Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Tâm Tình | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình |
Chủ đề: ĐỜI SỐNG GIA DÌNH | |
<< phần trước Trang of 129 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22718 |
Gởi ngày: 12/May/2017 lúc 1:36pm |
Nhớ MẹKhông biết cha mẹ tôi có nợ nần oan khiên gì với đất nước của tôi, dân vốn đã nghèo lại hay chia rẽ, cha tôi qua đời lại đúng vào những năm đất nước chia hai, gia đình tan tác. Sau cái chết của cha tôi được ba hôm, mẹ tôi lặng lẽ dẫn ba đứa con nhỏ đầu chít khăn tang, với đôi tay không xuống tàu theo đoàn người di cư vào Nam. Ðến hơn hai mươi năm sau khi mẹ tôi chết, lại cũng là những năm "gạo châu củi quế", con cái đều nghèo, không đến nỗi bữa đói bữa no nhưng đời sống thật là đạm bạc, lúc mẹ nằm xuống chỉ mang theo nỗi buồn về bên kia thế giới. Sau chiến tranh, mẹ tôi theo người con trai cả về quê vợ lập nghiệp, làm lại cuộc đời của anh bằng đôi chân đất lội suốt ngày trên những thửa ruộng. Hôm nào lúa đã xong, cha con lẵng nhẵng theo nhau ra đồng đi lưới cá. Gặp lúc được mùa cá, cá lớn cá bé chui vào cái lưới của anh, đem về nhà cho mẹ tôi làm mắm, phơi khô để dành ăn dần cho những ngày chợ quê èo uột, không mua được thức ăn thì đã có sẵn thực phẩm ở trong nhà. Bữa cơm nhà quê thường chẳng có gì, chỉ cá mắm sống qua ngày, cùng những thứ rau trồng tỉa được, riêng rau muống thì mọc đầy, lan tràn trên những bờ ruộng như cỏ. Ngày xưa người dân quê miền Nam ít ăn rau muống, thứ rau muống ruộng chỉ để nuôi heo, sau thiếu thực phẩm họ bắt chước người Bắc làm món rau muống luộc chấm nước cá kho, rau muống xào tỏi với chút tóp mỡ, người nội trợ giỏi chế biến được món dưa rau muống, thẩu dưa màu hơi tim tím ăn chua chua ngọt ngọt cũng bắt cơm lắm. Ðược cái tuy thức ăn đơn sơ, nhưng gạo nhà quê ăn ngon và ngọt cơm hơn thứ gạo lưu cữu lâu năm cất trong kho của dân thành phố, cho nên bữa cơm nhà quê tuy không cao lương mỹ vị nhưng vẫn ngon miệng. Những món ăn tầm thường ở miền quê qua tay mẹ tôi chế biến, bỗng trở thành những món khoái khẩu cho cả nhà. Mấy con cá rô mề, rổ ốc bươu, thùng cua đồng thêm vào những thứ rau cỏ và gia vị, bỗng chốc từ món ăn chơi ra món ăn thiệt, đầy hương vị thơm ngon cho con cháu. Món cá rô nấu xôi sắn ( gọi theo tiếng miền Bắc) hay xôi khoai mì( gọi theo miền Nam) của mẹ tôi ngon tuyệt trần đời, có một không hai ở cái miền quê hẻo lánh đó. Chỉ có mẹ tôi ở nhà quanh quẩn trong căn nhà bếp với mấy cái chuồng heo chuồng gà, phiá sau là hàng rào trồng khoai mì, đất ẩm và tốt, cây khoai mì lên sơi sởi, chỉ ít lâu là đã có củ để nấu xôi cá cho cả nhà thưởng thức. Cách nấu xôi sắn ( hay khoai mì) của mẹ tôi cũng đơn giản. Cá rô làm sạch luộc chín gỡ lấy thịt, phần nước để nấu canh cải xanh , cho thêm mấy lát gừng là cả nhà đã có món canh rau mát bụng. Sắn lột vỏ, cắt ra từng miếng nhỏ, trộn chung với nếp rồi đồ xôi cho vừa chín, khi ấy cá rô đã được ướp chút nước mắm, hành xanh, mỡ nước, mẹ tôi đổ vào chõ xôi rồi đảo nhanh để cá, mỡ hành, muối thấm đều vào nồi xôi sắn, đậy nắp lại. Bấy nhiêu thứ thấm với nhau, sau khi bắc xuống đổ ra mâm, trên mặt được phủ đều một lớp hành phi thơm điếc mũi. Mấy ai nghĩ ra được món xôi cá như mẹ tôi, ăn rất ngon mà cũng rất đậm đà, chưa kể món bún riêu cua đồng, kiểu nhà quê không màu mè như nơi thành thị người ta cho đủ thứ vào đó, canh cua bị biến chất không còn nguyên mùi vị đồng quê của nó. Canh cua đồng phải có cây chuối non xắt mỏng, ăn kèm với rau kinh giới, phải có gạch cua còn tươi xào với mỡ hành đổ vào nồi khi nấu xong, không phải dùng thứ bột điều để làm màu cho nồi canh, nhưng đã có cà chua, gạch cua làm sóng sánh một màu vàng óng ả. Một buổi chiều miền quê khi mặt trời ngả bóng đằng Tây, công việc đồng áng, vườn tược đã xong, cả nhà quây quần quanh mâm cơm, thưởng thức món bún riêu cua nhà quê miền Bắc, không có gì ngon hơn. Món ốc bươu nấu khế chua với chút cơm mẻ của mẹ tôi, cá nướng quấn lá lốt đều là những món được chế biến từ những rau cỏ mọc quanh vườn. Rồi cua đồng rang muối, cá trê vàng nấu canh dưa cải ăn với rau sống vừa mát vừa lành, không có trong thực đơn cuả những cửa hàng sang trọng, giờ này theo thời gian đã bị tam sao thất bổn trong lũ con cháu tản mát khắp nơi. Tổ Quốc vẫn như bà mẹ hiền nhưng đã thay hình đổi dạng theo trào lưu tiến hoá của con người và xã hội, hình ảnh bà mẹ quê hiền lành, chịu thương chịu khó như mẹ tôi, lần hồi chìm lỉm trong hồi tưởng cuả những người con còn bám vào những đềm êm của quá khứ. Những người con tha phương cuả mẹ, bây giờ được làm con nuôi khắp xứ, quen dần với những tiện nghi, miếng cơm con cá xứ người, dễ dầu gì được thưởng thức trọn vẹn mùi vị "hương đồng cỏ nội" của những bà mẹ quê tần tảo hôm sớm ngày xưa. Quanh đi quẩn lại nhà nhà cứ "liệu cơm gắp mắm" mà sống qua ngày, nhưng "một bà mẹ già bằng ba công ruộng", thật chỉ có bà mẹ quê Việt Nam mới diễn tả được hết cái thâm trầm của câu ví ấy. Các cháu con anh tôi lớn lên sơi sởi nhờ sự vun khéo của bà nội, con cua con ốc cũng trở thành những món ngon lành cho con nhà nghèo ở miền quê. Không làm sao nói hết được công lao của người mẹ trong gia đình, dù chỉ là một cái bóng mờ thấp thoáng, lủi thủi trong căn nhà bếp đầy bồ hóng, ngoài bến nước để gọi vịt về chuồng, suốt ngày con gà, con heo luẩn quẩn đi theo để xin ăn, mới thấy được hình ảnh người mẹ quê Việt Nam đẹp biết chừng nào. Tấm tình của mẹ tôi như lan tỏa được đến với những con vật nuôi trong nhà, từ con chó Tony hiền lành đứng nhìn bầy con tranh ăn dường như cũng ảnh hưởng bởi cái tính hiền lành của mẹ tôi. Con gà mẹ sắp chết cũng biết xòe đôi cánh gọi bầy con chui vào đôi cánh mẹ rồi mới rũ xuống lìa đời. Con heo con gà nhà quê cũng ngộ, vẫn được thả rông để sinh hoạt thong thả như con người, vì thế mà một lần mẹ tôi ốm, hai con heo con dù được người khác cho ăn no, vẫn ụt ịt đi tìm mẹ tôi đang nằm trên chiếc giường con ở nhà trên. Y như hai đứa trẻ con thiếu hơi mẹ, khi mẹ tôi qua chơi nhà hàng xóm, hai chú heo con đã vội vã chạy theo luẩn quẩn bên cạnh bà, nằm bẹp xuống chờ đợi. Con heo con gà được nuôi để bán lấy tiền, để làm thịt ăn mà chúng còn tình nghiã với mẹ tôi như vậy, còn lũ con cháu cứ dần dần bỏ mẹ mà đi, thật qủa đáng trách. . . * * * Trước khi mẹ tôi qua đời độ một tháng, chị em tôi có về thăm mẹ. Mẹ tôi gầy lắm, không đi được nữa, căn bịnh già và mấy thứ thuốc bổ dưỡng Dân Tộc không làm bà khoẻ hơn, cứ từ từ xụm xuống rồi lưng cong lại và không đứng dậy được. Bây giờ thì tôi mới biết đó là chứng loãng xương ở tuổi già, cũng do lao lực làm việc và ăn uống không đủ chất. Thời buổi ấy chỉ nghĩ đến cơm ăn ngày hai bữa, đâu có ai chú ý đến sự săn sóc, bồi dưỡng cơ thể để được sống lâu, sống khoẻ như bây giờ. Hễ máu cao đứt mạch mà "đi" bất tử thì gọi là chết vì trúng gió, còn già mà chết lần chết mòn thì gọi là bịnh già, chưa kể còn trăm thứ bịnh không được chữa trị tới nơi tới chốn, hễ may mà hết bịnh thì được cho là phép lạ, ơn trên độ cho mà khỏi bịnh. Mẹ tôi tỉnh cho tới lúc chết, nằm trên giường nhưng vẫn nhắc cho heo ăn, gà ăn, thấy ngả bóng chiều là nhắc con, cháu cho gà lên chuồng, lấy quần áo phơi ngoài sân vào nhà vì sợ sương đêm, khi trời mưa nhắc hứng nước mưa vào lu để dành uống. Không biết mẹ tôi lo chuyện đời làm chi cho khổ thân, chẳng qua cái lòng cuả người mẹ lúc nào cũng băn khoăn từng ly từng tý cho con cháu. Những lúc gần gũi hai cô con gái ở xa về, mẹ tôi vui lắm. Mẹ tôi trìu mến nhìn tôi rồi khen cô con Út tuy không còn trẻ mà trông vẫn còn xinh, chị tôi gầy ốm hơn, nhan săc tiều tuỵ vì nặng gánh chồng con, mẹ tôi nhìn rồi thở dài thương sót. Chúng tôi hồi còn bé, mẹ goá con mồ côi nên nhà cửa xuyềnh xoàng, sa sút, nhưng đi đâu mẹ tôi vẫn cho chị em tôi ăn mặc tươm tất lắm, áo gấm kiềng vàng, chứ không lôi thôi lếch thếch, mấy tấm hình hồi bé tôi mũm mĩm như con búp bê, đôi má lúm đồng tiền trông thật xinh. Mẹ tôi tiếc rằng không còn gì để lại cho các con, bao nhiêu năm chắt chiu tiện tặn bỗng chốc mà tay trắng vì thời cuộc đảo điên. Chúng tôi biết ngày đi của mẹ gần kề, chỉ khuyên mẹ đừng nghĩ ngợi, để lúc ra đi lòng được thanh thản mà gặp lại cha tôi bên kia thế giới. Nhân nhắc đến cha tôi, mẹ tôi mới nhớ lại giấc chiêm bao vừa xảy ra được ít lâu trước ngày mẹ ốm nặng. Mẹ tôi thấy cha tôi trở về, có lẽ là giấc mơ cuối cùng mẹ nhìn thấy cha trong giấc mơ của đời người sắp tàn ấy, lại là một giấc mơ dường như báo trước ngày cha rước mẹ đi, như ngày cha rước mẹ về thời còn trẻ để bước vào đời nhau, sinh sản được một lũ con giờ tan tác như nghé lạc bầy. Mẹ tôi kể gặp lại cha tôi trong giấc chiêm bao. Ông hỏi bà còn gì không? Mẹ tôi chực nhớ lại những món nữ trang mà cha tôi mua cho mẹ hồi mới cưới. Ðôi bông tai vàng y hột đá, có hai cái đuôi như đuôi cá thả xuống đằng sau tai, sợi dây chuyền có cây thánh giá, đôi xuyến đeo tay cũng bằng vàng, kể ra thời ấy cha mẹ tôi phải khá giả lắm mới sắm sưả được như vậy. Mẹ tôi lắc đầu nhưng cha tôi không trách móc, ông bảo mẹ tôi đưa tay ra để tặng cho bà những món quà mới, lúc mẹ xoè tay ra nhận thì chỉ là đôi bông tai, sợi giây chuyền và cây Thánh giá kết bằng cỏ. Giấc mơ ấy như nói trước ngày giờ của mẹ đã tới, cát bụi lại trở về cát bụi, những gì cuả cha mua cho mẹ thì cũng chỉ là tro bụi khi con người buông xuôi hai tay để đi vào lòng đất . . . Thấy mẹ buồn vì không còn gì để chia cho các con đang vất vả vì miếng cơm manh áo, chị em tôi vin vào giấc chiêm bao ấy để an ủi mẹ. Tôi vốn tính hay đùa, trước cảnh chia ly tử biệt sắp đến tôi vẫn hay pha trò để mẹ tôi phải cười mà quên nghĩ đến nỗi buồn kẻ ở, người đi. Tôi còn hát cho mẹ nghe, trong khi chị tôi cầm chiếc quạt phe phẩy cho mẹ nằm yên, có lẽ mẹ tôi đang lắng nghe những lời hát êm êm ru hồn mẹ vào những giờ phút cuối cùng khi mẹ con gần gũi. Mẹ tôi bảo hai chị em khuân chiếc rương gỗ ra để mẹ tôi ngắm nghiá những kỷ vật của mẹ . Chiếc áo dài gấm còn mới tinh ít khi xỏ tay, mẹ tôi khi đi nhà thờ chỉ mặc có mỗi chiếc áo dài soa màu cánh dán, lấm tấm những chấm thâm kim trên lưng áo. Ðôi quần sa tanh còn mới tinh, đôi dép da đen thấp gót và mấy cái áo bà ba còn mới được xếp gọn trong rương, vài khúc vải chưa kịp may mẹ tôi dặn đừng chôn, để dành may áo cho các cháu đi học. Ngoài ra là những tấm hình cũ hồi tụi tôi còn bé, nay đã bị loang lổ, hình bóng cũng mập mờ với thời gian. Trong số những đồ vật lặt vặt ấy, có chiếc khăn voan màu đen choàng đầu tôi mua cho mẹ tôi bằng món tiền đầu tiên kiếm được, ngày xưa thỉnh thoảng những hôm trời lạnh, mẹ tôi hay phủ nó ra ngoài chiếc khăn vành dây trên mái tóc. Chiếc khăn voan quấn bên ngoài vài món nho nhỏ khác, trong ấy có cây thập giá mạ vàng. Nhắc tới cây thập giá này tôi lại nhớ chị tôi, đó là món quà muà Giáng Sinh chị đi học xa gửi về làm quà cho cô em bé bỏng út ít của mình. Món quà gồm một cái quạt nhựa xoè ra bằng bàn tay, một con búp bê rẻ tiền cũng chỉ độ bằng gang tay và cây thập giá mạ vàng khoảng một tấc. Tôi dạo ấy còn bé nên chỉ thích chiếc quạt nhựa và con búp bê, không thiết gì tới cây thập giá mạ vàng kia, nhờ vậy mà nó mới còn đó, trong cái rương gỗ của mẹ tôi. Khi nhìn thấy cây thập giá mạ vàng, trong tôi như sống lại những kỷ niệm thời thơ ấu, tình chị em khắn khít với nhau qua những món quà nho nhỏ còn kia. Mẹ tôi bảo tôi đưa cho bà cây thập giá, món quà duy nhất còn lại hồi tôi mới lên mười. Chúng tôi lớn dần lên, ra khỏi nhà và vứt lại cho mẹ tôi những món kỷ niệm nhỏ bé, mẹ tôi cứ như "ông từ giữ đền" ngồi gom góp nhặt nhạnh những kỷ niệm cuả các con, ôm mang chất chồng trong lòng trong khi các con phủi tay mà đi. Tôi còn tìm được dưới đáy rương những tấm ảnh thời đi học, vài lá thư của bạn bè gửi cho nhau , vài tấm thiệp chúc Xuân có cây mai vàng, có bầy én lượn mẹ tôi cũng lượm lặt gói vào cái túi ny lông cột lại cẩn thận, những kỷ niệm dễ thương của một tuổi thanh xuân chúng tôi làm rơi rớt, mẹ tôi cũng nâng niu gìn giữ. Bắt đầu từ đấy, mẹ tôi giữ cây thập giá trên tay cho tới giây phút cuối cùng của đời người, và khi liệm xác mẹ, nó đã được trở về với tôi sau bao nhiêu năm ròng rã tôi đã quên mất không nghĩ tới. Tôi không nghĩ là mẹ tôi đã chuyển cho tôi nỗi đau khổ cuả cây thập giá mà mẹ tôi đeo mang suốt một đời, nhưng từ đấy tôi xem cây thập giá như một nỗi bình yên khi mỗi lần gặp chuyện buồn phiền, đau khổ. Tôi để cây thập giá mạ vàng trong một chỗ trang trọng nhất, để mỗi lần nhìn thấy là tôi hình dung ra cái tình ấm áp của mẹ tôi và chị tôi, vẫn là điểm tựa tinh thần để tôi vượt qua những nỗi buồn của đời vậy. * * * Khi chôn cất mẹ xong, chị em tôi ở lại vài ngày, vẫn hay hụt hẫng khi nhìn vào chiếc giường nhỏ của mẹ, chỗ mẹ nằm và tưởng như mẹ vẫn còn đó. Thế là hết một kiếp người. Ðêm đầu tiên ngồi cầu kinh cho mẹ, có con bướm đêm bay vào nhà, đậu trên bàn thờ quấn quýt dưới ngọn đèn dầu leo lét. Tôi nói với chị tôi cầu nguyện cho mẹ đi bình yên, đừng nắm nuối cõi trần tạm bợ khổ đau này, ăn bữa sáng lo bữa tối, ốm đau bịnh tật, con người chỉ tìm cách hành hạ nhau. Biết mẹ tôi thích nghe tôi hát, lúc ấy trong căn nhà miền quê giữa khu vườn đầy bóng cây âm u, thỉnh thoảng nghe tiếng chim kêu dưới mảnh trăng khuya vừa nhô lên nền trời đen thẫm, tôi hát say sưa bài " Lòng Mẹ", nghẹn ngào mà hát khi nước mắt tuôn ướt đầm trên mặt gối. . . Tình cờ, chị em tôi lục lọi trên chiếc kệ để quần áo cũ, mới mò ra hai chiếc áo cũ của mẹ tôi còn sót lại. Một chiếc áo cánh nâu bằng vải ngắn tay và chiếc áo dài soa Thái Lan màu cánh dán đã cũ, có khi chưa kịp giặt và được xếp vào đấy rồi quên bẵng đi. Nhìn thấy hai cái áo cũ của mẹ tôi, hai đứa con gái mồ côi như bắt được vàng. Chị tôi hiền lành, hay nhường nhịn dành cho tôi chiếc áo dài của mẹ, có lẽ mẹ tôi chỉ mặc khi đi nhà thờ, về lại treo lên đó. Chiếc áo ướt mồ hôi đã bị nhiều chấm thâm kim trên lưng áo, dường như vẫn còn giữ được chút hơi của mẹ ủ trong hai chiếc áo cũ. Chiếc áo cánh màu nâu đã bạc hai bên vai, tấm thân gầy gò của mẹ tôi như còn in trên lằn vải những nếp nhăn ở hai bên nách áo, cái túi áo còn đầy những dấu kim băng, mẹ tôi vẫn cẩn thận gài vì sợ rơi mất mấy đồng bạc lẻ và chuỗi tràng hạt bằng đá. Chiếc áo dài cũng đã cũ, những đường chỉ luồn trên vạt áo cũng bạc màu, theo năm tháng cuộc đời cái gì cũng tàn phai cả, chẳng giữ lại được gì. Hai chị em vùi mặt vào hai tấm áo cũ của mẹ, thút thít khóc . . . Mẹ tôi về với cha tôi ở bên kia thế giới lâu rồi, lâu lắm rồi, chỉ còn để lại trần gian hai tấm áo cũ cho hai đứa con gái, mà mỗi đưá lại ở một phương cách nửa vòng trái đất. Tôi quên hỏi chị tôi ở bên kia về tấm áo cánh nâu của mẹ có còn không, riêng tôi, đi đâu cũng đem theo chiếc áo dài màu cánh dán đã thâm kim vì những giọt mồ hôi của mẹ trên lưng áo. Tôi cắt cho người chị lớn một mảnh nhỏ, chị em chia nhau gia tài cuả mẹ, lòng vẫn bồi hồi thương nhớ. Nguyên Nhung
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 12/May/2017 lúc 3:58pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22718 |
Gởi ngày: 13/May/2017 lúc 9:02am |
Cuốn sách mê hoặc lạ thường này đã khẳng định vị trí của Shin Kyung-sook như một hiện tượng văn học châu Á, tạo ra trào lưu đọc mới ở Hàn Quốc từ sự cộng cảm trước một tác phẩm đầy sức mạnh. Bằng câu chuyện cảm động thấm thía về người mẹ đi lạc đường, tác giả dựng nên bức tranh rộng lớn về xứ sở quê hương, nơi cảnh trí và phong tục Hàn Quốc được khắc họa với vẻ đẹp tươi thắm nhưng thao thiết, đầy trắc ẩn. Những người con đi tìm mẹ, và họ mang theo dòng hồi ức riêng tư, lay động, vừa khao khát, vừa chống chếnh mất mát, thay phiên nhau dẫn người đọc trên một hành trình kép, tới những nẻo xa của một nền văn hóa độc đáo và tới những góc khuất sâu thẳm của trái tim. Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 13/May/2017 lúc 9:03am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22718 |
Gởi ngày: 16/May/2017 lúc 9:55am |
1/ Ngày… tháng… năm… |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 21/May/2017 lúc 4:59am |
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 29/May/2017 lúc 7:09pm |
PHỐ CŨ NGÀY VỀ
Con đường tiến thân dang dở. Tình yêu đành đoạn chia lìa. Nước mất, nhà tan. Gia sản tiêu vong. Bản thân bị lưu đày trong trại tù cải tạo. Gia đình đổ vỡ ly tán. Không còn có người thân trên mảnh đất quê hương đã sống. Ngần ấy biến cố liên tiếp xảy ra trong khoảng thời gian sáu năm đã biến đổi cuộc đời Tường trở thành trắng tay, mình trần thân trụi. Trên con người anh hôm nay chỉ còn mỗi bộ đồ bà ba bạc màu chắp đầy tấm vá dành cho một tù binh chiến tranh vừa được thả ra khỏi trại cải tạo. Tường bước đi với đôi dép râu và chiếc ba lô hành trang tơi tả lép xẹp, trước những cặp mắt cảm thông xót xa của người dân miền Nam, trên đường quay gót tìm về lại ngôi nhà cũ nhỏ bé ở Sài Gòn. * * *
Thành phố chìm vào giấc ngủ im lìm, tối đen như mực.Tường cắm đầu rảo bước giữa đêm khuya. Có ánh đèn của một chiếc xe ôm trờ tới bên anh, người lái xe chào mời, - Đi xe không anh ? Tường vừa tiếp tục bước vừa trả lời, - Không. Tôi đi bộ được rồi. - Anh đi tới đâu ? - Nhà ga xe lửa. - Giờ này làm gì còn chuyến tàu nào mà anh tới đó. - Tôi cũng đoán như vậy, nhưng vẫn phải tới đó để nghỉ qua đêm. - Anh không có nhà người quen ở đây sao ? - Không. - Nhìn anh tôi đoán chắc là người tù cải tạo mới về phải không ? - Dạ, đúng. - Vậy thì cứ ngồi lên xe đi, tôi chở anh đến nhà ga xe lửa khỏi trả tiền. Tường ngạc nhiên vui mừng trước sự vồn vã tốt bụng của anh lái xe ôm, không ngần ngại ngồi lên phần ghế sau của chiếc xe gắn máy - Trại cải tạo chắc ở xa lắm nên anh mới về đến đây khuya khoắc như vậy ? - Anh nói đúng. Tôi rời khỏi trại lúc trời vừa sáng, đi bộ theo triền núi ra tới đường cái thì đã xế chiều. May mắn đón đưọc chuyến xe đò cuối cùng trên đỉnh đèo Liêu vào lúc trời chạng vạng, vừa về đến Đà Nẵng cách đây chừng nửa tiếng đồng hồ. Anh lái xe ôm dừng lại trước nhà ga xe lửa, tắt máy xe và ngỏ lời mời Tường một cách chân tình, - Theo như lời kể, chắc chắn từ sáng đến giờ anh chưa có thời giờ để ăn uống. Tôi mời anh vào quán ăn khuya này dùng một tô bún cho đỡ đói lòng. - Dạ, xin cám ơn anh. Quả thật, từ sáng sớm Tường mãi miết đi thật nhanh, chỉ mong sớm thoát khỏi vùng rừng thiêng nước độc của trại tù cải tạo mà không thiết gì đến chuyện ăn uống. Anh vô cùng cảm kích trước lời mời hào phóng của người lái xe ôm giữa đêm khuya. Một tô bún cho Tường trong giờ phút này là rất cần thiết để cơ thể vượt qua cơn mệt lã đang kéo đến. Nhưng, tấm lòng quý mến của người dân miền Nam dành cho một kẻ chiến bại như anh càng cần thiết hơn để Tường vững tin vào chân giá trị của tình quân dân keo sơn trước biến chuyển đen tối của vận mệnh đất nước. Tô bún cá ngừ đậm đà nghĩa tình giúp Tường lấy lại thần trí tỉnh táo, anh buộc miệng, - Bún ngon quá. Cám ơn anh nhiều. Sáu năm trong tù tôi chưa bao giờ được một bữa ăn thoải mái ngon lành như đêm nay. Tại sao anh đối xử tốt với tôi như vậy ? Anh lái xe ôm khoác tay trấn an, - Anh đừng nghĩ ngợi điều gì xa vời. Người dân chúng tôi không bao giờ quên các anh. Như sực nhớ ra điều muốn hỏi, anh xe ôm nói tiếp, - Anh về đâu ? - Bà Rịa. - Như vậy phải mua vé tàu suốt Bắc- Nam. Anh có tiền mua vé tàu không ? - Dạ, có. - Trong trại cải tạo họ cho phép các anh giữ tiền ? - Không. Lúc mới bị bắt vào trại họ đã tịch thu tất cả. Hôm nay khi thả chúng tôi, tùy theo địa phương mà người tù sẽ về, xa hay gần, họ phát cho một số tiền đi đường. - Họ đưa anh bao nhiêu tiền đường ? - Bảy chục đồng. Không biết vé tàu bán bao nhiêu ? Anh xe ôm bật cười khảy, - Hừ, chỉ có bảy chục đồng làm sao đủ tiền cho anh về tới Bà Rịa. - Bao nhiêu mới đủ trả tiền vé tàu ? - Vé tàu suốt Đà Nẵng – Sài Gòn giá chính thức là chín chục đồng, mua chợ đen phải là một trăm rưỡi. Nhưng tôi cam đoan không bao giờ anh mua được giá vé chính thức - Xin lỗi, anh nói tôi chưa hiểu hết ý. - Anh phải mua vé tàu về Sài Gòn với giá một trăm rưỡi, cộng thêm tiền xe đò từ Sài Gòn đến Bà Rịa. Họ phát chỉ có bảy chục đồng thì làm sao anh có thể về đến nhà, nếu có người cho anh thêm tám chục đồng để đủ tiền mua vé tàu, rồi anh sẽ phải nhịn đói suốt mấy ngày đường hay sao ? Tường chợt hiểu ra sự khó khăn bắt đầu từ hôm nay, khi anh vừa mới rời khỏi nhà tù khổ sai được mệnh danh trại cải tạo. Anh vừa chạm ngay một thử thách mới mẻ đầu tiên của cái xã hội mang mỹ từ “xã hội chủ nghĩa” mà vì chưa từng được hòa mình vào, nên chưa thể nhìn thấy được bộ mặt lắc léo ngóc ngách của nó. Tường phải làm gì để có đủ số tiền mua vé tàu chợ đen về Sài Gòn, rồi từ Sài Gòn về Bà Rịa cho kịp thời hạn trình diện công an địa phương mà trại cải tạo đã có ấn định rõ ngày tháng trong Giấy Ra Trại. Anh xe ôm đột nhiên phá tan sự lo lắng vừa xuất hiện trong đầu óc của Tường, - Được rồi, tôi có cách giúp anh. * * * Tường choàng tỉnh thức giấc vì những ồn ào và tiếng chân đông người qua lại hòa cùng tiếng kêu réo gọi nhau bên trong phòng đợi nhà ga xe lửa. Ngồi dậy, nhìn chiếc đồng hồ lớn bên trên vách quày bán vé chỉ 4 giờ 30 phút sáng, anh biết rằng mình đã ngủ được hơn bốn tiếng đồng hồ trên chiếc ghế băng này. Chung quanh anh, hành khách đáp xe lửa bắt đầu tập trung vào phòng đợi chuẩn bị đi chuyến tàu đầu tiên trong ngày, Tường đoán vậy. Hồi đêm qua trước khi chia tay, người đàn ông trung niên lái xe ôm có hứa sẽ quay lại nhà ga vào trưa nay để giúp đỡ Tường mua một chiếc vé về Sài Gòn. Bởi vì với số tiền bảy chục đồng đang có, anh không đủ để trả tiền mua vé tàu. 7 giờ sáng. Quày bán vé mở cửa. Trước cảnh tượng tấp nập người chen lấn nhau bu kín quanh cửa sổ bán vé, Tường mon men đến gần nghe ngóng quan sát. Nhìn cảnh tượng này anh đoán biết nếu có dấn thân chen lấn với làn sóng người ập tới mỗi lúc mỗi đông thì có đến ngày mai cũng chưa chắc gì mua được vé. Anh thất vọng quay lại ngồi xuống chiếc băng ghế trong phòng đợi. Nếu không gặp được người lái xe ôm tốt bụng vào đêm hôm qua, Tường sẽ không biết phải xoay xở thế nào để có thể về đến Bà Rịa đúng thời hạn. Trong bụng đã có cảm giác đói cồn cào, vẫn cố gắng nhịn, Tường đi ra đến cửa hàng ăn uống quốc doanh bên ngoài nhà ga với ý định xin một ly nước uống cho qua cơn đói. Gần giờ trưa, quán ăn rất đông khách, các nhân viên phục vụ lăng xăng bận bịu chạy tới chạy lui như những con thoi. Nhìn thấy Tường áo quần bần cùng vá víu, đứng tần ngần ở lối ra vào chưa dám mở miệng, một người phục vụ trong cửa hàng gay gắt xua đuổi, - Thằng kia, cút ra ngoài cho người ta buôn bán, sao cứ đứng ì ra giữa lối đi vậy - Cô à, tôi khát nước làm ơn cho tôi xin miếng nước. - Có nước thừa đâu mà cho mày. Cút xéo đi ! Tường vội vàng quay lưng bước ra khỏi quán ăn. Anh trở lại nằm xuống trên chiếc ghế băng trong nhà ga xe lửa. Rồi thiếp đi. Có một bàn tay đập nhẹ lên vai, Tường thức giấc, nhận ra người lái xe ôm vừa trở lại tìm anh đúng như đã hẹn. - Anh đã ăn gì chưa ? - Dạ chưa…Tôi cũng rất muốn mua một cái gì ăn, nhưng sợ cạn hết tiền xe sẽ bị kẹt lại đây lâu dài. - Thôi được, anh theo tôi. Sẽ có cách giúp anh. Người đàn ông lái xe ôm chở Tường chạy về hướng trung tâm thành phố Đà Nẵng, ngừng lại trước một tiệm cà phê giải khát tư nhân. Anh ta giúp Tường cột chặt cái ba lô cũ trên porte-bagage của chiếc xe gắn máy rồi ngoắc tay mời Tường cùng anh ta bước vào quán. Quán cà phê nhỏ bày biện sơ sài trông rất bình dân. Thực đơn ở đây chỉ bán các thức uống giải khát đủ loại cùng với một món ăn duy nhất là bánh mì trứng chả lụa. Đã quá trưa, quán vắng khách. Người nữ chạy bàn đến ghi nhận các món ăn uống do hai người khách mới vào. Thêm một lần nữa, Tường được anh xe ôm mời thưởng thức bữa ăn trưa có vẻ đơn giản nhưng lại rất đặc biệt với bánh mì trứng chả lụa và ly cà phê sữa nóng. Tường cảm giác sung sướng, bất giác thốt lên một cách chân thành, - Với tôi, giờ phút này anh là vị ân nhân trong chặng đường khó khăn nhất đời mình. Bởi vì nếu không được gặp anh đêm hôm qua phần chắc là tôi sẽ rơi vào hoàn cảnh khốn đốn phải sống lang thang tại đây, lại còn được tiếp đãi bằng hai bữa ăn rất ngon đêm hôm qua và trưa nay, khiến tôi không biết phải nói sao cho hết lòng biết ơn đối với anh. - Anh quá khách sáo nữa rồi. Chúng tôi phải biết ơn các anh thì mới phải. Bởi vì chính các anh đã từng cầm súng bảo vệ người dân chúng tôi. Nay đứng trước hoàn cảnh các anh bị hoạn nạn, chúng tôi đâu thể nào làm ngơ. Đúng hơn, đây chỉ là một phần rất nhỏ để tỏ bày tình cảm của lòng dân đối với những người lính như anh mà thôi. Rút từ trong túi áo, người xe ôm chìa gói thuốc lá thơm mời Tường một điếu. Tường cảm kích, - Từ hôm qua đến nay anh là người đầu tiên đã cho tôi có dịp thưởng thức lại những món ngon vật lạ mà sáu năm qua tôi đã quên mất đi hương vị thật tuyệt vời. Rít một hơi dài thuốc lá, anh xe ôm chuyển qua đề tài thăm hỏi gia cảnh của Tường, - Nghe giọng nói, tôi chắc chắn anh là người dân xứ Quảng, tại sao không có người thân nào ở thành phố Đà Nẵngnày ? - Anh nói đúng. Tôi gốc người Quảng. Gia đình tôi trước kia ở đây. Tôi theo bậc trung học tại trường Phan Châu Trinh cho đến khi đậu Tú tài toàn phần. Tường vừa nói dứt lời thì từ ngoài cửa một thiếu phụ tay dắt đứa bé gái nhỏ cở độ tám tuổi đi vào tiệm. Anh xe ôm nhìn thấy, vội đứng lên bước ra chào thân mật và cúi xuống bế cháu nhỏ quay trở vào bàn, giới thiệu với Tường, - Đây là đứa cháu kêu tôi bằng cậu. Quay sang cháu, anh xe ôm giục, - Con cúi đầu chào chú đi. Đứa nhỏ vâng lời, khoanh tay cúi đầu “ Chào chú !”. Vào lúc ấy, mẹ của cháu bé cũng vừa đến gần tươi cười chào khách. Bỗng dưng, cả Tường lẫn người thiếu phụ đều khựng lại trố mắt nhìn nhau, vô cùng ngạc nhiên. Người đàn bà bật lên tiếng hỏi, - Có phải đây là Tường không ? - Phải. Có phải Nguyệt không ? - Phải. Lâu quá biến mất, sao bữa nay gặp lại nhìn Tường giống “nhân dân tự vệ” quá vậy ? Tường hết sức mừng rỡ, chưa kịp trả lời thì anh lái xe ôm đã xen vào, - Ủa, vậy là hai người quen biết nhau ? Cả Tường và Nguyệt đồng thanh đáp, - Phải rồi. Bạn học cùng lớp mà. Nguyệt kéo chiếc ghế ngồi xuống, quay sang hỏi anh xe ôm, -Vậy anh Ngôn cũng là bạn của Tường phải không ? - Không. Vừa nghe cô kêu tên anh này là Tường, mới biết được tên của ảnh. - Hai người không phải cùng ngồi uống cà phê với nhau hay sao ? Tường nghiêm chỉnh xác nhận, - Nguyệt à, đúng như anh Ngôn đã nói. Bây giờ tôi mới biết người chở mình đi uống cà phê bữa nay có tên là Ngôn. Nếu tôi đoán không lầm Nguyệt là em của anh Ngôn ? - Đúng vậy. Nhưng hai người đã gặp nhau tại đâu trước khi đến đây ? Đoán chắc Tường ngại ngùng, anh Ngôn đỡ lời kể lại cho Nguyệt biết toàn bộ câu chuyện đã gặp Tường mới vừa đêm hôm qua, cùng với hoàn cảnh khó khăn mà Tường đang gặp phải. Ngôn nói tiếp, - Mấy bữa trước nghe Nguyệt nói cần người đến phụ giúp làm việc ở tiệm tạm thời trong vài tuần, thay cho cô chạy bàn muốn xin nghỉ phép về quê thăm gia đình, nên anh mới chở anh Tường đến đây uống cà phê, luôn thể giới thiệu người cần việc làm cho cô chủ tiệm. Ngờ đâu hai người đã quen nhau từ thời còn đi học. Được vậy càng hay. Thật ra, Nguyệt quen rất thân với Tường vào thời gian học lớp đệ nhất, năm cuối của bậc trung học và đã nhiều lần đến thăm chơi nhà Tường vào dạo ấy. Ngày Cộng sản vào chiếm Đà Nẵng năm 1975, lấy cớ “đánh tư sản” họ mang súng ống ập vào nhà bắt giữ ba má Tường khảo của, vơ vét sạch tài sản rồi mới thả ra cho đi Sài Gòn, đã gây nên chấn động trong dư luận đồng bào thành phố, không ai mà không biết. Nguyệt và anh Ngôn đều biết rõ vụ này. Duy chỉ có anh Ngôn không hề biết gia đình nạn nhân đó chính là ba má của Tường. Mười ba năm sau, gặp lại người bạn cũ trong một hoàn cảnh đói rách đáng thương không ngờ, do bởi sự đổi đời dưới chế độ cộng sản sắt máu, Nguyệt nhìn người đàn ông đen đúa gầy gò xơ xác trong bộ đồ bà ba lốm đốm mấy tấm vá đang ngồi đối diện mà không thể tin được người đó lại là Tường của ngày xưa. Như để lấn lướt xúc động, Nguyệt hỏi Tường, - Hai bác bây giờ ở đâu ? - Tôi chỉ biết tất cả gia đình đã chạy vào Sài Gòn mấy năm rồi, không biết bây giờ ra sao. Bất giác, Nguyệt bùi ngùi nhớ lại những hình ảnh mà chính mắt cô đã chứng kiến vào cái ngày hai chiếc xe chở đầy bộ đội cộng sản với đầy đủ súng đạn, đổ quân xuống bao vây nhà ở và cũng là tiệm buôn của gia đình Tường, nằm trong khu trung tâm thành phố, không xa nhà của Nguyệt. * * * Nhờ sự dàn xếp của anh Ngôn, Tường lưu lại Đà Nẵng thêm một thời gian ngắn để phụ giúp tạm công việc trong tiệm cà phê của Nguyệt, hy vọng kiếm đủ tiền mua vé tàu về Sài Gòn. Anh Ngôn đưa Tường đến đồn công an thuộc thành phố Đà Nẵng làm thủ tục đăng ký tạm trú, có đóng dấu và ký tên xác nhận của người Trưởng đồn trên tờ Giấy Ra Trại, giúp cho Tường không còn lo ngại việc trễ hạn trình diện tại địa phương mà anh sẽ phải về cư trú sau khi rời Trại Tù Cải tạo. Vẫn biết, với tình bạn thân thiết Nguyệt có thừa khả năng và sẵn lòng giúp cho Tường một vé tàu về Sài Gòn khá dễ dàng.Tuy nhiên trong sâu thẳm, Nguyệt muốn nắm cơ hội cầm giữ Tường bên cạnh nàng càng lâu càng hay.Việc thuê mướn Tường làm người giúp việc trong tiệm cà phê sẽ có đủ danh chính ngôn thuận để Nguyệt giữ chân Tường ở lại Đà Nẵng. Ngày đầu tiên, Nguyệt ra chợ mua về hai bộ áo quần mới, khéo léo trao cho Tường, - Đây là áo quần của anh Dưỡng còn để lại ở nhà - chồng Nguyệt là sĩ quan Cảnh Sát Quốc Gia, bị mất tích sau ngày 30 tháng Tư 1975 - Tường hãy thay bỏ bộ đồ “nhân dân tự vệ” đang bận trên người thì mới tiện làm việc trong tiệm được. Không chút ngại ngùng Tường cầm lấy, nói lời cám ơn và tức khắc đi thay bộ áo quần mới. Bắt đầu hôm ấy, mỗi sáng sớm Tường cùng đi với Nguyệt từ nhà ra tiệm, khoảng cách có mấy bước, mở cửa buôn bán. Gần nửa đêm đóng cửa tiệm, về ngả lưng trên chiếc đi-văng trong gian sau của nhà ba má Nguyệt. Phải nói, Nguyệt rất vui trong thời gian có Tường cùng làm việc bên cạnh. Những giờ giấc cố định có đông khách ăn uống trong ngày, Tường vô cùng đắc lực thoăn thoắt không hở tay. Khoảng xế chiều thường vắng khách, là lúc thuận tiện để Nguyệt và Tường cùng ngơi việc, ôn lại chuyện cũ thời học trò, để ký ức được dịp tuôn trào tự tâm tư của mỗi người. *
* *
- Tường ở lại thêm mấy ngày nữa đi, chờ Nguyệt nhắn gọi cô người làm trở lại tiệm rồi sẽ mua vé tàu cho Tường về. Tường dễ dàng thuận theo ý Nguyệt. Vì lẽ nếu cô bán hàng chưa trở lại tiệm, Tường bỏ đi, chỉ còn một mình Nguyệt đâu thể nào cáng đáng nỗi công việc. Buổi tối hôm ấy, sau khi đóng cửa tiệm, Nguyệt giữ Tường ngồi lại để có vài điều muốn nói. Bày ra bàn mấy món ăn tự tay nàng nấu, và hai ly bia hơi, Nguyệt tươi cười mời, - Tường ngồi lại đây, mình vừa ăn khuya vừa nói chuyện. Nguyệt muốn hỏi ý kiến Tường. Nguyệt vui vẻ kéo chiếc ghế ngồi bên cạnh Tường, cả hai người cùng rót bia vào ly và cầm đũa nếm món ăn. Nguyệt bắt đầu câu chuyện, - Tường có muốn ở lại Đà Nẵng để buôn bán chung trong tiệm với Nguyệt hay không ? Hơi khựng lại vì một câu hỏi khá bất ngờ của Nguyệt, ngập ngừng lúng túng tìm câu trả lời, Tường nói, - Thú thật. . . Tường chưa hề có ý nghĩ này. . . không biết phải trả lời thế nào. - Tường cứ suy nghĩ đi. Nguyệt thật lòng quý mến tình bạn lâu năm với Tường. Không khí câu chuyện giữa hai người vừa được bắt đầu bỗng dưng trầm lắng. Đôi mắt chăm chăm nhìn vào bàn tay đang xoay xoay ly bia trên bàn, Nguyệt như có điều muốn nói thêm, nhưng chưa thốt được ra lời. Vài phút yên lặng trôi qua, Nguyệt chủ động đặt câu hỏi, - Tường đã có ý định sẽ làm gì để sinh sống sau khi về Bà Rịa ? Lại thêm một câu hỏi mà Tường không thể có câu trả lời ngay lúc này, chỉ ấp úng, - Chưa có. . . biết được . . . sẽ . . . làm gì, để về đó rồi mới tính. - Ở đây, Nguyệt thật sự đang cần có một người như Tường. - Không phải Nguyệt đã có sẵn người giúp việc bán hàng rồi hay sao ? Đến phiên Nguyệt ngập ngừng xen lẫn xúc động, - Tường có biết đâu . . . sáu năm qua Nguyệt một mình chống chọi với đời sống để nuôi con. Anh Dưỡng thì bặt vô âm tín, không biết sống chết thế nào. Những món ăn trên bàn như bắt đầu nguội lạnh. Hai ly bia cũng vừa tan loãng dần với nước đá. Tường muốn nắm tay an ủi Nguyệt, nhưng rụt rè không dám cử động. Bất chợt, Nguyệt xoay người chụp nắm lấy bàn tay của Tường, - Tường hãy ở lại đây. Có Tường bên cạnh mỗi ngày Nguyệt thấy rất yên tâm. Giờ phút này, Tường vừa hiểu thêm được một điều cần nên hiểu. Uẩn tình trong lòng người phụ nữ đơn chiếc mà tháng ngày là những sợi dây xích oan nghiệt quấn chặt lấy đời sống vô vọng. Tường động lòng muốn ôm Nguyệt vào vòng tay, nhưng rồi tự kềm chế, chỉ nắm chặt bàn tay an ủi, - Nguyệt hãy cố gắng lên, lấy thêm can đảm để sống. Cũng như hàng triệu người phụ nữ khác đang cùng cảnh ngộ mất chồng, mất con sau cuộc chiến. Tường đây có khác gì với Dưỡng chồng của Nguyệt đâu. Vợ con của Tường cũng cam chịu cảnh ly tán như Nguyệt mà thôi. Bây giờ Tường ngồi đây với Nguyệt mà vẫn không biết được tình cảnh của gia đình mình hiện xấu tốt ra sao, ai còn ai mất. Nguyệt qua cơn xúc động, lấy lại bình tĩnh nâng ly bia nhắp một ngụm, - Có lần nghe nói gia đình ba má Tường đã đem đứa con ra ngoại quốc rồi mà ? - Tường chỉ hy vọng và đoán ra như vậy, sau khi người cô họ lên trại thăm nuôi cách đây hơn một năm có ý nói xa nói gần, nhưng không chắc là có đi được hay không. - Còn vợ Tường thì sao ? - Không có tin tức gì hết. - Nếu Tường về Bà Rịa thì sẽ ở với ai ? - Người cô họ có cho biết tin về gia đình Dì Dượng của Tường đã phải dời nhà về vùng quê ở Bà Rịa, nên Tường sẽ về ở nhờ với Dì Dượng một thời gian để tìm tin tức gia đình mình, rồi sau đó mới tùy cơ tính toán đến việc làm. Nguyệt trầm ngâm. Nàng không thể thấy được một chút ánh sáng nào trong bước đường sắp tới của Tường khi phải về sống trong một vùng quê ở Bà Rịa. Tường muốn về Bà Rịa chỉ vì nặng lòng với những người thân yêu đã xa vắng sáu năm trời mà quên nghĩ đến tương lai kề cận phía trước của chính bản thân mình.Tường có thể đi tìm tin tức gia đình sau khi đời sống của anh đã hoàn toàn yên ổn với Nguyệt tại Đà Nẵng.Tại sao không mạnh dạn gợi ý cho Tường giải pháp này ? Nguyệt gắp thức ăn bỏ vào chén của Tường, rồi nâng ly bia nhắc nhở, - Nãy giờ Tường chưa ăn gì hết. Thôi hãy tạm gác chuyện Bà Rịa, cứ vui vẻ cùng nhau ăn uống, đánh dấu ngày chúng mình gặp lại nhau sau cuộc chiến. *
* *
Tường đang thu xếp số ly tách, chén đĩa vừa rửa xong lên kệ tủ trong bếp, Nguyệt đến cạnh gợi chuyện, phân tách cho Tường hiểu những suy nghĩ sau cùng của nàng chưa kịp nói ra vào đêm hôm qua. Nguyệt cảnh giác, đúc kết lợi hại cho đời sống cá nhân của chính Tường, nếu phải chấp nhận đi về miền quê, y như tự nguyện đi “vùng kinh tế mới” ở Bà Rịa. Theo Nguyệt, cái gọi là “vùng kinh tế mới” thực chất chỉ là cái bẩy sập để tống khứ tất cả những thành phần dân chúng đã từng có mức sống cao trong xã hội miền Nam trù phú trước kia, không thích hợp và cũng không phục tòng chế độ cộng sản. Nắm lấy cơ hội đó, bọn chúng đưa cán bộ cộng sản miền Bắc vào trám chỗ trong các thành phố lớn để dễ bề thao túng cai trị và làm giàu. Nguyệt vạch rõ, - Chiêu dụ, vẽ vời và thậm chí còn răn đe buộc người dân thành phố phải chấp nhận rời bỏ nhà cửa để đi sống ở vùng kinh tế mới là một trò lừa đảo toàn dân trên tầm mức quốc gia nhằm mục đích trấn lột tài sản của người dân thành thị miền Nam.Từ thời trung cổ, con người sống trên địa cầu đã từng xử dụng cái cuốc, cái xẻng, cái dao, cái rựa, cái mác, cái liềm trong công việc đồng áng, trồng trọt, làm nương làm rẫy để sinh tồn. Ngày nay giữa lúc nhân loại đã tiến lên trình độ cơ giới hóa, kỹ thuật hóa, nhà nước cộng sản lùa dân thành thị về nông thôn buộc phải sống trở lại như thời trung cổ, cầm cuốc, xẻng, dao, rựa đi phá rừng làm rẫy để tự kiếm ăn, lại còn lớn tiếng tung hô là “chính sách đưa dân đi vùng kinh tế mới”. Mới ở chỗ nào ? Bịp bợm ! Tường ngừng tay lắng nghe Nguyệt nói, trong lòng cảm thấy thán phục lý luận sắc bén kiên cường của một người phụ nữ có ăn học, biết suy nghĩ. Ngưng một lúc, Nguyệt dịu giọng, - Tường nên cân nhắc cẩn thận với quyết định đi về vùng quê hay vùng kinh tế mới. Hãy cố gắng bằng mọi cách để được sống trong các thành phố lớn. Nếu Tường không muốn ở lại Đà Nẵng thì tốt hơn hết là phải bám vào Sài Gòn. - Cám ơn Nguyệt về những lời khuyên rất chân tình. Tường vừa mới ra khỏi nhà tù cộng sản chưa đầy hai tuần lễ, chưa hiểu biết gì về cái xã hội hiện nay. Trước khi gặp lại Nguyệt, Tường không có một chọn lựa nào khác ngoài Bà Rịa. - Nhưng ngay bây giờ Tường vẫn có thể chọn cho mình một đời sống yên ổn, chưa muộn. Trước sức thuyết phục mạnh mẽ của Nguyệt, Tường bối rối lặng thinh. Nguyệt tiếp, - Tường đã trình Giấy Ra Trại cho đồn công an ở Đà Nẵng đây. Việc điều chỉnh thời gian lưu trú dễ như trở bàn tay. Đột nhiên, Tường ôm đầu biểu lộ sự bối rối cao độ. Xoay qua nắm tay Nguyệt, anh gằn giọng phân trần, - Nguyệt nên hiểu giùm cho Tường. Một ngày nào đó, bất ngờ Dưỡng tìm về với gia đình vợ con, giống như hoàn cảnh của Tường bây giờ, nhìn thấy Nguyệt đang yên ấm với Tường thì thử hỏi Dưỡng sẽ đau khổ đến mức nào ? Làm sao Tường chịu đựng nỗi sự hổ thẹn dày vò, bởi vì chồng của Nguyệt từng là đồng đội của mình, cùng lâm vào hoàn cảnh của một kẻ mất nước tan nhà giống như mình. Tường không thể. . . xin lỗi Nguyệt ! Lưu Thiên Lý |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 08/Jun/2017 lúc 8:50am |
|
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 12/Jun/2017 lúc 10:11am |
Thiên hạ đại loạn đều bắt nguồn từ sự "xuống cấp" của lòng ngườiLịch sử nhân loại mấy ngàn năm đã trải qua biết bao thăng trầm, nhưng nhìn chung đều có một đặc điểm dễ dàng nhận thấy. Đó là khi lòng người không còn đạo đức để câu thúc, thì xã hội tất đại loạn bất trị. |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 13/Jun/2017 lúc 11:39am |
Tôi đến phi trường với tấm lòng chĩu
nặng lo buồn, mặc dù đã biết trước những điều này sẽ đến. Ba tôi bị ung
thư gan, khi phát hiện ra thì căn bệnh phát triển theo chiều hướng xấu
rất mau lẹ, mỗi ngày gia đình nhận thêm vài thông tin buồn từ các bác
sĩ, không còn hi vọng gì… ************** Ngày xưa, khi tôi còn là một con bé, tôi
thân thiết với cha lắm, vì tôi là đứa con duy nhất. Má sanh tôi ra vài
năm sau thì ốm yếu, đau bệnh gì đó không thể mang thai sinh đẻ được nữa.
Má buồn rầu lắm vì e ngại không có con trai cho ba nối dõi tông đường ****************** Tôi tất tả đi vào bệnh viện, hai em trai
tôi cũng đã về, cả nhà thay phiên nhau luôn ở bên ba. Ba đã dặn dò nhắn
nhủ vợ con xong, chỉ còn mình tôi. Nguyễn Thị Thanh Dương |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 17/Jun/2017 lúc 4:44pm |
Trong bóng hoàng hôn
Vào một ngày Chúa Nhật sau khi rời khỏi nhà thờ tôi lang thang đi bộ
về nhà vì thời tiết thật đẹp. Nắng trãi dài trên những ngọn cây maple đã
chuyển màu vàng, đỏ, rơi lả tả theo từng cơn gió thoảng qua. Mây bồng
bềnh trôi trên bầu trời thênh thang rộng, suốt con đường yên tĩnh hắt
hiu, vắng bóng người qua lại, êm đềm thơ mộng, trầm mặc như một bức
tranh. Giữa khung cảnh tuyệt vời như thế không hiểu vì sao lòng tôi thấy
nao nao buồn. Có lẽ ở lứa tuổi vào thu cô đơn chiếc bóng, tâm tư tôi
trăn trở nhớ thương một cái gì đó đã nằm ngủ yên trong tiềm thức.Tôi rẽ
sang con đường khác, ghé vào một quán cà phê Việt Nam. Tôi gọi một ly cà
phê sữa đá và nhìn qua khung cửa kính hình ảnh thân quen của thành phố
trong một ngày cuối thu.Tôi thấy cô cashier đang cầm một xấp danh thiếp
trao cho vài người khách quen và bảo rằng đó là của bạn cô, tôi đưa tay
xin một tấm xem coi là việc gì, thì ra là: * * * -------------------------------------------- * Con Thuyền Không Bến (Đặng thế Phong) Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 19/Jun/2017 lúc 8:24am |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 19/Jun/2017 lúc 7:29am |
Duyên Phận và Mệnh Số
Từ San Jose, tôi đón xe đò Hoàng xuôi Nam. Từ hôm cùng với mấy đứa con
của Hà bí mật bàn tính chuyện tổ chức buổi lễ sinh nhật thứ 60 cho Hà ở
San Diego, tôi rất nôn nóng chuẩn bị cho chuyến đi này. Đây không phải
một họp mặt sinh nhật bình thường như những lần trước. Đến đó tôi sẽ gặp
lũ đông đủ lũ bạn “quỷ sứ” của trường tiểu học và trung học ngày xưa.
*
Hà là một người chị họ con bà bác, chỉ hơn tôi một tuổi và học cùng
lớp nên hai chị em thân nhau hơn bạn. Hai đứa từ giã Hà Nội cùng gia
đình di cư vào Nam và cùng định cư tại Tuy Hòa, cùng ở gần nhà nhau
trong khu “Bắc Kỳ di cư” từ ngày “tóc còn để chỏm.”
Dù là vai chị
nhưng vì xuýt xoát tuổi nhau, lại học cùng lớp nên hai đứa tôi vẫn mày
tao. Hà và tôi lúc nào cũng ngồi bàn đầu và sát cạnh nhau vì chúng tôi
vừa nhỏ tuổi lại vừa nhỏ con, cùng nổi tiếng là “cây gạo”. Chúng tôi
thân nhau đến độ cắt tóc và mặc quần áo giống nhau.
Ngoài giờ học
ở trường, hai đứa thường đến nhà nhau học bài chung. Đi thi Tú Tài I ở
Quy Nhơn và Tú Tài II ở Nha Trang đều ngồi cạnh nhau vì tên cùng vần.
Đậu
Tú Tài Toàn xong, như chim rời tổ, mỗi đứa một nơi, Hoành vào Saigon
học tiếp, Hà đi Nha Trang, riêng tôi ở lại Tuy Hòa đi làm giúp đỡ gia
đình một thời gian.
Cuộc sống nổi trôi theo dòng đời, tôi thuyên
chuyền vào Saigon, mãi đến năm 1974, mới tình cờ gặp lại Hà ở Chợ Bến
Thành thì cả hai đã tay bế tay bồng, mỗi đứa đều có hai con gái và một
con trai. Gia đình Hà rất hạnh phúc, hai vợ chồng làm cùng nghề. Phong,
chồng Hà cưng chiều vợ hết mực.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 như cơn
hồng thủy đổ ập lên đầu mọi người, chúng tôi mất liên lạc một lần nữa.
Gia đình tôi may mắn được di tản và định cư tại Mỹ, còn Hà ở lại sống
với gian truân thử thách.
Phong bị đi tù cải tạo như hàng vạn
quân dân cán chính khác. Hà lo sợ hoảng hốt vì chồng đi biệt tăm không
trở về sau 10 ngày như lời hứa hẹn của chính quyền, cũng không có tin
tức còn sống hay chết dù chỉ một lời nhắn. Cũng như những gia đình của
miền Nam phải đối mặt với cuộc sống mới khó khăn vô định, Hà bắt đầu bán
tất cả những gì có thể, từ cái TV, tủ lạnh, bộ bàn thờ, giường tủ, bát
đĩa, xoong nồi đến những bộ quần áo, giầy dép của hai vợ chồng đều từ từ
bỏ Hà ra đi để đổi lấy gạo và thức ăn nuôi ba đứa con đang sức lớn mà
không được ăn đủ no. Hà phải thoát ra khỏi cái vỏ ốc của một phụ nữ yếu
đuối mong manh, bươn chải theo những người bạn đi buôn để có tiền nuôi
con và chờ tin tức của chồng
Rồi Hà được tin về Phong từ những
trại tù ở những tỉnh miền Bắc xa xôi chưa bao giờ Hà nghe tên. Những
chuyến thăm nuôi vất vả, ngủ đêm chờ đợi ở bến xe, rồi băng rừng lội
suối, đi bộ trên những đoạn đường mấp mô gập ghềnh khó khăn để rồi nhìn
thấy một hình hài quắt queo, nhăn nhúm của chồng chỉ làm Hà thêm quyết
tâm cố gắng làm ra tiền dù phải vất vả trăm bề để nuôi chồng sống sót
mong một ngày trở về.
Gần sáu năm sau, Phong ra tù, tinh thần và
thể xác đều kiệt quệ. Hà đau lòng nhìn thấy chổng tàn tạ rũ rượi như tàu
lá héo trong khi các con ở trường thì bị trù dập vì là “con của ngụy”,
học thì bị nhồi sọ những giáo điều cũ kỹ, không tưởng, bịa đặt và láo
khoét. Để phụ với mẹ kiếm sống, sau giờ học, chúng đi bán bánh kẹo nên
phải học cách mánh mung, gian trá.
Thời ấy, bên cạnh phong trào
đi bán chính thức đang rầm rộ, có những chuyến vượt biên không chính
thức cũng diễn ra trong âm thầm, các con Hà cũng được tập nói dối trơn
tru khi bị hạch hỏi tra gạn về những chuyến vượt biên hụt của gia đình.
Ngay
khi Phong trở về từ nhà tù, hai vợ chồng đã quyết định phải tìm cách
mang các con ra đi, dù có cùng bỏ mạng trên biển cả còn hơn sống trên
quê hương mà như trong cõi chết.
Cả gia đình đã vài lần cùng đi
nhưng thất bại và đồng tiền Hà dè xẻn, dành dụm đã cạn dần, cuối cùng
phải quyết định để Phong đi một mình trước rồi Hà sẽ tìm đường đem các
con đi sau.
Ngày Phong ra đi, Hà đeo vào cổ anh sợi dây chuyền có
tượng Phật Bà Quan Âm nhỏ bằng vàng giả, giống hệt như cái nàng đang
đeo, Hà bảo anh rằng gặp cơn hoạn nạn thì nhớ cầu Phật Bà che chở.
Ba
tháng, rồi sáu tháng, chờ mãi không được tin tức gì của chồng, chỉ nghe
người ta xì xào là chuyến ghe đó bị chìm, cả gia đình chủ tàu cũng
không ai sống sót.
Hà bèn liều mạng dùng mấy lạng vàng cuối cùng
dẫn các con đi với gia đình một người bạn. May mắn thay mẹ con Hà đã đến
được bến bờ tự do.
Năm 1983, tôi được tin Hà đã một mình vượt
biển mang theo ba đứa con, Linh 14. Nga 11 và Nhi 4 tuổi, vừa được Lộc,
người em kế rất thân với Hà, bảo lãnh ra San Diego ở với vợ chồng cậu
ấy, cả gia đình tôi lập tức xuống vùng Nam California để gặp Hà.
Phút
tương phùng, chúng tôi ôm nhau mừng rỡ trong nước mắt. Nhìn một Hà gầy
guộc, đen xạm, dấu tích của những ngày lao động cơ cực, tôi không khỏi
đau xót nhớ đến một Hà xinh đẹp, duyên dáng, ăn mặc thanh nhã nhưng hợp
thời trang của thời đi học và trước năm 1975.
Hà ôm lấy tôi nức
nở: “Anh Phong bỏ tao đi rồi Hằng ơi, gần một năm rồi còn gì.” Tôi
thương bạn quá đỗi nên an ủi: “Đã chắc gì, nhiều khi anh ấy trôi giạt
vào một hoang đảo nào đấy thôi, từ từ xem.” Tôi nói nhưng thực sự không
tin điều mình nói. Tôi nhìn những ngón tay xương xẩu của bạn mà lòng xót
xa. Tôi đã ở lại mấy ngày với Hà và lũ nhỏ để chia sẻ, an ủi với Hà
những bất hạnh, giúp ý kiến cho Hà trong những ngày đầu bỡ ngỡ nơi xứ
lạ.
- Rất may là Hà và tụi nhỏ đã đến bến bờ tự do, thôi thì muộn
còn hơn không! Hãy làm lại từ đầu, nước Mỹ sẽ là nơi cho chúng mặc sức
học hành và phát triển tài năng. Tôi nói. Hãy nhìn về phía trước Hà ơi…
Mới
vừa được tạm ổn dưới mái nhà của Lộc, “họa vô đơn chí” vẫn không buông
tha người bạn khốn khổ của tôi. Ở chung trong gia đình với người em được
gần sáu tháng, Lộc mới trên ba chục tuổi đang khỏe mạnh, có việc làm
tốt, bỗng nhiên đột tử chỉ sau một cơn nhức đầu. Hà đã lăn lộn vật vã
khóc thương Lộc, người em mà Hà thương nhất trong các anh chị em. Được
tin, dù đang bận việc sở cho cuối tài khóa, tôi cũng lập tức chạy xuống
thăm để nâng đỡ tinh thần bạn tôi.
Tôi vừa bước vào cửa, Hà đã rũ
xuống tay tôi như cây chuối bị đốn. Tôi chỉ còn đủ sức dìu Hà vào phòng
đặt nằm trên giường, kéo gối và đắp mền cho thẳng thắn rồi ghé nằm
xuống bên cạnh, tay tôi lại chạm vào đôi vai gầy gò đang rung lên từng
hồi theo tiếng kể lể thảm thiết đứt quãng của bạn mà lòng đau như cắt.
Lúc đó tôi thực sự oán trách ông Trời. Chúa ơi, Phật ơi, các Ngài ở đâu
mà để cho một người đàn bà chân yếu tay mềm như Hà gánh hết oan khiên
khổ nạn của cuộc đời! Chỉ trong hai năm mà chồng mất tích, hai đứa em
vượt biển bị chết và bây giờ cái phao cuối cùng để Hà bám vào cho sự
sống cũng không còn nữa.” Tôi chỉ có thể nắm chặt hai bàn tay lạnh giá
run rẩy của bạn như một lời hứa “bên mày luôn có tao, Hà ơi.”
Về
lại San Jose, hằng ngày tôi điện thoại xuống an ủi, động viên và khích
lệ tinh thần Hà để vượt qua những tai ương nghiệt ngã đeo đẳng. Phải mất
mấy tháng Hà mới lấy lại bình tĩnh và lo cho cuộc sống thường nhật. Lúc
đầu rất khó khăn vì Hà chưa biết lái xe và các con còn nhỏ. Nhờ tính
tần tiện và vén khéo, tiền trợ cấp cũng đủ cho mẹ con sống và ăn học.
Cũng may, một mình lo cho bốn mẹ con vừa ăn vừa học lại thêm bài vở của
mình, Hà không có rảnh một phút để buồn tủi cho thân phận cô đơn vất vả
của mình trên đất lạ. Các con cũng biết thương mẹ khổ sở nên chịu khó
học hành và ngoan ngoản vâng lời mẹ dạy.
Tuy tiếng Anh hơi yếu,
nhưng nhờ quyết tâm và vốn liếng chữ nghĩa có sẵn, Hà đã lấy được mảnh
bằng đại học sau bốn năm miệt mài kinh sử. Hè năm 1987, Linh xong trung
học và Hà đậu bằng cử nhân. Tôi xuống San Diego dự lễ ra trường của hai
mẹ con. Chúng tôi thật là hạnh phúc!
Biết là Hà không có thì giờ
và tâm trí để đi mua sắm, thỉnh thoảng trong những chuyến công tác xuống
Santa Ana, tôi vẫn ghé thăm Hà cùng 3 đứa con và những khi đi
“shopping”, thấy quần áo hay ví tay mà tôi thích, tôi mua luôn một cặp,
để hai đứa tôi vẫn còn được mặc quần áo giống nhau như ngày xưa còn bé.
Khi chúng tôi có thì giờ tâm sự, tôi nói bóng gió xa gần về sự lẻ loi đơn chiếc của Hà:
- Mày cứ thui thủi một mình làm tao không yên tâm tí nào.
- Còn đám con tao đấy thôi. Hà ngắt lời.
-
Con khác. Chúng nó có đời sống riêng. Mày phải cần kiếm một bờ vai của
một người đàn ông cho mày tựa những lúc cuộc đời làm khó mày, hay những
lúc mày ốm đau xuống tinh thần là những điều không đứa con nào có thể
cho được.
Lúc nào Hà cũng gạt đi:
- Tao đã sống quá nửa
đời người, qua bao nhiêu khổ đau nghiệt ngã, đâu còn thiết tha gì chuyện
tình ái. Tao chỉ mong cho mấy đứa nhỏ ăn học thành tài, sống cuộc đời
ngay thẳng đạo đức như ông bà nội ngoại và vợ chồng tao đã dạy, muốn vậy
thì chính tao phải là một tấm gương tốt cho chúng nó noi theo, với lại…
Tôi ngắt lời:
- Với lại gì?
Hà ngập ngừng:
-
Với lại… tao vẫn có một linh tính mơ hồ là anh ấy chưa chết cho nên tao
vẫn…đợi. Mày có nghĩ tao hoang tưởng thì tao cũng đành vậy thôi.
Không
chịu thua, thỉnh thoảng tôi vẫn gợi tên những người đàn ông yêu mến Hà
và muốn cho Hà hạnh phúc. Họ thấy không cách nào gây được sự chú ý của
Hà nên đã nhờ cậy đến tôi, nhưng những lời bóng gió, khuyên nhủ, dỗ dành
của tôi đều như gió thoảng mây bay, Hà vẫn một mực ôm ấp và gìn giữ
tình yêu cho chồng. Bây giờ Hà đã 60, nhưng tình yêu ấy không hề suy
giảm.
Hà cũng tâm sự về con. Thằng Linh có tính nghệ sĩ, nó nói với tao rằng:
- Từ bé con đã mê hội họa và đàn dương cầm, con xin phép Me cho con học hai môn này.
-
Me biết con thích những thứ đó, nhưng hãy thực tế một chút đi con. Gia
đình mình nghèo, con là anh cả trong nhà thay ba con làm cột trụ gia
đình, con nên chọn một nghề có thể nuôi sống gia đình và giúp đỡ bà con
nội ngoại còn đang sống nghèo khổ thiếu thốn ở Việt Nam. Sau này, con
vẫn có thể học thêm những món ưa thích kia cho con vui và giải trí, nghe
lời me đi con.
Thế là Linh chọn nghề bác sĩ, ngành giải phẫu cho
Mẹ vui lòng với lý do rất nhân bản là để cứu giúp những người đau ốm
bệnh tật ngoài việc kiếm đủ tiền nuôi gia đình.
Nga là một đứa
con gái hiền lành, nền nếp dễ bảo, lúc nào cũng muốn làm vừa ý mẹ, nó
học làm dược sĩ để cùng hợp tác với Linh trong vấn đề thuốc thang cho
bệnh nhân. Hai anh em vẫn thường bàn cãi sôi nổi về những phát minh y
khoa và dược khoa.
Nhi, bé út nhưng ngỗ nghịch và hay lý sự nhất
nhà. Mặc dù rất thương mẹ, nhưng đôi khi cũng làm phật ý mẹ, Nhi luôn
làm theo ý mình. Nó bảo trong nhà có hai bác sĩ là quá nhiều rồi, nó
muốn làm kỹ sư. Nhờ có dòng máu thông minh của cả ba lẫn mẹ, Nhi đã trở
thành một chuyên gia xuất sắc trong ngành của mình và làm chủ nhiều bằng
phát minh.
Người bạn mà tôi rất thương yêu và khâm phục ấy, một
người đàn bà chân yếu tay mềm như thế đó, trải qua bao nhiêu gian truân,
đau thương trong cuộc đời, đã đơn thương độc mã chiến đấu với cuộc sống
mới khó khăn trên đất Mỹ, bắt đầu với hai bàn tay trắng cùng ba đứa con
nhỏ dại và mấy cái khăn tang dấu kín trong lòng đã vượt thoát khỏi
nghịch cảnh, tự xây dựng cho mình một cơ sở làm ăn vững vàng nhờ bản
tính trung thực, nhã nhặn và ba đứa con thành công trong những lãnh vực
khác nhau.
Đã gần 35 năm, kể từ ngày mẹ con Hà đến được nước Mỹ.
Còn số phận của Phong, người chồng mất tích trong chuyến vượt biển trước
đó thì sao?
...
Sau chín ngày lênh đênh trên biển cả, con
tầu hết dầu, chết máy, thả neo trông đợi thuyền tàu nào tới cứu. Rồi
ngày qua ngày, không thấy gì ngoài bầu trời mênh mông và biển dữ cuồng
nộ. Khi thì mưa tầm tã, lúc lại nắng chang chang rát mặt, đêm bao la đen
tối đến rợn người. Những mảnh khăn trắng treo trên cột buồm không mảy
may làm xúc động những con tầu đi ngang, những lời lạy lục van xin cũng
không động tâm những người trên các chuyến tàu vô tình kia. Mỗi ngày là
một thách đố cho sự sống còn của mấy chục mạng người trên chiếc thuyền
mong manh ấy. Lương thực đã hết. Cái chết đầu tiên đã làm mọi người
hoang mang, hoảng loạn. Ngày hôm sau, hôm sau nữa lại thêm những cái
chết cô đơn trong đói khát, nằm ngồi ngổn ngang. Tiếng khóc than tuyệt
vọng tắt dần. Phần Phong, cũng chỉ còn sức để lặng lẽ cầu nguyện.
Thuyền
cứ lênh đênh trôi cho đến khi vừa nhìn thấy bờ ở xa xa thì chiếc tàu bị
đội lên, một tiếng soạc khủng khiếp và chiếc tàu bị nứt rạn do đá tảng
cứa vào, tiếng la hét vang dội, nhưng không ai còn sức lực nào để có thể
bơi vào được tới bờ.
Phong chỉ nhớ được rằng khi chiếc tàu lật
úp, đập lên người Phong, chàng thấy đau nhói ở đùi bên trái và máu ra
lênh láng, chàng cố vẫy vùng trong tuyệt vọng, cuối cùng bám được một
mảnh gỗ của chiếc ghe, phó mặc cho số mạng…
Sau cơn trôi dạt vô
vọng không biết bao lâu, Phong bỗng thấy quanh mình lao xao tiếng người,
rồi chàng dần hồi tỉnh. Một thanh niên cho Phong biết là khi tàu của họ
được vớt sau khi đã chết gần hết thì thấy trên bờ xa xa hình như có một
thân người, họ đến nơi thấy chàng còn thoi thóp thở nên kéo chàng nhập
chung vào nhóm người cùng ghe của họ và tất cả 9 người đều được hội Hồng
Thập Tự chăm sóc sức khỏe.
Phong bị con thuyền đập vào gẫy chân
trái, máu ra nhiều mà không được cứu chữa ngay, nên bị nhiễm độc và bác
sĩ phải cưa chân trái của chàng tới trên đầu gối.
Lúc tỉnh dậy,
Phong thấy mình cụt một chân, tay trái bị bó bột, toàn thân đau đớn vì
xương sườn bị dập. Thấy mình đã thành người tàn phế, chàng không muốn
sau này trở thành gánh nặng cho vợ con nếu chàng may mắn tìm được họ vì
vậy chàng chỉ muốn tự vẫn, hóa kiếp cái hình hài dị dạng này cho xong
một đời người. Một tuần sau mọi người đã có mặt trên đảo Pulau Bidong,
Malaysia.
Nhờ sự giúp đỡ của các bác sĩ, nhất là sự chăm sóc tận
tình của một nữ y tá người địa phương tên Wani Avarat và lời khuyên răn
của những thuyền nhân khác, Phong dần dần nguôi ngoai nhưng vẫn nhất
quyết không trở thành một gánh nặng cho vợ con với một tinh thần sa sút
và một thân xác tàn tật.
Cô y tá Wani, một người đàn bà trẻ góa
chồng và không có con, tìm thấy trên mặt của chàng còn phảng phất nét
thông minh tuấn tú của một người có học thức dù bao năm bị tù đầy vùi
dập và chuyến vượt biển thập tử nhất sinh của Phong nên ngoài việc lưu
tâm săn sóc thể chất, cô luôn luôn động viên tinh thần cho Phong. Chờ
khi Phong tỉnh táo, cô đã đề nghị với chàng để cô bảo lãnh ra sống với
cô ở Mã Lai với lời hứa là Phong có thể đi tìm và trở về với gia đình
của chàng bất cứ lúc nào.
Nhờ có sự khuyến khích của cô Wani,
Phong dần dần hồi phục. Sau khi đã được lắp chân giả, Phong đi học lại
và cũng theo ngành y tá. Hai người sống với nhau hạnh phúc cho đến hai
năm trước đây, cô Wani bị bệnh ung thư. Để đền đáp mối ân tình cho người
đã cứu mạng sống của mình, Phong đã tận tụy săn sóc Wani, nhưng cuối
cùng, Wani vẫn không thể vượt qua cơn bệnh ngặt nghèo. Hai năm trước
đây, Wani đã giã biệt cõi đời. Từ đó Phong xin làm thiện nguyện và rồi
trời đã xếp đặt cho chàng có cơ duyên làm việc cùng toán với Linh, một
bác sĩ giải phẫu từ Hoa Kỳ sang làm thiện nguyện tại một làng nghèo bên
Mã Lai.
Ngày cuối của công việc thiện nguyện, sau khi đã hoàn tất
một ca giải phẫu cho bệnh nhân, Bác sĩ Linh mời y tá Phong ra ngoài sân
bệnh viện uống cà phê cho tỉnh táo. Sau mấy ngày làm việc với ông y tá
đứng tuổi của địa phương có nước da nâu sạm và đôi tay gân guốc, hai
người đều đeo khẩu trang nên Linh không thấy rõ chi tiết trên khuôn mặt,
ngoại trừ đôi mắt sâu thẳm u uẩn của ông ta. Nay xong công việc, khẩu
trang đã gỡ bỏ, thong thả bên ly cà phê, bác sĩ và y tá biết nhau cùng
là người Việt, trò truyện bằng tiếng Việt, Linh bỗng cảm thấy một cái gì
gần gũi thân quen khác thường.
Khi ông Phong cúi xuống dập tàn
thuốc lá, nhìn khuôn mặt khắc khổ của người bạn lớn tuổi mới quen, Linh
bỗng giật mình khi thấy trên cổ ông ta một sợi dây chuyền có tượng Phật
Bà. Phải rôi, cũng sợi dây chuyền ấy, tượng Phật Bà ấy, Linh từng thấy
Mẹ mang trên cổ hàng ngày. Cho tới bây giờ, thỉnh thoảng mẹ vẫn mân mê
cái tượng đã xám xỉn lâm râm lời cầu nguyện. Linh kiên nhẫn gợi chuyện
và ngồi yên lắng nghe về chuyến hải hành đầy khủng khiếp của Phong.
Bây
giờ thì Linh đã chắc chắn người y tá già ngồi trước mặt là người cha
mất tích suốt tuổi niên thiếu của mình vì nơi chốn và ngày đi của ông ấy
đều trùng hợp với cha mình.
Hai bố con nhận ra nhau. Linh ôm
ông, chàng khóc như chưa từng khóc trong đời, chàng thương cho sự bất
hạnh của Ba và nhất là cho Mẹ đã bao năm vò võ ở vậy nuôi con chờ chồng.
Trên
đây là chuyện do chính Linh kể lại cho tôi nghe. Chú bé 13 tuổi khi
theo mẹ đến Mỹ năm xưa nay đã là một bác sĩ giải phẫu 48 tuổi. Hàng năm,
thay vì đi du lịch ngắm thắng cảnh thế giới, Bác sĩ Linh dành 2 tuần lễ
nghỉ phép, đi theo đoàn thiện nguyện đến chữa bệnh ở những nơi mà người
dân thiếu may mắn trong vùng Đông Nam Á. Nhờ đó mà sau 35 năm thất lạc,
bố con có dịp nhận ra nhau. Giấc mơ đoàn tụ bao năm thành sự thật. Sinh
nhật mẹ Hà cũng sắp tới. Đâu còn món quà sinh nhật nào quí hơn. Mọi thủ
tục bảo lãnh, đưa Bố Phong từ Mã Lai vào Mỹ được lặng lẽ hoàn tất. Mọi
diễn tiến, với sự đồng ý của bố, anh em Linh giữ kín, mẹ Hà hoàn toàn
không hay biết.
Là người thân trong nhà, tôi được các cháu của Hà
nhờ mời dùm đông đủ các bạn học cũ của chúng tôi từ thời ở Tuy Hoà về
dự sinh nhật mẹ năm nay. Nhưng cũng chỉ tới giờ chót, mới được cho biết
câu chuyện, mà còn nghe cháu Nga dặn đi dặn lại “không cho mẹ biết
trước, nghe dì”.
*
Sinh nhật của Hà năm nay được tổ chức tại nhà cháu Linh. Tuổi
sáu mươi sắp đến, nhưng Hà vẫn tươi tắn, rạng rỡ cùng các con chào đón
các bạn cũ, bạn mới.
Trong phòng khách rộng l;ớn của ngôi nhà,
bánh sinh nhật và các bàn ăn đã sẵn sàng. Đúng giờ phút định trước, ánh
sáng thay đổi. Hà được mời đứng giữa Linh và Nhi, con trưởng và con út.
Tất cả được thông báo bắt đầu những phút trân trọng nhất của đông đủ gia
đình cùng ra mắt trong tiệc sinh nhật. Linh rời mẹ, trong lễ phục
nghiêm chỉnh, bước lên mấy bước, cầm micro, hướng về phía mẹ Hà:
-
Thưa Mẹ. Chúng con xin cám ơn Mẹ và tất cả bà con bạn bè có mặt hôm
nay. Đây là lần đầu tiên đông đủ gia đình ta cùng mừng sinh nhật mẹ. Xin
mẹ cho phép con có vài lời về gia đình chúng ta. Hơn bốn mươi năm trước
đây, Sàigòn sụp đổ, miền Nam đổi chủ, bố chúng con phải đi tù cải tạo.
Từ ngày ấy, tuy còn là đứa trẻ mới sáu bẩy tuổi, con vẫn không quên
những ngày tháng mẹ vất vả, cực nhọc thay bố nuôi chúng con. Sau 6 năm
tù đầy, trở về với gia đình không được bao lâu, mẹ lại phải cắn răng để
Bố một mình ra đi và từ đó mất tích. Có tin chuyến tầu vượt biển có bố
đi theo đã tan tành, không còn ai sống sót. Sau nhiều tháng vô vọng, mẹ
lại một mình mang chúng con ra đi, lo cho chúng con thành người trên đất
Mỹ. Đã 35 năm qua, hàng ngày, mẹ không ngừng cầu nguyện gia đình có
ngày được đoàn tụ. Hôm nay, xin Mẹ quay nhìn sang phía trái...
Không
chỉ Hà mà tất cả cùng nhìn theo hướng tay của Linh. Từ bao giờ, trên
lối đi từ phía cầu thang, em gái Nga của Linh xuất hiện trong áo dài
vàng rực, bên vai Nga là một người đàn ông cao gầy. Trong ánh nến bập
bùng ven lối đi, cả hai đang bước ra. Từng bước. Từng bước chậm.
Cả sảnh đường bỗng im lặng tới mức nghe được từng hơi thở.
-
Thưa Mẹ, Linh tiếp tục nói, em Nga đang cùng Ba bước về phía Mẹ. Hôm
nay Ba đã trở về từ một nơi xa xôi để dự lễ sinh nhật của Mẹ và đoàn tụ
với gia đình. Và thưa Ba, Mẹ và em Nhi đang chờ Ba. Thưa bà con, thưa
các bạn, sau bao năm cầu nguyện, đây là lần đầu tiên Ba Mẹ chúng tôi
chúng tôi thấy lai nhau. Cám ơn Trời Phật đã đáp ứng lời cầu nguyện kiên
trì của bốn mẹ con mình.
Hai bố con Phong và Nga đã đến trước
mặt mẹ con Hà. Họ đứng lặng nhìn nhau. Hà bước tới, tưởng như mình đang
bước trong cơn mơ. Đúng Phong đây rồi, Phong bằng xương bằng thịt vẫn
thường hiện ra trong giấc ngủ của nàng làm lệ ướt gối chăn. Dù có bao
nhiêu nếp nhăn hằn sâu trên khuôn mặt, dù có bao vết thương, vết sẹo
trên thân thể chàng, dù Phong có bước đi chân thấp chân cao, đây vẫn là
người chồng mà Hà một đời yêu thương mong nhớ và chung thủy đợi chờ. Họ
lặng lẽ ôm nhau. Linh cũng đã lặng lẽ bước lại đứng cạnh bố mẹ và các
em. Đúng là đông đủ cả nhà đang đoàn tụ. Cả sảnh đường đang im lặng bỗng
cùng lúc vỡ òa. Rồi Phong sẽ nói, Hà sẽ nói, không biết bao lời chúc
tụng sẽ được nói lên.
Ai bảo là “phước bất trùng lai?”
Cuối cùng thì bạn tôi sau những đau thương, mất mát khủng khiếp trong cuộc đời, bây giờ được đền bù xứng đáng.
Tôi
trao cho Hà món quà sinh nhật của tôi tặng và Linh được yêu cầu đọc mấy
dòng tôi viết trong tấm thiệp mừng bạn. Đó là mấy câu thơ nổi tiếng của
thi sĩ Hồ Dzếnh:
Cô gái Việt Nam ơi!
Nếu chữ hy sinh có ở đời,
Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt Nam tươi.
Tôi đã chép những câu thơ trên cho bạn tôi và viết thêm đoạn tường thuật này tặng chung các Bà Mẹ Việt Nam.
Lê Nguyễn Hằng
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 19/Jun/2017 lúc 7:31am |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 129 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |