Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Chuyện Linh Tinh | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh |
Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. | |
<< phần trước Trang of 98 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 29/Apr/2017 lúc 3:55am |
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 30/Apr/2017 lúc 3:17am |
CHIÊU NIỆM THÁNG TƯ
Tháng Tư có kẻ ra biển đứng Tháng Tư có kẻ ra biển đứng Lớn tiếng kêu than vọng đất trời Nên gió gào thét sóng gào thét Hải âu cánh dạt mịt mù khơi Tháng Tư có kẻ bầy hương án Nến thắp đôi hàng chiêu niệm ai Ta nghe thảm thiết lời kinh khổ Nhang khói gọi hồn sông núi ơi Tháng Tư nghe tiếng hờn ai oán Anh hùng hào kiệt thác oan khiên Chương sử trăm hồi chưa chép hết Còn động trời NAM tiếng sấm rền Tháng Tư nắng đỏ thấm sắc máu Hỏi người còn nhớ cuôc binh đao? Bạn ta chết dữ không bia mộ Phách tán hồn xiêu ở chốn nào? Tháng Tư hảo hán cũng rơi lệ Nước mắt đã đấy một biển đông Tràn lấp càn khôn mờ nhật nguyêt Thành lời thống hối tạ non sông Tháng Tư kể chuyện người biệt xứ Mấy chục năm xa lạc dấu quê Tuyết sương từ độ phơi tóc trắng Chẳng biết có không một nẻo về Chúng ta ơi những đời vong quốc Gặp nhau lại thấy Tháng Tư buồn Kinh Kha sao chẳng qua sông Dịch Sao cứ đứng ngồi nhớ cố hương? BĐQ Nguyễn Văn Chúc Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 30/Apr/2017 lúc 3:28am |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
giodocgocong
Senior Member Tham gia ngày: 12/Jan/2011 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 132 |
Gởi ngày: 13/Jul/2017 lúc 4:49pm |
Con ghi lại bài này thay cho nén hương lòng để thành tâm tưởng nhớ đến Bố Mẹ nhân ngày giỗ Bố lần thứ 8 và giỗ Mẹ lần thứ 7 (Đào Nam Hòa.) Tôi không biết bắt đầu câu chuyện từ lúc nào, nhưng có lẽ ấn tượng nhất và rõ nét nhất mà hầu hết người dân miền Nam Việt Nam nhớ mãi là ngày 30/4/1975. Khi miền Nam sụp đổ cũng là lúc bất ngờ tất cả nỗi thống khổ đày đọa ập xuống. Nhanh như một cơn cuồng phong thịnh nộ phá nát tan hoang. Mất tất cả! Ngày 10/06/1975 tôi vẫn còn nhớ rất rõ. Trước khi đi cái gọi là “học tập cải tạo” 10 ngày, dù với suy nghĩ chỉ là 10 ngày như lời thông báo, cha tôi cũng không có lấy mấy ngàn dằn túi. Ông bảo tôi (lúc đó 19 tuổi) đem 2 chỉ vàng cuối cùng còn lại của gia đình- là đôi bông tai của bà nội tôi để lại- ra tiệm vàng bán. Đó là kỷ vật quý nhất nhưng đành phải bán để mua ít lương thực cho ông mang đi. Hai chỉ vàng lúc ấy bán được 33 ngàn. Ông mua khoảng 2 ngàn đồng lương thực các thứ và dằn túi 1 ngàn. Còn lại 30 ngàn ông dặn ở nhà cố gắng 13 mẹ con dè xẻn ăn uống đợi Ông về. Mười ngày trôi qua nhanh chóng- không ai trong số cải tạo trở về. Tôi nghĩ đây là một cú lừa mà đã và sẽ được lịch sử ghi lại kỹ hơn. Giá sinh hoạt tăng từng giờ. Buổi sáng 100 đồng 1 ổ bánh mỳ thì chiều đã lên 120. Sau 3 tuần thì 12 anh em tụi tôi và mẹ tôi không còn một đồng nào trong nhà. Chị tôi lớn nhất 21 tuổi còn đang đi học, và em út mới có 2 tuổi. Mười hai con tàu há mồm tuổi đang lớn nuốt bao nhiêu cho đủ! Cơm và thức ăn mỗi bữa mẹ tôi phải chia cho từng đứa. Vài hột cơm sót nơi đáy nồi cũng không yên. Chúng tôi đổ nước vào và cạo sạch không còn một hột. Còn hơn là gạo châu củi quế. Mẹ tôi và vài đứa em phải đi xâm canh làm ruộng rau muống, một hình thức của kinh tế mới để giãn dân,. Không lên voi nhưng phải xuống chó, mẹ tôi và em tôi ngày ngày vào ruộng hái rau muống xong gánh bộ về tới chợ cách đó 6 cây số để bán. Buổi sáng khoảng 3 giờ khi trời còn mờ mịt hơi sương và giá lạnh, mẹ và em tôi thay nhau gánh bộ cho kịp phiên chợ sáng. 70 bó rau oằn trên vai người phụ nữ nhỏ bé cao 1,45 nặng chưa tới 40Kg. 6kg rau mới đổi được 1 kg gạo. Một tuần mới cắt được một lần chờ cho rau mọc. Những ngày còn lại là cấy rau, nhổ cỏ, trồng khoai mì… Sức ăn trước ngày 30/4/75 của gia đình tôi một bữa là 3 lít gạo, tức 1 tuần 42 lít, khoan nói chuyện thức ăn cá mắm gì hết. Nay 1 tuần chỉ còn 13 lít! Bắt đầu tháng 7/1975 lần lượt đồ đạc trong nhà mọc cánh nhẹ nhàng, nhanh chóng, lả lướt, bay đi theo chân những kẻ buôn hàng. Từ cái quạt trần, tôn cống, hàng rào, tủ quần áo, đài radio, giường sắt, đồng hồ treo tường, đồng hồ đeo tay … đều giã từ để về với chủ mới. Hết sạch đồ thì mấy kẻ đi buôn bảo giở gạch bông, gIở bớt tôn ngoài mái hiên, tôn trần nhà.. bán tiếp. Bán cho đến khi căn nhà nhỏ bỗng trở nên rộng tênh vì chả còn thứ gì ngoại trừ vài cái nồi nấu bằng củi đen thui cũng đã sứt quai gãy gọng. Buổi tối trải chiếu ngủ dưới đất là xong với cái bụng lép kẹp và cơn đói hành hạ. Không biết bao lần tôi phải ăn tưởng tượng trong đêm khuya bằng cách hình dung mấy món ăn tầm thường ngày trước như vài con khô, miếng dừa kho, tô canh bầu.. ( Mơ mà cũng hà tiện không dám mơ thịt cá hải sản.) Bố tôi sau 6 tháng trong trại cải tạo lần đầu được viết thư về, Ông dặn khi lên thăm nuôi, không cần mang theo gì cả vì trong trại có đủ mọi thứ. Hic! Ông hiểu hơn ai hết, còn cái gì để mà mang cho ông! Tôi nhớ mãi ngày lên thăm nuôi ông ở trại Thanh Hoá (Hố Nai), cả nhà chỉ có 1 cái xe đạp, còn lại mẹ và các em tôi cuốc bộ 8 cây số mang theo 1 cái giỏ đi chợ lưng lửng với ít thịt kho mắm ruốc, 1 ký đường, 2 hộp sữa và 1 bộ quần áo. Nhìn những người đi thăm nuôi, có người gánh 2 bao đầy mà lòng tôi trào dâng niềm tủi hổ. Sau đợt đổi tiền ngày 22/9/1975, Chúng tôi như đàn chim vỡ tổ, tất cả bỏ học ngang, vài đứa em nhỏ tiếp tục theo mẹ làm ruộng rau muống, còn lại mỗi đứa một phương trời kiếm sống. Đứa lên Gia Ray vào rừng lấy củi, làm lò than, đứa theo xe lửa bán trà đá, hàng rong, đứa bán thuốc lá. Hơn 3 năm sau Bố tôi được cho về để nhìn xác nhà tan hoang điêu tàn loang lở, nhìn bầy con xanh khướt, gầy rạc, tản mát. Một chị tôi bệnh tâm thần không người chăm sóc phải lang thang ăn xin đầu đường xó chợ, có lần xin không được, quá đói, chị giựt mấy miếng đậu hũ bỏ chạy, chị bị người ta phang đòn gánh chảy máu lỗ đầu giữa ngày bố tôi được tha về. Bố không khóc, cũng không nói gì! Qua hàng xóm xin ít bông băng. Lòng ông như xát muối! Có lẽ ông bấy giờ mới thấm sâu mệnh đề “mất Nước là tất cả mất”. Khóc lóc than van ích lợi gì. Giọt nước mắt chỉ làm cho kẻ chiến thắng hả hê say sưa thêm mà thôi. Rồi theo chủ trương, ông không được ở lại thành phố. Họ hàng nhà tôi đa số cũng là thành phần Ngụy quân, Ngụy quyền nên không ai giúp gì được cho nhau. Cuối năm 1978 Ông lên rừng Gia Ray ngay chân núi, cất túp lều nhỏ bé xiêu vẹo, ngày ngày ông và 2 em tôi sống nhờ rừng. Ai ở rừng mới biết: ăn của rừng rưng rưng nước mắt! Và từ đó chuỗi ngày lầm than, buồn thảm lại tiếp tục sau hơn 3 năm trong trại cải tạo. Đói nhiều hơn no, buồn nhiều hơn vui. Cực khổ nặng nhọc quần quật suốt cả ngày chỉ đủ kiếm vài lon gạo vài con cá khô. 10 năm sau, tôi đã làm ăn khá hơn, mua được chiếc xe máy Mini scootter, lần đầu tiên lên thăm Ông, quà cho Ông chỉ là 1 lít rượu đế nấu bằng rỉ mật. Ông mừng lắm vì tôi đã tương đối ổn định công việc. Trong bữa cơm hôm đó, Ông nói: -Bố năm nay 63 tuổi rồi, cuộc đời không dành cho Bố con mình được sống sum họp và đầy đủ. Dù sao các con cũng cố gắng vươn lên để thoát khỏi bệnh tật, đói khát và tù đày. Rồi Ông chỉ tay dưới chân ngọn núi Chứa Chan: - Nhớ lời Bố dặn, nếu Bố có chết, các con không cần quan tài làm chi cho tốn kém, cứ bó chiếu vùi thây Bố dưới chân núi là Bố mát mẻ rồi. Thú thật, lúc ấy nếu tất cả 12 anh em tôi gom lại chắc cũng không đủ tiền mua cái quan tài loại chót. Ông biết và không muốn các con gánh nặng thêm! Năm 1999, sau bao nhiêu là khó khăn vì không có tiền làm hồ sơ xuất cảnh diện HO, cuối cùng thì 4 bố con tôi cũng tới được Mỹ. Ngày lên đường mẹ tôi và 9 em phải ở lại vì hộ khẩu lung tung không đuợc phái đoàn Mỹ chấp thuận. Bốn bố con mà hành trang vỏn vẹn có 5 va ly nhỏ và nhẹ tênh, chưa tới 1/3 tiêu chuẩn trọng lượng. Đến Mỹ 3 anh em tôi phải đi làm ngay sau tháng đầu tiên để kiếm tiền trả nợ lúc làm hồ sơ. Bố tôi thì ăn welfare vì Ông đã 74 tuổi. Ban đầu hội thiện nguyện giúp thuê nhà, 4 bố con phải ở chung trong 1 căn apartment 2 phòng ngủ cùng với 2 người nữa là 6 người. Quá chật, chúng tôi đành ra ở riêng trong khi Bố tôi được chính phủ Mỹ cho ở nhà Housing. Và từ đó Ông sống cô độc, một thân một mình. Nhưng cũng là lúc Ông làm được một việc lớn nhất, to nhất, ý nghiã nhất kể từ sau ngày 30/4/1975! Hàng tháng Ông trả tiền điện và tiền nhà chưa tới tổng cộng 80$. Thức ăn thì Ông đi xin các Hội từ thiện miễn phí. Có lần tôi giận Bố kinh khủng. Gia đình tôi cố tình chở Ông vào 1 quán kêu cho Ông mấy món ngon, Ông từ chối, chỉ xin cho 1 diã bánh cuốn là đủ. Ông nói: Ở Việt Nam nhà mình còn quá khổ, Bố không đành ăn ngon bên này nhưng các con đi làm vất vả cần bồi bổ, cứ ăn đi. Mỗi tháng số tiền dư còn lại gần 400$ Bố để dành và cứ 6 tháng Bố gởi về VN cho Mẹ và 9 đứa con còn ở lại. Chị cả tôi viết thư qua có câu: “Bố ơi, nhiều lần con phải đi bán máu với số tiền 200 ngàn một lần để có tiền nuôi con. Để có 200 ngàn đồng tiền Việt, tụi cò máu nó đã ăn chặn mấy chặng rồi. Cầm 300$ Bố cho mà con cứ ngỡ trong mơ. Đời con chưa bao giờ cầm số tiền lớn như thế…Phải bán 10 lần máu chỉ mới được 150$ …” Bố đọc thư không khóc! mặc dù Bố biết chị chỉ cân nặng có… 34 Kg! Hic! Gan góc đến thế là cùng! Rồi việc phải tới! Một ngày mùa đông năm 2006, tức sau gần 8 năm ở Mỹ. Tự dưng Bố kêu và đưa tôi 8.000$ và một tờ di chúc – nét chữ vẫn còn rất đẹp dù đã có dấu hiệu nguệch ngoạc biểu hiệu của tuổi già – trong di chúc có nói rõ: Khi bố chết đi, bố đã hỏi cô Hoa, người của hội thiện nguyện, và biết rằng tiền hỏa thiêu không quan tài chỉ mất có 800$ thôi!. Bố nói bố không cần quan tài, không cần để nhà quàn làm gì cho tốn dăm ngàn, cứ để người ta đưa thẳng bố đi thiêu, trừ tiền thiêu ra, còn bao nhiêu con cứ làm theo di chúc gởi về cho người bên Viet Nam.. Sau đó mấy ngày, Bố đột qụy! Người ta đưa Bố vào trại Dưỡng lão. Rồi Bố hấp hối. Ba anh em tôi họp nhau và quyết định làm theo di chúc của Bố. Và chúng tôi phải ký một hợp đồng với nhà thiêu. Khi Bố tắt thở, sau 1 tiếng người ta đuổi hết anh em tôi ra, trong phòng người ta bỏ Bố vào 1 cái bao và kéo cái fermeture là xong! Quá đơn giản cho một kiếp người! Khả năng 3 anh em tôi lúc đó mới đi làm ăn lương 1 giờ 8$ (lương tối thiểu ) chỉ vừa đủ tiền nhà tiền ăn. Vẫn biết có làm đám tang bỏ Bố vào quan tài bằng vàng với hàng ngàn người tham dự cũng vậy thôi vì Bố đâu biết gì nữa mà sao tôi vẫn cảm thấy xót xa vô bờ. Cuối đời của một sĩ quan, từng chỉ huy hàng mấy trăm lính, từng chỉ huy mấy cung đường sắt, âm thầm, vắng lặng và quạnh hiu. Không ai biết, không ai đưa tiễn! Y như một chiến sĩ vô danh! Người ta bỏ Bố lên chiếc xe kéo, đẩy ngang chỗ chúng tôi đang đứng, tất cả con, dâu và cháu chỉ có 5 người, họ dừng lại và hỏi chúng tôi có muốn nói gì không. Tôi có cảm tưởng như một luồng điện lạnh chạy xé dọc sống lưng. Tôi chỉ lắp bắp nói như kẻ không hồn: - Vĩnh biệt Bố. Từ nay Bố không còn phải hy sinh nữa Bố nhé. Công ơn của Bố cao hơn núi Thái Sơn Bố ạ! Rồi họ lạnh lùng kéo Bố tôi đẩy lên chiếc xe dài, đi chỗ nào thiêu hay làm gì, ở đâu, chúng tôi không được biết! Họ làm theo hợp đồng. Tôi không khóc! Không còn nước mắt để khóc! Hai tuần sau tôi lấy tro cốt Bố. Khi cô nhân viên nhà xác đưa hộp tro cốt ở dưới có ghi tên bố tôi, chỉ đến lúc bấy giờ, nước mắt tôi tự dưng tuôn ra đầm đìa – vô thức! Đào Nam Hòa Chỉnh sửa lại bởi giodocgocong - 13/Jul/2017 lúc 4:52pm |
|
GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG
|
|
IP Logged | |
giodocgocong
Senior Member Tham gia ngày: 12/Jan/2011 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 132 |
Gởi ngày: 17/Mar/2018 lúc 12:32pm |
GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG
|
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22718 |
Gởi ngày: 21/Mar/2018 lúc 1:29pm |
NHỮNG NGƯỜI LÍNH MỸ VÀ NHỮNG VẾT THƯƠNG KHÔNG BAO GIỜ LÀNH
Bài chuyển từ NSS
____________
NGUYỄN DUY AN
Nguyễn
Duy An là người Á Châu đầu tiên đảm nhận chức vụ Senior Vice President
National Geographic tổ chức văn hóa khoa học lớn nhất thế giới.(Xem :
Tôi rất ngạc nhiên khi bà thư ký dẫn vị sĩ quan an ninh của Sở vào văn phòng với nét mặt hoảng hốt và rụt rè lên tiếng:
- Duy à… Có chuyện rồi! Ðại Úy Morrow cần gặp riêng Duy.
Bà ta vội vã quay lưng, với tay đóng cửa và bước nhanh ra ngoài.
Tôi vừa bắt tay Đại Úy Morrow vừa hỏi:
- Mời Đại Úy ngồi. Anh tìm tôi có việc gì quan trọng?
- Xin lỗi anh Duy nhé. Ở dưới nhà có 3
người ‘homeless’ cứ nằng nặc đòi gặp anh cho bằng được. Nhân viên an
ninh đã giữ họ lại và báo cáo cho tôi tìm gặp ông để thảo luận. Những
nguời này có vẻ không đàng hoàng… nhưng có một nguời tên Norman khai
rằng anh là bạn của hắn ta.
- Ồ… Ðó là anh chàng thỉnh thoảng vẫn
thổi kèn Saxophone kiếm tiền ở trạm xe điện ngầm Farragut West đó mà.
Anh ta đàng hoàng lắm, không sao đâu, để tôi xuống gặp họ.
- Anh chờ chút. Chúng tôi muốn sắp xếp
để canh chừng vì hai anh chàng kia trông có vẻ ‘ngầu’ lắm. Mấy tay này
cứ luôn miệng chửi thề và ‘càm ràm’ với giọng điệu rất hung hăng về cuộc
chiến Việt Nam. Tôi đoán chắc họ thuộc nhóm cựu chiến binh Việt Nam mắc
bệnh tâm thần… Anh tính sao?
- Tôi nghĩ không cần thiết lắm đâu. Tôi
biết tôi không thể dẫn họ lên văn phòng, nhưng có thể mời họ vào
‘cafeteria’ uống ly nước, chắc không sao chứ?
- Cũng được, nhưng cẩn thận vẫn hơn. Ðể
tôi bảo nhân viên để ý trông chừng trong lúc anh gặp họ ở ‘cafeteria’.
Anh không ngại chứ?
- Cám ơn các anh, nhưng đừng lộ liễu quá, họ tủi thân.
Trong lúc theo với Đại Úy Morrow xuống nhà gặp ‘khách’, tôi nghĩ về kỷ niệm quen biết Norman từ gần 10 năm trước.
Hồi đó, tôi mới về làm cho National
Geographic, vì chưa quen đường xá ở thủ đô Hoa Thịnh Ðốn nên thường đi
làm bằng xe ‘Metro’. Một buổi sáng thứ sáu, tôi đi trễ hơn bình thường
vì phải ghé qua trường học để ký một số giấy tờ cho các con trước ngày
tựu trường. Vừa ra khỏi xe điện ngầm ở trạm Farragut West, tôi nghe vọng
lại tiếng kèn Saxophone rất điêu luyện đang ‘rên rỉ’ bài Hạ Trắng:
Gọi nắng… trên vai em gầy đường xa áo bay
Nắng qua mắt buồn, lòng hoa bướm say Lối em đi về… trời không có mây Đường đi suốt mùa nắng lên thắp dầy…
Lên khỏi cầu thang ở trạm xe điện, tôi
sững sờ khi trông thấy một nguời Mỹ ‘homeless’ đang ‘ngất ngưỡng’ thả
hồn vào một cõi xa xăm vô định, miệt mài thổi Saxophone. Bài hát vừa
dứt, đám đông vây quanh vừa vỗ tay tán thưởng, vừa bỏ một vài đồng bạc
lẻ vào cái mũ vải bên cạnh… Tôi tiến đến gần hơn, móc ví lấy tờ giấy bạc
$10 bỏ vào mũ biếu anh ta, một người Mỹ có lẽ là cựu chiến binh Việt
Nam vì anh ta đang mặc chiếc áo khoác quân nhân, với bảng tên Norman
Walker trên túi áo và bên cạnh còn treo lủng lẳng một số huy chương. Tôi
chưa kịp bỏ tiền vào mũ, anh ta đã hỏi bằng tiếng Việt:
- Ðương nhiên rồi. Ông thổi kèn rất hay và có hồn. Ông nói tiếng Việt cũng giỏi.
- Ðại khái thôi. Kêu mày tao được rồi.
Tao đã từng đấm đá gần 8 năm trời trên quê hương của mày, nhung khi trở
về bị quê hương tao ruồng bỏ. Nản bỏ mẹ. Tao nhớ Việt Nam nên tập thổi
nhạc Trịnh, thỉnh thoảng ra đây biểu diễn kiếm thêm ít đồng mua cơm mua
cháo sống qua ngày với đám bạn không nhà không cửa trở về từ cuộc chiến.
- Ông…
- Lại ông nữa. Mày tao cho thân tình. Không phải người Việt tụi mày vẫn nói thế sao?
- Tôi không quen gọi người lạ như thế. Hay gọi nhau là ‘anh tôi’ được không?
- Tùy mày. Tiếng Việt tụi mày rắc rối lắm. Mày có cần phải đi làm chưa?
Tao phải tiếp tục thổi thêm vài tiếng
nữa mới đủ sở hụi. Tao nghỉ lúc 11giờ, mày có thể tới nói chuyện. Nếu
bận thì thôi. Thứ Sáu nào tao cũng làm ăn tại đây. Nếu không chê, mày có
thể trở lại.
- Tôi sẽ trở lại trước 11 giờ. Văn phòng tôi làm việc cũng chỉ cách đây một quãng đường ngắn.
- Mày không sợ hả?
- Sợ gì?
-Tụi tao là loại nguời bị ruồng bỏ và khinh chê.
- Không có đâu. Tôi sẽ trở lại.
- Ði đi. Hẹn gặp lại.
Tôi đã trở lại gặp Norman và mời anh ta
cùng ăn trưa hôm đó. Anh ta rất cảm động, và chúng tôi trở thành ‘bạn’
từ dạo đó. Tôi thắc mắc tự hỏi không hiểu tại sao hôm nay Norman không
gọi điện thoại cho tôi mà lại dẫn theo hai người bạn tới văn phòng tìm
tôi, gây xáo trộn cho thêm rắc rối.
Tôi chỉ sợ Norman và bạn của anh ta sẽ buồn và mất cảm tình với National Geographic cũng
như cá nhân tôi vì bị những nhân viên an ninh của sở ‘hạch hỏi’. Ðã từ
lâu lắm rồi, tôi cảm nhận được nội tâm đơn thuần và tính tình chân thật
của những cựu chiến binh không nhà không cửa lang thang khắp đường phố
thủ đô Hoa Thịnh Ðốn. Có những người đã từ bỏ tất cả để sống kiếp lang
thang tại vùng thủ đô để thỉnh thoảng có dịp ghé thăm và tưởng nhớ những
đồng đội đã hy sinh trong cuộc chiến được khắc tên trên bức tường cẩm
thạch mầu đen ở đài tưởng niệm Binh Sĩ Hoa Kỳ Trong Cuộc Chiến Việt Nam
(Vietnam Veterans Memorial).
Những cựu chiến binh râu ria xồm xoàm,
quần áo rách nát và bẩn thỉu, thân thể xâm đầy những bức hình ngổ ngáo
hay những dòng chữ ngang tàng để che dấu một nội tâm lúc nào cũng khắc
khoải trong đau thương tủi nhục và nhức nhối từng đêm vì những ám ảnh từ
cuộc chiến Việt Nam. Tôi cảm thương với hoàn cảnh của họ và trân quý
những hy sinh họ đã dành cho Quê Hương Yêu Dấu Việt Nam của chúng ta.
Vừa gặp mặt, Norman xiết chặt tay tôi cười lớn, rồi lên giọng:
- Gặp mày còn khó hơn gặp sĩ quan cao
cấp ngoài mặt trận nữa. Hôm nay nói tiếng Anh nhé. Bạn tao không biết
tiếng Việt và tao cũng không muốn đám ‘cớm dổm’ ở đây nghi ngờ, gây thêm
phiền phức cho thằng bạn người Việt rất thân của tao.
Norman đổi giọng, nói tiếng Anh:
- Ðây là thằng Duy rất thân của tao. Nó
là nguời Việt tỵ nạn nhưng đang làm lớn ở đây. Chắc nó giúp được tụi
mình. Còn đây là Bernie và Bob, hai thằng bạn thân ‘homeless’ của tao.
Norman vẫn không buông tay nên tôi đành bắt tay trái với Bernie và Bob, rồi lên tiếng mời:
- Mời các bạn xuống ‘cafeteria’ uống nước và nói chuyện.
- Có tiện không? Hay tụi tao chờ mày ở ngoài kia, lúc nào rảnh ra nói chuyện.
- Không sao đâu. Tuy nhiên, Norman đừng đòi cà phê sữa đá, ở đây không có đâu. Norman cười ha hả trả lời bằng tiếng Việt:
- Biết rồi! Khổ lắm, nói mãi! Ðúng không? Rất đúng. Nghe giống hệt ‘một ông già Bắc kỳ’ thứ thiệt.
Chúng tôi vui vẻ bước vào gọi cà phê,
cùng tiến về một bàn trống phía trong cùng trước bao nhiêu con mắt kinh
ngạc của những người đang có mặt trong ‘cafeteria’ sáng hôm đó. Vừa ngồi
xuống bàn, Norman vội vàng lên tiếng:
- Ðể khỏi mất thì giờ của mày, tao vào
đề ngay nhé. Hôm qua Bernie đọc thấy ở đâu đó nói tuần này National
Geographic sẽ có ‘preview’ cuộn phim ‘Inside the Vietnam War’ trước khi
trình chiếu vào dịp kỷ niệm 40 năm biến cố Tết Mậu Thân. Ðúng không?
- Ðúng rồi. Chúng tôi sẽ bắt đầu chiếu trên đài National Geographic từ ngày 18 tháng 2 này.
- Ðài của tụi mày chỉ có trên ‘Cable’ và
‘Direct-TV’. Dân ‘homeless’ tụi tao làm sao xem được. Tao biết họ vẫn
mời mày 2 vé ‘preview’ mỗi khi có phim mới. Mày kiếm thêm vé cho 3 đứa
tao đi xem với. Ðược không?
- Chắc được. Mấy lần trước tôi đưa vé cho bạn nhưng có bao giờ xuất hiện đâu!
- Lần này khác… vì họ nói về tụi tao và những bạn bè từng đấm đá trên Quê Hương của mày.
Ðể giữ sĩ diện cho tôi, cả 3 người ‘bạn’
cựu chiến binh đều ăn mặc quần áo tươm tất, đầu tóc chải gọn gàng đứng
chờ ngoài hành lang ‘Explorer Hall’ cả giờ đồng hồ trước khi tôi xuống
dẫn vào xem phim trong hội trường chính của National Geographic. Sau khi
cầm trong tay 4 tấm vé ‘preview’, tôi đã liên lạc nhờ mấy nguời trong
nhóm ‘Audio & Video’ của sở sắp xếp để chúng tôi ngồi trong góc cuối
của hội trường, tránh xa những vị ‘tai to mặt lớn’ trong sở cũng như
những vị khách từ Bộ Quốc Phòng, Bộ Cựu Chiến Binh, Quốc Hội, và viên
chức Chính Phủ Mỹ.
Sau những lời giới thiệu, những bài diễn
văn theo thủ tục, cuộn phim bắt đầu chiếu. Mấy người bạn cựu chiến binh
Mỹ của tôi chăm chú lắng nghe, mắt người nào cũng long lanh ngấn lệ,
cùng xiết chặt tay nhau để nén lại những cảm xúc đang cuồn cuộn trào
dâng trong tim của mỗi nguời.
Thỉnh thoảng tôi nghe thoang thoảng đâu
đó một vài tiếng sụt sùi nho nhỏ vang lên khắp hội trường. Ba nguời bạn
của tôi vẫn ‘án binh bất động’ dõi mắt đăm chiêu theo từng tấm hình,
từng tiếng súng, từng bước đi, từng câu nói, từng tiếng khóc… trên màn
ảnh. Tới đoạn phim chiếu lại cảnh những cựu chiến binh trở về từ Việt
Nam bị ‘dân Mỹ’ và có lúc cả gia đình và bạn bè miệt thị, Bob bật tiếng
khóc thật lớn, rồi Bernie, rồi Norman và một vài nguời chung quanh cùng
khóc theo!
Ai đó đã ra lệnh tạm ngưng. Ðèn hội
trường bật sáng. Tôi vội vã xin lỗi những người chung quanh rồi vội vàng
‘kéo’ ba nguời bạn cựu chiến binh ra khỏi hội trường. Cả ba vừa đi vừa
khóc, lững thững lê gót ‘khật khưỡng’ bước theo tôi như ba cái xác không
hồn!
Mấy ngày sau, tôi nhận được một cú điện
thoại từ nhóm thực hiện cuộn phim tài liệu ‘Inside the VietNam War’ nhờ
tôi sắp xếp một cuộc gặp gỡ với 3 nguời bạn cựu chiến binh ‘homeless’ đã
cùng tôi đi xem ‘preview’ hôm đó, và cũng nhờ họ mời thêm những bạn bè
khác vì Bộ Quốc Phòng và Bộ Cựu Chiến Binh cùng một vài viên chức trong
chính phủ muốn gặp gỡ và giúp đỡ họ.
Có lẽ đã tới lúc nguời Mỹ nhận thức được ‘món nợ phải trả’ cho sự hy sinh của những cựu chiến binh từng tham chiến ở Việt Nam.
Lòng tôi chợt nhói lên một niềm đau khi
nghĩ tới số phận của những cựu quân nhân và công chức của Miền Nam Việt
Nam trước năm 1975. Ai còn? Ai mất?
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22718 |
Gởi ngày: 22/Mar/2018 lúc 2:41pm |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
giodocgocong
Senior Member Tham gia ngày: 12/Jan/2011 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 132 |
Gởi ngày: 24/Mar/2018 lúc 4:48pm |
GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG
|
|
IP Logged | |
giodocgocong
Senior Member Tham gia ngày: 12/Jan/2011 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 132 |
Gởi ngày: 26/Mar/2018 lúc 7:12am |
Hẻm Cụt
Tôi nghe phong thanh “… Trước năm một nghìn chín bảy mươi lăm. Ba
Nhảy là lính, không biết đi lính chi, đóng quân ở Định Tường. Trong một
lần đụng trận bị thương cưa bỏ một cái chân bên trái”. Anh ta chống nạng
đi bán vé số mỗi ngày, tính tình vui vẻ, hòa nhã… Mỗi lần gặp hay chào
tôi – đại ca!
Tôi về Sai Gòn sống trong cái một hẻm cụt nơi vùng ngoại ô quận T..
nầy chưa được nửa năm. Nơi đây là quê vợ, bên nhà vợ tôi nghèo miếng
vườn bên nhà vợ đang ở hơi rộng rộng, trong vườn trồng toàn chuối sứ cây
nào cây nấy cao nghệu… Trước sân có trồng cây mận, cây ổi, các cây đều
cho trái. Một cái nhà thấp lè tè vừa kê đủ: một cái giường tre nhỏ, một
cái di-văng nhỏ, không bàn ghế, bên hông có một cái chái bếp nhỏ đi vô
đi ra đụng đầu. Phía sau vườn cũng có một cái nhà nhỏ đủ kê một cái
giường lớn và một cái tủ nhỏ đựng quần áo. Hai vợ chồng tôi ở “thoải
mái” trong cái ổ tò vò đó! Hai cái nhà làm bằng cây cừ tràm, cây tre tầm
vông, vách che bằng lá dừa nước, lợp tôn cũ, nền tráng ciment. Người
xưa nói “Thà ở xó chuồng heo còn hơn theo quê vợ”. Tôi không biết sự sĩ
diện của mấy đấng đàn ông thuở trước cao đến đâu? Họ có mối hận tình hay
“Trọng nam khinh nữ”… để rồi phán một câu có vẻ hằn học miệt thị như
vậy! Đối với tôi cái quan niệm đó đã quá lỗi thời, ở bên nội hay bên
ngoại cũng được, miễn là thuận tiện cho công việc làm ăn, ở bên nào cũng
phải làm việc cật lực cho có lợi tức… Không lợi dụng tình cảm, tiền bạc
của hai bên cha mẹ để mà dựa dẫm, ăn bám thì có chi đâu mà ngại? “Đời
cua cua máy. đời cáy cáy đào”! Không ai nuôi ai đến suốt đời bao giờ, sĩ
diện mần chi cho thêm hao tổn tinh thần?
Tôi biết nghề mộc tay nghề thuộc hạng xoàng xoàng: đóng tủ bàn ghế,
làm nhà… Sau ngày “thống nhất” mọi người dân thi đua phá rừng làm rẫy,
lấy gỗ, lấy củi, đốt than… đem ra chợ bán để sống qua ngày đoạn tháng
chờ tiến lên xã hội mới sung sướng. Than gỗ còn dùng để thay thế xăng
dầu cho các loại xe hơi… do “ciment” khan hiếm – từ thôn quê cho đến
thành phố đều làm nhà, làm sàn gác toàn bằng gỗ. Mấy năm đầu “bao cấp”
mua gỗ từ “Cửa Hàng Quốc Doanh” cũng không phải dễ dàng, làm đơn chờ dài
cổ mới mua được, mua xong trước khi chở về nhà còn phải lấy bùn, lọ
nồi… bôi lên thân cây gỗ cho cũ xì lỡ khi có gặp đội “Quản lý kinh tế
thị trường” kiểm tra, thì nói – mua cây gỗ cũ về sửa nhà. Sau thời bao
cấp ở thành phố Sài Gòn đi bất cứ con đường nào cũng thấy vựa cây ván,
vựa than củi…, vựa cây cừ, tre tầm vông, thang tre, tấm cót tre, giấy
dầu lợp nhà, lá dừa nước… tha hồ mà mua chẳng có ai thèm xét hỏi. Chợ
buôn bán cây gỗ ván các loại lớn nhất Sài Gòn ở phía sau Bưu Điện Chợ
Lớn, chợ nằm chình ình giữa các con đường – “Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Thi,
Mạc Cửu, Trần Văn Kiểu…” Lan ra cả các khu chung quanh. Máy cưa, máy
bào, máy cắt xẻ gỗ, phục vụ cho ngành mộc chạy ầm ầm suốt ngày, xe ba
gác máy, xe ba gác đạp, xe xích lô đạp, xe xích lô máy, xe lam, ghe
xuồng… sẵn sàng đưa hàng đến tận địa chỉ của người mua ở bất cứ nơi đâu
trong thành phố… Suốt con đường Trịnh Hoài Đức từ bưu điện Chợ lớn cho
đến cầu Ba Cẳng, hai bên – chuyên buôn bán các mặt hàng phục vụ cho
ngành mộc đủ các loại…
Đường đi vô nhà bà mẹ vợ tôi ở là con hẻm nhỏ dọc theo phía sau lưng
trường tiểu học Phú Hưng, qua hai cái cua gấp thông ra chợ Xóm Than. Nhà
mẹ vợ tôi ở ngay đầu cái cua thứ nhất, bên hông nhà có cái lạch nhỏ ăn
thông ra kênh lớn nước thủy triệu vô ra hằng ngày. Sau ngày “giải phóng”
người ta xây nhà bít kín đầu hẻm phía chợ Xóm Than, lần hồi người ta
cũng lấp luôn cái con lạch để cất nhà chồng lên… trời mưa nước không có
lối thoát, ngập cả xóm!
Nghe bà mẹ vợ “thổ địa” của tôi kể:
– “Vùng nầy trước kia là đất ruộng. Năm 1966, ông Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu cho xây hàng loạt các dãy nhà lô liên kế, diện tích mỗi căn
nhà: rộng bốn thước, dài mười hai thước, tường xây bằng gạch lốc, mái
lợp tôn Fibro. (Ciment) Chủ yếu để bán rẻ cho: nhân viên công chức, dân
chúng, khu gia binh, thương phế binh ở”.
Căn nhà cuối cùng chắn cái hẻm cụt là căn nhà lá của người thương phế
binh “ngụy” – Ba Nhảy. Bên trong hẻm cụt còn có cái ao rau muống khá
rộng, quanh bờ ao có trồng nhiều cây dừa cho trái sum suê, nước cống của
mấy nhà trong hẻm chảy ra cái ao rau muống đó, lâu ngày nước trong ao
đen thui như xì dầu. Đám rau muống chết toi! Ao nầy là của nhà bà: Hai
Cổ Cò. Đêm tối, nhất là những đêm trời mưa dầm…, nằm nghe giàn đồng ca:
ếch, nhái…”hòa tấu” mà buồn thúi ruột!
Bà mẹ vợ của tôi đã già, hằng ngày bà bắt ghế ngồi trước hiên nhà
ngắm mây bay, gió thổi… bà để cái tủ thuốc lá nho nhỏ bán cho mấy người
hút thuốc lá lẻ, thỉnh thoảng có vài người lạ không biết cái hẻm đã cụt
nên chạy xe vô trỏng. Từ đó bà già vợ tôi tự nhiên có nhiệm vụ “thông
báo” cho những người lạ:
– “Hẻm nầy là hẻm cụt bà con ơi”…!
Mấy bác tài: xe ba gác, xích lô, người đi bộ, thấy bà già nhiệt tình
nên mua vài năm ba điếu thuốc coi như là trả ơn cho tấm lòng thật thà,
nhân hậu! Đồng thời nói bâng quơ một vài câu bóng gió pha chút giận hờn,
bất mãn, nhưng cam phận:
– “Thời buổi nầy ai có tiền, có quyền, có thế lực, muốn bít…, muốn
chặn…, muốn chiếm chỗ nào mà chẳng được, ai đâu dám nói, dám kiện… Kiện
hay nói ra cũng chẳng đi đến đâu không khéo lại rước họa vào thân”!
Tôi tuy mới về ở bên nhà vợ đi mần chưa được nửa năm nhưng đã “nổi
tiếng” thật thà, ít nói. Đặc biệt là đóng bàn tủ ghế hay sửa chữa… tôi
lấy giá phải chăng, còn sửa mấy cái lặt vặt tôi không bao giờ tính tiền.
Cây gỗ cũ các loại tôi trữ lại để dành, tôi sẵn lòng cho bà con mượn
che rạp mỗi khi có chuyện “Quan, Hôn, Tang, Tế”. Sở dĩ tôi ít nói và ít
giao tiếp bởi tấm thân của tôi mang một cái… “lý lịch ngụy quân – ngụy
quyền”. Đã từng được may mắn đi “cải tạo” nhiều năm! Chuyện chỉ có… “đơn
giản” như vậy thôi mà!… Ngoài vợ tôi ra, ở trong cái hẻm nầy mọi người
không ai biết tôi là thằng cha căng, chú kiết từ nơi nào tới? Vấn đề:
tạm trú, tạm vắng… bà mẹ vợ của tôi lo liệu hết, bà mẹ vợ tôi có một
người anh ruột đi mần “kách mệnh” tập kết ra Bắc hồi… 1954. Ngày “… vinh
quang muôn năm” áo gấm vô Nam, ông dẫn theo một cô vợ người Bắc trẻ
măng nhỏ hơn ông chừng… hai mươi mấy tuổi, với ba đứa con nhỏ. Qua năm
sau ông nghỉ hưu nhưng gia đình còn hưởng nhiều “bổng lộc”, ánh hào
quang “cách mạng” vẫn còn miệt mài lan tỏa rộng khắp trong giòng tộc bên
vợ. Nghe nói vậy chứ tôi chưa hề gặp mặt ông cậu vợ bao giờ… Tôi cũng
nghe bà mẹ vợ kể: thời chống Pháp bà cũng có bưng… mấy thúng lựu đạn
cung cấp cho “kách mệnh” ở tận trong đồng chó ngáp…? Tôi nghĩ… “lựu đạn,
chứ có phải khoai lang đâu mà bưng đến mấy thúng…”?
Tôi sống bên nhà vợ lúc đầu lạ nước lạ cái, cũng may tôi gặp ông già
Năm! Ông là bạn thân của cha vợ tôi, cũng đồng là bạn thân của bà mẹ vợ
của tôi nữa. Ông cha vợ của tôi “khắc khẩu” với bà mẹ vợ của tôi nên bỏ
về “chợ Đào – gạo Nàng Thơm” cất cái nhà lá giống cái y chang cái chòi
giữ vịt, sống mình ên trên miếng đất nho nhỏ của gia tộc để lại, ông
sống dzậy đã lâu năm lắm rồi! Thỉnh thoảng hai ông bà có gặp nhau nhưng
coi bộ hai người còn… “bẽn lẽn” lắm! Khắc khẩu chuyện chi không biết?
Vậy mà hai ông bà sinh một hơi những chín đứa con, ngỏm củ tỏi lúc còn
nhỏ hết sáu đứa, còn sống ba đứa: hai gái, một út trai. Ông già Năm quê ở
Phước Lộc, Nhà Bè, do không muốn làm “cách mạng” bỏ ruộng lên thành phố
ông mua được một căn trong dãy nhà lô làm chỗ sinh sống và nuôi các con
ăn học. Ông làm nghề thợ mộc kể cả đóng xuồng. Uy tín của ông ở vùng
Xóm Đầm nầy rất lớn. (không phải xóm chuyên nhảy đầm, mà là xóm đầm lầy)
Ông thấy tôi hiền lành lại cũng biết nghề mộc như ông, ông mến lắm! Ông
nói: “Nếu tôi bằng lòng, ông sẽ nhận tôi làm con nuôi ngang hông của
ông”. Tôi bằng lòng, vậy là ông đi kiếm việc, nhận việc… rồi hai tía
con: một già, một trẻ cõng đồ nghề cùng nhau đi mần, mần chỗ nào ông
cũng khoe… “Tui có thằng con “lãng tử hồi đầu”! Tay nghề mộc của nó còn
giỏi hơn tui nữa đó”. Tôi không biết nhiều về hoàn cảnh của những người
sống trong con hẻm cụt nầy; cho dù có biết chút ít thì cũng để bụng, chứ
bà xã của tôi không cho tôi giao tiếp thân mật với họ! Chắc bả lo cho
cái “lý lịch ngụy đen thui, đen thủi” của tôi. Nghĩ cũng đúng, vì ở thời
buổi “kách mạng” lên ngôi ai biết ai, ai tin ai… Ăn nói hớ hênh là dễ
vô tù cải tạo như bỡn!
Nơi đầu hẻm cụt là ngã ba, buổi sáng sớm ở nơi đây trở thành cái chợ
nhỏ, bán thức ăn, đồ uống do mấy bà, mấy cô ở trong hẻm cụt đem ra bán.
Vợ của người thương phế binh “ngụy” sáng sớm cũng ì ạch cùng đứa con gái
đẩy cái xe ra đầu hẻm, bày bàn ghế nhưa bán cà phê, thuốc lá…Xe lam, xe
ba gác, xe xích lô, xe hon da, xe hon da ôm, xe đạp… đậu dài dài, ăn
uống xong là tỏa đi khắp các nẻo đường quê hương kiếm cơm. Nào là gánh
bún của chị Sáu Giò; gánh hủ tiếu của chị Tư Tỏi; trẹt bánh tét, bánh ú
của bà Hai Méo; thúng xôi vò của cô Bảy Lủng; sàng hột mít luộc, hột sầu
riêng luộc của bà Bảy Còng, nồi cơm tấm của cô em Cà Cuống. Xa xa chút
nữa có hàng phở ngoài hàng hiên của chị Hai Phượng, giá rất ư là bình
dân! Còn thêm gánh đồ xẻ của chị Năm La, đồ xẻ là các loại trái cây xẻ
nhỏ ra cho vô bịch “nylon”. Mấy năm trước còn có mâm khoai lang luộc,
sắn luộc, của bà mẹ vợ tôi bày bán.
Buổi sáng ngồi ăn uống nơi cái chợ nho nhỏ nầy được nghe tin tức nóng
hổi miễn phí – đủ thứ chuyện trên trời dưới đất… Ngay bên hông nhà lão
Tương trên cây cột đèn điện ốm nhom đã oằn lưng cõng một mớ dây nhợ
chằng chịt đủ các loại, vẫn chưa tởn, lại còn đành hanh chất lên thêm ba
cái loa phường “to đùng”! Sáng sáng… chiều chiều… ra rả tra tấn hai cái
lỗ tai đến phát ớn! “Thống nhất” lâu rồi mà còn léo nhéo… “con gái Sài
gòn đi tải đạn – con gái Sài gòn đi vót chông …” . Cái chợ nhỏ nầy lúc
nào ồn ào…, ồn ào quá đổi, trường học phải trám hết các cửa sổ… Công an
khu vực đôi ba lần đe dọa đòi đẹp nhưng đâu rồi cũng hoàn đấy.
Mùa mưa, mưa to… con hẻm cụt nầy nước ngập quá gối, mấy bà mấy cô xăn
quần sát tới tận bẹn lội bì bõm từng bước… sợ lọt xuống hố ga, thoải
mái “vô tư” khoe cặp đùi trắng hếu…! Mấy ông có máu…dê tha hồ “rửa mắt”
khỏi phải tốn tiền “bo”. Trước hiên, nhà nào cũng xây một con lươn chắn
nước cao hay thấp tùy theo chỗ nền hẻm nông sâu. Nhà nào cũng chuẩn bị
“gàu” tát nước mưa, trông quang cảnh tát nước giống y chang những ngày
đi đào mương thủy lợi… Đám con nít “hồ hởi” nhào ra tắm mưa, đùa giỡn
vui chơi thật là sung sướng, bọn trẻ kiếm ở đâu ra mấy cái ruột xe nhỏ,
rồi nằm lên bơi từ đầu hẻm cho tới cuối hẻm. Một đám trẻ loi nhoi, lóc
nhóc lội bì bõm chạy theo sau hò reo…té ngã la inh ỏi… tạo thành sóng
lớn ùa nước vô nhà, cha mẹ chúng nó la ơi ới…! Nước ngập kéo theo nước
cống thơm lừng…trời ngưng mưa, khoảng một hai giờ sau nước rút đi. Quang
cảnh khi nước rút đi rồi trông thật tiêu điều… Để lại nào là: rác rến,
bịch nylon, vỏ dừa khô, bông băng vệ sinh, xác chuột chết sình chương
thấy mà phát khiếp. Đồ dùng trong nhà đều nhảy tót lên giường, lên bàn
ngồi rung đùi… mùi nước cống còn phảng phất hương hoa phải lo lau rửa…
tốn thêm tiền nước máy. Trong hẻm cụt bao năm nay mua điện, mua nước máy
của nhà lão Tương bán, lão kinh doanh bán nước. Nhưng có ai đó nói rằng
lão “bán nước” là lão ta gào lên…
– “Vợ chồng tui “đổi nước” lấy tiền…! Chớ tui không bao giờ bán
nước…! Các người hiểu chưa…? Kẻ nào nói vợ chồng tui “bán nước” là…là…
tui… kêu lính bắt bỏ tù mọt gông! Bỏ tù rục xương! Bỏ tù không có ngày
về…”!
Mọi người xầm xì:
– “Vợ chồng lão Tương bán nước rõ như ban ngày…, vậy mà còn chửi
người ta, còn hăm dọa kêu lính bắt người ta…? Thứ hàm hồ…, ông bà xưa
nói “Một thằng nói ngang… ba làng cãi cũng không lại”. Quả thiệt là đúng
mà! Không sai chút nào….? “Đổi nước”… với bán nước, tựu trung cũng là
lấy tiền, chỉ khác nhau cách nói để che giấu hành động mà thôi. Chỉ có
dzậy mà cũng chửi… người ta cho được.”!
Mùa nắng, nước ngập theo kiểu mùa nắng. Nhà nước gọi là “cường triều,
triều cường”. Thủy triều âm thầm lên, âm thầm rút, chơi theo kiểu: đánh
“du kích” hay nói một cách bay bướm hơn là “em chợt đến, rồi em… chợt
đi”. Đôi khi nước thủy triều cũng nằm ăn vạ vài bữa mới chịu rút. Nước
thủy triều dâng lên cũng mang theo “hành trang” đủ mọi thứ hằm bà lằn
chẳng khác chi nước trời mưa ngập. Người trong hẻm cụt tái diễn lại cảnh
“tát nước đêm trăng”! Chợ nhỏ ở ngoài đầu hẻm nền đất hơi cao, bà con
ngồi chò hỏ trên ghế uống cà phê, ăn hủ tiếu… “vô tư” bởi quá quen với
lũ.
***
Đầu hẻm cụt là “quán rượu tử thần” của vợ chồng nhà lão Tương, vợ
chồng lão chuyên bán: Rượu thuốc, rượu sắn, rượu rắn, rượu bắp, rượu pha
cồn tạp nhạp, và bia lên men “hòa bình – bia 36 – bia con cọp Gò Vấp,
rượu nhẹ có ga Chương Dương. Mồi nhậu có các loại thịt khô, cá khô…,
ngoài ra, khoảng đầu giờ chiều có gánh bún thập cẩm của chị Sáu Sún.
Trong nồi nước lèo của chị có đủ mặt bá quan văn võ thủy lục, như: Đầu
cổ gà, đầu cổ vịt, chân gà, chân vịt, lòng gà, lòng vịt, giò heo, xươn
heo, huyết heo… Nghe chị nói dưới đáy… nồi có: ngêu sò ốc hến “chem
chép” nữa…! Không biết từ thời gian nào mà một số con “ngọc hoàng” quy
tụ về cái quán rượu tử thần của nhà lão Tương, sáng sớm đã tập trung lại
uống rượu, chai rượu giấu dưới gầm bàn, người lạ đi ngang qua cứ tưởng
họ ngồi uống cà phê, còn người địa phương lạ chi mấy trự con “ngọc
hoàng” nầy… Họ ngồi uống đến chín mười giờ sáng là tan hàng! Chừng ba
bốn giờ chiều họ lại “họp giao ban” đến tối mịt!
Tên “Quán Rượu Tử Thần” là do tôi đặt, và được âm thầm truyền tụng
ra… vợ chồng lão Tương nghe được – Tức lắm! Thỉnh thoảng hai vợ chồng ra
đứng trước nhà hoác mồm ra chửi xiên, chửi xéo… như chó sủa trăng. Đâu
có biết ai là tác giả? Mãi đến sau nầy khi Hoa Kỳ bỏ cấm vận, hàng hóa
tư bản nhảy vô “xâm lăng” nhất là các loại bia, rượu ngoại… Vợ chồng lão
Tương bấy giờ không bán rượu đế tử thần nữa, quay sang “kinh doanh nhà
hàng ăn uống”, bán các loại bia rượu “xịn”…! Mướn đầu bếp về nấu các món
ăn, món nhậu rất ngon, mướn mấy em tiếp viên trẻ đẹp mặc đồng phục chạy
bàn…, mấy em “tiếp thị bia” các loại cũng trẻ đẹp, cũng mặc đồng phục
váy ngắn thiệt ngắn… sẵn sàng nâng ly, cụng ly, cùng với khách… Đám con
“ngọc hoàng” trôi dạt theo đám lục bình để rồi, lần lượt… từng em…từng
em… khăn gói về chầu thượng đế hết ráo…! Vợ chồng lão Tương cuối cùng
rồi cũng biết tôi là người nói câu: “Quán rượu tử thần”, nhưng câu
chuyện đã qua quá lâu, hơn nữa lão lại mang ơn tôi “thiết kế” cho lão
cái nhà hàng “một trệt, một lầu” khá đẹp! (khách nhậu say xỉn khen đó
nghen!). Cuối tuần, thứ bảy tôi còn kéo bạn hữu đến nhậu lai rai “ủng
hộ”…nên vợ chồng lão Tương xoa xoa hai tay cười xuề xòa nịnh nọt… Sở dĩ
tôi bỏ nghề mộc là vì không có ai kêu tôi mần nữa, thành ra tôi phải đi
học lấy cái bằng “xây dựng” rồi “chạy” xin giấy phép hành nghề, chuyển
qua “thầu xây cất”.
Tôi xây cho bà mẹ vợ một ngôi nhà “cấp bốn” nho nhỏ nhưng khang
trang, tôi cũng xây cho tôi một căn nhà cấp bốn be bé ở kế bên nhà bà mẹ
vợ. Tôi được nhập “hộ khẩu” vô hộ khẩu gia đình bên vợ sau hơn mười lăm
năm tạm trú. Tui bàn với bà xã: cho vợ chồng Ba Nhảy gởi nhờ cái xe bán
cà phê. Bà xã tôi nói – đã có ý đó từ lâu. Lúc nầy bà con trong hẻm có
nhiều cảm tình đối với tôi, gặp chỗ nào họ cũng chào anh Tư… anh Tư… Bà
xã thấy tôi đã quen với cách sống nơi cái hẻm cụt nầy nên bà… “xả cảng,
xả cùm” để cho tôi được đi lại tự do cùng với mấy ông hàng xóm, chiến
hữu lai rai một vài chai bia hay tham dự: thôi nôi, cúng giỗ…thoải mái
chứ không còn “quản chế” như trước đây nữa! Người ta nói: “Người con gái
đi lấy chồng bị mất cái chi”? Đừng nghĩ tầm bậy, tầm bạ… nha bà con.
Mấy cô đi lấy chồng thì mất cái tên “khai sinh” chứ mất cái chi, sau đó
mất cái chi chi…đố ai mà biết. Riêng tôi từ khi lấy vợ, ở bên quê vợ –
tôi mất cái tên cúng cơm của tôi luôn, tôi trở thành… “anh Tư”! Vợ tôi
là thứ tư đó mà!
Hôm nay, hai vợ chồng người thương binh Ba Nhảy lại nhà mời đám giỗ…
Đồng thời cũng hỏi mượn: cây, tấm bạt che rạp để bày bàn tiệc ra ngoài
hẻm.!
Người thương phế binh Ba Nhảy – chủ nhà nói:
– Anh về đây ở cũng đã lâu, bác Năm ở đẳng, (năm là tên thứ mẹ vợ
tôi) cũng như vợ chồng anh chị Tư giúp đỡ chòm xóm rất nhiều việc… Nhưng
anh em chúng tôi chưa có dịp mời anh Tư ngồi uống với nhau một cách
“hợp pháp”! Hợp pháp đây có nghĩa là… được các bà vợ cho phép nhậu thoải
mái không như mấy lần trước đang uống rượu nửa chừng các bà mượn lý do
nào đó… sai con kêu dzìa! Đồng thời tui giới thiệu sơ sơ…”qúa trình hoạt
động bản thân” của anh em tụi tui cho anh Tư biết thêm. Tui tên Nghiêm,
còn tên thường gọi là Ba Nhảy, đi lính Địa Phương Quân, bị thương năm
1972, cưa quăng đi mất một cái giò rồi! Quê Định Tường, nghề nghiệp bán
vé số. “lý lịch trích ngang” có bấy nhiêu.
Tui xin giới thiệu tiếp nghen anh Tư:
– Đây là Sơn, Thiếu úy Địa Phương Quân, bị thương chột một mắt, quê Giồng xoài, Bạc Liêu, làm nghề vá sửa xe…
Ba Nhảy giới thiệu chưa dứt lời, Sơn thiếu úy đã vội vàng đứng lên dơ tay phân bua:
– Anh Tư ơi… tui tên thật là Sơn, chỉ là lính thôi, em bị thương mù
một mắt nên anh em trong hẻm “đặc cách” gắn thêm cho cái lon “Thiếu úy”!
– Thiếu úy là… “chột” một mắt đó anh Tư ơi! Chết tên luôn “kể từ dạo
ấy”… anh Tư ơi! Mọi người cười vang…!
Ba Nhảy ra hiệu giữ trật tự – giới thiệu tiếp:
– Đây là Chín Cu, tên thật là Bảnh, thằng chả có nghề điêu khắc vàng
bạc, làm “gia công” cho khách hàng ở nhà. Trước đi lính Nghĩa Quân, bị
thương đứt nửa bàn chân đi cà thọt, quê Cần Đước. Cuộc nhậu nào Chín Cu
cũng góp vui hậu hỉ!
– Còn đây là Hai Bánh, hay Hai Liếm cũng được, đi lính được một năm
thì “giải phóng”! Ngồi buồn nên lấy xoài ra ăn, xoài vừa chín tới mà
chấm với muối Tây Ninh – ngon hết biết! Thòm thèm nên liếm mấy hột muối
còn sót lại trong đĩa mà mơ mộng… Mấy bà đi qua thấy vậy đặt luôn cho
cái tên: “Hai Liếm”! Ngoài liếm muối ra hắn không còn liếm… chỗ nào nữa!
(cười) . Quê Tây Ninh. Thật ra, tên cúng cơm là Thành, còn cái tên Hai
Bánh, là… là…
Thành…! Kể cho anh Tư và anh em nghe câu chuyện đó… đi thành! Ba Nhảy giục:
– “Chiều hôm đó tui đang tìm khách nầm chuyến cuối, chợt có một ông
khách nói giọng Bắc… ăn mặc khá tươm tất, ông ta vẫy tay gọi tui lại và
nói như ra lệnh: “Này, thằng đạp xích lô …! (ngày trước “giải phóng”
người miền Nam kêu là – bác xích lô) Đi đến cầu Băng Ky bao nhiêu tiền
đấy?”. Tui nói đúng giá nhưng ông ta so kè tới lui… chỉ còn có phân nửa!
Tui nói giá tiền ít như dzầy, thì chỉ chạy được có… hai bánh thôi nha,
muốn đi thì lên xe…! Ông ta tưởng tui nói chơi cho dzui…! Vậy là ông ta
xách túi xách nhảy tót lên xe nằm vắt chân chữ ngũ, rồi ca: “Trường sơn
tây anh đi… thương em… thương em…”. Tui nghe ổng hát mà muốn… nổi máu!
Chạy gần tới Cầu Đỏ tui nói “ông ấy ơi…ông chịu khó níu hai bên thành xe
cho chắc chắn dùm tui nghe, tui chạy hai bánh đây”! Nói xong tui đảo…
đảo… giật… giật… cái xe! Ông ta tưởng tui chạy hai bánh thiệt ổng hoảng
hồn quay đầu ra sau “Tôi.. tôi… đồng ý… đồng ý…trả…trả…thêm… Nàm ơn… nàm
ơn… chạy đủ ba…ba… bánh. Ông móc tiền ra…” !
Hai bánh kể xong vẻ mặt tỉnh queo! Còn tôi và anh em thì được một trận cười bể bụng…!
Ba Nhảy chỉ tay về hướng cuối bàn giới thiệu tiếp:
– Ngồi cuối bàn, đó là: Lâm – Bắt Heo (Không biết bắt heo nào?),
trước kia có đi lính Biệt Động Quân, ở Biển Hồ, Pleiku sáu tháng. Bị
thương nơi chân đi cà thọt, rồi giải ngũ năm 1973, quê U Minh.
– Ngồi kế anh Tư, là Ba Ngôn, có khiếu mần thơ… Trước có làm cán bộ
XDNT. “Giờ đây mình hãnh tiến, làm con dân tộc Việt, khoát áo đen tuyền
xây dựng nông thôn” Bị thương rồi giải ngũ. Sau 1975 có đi “cải tạo”,
quê Kiến Tường. Hiện nay buổi sáng phụ vợ bán hủ tiếu, buổi chiều chạy
xích lô, ai kêu đâu chạy đó!
– Còn đây là chú Út Say, “Việt Kiều Kampuchia” hồi hương. Lý do năm
1970 bị người Kampuchia “cáp duôn” chặt đầu, nên bỏ của chạy lấy người,
trước sống trong làng Việt kiều Kampuchia ở xã Mỹ Xuân… Sau chú chuyển
về đây đi mần thợ hồ, đã “nghỉ hưu”. Bị ma Miên hay ma Việt… nhập vô
trong người, chú ca hát lảm nhảm suốt ngày đêm:
– “Mời em lên, lên tàu hỏa, chúng mình đi
Đi, khắp nơi… mà không… tốn tiền”!
Nay tỉnh rồi! Mấy câu chú hát lúc trước, người lớn, con nít đều thuộc
lòng. Họ cũng mơ ước được mời lên… xe hỏa… đi khắp nơi mà không tốn
tiền!
Ba Ngôn – có vẻ như “bức xúc” chuyện chi trong lòng? Vội vàng đứng lên giơ tay xin có ý kiến:
Mơ ước của chúng ta bao lâu nay là mong làm sao được chính quyền cho:
Gắn đồng hồ nước, gắn đồng hồ điện, vô hộ khẩu…! Mắc mớ chi lại mơ lên…
“tàu hỏa” để đi chơi vậy hả…? Chẳng lẽ nhịn đói để mà đi chơi sao…? Lâu
nay trong cái hẻm cụt nầy mọi người đi mua nước để ăn uống, giá mắc
gấp… năm bảy lần “giá nhà nước” từ quán rượu tử thần của vợ chồng nhà
lão Tương! Điện đóm cũng câu nhờ của vợ chồng nhà lão Tương, giá điện
cũng mắc gấp… năm bảy lần “giá nhà nước”! Mỗi lần chả say sỉn, đi ăn
đám… không ai kéo cầu giao điện, vậy là chúng ta ăn cơm bên ánh đèn dầu,
tội nhất là mấy đứa nhỏ ngồi học bài cũng dưới ánh đèn dầu tù mù…! Cả
con hẻm cụt nầy không nhà nào mua sắm nổi một cái “truyền hình” để xem,
mà có sắm được truyền hình thì cũng đâu có điện mà sử dụng! Ghiền bóng
đá, phim ảnh… chạy đi coi ké khắp – bốn vùng chiến thuật! Còn chuyện vô
“hộ khẩu” (hậu khổ) thì chưa dám mơ ước. Sử dụng cái “sổ tạm trú” là may
lắm rồi! Mong có “hộ khẩu” là có tất cả! Khi cần tiền cầm cái hộ khẩu
đó đi “thế chấp vay tiền” cũng dễ dàng! Ngày trước, chính quyền miền Nam
chỉ dùng một tờ giấy, đó là: “Tờ Khai Gia Đình” rất đơn giản, chỉ kiểm
soát về mặt an ninh mà thôi, còn về mặt đời sống – Tờ Khai Gia Đình
không làm trở ngại sự sinh hoạt mua bán hằng ngày của người dân. Thêm
một việc nữa, là cái hẻm nầy bao nhiêu năm nay – mưa sình, nắng bụi, cần
tráng bê tông, đặt đường ống thoát nước. Họp tổ dân phố, dân nêu ý kiến
biết bao nhiêu lần rồi, nhưng chẳng thấy “cán bộ” trên phường quan tâm.
Lúc nào mấy ông cán bộ ở trển cũng hứa hẹn, nào là “Nhân dân và chính
quyền góp công, góp tiền để làm”. Nhưng có đâu?!
Nghiêm – Ba Nhảy với nét mặt hơi buồn buồn, nói:
– Ba Ngôn – “bức xúc đại trà” như dzậy là đúng với nỗi lòng mong ước
của mọi người lâu nay đó thôi. Nhưng mọi chuyện cứ để nằm im đó, chúng
ta “có quyền” ngồi đợi! Bây giờ mời tất cả nâng ly chúc mừng ngày “chết”
của cha tui, ngày xưa cha tui tử trận trong một lần hành quân! Mẹ tui
lãnh tiền tử tuất nuôi anh em chúng tui, rồi mẹ tui cũng chết quách đi
rồi! Nhưng có một điều tui rất buồn là mẹ tôi trước khi chết bà quên “di
chúc” lại cho tui được rõ… Cái tên Ba Nhảy nầy là do cha tui đặt, hay
là mẹ tui đặt? Tại sao lại phải “nhảy” đến ba lần? (cười) Đến đời tui,
tui cũng làm lính Quốc Gia, bị thương cụt một chân, sau 1975 đi lang
thang rồi về ngụ tại cái hẻm cụt nầy, thì cũng xem như cuộc đời lính
“ngụy” của tui đã đi vào hẻm cụt! Nào nâng ly, cạn đáy anh em ơi!
Hai Bánh, tự Hai Liếm lên tiếng:
Chúng em có biết chút ít về anh Tư, anh Tư có đi “cải tạo” nhiều năm
nên âm thầm xem anh như một người đại ca. Dù cuộc chiến đã qua lâu rồi
và chúng ta là kẻ “chiến bại”, nhưng không hẳn chúng ta gục ngã, thời
gian sẽ trả lời. “Hữu xạ tự nhiên hương” phải không anh Tư? Hôm nay nhân
đám giỗ ông già anh Ba Nhảy, lần nào cũng vậy, anh em chúng em không
ngồi lại thì thôi, chứ đã ngồi lại với nhau rồi, có chén rượu, là… hát
hò, đờn ca… Bữa nay có anh Tư càng vui hơn!
Bạn Ba Ngôn đâu? hát một bản tặng anh Tư nghe coi! Hai Bánh nói như ra lệnh! Ngôn – tằng hắng… rồi cất tiếng hát…
– “Tôi là lính xa nhà đi trấn sơn khê hai mùa mưa sa mù che kín nẻo
đường về. Xin đừng oán và hãy mến thương tôi, trăm lần không bao giờ tôi
giận cuộc đời…”!
Tiếng đàn của Ba Nhảy và tiếng hát của Ba Ngôn vừa dứt. Anh em vỗ tay giòn tan…
– Cạn ly đi anh Tư ơi! Sao anh cứ ngồi thừ người ra mãi vậy? Giờ thì đến, Hai Bánh – Hai Liếm nầy hát nha!
“…Bao thương nhớ từ độ anh vui bước quân hành
Nửa năm anh viết lá thư xanh bảo rằng
Sẽ về phố phường
Mừng rơi nước mắt ướt mi người tôi thương…
Một nỗi buồn man mác từ đâu ùa về trong lòng mọi người, cầm ly rượu
trên tay anh em nhìn nhau bồi hồi nhớ về từng kỷ niệm tình yêu lính trận
của một thời năm xưa. Ôi, hẹn… – Sẽ về phố phường… Cái hẹn quả thật là:
Tha thiết, lãng mạn…!
– ” Anh đã về phố phường rồi đây em ơi! Trong cái hẻm cụt ngủn không
lối thoát nầy đây em ơi! Em bây chừ ở nơi đâu? Những lá thư tình ngày
xưa xa ấy bay về phương trời nào rồi hở em…?”!
Tôi uống hết ly rượu rồi nhìn mấy anh em “nhà ngụy” mà trong lòng dậy
lên một tình cảm vô cùng trìu mến… Họ trôi dạt về cái hẻm cụt nầy như
rắn mất đầu, nhìn đâu đâu cũng thấy sự lạc lõng bơ vơ! Không một ai quan
tâm! Không một ai đoái hoài giúp đỡ! Tất cả tự bươn chải kiếm sống từng
ngày để mà sống; để mà chữa bịnh, chữa vết thương ngoài thân thể cũng
như tự xoa dịu vết thương hằn sâu trong lòng! Người sống đã vậy, còn
người chết ở trên rừng chưa tìm ra hài cốt! Ngay nghĩa trang quân đội
Biên hòa nằm sờ sờ bên đường bao năm vẫn bỏ bê!
Không cần đợi anh em yêu cầu. Tôi nhờ Ba Nhảy đàn cho tôi hát:
“…Tôi tiễn anh như bao anh hùng hiên ngang ra sa trường.
Vì yêu quê hương anh lặng lẽ bước chân đi…”!
Nhớ những ngày đổi lên Kontum, Pleiku vào mùa mưa. Mưa kéo dài lê thê
lướt thướt, mây mù sương khói thi nhau phủ kín khung trời, gió núi hắt
từng hạt nước vô mặt lạnh buốt đến tê tay. Ngồi trong quán cà phê
Dinh-Điền nhìn cái phin cà phê cũ rích méo mó nhăn nhúm, nghiêng nghiêng
nằm cheo leo trên miệng cái ly. Từng giọt… từng giọt…cà phê bịn rịn
buông rơi… Tiếng ca ấm áp truyền cảm đến ngùi ngùi của cô ca sĩ Trang Mỹ
Dung, chở theo nhiều mùa mưa ở tận trong rừng sâu núi thẳm đem về vung
vãi khắp phố núi cao nguyên heo hút… Đâu chỉ có hai mùa mưa rồi thôi…?
Phải không cô ca sĩ Trang Mỹ Dung? Không có tiếng còi tàu nào giữa đêm
khuya chỉ có tiếng súng, tiếng đại bác… Hai đường sắt chạy song song đến
tận sân ga là đôi giày “saut” dính đầy bùn đất đỏ đang mơ mộng trên phố
núi…! Ngồi trong quán cà phê nhìn hạt mưa bay qua khung cửa sổ…, khói
thuốc vàng tay không sưởi nổi tâm hồn. Từng nhịp tim thổn thức u hoài –
nhớ về một lần tiễn đưa, một lần hẹn ước!
Ba Nhảy ngưng đàn, lấy tay đập… đập… vô thùng đàn nói – Giọng anh Tư
còn rung động lắm, không phải giọng rượu rè rè… như giọng tụi tui.
Tôi nhìn anh em một lượt rồi nói tiếp:
– Những bài hát viết về: Người lính, về tình yêu, về quê hương, đất
nước của các nhạc sĩ, ca sĩ miền Nam. Sau ngày “thống nhất” cách mạng
gọi một cách, miệt thị, là: “nhạc sến, nhạc vàng, nhạc ngụy” – cấm hát?
Cách mạng cấm, nhưng người yêu nhạc từ Nam chí Bắc vẫn ngang nhiên hát…
lời ca, tiếng nhạc, giai điệu mượt mà xuất phát từ trái tim đầy tính
nhân bản, yêu thương… thấm sâu vào lòng quê hương… Vậy thì tại sao nói
nền âm nhạc miền Nam là nhạc: “phản động, là văn hóa đồi trụy”? Bây giờ
có còn ai ngồi ngâm nga hát… “Bài ca năm tấn – Sóc bom bo – Anh Ba
Hưng…”. Cuối cùng rồi nhà nước cũng đã nhận ra “chân lý” chấp nhận sự
thực – cho phép hát! Không cho phép cũng không được, lời ca tiếng nhạc
đã vượt không gian, vượt thời gian, bay bổng qua bên kia bờ đại dương –
tồn tại mãi mãi! Như vậy, đứng về mặt: “Âm nhạc, Văn hóa văn học, Nghệ
thuật, Báo chí…”. Miền Nam tự do đã… thắng! Chúng ta không cô đơn trong
cái hẻm cụt nầy phải không các anh em?
Mọi người vỗ tay…! Nghiêm – Ba Nhảy nói:
– Anh Tư đại ca phân tích quá đúng, trên cả tuyệt vời! Anh Tư không
nói ra thì tụi tui cũng không biết chi hết! Anh Tư đã cho bọn em được mở
mang trí não. Cảm ơn đại ca anh Tư nhiều! Nào, hãy cạn ly! Ba Nhảy “hồ
hởi” so dây hát luôn một hơi:
“…Sài gòn đẹp lắm, Sai gòn ơi! Sai Gòn ơi…! la lá la…! Sài Gòn…”. Tất cả vỗ tay hát theo, không khí thiệt là vui…!
***
Đất vườn của bà Hai Cổ Cò còn rộng. Đất nhà bà là đất hương hỏa ông bà
để lại, có bằng khoán, nhưng bây giờ là “đất của toàn dân” đã được “quy
hoạch”! Gia đình bà cần tiền kêu bán cái ao giá rẻ như cho: Hai chỉ rưỡi
vàng! Nhưng chẳng mấy ai dám đến mua! Ông Sáu Ngoảnh “cò nhà đất” nghe
tin chạy vô mua liền! (một lần ngoảnh đã buồn, ngoảnh đến sáu lần, quá
vô tình) . Ông thuê xe ba gác chở cát vô “giải phóng bằng phẳng, phân lô
bán nền”. Miếng đất ao đó phân ra được mười lô, mỗi lô rộng bốn thước
nhơn cho mười sáu thước. (4×16). Ông bán mỗi lô nghe đâu đến: Một “cây”
vàng? Ông chi phí “thuốc men” các cái… cũng còn lời khẳm! Toàn là người
lạ – giàu tiền, lắm bạc… ở đâu đến mua! Ông Sáu Ngoảnh bán đất viết bằng
“giấy tay”, ông cam đoan sẽ “hợp thức hóa giấy tờ chủ quyền đất” cho
người mua.
Người dân trong vùng “quy hoạch” lâu nay ai cũng thuộc lòng mấy câu:
– “Cụm dân cư khu vực nầy sẽ được giải tỏa xây chung cư… Cấm cất nhà
kiên cố, hay mua bán sang nhượng. Người dân nào muốn: chống dột, chống
thấm, thay nền, đảo ngói… phải làm đơn xin phép lên ủy ban nhân dân
Phường!”.
Phường đã ra “nghị quyết” như vậy mà ông Tám Ngoảnh nầy còn dám ngang
nhiên mua bán đất tỉnh queo? Ông ta có ngán ai đâu nà! Mấy người mua
nền đất cũng “vô tư”mua, có ngán ai đâu nà! Thiệt là chẳng hiểu nổi!
Khoảng đâu ba bốn tháng sau người dân trong hẻm cụt thấy mấy ông bà mua
nền đất – kéo chở “vật tư” thợ hồ đến “ngang nhiên” xây nhà ào ào…
– “Chuyện nầy hơi kỳ lạ thiệt đó à nghen? Tại sao không thấy các ông:
– công an khu vực – mấy ông cán bộ ở trên Ủy ban nhân dân Phường xuống
lập biên bản dzậy cà”? Chắc là mấy ổng ấy bận trăm công nghìn việc chưa
biết đó thôi!
Vậy là dân trong hẻm bắt chước xây nhà, sửa nhà, dù là xây nhà “cấp
bốn” tạm bợ… Một buổi chiều trời mưa rơi rơi… ngồi nhìn nước ngập đầy
hẻm mà buồn da diết! Mọi người thấy bà “Tổ trưởng dân phố” xăn quần lội
bì bõm… đến từng nhà, báo Tin mừng…!
– ” Rằng tới ngày kia…Các ông cán bộ ở trên Ủy ban nhân dân Phường,
Quận, xuống định giá mỗi hộ vui lòng đóng một số tiền – (Dân và nhà nước
cùng làm): Gắn đồng hồ nước, gắn đồng hồ điện, đặt cống thoát nước, phủ
bê tông con hẻm. Dựng một cái cổng tại đầu hẻm – trương bảng Tổ Hẻm Văn
Hóa”!
Dân sống trong con hẻm mừng như bắt được vàng…! Mọi người nhốn nháo
bàn tán xôn xao cả mấy hôm liền… đến quên cả ăn, quên cả ngủ… đúng là
niềm vui to lớn đã đến! Khi bình tỉnh trở lại, tính ra thì thấy số tiền
đóng góp cũng… nhiều… nhiều… khi đó mọi người mới nhìn nhau cau mày lo
lắng! Lo tiền đóng cho nhà nước đã đành, còn cái lo nữa là – Tráng bê
tông hẻm thì phải nâng nền hẽm lên cao ít nhất cũng phải nửa thước. Vậy
là phải nâng nền nhà, không nâng nhà mưa ngập trở thành cái ao nuôi cá!
Nhưng nghĩ đi, nghĩ lại… lâu nay nhà nước thường hay nói:
– “Sau cuộc chiến tranh trường kỳ chống Mỹ xâm lăng cứu nước, đã
thống nhất, nhưng đất nước ta còn nghèo! Kêu gọi đóng góp là thể hiện
lòng yêu nước…”.
Vậy là mọi người im lặng “hồ hởi” phấn khởi… chạy đi gom tiền. Ai
thiếu tiền thì… đi vay, đi mượn… dù tiền vay mượn lãi có cao ngút trời
cũng ráng chịu để nắm bắt cho bằng được cái “mơ ước” bao năm nay cho
thật nhanh, để vụt lần nầy thì không biết đến bao giờ mới có dịp may
khác. Sắp tới đây sẽ không còn cái cảnh. Mỗi buổi sáng sớm, mỗi chiều
tối, mọi người già trẻ đứng – Xếp thùng, xếp xô… dài dài bên hông nhà
của vợ chồng lão Tương đợi đến phiên hứng cho được một thùng nước mà
ngao ngán tình đời! Nước chảy quá yếu, hay cúp nước thì càng thê thảm
hơn!
Hôm toán thợ của “công ty nhà nước” hoàn thành công việc: Cán bê
tông, nước đã chảy, điện đã sáng, mọi người vui như trẩy hội…! Ngoài đầu
hẻm có hai người – một nam, một nữ đứng dòm vô… Đó là, hai vợ chồng nhà
Lão Tương!
Sau một thời gian chờ đợi…! Gia đình tôi mới được đi định cư ở nước
ngoài “…được đi thì cứ đi, cây cột đèn biết đi nó cũng đi!”.Gia đình làm
bữa cơm chia tay.
Tôi nói với ông cậu vợ rằng:
– Mấy năm nay thằng cháu rễ của cậu mần “ngụy nằm vùng, bắc cóc” cháu gái của cậu, cậu có buồn không?
Hai cậu cháu cụng ly…! Ông cậu vợ cười… khà… khà…!
– …Cái thằng Tư nầy hỏi… thiệt là ngộ nghen! Lâu nay cậu tụi bay vẫn
thấy thằng Tư “nằm vùng bắt cóc” đứa cháu gái thân yêu của cậu mỗi ngày
đó chớ…! Cả nhà cùng cười…! Hỏi cô Năm – mẹ của tụi bay coi, chưa bao
giờ ông cậu nầy nghĩ tụi bay là…”ngụy” nầy, “ngụy” kia! Qua bển mần ăn
khá, khi nào có dịp về thăm nhớ cho cậu chai rượu Tây đó nghen!
Mới có bốn năm năm xa cách mà tin dữ dồn dập bay qua: “…Nào là: Chín
Cu chết do ung thư gan… nào là: Út Say, Việt kiều Kampuchia chết già…
Lâm Bắt Heo cũng chết do té xe bị “chấn thương sọ não”! Sơn – Thiếu úy,
đời nhà về cầu Ông Thìn…? Thành – Hai Bánh, tức Hai Liếm theo vợ về quê ở
cầu Đa Khoa nào đó…? Ba Ngôn, cùng vợ con chuyển xuống Long An…? Riêng
Ba Nhảy còn “bám trụ” nhưng sức yếu, không còn chống nạng đi bán vé số
nổi nữa, ở nhà phụ vợ bán cà phê nhưng cũng ế ẩm bởi đàn ông thanh niên
bây chừ, thích uống – cà phê ôm, cà phê võng, cà phê đèn mờ… Đã có vài
người nhiều tiền “gạ gẫm”… mua cái nhà cấp bốn của Ba Nhảy với giá “cao”
để cơi nới… Không biết lần nầy Ba Nhảy sẽ nhảy về đâu…? Bây chừ Ba Nhảy
đâu cần “di chúc” của mẹ để hiểu cái tên “Ba Nhảy” là do ai đặt cho
nữa? Phải nhảy nhiều lần chứ đâu phải… ba nhảy rồi thôi! Vợ chồng nhà
lão Tương – đáo cuộc gia mê, “hồi đầu thị ngạn”! Gõ mõ… ăn chay…!
Thuở con hẻm cụt chìm sâu trong màu đen tăm tối thì anh em chiến hữu
vô ra vẫn còn thấy mặt nhau. Bây giờ nước điện đầy đủ, đường hẻm cao
ráo… mọi người lại bỏ ra đi mỗi người mỗi phương? Hẻm cụt mà ở cũng
không yên! Tôi chợt nhớ đến câu hát: “Thượng đế hỡi hãy lắng nghe người
dân hiền…”! Các bạn hữu – huynh đệ chi binh của tôi ơi, mấy chục năm qua
chúng ta sống với nhau trong tình đồng đội, tình láng giềng chứa chan
như bát nước đầy! Anh em chúng ta âm thầm chịu đựng tủi nhục trước sự
đổi thay một cách oan nghiệt, chúng ta không đổ thừa, không thù hận,
nuối tiếc. Chúng ta vui vẻ chấp nhận đi cho hết một vòng lịch sử. Tổ
quốc lúc nào cũng cần những người chiến sĩ vô danh! Tổ quốc lúc nào cũng
ghi ơn những người con bỏ mình để gìn giữ quê hương đất nước!
Dù là ở nơi xa, nhưng Tư tôi lúc nào cũng mang cái hẻm cụt nặng trĩu ở trong lòng!
Lúc nào cũng nhớ các bạn
|
|
GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG
|
|
IP Logged | |
giodocgocong
Senior Member Tham gia ngày: 12/Jan/2011 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 132 |
Gởi ngày: 27/Mar/2018 lúc 11:47am |
Chuyến xe tang về quê chồngGiao Chỉ – San Jose Em là Trần Thị Lệ Hà, quê Cần Thơ, hiện cư ngụ tại San Jose, xin kể lại cho bác Lộc và các bác niên trưởng trong quân đội câu chuyện năm 1975. Nếu miền Nam và Saigon gọi ngày 30 tháng Tư 75 là ngày tang của đất nước thì ngày tang của Trần Thị Lệ Hà đến sớm hơn một ngày. Đó là ngày 29 tháng 4 năm 1975. Đêm 28 tháng 4 cách đây 34 năm trung
úy Quách Văn Sở, võ bị Đà Lạt khóa 24, từ giã vợ con vào trại Hoàng Hoa
Thám sinh hoạt với tân binh nhảy dù. Trung úy mũ đỏ Quách Văn Sở rất có
tinh thần trách nhiệm, đã có giấy lên đại úy nhưng còn chờ lễ đeo lon.
Quá nửa đêm 28 qua sáng 29 thì Việt cộng pháo kích vào Tân Sơn Nhất và
trại Hoàng Hoa Thám. Sáng sớm 29 tháng 4 lính dù chạy về báo tin anh Sở,
chồng của Lệ Hà đã chết. Cùng một lúc khu trại gia binh nhảy dù phải di
tản. Em lúc đó 25 tuổi, con trai đầu lòng được 7 tháng. Chẳng có ai
thân thuộc. Mẹ con ôm nhau chạy qua nhà ông cậu bên thành Lê Văn Duyệt.
Chồng chết ra sao cũng không biết. Đường xá kẹt hết. Chuyện chiến tranh,
trận mạc nhà binh từ khi lấy nhau tất cả đều do anh Sở quyết định. Nay
bỗng nhiên trời xập, ôm đứa con dại, em ngồi khóc một mình. Không biết
xác chồng nằm ở nơi đâu. Chung quanh Sài Gòn náo loạn, ai mà lưu tâm đến
người vợ trẻ mất chồng vào cuối tháng 4. Phải mà anh Sở chết sớm hơn
một tháng thì truyền thống lính dù đã đưa xác về tận nhà. Tang lễ uy
nghi, có đơn vị trưởng chứng kiến lễ gấp cờ, như em đã thấy tại sân
Hoàng Hoa Thám. Nhưng sao anh Sở lại chết vào cuối tháng tư, giờ thứ 25
của cuộc chiến. Người lính mũ đỏ đất Kiên Giang Nước non ngàn dặm ra đi Chút di sản muộn màng, gửi tương lai vĩnh cửu Tâm nguyện cho tương lai Chỉnh sửa lại bởi giodocgocong - 27/Mar/2018 lúc 12:42pm |
|
GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG
|
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22718 |
Gởi ngày: 30/Mar/2018 lúc 4:43pm |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 98 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |