Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 100 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22937
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 17/Aug/2018 lúc 10:36am

Bạn Ơi !
2593%201%20BanOiTG%20Khuyetdanh

Tao về chiến địa năm xưa
Tìm mày nhưng mãi vẫn chưa thấy mày
Chỉ nghe sống lại những ngày
Mưa bom bão đạn xéo giày quê hương




Mày- tao giã biệt người thương
Xếp nghiên bút lại, lên đường tòng quân
Đêm rừng giá lạnh chung chăn
Chia nhau khói thuốc, trở trăn chuyện đời:




Mong khi chiến cuộc hết rồi
Cùng xin cha mẹ cưới người mình yêu
Chẳng mong bạc lắm, tiền nhiều
Chỉ mong hầu hạ sớm chiều thân sinh!


Ấy nhưng bom đạn vô tình:
Tao quăng một nửa thân mình nơi đây
Còn mày chết chẳng thấy thây
Dở dang ước nguyện về xây cuộc đời!


Chiến tranh kết thúc lâu rồi
Tao nay cũng đã da mồi, tóc râm
Mẹ mày vẫn mấy chục năm
Thâu đêm không ngủ chỉ nằm ngóng tin


Dẫu rằng biết đã hy sinh
Chỉ mong đón cốt con mình về chăm
Hôm nay tao trở lại thăm
Bạn ơi hãy chỉ chỗ nằm cho tao


Mẹ mày chỉ mỗi ước ao
Được ôm mày trước lúc vào cõi mê!
Chỉ đi! Tao dẫn mày về
Về mà gặp Mẹ với quê hương mình!
Khuyết Danh



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 17/Aug/2018 lúc 10:49am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22937
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 22/Aug/2018 lúc 8:45am

Nước mắt trông theo


nuoc%20mat%20trong%20theo%201Như cơn gió lốc, thằng Tùng mở bung cửa, chạy thẳng tới bàn thờ, quơ tay cầm cái bọc nylon mở ra, lựa lấy cái áo thung màu olive của nó ôm vào ngực, và cũng lại như lúc vào, nó quay lưng chạy ra sân, phóng đi mất hút. Bà Thắng nãy giờ im lặng nhìn con trai, chưa kịp lên tiếng đã thấy nó bỏ đi. Bà hốt hoảng gọi với theo: “Tùng, Tùng ơi! Con về sao lại đi Tùng ơi.” Bà cũng vụt đuổi theo nó, vấp ngã ngay ngưỡng cửa.


Mở bừng mắt, ngồi bật dậy, thở dốc, bà Thắng nhìn ra tấm cửa bằng phên liếp, đã bị cơn gió lùa thổi bung, nằm trên nền nhà đất ẩm. Trời mưa rả rích, cơn mưa rừng đến từ lúc nào bà Thắng đâu có biết. Bà bị bệnh đã hơn mười ngày nay, ho như xé phổi, từng cơn, từng cơn vật vã thể xác. Toàn thân chỗ nào cũng đau, các khớp xương, bắp thịt và đầu cũng vậy, bà cảm thấy như hàng trăm con dòi, con bọ đang ăn trong óc bà. Nhức buốt vô cùng, bà quá khổ vì chứng bệnh đang hành hạ mình. Bà Thắng nhìn lên bàn thờ, cái bọc nylon, gói chiếc áo thung nhà binh của con trai vẫn còn nguyên chỗ cũ, bụi phủ… Bà nhận ra là sự trở về của thằng Tùng – đứa con trai độc nhất của bà – chỉ là giấc mơ đau đớn như thân xác bà đang chịu đựng lúc này.


Mất thật rồi! Không còn cách nào và chẳng còn ai có quyền phép gì để mang trả cho bà đứa con ngàn triệu lần yêu thương được nữa. Ba mươi năm rồi còn gì! Bà bỏ Saigon lên khu Kinh Tế mới Cẩm Ðường, để đợi mong con về với mẹ, mà vẫn biệt tăm. Hơn ba chục năm còm cõi, lao khổ để nuôi cái hy vọng ngọt ngào, ôm đứa con trai vào lòng mà vò tóc nó, xoa tới tấp trên cái đầu hớt tóc kiểu bàn chải của “thằng chó.” Như những lần nó về trước đây.


Ba mươi ba năm rồi con ơi! Tùng ơi! Mẹ ngắt từng hơi thở cố dành lại, để chỉ mong được nhìn thấy con về với mẹ một phút, một giây thôi, đủ thỏa lòng mẹ rồi Tùng ơi! Vậy mà con vẫn biệt mù tăm tích. Con chết thật rồi phải không? Sao lại như thế được nhỉ? Sao lại có chuyện con bỏ mẹ mà đi, ba mươi ba năm rồi không ghé về thăm mẹ được một giây? Tại sao thế. Tại sao con tôi bị biệt tích? Ai đem nó đi biệt?


Bà cố dằn cơn ho và chịu đựng cơn đau để đứng dậy, quơ chân tìm đôi dép Nhật, chỉ còn cái đế, quai cũng đã đứt, được thay bằng sợi dây dừa. Bà Thắng đưa tay với cây gậy dựng ở đầu giường, chậm chạp từng bước nặng nhọc, đi tới bàn thờ, bà ngước mắt nhìn hai tấm hình chồng và con trai. Hình ông Thắng quá cũ, vàng mốc, góc trái đã tróc mất mảng màu đen trên cái cổ áo vét của ông; kế bên là thằng Tùng, nó đâu có chụp hình bao giờ, bà phải lục trong cái rương đựng quần áo của nó, tới tận đáy mới tìm thấy cái hình nó chụp lúc nó mới đăng lính. Hình làm hồ sơ, nên có cái bảng ghi số quân để ngang ngực, hình nhỏ bằng hai ngón tay.


Thật ra bà đâu có thờ thằng Tùng, nó chưa chết mà, nó chỉ bỏ đi đâu đó, sau lần nó về nhà lần cuối cùng trong sự hốt hoảng, để thăm bà mấy phút. Bà còn nhớ nó vội vàng cởi cái áo thung màu olive đang mặc, để thay cái khác. Chiếc áo bẩn bà đã giặt sạch đợi con về lấy đã hơn ba mươi năm, vẫn còn để trên góc trái bàn thờ. Làm sao bà quên được buổi chiều sầu thảm ấy.

 

Tất cả mọi con đường đều ùn ùn dòng người, dòng xe xuôi ngược. Tiếng còi, tiếng súng từ xa, gần, dội lên từng chặp. Khu Thị Nghè, nơi bà ở, mọi người đang cuồn cuộn chạy vào nội ô, hơn một lần nơi này đã bị giặc chiếm, nhà cháy, người chết. Ðánh nhau cả tuần lễ mới hết. Bây giờ đang đánh nhau bên kia cầu xa lộ. Bà Thắng cảm thấy như nghẹt thở, đứng lên ngồi xuống hàng chục lần, tâm trạng phân vân, muốn theo mọi người tạm xa nhà ít bữa, nhưng bà suy nghĩ mãi mà cũng chưa quyết định được là đi hay ở. Và, bất chợt bà nghe tiếng xe ngừng ngoài đầu ngõ, thằng Tùng chạy vội vào nhà, nó nói: “VC đã đến gần lắm rồi má! Tụi con đang đánh với chúng nó ngoài xa lộ, má liệu đi đâu đó đi. Không chừng nó sắp pháo kích vào khu nhà mình đó, ở nhà nguy hiểm lắm má!”

– Ừ, từ từ chút nữa má sẽ tính, mày ăn gì chưa, má lấy cơm cho con ăn nha?


– Thôi má ơi, lẽ ra con đâu có ghé nhà được, đang đánh mấy cái chốt của nó, hết đạn M-79, đợi mãi không có ai tiếp tế, gọi máy họ cũng chỉ nói chờ. Ông Đại Úy, con và hai người nữa chạy về phía sau, chỗ mấy đơn vị phòng thủ nội ô xin đỡ ít trái. Con phải đi ngay, tụi nó đợi ở “ngoải.”


Thằng Tùng chỉ kịp thay chiếc áo lót, uống ly nước rồi tất tả chạy đi. Nó chẳng quay lại nhìn mẹ một lần. Lúc đó là 12 giờ 45 phút ngày 28 tháng 4. Ðến tận bây giờ, bà héo hắt đợi con về, niềm mơ ước được nhìn đứa con trai vàng ngọc của bà, bước qua ngưỡng cửa căn nhà đã từng giây hiển hiện trong mọi ý nghĩ của bà.


Ngày 30 tháng 4 năm 1975 – Bà nhớ rất rõ – Tiếng súng vẫn còn nổ nhịp nhàng từng lúc. Tiếng lớn tiếng nhỏ, rộ lên rồi lại im. Tuy đã gần nhưng vẫn còn ở bên kia cầu xa lộ, chưa bắn nhau trên đường phố. Rồi, bỗng dưng bà nhe radio đọc lệnh buông súng, chờ bàn giao. Sao thế nhỉ? Như vậy là QLVNCH thua rồi! Những người lính như con bà thất trận rồi chứ còn gì nữa!


Bà Thắng đóng kín cửa, cố đẩy chiếc bàn học của thằng Tùng ở góc nhà, chẹn ngang cửa ra vào, đề phòng trong lúc hỗn quân, hỗn quan bọn mất dậy đi hôi của, mặc dù nhà bà chẳng phải là nhà giầu. Khoảng chừng 1 giờ sau khi radio đọc lệnh đầu hàng, bà Thắng lắng nghe động tĩnh, không xẩy ra sự gì, bà mở cửa nhìn ra phía đại lộ, thấy mọi người cũng đang rụt rè rời nhà đi ra ngoài, bà cũng đi theo. Ðến lộ, bà nhận ra mọi sự đã sụp đổ thật rồi. Những chiếc xe tăng, những con người lạ hoắc, mũ tai bèo, quần áo coi dị hợm đối với bà đang chĩa mũi súng từ từ tiến vào thành phố Saigon, thủ đô VNCH, bà tự hỏi vậy là VC chiếm mất nước mình thật rồi sao? Thế những người Iính Cộng Hòa đi đâu hết? Thằng Tùng của bà nữa, đơn vị của nó “bàn giao” xong chưa? Mà sao mãi vẫn chưa thấy nó về.


Có tiếng chân bước vội vã sau lưng, quay lại bà nhìn thấy lác đác mấy người lính VNCH, đã bỏ quân phục, có người ở trần, người thì áo chemise chẽn, bó chặt lấy thân, quần xà lỏn – áo quần vừa xin được của ai đó. Họ đang đi lầm lũi từng bước thất thểu, có người khóc không thành tiếng. Họ dùng những con đường hẻm ngang dọc để tìm về gia đình. Trời bỗng dưng tối sầm, mây xám giăng ngang, và những giọt mưa rơi đây đó trên mặt đường, không gian dường đang khóc ở trên cao.


Bà Thắng chợt nghe có tiếng nói nhỏ bên cạnh, hai người đàn bà vừa ghé tai nhau thì thào lúc vượt qua mặt bà. Họ đi như chạy về phía trước: “Tội nghiệp quá chị Năm ơi! hai người lính đó không biết “uýnh” ở đâu mà một người bị thương, họ dìu nhau dìa tới đầu hẻm 295. Hai người ngồi lại, họ lấy súng tự bắn nhau, tự vận chết hết trơn rồi!”


Bà Thắng chột dạ, nghĩ nhanh đến thằng Tùng, bà cố dằn cơn hồi hộp, bước vội về phía con hẻm 295. Kia rồi, hai ngươi lính nằm trên lề đường, họ mặc đồ rằn ri, bà Thắng càng hoảng hốt hơn, bước vội tới gần. Bà thở một hơi thật dài, nỗi lo âu vuột khỏi lồng ngực. Một chút mừng lóe nhanh trong óc. Hai người lính BÐQ nằm chết bên nhau trong tư thế một nằm ngửa, một nằm nghiêng gối đầu lên bụng bạn. Họ đã chết nhưng mắt vẫn mở, trời cao mây xám vẫn bay trong lòng con ngươi. Bà Thắng bỗng nhận ra mình tàn nhẫn, vô duyên. Ai chết miễn không phải con bà là được.


Bà tự sỉ vả mình thật nặng. Bà khấn thầm trong lòng, “Lậy Trời, lậy Phật xin gia hộ độ trì cho hai người lính này chết thảm ở đây. Làm sao bây giờ, ai lo cho họ? Gia đình họ ở nơi nào? Hai người lính tuổi còn trẻ, nhỏ hơn cả thằng Tùng nữa. Tại sao họ lại tự bắn để cùng chết trong lúc giặc đang vào thành phố như thế này.”

nuoc%20mat%20trong%20theo%202
Mấy thằng mất dạy 30 tháng 4, lũ cỏ đuôi chó, trộm cắp, móc túi, biến thành Việt Cộng!


Bỗng một loạt đạn nổ ròn, chiếc xe jeep VNCH cắm cờ Việt Cộng thắng gấp, thêm một tràng liên thanh nữa, mọi người chạy dạt ra, có người co chân nhảy sát vào hiên nhà, người thì té lăn xuống mặt đường. Một toán “VC con” nhảy xuống xe, tay trái đeo băng đỏ, tay phải cầm súng M.16. Mấy thằng mất dạy, lũ cỏ đuôi chó, trộm cắp biến thành Việt Cộng! Một thằng trong bọn khoác khẩu M.16 lên vai phải, thêm cây súng lục của Cảnh Sát nhét lưng quần trước bụng. Chắc nó là thằng chỉ huy nên cất giọng lấy oai:

– Ðồng bào nghe đây, giải phóng rồi, nhà nước độc lập rồi. Mừng cách mạng thành công. Yêu cầu đồng bào giải tán, ai về nhà nấy sinh hoạt bình thường. Hai thằng lính ngụy ác ôn này chết là đáng lắm, chúng nó nợ máu nhân dân thì phải trả.


Chẳng ai nói một lời, lặng lẽ trở về nhà. Bầu trời xám hơn, mây xuống thấp, luồng gió lạnh thổi áo bà Thắng bay lất phất, dường như mùa thu bỗng có trong ngày hôm nay. Trên đường quay lại nhà, bà nghe tiếng một ông già:

– ÐM. Mấy thằng chó đẻ, mới hồi hôm tao thấy tụi khốn nạn này còn lạng quạng chỗ chợ Thị Nghè, rình móc túi, giựt giọc, bữa nay đã là cách mạng. Thiệt hết biết! ÐM. tụi bay mà không có súng trên tay, tao dộng thấy con đĩ mẹ tụi bay.


Bà Thắng không dám ngoái nhìn lại coi ai đang nói sợ bị vạ lây, bà đi nhanh về nhà để chờ con trai. Bà nuôi hy vọng thằng Tùng sẽ được yên thân, nó chỉ là Trung sĩ không phải quan.


* * *

Chiến tranh mỗi ngày một gần hơn với làng cô Ngân. Máy bay Tây đảo qua, đảo lại trên vùng quê thường hơn. Dường như ngày nào cũng có con “bà già” bay vè vè trên trời dòm xuống vùng ruộng chiêm trũng này, lần nào cũng vậy hễ bà già vòng vòng từ 10 đến 15 phút là sau đó đại bác từ trên phố phủ bắn về, từ đồn Cầu Họ bắn qua, ít nhất cũng cả chục tiếng nổ. Thôn xóm của Ngân chẳng ai dám ra đồng mà làm lụng đông đúc nữa, đã có lần dưới xóm Thủy, đạn đại bác rơi trúng ngay chỗ mấy người đàn bà đang ngồi nghỉ trên bờ ruộng, chết cả sáu người.


Gia đình Ngân thuộc loại khá giả trong làng, trong tổng, vì cha cô là lý trưởng và cũng là một nhân vật có vai vế trong làng. Ruộng vườn cung cấp thóc lúa cho gia đình cô mỗi vụ đủ dùng, còn dư ra ít nhiều. Nhưng năm nay thì cả làng đang bị đói, gia đình Ngân cũng trong số ấy. Bố mẹ Ngân có hai người con. Anh Trọng của Ngân, đi kháng chiến ngay từ buổi đầu. Trọng học, thi đậu bằng thành chung, làm việc tại Nam Ðịnh và cũng tại đó Trọng cùng đồng đội vào ATK (An Toàn Khu) luôn, chưa ghé về nhà lần nào.


Thỉnh thoảng, ông bà Lý Thạc – Bố mẹ Ngân – nhận được mẩu nhắn tin từ đâu đó là tình hình chưa cho phép. Bao giờ kháng chiến thành công, con trai ông bà sẽ về nhà. Ngoài ra còn có câu kèm theo “Thầy đẻ sốt sắng ủng hộ kháng chiến càng nhiều càng tốt, hãy hy sinh bây giờ, tiền bạc, lương thực có đầy đủ thì quỹ nuôi quân mới dễ dàng chăm lo cho bộ đội, có đủ sức mà đánh giặc Pháp và tay sai Việt gian. Ông bà Lý Thạc có hỏi gì thêm cũng chỉ được người liên lạc cười tự đắc trả lời: “Cụ đừng lo gì cả, anh ấy đi kháng chiến là anh hùng chứ có phải đi làm nô lệ cho Tây như trước đâu. Cụ nên mừng và đóng góp cho quỹ kháng chiến nhiều hơn nữa mới phải. Các đồng chí ấy được đảng chăm lo, giáo dục, soi đường cho mọi người tiến lên, dưới ánh sáng của cách mạng. Cụ phải tuyệt đối tin tưởng, chao đảo là hỏng đấy.”


Riêng bà vì nhớ con có gặng hỏi cách nào cũng không bao giờ biết Trọng đang làm gì và ở đâu. Ðó là nguyên tắc bảo mật của mọi cuộc kháng chiến. Ông bà Thạc và Ngân có xin liên lạc viên cho gởi ít chữ cho Trọng cũng không được – Tuyệt đối không đem theo một mẩu giấy dù là chỉ một chữ – Chẳng may bị lọt vào tay giặc thì khốn. Tất cả chỉ là lời nhắn mà thôi, tuy nhiên nếu có muốn gởi tiền hay thuốc tây trị bịnh thì được. Tốt nhất là gởi tiền, dễ mang và không nguy hiểm. Tiền gởi cho thân nhân kháng chiến mà nhiều thì công cuộc kháng chiến càng mau chóng thành công.


Làng của Ngân có tên là làng Tán, các con đường Hà Nội, Nam Ðịnh gần 4 kí lô mét, sâu mãi trong cánh đồng chiêm, lụt lội là chuyện xẩy ra hàng năm. Chỗ nào cũng chỉ thấy mênh mông nước trắng. Cây lúa cứ phải ngoi lên theo mực nước để trổ đòng, kết trái. Mùa gặt mới là nỗi cực nhọc. Người thợ gặt phải kéo theo chiếc thuyền, khi cắt lúa, phải dìm mình xuống nước dùng liềm cắt ngầm, rồi xếp lúa lên. Khi thuyền đầy kéo tới một gò cao hay con đường bờ. Những người có nhiệm vụ vận chuyển đã đón sẵn, bó thành từng bó, gánh về làng. Chịu lạnh, chịu cho đỉa đeo như thế cả tháng, mỗi ngày từ sáng đến chiều. Mọi hoạt động của chính quyền kể như không có và không cần biết đến. Thỉnh thoảng từ trên phố phủ (huyên lỵ), mới mở một cuộc hành quân ruồng xét. Mỗi lần như vậy, máy bay bà già quần quần trên trời, nghiêng qua ngó lại, đại bác bắn dọn đường sau đó mới là những tốp lính từ từ băng đồng tiến vào làng, vừa đặt chân tới bìa làng là mấy ông Tây bắn như vãi đạn, bờ tre, gốc dứa, ao cá cũng bắn, vừa bắn vừa cười coi như là một trò vui.


Ðã không ít người bị đạn lạc như bà Quản Trúc, người cô góa bụa, mù lòa của Ngân, nghe tiếng súng nổ phía chuồng heo, sợ heo chết hay bị bắt mất, bà Quản Trúc lần mò ra sân, mới lò dò được vài bước, bà bị một viên đạn từ đâu đó chui thẳng vào hốc mắt, phá toang hoác ra sau gáy. Bà Quản không kêu được một tiếng, ngã vật xuống chết tức khắc. Óc, máu chảy đầy một vũng, mấy con chim trên cành sà xuống mổ ăn lia lịa. Vì vậy, mỗi khi có tiếng súng nổ là mọi người đều tản mỏng để trốn. Ðàn bà con gái, đàn ông tuổi sồn sồn chạy ra cánh đồng, ngâm mình trong ruộng lúa để lính Tây không thấy. Nếu để bị bắt gặp thì chuyên chẳng lành sẽ đến ngay. Hãm hiếp và chết chóc tới tức thì…


Sau này lập tề, trên huyện cho dựng một đồn do lính Quốc Gia trấn giữ, ngay ngã ba đường số 1 và con lộ nhỏ đi vào chợ huyện. Cũng chẳng hơn gì, tuy không phá phách bắn bừa như những anh lính Tây, nhưng có khi cả tháng họ mới vào làng, tập họp dân chúng, nói năm điều ba bốn chuyện, giải thích điều này việc kia chừng vài tiếng đồng hồ, họ rút trở về đồn. Chuyện cũ vẫn như cũ! Có nghĩa là ngôi làng Tán của gia đình Ngân tuy ở vùng tề, thực tế nó chính là con mắt của An Toàn Khu. Cán bộ, liên lạc, từ chiến khu, liên khu luôn luôn có mặt, không kể ban đêm, ngay cả ban ngày họ cũng tổ chức những buổi học tập. Phát động phong trào tích cực góp quỹ kháng chiến, ngày càng nhiều hơn. Hũ gạo nuôi quân cứ tăng dần, mỗi gia đình phải tự giác tăng số lượng đóng góp. Thuế nông nghiệp cũng đã bắt đầu tăng gấp hai. Cuộc sống của gia đình Ngân đã đến mức bần hàn.


Trước kháng chiến, dù chỉ có trên sáu mẫu ruộng, ông Lý Thạc, canh tác bằng cách thuê người làm công, tất cả mọi việc từ gieo mạ, cấy gặt đều thuê người. Bây giờ an ninh không có, đạn bom ưng nổ là nổ. Thanh niên đi lên chiến khu, đi bộ đội và cũng có cả di lính Quốc Gia nữa nhưng rất ít và thân nhân của các người này sống không nổi trong làng cũng đã phải bỏ đi phiêu bạt nơi thành phố hay chốn nào đó để tránh bị khủng bố. Với tất cả sự cố gắng, ông bà Thạc cũng chỉ canh tác được hai mẫu ruộng, còn lại thì đành bỏ hoang. Lúa thu được từ mỗi vụ mùa, đóng thuế đã gần hết chỉ còn lại chút ít ăn cầm chừng, chống đói.

Bà Thạc phải ra đồng cùng với Ngân hai mẹ con mò cua bắt ốc. Tát nước chỗ này be bờ chỗ kia để vớt mớ tép, mớ cá lẹp. Về, nếu nhiều thì đem bán bớt còn để lại một ít kho mặn. Ðiều may mắn là nhà ông lý Thạc đất khá rộng, trong vườn trồng cây ăn trái cũng khá nhiều, để thay gạo, bà Thạc đã kho cá với mít non, rồi lại đổi món, nấu chuối xanh – gọi là ốc nấu chuối cho sang. Vài ba con ốc, ít lá tía tô, nấu nguyên cả nải chuối. Ăn xong có bữa ông Thạc nói đùa với vợ: “Hình như bà bỏ đá tảng vào bụng tôi, sao thấy nặng quá.” Bà Thạc thở dài: “Cơ ngơi này chắc mình còn đói khổ nữa chư chưa thôi đâu ông ơi! Tháng sau nghe đâu lại có lệnh thâu thêm thuế thịt nữa đấy. Mỗi gia đình bổ đồng 40 cân thịt quy ra tiền mỗi năm. Cán bộ nông nghiệp sắp về làng dạy cách nuôi gà vịt, lợn để cho chúng mau lớn, nặng cân mà nộp thuế nuôi quân kháng chiến.


– Nếu thế chỉ còn nước chết thôi.

– Chết được thì may quá!


* * *


Ðời sống của dân làng trầm xuống, tất cả mọi thứ đều cạn kiệt. Mấy năm trước còn có rơm rạ để đun nấu, giờ đây cũng hết, thay vào đấy là thân cây chuối, chẻ dọc phơi khô. Lúc đun nấu chỉ có lửa không có than để ủ, cháy xong là tàn luôn. Người trong làng, gặp nhau ngoài ngõ,ngoài đồng, chẳng ai muốn chào hỏi hay chuyện trò giây lát. Vì đã xẩy ra trường hợp, cơ cực quá, thuế không đủ đóng, than thân trách phận, kháng chiến nghe được cho người về dẫn đi một năm sau mới được tha về – Mặt xanh nanh vàng, cậy răng cũng không dám thở dài nữa.


Hai mẹ con Ngân từ sáng sớm đã ra ruộng để quơ cào tôm tép, bắt được bà lựa những con ngon, béo mập, mang lên chợ huyện bán, kiếm chút đỉnh tiền lời. Chẳng có gạo, bà mua khoai lang, về ăn giặm thêm với mít non luộc. Khóc mãi đã cạn nước mắt, bà Thạc quắt queo như thân cây khô. Ông Lý Thạc thì gần như thành tượng đá, sáng, trưa, chiều, tối ông lẩn quẩn với những cây mít, cây hồng, cây cam, cây khế ngọt. Những thứ cây này trở thành vô duyên vì bán chẳng ai mua, ăn trừ bữa không được. Chỉ còn quả mít, nải chuối thì lại càng không dám bán. Quét chỗ này, nhặt lá khô chỗ kia chán rồi ông vào nhà nằm như vô hồn trên chiếc tràng kỷ, vắt tay lên trán lặng ngắt hàng giờ.


Cuối Thu năm 1952, những cơn gió xa từ phương Bắc đã thổi về heo hắt, cây đã trụi lá, khom lưng chịu nổi cô quạnh. Buổi sáng vừa thức dậy, Ngân đang chuẩn bị cái giỏ, sợi dây lạt quấn ngang lưng, ống vôi trộn mồ hóng trừ đỉa, để sẽ qua đồng làng Gai bên cạnh để mò cua, vạt tép như mọi ngày.

– Ngân ơi, lên đây thầy bảo cái này. Ông Lý Thạc gọi con gái.


Ngân từ nhà ngang bước lên đã thấy bố mẹ đang ngồi trên cái chõng tre vẫn được dùng làm bàn ăn, bà Thạc nói:

– Vào đây con, ngồi xuống nghe thầy con dặn.


Ngân ngồi xuống kế bên mẹ, ngạc nhiên và lo lắng không hiểu chuyện gì mà lại lạ như sáng nay thế này. Ông Lý Thạc cất tiếng, giọng trầm, rè, xúc động:

– Thầy đẻ quyết định hôm nay cho con lên ở trên nhà cô Cửu Phúc. Cô ở trên phố Phủ đang bán tạp hóa cũng đỡ không đói con ạ. Thầy đã liên lạc được, cô Cửu nhắn về cho con lên ngay, phụ với cô buôn bán và lâu lâu lên tỉnh cất hàng với cô.

– Thầy đẻ! Con chả biết ra sao cả, con lên cô Cửu thì thầy đẻ ở nhà với ai. Thôi, cho con ở nhà khi nào quá lắm hẵng hay thầy ạ!


Ông Lý Thạc gằn từng tiếng quyết định: “Con phải đi ngay sáng nay, đẻ con sẽ đi cùng nhưng đến bìa quốc lộ thì đẻ về, con cứ dọc quốc lộ đi thẳng đến nhà cô Cửu. Ði ngay bây giờ, lấy quần áo nhét vào trong cái giỏ cua ấy và con mặc thêm cái áo nữa vào bên trong.


Quay sang vợ, ông nói tiếp: Bà đi với con, cứ xuôi về phía làng Gai, bắt vài con tôm con cá gì đấy, rồi hai mẹ con đi sang đồng An Tập một khoảng xa xa hãy đổ ngược ra phía quốc lộ. Cẩn thận. Chúng nó bắt gặp, chặn lại là hỏng hết.


– Con đã nói cho con ở nhà, đói khổ bao nhiêu con cũng chịu, con đi bỏ thầy đẻ làm sao đành!

– Con nghe thầy nói lời cuối cùng này, nếu con cứ nhất định cãi, thầy sẽ thắt cổ chết cho con xem, thà tao chết trước khi cớ sự xẩy đến cho mày.


Ngân lau nước mắt, khóc rấm rứt. Bà Thạc giọng ướt đẫm và nghẹn: “Con ơi, mày không lên cô Cửu thì cả nhà mình cùng chết. Mấy hôm trước thằng mõ Xòe nó lẻn đến nói cho thầy biết là cuối tháng này, làng mình phát động đợt dân công 6 tháng, những người đi dân công đợt đầu có tên con đấy. Mõ Xòe bây giờ là Trưởng ban Thông Tin, nó thương nể thầy con nên cho hay để tính. Lộ ra thì thằng Xòe ốm đòn, rồi còn ở tù nữa, nhà mình cũng nguy con ạ!”


Ông Lý Thạc đã đứng sau lưng con gái từ bao giờ. Không khóc nhưng mắt ông đỏ lên, đưa tay xoa đầu con, ông nói như mất hơi:

– Con lên ở với cô Cửu Phúc (cô Phúc là em gái ông, chồng được phong hàm Cửu Phẩm của nhà vua), cố mà giữ gìn, để xem tình hình thế nào đã, thầy đẻ sẽ nhắn cho con sau. Thôi hai mẹ con đi đi.


Ông Thạc quay lưng bước vội về phía trường kỷ, ngồi vật xuống. Ngân và mẹ cùng lau nước mắt, thu xếp đồ đạc, Ngân mặc thêm chiếc áo, nhét vào giỏ cái quần. Mấy thứ vặt vãnh Ngân để lại cho mẹ. Có nhiều nhặn gì đâu, mấy năm rồi không may thêm được cái áo.


Mẹ con bà Thạc giữ vẻ bình thản như mọi ngày, đi về hướng xóm Thủy để sang cánh đồng làng Gai. Hai người lội xuống ruộng, như hai cái xác giữa đồng nước.


Con lộ nhựa, đường xe lửa đã ở trước mặt. Bà Thạc vịn tay con gái leo lên lề đường, bà và Ngân dõi mắt nhìn quanh. Cả hai chiều Nam Bắc đều vắng bóng người. Con đường sắt chạy cặp bên quốc lộ hiện mầu hoen rỉ lâu rồi, không một chuyến tầu xuôi Nam, ngược Bắc. Ngân nhìn theo hai thanh ray song song bên nhau, chặp lại ở nẻo xa hút mắt. Con chim cu gáy duy nhất đậu trên sợi dây thép, gật gù theo nhịp võng đưa của gió.


– Này Ngân! Mẹ phải về nhá, con cứ đi thẳng lên nhà cô Cửu, em Long đón con ở đầu phố phủ. Mẹ về không thầy mày lại mong. Cố giữ gìn sức khỏe, đừng để cô Cửu giận con ạ!

– Mẹ đi với con một quãng nữa – Ngân cố níu kéo.

– Ði mãi cũng vậy thôi, ngày một ngày hai thầy đẻ sẽ gọi con về ấy mà.


Nói xong, bà Lý Thạc bước trở lại ruộng nước. Ngân chết lặng dõi theo thân hình còm cõi của mẹ đang ngâm mình sâu dần xuống nước, trên cánh đồng mênh mông hoang vắng. Không kìm được nữa, Ngân vật mình nằm gục trên gờ đá, khóc thành tiếng, gọi trong nỗi đau xé lòng: “Ối thầy ơi, đẻ ơi! Trời ơi sao lại khổ thế này!”


Lịm đi như vậy bao lâu không biết, lúc nhìn lên, Ngân không thấy mẹ trên đồng chiêm trũng nữa. Có lẽ bà đã về đến nhà, hay còn rán mò thêm vài con ốc về nấu chuối ở đâu đó tuốt mãi trong ruộng đồng làng Tán. Từng mũi kim đâm vào lòng, Ngân mường tượng ra cảm giác lần giã biệt mẹ cha là muôn trùng, là miên viễn. Từng bước thấp cao, màn nước che mắt, Ngân đi về phía nhà cô Cửu Phúc trên phố phủ.


Như đã linh cảm lúc ra đi. Thầy đẻ Ngân cũng không còn ở làng nữa. Ngân không về, không dám về, nhưng được người làng nhắn với cô Cửu Phúc: Nửa năm sau ngày Ngân lên ở trên phố phủ, có người từ ATK về nói với ông bà Lý Thạc, kháng chiến cho hắn ta về đem ông bà vào vùng tự do, an ninh hơn và đồng chí Long Vân (bí danh của Trọng) yên tâm phục vụ kháng chiến hơn (?). Rồi biền biệt từ đó.


Ngày tháng qua đi trong nỗi cô quạnh của Ngân. Nỗi nhớ về cha mẹ không sôi sục, vật vã trong tâm tưởng như buổi đầu, nhưng vẫn là những se sắt, cay xót lúc một mình. Nửa khuya chợt thức giấc vì vẳng nghe tiếng mẹ gọi, tiếng cha kêu đi hái cho ông một ít lá chè xanh ngoài vườn để nấu ấm nước buổi sáng. Dường như tất cả đã hóa vôi, kết khối ở linh hồn.


Ngân sống đều đặn với công việc hàng ngày. Cô Cửu Phúc thương cháu, dưng không thành côi cút, cô lấy cơ giường rộng, ngủ một mình lạnh. Bà kêu Ngân ngủ chung với cô. Hai cô cháu rù rì nói chuyện, mục đích cho Ngân nguôi ngoai nỗi cô tịch.


Và, rồi Ngân lấy chồng. Thằng Long con cô Phúc rủ thầy giáo Thắng về nhà chơi. Thầy Thắng được bổ về dạy trường tiểu học của huyện. Ông dạy lớp Nhất. Các lớp còn lại phần ông giáo Quảng và cô giáo Nơ, người địa phương. Cách một hai tuần Long lại rủ ông Thắng đến chơi, ở lại ăn cơm với gia đình. Long cố ý đẩy đưa cho Ngân và ông Thắng nói chuyện với nhau, sau vài lần như vậy, cả nhà cùng nhận ra Thắng và Ngân đã thân nhau. Ðôi lúc họ nói chuyện có vẻ riêng tư. Ngân đã chịu nói nhiều hơn, dáng tư lự, trầm lặng đã vơi bớt phần nào khi có Thắng và Long, đặc biệt khi chỉ có một mình Thắng.


Cả huyện Bình Lục có ba người được nể trọng: ông Thiếu Úy Bình, Trưởng đồn quân đội, trấn giữ phía Nam của phố phủ. Ngả Bắc đã có một đồn Tây, do ông quan hai Tây làm sếp bốt, người thứ hai là Long, con bà Cửu Phúc, đang làm việc trên tỉnh và thứ ba là thầy giáo Thắng, người đang cố gắng đem chút chữ nghĩa cho đám trẻ con trong vùng và ông là người có bằng Thành Chung. Hai hoặc ba tuần họ gặp nhau một lần. Long từ trên tỉnh về, mời ba người bạn đến nhà mình ăn cơm.


Ngân trở thành bà Thắng – bà giáo Thắng – không ở nhà cô cửu Phúc nữa, về với chồng nhà ở gần trường tiểu học, mỗi ngày bà Thắng (Ngân) vẫn ra phụ bán hàng cho cô Cửu Phúc, theo ý chồng và cũng một phần cô Cửu Phúc đã yếu nhiều vì tuổi cao.


Một năm sau – đầu 1954 – ông bà giáo Thắng có đứa con đầu lòng, ông đặt cho nó tên là Tùng, vì muốn nó có cuộc đời đẹp như cây tùng, cây bách. Nhưng rồi một ngày oan nghiệt lại phủ xuống đời Ngân. Ðúng ngày đầy tháng của thằng Tùng. Bà đã chuẩn bị một bữa tiệc nhỏ để mừng nó và cũng để cầu xin Trời cho thằng con mau lớn, khỏe mạnh. Tiệc đã bày sẵn trên bàn, Long, Thắng, Ngân và cô Cửu chờ mãi vẫn không thấy Thiếu Úy Bình đến.


Long đưa ý kiến hai người xuống đồn mời Bình như vậy hắn mới chịu đi, không chừng cu cậu còn đang bài bạc hay có gì trong đồn. Ra đến cửa, Thắng còn quay lại dặn vợ, chỉ lâu chừng 15 phút sẽ quay về tới nhà. Mười lăm phút, 1 giờ, rồi đến xế chiều, chẳng thấy chồng và Long về, bà Thắng sốt ruột và lo, nhờ cô Cửu trông giùm thằng Tùng để đi tìm Thắng, Long. Ði đến tận đồn binh của Thiếu Úy Bình, bà Thắng cũng không biết tin tức gì của chồng. Hỏi trong đồn thì bà được biết, sáng sớm nay Thiếu Úy Bình đã đi cùng 6 người lính về tỉnh rồi, ông Thắng và Long không đến đây.


Gần trưa hôm sau, cả phố phủ nhốn nháo: Hai người đàn ông bị cắt cổ chết, treo ở cây đa đầu làng An Tập, cách đồn Cầu Họ chừng bốn năm trăm mét. Lính Tây kéo xuống, Thiếu Úy Bình dẫn theo một trung đội tới đầu làng An Tập. Bà Thắng, cô Cửu Phúc cũng đã có mặt.


Thầy giáo Thắng và Long bị giết cắt đứt cổ, treo ngược trên cành đa, bản án viết tay nguệch ngoạc ghim trên ngực áo: “Tội danh Việt gian, thì thụt với bọn lính tay sai để làm gián điệp. Nhân dân cần phải trừng trị những kẻ phản quốc như hai tên Việt gian này.”


Tang ma cho cho Long và thầy giáo Thắng xong, một tháng sau, theo lời khuyên của Thiếu Úy Bình, Ngân đưa con về Hà Nội. Bình sẽ gởi Ngân đi theo chuyến xe liên lạc, đến vào cuối tuần, Bình cũng viết thư cho vợ dặn dò, tìm mọi cách giúp đỡ cho Ngân (bà Thắng) có việc làm để nuôi con, cần nhất là lo giấy tờ tùy thân cho bà. Bà Thắng được nhận vào bán vé cho rạp ciné Hà Nội trên phố Huế, đối diện với chợ Hôm. Công việc tương đối dễ dàng, có giờ chăm nom cho thằng Tùng. Nó có khuôn mặt của ông Ngoại. Riêng cặp mắt là bản sao của cha nó, thầy giáo Thắng.


* * *


Ðất nước chia hai – Quốc Gia, phía Nam; Việt Minh, phía Bắc (Cộng Sản VN đã hiện nguyên hình). Lần thứ hai, bà Thắng nghe lời khuyên của vợ chồng Bình đi Hải Phòng rồi xin di cư. Di cư là phiêu lưu vào nơi xa lạ, chẳng một người thân, nhưng suy cho cùng nếu ở lại thì bà cũng chẳng còn ai nữa. Trơ trọi hai mẹ con.


Trong tận cùng của đau khổ, đau xót, còn bừng bừng nỗi thù hận, bà Thắng tự hỏi tại sao tai ương, thảm nạn lại liên tiếp giáng xuống gia đình bà, úp cái bàn tay nhếch nháp, dơ bẩn xuống đời bà, tại sao? Trời, Phật, Thánh, Thượng Ðế hay gì gì nữa thuộc về linh thiêng ngủ ở đâu. Có liếc mắt nhìn về cõi trần để thấy bè lũ yêu tinh, quỷ dữ nó múa may, nhảy nhót. Chúng muốn đâm chém, giết ai thì chỉ đưa dao cắt cổ là xong. Hận thù chất ngất. Bà Thắng trách cả chồng: “Tại sao anh lại thật thà, ngây ngô đến thế, những con chó hoang rình rập, cắn trộm, uống máu người ta. Anh ỷ y, vô tình, để bây giờ con không có cha, vợ mất chồng. Mẹ con em biết làm gì để sống đây!” Những câu tự hỏi, những chữ tại sao ấy đã tích tụ, đã cô đặc lại thành một quyết định dứt khoát: Di cư vào Nam, rồi thì ra sao cũng được.


Vào đến Saigon, nơi mà lúc còn nhỏ ở quê nhà, bà Thắng thường nghe người làng nói là đi “Tân thế giới.” Với tuổi 22 đã trở thành góa phụ, bế đứa con chưa đầy một năm tuổi. Bơ vơ, ngoái nhìn quê cũ chẳng thấy đâu mà chỉ là mây xám cuối trời. Bà Thắng đã dằn tất cả mọi khổ đau, mọi ưu phiền để đứng thẳng lưng, tính toán với thực trạng, cách nào để nuôi con, nuôi thân, bà hỏi ý kiến vợ chồng ông Bình. Ông bà quyết định: “Chị không thể đi đâu được hết. Nơi này tứ cố vô thân, con chị còn nhỏ dại, chị làm gì để sống? Thằng Tùng lúc chị mới sanh cháu, tôi nhận lời bạn tôi đỡ đầu và lo cho nó như một đứa con ruột, ít nhất là về phương diện tinh thần. Bây giờ cũng vậy, vợ chồng tôi mời chị về nhà tôi ở, tại Thị Nghè. Rất may là tôi thuê được căn nhà một mà là hai; một chính, một phụ nằm thẳng góc với nhau. Chị đem cháu về ở chung với vợ chồng tôi, không phải lo gì chuyện nhà cửa, xin nhường chị căn phụ, nhỏ hơn một chút, vì tôi có 3 cháu nên ở căn lớn. Và, chị không được nói đến chuyện tiền bạc. Tôi thuê giá rẻ lắm, hơn nữa xin cho tôi giữ lời hứa với anh Thắng, để bạn tôi yên lòng nơi chín suối.”

* * *


Thằng Tùng lớn dần theo thời gian. Bà Thắng từ lâu vẫn đành nương nhờ vào lòng hào hiệp của bạn chồng. Bà tự nhủ thầm: Lúc ban đầu thôi, sau sẽ tính. Chẳng dè chữ “sau rồi sẽ tính” mấy chục năm vẫn chưa tính được. Từ lúc còn là góa phụ 22 tuổi, tóc xanh da mịn, bà cương quyết tôn thờ hình ảnh ông giáo Thắng. Người chồng vô vàn thương yêu. Con người từ tốn, say mê sách báo đến nhịn ăn để đọc cho xong cuốn sách. Hơn nữa ông Thắng đến với bà như một cái phao được để vào tay người đang chới với giữa dòng nước xoáy. Bà chỉ nung nấu một lòng sao cho thằng Tùng có cuộc đời xứng đáng để cha nó kiêu hãnh từ cõi âm nhìn về con mình.


Nhớ lại có lần, bà thấy bất tiện nếu cứ ở căn nhà này mãi, dù có riêng biệt nhưng vẫn là nhà ông bà Bình. Bà lấy cớ thằng Tùng đã lớn và muốn gần chỗ buôn bán, ngỏ ý xin ông bà Bình cho mình dọn ra ở riêng. Ông bà Bình (ông Bình đã giải ngũ, về phục vụ ngành cũ: công chức Bộ Quốc Gia Giáo Dục) nhất định không đồng ý. Cuối cùng ông Bình quyết định:

– Chị Thắng, ý kiến của tôi thế này nhé. Muốn để chị và cháu Tùng ở đây lâu dài, tôi còn có thể dạy nó học thêm. Căn nhà chị đang ở đó là của mẹ con chị, chúng tôi bán cho chị, không định giá, chỉ cần chị đưa cho chúng tôi chút ít thôi, một vài trăm là được. Căn nhà đó sẽ là tài sản của mẹ con chị, khỏi phải đắn đo suy nghĩ gì hết. Chị đã biết là cả căn nhà trên chúng tôi đã mua được từ 7 năm nay rồi, bây giờ chia lại cho chị căn xép là hợp lý nhất, chị không cần đắn đo gì nữa.


Căn nhà đã trở thành tài sản của mẹ con bà Thắng với giá một ngàn tiền VNCH thời đó. Khi Tùng đã tới tuổi trưởng thành, đã đậu bằng Trung Học Phổ Thông. Và, đến lượt nó quyết định cho chính mình:

– Mẹ!


Mẹ cho phép con nói với mẹ chuyện quan trọng nhé.


Bà Thắng chắc mẩm trong bụng. “Có lẽ thằng con nhà này muốn lấy vợ đây, bực mình quá mới nứt mắt mà đã ‘tọt tẹt.’” Nhưng không phải vậy. Tùng nói chậm từng tiếng:

– Mẹ cho con đi lính nha mẹ!


Bà Thắng sửng sốt:

– Mày nói gì? Ði lính hả? Con ơi, tuổi con còn nhỏ, đang học dở dang, sao lại tính chuyện lính tráng hả con? Học thêm vài năm nữa đã con ơi.


– Con đủ tuổi rồi, mẹ cho con đi Hạ Sĩ Quan, học ở Nha Trang có mấy tháng à, nhanh lắm mẹ ơi!


– Vẫn biết thế nhưng mẹ muốn con học xong Tú Tài đã. Mai mốt hết đánh nhau có mảnh bằng cũng đỡ cực hơn con ạ. Mẹ không bao giờ có ý cản con việc đi lính, nhưng có bằng cao cũng đỡ hơn nhiều.


– Con không đi học được nữa đâu, tại mẹ không đi học, không thấy đó. Trường học bây giờ chán lắm. Thầy giáo cũng đi lính, bạn bè con cũng mặc đồ lính hết trơn rồi. Con bây giờ học cũng hết muốn vô rồi. Ðàng nào cũng phải đi, mẹ cho con nộp đơn nhé. Hơn nữa con nghe bố Bình nói đi nói lại nhiều lần: “Tùng, sau này nếu có thể, con hãy cố tìm xem thằng nào đã dùng dao cắt cổ cha con. Cha con chưa hề làm một việc gì gọi là tội ác, không dính một tí nào đến quân đội. Chỉ là một ông thầy giáo dạy học cho lũ trẻ con nghèo, vậy mà chỉ vì cha con là bạn của bố, thỉnh thoảng xuống chỗ bố ngồi chơi, lấy báo về đọc, vì bố được tiếp tế báo hàng tuần. Chỉ có thế thôi mà chúng nó kết án là Việt gian, là gián điệp, cắt đứt cuống họng, treo lên cây đa đầu làng…” Mẹ cho con đi lính đi! Biết đâu con lại gặp ngay cái thằng đã giết cha con.


Hình ảnh người chồng yêu quý hiện về trong tâm tưởng, nhìn ra con hẻm, bà mường tượng ông Thắng về đứng ở đó, nhìn con cười với nét cười nhẹ và âu yếm.


Chiến tranh ngày càng hung dữ. Bom đạn vang vọng về từng giờ, nghe radio bà biết mặt trận càng ngày càng lớn, đánh nhau bằng mọi thứ súng. Thằng Tùng nhập ngũ, ra trường, lên mặt trận đã được mấy năm rồi. Nó xin đi Biệt Ðộng Quân. Lần thứ nhất về phép, nó đưa cánh tay áo trái, với cái đầu con beo đen may trên đó, nói với bà:

– Mẹ thấy ngon không? Ði thứ lính này đánh mới “đã,” ở binh chủng này con hy vọng tìm ra thằng đã cắt cổ ba con. Dù có bắt được thằng đó hay đồng bọn, thì cũng cùng một loài với nhau. Tất cả chúng nó đều là dã thú, không có nhân tính. Con cho rằng tất cả chúng nó đều đáng bị xử như nhau. Có điều những người lính VNCH chúng con, không đành lòng xử man dại như chúng nó mẹ ơi!


– Mẹ cũng nghĩ vậy, chẳng lẽ mấy chục triệu con người đều biến thành thú hết hay sao. Cũng có người bị kềm kẹp, bắt buộc phải làm những việc bất nhân, dã thú. Thù là thù mấy thằng chỉ huy; mấy thằng cha ông nhà chúng nó thôi. Nên ăn ở sao cho có đức con ạ!…


Cuối cùng thì tất cả những thằng tội phạm, phạm tội cắt cổ ông Thắng, treo ngược thây trên cành đa, đang lũ lượt kéo nhau vô Saigon. Mặt mũi vênh váo.…….

Mưa đã dứt, khu "kinh tế mới" Cẩm Ðường nằm kẹt giữa vùng rừng núi, cao su và một trại tù lao động dành cho những ông Sĩ quan chế độ Việt Nam Cộng Hòa, bị đầy ải hành hạ. Nắng mai đã dàn trải đều khắp không gian trong, đẹp. Ðồi Thới Dao cũng đang thoải mái phơi mình hong khô thân xác. Thật xa nơi mạn Bắc, ngọn núi Chứa Chan vẫn ẩn trong mây, ngủ vùi cô tịch.Và, cũng trong cái nắng mai rực rỡ, nồng ấm buổi sáng hôm ấy. Người hàng xóm đã phát giác bà Thắng nằm chết trong nhà, trượt dài trên nền đất. Tấm liếp cửa phủ kênh một nửa trên xác bà.


Bốn mươi ba năm khổ đau – thù hận!


Trần Phương Khanh

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22937
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 29/Aug/2018 lúc 4:57pm
Ngôi mộ hoang và Người Tình   (Lai Khê)   <<<<<




Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 15/Sep/2018 lúc 1:41pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22937
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 31/Aug/2018 lúc 11:17am

Con Gái Của Ba,

Bây Giờ Con ở Đâu ?!


%20

 

 

Kiều Kha

con của Ba

Kiều Kha

con gái của Ba

Thảm thay khúc ruột mù xa dãi dầu

 

Bây giờ con ở nơi đâu?!

Trời ôi,

Làm sao được biết con tôi thể nào?!

Từ con biền biệt tăm hao

Mẹ, cha canh cánh niềm đau biển trời

Lung linh hình bóng con côi

Sương phơi áo mỏng trên đồi xanh dâu

Bây giờ con ở nơi đâu?!

Bây giờ con ở nơi đâu?!

Càng nghĩ

Càng nhớ

Càng đau

Vuợt biên năm ấy xiết bao kinh hoàng

Con ơi trời biển mênh mang

Hải Âu biệt dạng vô vàn xót xa

Cõi hồn oằn oại phong ba

Sông Thương mạch nước chảy ra não nùng

Hỡi trời thăm thẳm mông lung

Hỡi con một thuở trùng phùng bao la!!

Con ơi cha yếu mẹ già

Hằng mong gặp lại con của Ba một lần

 

Hỡi đồng hương hỡi qúi nhân

Chỉ giùm tin trẻ vô ngần đội ơn

Một hoa sứ trắng cô đơn

Một con chim nhỏ chập chờn chít chiu

Rừng nghiêng đổ lá... hoang chiều

Vong nhân thơ thẩn đìu hiu bên rừng

Buồn, rừng suối chảy rưng rưng

Buồn, mây vắt võng lưng chừng đầu non

Ngậm ngùi mây hợp mưa tan

Ngậm ngùi trở giấc bàng hoàng chiêm bao

 

Trăng ơi Trăng ngự trên cao

Thấy con ta ở nơi nao bảo giùm

Ngời Trăng tỏa sáng không trung

Biết chăng Hồng Lạc trùng trùng khổ đau?!

Bỡi vì đâu,tại vì đâu

Hồng Kỳ giặc dữ ập vào điêu linh

Ngất trời tơi tả lửa binh

Để làm Một Cuộc Hoà Bình Tả Tơi

Lạc Hồng lưu lạc muôn nơi

Bóng chim thăm thẳm con ơi...

ngùi ngùi... ngùi ngùi..!!

 

NGUYỄN - MINH - THANH



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 31/Aug/2018 lúc 11:25am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22937
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 11/Sep/2018 lúc 7:04am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 02/Oct/2018 lúc 7:09pm
Chuyện Tình Buồn      <<<<<


Image%20result%20for%20chuyen%20tinh%20buon%20mau%20hoa%20khe


Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 02/Oct/2018 lúc 7:12pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22937
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 08/Oct/2018 lúc 8:59am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 18/Oct/2018 lúc 3:15am
Giot Nước Mắt Của Lính
 
Bản Tin Của Tạp Chí Dân Văn
LTS: Đây là một chuyện thật, không có một chút nào hư cấu, chúng tôi là một người lính tác chiến, chiêm nghiệm, có một sự huyền bí mà không giải thích được trong việc trùng phùng giữa cha con sau 40 năm, người SQ/BĐQ hoàn toàn không biết mình đã có một đứa con, TCDV chỉ hiệu đính các lỗi “hỏi ngã”, còn giữ nguyên toàn bộ lời kể của người trong cuộc.
TCDV cho đăng câu chuyện hi hữu này, để riêng tặng cô Hoàng Mai, chủ Snack-Bar tại mũi Nhà Bè các năm 1969, 1970 và các bạn MN đã từng đóng quân nơi này.
Germany, 12.03.2016
-        Điều Hợp Viên DĐ Ngôn Ngữ Việt,
-        Chủ Nhiệm TCDV.
Lý Trung Tín (TĐ51/LĐ6BĐQ/QLVNCH)

--------------------------------------------- 
Giọt nước mắt của lính

Đây là chuyện thật của người bạn học cũ của tôi và người lính Biệt Động Quân VNCH, sau 40 năm thất lạc nhau vì chiến tranh, một bất ngờ duyên trời đã cho anh chị gặp lại nhau, và tôi được nghe anh chị kể cho tôi về một phần đời của họ đầy vui, buồn, sợ hãi, chán chường của một người con gái đẹp đã vì hoàn cảnh mà ra nông nỗi ấy, của một người trai thời loạn thất chí, vì không làm tròn trọng trách đối với núi sông. Hôm được anh chị mời đến nhà chơi, qua một tách trà sen Huế (anh chị và tôi đều gốc Huế), anh nhìn vợ, âu yếm bảo:

- Em kể lại chuyện tình mình cho Mousti ( nick của tôi ) nghe đi, anh nghĩ Mousti sẽ thích chuyện tình đẹp của mình, đẹp như một cổ tích...và chị bắt đầu kể, anh ngồi nghe, lâu lâu thêm vào một vài chi tiết..

Anh nhìn tôi, tay vuốt tóc chị, nói với tôi:

- Cánh Hoa Thời Loạn. Xong quay lại nói với chị:

Anh phải đem em về lại Huế ngày nào đó nhé cưng.
Hạnh phúc thật là nhỏ bé mà đồng thời cũng thật lớn vô cùng.
Gặp nhau chỉ có một giờ
tình yêu bất tận chẳng ngờ tái sinh...( Thơ của anh )
*
Tôi mất anh đã hơn 40 năm rồi, ngày mà quê hương còn rền vang tiếng súng, tiếng đại bác.. của những trận chiến ác liệt như Pleime, Đồng Xoài, Bình Giả...
 
Lúc đó tôi còn là một người đàn bà 25 tuổi, mở một quán rượu gần đồn lính, thời bấy giờ không biết làm gì để nuôi cuộc sống còn của mình, cha mẹ chết, có người yêu đi lính cũng đã gục ngã trên chiến trường, nhà cửa tiêu tan vì chiến tranh, buồn quá, nhân có con bạn học cũ hoàn cảnh gần như tôi, nhưng nó còn đau hơn tôi là chồng nó bỏ gia đình đi tập kết ra Bắc, bỏ lại vợ con nheo nhóc buôn thúng bán bưng sống qua ngày. Hai đứa tôi, nhìn vẫn còn mặn mà lắm, ngày còn đi học là hai hoa khôi của Gia Long. Bây giờ nghĩ lại thời gian đẹp này chỉ còn trong hoài niệm. Tôi bây giờ đau đớn nói ra, mình đã là một cô gái giang hồ, nôm na là gái điếm. Khách của Vân và tôi gần như là lính, vì thành phố tôi đang ở gần một trại lính. Vân rủ tôi mở quán rượu ở đây vì vậy, lính là những người không có tương lai, sống chết không biết ngày nào nên họ ăn chơi bạt mạng, hễ cuối tháng lãnh lương ra là đến quán nhậu, rượu chè, gái...họ sống như vậy, lao mình vào những ly rượu mạnh hay những cuộc truy hoan để quên nỗi sợ những tiếng súng, những tiếng đại bác, những hầm chông cọc nhọn đang chờ, quên đi tử thần đang rình đâu đó..
 
 
Cũng may là Vân và tôi không còn gia đình, nếu không tôi không biết phải ăn nói làm sao với cha mẹ mình về cái nghề tôi đang làm! Lúc mới đầu chưa quen với nghề này, tôi ghét lắm những bàn tay vô tình để lên không đúng chỗ trên thân tôi, hay tiếng đùa giỡn quá trớn của những anh lính uống say, khi tôi đi ngang qua bàn, víu vai tôi xuống, ôm mặt tôi đặt chiếc hôn nặc nồng mùi rượu... có lúc tôi chán nản, muốn bỏ nghề đi tìm một nghề khác dù không đủ tiền nuôi mình, nhưng sau đó, ngày qua ngày, tháng qua tháng rồi cũng bắt đầu quen. Tuy vậy nhiều khi nhìn Vân ngả ngớn với mọi người, ăn mặc hở hang, lắm lúc nó ngồi luôn trên chân khách, ỏn ẻn như muốn làm tình luôn ngay tại chỗ. Tôi nhìn những cử chỉ ấy, rồi thấy tởm cho chính mình luôn. Có những chàng lính trẻ khuôn mặt còn non, có thể nặn ra sữa được, phần đông là học sinh bị rớt Tú Tài, đến tuổi phải đăng lính thì nhiều lắm là cỡ tuổi em trai út mình thôi, vậy mà phải chịu đựng khói thuốc trong căn phòng bẩn không mấy sạch, vì làm gì có thời gian để thay đổi chiếu, chăn, nhiều đêm phải tiếp vài người khách là gần trắng đêm rồi, vì họ cho rằng tiền trao cháo múc, có những lần tôi gọi là xáp lá cà vì sự hùng hục không chút dịu dàng, sao cho thoả mãn sinh lý là được, không tình cảm trong đó, chính tôi, tôi cũng chẳng muốn có tình cảm, tôi tuy là một gái điếm nhưng tôi vẫn trọng phần hồn mình, chuyện làm tình với bất cứ ai chỉ là chuyện kiếm cơm mỗi ngày, không ăn thua gì đến trái tim mình cả, quan niệm tôi là vậy.
Tôi cũng không bao giờ hy vọng hay ước mong ngày nào đó sẽ có một người sẽ đến yêu tôi và đưa tôi ra khỏi chốn bùn nhơ này. Rồi ngày tháng vẫn trôi qua, cuộc đời của Vân và tôi vẫn vậy, vẫn nhịn nhục chiều chuộng những người đàn ông thoáng qua đời chúng tôi trong vài giờ ngắn ngủi rồi ra đi, không để lại chút gì luyến tiếc. Tiền trao cháo múc mà! Rất hiếm những lần truy hoan có người nhìn tôi âu yếm, hay cử chỉ dịu dàng, chỉ có vừa mới chưa kịp cổi đồ là mình đã như con vật bị lên bàn mổ vậy, hùng hục, hùng hục, đúng như nghĩa của chữ này vậy, xong rồi, nằm thở dốc, hút điếu thuốc, mặc lại quần áo và mở cửa bước ra, không một lời chào hay một cái ngoắc tay từ giã.... Toán lính này đi, toán lính khác đến, không có gì thay đổi trong cuộc sống, không biết Vân nghĩ thế nào, phần tôi, tôi nhầy nhụa thêm như mình đang lội trong vũng bùn cuộc đời vậy.

Vậy mà, một hôm anh đến, anh vừa đổi đến đơn vị này; hôm ấy là ngày phép của anh, anh theo đồng bạn đến quán, gọi một chai martell thứ nặng nhất, mắc nhất uống với nhau. Con Vân đi ngang bàn, ngả ngớn với bạn anh, vuốt tóc anh, anh để tự nhiên cho Vân làm, chỉ mỉm cười chào lịch sự. Bàn anh gọi thức nhậu, Vân lo tán tỉnh với bạn anh, nó ngoắc tay nhờ tôi làm giùm. Tôi mang mấy dĩa đồ nhậu đến bàn anh, tôi thấy ánh mắt anh đậu lại trên mắt tôi một khắc, mỉm cười cám ơn; cà bàn gom tiền lại trả, anh móc túi cho riêng tôi một số tiền khá, anh cầm tay tôi, mở tay tôi ra, đặt tiền vào đó và đóng tay tôi lại, rồi thôi.
Chiều ấy, anh nói với Vân muốn tôi tiếp anh, tôi bằng lòng, đưa anh lên phòng. Trong lúc anh ngồi trên ghế, tôi lấy drap và áo gối mới thay, vì chăn chiếu cũ đã có nhiều người nằm trên ấy, mùi thuốc lá, mùi đàn ông, những dấu vết vàng vàng của những lần làm tình trước dơ dáy.

Không hiểu vì sao tôi lại đối với anh đặc biệt như vậy, tôi cũng tự đang hỏi mình. Anh có một khuôn mặt thật...tôi không biết tả ra sao, cái nhìn ấm áp khi anh nhìn tôi. Sửa soạn giường gối sạch sẽ, tôi như bình thường, mời anh lại giường, tôi đứng cởi đồ trước mặt anh, xong tôi dìu anh nằm dài xuống, và từ từ cởi quần áo cho anh, anh để yên cho tôi làm, xong tôi ngồi xuống giường, nằm xuống cạnh anh, anh dang tay anh ra cho tôi đặt đầu lên, xong quay lại vuốt tóc tôi, hôn lên môi tôi dịu dàng, làm tôi hụt hẫng, bất ngờ trước những cử chỉ trìu mến ấy, rồi anh bắt đầu cuộc chơi. Tôi thú nhận là lần đầu tiên từ ngày tôi làm điếm, tôi có cảm tưởng như tôi là người con gái còn trinh được người yêu yêu mình lần đầu, có một rung động không tên chuyền vào tôi, tôi đáp trả lại anh, tôi không gọi lần này là cuộc truy hoan của một người đàn ông và cô gái điếm. Xong cuộc, anh lấy tấm khăn để trên bàn lau cho tôi và anh, xong anh bảo tôi nằm yên đó, anh chồm dậy lấy bao Capstan châm lửa hút, chợt anh nghe tôi ho, anh giập tắt ngay điếu thuốc chưa kịp hút.
 
 

- Tôi làm em ho? Em không chịu được khóí thuốc? 

Tôi giật mình xin lỗi nói không phải vì khói thuốc mà ho mà tại tôi có cái tật từ nhỏ là nhạy cảm, và lúc nào bị xúc động là tôi ho. Nghe tôi trả lời, anh ôm đầu tôi lại gần và hôn tôi như anh đang hôn người tình của anh vậy. Rồi hứng lên, anh lại đưa tôi vào cuộc chơi thứ nhì.
Sau lần yêu này, anh đặt đầu anh giữa hai vú tôi, hôn lên đó, và hai vai anh bỗng rung lên, anh khóc nức như đứa trẻ làm tôi sửng sốt. Tôi ôm đầu anh, trìu mến, hỏi anh nguyên do nhưng anh không muốn trả lời...

Anh và tôi nằm yên như vậy một lúc lâu, tôi không còn nghe anh khóc nữa, tôi nhìn anh, anh đang ngủ trên ngực trần tôi. Tôi lấy tay gỡ nhẹ đầu anh, đặt đầu anh lên gối, nhìn anh ngủ, lòng tôi chùng xuống, một tình cảm mới mẻ hiện ra trong tôi không có tên.

Tôi đứng dậy đi tắm và trước khi xuống quán, tôi nhìn anh ngủ, tôi cúi xuống đặt lên môi anh một chiếc hôn hình như có thương yêu trong đó, tôi cũng không hiểu luôn cử chỉ này tại vì sao nữa! Từ ngày hành nghề, tôi luôn tránh nếu có thể những chiếc hôn môi, cái cảm giác lợm giọng hôi nồng nặc thuốc lá và rượu làm tôi muốn ói, nhiều khi khách hôn mình, tôi muốn đấm vào mặt khách một cái, đạp cái thân thể trần truồng xuống đất và chồm dậy mặc nhanh áo quần, chạy trốn như vừa gặp phải ma. Vậy mà chính tôi lại hôn anh.

Tôi xuống quán xem Vân có cần đến tôi không, nhưng tối nay ít khách nên Vân để cho tôi yên.

Tôi xuống bếp làm vài món ăn đem lên phòng, anh đã tỉnh, vẫn nằm yên trong tư thế con nhộng,trên môi một nụ cười hóm hỉnh, nhìn tôi như nói:

- Em thẹn thấy anh trần truồng phải không? Tôi cười nhẹ không trả lời, trả lời sao bây giờ trong hoàn cảnh tôi, một cô gái điếm mà lại mắc cỡ đứng trước người đàn ông trần truồng như gái nhà lành!

Tôi nói anh đi tắm rồi ra ăn cơm với tôi. Trong lúc anh tắm, tôi lại giường, nằm xuống úp mặt lên gối, ngửi mùi tóc anh và mùi mồ hôi anh còn thoảng trên đó, có chút gì thật dễ thương khó quên!

Xong buổi cơm chiều, hai đứa cởi hết đồ, ôm nhau nằm trên giường, chợt nghe anh thở dài, tôi hỏi anh tại sao và anh chưa hề hỏi cho biết tên tôi cũng như tôi chưa biết tên anh, anh nói:

- Anh với em, mình không có tương lai, mai anh đi rồi, biết sống chết ra sao, và em cũng vậy, ngày anh may mắn còn sống trở về, chắc gì mình còn gặp lại nhau, thì thôi nếu em có chút tình cảm cho anh thì cứ giữ vậy làm kỷ niệm, anh không hề xem em là cô gái giang hồ, chỉ xem em là người con gái bất hạnh của cuộc đời trong chiến tranh mà thôi.

À, mà đây, vừa nói anh vừa tháo ở cổ anh sợi dây chuyền vàng có miếng mề đay nhỏ bằng vàng hình trái tim, có khắc số quân của anh. Tôi ngơ ngác, giương mắt nhìn anh:

- Đó là quà cuối cùng của Mẹ anh cho anh trước khi bà mất trong Tết Mậu Thân Huế, bà cho thợ vàng khắc số quân của anh khi lỡ anh chết trận, có trên cổ anh vừa tấm thẻ bài lính và số quân này, như vậy chắc ăn hơn, bà nghĩ vậy. Bây giờ anh gửi tặng em, giữ lấy như quà cưới, vì hôm nay anh không ngờ trước một sự gặp gỡ dễ thương và đáng nhớ như vầy, xem như hôm nay là ngày cưới anh và em, và đêm nay là đêm động phòng của mình. Anh cảm nhận được tình cảm em qua mấy lần yêu nhau chiều nay, em đã đặt tình cảm em trong đó; anh hiểu rõ lắm, vì trước đây, anh cũng đã sống trong trụy lạc, mê đắm trong thuốc lá, trong rượu, cùng gái điếm với những đêm truy hoan nhưng thú thật em, chỉ vì lâu ngày thèm khát đàn bà, với em hôm nay, anh không thèm khát chuyện xác thịt, lúc đầu anh cũng nghĩ sẽ như những cuộc truy hoan với những cô gái giang hồ khác (trong cuộc nói chuyện, anh vẫn tránh chữ gái điếm, và tôi thầm cảm ơn, sự tế nhị này của anh.) nhưng hôm nay thì không, anh có cảm tưởng người đang nằm bên anh là người yêu của anh.
Anh xem em như người bạn đời của anh dù chỉ gặp nhau trong một đêm, và cuộc tình ngắn ngủi này sẽ theo anh suốt dọc quãng đường anh đi tiếp. Tôi tháo chiếc nhẫn bạc kỷ niệm sinh nhật 18 tuổi của mình, đeo vào ngón tay út anh.

Tôi tắt đèn, và hai đứa lại lao vào những trận yêu bỏng cháy đầy tình cảm...

1. Chút Quà Gửi Em
Liên tiếp tuần sau đó, tôi gặp lại người lính không tên này ngày chủ nhật. Anh đến quán cùng với vài người bạn lính khác, các anh và anh, nhất là anh vẫn oai hùng trong bộ quân phục với áo hoa rừng và chiếc mũ nâu, cũng vẫn khuôn mặt dễ mến mà từ tuần trước khi anh ra về, tôi ra điều kiện với Vân, nếu Vân còn muốn tôi giúp Vân trông nom quán tiếp Vân, tôi sẽ không tiếp khách nữa. Vì hình như tôi vẫn đợi anh đến, tình cảm tôi hình như có sư đổi thay, và hình như tôi có linh tính là cuộc đời tôi đang đến một ngã rẽ khác.
Anh ngồi chơi với bạn, uống một chai bia lạnh hiệu 33, trong không khí đầy khói thuốc lá, mùi rượu, những mẩu chuyện lính đầy tính chất gái giang hồ, và sexe; tôi lén để ý anh, anh chỉ ngồi cười nghe bạn, không hoà đồng vào với bạn, Vân lăng xăng ôm cổ người này đến người khác, bằng lòng cho khách hôn hít, sờ soạng...
Tôi đứng yên sau quầy rượu, giả vờ lau ly, cốc... Anh quay lại nhìn tôi, mỉm cười chào nhẹ bằng một nụ cười thật hiền và dễ thương. Anh làm hiệu cho tôi đến gần anh, anh đứng dậy kéo ghế cho tôi ngồi cạnh. Nhiều bận mấy đồng đội anh định giở trò ờm ờ, những cử chỉ như đối với Vân, anh đưa tay như bảo họ stop, và lạ lùng nhất là họ nghe anh răm rắp, tôi nghĩ trong toán lính này, anh là huynh trưởng của họ, vai vế lớn hơn.
Sau đó, chiều lại, mấy người lính kia đứng dậy đi về trại, anh ngồi lại quán, hỏi Vân với tôi có thể cho anh ăn cơm chiều ở đây không, Vân cười nhìn tôi, ý là cô nàng hiểu anh muốn gì.
Vân đứng dậy dọn ly cốc và vỏ chai không trên bàn, đem đổ tàn thuốc, đưa mắt cho tôi như bảo: Mày lo cho chàng đi. Mâm cơm chiều này tự tay tôi nấu, ngon hay vì cảm tình anh dành cho tôi mà anh thấy ngon?
Chiều nay anh uống hơi nhiều một chút, rồi ngà ngà say, Vân và tôi không để anh về một mình, giữ anh lại cho anh ngủ lại đây.
Sáng hôm sau, khi anh ấy dậy, tôi pha nước cho anh tắm, bưng điểm tâm lên phòng cho anh vì tôi muốn hưởng trọn với anh ấy những giờ phút cuối trước khi anh ấy trở về đơn vị.
Anh kéo ghế sát lại, bảo tôi ngồi cạnh anh, một tay anh cầm cốc café, tay kia anh ôm ngang người tôi, tôi cảm nhận được hơi nóng từ thân thể anh thấm vào người tôi, lòng tôi nhũn ra, nước mắt muốn ứa nhưng không dám vì sợ anh buồn biết tôi đang buồn.
Anh ôm tôi chặt trong vòng tay mạnh mẽ của anh, chặt nhưng trìu mến chứ không như lũ khách tôi thường gặp.
Rồi cũng phải đến giờ xa nhau. Anh cầm tay tôi, quàng cổ tôi đi xuống cầu thang, tôi không để ý đến bao thuốc Capstan anh quên trên bàn. Xuống quán, anh hôn má Vân từ giã, và hôn tôi nồng nàn, môi tôi và anh như bị gắn chặt bởi một thứ keo đặc biệt mà thiên hạ gọi là keo sơn. Vân hỏi anh bao giờ anh ghé ngang, anh chỉ cười, đưa tay lắc lắc như nói không biết được, rồi anh đi. Tôi nhìn theo bóng anh, tim tôi muốn ngất đi vì thương nhớ.
 
 

ôi bỏ Vân một mình vì sớm quá, quán chưa đông, tôi lên phòng, đóng cửa định ngồi khóc cho đã, cThợt nhìn thấy trên bàn gói Capstan anh quên, nhưng tôi biết anh xa rồi nên thôi. Tôi mở gói thuốc xem còn thuốc nhiều hay không, chợt tôi khựng lại; trong bao thuốc có một bao giấy gói, tôi mở ra xem: một photo anh ngày còn sinh viên chắc, vì trẻ lắm, một số tiền và một lá thư ngắn có theo một bài thơ.
- Em giữ hộ anh nhé khoản tiền lương tháng này anh vừa lãnh, vì lúc này anh chưa cần đến, và anh tặng em hình chụp ngày anh vừa 17 tuổi như một kỷ niệm. Em giữ số lương anh đến khi nào gặp lại anh em hãy đưa trả anh, còn nếu rủi không gặp nữa, em cứ giữ lấy phòng thân vì không ai biết ngày mai như thế nào với chiến tranh.
2-Gửi Em Chút Quà

(Bài thơ này anh viết trong đêm khi em ngủ ngon giấc bên cạnh, anh ngồi dậy viết vội tặng em.)

mai lên nớ bao giờ gặp lại
ta biết em trong phút si cuồng
thằng lính trận thấy lòng ấm lại
tình của mình dù chỉ một đêm....

mai lên nớ thèm môi nào ngọt
phút hiến dâng như cả đời mình
ta bỗng chốc thành thằng ngu độn
chín bệ vàng hoàng hậu nương nương

mai lên nớ say cùng chiến trận
dòng chữ ghi ân hận chút tình
bao giấy thuốc thơm tình lính trận
gửi cho người tấc dạ trung trinh

mai lên nớ nhớ thân thể nóng
em rướn người vào bóng trăng tan.....

Người lính không tên...
*
Trước khi anh đi, Anh hỏi tôi có tấm hình nào không? Tôi mở tủ, tìm được một tấm hình mặc áo dài trắng có gắn huy hiệu bông mai của trường Gia Long, hình này tôi giữ kỹ vì để nhớ thời gian mình còn là một nữ sinh trong trắng chưa vướng bụi đời. Tôi đưa cho anh, anh bảo như vậy những khi nhớ tôi anh sẽ nhìn cho nhớ mặt tôi vì hình lúc 10 năm về trước và tôi bây giờ không khác nhau bao nhiêu, tôi ngồi thừ trước hình anh... nước mắt chan hoà..

Sáng hôm sau, anh dậy sớm trở về trại vì đã hết phép. Anh hôn tôi nồng nàn, từ giã Vân và tôi. Tôi nhìn theo anh...hình như tôi vừa mất một cái gì thật thương qúi...

3. Giọt Nước Mắt Biết Đau

Quán Vân và tôi bây giờ khách thật đông, ngoài trại lính bên cạnh, tấp nập khách thương di chuyển hàng ngang thành phố, thêm gia đình vợ con lình cũng lên đây để thăm viếng chồng, anh, em trai cho tiện. Quán bây giờ không còn là ổ gái giang hồ mà là quán café và quán ăn. Vân cũng chán cái nghề mà thiên hạ vẫn gọi là nhơ nhớp và đê tiện. Vân trở về với đời sống bình thường, ngày ngày lo công việc rót rượu và các thức uống, mướn thêm người để tiếp khách, phần tôi vì tôi giỏi về nấu ăn nên Vân để trọng trách này cho tôi đảm đương.

Cuộc đời tôi không ngờ lại có sự thay đổi bất ngờ không tính trước, vì vài tháng sau, tôi đang thái rau cải, bỗng cơn buồn nôn thúc tôi chạy vào nhà sau ói, và tắt kinh: tôi mang thai với người lính không biết tên. 

Tôi nửa mừng nửa lo, mừng là tôi sẽ lên chức mẹ, nhận ra tôi đã yêu thương anh ta vô cùng và tôi muốn giữ cái bào thai này như một kỷ niệm đẹp của đời mình, lo là không biết rồi đây cái thai lớn lên, rồi tôi sẽ làm gì và đi đâu, tôi kể cho Vân nghe, tôi muốn bỏ quán đi về quê quán để sinh nở nhưng Vân cản lại, Vân bảo thứ nhất là tôi mang thai, không chồng lại mang tiếng đồ gái chửa hoang, thứ hai tôi lấy gì để sống và nuôi cháu bé, 

Vân bảo tôi hãy ở lại với Vân, nó rất tốt với tôi, thương tôi như ruột thịt, ở lại đây, dù sao tôi vẫn sống qua ngày được, tôi mềm lòng, cảm ơn Vân và tiếp tục công việc của mình.
Đêm đêm trước khi ngủ, tôi vẫn lấy hình người lính không biết tên ra nhìn, nhớ anh ấy như nhớ người tình hay người chồng của mình. Nhiều khi tôi nghĩ dại, lỡ anh chết ở chiến trường, chắc tôi khóc đến giọt nước mắt cuối cùng, và vui là biết bây giờ tôi còn thêm một kỷ niệm sống với anh sau mấy đêm thương yêu nhau thật như hai người tình.

Ngày tháng cứ theo nhau trôi qua, cuộc sống tạm ở quán Vân và tôi cũng đắp đổi qua ngày. Bây giờ tôi đã sinh nở xong, cháu bé trai ra đời trong tình thương của tôi và Vân.Tôi đặt tên cho cháu là Việt Nam, gọi Vân là dì Vân giùm cho cháu bé. Mỗi lần tôi ngồi cho con bú, tôi nhớ anh ấy kinh khủng, không biết bây giờ tiểu đoàn của anh đã trôi nổi ở chiến trường nào.

Quán chúng tôi bây giờ rất đông đảo, tấp nập đủ hạng khách, nhất là lính. Nhưng lúc này tôi cảm nhận hình như có gì không yên ổn lắm; trên gương mặt của những đám lính đến uống nước ở quán, lúc này có vẻ lo âu, tôi nghe lóm ở họ những tiếng di chuyển, thuyên chuyển, nào những địa danh như Đồng Xoài, Bình Giả...Pleime.

Tiếng máy bay trực thăng rền trên đầu, ngoài đường cái những xe tăng, xe cứu thương, xe jeep, từng đoàn convoi chở đầy lính không biết đi đâu... và càng ngày càng nghe tiếng súng, tiếng đại bác, tiếng bom gần lại. Tôi đâm lo, tôi nói với Vân, Vân cũng nghĩ như tôi, thấy tương lại bấp bênh quá.

Trong toán lính còn đóng ở đơn vi cạnh quán, có một người mặt mày thật chân hậu, dễ mến, xem ra hình như rất cảm nàng Vân và nàng ta cũng vậy, Vân đối với anh ta rất đặc biệt. Thấy anh mặc áo hoa rừng, trên vai có mang chữ V, tôi hỏi nhỏ một người lính bạn anh, anh ấy trả lời, ah, Hậu nó mang lon trung sĩ mà chữ nghĩa lính gọi là cánh gà đó chị.
Một trưa quán ít khách, tôi ngồi ru cháu bé ngủ ở nhà sau, để cho Vân và Hậu (anh ta tên là Nghĩa Hậu) nguyên buổi trưa. Lúc Hậu trở về đơn vị, Vân gọi tôi tâm tình, Vân thố lộ với tôi là hai anh chị mết nhau lắm, và Hậu bảo Vân, Hậu muốn cùng Vân thành vợ chồng ngày Hậu mãn lính. Vân bằng lòng chờ đợi anh. Vân thú hết với Hậu về đời Vân, nhưng Hậu bảo Hậu không nề hà dĩ vãng của nàng, Hậu bảo Vân và tôi là hai sắc hoa trong thời loạn. Vân rất vui và cảm động tấm lòng độ lượng của Hậu, Vân nói nhưng làm sao anh giới thiệu Vân với gia đình của Hậu ở Đà Lạt lần tới khi anh được nghỉ phép vài ngày, Hậu trả lời không cần phải nói rõ Hậu gặp Vân ở đâu, hơn nữa, anh lớn rồi và anh là lính cuộc đời nay sống mai chết nên anh muốn cho Vân hưởng hạnh phúc cùng anh cho dù vài tháng, vài ngày, vài giây.... Vân hứa sẽ lấy Hậu làm chồng và sau đó sẽ gửi quán lại cho tôi trông nom.

Tuần sau đó, Vân bảo tôi Vân sẽ về thăm người dì ruột ở Quảng Trị và hôm rồi sẽ trở về với tôi trông coi quán và chờ Hậu về. Nhưng Vân sẽ không bao giờ về với mẹ con tôi nữa. Chuyến xe đò trong đó có Vân đã trúng mìn, tất cả xe đều chết hết.

Thế là tôi lại bơ vơ thêm lần nữa, mất người bạn thiết, lạc người lính không biết tên mà tôi đã đem lòng yêu thương, tôi khóc hết nước mắt. Hậu cũng đi rồi, không biết phải ra chiến trường nào! Nhiều lúc nghe tiếng súng và đại bác gầm trong đêm, tôi ước có viên đạn lạc nào đó lấy luôn sự sống của tôi cho rồi, nhưng khi tôi nghe tiếng khóc con thơ bên cạnh, tôi sực tỉnh cơn ác mộng. Tôi đã tự hứa với mình là tôi sẽ nuôi cháu cho thành người vì tôi vẫn có hy vọng có thể ngày nào đó mẹ con tôi sẽ gặp lại người xưa.

Tôi vẫn tiếp tục ngày ngày cho quán, nhưng rồi cũng bối rối quá vì hình như có cái gì đó không ổn. Ngoài đường bây giờ từng đoàn người tay nải, tay bế tay bồng chạy, mà chạy đi đâu, không hỏi ai được, rồi thêm vào đó xe chở lính đầy đường, máy bay trực thăng bay rền trời, tôi cũng đâm hoảng, lúc này không còn thấy lính đến uống nước nữa.
...

Cuối tháng Tư 75.

Đang hoang mang chưa biết phải làm gì thì ngay sáng hôm đó, Hậu không biết từ đâu chạy bay vào quán, réo tôi bảo thu xếp vài thứ cần thiết cho cháu bé, bảo hai cô gái giúp quán cũng vậy, tôi đang còn tần ngần không biết đem gì bỏ gì thì Hậu hét to lên bỏ hết, bỏ hết, mau lên, xong Hậu bồng thằng Nam, một tay nắm tay tôi dắt ra cửa, hai cô gái một cô dùng dằng không chịu đi vì em ấy còn mẹ già và em trai nhỏ, bảo chúng tôi cứ đi, để quán lại em lo tiếp.

Hậu bồng Nam ra xe, trao cháu cho người lính ngồi trên xe, đẩy tôi và cô gái tên Uyên lên xe rồi nhảy phóc lên chỗ tay lái, cho xe chạy thẳng. Trên đường bây giờ thiên hạ như tổ ong vỡ, vừa chạy vừa gào vừa khóc, không còn biết chạy hướng nào nữa. Chiếc xe jeep Hậu phải lách tránh vừa người, vừa con voi lính, phải tay lái cừ lắm mới không đụng ai và cán ai, có nhiều người muốn níu xe lại xin cho quá giang, như Hậu không ngừng, thì giờ khẩn cấp quá rồi. Tôi như con ngáo, hỏi Hậu là thế nào, mới hay là miền Nam đã mất vào tay cộng sản, và chúng tôi đang tìm đường thoát.

Tội thằng Nam, chắc nó cũng cảm được gì đó không an, nó ngồi êm rơ trong lòng người lính. Xe chạy như vậy không biết đã bao lâu và hướng nào vì đi từ sáng sớm tinh mơ, giờ đã tối thui. Hậu bảo chúng tôi là sắp đến Vũng Tàu. Tôi và cô gái cũng không dám hỏi thêm.
Sau cùng, tôi nhận ra bãi biển Vũng Tàu với những hàng dừa như ngái ngủ bây giờ bị dựng đầu dậy bởi tiếng khóc, tiếng réo, tiếng cầu cứu loạn xà ngầu của đám người chạy loạn cũng đang tìm cách thoát ra khơi bằng đủ cách. Vì Hậu hình như đã tính toán sẵn trước nên khi vừa đến Bãi Trước, anh hối mọi người theo anh chạy xuống mé biển, ở đấy đã có sẵn một chiếc tàu quân sự nhỏ đang chờ chúng tôi, anh để người lính bạn nhảy lên tàu trước, đưa Nam cho anh ta, xong đến cô gái, đến tôi và Hậu cuối cùng, chiếc tàu nhổ neo chạy vọt ra khơi.

Chiếc tàu chúng tôi chạy ra xa, và tiếng máy hình như vừa ngừng lại, trước mắt là một chiếc tàu lớn của binh chủng Mỹ vì có treo cờ Mỹ. Chiếc tàu dừng hẳn lại, trên tàu Mỹ, có mấy người lính Mỹ thả xuống một cái thang bằng dây. Hậu bảo người lính bạn leo lên, Hậu buộc cháu Nam trên lưng anh ta, xong Hậu đỡ tôi leo lên sau, rồi đến phiên cô gái và Hậu.
Thường ngày, leo thang bằng dây như vậy thật là khó khăn, nhưng hôm nay, sự lo lắng và sợ hãi đã làm cho tôi như mọc cánh, leo thật dễ dàng. 

Lên đến tàu rồi, thấy Hậu lăng xăng nói chuyện với mấy người lính Mỹ anh gặp. Trong lúc đó tôi nhìn quanh, chiếc tàu lớn này chở có lẽ đến 5, 6 ngàn người vừa lính Mỹ, vừa quân nhân Việt Nam Cộng Hoà, vừa đám người tị nạn như tôi, vợ con quân nhân...những người đầy may mắn chạy thoát đặc biệt như vầy.

Qua khỏi cơn kinh hoàng, bất chợt tôi vừa nhận ra mình sẽ rời xa mãi Việt Nam thân yêu, tôi quay lại nhìn về phía Vũng Tàu, xa lắm nên tôi không còn thấy và nghe tiếng đám người chạy loạn, chỉ thấy lửa; toàn lửa đỏ cả một góc trời và đám khói đen nghịt bốc cao, Vũng Tàu vừa bị đốt. Tôi thở dài, thế là quê hương thân yêu tôi đã bỏ lại sau lưng mình! 

Tôi tìm anh lính để cám ơn anh đã lo cho Nam, tôi tìm Hậu để muốn nói một lời nào đó, và để hỏi Hậu về tin tức mình sẽ đi về đâu...Hậu thấy tôi đến gần, anh nhìn tôi, nở một nụ cười đón tôi nhưng thật buồn, rồi thôi, hai chúng tôi đứng bên nhau không nói thêm gì nữa, tôi thấy mắt Hậu nhìn về phia tôi cũng vừa nhìn lúc nãy, đôi mắt anh chứa một nỗi buồn kín đáo, trầm lặng, tôi biết anh đang nghĩ đến quê hương vừa bỏ mất, đến Vân, tình yêu đầu đời của anh nay chỉ còn là một hoài niệm khó quên, hình ảnh của những mảnh thịt da tan tác đó đây, nhầy nhụa máu cùng đất đỏ cao nguyên của Vân, của những người lính đồng đội của anh đã nằm xuống, của những người dân chết vì một viên đạn, một mảnh bom vô tình rơi trúng trên một quãng đường nào đó của quốc lộ...
 

4 - Giọt Nước Mắt Trở Hồng Long Lanh
( Tiếp theo giọt nước mắt biết đau )

Trên chiếc Hàng Không Mẫu Hạm Hoa Kỳ chở dân tị nạn chúng tôi bây giờ bớt người, vì đến đảo Subic Bay, có khu trục hạm khác đang đậu chờ để chia bớt số dân di tản chia làm hai ra, dân trên tàu chúng tôi thấy tàu kia tản bớt còn ít người nên ùn ùn xuống bớt tàu nầy qua bên tàu kia. Không biết là chiến hạm này sẽ đi Canada hay Úc thì tôi không rõ lắm.
Thấy bớt được người, Hậu bảo anh bạn lính, Uyên và tôi cứ ở lại đây vì Hậu bảo tàu này chắc sẽ qua thẳng đảo Guam.

Tôi mở ngoặc nói về người Mỹ một chút, những ngày trên tàu, hầu hết lính Mỹ đối với đám dân tị nạn chúng tôi rất tốt, chúng tôi mỗi ngày vẫn nhận được 3 bữa ăn có cơm chỉ khổ là họ không biết biết nấu kiểu Việt Nam, nhiều nước quá nên cơm nhão, nhưng dù sao khi đói ăn gì vẫn thấy ngon, đồ ăn toàn là đồ hộp như thịt hộp...các cháu bé thì được phát thêm sữa bột Mỹ...Tôi cám ơn những người Mỹ đã đón nhận chúng tôi với nỗi thông cảm sâu sắc tình người.

Vì bớt người nên chúng tôi không còn nằm như cá mòi sắp lớp nữa, Hậu tìm được cho bọn con gái chúng tôi một chỗ trên boong, thoải mái. Những người lính Mỹ đem cho chúng tôi mỗi người một tấm nệm bằng cao su,một tấm mền.vừa ấm cũng vừa êm nên cũng đỡ khổ cho tấm lưng gầy, mấy hôm nay bị cong vì nằm hụt chỗ.

Đêm nay, đêm bình yên đầu tiên tôi nhìn thấy trăng, bao ngày lênh đênh trên biển, sự lo âu và đau buồn vì cớ cái chuyện rời bỏ quê hương đang bị dày xéo bởi chế độ khắc nghiệt độc tài sau chiến tranh. Nhớ cái chết thảm thương tội nghiệp của Vân, tôi như người ngồi trên lửa và mắt tôi như mù đi. Đêm nay ngồi ôm cho bé Nam ngủ, tôi ngồi cạnh Hậu, Sang – anh lính chưa quen và Uyên, tôi chợt thấy trên nền trời đêm xanh trong, có mặt trăng và những ngôi sao lấp lánh, chợt tôi nhớ đến 4 câu thơ của người lính không biết tên đọc cho tôi nghe lúc anh nằm cạnh, anh vuốt tóc tôi âu yếm:

Giữa khuya tay gối đợi chờ
em đi vào giấc mơ đời lênh đênh
trăng vào xiêm áo nhẹ tênh
oằn thân ngà ngọc cong vênh cội nguồn....

 
 
mắt tôi chợt ướt, tôi lắc đầu cho quên đi kỷ niệm, vì giờ này đâu còn là lúc để nhớ mà chỉ lo ngay ngáy ngày mai mình và con sẽ ra sao, tương lai sẽ đi về đâu...

Lênh đênh trên biển như vậy, sau 11 ngày, thì chiến hạm đến hải phận của đảo Guam. Trước khi cho chúng tôi sang những chiếc tàu nhỏ của tuần dương hạm để vào đảo, họ phát cho chúng tôi ít quần áo, các người đàn ông mỗi người một chiếc sơ mi chim cò kiểu người Phi Luật Tân .

Bỗng tôi nghe có tiếng thét từ trên boong cao, tôi đưa cháu Nam cho Uyên, đưa mắt tìm Hậu nhưng không thấy, tôi chạy vội leo lên boong, thấy Hậu và một nhóm người đang nhìn xuống biển, tôi vội vàng chạy đến tìm Hậu, đưa mắt hỏi. Chỉ nghe Hậu thở dài và đám người kia phần nhiều là quân nhân VNCH, mặt họ thật buồn.

Hậu kể cho tôi nghe câu chuyện từ đâu có tiếng thét nhói tim người nghe lúc nãy: Lúc mọi người được phát  cho quần áo, chiếc áo sơ mi chim cò kiểu Phi Luật Tân vẫn mặc. Như mọi người quân nhân khác, Hậu cầm chiếc áo trong tay, tần ngàn không biết nên cởi bộ quân phục đang bận trên người để thay, chợt Hậu thấy đằng xa một anh quân nhân cầm trên tay chiếc áo, vẻ mặt như đang nghĩ ngợi một điều gì quan trọng, có lẽ anh ta đang đối diện với một sự thật tàn nhẫn không thể chối bỏ hay quên được: Đó là danh dự tổ quốc, lý tưởng của người làm trai đã hy sinh cả cuộc đời, tuổi trẻ, gia đình để bảo vệ miền đất tự do của anh đã mất hết. Trong một khắc ngắn, như đã quyết định, anh leo lên bờ boong tàu, lao mình xuống biển mà sóng đã nuốt chửng mất hút thân anh trong biển mênh mông trong lúc Hậu chưa kịp làm một cử chỉ gì để giữ anh lại! Vậy là bao nhiêu chí lớn trong một khắc ngắn đã chìm theo những bọt sóng vô tình....Hậu nắm tay tôi, ngậm ngùi cho hoàn cảnh của những người cầm súng không giữ được quê hương! Hậu nghĩ trong đầu, khi cầm chiếc áo chim cò anh vừa nhận được, anh cảm thấy lòng anh rất thẹn, thẹn vì anh thấy mình thật bất lực, anh là một quân nhân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, trong tay anh cầm súng cùng với anh em chiến hữu cố chiến đấu đến phút cuối cùng, vậy mà không làm tròn được sứ mạng của người trai lúc quê hương đang gặp nguy biến, không ngăn chận được kẻ thù, anh cũng đã nghĩ đến chỉ có cái chết mới có thể xin tạ lỗi cùng quê hương, nên anh rất hiểu tâm trạng người quân nhân vừa đã nhảy xuống biển tự vẫn vừa rồi.

Tôi nhìn Hậu, thấy sự xót xa trong mắt Hậu, tôi vội bấu chặt lấy cánh tay Hậu:

- Hậu, Hậu đừng làm vậy, đã không có ích gì mà còn làm cho Vân dưới suối vàng buồn thêm, và còn những người còn sống, đồng bạn Hậu, mẹ con chị còn cần đến Hậu.
Vào đến đảo, chúng tôi cũng được đón tiếp đàng hoàng. Mỗi gia đình được chia cho một căn lều vải. Chúng tôi là những người gần như đầu tiên đến đảo, được đối đãi rất tốt. Mỗi ngày nhận được 3 khẩu phần. Cuộc sống trên đảo cũng tạm qua ngày trong lúc chờ đợi Uỷ Ban Liên Hiệp Quốc quyết định cho tương lai của những người di tản. 

Trên đảo có một văn phòng đại diện Liên Hiệp Quốc, họ cần những người biết tiếng Pháp, tiếng Anh để làm thông dịch viên. Hậu và tôi tình nguyện vào làm vì chúng tôi nói thạo 3 thứ tiếng.

Sau đó thấy Hậu độc thân, họ hỏi anh muốn đi đâu và có thân nhân ở đâu, Hậu bảo anh đã liên lạc được với vợ chồng em gái anh ở Mỹ và chịu bảo trợ cho anh, và anh đã được đồng ý cho đi Hoa Kỳ. Sau đó đến tôi, thấy tôi thạo tiếng Anh, và có con nhỏ, họ bảo tôi được quyền ưu tiên chọn xứ, và sau đó do sự bảo trợ của nhà thờ, họ tìm được cho tôi một gia đình hai vợ chồng người Mỹ cao tuổi đang cần một người giúp việc nhà, họ liên lạc với gia đình này và tôi được nhận.

Cuộc đời mẹ con tôi đến một ngã rẽ may mắn, nhiều khi nghĩ lại, tôi cũng tự hỏi có phải tôi đẻ bọc điều không, hay định mệnh do Trời Phật xếp đặt.

Ông bà Mỹ đối với mẹ con tôi như người nhà. Ngoài những giờ làm việc, bà chủ cho tôi theo học lớp tiếng Anh cho người ngoại quốc, vì dù tôi thạo tiếng Anh, nhưng ở Mỹ họ nói mau quá khó nghe vì nuốt chữ. Và vì chợ búa, món ăn tôi chưa thạo việc lắm, chỉ có cái vui là ông bà rất thích đồ ăn Việt nên mê những món tôi nấu.

Ở đây có nhiều hội từ thiện các nhà thờ, thường cho mẹ con tôi quần áo …có mặc rồi nhưng chưa cũ lắm, cháu Nam thì ban ngày được đi mẫu giáo, tóm lại, cuộc đời tôi không đến nỗi nổi trôi lắm nếu hai ông bà Mỹ không mất đi. Từ đó, tôi lại phải lo tìm việc khác để làm nuôi con.

Tôi nhờ nhà thờ tìm cho tôi chỗ làm, và tôi được nhận vào nấu ăn cho một nhà hàng Việt, với sự dành giụm, mấy năm sau tôi mua được một căn nhà nhỏ đủ cho mẹ con tôi ở. Tôi tiếp tục như vậy và nuôi con cho đến lúc nó ra đại học. Bây Giờ Nam đã là một luật sư. Nó tìm được chỗ làm tốt cùng với một luật sư người Mỹ gốc Việt.

Hiên nay tôi đã ngoài lục tuần. Tôi vẫn sống độc thân nuôi con, dù có rất nhiều người thương và xin cưới tôi. Trong tim tôi, bao giờ cũng chỉ có một hình bóng duy nhất của người lính không biết tên mà tôi vẫn xem anh như chồng mình. Tôi cứ cầu nguyện Trời Phật cho tôi gặp lại anh ấy dù chỉ một lần là đủ mãn nguyện rồi. Nam từ nhỏ vẫn hỏi cha nó đâu, tôi giải thích cho con cha nó là một người lính trước đây của binh chủng Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Hoà.

40 năm sau
.......


Buổi tối hôm đó, tôi đi dự đám cưới con của bạn, tôi không thể nào ngờ là mình đã gặp lại người xưa. Anh đưa tôi về nhà, tôi mời anh hôm sau đến chơi và để cho anh biết một chuyện mà anh không bao giờ ngờ đến.

Trong một bữa tiệc cưới con trai bạn, tôi đi dự hôm đó, mặc chiếc áo dài tím như thời còn là học trò nhưng hở cổ, thân người vẫn mỏng mảnh, và nhìn chung sắc diện cũng còn dễ coi, chưa bị thời gian hằn những nếp nhăn mặc dù đời tôi quá ê chề lúc trẻ. Trên cổ trắng ngần của mình, sợi dây chuyền người lính không biết tên đã tặng vẫn nằm yên cùng chỗ khi người ấy đeo vào cho tôi. Tôi đang đứng nói chuyện với mẹ cô dâu, chợt thấy có một người đàn ông tóc hơi hoa râm nhìn tôi chăm chú, tôi cố nghĩ tìm xem có quen không, thì người ấy đã đi về phía tôi, nhìn đăm đăm vào khoảng cổ trần của tôi:

- Xin lỗi bà về tội tôi đường đột sắp hỏi môt câu, nếu có gì thấy thất lễ, mong bà lượng thứ cho. Chưa kịp trả lời bằng lòng hay không, ông ta tiếp theo:

- Xin lỗi bà, làm sao bà có sợi dây chuyền này? bất giác tôi nhìn tay ông ta đang cầm cốc rượu, một chiếc nhẫn bạc quen thuộc trên ngón tay út, cả hai người, ông ta và tôi đánh rơi hai cốc rượu xuống đất cùng một lần theo sau hai tiếng như thoát ra từ ngực mỗi người:

- Anh

- Em... 

Anh đưa tôi về nhà, tôi mời anh hôm sau đến chơi và để cho anh biết một chuyện mà anh không bao giờ ngờ đến.

Hôm ấy tôi làm một bữa cơm thật giản dị nhưng để hết thương yêu vào những món mà ngày anh đến quán Vân tôi đã tự tay nấu cho anh và nhân thể tôi gọi Nam đến ăn cơm nhưng chưa cho con biết vì sao, tôi căn dặn con là phải đến. Hôm nay tôi cũng sửa soạn làm đẹp một chút và nhìn gương, tôi rất tự hào mình vẫn còn những nét xưa.

Nghe chuông cửa reo, tôi vội vàng ra mở cửa, thấy anh ôm trên tay một bó hồng đỏ và chào tôi bằng một nụ cười thật tươi, tôi sững hết một phút, ban ngày nhìn rõ, nụ cười đó của anh vẫn dành cho tôi những ngày ngắn ngủi thương yêu nhau ngày xưa. Anh đưa cho tôi bó hồng, anh bảo có 40 đoá hoa, tôi hỏi tại sao lại 40 đoá hoa?

- Vì đã 40 năm anh chưa gặp lại em. Và mỗi một đoá hồng là một năm tròn anh nhớ em đó em.

Nước mắt tôi ứa ra vì cảm động. Tối qua ở tiệc cưới, anh bảo anh vẫn ở một mình đến bây giờ vì cũng thầm mong ngày nào đó gặp lại tôi.

Tôi mời anh vào nhà, mời anh vào salon, mời anh ngồi ở chiếc ghế bành một chỗ bên tay trái tôi, tôi mở chai champagne, rót vào hai cốc, mời anh uống rượu khai vị. Anh nắm tay bảo tôi ngồi xuống cạnh anh, anh ôm tôi hôn nồng nàn như đêm đầu tiên mới gặp.

Qua hết những phút cảm xúc, tôi đứng dậy, đi lại bàn viết, mở hộc tủ lâu nay tôi vẫn khoá, tôi lấy bao thuốc lá Capstan cũ đưa cho anh, anh ngạc nhiên nhìn tôi, tôi ra dấu cho anh mở đi.

Anh cầm bao thuốc, mở ra, anh như sững lại: trong bao thuốc anh để lại trên bàn khi anh trở về đơn vị còn y nguyên số tiền lương tháng cuối cùng anh để lại cho tôi, tấm ảnh cũ của anh và bài thơ anh viết vội tặng tôi trước khi anh lên đường. Anh lặng người đi mấy phút, xong anh kéo tôi lại, dang tay ôm trọn tôi trong vòng tay anh.
 

- Sao em lại để dành số tiền này vậy?

- Vì đó thuộc về những kỷ niệm ít oi anh để lại cho em trước khi anh đi.

- Anh bảo em nếu em cần thì tiêu, không thì ngày gặp lại, em trả lại anh cũng được

- ???

- Vì em không phải cần đến số tiền đó nên...

Ngay lúc ấy, cửa nhà mở, cháu Nam bước vào, thấy anh, nó khựng lại một giây, xong bước lại gần, đứng cụp hai chân với nhau và đưa tay phải lên trán chào anh theo kiểu nhà binh.Thấy anh bỡ ngỡ, Nam lên tiếng trước:

- Con chào Ba, rồi đến gần hôn anh trên má.

Anh ngạc nhiên nhìn Nam rồi nhìn tôi, tôi chưa kịp lên tiếng thì Nam đã giành nói:

- Thưa, con biết là Ba, vì khi con vừa bước vào phòng khách, thấy Ba ngồi trên chiếc ghế mà Mẹ con không mời ai ngồi trên ấy, kể cả bạn bè của Mẹ hay ngay cả chú Hậu, vì Mẹ con vẫn nói với con là người đàn ông nào bước vào nhà và được Mẹ con mời ngồi vào chiếc ghế này sẽ là cha của con mà thôi, vì vậy mà con biết là Ba.

Anh nhìn tôi, tôi hiểu ra, tôi nói :

- Mấy tháng sau khi anh đi, em đã có thai, và đây là con trai chúng mình đấy anh, con tên là Nam, Nguyễn Việt Nam, em khai họ mẹ vì không biết anh tên gì và họ gì, anh cười thật tươi:

- Anh là Cường, Nguyễn Việt Cường.

- Còn em là Trầm Hương, anh trả lời hộ tôi, vì phía trong chiếc nhẫn em tặng anh đêm đó, anh đọc thấy tên em khắc trong nhẫn : Tôn Nữ Trầm Hương, rồi ôm tôi âu yếm...Hạnh Phúc thật bất ngờ còn đến với những người bạc hạnh như tôi.

st.
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 31/Oct/2018 lúc 12:53pm

Chia ly nghẹn ngào


- Đang kể tên các nghệ sĩ thuộc thập niên 60/70 để người bán hàng tìm trên computer, bà Lan chợt nghe ông Mỹ, sắp hàng sau bà, nhắc khẽ:

-Bà tìm những ca sĩ đó mà tại sao bà không tìm Ricky Nelson, Dean Martin, Frank Sinatra?

Bà Lan cười, nói với người bán hàng:

-Em làm ơn tìm giùm CD của các ca sĩ mà ông này vừa nhắc – nhất là Dean Martin.

Ông Mỹ phía sau lại tìm cách làm quen:

-Tại sao bà thích Dean Martin?

-Vì tôi thích tiếng Accordéon.

-Đúng. Bà có trí nhớ tốt.

-Cảm ơn ông.

Sau khi trả tiền, bà Lan cầm bao ny lông có mấy CD bên trong, đi ra cửa. Ông Mỹ vội rời hàng, bước theo, tự giới thiệu:

-Tôi là John Smith. Rất hân hạnh được gặp bà.

Bà Lan bắt tay John:

-Rất vui được gặp ông. Tên tôi là Lan.

-Bà mua những tác phẩm vang tiếng một thời, có lẽ bà chơi đàn, phải không ạ?

Bà Lan tránh câu trả lời:

-Ông nhớ tên nhiều nghệ sĩ hơn tôi, điều đó chứng tỏ ông là một người am hiểu nhiều về âm nhạc. Đúng không?

-Đúng. Làm thế nào tôi được hân hạnh đàn cho bà nghe?

-Cảm ơn ông. Ông chơi đàn gì?

-Piano.

-Tuyệt vời! Nhưng tôi có việc, phải đi. Xin lỗi.

Vừa bước theo bà Lan ra xe, John vừa hỏi:

-Thưa bà, tôi rất cần một phụ nữ cùng trang lứa với tôi để thỉnh thoảng đi nghe hòa nhạc. Bà có cho phép tôi…

John dừng lại, nhìn bà Lan với ánh nhìn trìu mến. Bà Lan đáp:

-Rất tiếc!

-Tại sao? Nếu bà là một phụ nữ có chồng thì tôi đã thấy nhẫn cưới trên ngón tay áp út nơi bàn tay trái của bà.

-Thưa ông, chồng tôi bị cộng sản Việt Nam (c.s.V.N.) nhốt tù từ năm 1975. Còn nhẫn cưới, tôi phải bán, lấy tiền mua gạo và vật dụng để mở quán cơm dĩa nơi ga xe lửa ở kinh tế mới!

-Chúa ơi! Sao xót xa đến thế!

Vừa nói “Cảm ơn” bà Lan vừa bấm nút để mở khóa xe. John vừa mở cửa xe cho bà Lan vừa nói:

-Mong bà hiểu, tôi không còn ở lứa tuổi thanh xuân để bảo rằng mình bồng bột, bị “tiếng sét ai tình”. Nhưng không hiểu tại sao chỉ mới gặp bà, tôi lại rất muốn làm quen với bà. Bà là một thiếu phụ đẹp, thông minh và quý phái.

-Cảm ơn ông. Nhưng xin lỗi, tôi phải đi.

-Vâng, chúc bà một buổi chiều tuyệt đẹp.

Lời chúc của John ngọt ngào như thế, nhưng trên đường lái xe về nhà, bà Lan lại cảm thấy tủi thân!

******

Sau khi giúp bà Lan dời vào chung cư Woodlands Senior Independent Living, các con của bà vội vàng giã từ Mẹ để kịp về đi chợ, đưa con đi tập bơi, học đàn, chơi basketball, v.v… Bà Lan cười nhưng bất chợt, nỗi buồn mênh mông cùng niềm cô đơn đậm đặc từ đâu ùa về, vây kín tâm hồn! Chờ hai chiếc SUV khuất ở khúc quanh, bà Lan mới quay vào chung cư.

Vừa đến cửa phòng, chợt nghe tiếng Piano dìu dặc trong tình khúc None But The Lonely Heart của Tschaikowsky, bà Lan thở dài, đi về hướng phát ra tiếng đàn.

Đến cửa phòng khánh tiết, thấy một phụ nữ ngoại quốc tóc bạc phơ đang say sưa đàn và người đàn ông tóc hói, ngồi trên xe lăng, gục đầu – không biết ông đang nghe nhạc hay là ông đang ngủ – bà Lan đứng lặng một chốc rồi trở về phòng.

Mở computer, vào “Inbox”, thấy youtube có tựa hơi lạ – Anh Ở Đây – bà Lan mở ra. Tiếng acoustic guitar dạo phân đoạn đầu nghe trầm trầm rồi tiếng hát nghẹn ngào: “Anh ở đây, bạn bè anh cũng ở đây. Áo rách xác xơ vai gầy, cùng chung kiếp sống lưu đầy. Anh ở đây, ngày ngày cơm chưa đầy chén... Toa liền toa, tầu đi trong ánh hoàng hôn, tiếp nối những dư âm buồn…” (1) Tiếng hát vừa đến đây, màn ảnh computer chợt mờ nhạt!

Trong không gian nhạt nhòa vì nước mắt, bà Lan tưởng như có thể thấy lại hình dáng tàn tạ, đói khổ của bà và các con ở kinh tế mới.

Chiều Thu năm 1976, bà Lan vừa gắp vài miếng dưa leo để vào dĩa cơm thịt nướng, chợt nghe Hưng – con trai của bà đang – hát khe khẽ theo âm điệu bài Quốc ca của c.s.V.N.: “Đoàn quân cộng nô kia như một lũ chó. Chúng bây từ đâu mang điêu tàn vào Nam. Từ ngoài Bắc suốt kiếp chúng bây nghèo đói. Lết vào Nam vơ vét không ngừng tay…” Bà Lan hãi quá, run tay, làm rớt mấy miếng dưa leo. Vừa khom xuống lượm mấy miếng dưa bà Lan vừa bảo:

-Hưng! Im đi, con! Ở tù đó, con!

-Bạn con hát thiếu gì. Hát mà cũng ở tù, kỳ thiệt!

Bà Lan ôm Hưng, giải thích rất ngắn gọn. Hưng xụ mặt, bưng dĩa cơm đến bên cửa sổ toa xe, mời hành khách. Một người đàn ông gầy gò từ cửa sổ toa xe chồm ra nói gì với Hưng rồi ông ấy nhìn bà Lan chăm chăm. Chỉ một chốc sau, ông này rời xe lửa, đi nhanh về phía bà Lan, hỏi nhỏ:

-Xin lỗi, phải chị là vợ của thiếu tá Hùng hay không?

-Ông là ai?

-Đúng rồi! Nghe giọng của chị, em nhận ra rồi.

-Xin lỗi, tôi không biết ông.

-Em là Năng, hồi đó ổng và chị đại diện nhà trai, cưới vợ cho em đó.

-Ô, trung úy Năng! Anh gầy và đen quá, tôi nhận không ra. Vợ con anh khỏe không?

-Cảm ơn chị, vợ con của em cũng lam lũ, cực nhọc như chị và mấy cháu vậy. Em thấy cậu bé bán cơm sao giống ổng quá, em hỏi, nó xác nhận. Thế là em rời xe lửa.

-Từ mấy năm qua Mẹ con tôi không được tin tức gì của ông ấy cả; không biết ổng còn sống hay không nữa!

-Chị chưa đi thăm ổng lần nào sao?

-Biết ổng ở đâu mà đi! Mẹ con tôi bị đuổi đi kính tế mới thì dù ổng có viết thư, nhắn tin về địa chỉ cũ, cũng chẳng ai biết tôi ở đâu mà đưa!

-Chuyện hơi dài. Chị bảo mấy cháu coi hàng, chị ngồi đây, em kể chị nghe.

Bà Lan vừa dặn ba đứa con vừa chỉ về phía Năng:

-Má phải nói chuyện với chú kia để tìm tin tức của Ba. Nếu hai chị của các con mót khoai, mót củi về sớm, các con nói hai chị phụ với các con, nha!

-Dạ. Con biết rồi.

Ngồi cạnh Năng, trên chiếc ghế nhựa thấp, bà Lan nghe Năng hỏi rất nhỏ:

-Trước khi đi “đăng ký” vào tù, thiếu tá có nói với chị điều gì hay không?

-Khi các cuộc rút quân từ vùng I bắt đầu, tôi thấy ông nhà tôi trở thành một người hoàn toàn khác! Sau khi Saigon thất thủ rồi radio kêu gọi sĩ quan “Ngụy” đi “đăng ký”, chính tôi khuyên ông ấy nên trình diện để được hợp thức hóa tình trạng “rã ngũ” của quân đội miền Nam. Ổng nhìn tôi, cười “nửa miệng”, bảo: “Em lớn lên trong một xã hội tự do, nhân bản, đạo đức cho nên em dễ tin người. Còn anh, anh đã thấy cảnh ông bà Nội, ông bà Ngoại của anh bị ném đá đến chết trong thời cải cách ruộng đất; Bố Mợ cùng em của anh chết nát thây trên chuyến xe đò bị giật mìn ở Cái Sắn. Tuổi thơ của anh được vun bồi bằng ngần ấy thù hận thì không thể nào anh tha thứ cho những kẻ đã tạo nên những thảm cảnh đó!”

-Chị có biết là ổng đã thành lập được một nhóm phục quốc khoảng trên dưới 30 người hay không?

-Trời!

-Trưa 28 tháng 04-1975, họp nhau tại văn phòng, sau khi nghe ổng trình bày, thuyết phục, tụi em, gồm thằng Nam, thằng Lành, thằng Hiếu, thiếu úy Phúc, trung úy Quốc, đại úy Đức, thiếu tá Dân đều đồng lòng theo ổng để làm “điều phi thường”!

-Trời! Rồi sao nữa, anh nói nhanh đi, tàu sắp chạy rồi.

-Dạ, không sao. Trễ chuyến này em đi chuyến sau. Em cố ý tìm chị mấy năm qua, nhưng quanh nhà chị chỉ toàn người từ Bắc vô không hà, không ai biết chị. Hôm nay bất ngờ gặp chị, em mừng lắm! Em chỉ muốn chị và mấy cháu biết rõ về ổng để được hãnh diện về ổng.

-Bây giờ ổng ở đâu, anh Năng?

-Ngày 05-05-1975, ổng giả vờ đi “đăng ký” học tập; thật ra ổng và tụi em đi ra Đồng Bò – mật khu cũ của Việt Cộng – trốn trên đó để chờ kết nạp với nhóm của ông Đặng Hữu Thân, Hải Quân, nhóm của anh Đức và nhóm của thầy Nguyễn Hữu Dưỡng.

Sau khi được tin ông Thân bị bắt, vì muốn tất cả rời Đồng Bò để khỏi bị bại lộ, ổng bảo Quốc và em đem tin đến thầy Dưỡng và anh Đức. Không ngờ trên đường đi, Quốc và em bị bắt. Quốc và em bị tụi c.s.V.N. tra khảo, đánh đập rất dã man. Nhưng Quốc – nhờ có võ – tránh né được. Biết Quốc có võ, tụi c.s.V.N. huy động bộ đội đông gấp mười để “dần nát thây” mà Quốc cũng vẫn không khai. Lần cuối cùng, bị tụi c.s.V.N. bảo lên văn phòng “làm việc”, Quốc thấy một vệ binh mang súng ra cổng thay phiên gác. Chờ lúc tên quản giáo và tên vệ binh sơ ý, Quốc quật ngã tên vệ binh, cướp súng, bắn tên quản giáo còn tên vệ binh bỏ chạy. Quốc quay súng, để nòng súng dưới cằm, bấm “cò”, chết!

-Trời! Tội quá!

-Riêng em, em vẫn không khai. Tụi c.s.V.N. cũng “dần” em “nhừ xương” rồi chuyển em về trại tù Nghĩa Phú. Em gặp lại thiếu tá Hùng tại đó…

Nói đến đây, Năng nghẹn lời! Nhìn chuyến xe lửa khuất dần cuối nẽo xa, Năng tưởng như có thể thấy lại hình ảnh lếch thết của ông Hùng vào những buổi chiều cùng đoàn tù trở về trại sau một ngày quần quật chặt cây, cưa gỗ để xây trại tù, tự nhốt mình!

Một buổi chiều, khi đoàn tù vừa về đến trại, Năng thấy toán vệ binh áp giải ông Hùng đến phòng quản giáo. Tên quản giáo đứng trước cửa, mắt lườm lườm, quát:

-Ai cho anh hát nhạc phản động, hả?

-Âm nhạc là một trong bảy bộ môn nghệ thuật; mà nghệ thuật thì chỉ có hay hoặc dở chứ nghệ thuật không phản động.

-Anh muốn “ný nuận” với tôi, hả? Anh có biết “nà” “noại” nhạc “nãng” mạn/thương vay khóc mướn ấy nó “nàm” cho tâm hồn con người mềm yếu, mất sức sống hay không?

-Chính cộng sản các anh cũng muốn chúng tôi mềm yếu, mất sức sống mà!

-Này! Này! Để ông bảo cho biết, nhá! Các anh có bao giờ mạnh đâu mà bảo cộng sản chúng tôi muốn các anh yếu?

-Chúng tôi không mạnh tại sao các anh sợ chúng tôi?

-Ai bảo thế? Sợ cái gì?

-Các anh không sợ chúng tôi tại sao các anh ra thông cáo lừa gạc – đem theo tiền ăn cho 10 ngày – rồi nhốt chúng tôi mà không có bản án? Các anh không những sợ chúng tôi mà các anh còn sợ cả thương binh Việt Nam Cộng Hòa (V.N.C.H.). Thương binh đang còn điều trị trong bệnh viện mà ngày 30-04-1975 các anh cũng nhẫn tâm đuổi họ ra đường. Họ phải bò lê bò lết bên vệ đường, về nhà không có thuốc chữa trị, họ phải chết! Bức Tượng Thương Tiếc chỉ là biểu tượng của người Lính miền Nam thương nhớ đồng đội đã bị các anh giết mà các anh cũng sợ, vội đập bỏ. Nhạc miền Nam được người dân miền Bắc yêu thích, gọi là “nhạc vàng”, các anh cũng sợ, cấm, không cho đàn, hát. Sách vở, báo chí miền Nam là kho tàng của văn học, lịch sử, thế mà các anh cũng đốt cả. Các anh không sợ tại sao các anh hủy diệt? Các anh dùng vũ khí của ai để giết chúng tôi và đồng bào miền Nam? Tụi lính, cố vấn Trung Cộng nhỏ thó, giống người Việt, các anh cho chúng nó mặc đồ giống các anh để ngụy tạo; còn tụi Nga da trắng, mũi cao, to con – khó ngụy trang – các anh cho tụi Nga đóng dọc biên giới để các anh ngụy biện là cộng sản các anh có chính nghĩa rồi các anh gán cho chúng tôi là lính đánh thuê! Cái hèn của các anh là ở chỗ đó!

-Mày là một tên “Ngụy” cực kỳ phản động! Vệ binh! Đấm vỡ mặt nó!

Ông Hùng bị đòn “hội chợ” trong khi mọi tù nhân cúi mặt! Khuya hôm đó, ông Hùng bị chuyển ra Bắc.

*****

Nhờ người bạn giỏi âm nhạc viết bài Anh Ở Đây từ youtube thành bản nhạc có notes, chuyển đến bà bằng email, bà Lan rất vui. Sau khi in ra, viết lời ca vào, bà Lan đến phòng khánh tiết.

Nhìn bản nhạc và dạo qua vài lần, bà Lan bắt đầu vừa đàn vừa hát nho nhỏ. Theo tiếng đàn và giọng hát – không còn trong và thánh thót như xưa – của chính mình, bà Lan nhận ra niềm u uất và nỗi nhớ thương của bà dành cho người chồng còn biền biệt phương xa dâng lên ngập lòng rồi tràn ra khóe mắt. Khi hát đến câu: “…Chiều Suối Máu xót xa buồn nhớ con. Tình thương em vẫn đong đầy khoé mắt. Chiều Long Giao sương mờ đêm u uất…” (1) bà Lan tưởng như bà có thể cảm nhận được sự thương nhớ, sự oán than, sự đau khổ, niềm khóc hận đang xâu xé trái tim của những thành phần ưu tú của Quân Lực V.N.C.H. trong các trại tù của c.s.V.N.

Đang đắm hồn vào lời ca, tiếng đàn, bà Lan chợt cảm biết dường như có người đang nhìn bà từ phía trên tấm màn nơi của sổ. Ngẫng mặt nhìn lên cửa sổ, bà Lan thấy một bóng người khuất nhanh sau bức tường. Nhìn đồng hồ, bà Lan nhận ra bà đã đàn, hát khá lâu, có lẽ có người đang chờ để được đàn. Bà Lan ngưng đàn.

Vừa mở cửa bước ra, bà Lan thấy một người đàn ông ngoại quốc đang ngồi lẻ loi. Bà Lan chưa kịp tỏ thái độ thân thiện thì người đàn ông này vội đứng lên, giọng ngạc nhiên:

-Bà Lan! Có phải bà là Lan – người tôi đã gặp tại tiệm bán băng nhạc cách nay vài tuần – hay không?

-Hi, John! Thế giới nhỏ thật!

-Bà dời vào đây khi nào? Từ trước đến giờ tôi chưa hề thấy bà ở đây.

-Cuối tuần vừa qua.

-Thế thì từ nay tôi được nghe bà đàn.

-Có phải từ nãy giờ tôi đàn lâu quá, John phải chờ hay không?

-Không. Từ nãy giờ – qua giọng hát, tiếng đàn – dù không hiểu tiếng Việt, tôi cũng cảm nhận được những giai điệu êm đềm, thiết tha nhưng mang nhiều u uất. Tiếng B*** của Piano như dội thẳng vào tâm thức u hoài, làm bừng sống trong tôi một thời khói lửa ngập trời tại Khê Sanh và các mặt trận dọc biên giới Lào Việt.

-Ô, ông đã từng tham chiến tại Việt Nam! Cảm ơn ông đã giúp chúng tôi chống lại Vi Ci.

-Thôi, quên hết đi để vui tuổi già!

-Vâng. Ông nói đúng.

-Mời bà ở lại, đàn, hát cho tôi nghe bài ấy một lần nữa. Please!

Hai người vào phòng khánh tiết. Bà Lan mở nắp Piano, để bản nhạc trên giá nhạc. John ngồi trên ghế, cạnh Piano. Bà Lan dạo phân đoạn đầu rồi “bắt” vào: “Anh ở đây, bạn bè anh cũng ở đây…” Khi tiếng hát nghẹn ngào như chan chứa nỗi xót xa đoài đoạn của bà Lan đến câu: “…Ôi đời ta, ngờ đâu trăm đắng nghìn cay. Khúc sắn bát ngô vơi đầy, sầu nuôi thân xác hao gầy. Bao ngày qua đợi chờ tin vui chẳng thấy, hận thù yêu thương còn đấy. Vui đành như cánh chim bay…” John thấy hai hàng nước mắt chảy dọc cánh mũi thon của bà Lan. John đứng lên, bước đến, khom người, thì thầm:

-Cảm ơn nhiều. Nhưng xin bà dừng lại.

-Tại sao ông không muốn nghe nữa? Có lẽ, vì xúc động, tôi hát dỡ quá, phải không?

-Không. Lúc nào tôi cũng muốn nghe bà đàn và hát; nhưng tôi nhận ra sự vô tình của tôi đã “hành hạ” trái tim của bà!

Cả hai im lặng. Một chốc sau, John hỏi:

-Hôm trước bà bảo chồng của bà bị c.s.V.N. cầm tù. Thế tình trạng hiện tại của chồng bà như thế nào?

-Khi tôi còn ở kinh tế mới, một sĩ quan từng làm việc và ở tù chung trại với chồng tôi cho tôi hay rằng chồng tôi bị đánh đập rất tàn bạo. Sau đó, chồng tôi bị chuyển ra Bắc cho nên vị sĩ quan này không biết gì thêm.

-Bà có làm đơn khiếu nại với nhà cầm quyền c.s.V.N. hay không?

-C.s.V.N. chứ không phải xứ tự do dân chủ như Mỹ, Canada, các nước bên Châu Âu đâu mà xét đơn khiếu nại của dân. Nhà, đất, tài sản của dân, của nhà thờ, của chùa mà khi người c.s.V.N. muốn thì người c.s.V.N. cũng tịch thu rồi đuổi dân, đuổi tu sĩ đi thì c.s.V.N. xét đơn của dân để làm gì!

-Thật sao? Thế thì, trước khi sang Mỹ, bà có đến các trại tù của c.s.V.N. để tìm chồng bà hay không?

Như được dịp bộc lộ sự đau khổ tận cùng, bà Lan nói “một mạch” như đang thuyết trình:

-Ông có biết là sau 30-04-1975, c.s.V.N. đã tạo nên bao nhiêu địa điểm trắc trở, khắc nghiệt, hung hãng và tồi tệ nhất thế giới để nhốt sĩ quan và công chức V.N.C.H. hay không? Mỗi khi đến những địa điểm đó thì phải có giấy phép của c.s.V.N. cấp chứ không phải ai muốn đi thì đi. Muốn có giấy phép thì người xin giấy phép phải hối lộ tiền cho c.s.V.N.. Nhưng, ở kinh tế mới, bo bo và củ mì mà chúng tôi cũng không đủ ăn thì tiền ở đâu tôi có thể hối lộ c.s.V.N. để xin giấy phép và đi khắp các trại tù để tìm chồng? Đó là chưa kể tôi bỏ năm đứa con dại ở kinh tế mới cho ai?

John cúi mặt, đưa tay bóp trán, im lặng. Một chốc sau, John thở dài, hỏi:

-Bà còn giữ ý định tìm chồng của bà hay không?

-Bất cứ lúc nào tôi cũng mong được biết tin của chồng tôi.

-Tôi sẽ giúp bà. Tôi không dám hứa điều gì, nhưng tôi sẽ hết lòng. Bà cho tôi biết tên, họ, ngày, tháng, năm sinh và số quân của chồng bà. Ok!

-Ô, xin Phật/Chúa và các đấng thiên liêng phù hộ ông! Trái tim của ông thật là vỹ đại!

******

Suốt thời gian hai gia đình sum họp, Hưng đề nghị sẽ ăn cơm tại nhà hàng để bà Lan, chị em của Hưng và Nở – vợ kế của ông Hùng – khỏi nhọc công. Bà Lan cố ý không đến gần và cũng không tỏ cử chỉ thân mật với ông Hùng. Nở luôn tìm cách lánh mặt bà Lan; chỉ có hai đứa con của Nở và ông Hùng thì lúc nào cũng chơi đùa vui vẻ với cháu nội, cháu ngoại của bà Lan; và Hưng thì không rời “Ba Hùng”.

Thấy “Ba Hùng” chỉ dùng iPad, Hưng mua tặng “Ba Hùng” computer với màn hình khá rộng và một máy in. Sau khi chỉ cho ông Hùng cách thức xử dụng computer, Hưng nói:

-Từ nay, gặp trở ngại gì về computer, Ba gọi hoặc email cho “thằng Hưng của Ba” nè!

Ông Hùng nghẹn lời vì bốn chữ “thằng Hưng của Ba”. Hưng tiếp:

-Ba ngồi, thực hành đi. Con ra phụ dọn dẹp để chiều Má và tụi con ra phi trường.

Rời phòng, Hưng tìm bà Lan, khoe:

-Ba vui lắm. Tội nghiệp Ba!

-Cảm ơn con. Con chỉ cho Ba cách dùng chưa?

-Ba “smart” lắm, Má đừng lo!

Đang cùng con, dâu, rể cho áo quần vào va-ly, bà Lan chợt nghe tiếng ông Hùng cười vang “Ha…ha…ha…” Cả nhà ngạc nhiên, chạy đến cửa phòng computer, thấy ông Hùng vừa cười lớn vừa nói:

-“Con giun đánh lắm cũng quằn”! c.s.V.N. dù ngụy biện/dối trá/sắt máu bao nhiêu đi nữa mà khi lòng dân nhận ra được dã tâm của c.s.V.N. thì c.s.V.N. “chạy trời cũng không khỏi nắng”!

Hưng chẳng hiểu, vội hỏi:

-Ba đọc tin gì mà vui quá vậy, Ba?

-Lâu nay dùng iPad, mất công đưa tay “quẹt quẹt” cho nên Ba lười. Xem tin tức trên TV như CNN, Yahoo, Foxnews thì chẳng có tin gì về Việt Nam. Bây giờ có computer, Ba xem tin Việt Nam và thấy tin “động Trời” cho nên Ba vui quá!

-Tin gì mà vui “dữ” vậy, Ba?

Nở nhìn bà Lan, tỏ vẻ không hiểu. Bà Lan chỉ cười nhẹ trong khi ông Hùng giải thích:

-Trong một xã hội độc đảng như Việt Nam mà ngày 20-10-2018, trong khi tiếp xúc với cử tri tại quận II Saigon, bà Nguyễn Thị Quyết Tâm – chủ tịch nhân dân thành phố Hồ Chí Minh – đã bị cô Nguyễn Thị Thùy Dương quăng chiếc giày của cô vào bà Tâm.

Giữa khi mọi người còn ngạc nhiên, ông Hùng tiếp:

-Cái này mới ghê! Ngày 14-09-2018, ông Nguyễn Văn Túc – thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ – bị tòa án c.s.V.N. tại Thái Bình kết án 13 năm tù và 05 năm quản chế vì tội âm mưu lật đổ chính quyền thì ông Nguyễn Văn Túc nhìn quan tòa và nói “Địt mẹ tòa!”

Lúc này bà Lan mới lên tiếng:

-Em đã xem youtube “Một trận mưa dép giành cho ông Trần Văn Tuân” – phó chánh án tòa án nhân dân tối cao, vào ngày 25-04-2017 – khi ông Tuân xin lỗi bị can Hàn Đức Long, người đã bị tuyên án tử hình oan!

Ông Hùng xác quyết:

-Nếu mỗi người dân Việt trong nước đều can đảm, dám tỏ thái độ để khẳng định lập trường của mình thì đảng c.s.V.N. sẽ không còn!

Nhìn đồng hồ tay, Hưng nhắc:

-Thôi, đi ăn, Ba. Tụi con đói bụng rồi.

******

Mang giày cho cháu xong, bà Lan chợt nghe tiếng hát văng vẳng: “… Gọi người yêu dấu xa vời mà lòng lưu luyến bồi hồi. Ngày biệt ly đành nhớ nhau thôi khi chiều nhẹ rơi…” (2) Bà Lan đến bên cửa sổ, nhìn về hướng có tiếng hát và thấy ông Hùng đang tựa gốc cây sồi, ánh mắt xa xăm, vừa nhìn về phương trời vô định vừa “ngân nga” nho nhỏ “…Gọi người yêu dấu muôn đời, nghẹn ngào không nói thành lời. Tình yêu xưa ngày tháng phôi phai biết bao giờ nguôi…” (3) Bà Lan thở dài, cúi mặt, quay vào nhà.

Thấy các con đem hành lý ra xe, ông Hùng vào nhà, giúp mọi người. Sau khi kiểm soát hành lý, Hưng bảo các con và cháu lần lược “hug” ông Hùng, dì Nở và hai em. Bà Lan ôm hôn hai đứa con của Nở và ông Hùng rồi xoay sang ông Hùng – không “hug” – khẽ nói:

-Em và các con rất vui. Từ nay Bố con có thể liên lạc với nhau rồi.

-Em cho anh một phút để anh nói với em những gì cần phải nói.

Bà Lan rơm rớm nước mắt, cúi đầu. Ông Hùng tiếp:

-Anh cảm tạ em đã nuôi dạy các con nên người. Khi mới gặp lại nhau, các con chỉ muốn nghỉ lại tại “nhà Ba” chứ không muốn nghỉ tại khách sạn thì anh biết em đã giáo dục các con theo đạo lý của nền văn hóa Việt Nam thuần túy. Với một phụ nữ đẹp, có tài – như em – mà em cũng vẫn chung tình với anh thì em chính là Thiên Thần của anh. Anh cũng cảm ơn chị Hai đã bảo lãnh em và các con sang Mỹ; nếu không có chị Hai, không biết cuộc đời của các con có thoát được cảnh “xuất cảnh lao động” để con gái đi làm điếm, con trai đi ăn cắp hoặc buôn bán cần sa hay không!

Về phần anh, sau khi anh được c.s.V.N. thả ra, trở về chốn xưa với tấm thân tàn tạ, đầy bệnh tật và không nơi nương tựa thì chính Nở – cô gái bán bánh mì – đã cho anh từng ổ bánh mì. Thấy anh ngủ bờ, ngủ bụi, Nở đem cho anh cái mền cũ rồi Nở nhận vé số nơi chủ thầu cho anh đi bán. Lúc rãnh, anh dạy Nở học tiếng Anh. Khi làm đơn theo chương trình định cư cựu tù cải tạo (HO), anh đề nghị Nở cùng đi. Qua bên này, anh không đi làm được, vì già và mang nhiều thương tật. Nở làm móng tay để nuôi anh và hai đứa nhỏ…

Bà Lan tủi thân! Khi mới sang Mỹ, bà phải làm hai việc – toàn thời gian – và đi học lại! Mỗi đêm bà về nhà thì các con đã ngủ say. Các con của bà, đến lớp 12 đều vừa đi học vừa đi làm. Bà Lan buồn, nhưng không biết buồn ai và buồn vì cái gì, đành cắt lời ông Hùng:

-Ai cũng tưởng Mỹ là Thiên Đường! Nhưng muốn lên Thiên Đường thì phải…chết rồi mới lên Thiên Đường!

Bà Lan xoay sang, “hug” Nở và khẽ nói:

-Cảm ơn em đã giúp đỡ, thương yêu, lo lắng cho anh Hùng; nhờ vậy, anh Hùng mới sống được để gặp lại các con của anh ấy.

Nở xúc động, khóc ròng:

-Bộ chị “hỏng” giận em sao?

-Không! Em là người ơn của Mẹ con chị.

Hưng bước đến:

-Sorry, Má, Aunty (Dì)! Má và tụi con phải đi kẻo trễ. Con sẽ gửi vé máy bay cho Ba, Aunty và hai em đến thăm Má và tụi con vào dịp Thanksgiving.

Ông Hùng bước theo Hưng và bà Lan ra xe. Bà Lan ngồi vào ghế bên phải của Hưng.

Hai chiếc xe Van từ từ chuyển bánh. Nhiều bàn tay vẫy vẫy và nhiều tiếng “bye, bye” hướng về phía ông Hùng. Trong khi kéo “seat belt”, bà Lan nhìn vào kính bên phải, vẫn thấy ông Hùng đứng lặng nhìn theo. Nhìn dáng ông Hùng nhỏ dần…nhỏ dần…bà Lan tưởng như tiếng hát ngọt ngào của Whitney Houston đang ngân lên từ tâm thức của bà: “…So good bye. Please don't cry… And I will always love you…” (4)


Điệp Mỹ Linh

Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 01/Nov/2018 lúc 7:49am

CHA VÀ CON


Image%20result%20for%20cha%20và%20con%20trai
 
Hắn ra tù. Tự biết không có ma nào đến đón, đành dứt khoát bước đi. Xe Honda ôm vào giờ này không thiếu, nhưng hắn thích đi bộ. Lững thững đi hoài như người rảnh rang lắm, trời tối mịt mới đến thị xã. 
"Khách sạn công viên" trước Cung thiếu nhi, khi xưa là chỗ ngủ tốt nhất của dân bụi đời. Trong một năm hắn ở tù, khu vực này đã sửa sang, trồng trọt đủ thứ hoa kiểng. Lại thêm nhiều đèn chùm đầy màu sắc, đứng xếp hàng nối dài khoe đẹp khoe sáng.
10 giờ đêm. Hắn lại quảy túi đi... Rồi cũng phát hiện ra chỗ ngủ lý tưởng. Cái thềm xi măng sát tường rào bệnh viện, có tàn cây phượng vĩ che khuất ánh đèn, giúp lại khoảng thềm tôi tối cỡ ánh sáng đèn ngủ. Hắn nghĩ: "Chỗ này chắc nhiều muỗi, nhưng ngủ rất êm không bị xe cộ ồn ào". Moi từ cái túi ra tấm vải xanh cũ bèo nhèo, có thể gọi tạm là mền, trải ra, kê túi gối đầu lên, hắn nhắm mắt. Đi bộ mệt mỏi cả ngày nên hắn ngủ rất ngon.
 
Gần sáng, hắn giật mình tỉnh giấc, lạnh toát với cảm giác nghĩ có con gì đó quấn quanh cổ. Hắn nằm im định thần. Sát ngực hắn là một làn hơi thở nhẹ và một trái tim ai đó đập đều nhịp, cánh tay của người ấy vòng quanh cổ hắn. Hắn lẩm bẩm:
Con mẹ nào đây?
Hắn nhè nhẹ ngồi lên, nheo mắt nhìn. Hoá ra là một thằng nhỏ chừng hơn 10 tuổi. Mặc cái áo rách bươm bày ra bộ ngực lép kẹp, đã giành muốn hết cái mền của hắn. Nó cũng thuộc dạng không nhà như hắn, đang ngáy pho pho ngon lành, chẳng hay biết thằng cha nằm kế bên đã thức giấc, đang nhìn mình chăm chăm.
Hắm dợm người đứng lên, định bỏ đi tìm chỗ khác ngủ. Nhưng nghĩ gì đó, hắn nằm trở xuống, xoay lưng về phía thằng nhỏ, đưa tay kéo lại cái mền. Hắn nhắm mắt cố dỗ giấc nhưng không tài nào ngủ lại được. Hắn ngồi dậy móc thuốc hút, chợt thấy cái mền bỏ không, trong khi thằng bé bị sương xuống lạnh, càng lúc càng co tôm lại. Hắn bất giác chửi thề, rồi kéo mền đắp lên người thằng nhỏ.
Hút hết điếu thuốc, hắn nằm xuống thiếp được một lúc, tới khi thức dậy thằng nhỏ bỏ đi mất tiêu. Hắn hốt hoảng thọc tay vào túi quần kiểm tra, số tiền vẫn còn nguyên. Hắn thở phào, xếp mền bỏ vào túi, quàng lên vai bước đi.
Cả ngày hắn đi tìm việc làm nhưng không ai mướn, đành xài thật dè xẻn từng đồng. Xong, trở lại nơi tối qua nằm ngủ.
Hắn còn hút thuốc thì thằng nhỏ lại về. Nó thò lõ mắt nhìn, trách hắn:
- Sao ông giành chỗ ngủ của tui hoài vậy?
- Chỗ nào của mầy?
- Thì đây chứ đâu?
- Vậy hả? Thôi để tao ngồi chơi một chút rồi đi, trả chỗ cho.
Thằng nhỏ thấy người đàn ông vạm vỡ nhưng có vẻ biết điều, liền tới ngồi cạnh hỏi chuyện. Bỗng nhiên hắn trút hết tâm sự với thằng nhỏ. Từ chuyện bỏ làng ra đi, đến chuyện ở tù hai lần, cả việc từng ăn ở với đàn bà lang thang và bây giờ là không tìm được việc làm.
Nghe xong, thằng nhỏ phán một câu xanh rờn:
- Dám chừng tui là con ông lắm à?
- Nói bậy! - Hắn nạt thật sự - Mầy con của ai?
- Má tui làm gái, gặp ông nào đó ở với bả. Bả có bầu thì đẻ ra tui. Bả bệnh chết rồi. Mấy năm trời tui sống với một bà già mù, dắt đi ăn xin lay lất. Rồi bả cũng chết luôn. Còn mình tui.
- Vậy mà nói là con tao?
- Biết đâu được?
- Mầy làm nghề gì mà lúc nào cũng về muộn?
- Buổi sáng tui đi khiêng cá biển, tiếp bà chủ làm khô. Buổi chiều tui đi bán thêm vé số, tới khuya mới về đây ngủ.
- Sao mầy hổng ngủ ở chỗ làm khô luôn, từ bến cảng đi tới đây xa bộn?
- Ông khờ quá! - Thằng nhỏ đập muỗi cái bộp, rồi nói tỉnh queo - Muốn kiếm được việc làm bộ dễ lắm sao, mình cù bơ cù bất ai muốn? Phải nói dóc: Nhà ở xóm Bánh Tằm, có ba má đàng hoàng, tại nghèo mới đi kiếm việc làm tiếp gia đình, tối về nhà chớ bộ.
- Mầy giỏi hơn tao - Hắn buột miệng khen, hỏi tiếp - Mầy làm đủ sống không?
- Dư! Cho ông biết tui lấy vé số bằng tiền mặt đàng hoàng. Còn tiền gởi cho ông chủ thầu cất giùm một số nữa.
- Quá xạo!
- Hổng tin thì thôi - Thằng nhỏ nằm xuống, ngáp vắn ngáp dài – Ông ngủ đây với tui cũng được, ngủ chung với ông ấm hơn.
Tự dưng hắn cảm thấy mình bị xúc phạm khi phải ngủ nhờ thằng nhỏ, dù rằng thềm xi măng là của bệnh viện. Nhưng rõ ràng thằng nhỏ oai hơn hắn ở chỗ đầy vẻ tự tin và có việc làm đủ sống. Hắn ôm túi đứng lên bỏ đi. Thằng nhỏ vòng tay ra sau ót, nhóng cổ nói:
- Dân bụi đời mà còn bày đặt tự ái.
 
Hắn đảo một vòng nhỏ, kết cuộc đành trở lại. Thằng nhỏ cười hi hi:
Tui nói rồi. Chỗ này là ngon lành nhất thị xã, ngủ lạng quạng tổ bảo vệ lôi về khu phố phạt tiền là chết – Nó lăn người xích qua, nhường phần cho người đàn ông nằm xuống bên cạnh, thì thào – Tôi chỉ cho ông chỗ ngủ ngon lắnm.
- Ở đâu?
Trong bệnh viện. Vô ngủ ngoài hành lang người ta tưởng đâu mình đi nuôi bệnh, hổng ai thèm đuổi.
Hắn thở dài trong bóng tối:
- Sao mầy hổng vô đó ngủ, xúi tao?
- Tui ghét mùi thuốc sát trùng.
- Tao cũng vậy.
Sáng ra, thằng nhỏ lại thức sớm đi trước, hắn tiếp tục quẩn quanh với một ngày không có việc làm. Hắn không dám ăn cơm chỉ ăn bánh mì, uống một bọc trà đá, dành tiền cho những ngày sau.
Đêm nay, phố thị buồn mênh mang theo tâm trạng. Hắn bắt đầu chùn ý chí, nghĩ thầm: "Lúc mới ra tù còn ít tiền, giá cứ tìm nơi nào đó gần trại giam ở lại, lầm thuê làm mướn chắc dễ dàng hơn".
Hắn nghe sống mũi cay cay, hình như một vài giọt nước đòi rơi ra từ mắt, hắn không kiềm giữ cứ để nó tuôn trào.
Bàn tay thằng nhỏ sờ vào mắt hắn:
- Ngủ rồi hả? Ý trời, sao ông khóc, chưa kiếm được việc làm phải không?
Hắn gượng cười:
- Tao khóc hồi nào? Tại ngáp chảy nước mắt thôi.
Thằng nhỏ ra vẻ sành sỏi:
- Má tui nói bụi đời mà còn biết khóc là bụi đời lương thiện. Tui khoái ông rùi đó, ngồi dậy "hưởng xái" với tui cái bánh bao nè.
Hắn ngồi lên sượng sùng:
- Mầy sang quá.
- Ờ! Tui ăn sang lắm, hổng ăn sao đủ sức đi làm suốt ngày! – Nó ngừng lời ngoạm một miếng lớn bánh bao, rồi nói nhẹ xều – Ông chịu để tui giúp, chắc sẽ tìm được việc làm.
- Làm gì? - Hắn có vẻ không tin, thờ ơ hỏi.
- Trước tiên, ông chịu làm ba tui nghen?
Hắn lắc đầu nguầy nguậy:
- Thân tao lo chưa xong, làm sao nuôi mầy?
- Ai bắt ông nuôi tui, tui nuôi ông thì có. Tui giới thiệu với bà chủ ông là ba tui. Nếu được nhận vô làm khô cho bả, sức ông mạnh, kiếm tiền nhiều hơn tui là cái chắc.
- Làm gì?
- Khiêng cá, gỡ khô ngoài nắng, vác khô lên xe - Thằng nhỏ ngừng lời đưa tay nắm cổ tay hắn bóp bóp – Ông bụi đời mà sao hổng ốm, lại khoẻ mà còn hiền nữa chứ!
Một năm ở tù, tao lao động tốt mà - Hắn tự hào khoe, nói tiếp – Ai mới ở tù ra mà hổng hiền, có người sau khi được cải tạo thành tốt luôn, có người hiền được vài ba bữa.
- Nè! Ông nhớ việc cần thiết là: Nhà mình ở xóm Bánh Tằm, vợ ông bán bún cá, tui còn hai đứa em gái đang đi học. Mà ông có bộ đồ nào mới hơn bộ này không, ngày đầu đi xin việc phải đẹp trai, ít te tua một chút.
Hắn vỗ vỗ tay vào cái túi du lịch:
- Có, tao còn một bộ hơi mới. Mầy tên gì, sao má mầy ở xóm Bánh Tằm mà bán bún?
- Thì nói mẹ nó vậy. Tui tên Tèo nghe ba?
- Tao chịu cách xin việc của mầy, nhưng tao ghét có con lắm. Ở chỗ làm mầy kêu tao bằng ba, ngoài ra thì xưng hô như bây giờ.
- Ông cà chớn chết mẹ, người ta giúp cho mà còn làm phách - Thằng Tèo nhe răng cười hì hì – Ăn bánh bao vô khát nước quá ta.
- Tao mua cho - Hắn đứng lên đi lại quán mua hai bọc Pepsi.
Thằng Tèo nhăn mặt:
- Chưa có việc làm mà sài sang quá vậy ba?
Hắn nghiêm mặt:
- Mầy còn kêu như vậy, tao không nói chuyện đâu. Đây là tao đãi mầy, cảm ơn công giúp tao có việc làm.
- Biết đâu người ta hổng nhận thì sao?
- Thì kệ, coi như phá huề cái bánh bao với mầy.
 
Đêm đó hắn khó ngủ, lầm thầm nghiền ngẫm cái hoàn cảnh gia đình và địa chỉ do thằng Tèo đặt ra giúp hắn.
Vóc dáng khoẻ mạnh của hắn làm vừa mắt bà chủ. Hắn có việc làm, lương tháng kha khá, bèn bàn với thằng Tèo hùn nhau kiếm một chỗ trọ, thằng Tèo đồng ý.
Cái chỗ ở nhỏ xíu như cái hộp, ban ngày nắng nóng một ngộp thở, nhưng cũng sướng hơn ngủ ở thềm rào bệnh viện. Hơn nữa, ban ngày "cha con" nó có ở nhà đâu mà sợ nóng. Hắn và thằng Tèo có vẻ thương nhau nhiều hơn, nhưng không ai chịu bày tỏ điều đó. Nếu không phải ở chỗ làm khô mà thằng Tèo lỡ miệng kêu ba, là hắn cau mày khó chịu. Thằng Tèo không ưa cái kiểu bực bội của hắn, nên nói chuyện với hắn trống không, hổng ông hổng ba gì hết.
Hắn những tưởng cuộc sống êm trôi với công việc tanh tưởi cá biển. Nhưng sự đời thật không đơn giản, tới tháng làm thứ năm thì có chuyện xảy ra.
Sáng nay mới vác cần xé cá từ tàu lên bờ, thấy xôn xao trên nhà chủ, hắn vội đi lên.
Thằng Tèo đang bị bà chủ nắm áo. Bà ngoác cái miệng tô môi son đỏ chót gào lên:
- Nó ăn cắp bóp tiền, tui mới để đây xoay lưng đi vô, quay ra đã mất. Có mình nó đứng đây, ai vào lấy chớ?
Thằng Tèo nước mắt ngắn nước mắt dài, mũi dãi lòng thòng quẹt lấy quẹt để:
- Tui không ăn cắp đâu. Tui tốt nào giờ bà chủ biết mà?
- Nghèo mà tốt gì mày? Ba mầy hổng biết dạy con, tao tốt với cha con mầy quá, sao trả ơn vậy hả?
Hắn đứng im không thanh minh, mặc cho bà chủ xỉa xói chửi không ra gì cái thằng cha là hắn. Hắn đi lại bên thằng Tèo hỏi ngọt ngào:
- Mầy có lấy tiền của bà chủ không?
- Tui thề có trời, tui không lấy.
Một bên bà chủ sang trọng nói mất, một bên là thằng con hờ bảo không lấy. Hắn còn đang lúng túng thì hai anh công an phường tới. Mỗi lần gặp công an hắn lại nhớ tới trại giam. Hắn nghĩ thằng Tèo mới hơn mười tuổi mà phải chịu tiếng tù tội, sẽ ảnh hưởng tới tương lai sau này của thằng nhỏ không ít và hằn sâu trong ký ức nó khó nguôi quên. Như bản thân hắn đây! Có thể nó lỡ dại một lần, nhưng làm sao nỡ để nó bị bắt, khi thực bụng hắn thương nó như con.
Hắn vẹt đám người hiếu kỳ bu xung quanh, đi tới trước mắt hai anh công an thú tội:
- Tui ăn cắp tiền của bà chủ, lỡ tay đánh rơi xuống nước, chắc là trôi ra biển mất rồi.
Hắn im lặng đi theo đà đẩy của người công an, không thèm nhìn thằng Tèo đang há hốc miệng trông theo hắn. Lòng hắn nặng trĩu nhớ tới tiền án có sẵn. Nhưng rồi hắn chuyển sang niềm hy vọng: "Chắc chắn các anh công an sẽ tìm ra thủ phạm và mình được trả về".
Thằng Tèo thấy niềm thương cảm dâng lên đầy ứ ngực, nó tốc chạy theo, hai tay đưa về phía trước chới với. Giọng nó khàn đục, gào tha thiết:
- Ba ơi, ba bỏ con sao ba?
Bất giác hắn xúc động tột cùng, cảm giác thương yêu chạy dọc sống lưng làm ớn lạnh. Hắn giật phắt người, quay lại hỏi bằng giọng âu yếm:
- Con kêu ba hả Tèo?
Công an đưa hắn lên xe. Thằng Tèo chạy theo, luồn lách trong dòng xe cộ, hụp hử trong khói bụi sau xe. Nó chạy luôn tới trụ sở công an, lảng vảng đứng ngoài chờ mà không biết chờ cái gì. Không thể làm gì hơn, thằng Tèo chửi cha chửi mẹ kẻ nào ăn cắp bóp tiền của bà chủ và nó tin tưởng các chú công an sẽ bắt được thằng ăn cắp.
 
Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau, thằng Tèo đang ngồi dựa lưng vào tường, nhắm mắt ngủ gà ngủ gật, thì một bàn tay ai đập mạnh vào vai. Nó giật mình dụi mắt. Bà chủ nách kẹp cái bóp, đứng ngó nó cười toe toét:
- Đi vô lãnh ba mầy ra. Cái bóp dì mang theo lúc đi tiểu, bỏ quên trong toa lét mà tưởng mất. Dì đãng trí quá.
Vậy là "ba" thằng Tèo được thả. Nó nhào tới thót lên cổ ba để ba cõng nó tưng tưng trên lưng miệng liến thoắng:
- Ba thấy chưa? Ở hiền gặp lành mà!
Bà chủ đi sát bên, đưa tặng cha con nó chút tiền với thái độ của người có lỗi. Hắn lắc đầu không nhận vì đây chỉ là sự hiểu lầm. Thằng Tèo đột ngột dùng cả hai tay giật phắt nắm tiền, nói gọn hơ:
- Con cảm ơn bà chủ. Tiền này cha con mình xài cả tháng đó ba.
Trước hành động đường đột của thằng Tèo, hắn còn biết làm gì hơn là cảm ơn bà chủ. Rồi quay sang rầy "con""
- Con thiệt mất dạy quá, chắc phải cho đi học thôi.
- Ông nói cái gì? - Thằng Tèo khom người xuống nhìn hắn hỏi gằn.
Hắn lặp lại:
- Ba nói con phải đi học để cô giáo dạy những điều hay lẽ phải mới mong lên người.
Thằng Tèo đang ngồi trên lưng đột ngột tụt xuống. Nó lặng im đi miết lên phía trước. Hắn đuổi theo nó, hỏi:
- Sao vậy? Bộ con hổng muốn đi học hả?
Không quay người lại, thằng Tèo chúm chím cười, trả lời:
- Ba hổng biết gì hết trơn, tui đang khoái chớ bộ.
Gió từ biển thổi lộng vào mát rượi. Hắn mỉm cười nhủ thầm: "Gió nhiều thật dễ thở"

st.
Image%20result%20for%20beautiful%20yellow%20rose
st.
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 100 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.484 seconds.