin, và hết thảy những gì tôi ôm ấp trong đời suốt thời thơ
ấu lại tươi mới và long lanh sáng. Trời lại đến với tôi, chứa đầy tim
tôi và thế giới của tôi. Tôi lạy Trời và thưa với Ngài rằng: Ờ, tôi đã nói thêm ra đấy. Tôi nói thêm là “ Xin Ngài ở cùng con” chứ thật ra là phải nói “ Con xin tin ở Ngài. ” Cho dù rằng chúng ta bị lấy hết chẳng còn gì thì chúng ta cũng vẫn phải tiếp tục sống thôi.
III Chúng tôi sống với nhau hạnh phúc được mấy tháng trời. Chồng tôi đã có tiếng là một bác sĩ đáng trọng. Cùng với tiếng tăm là tiền bạc cũng đổ vào. Tuy nhiên có cái gì đó không được đàng hoàng trong vấn đề tiền nong. Tôi không thể đưa ra một sự việc cụ thể nào, nhưng vì người mù thường có những cảm nhận sắc bén hơn người khác. Tôi có thể nhận ra sự đổi thay của chồng tôi từ khi sự giàu có được tăng lên. Khi anh còn trẻ, anh quan niệm về công bằng rất sâu sắc, thường nói cho tôi nghe về ước vọng giúp người nghèo của anh một khi anh được hành nghề. Anh thường tỏ ra bất mãn đối với những người chuyên nghiệp nào không chịu bắt mạch cho một bệnh nhân trừ khi họ trả tiền trước đã. Nhưng bây giờ tôi nhận ra có sự khác biệt. Anh trở nên lạnh lùng. Có lần một phụ nữ đến van anh mở lòng cứu cho đứa con độc nhất của bà nhưng bị anh thẳng tay từ chối. Và khi tôi tự mình xin anh giúp bà, anh đã làm một cách miễn cưỡng. Lúc chúng tôi chẳng giàu có gì, chồng tôi thường chẳng ưa chuyện tính toán tiền bạc. Anh thường nói thẳng ra như thế. Nhưng từ khi tiền trong nhà băng lớn dần, anh lại hay lân la hàng giờ với mấy tên cô hồn làm việc cho một nhân viên của chủ đất, rõ ràng là nhắm vào những việc không hay ho gì. Chồng tôi đã lạc nẻo rồi sao? Người chồng mà tôi biết trước khi tôi mù, người chồng đã hôn tôi lên trán, giữa hai chân mày, đã từng nâng tôi lên hàng thánh nữ, bây giờ đang trở thành gì vậy? Những kẻ mà đương không bị một cơn bão đam mê làm cho rơi xuống thành bụi thì vẫn có thể trỗi dậy với lòng thiện. Nhưng một kẻ, ngày qua ngày, bị khô khốc đi vì chính tâm đạo đức của mình; kẻ để cho con ký sinh bên ngoài gặm dần đến đời sống bên trong của mình, những kẻ ấy một ngày kia sẽ cùng đường mà chẳng có cách nào chữa được. Sự chia cách do khiếm thị chỉ là một điều nhỏ thuộc phạm vi vật lý, nhưng cái làm cho tôi nghẹt thở khi tìm hiểu ra vì sao mà chồng tôi không còn bên tôi nữa và anh đang đứng nơi nào trong suốt thời gian cả hai chúng tôi cùng biết là tôi đang bị mù, đó mới là một sự ly thân thật sự. Tôi, với tình yêu còn tươi nguyên, lòng tin không chuyển gãy, vẫn giữ trong tâm mình một án thờ. Nhưng chồng tôi thì đã rời ra khỏi cái bóng mát không bao giờ già nua và tàn phai ấy. Anh đã nhanh chóng biến mất vào trong những cánh đồng hoang khô cháy trong lúc khao khát tìm vàng. Đôi lúc tôi ngờ rằng biết đâu mọi sự chẳng thể tệ đến vậy, rằng có lẽ tôi đã cường điêu, hóa sự việc chỉ vì tôi mù. Biết đâu cái thấy của tôi lại chẳng lệch lạc. Đáng lẽ tôi nên chấp nhận thế giới của mình như nó là. Sự phân vân của tôi đồng thời lại như ngọn đèn giúp chồng tôi theo dõi được hết những biến đổi trong tâm tình và trong ảo tượng của tôi. Một ngày nọ có một người Hồi Giáo đã lớn tuổi đến nhà tôi. Ông ta nhờ chồng tôi đi khám cho đứa cháu gái. Tôi có thể nghe ông van nài: “ Nhưng thưa Bác Sĩ, tôi nghèo quá, xin bác sĩ đi cùng tôi và đấng Allah sẽ giúp đỡ ông. ” Chồng tôi trả lời một cách lạnh lùng: “ Chuyện Đấng Allah giúp gì cho tôi chẳng có gì quan trọng, tôi chỉ muốn biết là ông trả gì cho tôi mà thôi. ” Nghe đến đó, tôi thầm nghĩ sao mà Thượng Đế không làm cho tôi điếc luôn như đã làm tôi mù cho xong. Ông già thở ra một hơi dài rồi bước ra. Tôi vội bảo người tớ gái chạy theo và đưa ông ta về phòng tôi. Tôi đứng ngay cửa mở ra nhà trong, đặt ít tiền vào tay ông và nói: “Xin ông nhận cho tôi chút này đem về cho cháu gái của ông rồi tìm một bác sĩ nào đáng tin cậy mà lo cho cháu, đồng thời xin cầu nguyện cho chồng tôi, ông nhé. ” Suốt ngày hôm ấy, tôi chẳng ăn uống gì được. Đến chiều, khi chồng tôi thức giấc ngủ trưa, anh hỏi: “Sao em xanh vậy?” Tôi đang tính nói như thể tôi đã từng nói: “Ồ, chẳng có gì đâu anh. ” Nhưng những ngày phỉnh gạt dối trá kia đã qua rồi, vì vậy tôi chỉ đơn giản trả lời anh: “Em đã ngần ngại lâu nay muốn nói cùng anh đôi lời. Thật là khó nói ra hết những điều em nghĩ một cách chính xác. Ngay bây giờ đây em cũng có thể không nói đúng những gì em nghĩ trong đầu. Nhưng em tin là anh cũng đã cảm biết chuyện gì đang xảy ra. Chúng ta đang càng ngày càng xa cách nhau. ” Chồng tôi cười gượng và nói: “ Thay đổi là luật tự nhiên mà em. ” Tôi nói: “Em biết vậy, nhưng vẫn có những điều tồn tại đời đời. ” Chồng tôi bỗng nghiêm mặt: “ Có nhiều người đàn bà ngoài kia đang có những mối đau buồn thật sự: có người chồng kiếm không ra tiền; có người chồng chẳng hề yêu thương họ. Còn em, em cứ quay quắt chẳng vì cái gì cả. ” Thế là tôi chợt hiểu rất rõ rằng chính sự khiếm thị của tôi đã ban cho tôi cái khả năng thấy được một thế giới cao hơn cái thế giới vô thường này. Vâng, đúng vậy. Tôi không giống những phụ nữ khác, và chồng tôi sẽ không bao giờ hiểu được tôi cả.
IV Đời sống hai chúng tôi lại tiếp tục với bổn phận đều đặn trong một thời gian sau đó cho tới khi một việc xảy ra đã bẻ gãy sự nhàm chán. Một người Dì của chồng tôi đến thăm chúng tôi. Câu đầu tiên sau khi chúng tôi chào hỏi nhau của bà là: “ Này, Kumo, chị bị mù lòa thiệt là tội cho chị quá, nhưng tại sao chị lại bắt chồng chị phải khổ theo chị chi vậy? Chị phải kiếm cho chồng chị một cô vợ khác đi chớ. ” Tiếp đó là một khoảng yên lặng ngỡ ngàng. Giá mà chồng tôi nói một câu phản đối nào đó, hoặc cười vào mặt bà ấy thì chắc là chuyện cũng qua rồi. Nhưng anh lại lắp bắp, ngập ngừng, và cuối cùng thì lúng túng, nói một cách ngớ ngẩn: “ Ủa, Dì nghĩ vậy hả? Thiệt sao? Dì đừng nên nói vậy. ” Bà Dì quay sang tôi: ” Kumo, Dì nói có chi sai?” Tôi cười giả lả: “ Sao Dì không hỏi một người nào khác đúng cương vị hơn trả lời cho Dì? Thằng móc túi có bao giờ xin phép người chủ cái ví trước khi móc túi họ đâu kìa. ” Bà chỉ trả lời một cách thẳng thừng: “ Chị nói đúng đó. Này Abinash, anh qua đây Dì hỏi riêng chút chuyện. Sao, anh nghĩ sao về chuyện đó?” Sau đó vài ngày, ngay trước mặt tôi, chồng tôi hỏi bà Dì xem bà có biết cô gái nào con cái gia đình đàng hoàng nào thì giới thiệu tới giúp tôi việc nhà cửa. Anh biết mười mươi là tôi đâu cần ai giúp, nhưng tôi giữ yên lặng. “Úi dào, thiếu gì !”, bà Dì đáp. “ Ông anh họ của Dì có đứa con gái đang vừa tuổi lấy chồng đấy, mà lại ngoan hết sức. Ông bà già nó mà có được anh làm rễ thì mừng lắm đó nghen. ” Chồng tôi lại cười ngượng nghịu, nói: “ Mà cháu có nói gì chuyện cưới xin đâu nào.” Bà Dì hỏi: “Anh nghĩ sao mà nói vậy? Có con cái nhà ai đàng hoàng tử tế mà lại khi không chạy vào nhà anh ở mà lại không có cưới xin?” Chồng tôi phải công nhận bà Dì nói phải, và rồi ngậm im bối rối. Tôi đứng một mình giữa những cánh cửa đóng kín của sự mù lòa sau khi chồng tôi đã rời khỏi nhà. Tôi ngẩng xin Trời, van cầu Ngài hãy thương xót cứu lấy chồng tôi. Ít ngày sau đó, khi tôi mới bước ra khỏi phòng nguyện ở nhà trong thì đã thấy bà Dì đến cầm lấy hai tay tôi, vừa cầm vừa nói lớn: “ Kumo, đây là con nhỏ mà Dì nói hôm trước đó. Nó tên là Hemangini. Nó mong gặp chị lắm. Hemo! Tới đây Dì giới thiệu chị con nè. ” Chồng tôi cùng lúc cũng bước vào phòng. Anh có vẻ ngạc nhiên khi thấy cô gái lạ trong nhà và tính rút lui, nhưng bà Dì đã đon đả: ” Abinash, anh chạy đi đâu vậy? Không cần đâu. Đây là Hemangini, con gái của anh họ Dì tới thăm anh nè. Hemo, cúi đầu chào anh đi con. ” Làm bộ ngạc nhiên, chồng tôi hỏi dồn bà Dì về cô gái, với những câu tại sao, thế nào, bao giờ … Tôi thấy rõ cái trơ trẽn của tình thế nên nắm tay Hemangini dắt vào phòng của tôi. Tôi lấy tay sờ mặt mũi, tay, tóc của cô gái, đoán chừng cô chỉ khoảng mười lăm, rất xinh đẹp. Thấy tôi sờ mặt, cô bật cười lớn: ” Í, chị làm cái gì vậy? Bộ chị tính thôi miên em hả?” Giọng cười dòn tan của cô đã quét sạch hết đám mây đen dăng ngang hai chúng tôi. Tôi quàng tay phải qua cổ cô: “Nhỏ à, chị đang tìm cách thấy em đó thôi. ” Và tôi lại dùng tay trái sờ lên khuôn mặt mịn màng của cô. “ Tìm cách thấy em là sao?” Cô lại cười khanh khách. ” Bộ em là bí ngô trồng trong vườn nhà chị hay sao mà chị phải rờ rẫm để coi thử em có bị mềm không?” Tôi chợt nghĩ ra là cô chưa biết tôi mù. Tôi nói: “Nhỏ à, chị bị mù em ạ. ” Cô ngậm câm. Tôi có thể cảm thấy được đôi mắt to ngây thơ của cô tò mò nhìn vào mặt tôi. Tôi biết đôi mắt ấy chứa chan thương hại. Rồi cô tỏ ra nghĩ ngợi, hoang mang, và ngập ngừng nói: “À, giờ thì em hiểu rồi. Đó là lý do vì sao mà chồng chị vời bà Dì tới đây ở, phải không?” Tôi trả lời: “Không, em lầm rồi. Anh ấy đâu có mời. Tự bà ấy đến thôi. ” Hemangini lại cất tiếng cười trong trẻo. “ Thiệt đúng là Dì ấy. Tới không ai mời thiệt là ngộ. Nhưng mà khi Dì ấy đã tới nhà rồi, em nói cho chị biết, khó mà mời Dì ấy đi lắm đó nghen. ” Rồi cô ngưng cười, có vẻ phân vân: “ Nhưng sao ba em lại gởi em tới đây chi vậy? Chị cho em biết được không?” Đang lúc chúng tôi đang nói chuyện thì bà Dì bước vào phòng. Hemangini hỏi: “ Dì ơi, khi nào thì mình đi về?” Bà Dì nổi giận: “ Hỏi gì kỳ vậy? Tao chưa thấy đứa nào mà choi choi như mày. Mới tới đã hỏi khi nào về. ” Hemangini nói: " Đối với Dì thì được vì đây là nhà cháu của Dì. Nhưng con thì sao? Con đã nói với Dì là con không có ghé đây. ” Nói rồi cô cầm tay tôi hỏi: “Chị nghĩ sao chị?” Tôi kéo cô vào lòng mình nhưng chẳng nói gì cả. Bà Dì thấy khó xử, Bà cảm thấy mình không làm chủ tình thế được, vì vậy bà đề nghị hai dì cháu ra ngoài đi tắm. “ Không, hai chị em con sẽ đi chung với nhau.“ Vừa nói, Hemangini vừa tựa sát người vào tôi. Bà Dì chịu thua, sợ rằng làm quá thì cô ta sẽ phản đối. Trong lúc cùng đi xuống sông, Hemangini hỏi: “ Sao chị không sinh cháu nào vậy?” Câu hỏi của cô làm tôi giật mình. Tôi trả lời: “ Chị làm sao biết được? Trời không ban cho chị cháu nào thì chị chịu thôi. ” “ Không phải vậy đâu, “ Hemangini nói nhanh. ” Chắc chị phải có làm một điều gì đó tội lỗi lắm. Như bà Dì em kìa. Dì cũng đâu có con. Chỉ tại tâm Dì ấy dữ lắm. Tâm chị có dữ không?” Câu nói làm tôi đau lòng. Tôi không có câu trả lời nào cho chuyện ác, dữ. Tôi chỉ thở dài não nuột, nói thầm trong lòng: “ Ngài ơi, chỉ có Ngài mới biết lý do tại sao mà thôi. ” Hemangini la lên: ” Trời đất, làm gì mà chị thở dài vậy. Trước giờ có ai thèm bận tâm xem em nói gì đâu. ” Tiếng cười của cô vang vọng trên sông.
V Sau vụ này tôi tìm biết được rằng chồng tôi thường hay bỏ ngang việc làm. Anh từ chối không đi xa, và thường khám bệnh nhân một cách vội vàng, ngay cả khi bệnh nhân đang ở gần ngay đó. Hồi trước, anh chỉ vào nhà trong vào buổi ăn trưa và tối. Nhưng nay, vì lo lắng cho tiện nghi của bà Dì, anh thường ghé thăm bà bất cứ giờ nào. Tôi biết là anh đến phòng bà ngay lúc anh tới bởi vì bà cất tiếng gọi Hemangini đem cho bà cốc nước. Ban đầu thì cô bé cũng vâng lời, nhưng về sau thì cô tuyệt đối từ chối. Rồi bà trở giọng gọi nhỏ nhẹ: “Hemo, hemo ơi, Hemangini!” Nhưng Hemangini chỉ đeo cứng lấy tôi, thương hại tôi. Cảm giác tội nghiệp, buồn rầu cho tôi làm cho cô ngậm tiếng. Một đôi khi, cô co người tựa vào tôi như một con vật bị săn đuổi, không biết chuyện gì sẽ xảy đến cho mình. Vào thời gian ấy, anh hai tôi từ Calcutta tìm xuống thăm tôi. Tôi biết anh ấy rất có tài quan sát và là một vị quan tòa rất nghiêm khắc. Tôi sợ chồng tôi phải đứng về phía bên bị, phải chống chế trước tòa. Vì vậy tôi quyết định giấu giếm anh tình trạng đang xảy ra bằng cách giả vờ vui vẻ cười nói. Nhưng tôi sợ rằng tôi đã làm hơi quá trớn. Chuyện nói cười rộn ràng đâu phải là cá tính của tôi. Chồng tôi bắt đầu lộ ra nóng ruột cứ hỏi anh tôi ở lại bao lâu. Cuối cùng, thái độ mất kiên nhẫn của chồng tôi gần như trở thành xấc xược làm anh tôi chẳng có cách gì hơn là giã biệt. Trước khi đi, anh đặt tay lên đầu tôi, để vậy một lúc rất lâu. Tôi cảm thấy tay anh run run và nước mắt nhỏ xuống khi anh cầu lành cho tôi. Tôi còn nhớ rõ đó là một chiều tháng Tư và là một ngày hội chợ. Dân chúng đến dự chợ đang sửa soạn trở về nhà. Trong không khí có hơi hướm của một cơn bão lớn đang kéo về. Mùi đất ướt và làn gió ẩm tràn ngập không gian. Tôi không bao giờ đốt đèn trong phòng mình, sợ rằng tôi ở một mình, lỡ ra áo quần bén lửa hay tai nạn xảy ra thì sao. Tôi ngồi trên sàn trong căn phòng tối, cầu nguyện với Thượng Đế về thế giới mù lòa của mình. “ Ngài ơi, ” tôi khóc, “Con không thấy được mặt Ngài, con mù lòa. Con xin vin chặt vào tay lái hướng dẫn của Ngài cho tới khi tay con đẫm máu. Nhưng sóng đánh lớn mạnh quá sức con rồi. Ngài còn thử thách con cho tới khi nào nữa, Ngài ơi, bao lâu nữa đây?” Tôi gục đầu lên cạnh giường và bắt đầu khóc. Trong khi tôi khóc, tôi cảm thấy thành giường động đậy nhẹ. Rồi cảm thấy Hemangini ngồi bên cạnh tôi. Cô ôm lấy cổ tôi, yên lặng gạt nước mắt cho tôi. Tôi không biết tại sao chiều ấy cô lại ngồi đợi ở nhà trong, hoặc tại sao cô lại nằm một mình ở đó lúc chiều xuống. Cô chẳng hỏi tôi gì, chỉ đặt bàn tay mát lạnh của cô lên trán tôi, hôn tôi, rồi bước ra. Sáng hôm sau, Hemangini nói với bà Dì khi tôi còn ở đó: “ Nếu Dì muốn ở lại thì cứ việc, nhưng con không ở lại đâu. Con về với người nhà của con đây. ” Bà Dì bảo cô gái là cô không phải đi một mình, bà cũng đi với cô. Rồi vừa cười, vừa ỏng ẹo, bà lôi ra từ trong một cái hộp nhung một bộ nhẫn gắn hạt trai. “ Coi này Hemo,” Bà nói “ bộ nhẫn đẹp quá trời này là anh Anibash của Dì mua tặng cho con đó. ” Hemanini giật lấy cái nhẫn trong tay bà Dì: “ Coi này Dì, coi con nhắm có tài không nhen, “ và cô vung tay ném cái nhẫn vào cái bể chứa to ngoài cửa sổ. Bà Dì sửng sờ, ngạc nhiên, vừa lo, vừa tức, xù lên như con nhím. Bà quay qua tôi, nắm chặt tay tôi. “ Kumo”, bà cứ nhắc đi nhắc lại mãi, “ chị đừng có mách cái trò trẻ con này cho Anibash nghen. Nó nghe được, nó giận lắm đó. ” Tôi phải trấn an bà, bảo bà đừng sợ. Tôi sẽ không hở môi nói cho chồng tôi hay đâu. Hôm sau, trước khi từ giã, Hemangini ôm lấy tôi, và nói: ” Chị yêu ơi, chị nhớ em nha chị, đừng quên em nha chị. ” Tôi lấy ngón tay rờ đi, rờ lại khuôn mặt của cô và nói: “ Em à, người mù có trí nhớ dai lắm em. ” Tôi kéo cô sát vào tôi, hôn lên tóc cô, trán cô. Thế giới của tôi bỗng trở nên xám ngắt. Tất cả những gì xinh đẹp, tiếng cười và sự trẻ trung thanh thoát vừa mới thành hình thật gần gũi với tôi đột nhiên tan biến khi Hemangini từ biệt. Tôi cứ vươn tay ra, tìm bắt xem tôi còn lại những gì trong thế giới trống trải hoang vu của mình. Chồng tôi sau đó đi vào, làm như thể thở phào vì họ đã đi hết ra khỏi nhà, nhưng rõ ràng là anh nói cho có, nói cho cường điệu thôi chứ thật ra là rỗng tuếch. Anh cứ làm như chuyện bà Dì đến thăm nhà đã làm cho anh mất thì giờ không làm việc được. Trước, chỉ có sự mù lòa của tôi đã ngăn tôi với chồng tôi. Bây giờ lại có thêm một vách ngăn khác nữa, đó là tin tức về Hemangini bỗng nhiên bặt tăm. Chồng tôi làm như lạnh lùng thờ ơ, nhưng tôi biết anh vẫn có thư từ liên quan đến cô. Đầu tháng năm, một buổi sáng người tớ gái của tôi vào phòng tôi và hỏi tôi: “ Không biết người ta đang sửa soạn làm gì ngoài bờ sông vậy Cô? Mà Ông Chủ đi đâu vậy cô?” Tôi biết có chuyện gì đó quan trọng lắm, nhưng tôi chỉ nói với cô ta: “ Tôi không nói được. ” Người tớ gái chẳng dám hỏi thêm, chỉ thở dài đi ra khỏi phòng. Tối ấy, chồng tôi đến tìm tôi. “Anh phải đi khám bệnh cho một người dưới quê, ” anh nói. “ Sáng mai anh sẽ phải đi sớm lắm, và chắc cũng phải ở lại đôi ba ngày mới về. ” Tôi vụt dậy tụt xuống giường, đứng trước mặt anh, la lớn: ” Tại sao anh lại nói dối em?” Chồng tôi lắp bắp: ” Anh dối, mà anh dối em cái gì?” “ Anh sắp lấy vợ. Anh lặng yên không trả lời. Trong một lúc thật lâu, căn phòng im ngặt không một tiếng động. Tôi đánh vỡ cái lặng yên bằng cách la lớn: “ Anh hãy trả lời em đi, hãy nói, đúng vậy đi. ” Anh trả lời: “ Đúng vậy. ” như tiếng lập lại yếu ớt. Tôi la to: ” Không, em không cho phép anh. Em phải cứu anh, không để cho anh bị trừng phạt khủng khiếp vì tội lỗi của anh. Nếu em mà không làm được điều này thì em làm sao mà là vợ anh, em làm sao mà thờ phụng đấng tối cao của em được chứ. “ Căn phòng im cứng như một tảng đá. Tôi rũ người xuống sàn, ôm lấy đầu gối chồng: “Em đã làm gì?” Tôi hỏi. ” Em đã không hoàn tất điều gì? Anh hãy nói thật cho em biết. Vì cớ gì mà anh phải kiếm một người vợ khác?” Chồng tôi nói một cách chậm rãi: “ Để anh nói thật cho em nghe. Anh sợ em. Sự mù lòa của em đã nhốt em vào trong như một cái pháo đài mà anh không có cách gì tìm lối vào được. Với anh, em không còn là một người đàn bà bình thường. Em như là Đấng Thiêng Liêng của anh. Anh không thể sống đời sống thường ngày với em được. Anh cần một người đàn bà, một người đàn bà bình thường, một người để anh được tự do la rầy, tâm sự, âu yếm, cau có. ” Trời ơi, hãy vạch tim tôi ra mà xem ! Tôi có là gì khác hơn một người đàn bà bình thường? Tôi vẫn là đứa con gái như lúc tôi vừa mới làm đám cưới, đứa con gái rất cần mọi thứ để tin tưởng, để phó thác, và để thờ phụng. Tôi không nhớ một cách chính xác những lời tôi thốt ra. Tôi chỉ nhớ rằng tôi đã nói: “Nếu em là một người vợ đúng nghĩa, xin Trời hãy chứng giám cho em, xin anh đừng làm điều ấy, xin anh đừng bẻ gãy lời thề. Trước khi anh phạm tội, hoặc là em sẽ trở thành bà góa, hoặc Hemangini sẽ chết. ” Tôi lại ngã xuống sàn, ngất đi. Khi tôi tỉnh dậy, trời vẫn còn tối. Chim chóc lặng yên. Chồng tôi đã ra đi. Suốt ngày hôm ấy, tôi ngồi trước bàn thờ trong phòng nguyện ở nhà trong. Đến chiều, mưa, bão, sấm, sét ào ào quét qua nhà, lắc căn nhà rung lên từng chập. Rạp người trước bàn thờ, tôi không xin Trời cứu chồng tôi khỏi cơn bão, dù rằng tôi biết anh đang nguy hiểm ngoài sông kia. Tôi chỉ cầu xin cho dù tôi có mệnh hệ nào, cũng xin Ngài cứu anh khỏi tội anh sẽ phạm. Đêm qua đi. Suốt cả ngày hôm sau tôi cũng vẫn ngồi một chỗ cầu nguyện. Chiều đến, có tiếng lay cửa, đập cửa ồn ào. Khi tông cửa ra, người ta thấy tôi nằm ngất dưới đất bèn khiêng tôi về phòng. Cuối cùng khi tôi đã hoàn toàn tỉnh táo, tôi nghe có người thì thầm trong tai tôi: “Chị ơi!” Tôi thấy tôi đang nằm trong phòng mình, kê đầu lên gối của Hemangini. Lúc tôi nhúc nhích đầu mình, tôi nghe tiếng soàn soạt của lụa, thứ lụa may áo cưới. Trời hỡi Trời, lời cầu xin của tôi chẳng được đáp. Chồng tôi đã rơi vào tội lỗi. Hemangini cúi đầu xuống, thì thầm: ” Chị thương mến ơi, em tới đây để xin chị ban phước lành cho cuộc hôn nhân của chúng em đây. ” Lúc đầu, người tôi đông cứng lại như thể một cây gỗ mà thân vừa bị sét đánh cho bật rễ. Nhưng rồi tôi ngồi dậy, đau đớn nói: ” Tại sao chị lại không chúc phúc cho em chứ. Em có làm gì sai đâu?” Hemangini cười phá lên vui vẻ: “Sai! Khi chị lấy chồng thì cái gì cũng là đúng. Tới phiên em lấy chồng thì chị lại gọi rằng sai !” Tôi gượng cười theo cô, lòng thầm nhủ: “ Lời con cầu thật ra cũng chẳng phải là lời chung cuộc. Ý nguyện của anh ấy mới là lời quyết định. Xin Trời hãy trừng phạt con đây, nhưng xin họ để yên cho con giữ vững niềm tin và hy vọng vào Trời không lay chuyển. ” Hemangini cúi người trước mặt tôi, chạm tay vào chân tôi. Tôi nói: “ Chị cầu cho em được hạnh phúc,” tôi làm dấu ban phép lành cho cô, “ và luôn luôn sống trong thịnh vượng. ” Hemangini vẫn chưa chịu hài lòng: “ Chị ơi, chị chỉ cầu phúc cho em thôi thì chưa đủ. Chị phải làm cho hạnh phúc của chúng em được hoàn toàn. Chị phải chấp nhận cho chồng em vào dưới mái nhà chị, hãy dùng bàn tay thánh thiện của chị mà chúc phúc cho anh ấy nữa chị nhé. Để em đưa anh ấy vào nha chị? ” Tôi nói: “ Được rồi em. Em đưa anh ấy vào đi. ” Môt lúc sau, tôi nghe tiếng bước chân rất quen tiến vào và rồi câu hỏi: “ Kumo, em khỏe không?” Tôi giật mình vùng dậy, cúi rạp sát người xuống sàn, kêu lên: “ Anh hai! ” Hemangini bật cười lớn: “ Giờ này mà chị còn gọi là anh hai à? Trật lất! Phải gọi là Em trai, véo tai, cù ảnh, bởi vì ảnh lấy em gái của chị mà ! “ Giờ thì tôi hiểu rồi. Chồng tôi đã được cứu thoát. Anh đã không phạm tội. Tôi biết trước kia anh tôi đã quyết định là không bao giờ lập gia đình. Đến khi mẹ tôi mất đi, bà cũng chưa hề nhắc đến lời cầu xin anh lấy vợ. Nhưng chính vì tôi, đứa em gái của anh, nỗi đau khổ của tôi đã làm anh bỏ qua ý nguyện của anh. Anh lập gia đình chỉ vì thương tôi mà thôi. Nước mắt vui mừng ứa lên mắt tôi, tràn xuống má. Tôi cố hết sức mà vẫn không ngăn được. Anh hai tôi vuốt tóc tôi, còn Hemangini thì ôm lấy tôi mà cười lớn. Suốt đêm ấy, tôi nằm thao thức không ngủ được, lo lắng đợi chồng về. Tôi khó mà tưởng tượng được chồng tôi sẽ xấu hổ và thất vọng đến thế nào. Đến thật khuya, cửa phòng tôi mở ra nhè nhẹ. Tôi ngồi dậy trên giường, lắng nghe. Đó là tiếng chân của chồng tôi. Tim tôi đập hỗn loạn trong ngực. Anh đến bên giường, ôm tay tôi trong tay anh: “ Anh hai của em đã cứu anh khỏi bị hủy diệt. Anh đã bị kéo xuống càng lúc càng thấp chỉ vì một lúc cuồng điên. Sự mê đắm đã quàng vào anh, làm anh không sao thoát được. Chỉ có Trời mới biết được anh đã mang nặng những gì khi anh bước xuống tàu hôm ấy. Bão tràn xuống sông, che cả bầu trời. Giữa cơn hãi hùng, anh chỉ mong cho anh được chết đuối cho rồi, để gỡ ra được những sợi dây rối rắm mà anh đã tự cột vào người. Khi anh tới Mathurganj, anh nghe cái tin đã làm cho anh thấy mình tự do. Đó là tin anh hai đã lấy Hemangini. Anh không thể nào kể cho em nghe được nỗi hân hoan và xấu hổ của anh khi nghe tin đó. Anh vội vã leo lên tàu trở lại. Trong phút giây được giải thoát ấy, anh hiểu rằng anh không thể nào hạnh phúc khác hơn với ai, trừ em. Em là Nữ Thánh của anh. " Tôi vừa cười vừa khóc, nói với anh: ” Không, không, không. Em không còn muốn làm Thánh nữa đâu. Em chỉ muốn làm người vợ nhỏ bé của anh thôi. Em chỉ là người đàn bà bình thường thôi. ” “ Em yêu, ” chồng tôi nói. ”Anh cũng muốn nói cho em nghe điều này. Đừng có làm anh mắc cỡ bằng cách gọi anh là Ông Trời của em nữa. ” Ngày hôm sau, cái thành phố nhỏ bé thật là tưng bừng với tiếng chuông ngân nga, nhưng chẳng ai nhắc nhở gì tới cái đêm cuồng điên ấy, đêm mà suýt nữa mọi thứ đều tiêu vong. Đặng Lệ Khánh dịch |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 02/Oct/2019 lúc 7:21am |
Nụ Cười Bao Dung
– Ba rất vui mừng và xúc động khi được gặp con! Tôi nhìn người đàn ông trước mặt bằng ánh mắt hoài nghi, rồi liếc sang cậu Tính thật nhanh như thầm hỏi “có thật vậy không?”. Cậu Tính mím môi với nụ cười gượng gạo. Bàn tay cậu không ngừng xoay chiếc muỗng trong ly cà phê đá. Biết cậu sẽ tìm cớ để rút lui nên tôi vội vàng lên tiếng: - Con có một cái hẹn quan trọng lúc mười một giờ trưa. Con xin phép đi trước. Cậu Tính vừa định nhỗm dậy thì người đàn ông đã níu lấy cánh tay cậu van nài: - Cậu ở lại một chút… anh có nhiều chuyện muốn hỏi. Tôi với tay lấy chiếc áo khoác, lẹ làng: - Dạ con xin chào…!!! Ra đến bãi đậu xe tôi thở phào nhẹ nhõm. Vừa ngồi xuống sau tay lái tôi vừa lẩm nhẩm “ba! ba!!”, nhưng sao nghe giọng nói của mình… hình như lạ hoắc. Có thật ông ấy là ba của tôi? Tôi nhớ, từ ngày bắt đầu khôn lớn, không bao giờ tôi nghe mẹ nhắc đến “ba”. Còn tôi, chỉ một lần duy nhất trong đời -khi ấy tôi vừa lên mười tuổi. Sau câu hỏi, mẹ ơi! con có ba không, sao con chưa được gặp ba lần nào? thì mắt mẹ đã sa sầm, giọng nói như nghèn nghẹn, đứt quãng. Hãy nhớ! con có thể hỏi mẹ bất cứ điều gì, nhưng đừng bao giờ hỏi mẹ câu hỏi đó… nghe không? Rồi như chưa an tâm, mẹ kéo tay tôi nói rõ từng chữ. Nhớ không con? Giọng nói thật nhẹ nhàng, nhưng ánh mắt long lanh của mẹ làm tôi sợ hãi. Dạ con nhớ. Con nhớ. Tối hôm đó mẹ lên giường nằm cạnh tôi, vuốt tóc và hôn nhẹ lên mắt tôi, ngọt ngào nói: - Mẹ xin lỗi… Có những điều mẹ chưa thể nói với con bây giờ… nhưng sau này… lớn lên con sẽ hiểu. Con có giận mẹ không? Tôi im lặng. Cũng không biết vì sợ hay vì giận. Nhưng từ đó, trong tâm trí tôi không bao giờ có hình ảnh của một người cha!!! *** Cậu Tính đưa cho tôi cái hộp đựng bánh cookies được dán kỹ bằng vòng băng keo vải. Ngập ngừng một lúc cậu nói khẽ: - Đây là kỷ vật duy nhất của mẹ mà cậu giữ được. Có lẽ mẹ con không bao giờ muốn con biết sự thật về cuộc tình oan nghiệt của mẹ. Cậu cũng vậy, cậu không muốn những vết đen trong cuộc đời mẹ con ảnh hưởng đến tương lai của con. Nhưng bây giờ thì sự thể đã khác. Con cần biết rõ những gì con phải biết để xử sự cho đúng đối với người mà con phải gọi bằng ba. Phải gọi bằng ba! Hình như có chút gì cay đắng trong câu nói của cậu? Chắc hẳn cậu ghét và hận người đàn ông này! Tôi đặt chiếc hộp trên bàn, bâng khuâng nhìn ra cửa sổ. Trời đã bắt đầu vào thu với từng cơn gió nhẹ cuốn theo những chiếc lá vàng đang lắt lây trên cành cây khô gãy. Cái cảm giác nao nao buồn làm tôi ngại ngùng khi nghĩ đến việc mở chiếc hộp ra, nhìn vào đó như nhìn vào cái quá khứ đau buồn mà mẹ đã muốn đóng kín từ lúc tôi còn bé thơ. Tôi vốn là người không có tính tò mò và rất sợ đối diện với sự thật. Cái sự thật đầy nước mắt khốn khổ của mẹ tôi, người phụ nữ nhan sắc vẫn còn mặn mà nhưng đã lià trần khi tuổi đời vừa tròn con số bốn mươi. Mẹ tôi quen với “ba” khi đang là học sinh lớp 12 trường Đoàn thị Điểm. Lúc ấy đang thời chiến tranh, “ba” là một quân nhân, ông bị thương trong cuộc hành quân tại Chương Thiện và được đưa về điều trị tại quân y viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Mẹ có mặt trong nhóm học sinh ủy lạo chiến sĩ và cuộc viếng thăm định mệnh ấy đã bắt đầu cho một chuyện tình thời chinh chiến. Khi ánh mắt đầu tiên chạm vào nhau là mẹ đã bị mũi tên tình ái bắn trúng ngay tim. Cô nữ sinh mười tám tuổi lao vào tình yêu cuồng nhiệt bất kể sự ngăn cấm của gia đình. Mỗi ngày, sau giờ tan học mẹ thường lấy cớ ở lại tập văn nghệ Tết cho trường để vào thăm “ba”. “Tình yêu sét đánh” đã phát triển bằng đôi hia bảy dặm khiến cho bạn bè phải ái ngại, nên họ thường nhắc nhở mẹ, coi chừng mấy ‘anh lính đa tình’, anh nào cũng vậy, mỗi nơi dừng chân đều có một mối tình và người thua thiệt vẫn là những cô thiếu nữ đầy mộng mơ, lãng mạng. Ông ngoại tôi lúc bấy giờ là một vị đại tá có tiếng tăm. Dĩ nhiên ông không chấp nhận mẹ tôi dan díu tình cảm với một anh trung sĩ. Chưa kể ông và người bạn bác sĩ nào đó đã có ý định kết suôi gia. Khi “ba” xuất viện trở về đơn vị thì mẹ cũng bắt đầu xao lãng việc học. Tất cả thời gian còn lại khi từ trường trở về nhà mẹ dành để miệt mài viết thư tình và trang trải nỗi nhớ, niềm thương trên những trang nhật ký dày đặc. Năm đó mẹ thi rớt tú tài hai. Ông ngoại nổi giận, bắt bà ngoại lấy tất cả hình ảnh, thư từ mà mẹ đang cất giữ đem ra thiêu hủy. Tình yêu đầu đời đầy cuồng nhiệt đã khiến mẹ trở nên bướng bỉnh. Mẹ chống đối quyết liệt để giữ lại những kỷ niệm tình yêu mà đối với mẹ là quý báu nhất trên đời và ngày hôm sau mẹ đã trốn nhà, lặn lội trên quãng đường đầy nguy hiểm để tìm đến nơi “ba” đóng quân. Kết quả của sự liều lĩnh bất chấp hậu quả đó là một sinh linh bắt đầu tượng hình trong bụng mẹ. Khi biết mình có thai mẹ đã tức tốc báo tin cho “ba”. Rồi mẹ chờ đợi… chờ đợi mãi vẫn không có một hồi âm nào từ người tình đầu tiên mà mẹ hết dạ yêu thương. Cuối cùng mẹ không dấu được ông bà ngoại cái bụng ngày càng lớn. Một quyết định cấp bách đã được thực hiện theo lệnh của ông ngoại -mẹ phải lên Đà Lạt ở với Dì Mơ để dấu nhẹm chuyện xấu xa này. Nơi xứ lạnh đìu hiu đó mẹ vẫn viết thư cho “ba”, nhưng người vẫn bóng chim tăm cá. Tội nghiệp mẹ, hai mươi tuổi đầu với dung nhan diễm lệ, lại là con nhà danh giá mà phải mang lấy số phận lao đao trong mối duyên đầu. Đến ngày sinh nở, mẹ không kịp nhìn mặt con, đứa bé đã được đưa đi mất dạng. Mẹ khóc lóc thảm thiết, van xin ông bà ngoại hãy trả con lại cho mẹ. Nhưng ông ngoại đã lạnh lùng phán quyết. Hãy quên những chuyện không tốt đẹp đã qua, trở về nhà tiếp tục đi học, xem như chưa từng có đứa bé nào hiện diện trong cuộc đời của mẹ. Mẹ gào thét khóc la, nhưng ông ngoại đã dằn khẩu súng lên bàn với mệnh lệnh sắt thép, cả nhà sẽ chết nếu con tiếp tục bôi tro, trát trấu vào mặt ba mẹ. Nhìn thấy bà ngoại đang run rẩy với khuôn mặt đầm đìa nước mắt, mẹ đành gật đầu chấp nhận làm theo lời ông ngoại như chấp chận khóa chặt cánh cửa quá khứ, chấp nhận cắt lìa tình mẫu tử với đứa con mà mẹ chưa được nhìn thấy nó một lần. Một năm sau, vào tháng 8 năm 1975, một người đàn bà từ Lâm Đồng tìm đến nhà, trả lại cho bà ngoại đứa con gái mười ba tháng. Mẹ nhìn trân trối đứa con gái xinh đẹp như thiên thần trên tay bà ngoại. Không cần hỏi câu nào mẹ đã nhào đến ôm chầm lấy đứa con thơ. Nước mắt đoàn tụ ràn rụa trên khuôn mặt mẹ rơi xuống đôi mắt ngây thơ của bé gái đang ngơ ngác nhìn mọi người. Lúc ấy, ông ngoại bị đưa đi cải tạo tận miền Bắc xa xôi, gia đình lâm vào cảnh túng quẩn, mẹ phải cùng bà ngoại lăn ra ngoài xã hội để buôn bán kiếm sống. Trong cái thế giới chợ trời hỗn tạp mẹ gặp một người cùng nằm trong quân y viện với ba ngày trước. Qua người ấy mẹ được biết “ba” là hạ sĩ quan nên không bị đi cải tạo. Mẹ vui mừng cầm tờ giấy ghi địa chỉ của “ba” lòng khấp khởi hân hoan trước viễn ảnh đoàn tụ hạnh phúc. Nhưng khi mẹ đến nơi thì mới biết ba đã có người đàn bà khác… Đó là tất cả những gì tôi biết được qua cậu Tính. - Rồi sau đó thì sao hả cậu!!! Cậu chỉ chiếc hộp rồi xoa đầu tôi: - Câu trả lời nằm trong chiếc hộp đó. *** Khoảng thời gian sau đó tôi cố tình né tránh dù ông ấy tìm đủ mọi cách để gặp tôi. Dĩ nhiên tôi không bao giờ bắt điện thoại, dù ông gọi nhiều lượt mỗi ngày. Và cũng vì chuyện này mà tôi giận cậu Tính mấy tuần. Tôi gay gắt hỏi cậu, sao chưa hỏi con mà cậu đã cho số điện thoại, cậu biết con không muốn liên lạc với ông ấy mà! Cậu Tính trách tôi sau quá cứng lòng, chuyện xảy ra đã mấy mươi năm, nếu tha thứ được thì hãy tha thứ để hai bên đều được nhẹ lòng. Tôi không biết nói sao để cậu Tính hiểu, vì chính tôi cũng không biết rõ tâm trạng của mình. Hận ông? Cũng không hẳn. Vì dù không có cha, nhưng mẹ, bà ngoại, các dì, các cậu yêu chìêu tôi như trứng mỏng, nên tôi không hề có cảm giác thiếu thốn và khao khát tình thương. Ghét ông? Hình như … không đúng. Vì những éo le, cay đắng của mối tình ngắn ngủi giữa mẹ và ông ấy thì chỉ có người trong cuộc mới hiểu được. Còn trước mắt tôi, mẹ không hề vật vã khổ đau mà bà sống rất bình thản với nụ cười hiền từ và bao dung luôn nở trên môi. Có lẽ chính cái điều mập mờ không rõ rệt trong lòng tôi đã tạo nên một khoảng cách. Cái khoảng cách vô hình đó làm tôi ngại ngần khi đứng trước mặt ông ấy. Tôi sợ phải nghe những lời giải thích mà tôi không hoàn toàn tin tưởng. Tôi sợ phải trả lời. Những câu trả lời đôi khi không thật với lòng mình vì lý do tế nhị hoặc những câu trả lời gây đau đớn cho ông vì sự ngổ ngáo của tôi. Nhưng lý do chính xác nhất khi tôi quyết định không mở chiếc hộp -kỷ vật của mẹ- là tôi không muốn đối diện với sự thật. Có thể tôi là một đứa con ích kỷ, không muốn chia sẻ với mẹ những buồn đau mất mát mà người đã gánh chịu. Nhưng quả thật, tôi là một đứa con gái yếu đuối, thiếu ý chí và sự can đảm để đối diện và ứng phó với những biến cố xảy ra cho mình. Tôi bằng lòng với những gì tôi đang có. Tôi không muốn khơi dậy cái quá khứ không toàn màu hồng của tôi bằng sự chấp nhận ông bước vào cuộc đời tôi. Tuy là vậy nhưng lòng tôi không khỏi bứt rứt vì sự tha thiết của ông và sự lạnh lùng gần như vô cảm của tôi. Nhiều khi tôi ao ước mình giống như nhân vật trong vở tuồng cải lương, khi được ai đó cho biết đây là cha của con thì cô gái chạy bay về phía người cha giang rộng hai tay, miệng mếu máo kêu lên cha, rồi nói những câu đầy yêu thương nhung nhớ. Những cảnh ấy làm cho tôi buồn cười nhiều hơn là cảm động. Khi nghe tôi nói vậy cậu Tính trầm ngâm một lúc rồi nói - chẳng biết là thật hay đùa- chắc con cũng nên tập diễn như thế cho đời ba con bớt khổ. *** Tôi còn đang loay hoay chưa biết phải xử sự với ông ấy thế nào cho đúng thì bỗng một ngày… Vừa bước vào nhà hàng -nơi tôi thường xuyên ăn trưa- một người đàn bà tiến đến, xin phép ngồi cùng bàn với tôi. Tôi miễn cưỡng gât đầu và sau cái gật đầu là giật mình khi nghe bà gọi đúng tên tôi. - Kim Giao khỏe không? Nhìn ánh mắt ngỡ ngàng của tôi bà nhẹ nhàng nói: - Cô xin phép được tự giới thiệu, cô là…. người nhà của ba con! Bỗng dưng tôi cảm thấy khó chịu nên ngồi thẳng người lên: - Xin lỗi, tôi không có ba! Bà dịu dàng nhìn tôi với một nụ cười. Nụ cười hiền từ, bao dung trên môi bà sao giống mẹ tôi lạ lùng. Chính nụ cười ấy đã giữ chân tôi lại, dù tôi đã có ý định đứng lên khi nói xong câu nói ấy bằng giọng lạnh lùng. - Những gì đã xảy ra cho mẹ con thật đáng buồn… Cô không có ý nói rằng ba con không có lỗi, nhưng thời buổi chiến tranh loạn lạc khiến người ta không thể làm được điều mình muốn… Ba con rất ân hận. Ông đã cố công tìm kiếm con mấy mươi năm. - Con cái của ông bà đâu mà phải đi tìm một đứa con rơi như tôi. Bà lặng thinh một lúc rồi ngước mắt nhìn tôi. Vẫn còn đó nụ cười trên môi bà nhưng cái nhìn thì như chứa đựng rất nhiều điều u uẩn. - Chúng tôi không có con! Tôi nghiêng đầu nhìn bà, không cố ý mà lời nói buông ra như hờn, như trách: - Chắc là khi cô không sinh đẻ được ông ấy mới chợt nghĩ đến tôi mà ân hận. Nếu không thì tôi sẽ mãi mãi là đứa con không bao giờ biết cha mình là ai. Nụ cười tắt ngang. Môi bà mím lại. Đôi mắt long lanh ánh nước. Tôi chợt ân hận, lúng túng đứng lên, đến quầy trả tiền tô phở vừa mang ra rồi đi thẳng ra cửa. Tôi biết chắc phía sau mình có một đôi mắt thất vọng nhìn theo. Lòng tôi bất ổn suốt buổi chiều hôm đó. Không phải vì ông ấy. Không phải vì tôi. Mà vì người đàn bà. Tại sao bà ấy không hờn ghen, ganh tỵ với đứa con riêng của chồng mà lại cố gắng thuyết phục tôi và hết lời biện minh cho ông ấy. Hai ngày sau bà lại tìm gặp tôi. Vẫn với nụ cười hiền từ, bao dung bà không nói gì chỉ đặt vào tay tôi một bức thư rồi lặng lẽ bước đi. Lá thư với những lời lẽ van nài thật thiết tha, cảm động. Bà xin tôi hãy mở lòng đến gặp ông ấy một lần, vì có thể ông ấy sẽ ra đi bất cứ lúc nào vì căn bệnh nan y đang thời kỳ cuối. Đọc thư xong tôi cười ha hả: - Cậu Tính ơi! sao chuyện đời con giống vở tuồng cải lương gì… gì đó. Chắc ngày đi nhận cha, con phải xuống một câu vọng cổ, còn cậu thì nhớ phựt đèn màu nha. Công nhận bà này đóng vai người vợ cao thượng hay thiệt. Cậu Tính nhìn tôi nghiêm nghị: - Cậu ngạc nhiên về con, mỗi lần xem phim tình cảm con đều rơi lệ, sao bây giờ lại có thể thản nhiên như vậy? Tôi nhìn cậu Tính bằng cái nhìn khó hiểu. - Ủa! chứ không phải vì hai người ấy mà mẹ con phải khổ sao? Cậu mới là người làm cho con ngạc nhiên đó! Tôi tiu nghỉu đi vào phòng tự hỏi có thật là mình là kẻ vô tâm. Ngồi xuống giường tôi mở lá thư ra đọc lại. Những dòng chữ trong lá thư như rõ nét hơn, cũng lời thư tôi đã đọc qua nhưng bây giờ như tha thiết hơn với những lời tâm sự . “ Cô gặp ba con vào những ngày cuối tháng 4 trên đường di tản vào Saigon. Gia đình cô gồm có ba má cô và hai đứa em nhưng theo dòng người xô đẩy chen lấn và những lần phải tìm chỗ ẩn nấp vì đạn pháo kích đã lạc mất nhau. Một mình cô, người con gái mười bảy tuổi trôi dạt trên quãng đường đầy gian nan với bao cảnh chết chóc, cướp bóc. Và cô đã không thoát khỏi thảm cảnh đó. Nhưng ngay lúc cô bị kẻ xấu lôi vào bụi rậm trên khoảng đường vắng vẻ thì ba con, người lính quốc gia đang tìm đường tháo chạy đã xuất hiện kịp lúc để giải cứu cho cô. Từ đó, cô bám lấy ba con như bám vào một vị thần độ mạng. Để rồi, người con gái côi cút là cô vô tình trở thành một duyên cớ khiến mẹ con bỏ đi khi vừa gặp mặt ba con…” Nỗi thắc mắc lớn dần theo câu chuyện bỏ lững nơi đó buộc tôi phải tìm đọc những trang nhật ký nhòe nhẹt nước mắt của mẹ. “Em trở về nhà bằng những bước chân không hồn. Bao nhiêu ước mơ. Bao nhiêu hy vọng. Bao nhiêu náo nức chờ đợi đã vỡ toang. Còn lại đây là nỗi đau xé lòng. Cũng không biết bằng cách nào em có thể trở về nhà sau khi nhìn thấy người đàn bà từ buồng trong bước ra bấu vai anh hỏi nhỏ, ai vậy anh? Anh bối rối nhìn em, rồi nhìn đứa con bé bỏng trên tay em. Em tự hỏi, sao lúc đó em không nhìn thẳng vào mắt người đàn bà đó và nói thật nhẹ nhàng, tôi là ai không quan trọng, quan trọng là đứa bé này, con gái đầu lòng của anh Thắng. Nhưng em đã không làm như thế mà hối hả quay lưng bước đi để dấu những giọt nước mắt bẽ bàng đang lăn dài trên má. Em không biết sau lưng em anh sẽ nói gì với người đàn bà của anh? vợ của người bạn đã chết hay một người đàn bà tội nghiệp muốn tìm chỗ ẩn náu qua đêm…” Suốt đêm đó tôi không chợp mắt được dù là một phút với những suy tư không dứt. Hai người đàn bà hai số phận. Nếu như tôi không có mặt trong cuộc đời của mẹ thì chắc hẳn mẹ tôi đã có được một tấm chồng xứng đáng để hưởng hạnh phúc đến cuối đời. Nếu người đàn bà ấy có khả năng sinh con thì có lẽ bà cũng chẳng cần phải cầu cạnh để xin tôi ban cho chồng bà một tiếng gọi “ba” cho ông an lòng trước khi nhắm mắt. Cuộc đời là những khổ ải triền miên như thế sao? Tôi nghe lòng mình chùng xuống với nỗi buồn mênh mông. *** Cuối cùng tôi đã bằng lòng đi cùng cậu Tính vào bệnh viện để thăm người đàn ông ấy. Trên đường đi cậu Tính nói với tôi: - Cậu không biết con đang nghĩ gì nhưng cậu muốn nói với con một điều, cho dù trong lòng con không có chút tình cảm nào thì cũng đừng nên tiếc một tiếng “ba” với ông ấy. Tôi phì cười: - Ừa! cứ y như mình đang đóng kịch vậy cậu Tính há! Cậu Tính quay sang nhìn tôi không một nụ cười. Tôi bắt đầu nổi quạu: - Trời ơi! ai dạy con phải sống thật với lòng mình mà bây giờ cậu muốn con phải dối trá. - Không phải là dối trá mà là nhân đạo. Từng tuổi này… trải qua biết bao biến cố trong cuộc đời, cuối cùng cậu nhận ra một điều… những gì có thể tha thứ được thì mình nên tha thứ, những gì có thể buông bỏ được thì nên buông bỏ cho tâm hồn được thảnh thơi. Đó là đức bác ái đó, con biết không? Tôi hậm hực quay đi: - Cậu tu đắc đạo rồi chứ con thì chưa. Ước gì ngay lúc đó xe ngừng lại chờ đèn đỏ để tôi mở cửa lao xuống đường, chạy mất hút vào một con hẻm nhỏ nào đó cho đỡ tức. Tôi hít một hơi thật mạnh trước khi bước vào phòng 504. Người đàn bà đang ngủ gật trên ghế sofa chợt giật mình. Thấy tôi, mắt bà tròn lên đầy kinh ngạc rồi mừng rỡ bà chạy đến ôm chầm lấy tôi, hai bàn tay bối rối nắm tay tôi bằng tất cả sự xúc động và cảm kích. Nước mắt ràn rụa trên khuôn mặt tiều tụy, bà kéo tôi đến bên giường nói khẽ: - Anh ơi! Kim Giao đến thăm anh nè! Người đàn ông he hé đôi mắt đã mất nét tinh anh. Bà gật đầu nhìn tôi bằng cái nhìn tha thiết, van lơn. Tôi bối rối nhìn lên trần nhà. Dù cũng muốn làm điều bà đang chờ đợi, nhưng trong lòng tôi không hề có chút cảm xúc khi đứng trước mặt ông ấy. Tôi cũng lạ lùng với chính mình. Tôi không giận, không ghét ông, nhưng sao một chút tình cảm cỏn con dành cho ông tôi vẫn không có được. Bà đưa tay xoa nhẹ vai tôi, nụ cười không còn tươi tắn như lần tôi đã gặp bà nhưng vẫn là nụ cười hiền từ và bao dung của mẹ tôi. Tự dưng tôi thấy lòng mình nhẹ hẫng. Tôi nhìn bà bằng đôi mắt trìu mến và tiếng kêu bật lên từ mong muốn mang niềm vui đến cho bà. - Ba!!! Bà bật khóc trong tiếng nói đứt nghẹn: - Anh ơi! con nó gọi ba kìa… anh có nghe không? Tôi quay đi để bà đừng nhận biết tôi gọi tiếng “ba” là vì bà, vì nụ cười giống mẹ tôi chứ không phải vì người đàn ông mà tôi phải gọi bằng ba Ngân Bình |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 05/Oct/2019 lúc 8:03am |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 07/Oct/2019 lúc 3:42pm |
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 11/Oct/2019 lúc 6:53am |
SỰ-THẬT và DỐI TRÁChuyện: Nàng “Sự-Thật” và nàng “Dối-Trá” Sự-Thật thấy, đúng như lời Dối-Trá, Dối-Trá bảo: - “Này bạn ơi, dừng bước,
Tranh “The Truth Coming Out Of Her Well” của Jean Leon Gerome Cảnh trước mắt, đúng như lời Dối-Trá, Nhanh như chớp, cướp bộ đồ lộng lẫy Thân trần truồng, bị mọi người khinh dể, Lời gian sảo, đến vô cùng sống sượng, Jean Leon Gerome (*) vẽ bức tranh nổi tiếng: Trần Quốc Bảo Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 11/Oct/2019 lúc 6:54am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 17/Oct/2019 lúc 6:53am |
Sai Lầm Của Chúng Ta Là Nổi Nóng Với Người Thân Nhưng Lại Khoan Dung Với Người LạSai lầm lớn nhất của chúng ta chính là dễ dàng nổi nóng với người thân, nhưng lại kiên nhẫn và khoan dung với người xa lạ…
Một người bạn kể cho tôi câu chuyện anh vừa trải qua:
“Anh
biết không, tôi dùng tất cả những gì mình có, từ khả năng, vật chất,
cho đến tiền tài để giúp đỡ cậu bạn thân đang gặp rắc rối. Nhưng kết quả
thì… anh đoán xem cuối cùng thế nào? Một lời cảm ơn cũng không có! Thế
mà anh ta còn nói đùa với tôi rằng hãy làm nhiều thêm một chút. Tốt xấu
gì cũng là do tôi bỏ tiền túi, vận dụng các mối quan hệ quen biết, hết
sức mình giúp đỡ anh ta. Tôi không cầu mong anh ta phải mang ơn, nhưng
ít nhất cũng phải nói một câu cảm kích chứ!”.
Tôi
an ủi anh bạn: “Có thể với cậu ấy anh là người quá thân thiết, nói lời
cảm ơn thì dường như khách khí. Chẳng phải cậu ta đã nói đùa là anh hãy
giúp lâu hơn chút nữa sao?”.
Chúng
ta cũng vậy, rất dễ dàng phạm phải sai lầm tương tự: Đối xử với người
ngoài thì cung kính, còn đối với thân nhân thì lại quá hà khắc. Chúng ta
thường hay thể hiện phần bản tính xấu nhất trước mặt người thân thiết
của mình.
Ví
như những lúc tâm trạng không tốt, chúng ta có thể trút giận lên anh
chị em thậm chí cả cha mẹ. Những lúc nghe cha mẹ nhắc nhở, chúng ta lại
không ngừng oán trách phàn nàn, thậm chí lời nói ra cũng thiếu đi vài
phần tôn kính. Nào là “Ba mẹ nói nhiều, con không chịu được nữa”, nào là “Cứ để con làm theo ý của con, ba mẹ nói nhiều quá con không chịu được”... Những lời nói vô tình của ta khiến cha mẹ đau lòng, cũng khiến bản thân lại mang tội bất hiếu.
Cha
mẹ đã phải cực nhọc vất vả để nuôi dưỡng chúng ta khôn lớn thành người.
Nhưng chúng ta thì sao? Những lúc cha vì chúng ta mà rong ruổi mưu
sinh, còn mẹ vì chúng ta mà tận tình chăm sóc, có bao giờ chúng ta nói
một câu “Cám ơn cha mẹ, cha mẹ cực khổ quá rồi”? Hay chỉ là những lời
than phiền trách cứ: “Con không thích cha chạy xe ôm, không thích cha
làm phu hồ!”, “Thức ăn mẹ xào mặn lắm, con chẳng thể nuốt trôi”… Có khi
nào chúng ta thử nghĩ một chút, rằng nghe những lời than phiền ấy cha mẹ
có đau lòng hay không?
“Vạn cổ tình thâm ơn cúc dục
Thiên thu nghĩa trọng đức sinh thành”
Sai
lầm lớn nhất của chúng ta chính là thể hiện bản tính tồi tệ nhất và mặt
xấu nhất trước mặt người thân quen, nhưng lại dành sự kiên nhẫn và bao
dung cho những người xa lạ.
Khi
đối đãi với người thân thiết, chúng ta thường hành động theo thói quen
dưỡng thành tự nhiên: Chẳng biết lễ phép, không dịu dàng hòa nhã, quên
mất phải kính trên nhường dưới. Nếu không phải là kêu la om sòm, không
ngừng trách móc, thì cũng là lơ đãng chẳng quan tâm, ngó lơ chẳng trả
lời.
Cũng
bởi vì quan niệm rằng người thân vốn đã quá quen thuộc, nên chúng ta
quên mất phải lễ phép lịch sự, để rồi dần dần mất đi sự kiên nhẫn, khoan
dung và tôn trọng.
Muốn thương yêu, đầu tiên phải thấu hiểu
Khi
con đã trưởng thành, nhiều bậc cha mẹ lựa chọn sống tách biệt với con
cái. Lý do là vì họ sợ gặp phải mâu thuẫn, sợ rằng con cái quay ra dạy
bảo chỉ dẫn họ đủ điều. Hai thế hệ luôn có quan điểm và cách sống khác
nhau.
Trong
gia đình thường xảy ra sự bất đồng giữa cha mẹ và con cái. Nhẹ thì
trách móc, hậm hực, nặng thì bất mãn, không nhìn mặt nhau. Hiển nhiên
cha mẹ nào cũng muốn con cái được hạnh phúc, và ngược lại, có đứa con
nào lại không mong cha mẹ hạnh phúc? Ấy vậy mà hai bên lại gây khổ cho
nhau!
Tại
sao cha mẹ không hiểu con? Tại sao con không theo ý cha mẹ? Cũng bởi vì
cả hai bên không thể thấu hiểu nhau mà cứ cố tình đưa cho người kia thứ
mình cho là đúng.
Có
một cặp vợ chồng cao niên, mặc dù con cái họ vô cùng hiếu thảo, mỗi
tháng đều chu đáo gửi tiền phụng dưỡng, nhưng ông bà vẫn kiên quyết
không sống cùng các con.
Hai
ông bà nói: Người già không thể sống cùng với những người trẻ hiện đại
vì cả hai bên đều có lối sống khác nhau. Ở cùng một chỗ sẽ chỉ phiền
toái đôi bên, tốt hơn hết là nên ở riêng, thoải mái không bị ai ràng
buộc.
Ông
lão kể rằng, các con đều đối xử với ông rất tốt, cũng rất hiếu thuận.
Nhưng khi ở trước mặt chúng ông cảm thấy mình như đứa trẻ mắc phải sai
lầm nào đó. Ông sợ rằng chúng xem ông bà như con trẻ mà quay ngược lại
giáo dục mình:
– Sao cha không đánh răng trước khi đi ngủ, miệng của cha sẽ mùi lắm.
– Sao cha không thích tắm, cổ áo đều bị đen dơ thế này.
– Người già không nên ăn quá nhiều thịt và đồ ngọt, dễ mắc bệnh.
– Sao cha mẹ lại chăm cháu theo cách đó, như thế là không đúng, phải như vầy, như vầy…
Cha
mẹ nào cũng hy vọng được con cái thể hiện tình yêu thương. Nhưng đôi
khi con cái vì quá thân quen mà đánh mất đi sự tôn trọng và lòng kiên
nhẫn, quên đi tâm trạng và lòng tự ái của cha mẹ mình.
Người
cao tuổi rất khát khao tình cảm, ai chẳng muốn con cháu quây quần ríu
rít. Nhưng ngoài những khoản chu cấp về vật chất, họ còn mong muốn được
tôn trọng. Họ hồi tưởng con mình của ngày xưa, ngây thơ vui vẻ mà nắm
lấy vạt áo họ không muốn rời. Trong mắt cha mẹ con dù có trưởng thành
đến đâu cũng vẫn là đứa trẻ, vậy nên bản năng bảo vệ con cái của cha mẹ
vẫn rất mãnh liệt, sợ rằng không có mình thì con cái sẽ lầm đường, sẽ
lạc lối.
Vì
sao chúng ta không thể kiên nhẫn với người thân của mình? Là bởi vì
chúng ta cho rằng người thân thiết nhất sẽ chẳng bao giờ rời bỏ mình mà
đi. Cho dù chúng ta có phạm sai lầm, và dù có làm họ tức giận, họ cũng
sẽ không bao giờ trách tội chúng ta.
Lúc
còn bé, cha mẹ nói gì chúng ta đều cho là đúng, mỗi người con đều tin
rằng cha mẹ là toàn năng, không gì không làm được. Đến khi trưởng thành,
ta mới phát hiện thì ra cha mẹ cũng chỉ là người bình thường, cũng có
lúc phạm sai lầm, có những chuyện lực bất tòng tâm. Thế rồi những mộng
tưởng tan tành và sụp đổ, kèm theo đó là sự nổi loạn bên trong chính
chúng ta. Nhưng rồi theo thời gian, không biết từ khi nào chúng ta không
còn đối chọi với cha mẹ nữa, thậm chí còn thấy thương tâm khi nhận ra
rằng cha mẹ đã già rồi, cũng cần người chăm sóc. Lúc ấy trong lòng mỗi
người đều cảm thấy day dứt, ý thức trách nhiệm cũng được nâng cao.
“Có phải cha mẹ hứa nhau từ kiếp trước
Tạc lại hình con nguyên vẹn trái tim người”
Tình
cảm thật sự rất mong manh, bất kể là tình thân, tình bạn bè, tình yêu
hay là hôn nhân đều rất mong manh dễ vỡ. Đừng đợi cho đến khi có vết nứt
thì mới bắt đầu hàn gắn, bởi một khi đã xuất hiện vết nứt thì dù cho
bạn có làm bất kì điều gì cũng khó mà khôi phục trở lại hình dáng ban
đầu.
Ngay
cả những người thân thiết nhất, nếu như chúng ta có những lời nói vô
tình hay hành động thiếu tôn trọng cũng sẽ dễ làm họ bị tổn thương.
Thế
nên, dù như thế nào, thì hãy tinh tế, cẩn trọng trong lời nói và hành
động của bản thân mà chăm sóc yêu thương họ nhiều hơn. Đây không chỉ là
cách thể hiện sự trân trọng người thân yêu mà cũng là cách đối nhân xử
thế của một người trưởng thành chân chính. st.
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 19/Oct/2019 lúc 6:46am |
Ba bữa sau, cơm tối xong ông bà
kêu thiếm hai lên nhà trên nói chuyện. Thiếm hồi hộp run như người bị
sốt rét. Ông Hội nói xưa nay vẫn coi mấy mẹ con thiếm như người trong
gia đình. Bây giờ chuyện này xảy ra hoàn toàn ngoài ý muốn của mọi
người. Đứa trẻ trong bụng con Lụa tuy là máu mủ của cậu út, nhưng vì
hạnh phúc của cậu, ông đành phải hy sinh. Ông sẽ cho mấy mẹ con thiếm
một số tiền lớn với điều kiện đi xứ khác làm ăn và tuyệt đối phải giữ
kín chuyện này. Sức
khỏe Hào từ từ bình phục lại. Hai vợ chồng ráng quên đi chuyện đau buồn
để sống vui như trước. Nhưng thật quái lạ, dù có cố gắng cách mấy Hào
vẫn không thể làm tròn phận sự của người chồng trong chuyện gối chăn.
Ban đầu cả hai cho rằng tại Hào còn yếu, từ từ rồi đâu sẽ vô đó. Nhưng
ngày tháng trôi qua, tình hình vẫn không có gì thay đổi. Ban đầu Thu
Thảo còn an ủi chồng, lâu ngày chính nàng đâm ra chán nản. Nàng còn trẻ,
cơ thể dạt dào nhựa sống. Đêm đêm bị hôn hít, vuốt ve, kích thích đến
cực diểm rồi bị... buông xuôi, Thu Thảo bực tức có lần không kìm hãm
được đã nói thẳng vào mặt Hào: Thu Thảo vắng nhà thường hơn. Đi
chơi với bạn bè. Đôi khi ngủ luôn nhà ba má ruột. Buồn chán Hào đâm ra
uống rượu. Thường thường phải say nhừ mới ngủ được. Hai vợ chồng ít khi
gặp mặt. Mà gặp nhau là gấu ó. Nhất là sau khi Hào biết được lúc này Thu
Thảo hay đi chơi, ăn uống với người bạn trai xưa, trước khi nàng thành
hôn với Ôâng Dược Sư Nguyễn Phú Hào từ Pháp về! Hai bên gia đình đã biết
chuyện. Ông bà Bác Sĩ Đương tuy rất thương Hào, nhưng còn thương con họ
hơn. Ông Bà Hội buồn lắm. Bà đã khóc cạn hồ nước mắt của một người mẹ.
Họ tự trách đã nhẫn tâm để mẹ con Lụa ra đi. Chắc là trời quả báo! Ông
bà cho người lên Nam Vang kiếm. Nhưng chim trời cá nước, biết đâu mà
tìm? Tính lại đứa cháu nội của ông bà bây giờ đã gần ba tuổi. Không biết
nó sống hay chết. Sướng hay khổ. Đầu óc bà rối nùi với những câu hỏi
không có lời giải đáp. Hào đổi chiến thuật. Không gặp Lụa mà gặp thẳng
thiếm hai Nhiên. Chàng lái xe tới đậu cách nhà Lụa độ trăm thước, rồi
ngồi chờ Lụa lên xích lô xong mới xuống xe, tới trước cổng bấm chuông.
Thấy mặt Hào thiếm hai như người từ cung trăng rớt xuống. Thiếm há hốc
miệng ngó chàng trân trân. Lúc Hào gọi thiếm hai bà mới giựt mình, kêu
lên thảng thốt: Hào nghe xong bồi hồi cảm động rồi cũng đem chuyện mình kể hết cho thiếm hai nghe. Chàng nói với thiếm gia đình chàng coi như đã tan nát. Sớm muộn gì Hào cũng phải trả tự do cho Thu Thảo, để cô ta làm lại cuộc đời. Trước đây không biết thì thôi, bây giờ mọi chuyện đã ra ánh sáng, chàng phải gánh trách nhiệm với mẹ con Lụa. Giọt máu của chàng không thể là một đứa con không cha. Tuy trong bụng mừng rỡ, nhưng thiếm hai còn e dè nói sợ ông bà Hội không đồng ý. Hào vội vàng trấn an thiếm. Chàng chua chát nói với tình trạng sức khỏe của chàng bây giờ, để có được thằng cháu trai nối dòng, Ôg Bà Hội chắc chắn sẽ sẳn sàng xóa bỏ... ranh giới! Điều tha thiết nhứt của chàng bây giờ là được gặp và săn sóc cho Lụa với thằng Hiệp thường xuyên, để chuộc phần nào lỗi lầm xưa kia... Hào với thiếm hai còn chuyện trò rất lâu, nhắc nhở bao nhiêu là kỷ niệm. Thiệt ra trước kia thiếm cho Hào là thứ vô tình bạc nghiã. Hóa ra chàng chẳng hay biết gì cả, nên bây giờ thiếm đã hết giận. Còn hứa sẽ năn nỉ Lụa dùm cho chàng. Trong khi hai người lớn nói chuyện, thằng cu Hiệp cứ nhìn Hào lom lom. Rồi có lẽ cảm thấy ông khách lạ này cũng có nét... quen quen, nên cu cậu không phản đối để yên cho ông ta hôn lên trán trước khi giã từ. Hào sung sướng đến nỗi không ngủ được. Mỗi lần nhớ tới gương mặt thằng cu Hiệp là lòng chàng lại rộn lên một niềm vui khó tả. Hôm sau Hào trở lại nhà Lụa trước khi cô từ chợ về. Cu Hiệp reo vui khi thấy mấy món đồ chơi mắc tiền Hào đem tới cho nó. Thiếm hai mời cậu út ở lại ăn cơm chiều luôn. Lúc Lụa mở cửa bước vô nhà, nàng không tin ở cặp mắt mình: Cu Hiệp và Hào đang quì dưới gạch trong phòng khách chơi xe lửa. Thằng cu cười khanh khách khi thấy mấy chiếc wagoong nhỏ xíu chạy xoành xoạch trên đường rầy. Hào nhìn nó với ánh mắt chan chứa yêu thương. Lòng Lụa chợt nhói lên. Không cho cha con họ nhìn nhau thì trái với lương tâm. Nhưng giữa Lụa và Hào thì không thể nào được! Bữa cơm diễn ra trong bầu không khí không được thoải mái lắm! Lụa im lặng ăn. Hào khen lâu lắm mới được ăn lại món canh chua cá lóc và cá rô kho tộ ngon tuyệt của thiếm hai. May mà còn có cu Hiệp nói luôn miệng về mấy món đồ chơi của nó, nên mọi người mới không bị... nghẹt thở! Ăn xong, Hào ngồi lại một chút rồi cáo từ. Từ đó cứ cách một hai bữa chàng lại tới thăm họ. Hào áp dụng chiến dịch trường kỳ kháng chiến. Cu Hiệp được bác Hào chìu chuộng và cho vô số đồ chơi thì thích lắm . Hôm nào vắng mặt, nó nhắc bác Hào liền miệng làm Lụa muốn điên luôn. Ờ mà lạ chưa, vắng cậu út tự nhiên nàng cũng thấy... nhơ nhớ, buồn buồn! Chuyện gì đây??? Từ từ thấy cu Hiệp quấn quít và Lụa
cũng bớt lạnh nhạt với mình Hào rất phấn khởi. Hôm Trung thu, chàng tới
sớm với cái đèn con cá và một hộp bánh nướng. Cu Hiệp nhảy lên ôm hôn
bác Hào cái chụt, cám ơn bác cho cái đèn. Thấy cảnh đó Lụa nao nao muốn
khóc. Thiếm hai có ý bày cái bàn nhỏ ra sân ăn bánh, ngắm trăng. Cu Hiệp
cầm đèn đi quanh sân miệng bi bô hát. Trên cao vầng nguyệt bạch tròn
lồng lộng, tỏa ánh sáng dịu mát xuống khắp nơi. Tự nhiên Hào buột miệng
nói với Lụa: Anh có cảm giác như mình là một gia đình rất đầm ấm. Lụa
không trả lời chỉ mủm mỉm cười đưa mắt nhìn theo cu Hiệp. Thiếm hai lấy
cớ pha thêm trà đứng lên đi vô nhà. Hào mạnh dạn nắm bàn tay mềm mại của
Lụa bóp nhẹ, giọng buồn buồn: TIỂU-THU |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 21/Oct/2019 lúc 11:06am |
Ngọn Đèn Trước Gió
Bà Hai lấy khăn thấm những giọt nước mắt chảy dài trên khuôn mặt già nua, khắc khổ khi người con dâu trưởng buông tiếng: Nói rồi, con dâu ngoe nguẩy bỏ đi, Bà nghe nghèn nghẹn. Trong ngôi nhà này, chỗ nào bà cũng là người thừa thãi, bà cầm lấy cây gậy đứng lên vẻ mệt nhọc, rồi bước lần ra cửa sau, đây chính là không gian của bà. Đưa mắt nhìn mấy trái mướp lủng lẳng trên giàn, bà chạnh nhớ quê hương xứ sở, giàn mướp nho nhỏ nơi xứ lạ quê người đã gợi lên biết bao nỗi nhớ nhung sâu thẳm. Bà nhớ mấy con ong bầu vo ve trên những nhụy bông vàng rực, nhớ những đọt mướp xanh mướt cho bà một dĩa rau luộc ngọt ngào trong những bữa cơm đạm bạc, nhớ ông Hai đứng trên bờ kinh chài những con cá chạch, cá bóng dừa bà mang về kho tiêu ngọt ngọt, mặn mặn trong khi thằng Hiếu, thằng Thảo leo trèo tuột lên tuột xuống cây chùm ruột ngọt, cười đùa vang cả một góc vườn.
Mùa
hè bà mới ra đây ngồi, suy ngẩm về quá khứ, từng thời gian rồi từng
thời gian lần lượt đi qua trong tâm trí, mảnh vườn của ông bà ngoại
thằng Hiếu để lại cho bà, vợ chồng nó cũng bán đi để mua vàng vượt biên,
bà đau lòng lắm nhưng không giải quyết được gì, bà không muốn rời xa
nơi chôn nhau cắt rún, rời xa kỷ niệm, lúc bà còn là một cô thôn nữ nổi
tiếng cấy lúa giỏi ở Xã Tân Hòa, Gò Công . Bà chuyên cấy lúa cho đám
ruộng của ông bà Tuần Phủ, còn ông Hai nhổ mạ bên ruộng của ông Thôn
Hào, hai thửa ruộng gíáp ranh nhau, có bửa ông Hai thấy bà ra ruộng sớm,
ông bèn cất tiếng hò:
Bà Hai thương con dâu như con ruột, nhưng cô con dâu đó không thương bà mà chỉ biết lo cho gia đình cha mẹ ruột, không ngó ngàng gì đến bà con thân thuộc bên chồng, có lẽ mình không có phần nhờ dâu, bà tự an ủi như vậy. Nhìn lên bàn thờ, ông Hai ngồi chiểm chệ trên bộ ghế giữa, mặc áo dài khăn đống, hình chụp lúc đám cưới thằng Hiếu, lo đám cưới cho con xong, một tháng sau ông ngã bệnh, rồi theo ông bà về bên kia thế giới luôn, bà buồn rầu ốm o gầy mòn, ít cười ít nói, vài tháng sau vợ chồng thằng Hiếu đòi bán đất bán vườn để vượt biên. Bà không muốn đi vì còn mồ mả ông bà tổ tiên phải bám víu, vợ chồng nhất định đòi bán cho bằng được, sau cùng bà cũng phải chìu theo, bởi bà thương con và cũng sợ ở lại một mình, bệnh đau không người thang thuốc, bà cũng muốn biết tin của thằng Thảo, nó đang tắm sông rồi chiếc tàu nào đó cặp bến cây mù-u xin nước rồi vớt nó đi mất, bà không thể nói lên được nỗi lòng của một người mẹ mất con, bà mất ăn mất ngủ ra vào như người không hồn kể từ lúc đó. Vợ chồng thằng Hiếu hối thúc, viện đủ lý do, bà lo âu, đi thì không đành mà ở cũng không được, rồi bà chấp nhận sự ra đi một cách miễn cưỡng. Tàu cặp bến mù-u để đón những người vượt biên, bà bước xuống tàu vào một đêm ba mươi tối trời, ai cũng vội vã cuống quýt, duy chỉ có bà là điềm tỉnh, nhìn những hàng cây mù-u quen thuộc, đang xa dần dưới ánh sáng lờ mờ của những vì sao - vĩnh biệt mảnh đất quê nhà - bà chép miệng thở dài. Gần nửa tháng trời lênh đênh trên biển, cuối cùng tàu cặp bến đảo Bidong, Malaysia. Có lẽ ông Hai dẫn dắt cho thằng Thảo gặp lại bà trên đảo để mẹ con trùng phùng. Bà không cầm nổi nước mắt khi gặp lại thằng con trai sau bao năm trời cách biệt. Thằng Thảo bây giờ là một thanh niên cao lớn, lực lưỡng, có cái giọng cười giống hệt tía nó, nhớ ngày nào nó ra sông lội bì bõm, bơi theo mấy vạt lục bình để hái mấy chùm bông màu tim tím, chạy một mạch về nhà rồi băng qua mấy liếp hành sang nhà con Mận mà cho mấy cái bông, cái thằng mới bây lớn mà đã biết lấy lòng phụ nữ.
Sang
Mỹ, thằng Thảo là một đứa lanh lợi, tháo vác, nó mua nhà rồi có vợ có
con, cuộc sống ổn định và có phần khá giả, chấm dứt cảnh vác chài mang
đục đi hết bờ kinh này đến con rạch nọ để chài cá, không còn quanh quẩn
mấy cây mù-u hái trái về chọi lộn với thằng Chơn thằng Chất con chú sáu
Mẹo. Con bà mau lớn nên người, bà rất vừa lòng, duy chỉ có cô con dâu,
sanh đẻ ở Mỹ, nói tiếng Việt không rỏ ràng, coi thường mẹ chồng, bà muốn
sang thăm cháu nội, nhưng cô con dâu không thích bà đến nhà, có lẽ
thấy bà già nua, quê mùa, bệnh hoạn, nay ốm mai đau, lại thêm cái bệnh
ho mãn tính, có lần bà chống gậy sang chơi, mấy đứa cháu ở trên lầu mà
con dâu không cho xuống, bà hỏi thì được trả lời:
Cô
con dâu nói giọng lơ lớ tiếng mẹ đẻ không rành, bà lấy làm khó chịu.
Tuy bà không gần gũi hai đứa cháu nội nhưng bà thương chúng nó vô cùng.
bà muốn kể cho bọn trẻ biết về nguồn gốc của chúng nó, về đất Gò Công
nước mặn, nơi tổ tiên ba đời sinh sống từ Xã Tân Hòa đến biển Tân Thành,
bà muốn nói nhà ông bà nội của các cháu nằm ven con sông nhỏ, sau hè có
cây chùm ruột ngọt mà mấy đứa nhỏ hàng xóm đứa nào cũng thích leo trèo
hái trái, trong đó có thằng Thảo, cha của các cháu đã từng bị con ong vò
vẽ chích tuột xuống không kịp, ôm đầu la làng, nhà ông bà nội các cháu
có cây điệp vàng trước cửa, bông điệp đơn sơ, bình dị mà cha của các
cháu hay hái chưng trên bàn thờ vào những ngày giỗ tổ tiên, nhà ông bà
nội các cháu có hai hàng cau dài từ nhà ra cổng, mà cha của các cháu hay
lấy ná bắn những con chim tu hú rớt xuống đất rồi vỗ tay cười khoái
chí, nhà ông....... Bà nói tới đó nghe ran ngực, cơn ho kéo đến cắt đứt
dòng suy tưởng êm đềm, tiếng Hiếu vang lên xen lẫn tiếng cằn nhằn của
con dâu:
Bà nghe rõ giọng cô nghẹn ngào khi ca hai câu cuối, ánh trăng trung tuần sáng vằng vặc soi rõ khuôn mặt cô Tư Đậu Rồng đang say sưa vô hai câu vọng cổ, cô mê hát quá nên chồng cô theo vợ bé, bỏ lại 3 thằng con trai cô nuôi, sau này con cô lớn lên có gia đình và theo quê vợ, thằng lớn ở Đồng Tháp Mười, thằng kế ở Đồng Nai, thằng Út ở tận Cà Mau, ba đứa ba nơi, ít có đứa nào về thăm, cô sống quạnh quẽ trong cái chòi ở mé ruộng. Có những đêm mưa dầm, ảnh ương, ếch nhái kêu nghe ảm đạm, vách lá không đủ ngăn gió, nên ngọn đèn dầu trên bàn tắt lịm, nhìn cái chỏng tre kê sát vách bỏ không, cô nhớ mấy thằng con trai, đứa đòi nằm trong, đứa đòi nằm ngoài, những lúc trời mưa dầm như vầy thế nào tụi nó cũng đem về vài xâu ếch nhái, nay tụi nó theo quê vợ hết rồi, cái chòi này vốn đã trống trải nay càng trống trải hơn, cô nằm gát tay lên trán trong bóng tối, khẻ ca nho nhỏ đủ cho mấy con rắn mối nghe với sự phụ họa của con tắc kè ẩn trong vách lá:
- Những cánh chim đủ sức tung trời
Cuộc
đời cô buồn quá nên giọng ca nghe u-uẩn một nỗi niềm. Mấy người bạn
hàng ở chợ Gò Công khen cô có giọng ca hay và cũng thắc mắc không hiểu
vì sao cô có cái tên cô Tư Đậu Rồng. Cô có hai công ruộng, một công cô
cấy lúa trung vụ, còn một công cô lên liếp trồng đậu rồng, cô chuyên
trồng đậu, hể có chỗ nào trống là cô bỏ hột đậu rồng, tới tháng 10 dây
đậu rồng có trái, cô hái đầy hai thúng rồi gánh ra chợ Gò Công bán, cô
nhờ trồng đậu rồng nên có tiền mua hến về cho một bầy vịt tàu ăn và mua
cám cho con heo nái sắp đẻ, từ đó cô có biệt danh: Cô Tư Đậu Rồng.
Bà Hai thì không thể nào quên được cô Tư, nguời bạn láng giềng tốt bụng, bà muốn trở về quê cũ thăm lại mồ mả
ông bà, nhưng không thể nào đi được, lực bất tòng tâm, bây giờ bà quá
già, trở thành người phế thải và con cháu không cần sự hiện diện của bà
trong ngôi nhà này nữa, Hiếu và Thảo không còn như ngày xưa, các con bà
có một thế giới riêng, thế giới ấy hiển nhiên không có sự hiện hữu của
bà. Mỗi độ mùa hạ về giàn mướp lại có mặt và chỉ có giàn mướp là nguời
bạn thân thiết nhất. Bà chợt nghe tiếng mở cửa, Hiếu từ ngoài bước vào
và đi ra cửa sau đến bên bà: Tiếng kêu thảng thốt của Hiếu và Thảo trong nghẹn ngào, nước mắt lưng tròng, trong lúc đó hai người con dâu ngoe nguẩy bỏ vào trong...
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 24/Oct/2019 lúc 8:29am |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 25/Oct/2019 lúc 9:16am |
Bố Sẽ VềĐáng lẽ bố sẽ về Việt Nam vào mùa Hè này, suốt mấy tháng nay bố tôi vui vẻ đợi chờ một chuyến đi xa, bố đã vài lần chuyện trò với tôi, giải thích cho tôi hiểu rằng bố về Việt Nam lấy vợ, sẽ là một người phụ nữ nào hiền lành, từ tâm để thông cảm cho hoàn cảnh của bố và nhất là sẽ thương yêu tôi hết lòng. Tôi chẳng vui với lời giải thích ấy, nhưng vẫn âm thầm chịu đựng vì không muốn làm bố buồn. Căn bệnh ung thư máu của bố đã vài lần tưởng như đứng bên bờ tuyệt vọng, nhưng cách đây 2 năm chú Bảo, em ruột của bố đã hi sinh sang chất tủy cho anh, nên sức khỏe của bố đã phục hồi, mỗi lần đi bệnh viện tái khám theo dõi tiến triển của máu, của tủy , đều đạt kết qủa tốt. Bố lạc quan yêu đời hẳn lên, vài người bạn thân trong cộng đồng Việt Nam của bố đã khuyến khích bố nên lấy vợ để có người bạn đời chăm sóc cả bố lẫn con, họ đã giới thiệu hết người phụ nữ này đến người phụ nữ khác, hầu hết ở Việt Nam, vì họ quan niệm rằng những người còn ở Việt Nam sẽ dễ dàng chấp nhận hoàn cảnh của bố tôi, vừa nghèo, vừa qua một cơn bệnh ngặt nghèo. Bố xiêu lòng vì những lời khuyên ấy khi cảm thấy sức khỏe của mình đã ổn định hơn trước nhiều. Vậy mà mấy tuần nay bố bỗng thấy trong người mệt mỏi bất thường, bố không ăn, kém ngủ và gầy hẳn đi. Bố lại liên tục ra vào văn phòng bác sĩ, đến bệnh viện như những lúc căn bệnh hoành hành trước kia. Đột nhiên bố mang tôi đến gởi ở nhà chú thím Bảo, căn phòng apartment trả lại cho chủ như chúng tôi sẽ đi xa không hẹn ngày về. Tôi ngạc nhiên và lo lắng hỏi bố: - Tại sao chúng ta lại về nhà chú Bảo? bố vẫn còn việc làm cơ mà… - Bố cần tiền để chữa bệnh. Chúng ta phải tiết kiệm. Tôi năn nỉ bố: - Con thương chú Bảo và hai em nhưng con không thương thím Bảo, mà thím cũng không thương con đâu. Bố hãy thuê bất cứ căn apartment rẻ tiền nào cũng tốt cho con hơn, con hứa với bố con sẽ làm được tất cả như một người lớn, dọn dẹp và nấu cơm giặt giũ. Bố an ủi tôi: - Bố biết rồi, nhưng ở nhà chú Bảo sẽ đầy đủ và an toàn cho con những khi bố vắng mặt... Chỉ một thời gian ngắn thôi, rồi bố sẽ khỏe mạnh lại như bố đã khỏe mạnh cách đây hai năm, và bố sẽ về. Tôi lấp lánh niềm hi vọng trong đôi mắt và trong giọng nói: - Bố lại thuê Apartment nhé, nhà của mình vẫn hơn. Ngôi nhà của chú Bảo rộng lớn 4 phòng, họ chỉ xử dụng hết ba phòng, còn một phòng để dành cho khách, nhưng khách phương xa mấy khi đến, mà hai bố con tôi đã đến ở nhiều lần trong những năm trước đây, khi bố tôi bị chẩn đoán ra căn bệnh và phải chữa hóa trị , uống thuốc, bố qua lại giữa văn phòng bác sĩ và bệnh viện thường xuyên, nhiều lần , nên phải gởi tôi ở nhà chú thím Bảo. Tôi đã tưởng không có ngày phải đặt chân vào căn phòng này nữa, nhà đẹp với những đồ đạc trang hoàng lộng lẫy nhưng chẳng làm con bé 13 tuổi như tôi háo hức thích thú, chỉ vì thím Bảo, linh tính của một đứa bé cũng đủ cho tôi biết thím xem tôi như một món nợ bất đắc dĩ mà thím phải gánh chịu và chỉ muốn chúng tôi sớm ra khỏi nhà. Dạo chú Bảo hiến tủy cứu cha tôi, hai vợ chồng chú đã cãi nhau kịch liệt, con nhỏ Hồng, em họ của tôi đã kể thế, mẹ nó không muốn dính líu gì đến cha con tôi, vì họ giàu sang, cả hai vợ chồng chú Bảo đều tốt nghiệp đại học, làm lâu năm lương bổng cao, còn bố tôi chỉ là một anh thợ, một công nhân lại nay yếu mai đau với đứa con không có mẹ. Thím Bảo rất ác miệng, nói xấu mẹ tôi không tiếc lời, rằng mẹ tôi là một cô Mỹ gốc da đỏ hoang dã và hư hỏng, vô lương tâm và ích kỷ, đã bỏ rơi tôi khi mới một tuổi, suốt mười mấy năm qua vẫn biệt tăm như trên cõi đời này cô ta chưa hề sinh ra tôi. Những lúc ấy cõi lòng tôi đau đớn, dù thực sự mẹ tôi là người như thế, tôi vẫn cảm thấy oán trách thím Bảo đã chửi mắng mẹ tôi, một người vắng mặt. Có đôi lần chịu không nổi tôi đã cố bào chữa cho mẹ, những điều đã nghe được từ bố: - Không phải tất cả người nào bỏ rơi con mình cũng đều tệ hại, biết đâu cũng có lý do, và biết đâu ngày nay mẹ cháu đã chết rồi nên mới biệt tăm biệt tích. Mỗi lần đi học, nhìn những đứa trẻ khác có mẹ đưa đón, những bà mẹ người Mỹ chắc cũng giống mẹ tôi, họ đã chăm lo cho con cái , tôi thấy mủi lòng chẳng dám nhìn lâu. Thím Bảo đã mỉa mai: - Thế à! vậy cháu cứ ráng đợi mấy chục năm nữa đi, biết đâu sẽ có ngày gặp mẹ nếu cô ta còn sống. Nhưng bố tôi thì ngược lại, luôn nói về mẹ tôi với giọng dịu dàng, cho tôi biết rằng còn có một người mẹ, sẽ thương yêu tôi khi gặp lại, và tôi cũng phải luôn nghĩ về mẹ với tình yêu thương như thế. Bố thương yêu tôi và thương yêu cả cháu của mình, mỗi lần dắt tôi đi mua sắm đều có Hồng, hai đứa cần gì, thích gì bố đều làm vui lòng ngay. Có lần bố mua cho Hồng một cái váy khá đắt tiền, cái món mà dù có thích tôi cũng không dám đòi hỏi vì tôi biết bố không có nhiều tiền, tôi tự biết hạn chế tiêu xài, biết lo toan việc nhà. Khi chỉ còn hai bố con, tôi đã trách bố: - Chú thím Bảo giàu, họ mua sắm cho em Hồng thiếu gì quần áo đẹp, bố chưa được nhìn tủ quần áo của nó đâu, con mơ ước đấy. Sao bố lại tốn tiền mua thêm cho nó cái thứ luôn sẵn sàng và dư thừa trong tủ? Tôi tưởng bố sẽ hối tiếc, nhưng bố vẫn mỉm cười: - Không cần nhìn bố cũng biết tủ em Hồng nhiều quần áo đẹp rồi, nhưng bố vẫn vui nếu mua cho Hồng món mà Hồng thích, cũng như con vậy. - Nhưng thím Bảo chưa làm thế với con bao giờ. Thím chỉ vơ vét cho con mấy bộ váy áo nào mà em Hồng chê không mặc nữa mà thôi. Bố gạt đi: - Mình không nên so sánh và đòi hỏi lại những gì đã cho người khác, thím Bảo vẫn là người tốt, đã lo cho con những chuyện khác, chúng ta đã ăn ở nhà thím, và nhất là chú Bảo đã hiến tủy cứu mạng sống cho bố. Quả đúng, bố con tôi đã nhờ vả nhà chú thím nhiều quá. Bây giờ chúng tôi lại trở về đây dù thím có mời đâu, chỉ có chú Bảo mà thôi, nhà có hai anh em , cha mẹ không còn, biết nương tựa vào đâu khi hoạn nạn, ngoài chú Bảo? Ở trong căn phòng xinh đẹp này mà tôi bồn chồn lo lắng, ngày nào cũng mong đợi hình ảnh bố trở về. Tôi mơ thấy bóng bố hiện ra nơi khung cửa với khuôn mặt tươi vui và bố sẽ bảo tôi: - Nào, con yêu. Bố đã trở về, bố hết bệnh rồi, chúng ta lại thuê căn apartment như cũ. Ôi, tôi sẽ sung sướng nhảy lên ôm choàng vai bố: - Ngay ngày hôm nay bố nhé. Ở căn nhà của mình, con sẽ nấu cơm cho bố ăn. Và bố tôi đã trở về, đã hiện ra ở khung cửa nhà chú thím Bảo, nhưng vẫn nét mặt tái xanh vì mất máu và người càng gầy gò đi. Bố vào phòng thu xếp ít quần áo rồi bất chợt nắm tay tôi: - Con gái bé bỏng đáng yêu của bố, con ở nhà ngoan nhé, bố phải vào nằm bệnh viện đây. Tôi linh cảm điều hệ trọng đang xảy ra cho bố: - Bố lại bệnh nặng phải không? - Có lẽ trục trặc gì đó mà thôi, sau khi được sang tủy các bác sĩ đã bảo sức khỏe bố sẽ dần dần phục hồi mà. - Vậy sao bố phải vào ở bệnh viện? Bố nói dối vì sợ con buồn phải không? Bố lúng túng giải thích: - Chắc là… để bác sĩ tiện theo dõi, dù sao bệnh nhân ở sẵn trong bệnh viện vẫn tiện hơn là đi đi về về. Tôi đã nhận thấy nét mặt lo buồn của chú Bảo, và vẻ thương hại lẫn khó chịu của thím Bảo. Tôi hiểu bố tôi đang thật sự bệnh nặng. Tôi biết làm gì cho bố bây giờ? Đêm đêm tôi cầu nguyện phép màu cứu bố, trong giấc ngủ của tôi bao giờ cũng có hình ảnh bố sẽ khỏe mạnh trở về. Những ngày bố nằm bệnh viện tôi lẻ loi hơn bao giờ. Sáng tôi và em Hồng cùng dậy chuẩn bị đi học, em thua tôi một tuổi, cùng trường nhưng khác lớp. Thím Bảo lấy đồ ăn cho chúng tôi mang đi ăn lunch, Hồng nhõng nhẽo đòi mẹ lấy thứ này bỏ bớt thứ kia, còn tôi, đã là “người lớn” từ lúc nào không biết, ở với bố tôi đã tự làm đồ ăn cho mình, cho cả bố mang đi làm, cho nên ở nhà thím Bảo, thím muốn lấy gì tôi cũng vui vẻ nhận, ngay cả món mà tôi không thích. Ở trường tôi có một con bạn chơi thân, nó thích tôi và tôi cũng thích nó, thỉnh thoảng tan học về tôi theo Amanda đến nhà nó chơi, mẹ nó hay giữ tôi ở lại để ăn cơm chung với Amanda, và khi bố đi làm về tôi gọi phone cho bố đến đón tôi về, mấy lần như thế, bố tôi đã trở thành bạn thân của cha mẹ Amanda, và bố con tôi có thêm nơi chốn để lui tới, chuyện trò... Khi có lần Amanda hỏi tôi về người mẹ vắng mặt, tôi đã nói: - Mẹ bỏ đi từ khi tôi còn bé, nhưng có thể một ngày nào đó mẹ sẽ tìm tôi và sống với tôi, vì mẹ rất yêu tôi. Bố tôi đã bảo thế. Nó đã tò mò hỏi tiếp: - Nếu mẹ bạn yêu bạn sao lại bỏ đi lâu thế? Tôi lại bào chữa: - Vì một lý do nào đó làm sao tôi biết được, nhưng bố tôi đã bảo thế. Amanda hóm hỉnh chọc tôi: - Bạn là một con bé ngoan, luôn nghe lời bố, lúc nào cũng “ bố tôi đã bảo thế”. Trong đời tôi chỉ có bố là người thân yêu nhất, tôi không tin lời bố thì tin vào đâu? Hôm nay tôi đến trường với nét mặt rầu rầu và long lanh nước mắt khi báo tin cho Amanda: - Bố tôi lại vào bệnh viện rồi. Amanda cũng rưng rưng nước mắt: - Tội nghiệp bố của bạn quá, Chủ Nhật này theo mẹ đi lễ mình sẽ cầu nguyện cho bố bạn mau khỏi bệnh. ************* Bố tôi nằm đó, mặt bố sưng và tay chân cũng sưng phồng đau đớn, những dây gắn ở mũi bố hình như để nối liền bố với sự sống, nhưng bố chẳng biết gì, chẳng biết con gái bố đang ngồi bên cạnh với hoang mang sợ hãi. Bố mẹ Amanda cũng đến thăm và chỉ lặng lẽ nhìn bố rồi vuốt ve lên bàn tay sưng phồng của bố thay cho lời thăm hỏi an ủi. Đêm hôm ấy tôi ngủ thấy ác mộng, tôi giật mình và khóc nức nở trong mơ. Tỉnh dậy thì ra tôi khóc thật, nước mắt ướt nhạt nhòa khuôn mặt. Chú Bảo xin nghỉ làm, ở bệnh viện chăm lo cho bố. Vài ngày sau bố tôi tỉnh lại, ánh mắt bố dáo dác như tìm kiếm đứa con gái duy nhất và bất hạnh của bố. Khi chú Bảo gọi về nhắn tin thím Bảo đưa tôi đến bệnh viện thì không kịp nữa, bố tôi đã nhắm mắt lìa đời. Đám tang bố đông người đến tham dự, tôi nghe loáng thoáng những lời người ta nói với nhau về bố tôi, họ khen bố hiền lành, tử tế, vợ bỏ đi vẫn ở vậy nuôi con cho đến khi tôi bảy tuổi, chưa kịp lo cho hạnh phúc của riêng mình thì lại phát giác ra bệnh ung thư. Nhiều bà, nhiều cô nắm lấy tay tôi để chia sẻ nỗi buồn mà nước mắt rưng rưng, tôi nói lời cám ơn họ trong đau đớn có chút tự hào về người cha đáng yêu của mình. Chú Bảo lên đọc vài dòng cảm nghĩ về anh mình, kể lại những kỷ niệm thời ấu thơ, những ngày hai anh em mới đến Mỹ, bố tôi đã đi làm để nuôi chú Bảo tiếp tục học hành. Chú Bảo nói trước khi nhập viện bố tôi đã hiểu những ngày còn lại của đời mình không còn nhiều, bố dặn dò chú Bảo là bố còn ít tiền để dành trong ngân hàng cùng với tất cả tiền phúng điều khi bố chết đi, chú Bảo hãy giữ để lo cho tôi. Tôi đã khóc và nghe nhiều tiếng khóc sụt sùi quanh tôi. ************* Bây giờ tôi là một đứa trẻ mồ côi, sống nương nhờ nhà chú thím Bảo, người mẹ vắng mặt của tôi có thể chẳng bao giờ xuất hiện, bố đã ra đi và mang theo niềm tin ấy rồi. Amanda đã cho tôi biết một sự thật, những gì cha mẹ nó nói chuyện với nhau, họ hiểu bố tôi thương yêu tôi, lo cho tôi vì luôn lo sợ mình chết đi khi con chưa đủ tuổi khôn lớn, nên bố vẫn hi vọng dù mong manh là mẹ tôi sẽ trở về tìm đứa con côi cút, bố không muốn tôi giận hờn, thù oán mẹ nên luôn nói tốt về mẹ, cũng như bố đã nói tốt về thím Bảo, người mà tôi sẽ chung sống khi bố qua đời. Tôi không còn niềm hi vọng chờ đợi gì nơi bố, nhưng mỗi khi nghĩ về bố, trong tim tôi vẫn còn nghe vang vọng lời hứa hẹn “Bố sẽ về” và tôi lại nhìn qua khung cửa sổ, nơi ấy những ngày tháng qua, đã nhiều lần bố tôi từ bệnh viện trở về và cho tôi nỗi vui mừng khôn xiết. Tôi chỉ còn tìm niềm vui trong kỷ niệm mà thôi. Nguyễn Thị Thanh DươngChỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 25/Oct/2019 lúc 9:37am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 130 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |