Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 201 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 20/Apr/2016 lúc 9:20am

Cháo Tóc  <<<<<<

Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23786
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 21/Apr/2016 lúc 10:05am

 Vợ Chồng Điệp Viên 

 


Học xong trung học, tôi thi vào Đại Học Sư Phạm ban Anh Văn. Trong thời gian là sinh viên tôi còn làm việc cho số 3 Bạch Đằng. Đó là cách nói gọn của phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo Việt Nam Cộng Hòa.

Tôi làm tình báo vì có máu phiêu lưu, thích chuyện mạo hiểm, sau nầy lại thêm mối thù việt cộng giết cha tôi. Ông già tôi là chủ một nhà máy xay lúa nhỏ ở vùng quê tỉnh Bạc Liêu. Vì là vùng mất an ninh nên phải đóng thuế cho việt cộng, ấy vậy mà cũng bị chúng nửa khuya đến gõ cửa đem ra đồng bắn bỏ. Cả mấy năm sau, tôi cố tâm điều tra mới biết rõ thủ phạm là một tên nằm vùng trong xóm, chỉ vì một xích mích nhỏ, hắn dẫn đồng bọn về giết người. Dĩ nhiên tôi trả thù.

Sau khi tốt nghiệp sư phạm, trong lúc chờ sự vụ lệnh, tôi lẻn về nhà trốn trong phòng không cho hàng xóm biết, đến khuya tôi đến nhà hắn, nằm sau hè chờ. Ở thôn quê không có phòng vệ sinh trong nhà, khi cần thì ra sau vườn. Qua đêm thứ hai hắn mở cửa ra đi tiểu, tôi chĩa súng vào lưng hắn.

– Đồng chí ra ngoài kia trả lời trước tổ chức về vài việc cần gấp.

Hắn sinh nghi định phản ứng, tôi giáng cho một bá súng vào đầu, hắn bất tỉnh, tôi cột chân tay hắn, cõng trên lưng, ì ạch băng đồng ra chỗ bọn chúng giết cha tôi. Tôi khai thác tận tình cho đến khi hắn thú nhận tội giết cha tôi, lúc đó tôi mới cho hắn biết sự thật. Hắn van lạy, nhưng vô ích, hình ảnh cha tôi chết oan ức, mắt vẫn mở trừng trừng khiến tôi sôi gan. Sau đó gia đình tôi bán nhà máy xay lúa, bán nhà lên Sài Gòn ở. Tốt nghiệp xong tôi được điều đi các tỉnh dạy học. Sau mỗi công tác tình báo dù thành công hay thất bại tôi lại chuyển qua tỉnh khác.

Câu chuyện bắt đâu khi tôi được giao cho việc theo dõi một cô thợ may ở ngoại ô một thành phố ven biển miền trung. Nguyên nhân là thỉnh thoảng lại có truyền đơn rải vào buổi sáng trên con đường vào thị xã. Đây là con đường mà đa số nông dân thường đem nông sản vào chợ bán. Họ chở bằng xe đạp, xe lăm hay xe bò. Sáng sớm nào cũng có cảnh sát rình ở đó nhưng chẳng thấy ai đáng tình nghi cả. Sau phải cho người nằm sát lề đường mới khám phá ra một cô gái đi xe đạp chở rau muống phía sau, dưới chân chỗ bàn đạp để mớ truyền đơn, cứ dỡ nhẹ chân là truyền đơn rơi xuống đường khó mà thấy được nhất là ở quãng đường tối.

Qua điều tra đây là cô thợ may nhà ở vùng ngoại ô, sát địa giới thành phố. Sau nhà là một vạt ruộng nhỏ trồng rau muống, mỗi sáng cô chở rau vào chợ bán sỉ cho bạn hàng rồi về ngay. Cô sống với một mẹ già hơn sáu mươi tuổi. Gọi là tiệm chứ thực sự là một bàn máy may phía trước, cách một tấm vách cót là giường ngủ của hai mẹ con vừa làm chỗ thử áo quần. Gia đình nầy mới từ một quận miền núi về hơn một năm nay. Theo báo cáo, trước đó cô là nữ sinh trung học, sau theo nghề may. Tiệm của cô khá đông khách vì cô hiền lành, vui vẻ lại lấy công rất rẻ, có lẽ đây là trạm giao liên hơn là cơ sở kinh tài của địch.

Nhiệm vụ của tôi là tìm cách tiếp cận cô để theo dõi. Tôi sẽ đóng vai một kẻ si tình cô, gặp gỡ cô mà bọn chúng không thể nghi ngờ, hoặc tốt hơn nữa sẽ được móc nối làm việc cho chúng. Một buổi sáng chủ nhật tôi chạy xe gắn máy gần đến nhà cô thì xe chết máy phải dừng lại sửa. Tôi vào tiệm xin cô miếng giẻ rồi loay hoay mở máy ra chùi, thay bu gi, tháo bình xăng con… toát mồ hôi mà xe vẫn không nổ. Tôi xin cô miếng nước uống và ngồi trước hiên nhà cô hỏi vài câu vơ vẩn rồi dẫn xe về.

Qua hôm sau tôi đem một xấp vải đến nhờ cô may cho một áo sơ mi. Lần nầy tôi được cô mời vào nhà vì tôi là khách. Thế rồi, thỉnh thoảng tôi lại nhờ cô may một thứ gì đó và tôi ngập ngừng nói là tôi làm thế để được dịp gặp cô, không gặp tôi nhớ. Cô có vẻ bất ngờ, nhưng yên lặng. Những lần sau cô lại càng giữ ý, nhưng tôi bắt gặp trên đôi mắt cô mỗi khi thấy tôi, long lanh niềm vui. Trong lúc trò chuyện tôi cho cô biết về gia đình tôi rằng ông già tôi tham gia mặt trận bị quân đội Quốc Gia hành quân bắn chết. Thỉnh thoảng tôi đi chùa nghe thuyết pháp hoặc tham gia mít ting, tôi phát ngôn bừa bãi ra người bất mãn chế độ. Sau một thời gian lạnh lùng, giữ kẽ, cô có vẻ thân thiện, vui vẻ hơn. Kẻ thù trong bóng tối đang kéo dần con mồi về phía chúng, tôi biết mình đã được để ý, nhưng chỉ đến đấy thì hầu như bế tắc, tôi không biết được những gì chúng tôi cần.

Một sáng chủ nhật, như thường lệ tôi đến thăm cô, nhưng đến nơi chỉ thấy một đống tro tàn đang bốc khói. Thì ra, không hiểu vì sao lúc khuya lửa bắt cháy, hai mẹ con chỉ kịp chạy thoát thân. Tôi khuyên nhủ nhưng cô vẫn lắc đầu lo lắng.

– Tiền mua bàn máy may, mua miếng đất em trả chưa hết nợ, còn quần áo của khách nữa, họ nói bao nhiêu phải cố mà trả. Nhưng em còn đồng nào đâu!

Tôi hứa với cô là sẽ hết lòng tìm cách giúp đỡ. Thế rồi tôi về bán chiếc xe gắn máy. Nhờ bà con chung quanh phụ giúp nhặt nhạnh những miếng tôle còn xài được, mua ít vật liệu, dựng lại căn nhà mới cũng khang trang, ngoài ra còn mua được một bàn máy may mới nữa. Chỉ trong một tuần tôi lo toan cho cô chu toàn. Từ đấy thái đọâ của cô đối với tôi thay đổi hẳn. Chúng tôi thường đưa nhau đi xem hát, ăn quà rong, đôi khi cô đến nhà trọ thăm tôi nữa. Mỗi khi đi với nhau cô thường chải chuốt, thoa chút phấn hồng trên má, trông cô đẹp hẳn ra, như lột xác từ một cô thợ may lọ lem thành một nàng tiên, nhưng đối với tôi, đi bên cô, nhất là những chỗ vắng, tôi có cảm giác rờn rợn, tưởng như mình đang đứng trước đỉnh đầu ruồi của một họng súng nào đó trong bóng tối. Vì nghề nghiệp, lúc nào tôi cũng cảnh giác, ngụy trang, dọ dẫm tìm một chỗ an toàn phía sau lưng.


Một lần cô ghé nhà trọ thăm tôi, có một bà hàng xóm biết cô là thợ may đến năn nỉ cho con gái học nghề may. Cô là học sinh thi hỏng tú tài, muốn theo nghề may để phụ giúp gia đình. Nghe tôi nói thêm vào cô ta có vẻ bằng lòng nhưng hẹn ít hôm nữa mới trả lời, có lẽ chờ quyết định của tên đầu sỏ, chỉ huy cô. Tuần sau cô đồng ý nhận học trò. Được độ ba tháng nhờ sáng ý, cô bé học nghề khá tiến bộ. Tiệm may cũng đông khách hơn trước.

Một hôm tôi gọi riêng cô bé hàng xóm qua nói chuyện.

– Em học nghềø may với chị Lan đến đâu rồi?

– Em cắt chưa vững nhưng may thì khá lắm, khách nào cũng khen đường chỉ em thẳng, mịn và đẹp.

– Có lẽ cần một máy may nữa mới phụ chị Lan kịp giao hàng cho khách.

– Em cũng nghĩ vậy nhưng không có tiền.

Tôi tâm sự với cô học trò.

– Như em biết, thầy và chị Lan yêu nhau, dự định sẽ làm đám cưới, nhưng thầy còn ngại hình như chị Lan đang yêu ai nên thầy nhờ em giúp thầy tìm hiểu chị Lan xem có ai đến thân mật chuyện trò với chị ấy không? Em sẽ chẳng làm gì cho chị ấy nghi ngờ. Thầy có cái máy nầy, sẽ giấu dưới xách tay của em, khi đến nơi, em chỉ cần mắc xách tay sau lưng chỗ ngồi của em sát vách với phòng thử áo quần. Chỉ thế thôi, đừng cho bất cứ ai biết chuyện nầy. Nếu chị Lan hay ai bắt gặp cứ bảo rằng đó là máy thu thanh, thầy sẽ chỉ em cách mở nghe đài phát thanh. Em cũng đừng cho chị ấy biết là thầy cho em mượn tiền mua máy may, sợ chị nghi ngờ, ghen tuông phiền phức.

Thế là chúng tôi nghe rõ những trao đổi, bàn bạc với nhau của bọn chúng trong phòng thử quần áo. Một bộ phận khác rình thu hình những khách hàng khả nghi và tiến hành điều tra. Chúng tôi gần như nắm vững tất cả những tên nằm vùng, cơ sở kinh tài, nơi chứa chấp những tên xâm nhập nữa, nhưng tên đầu sỏ vẫn chưa tìm ra!?

Trong nghề nầy, một chút sơ ý là chết. Như cô thợ may, bị chúng tôi theo dõi mà không hay biết. Cô với tôi như hai tay  nhu đạo đang lừa nhau để vật đối thủ xuống, cô đã bị thất thế hoàn toàn, nhưng tôi chưa ra tay và chờ cô ra đòn. Có thể cô làm bộ chuyện trò, hỏi han để tìm hiểu tôi hoặc rủ tôi một chiều nào đó ra vùng quê hóng gió tâm sự… Nhưng tuyệt nhiên chuyện đó không xảy ra. Cô lúc nào cũng ít nói, dịu dàng, nhưng như thế lại càng làm tôi e ngại và thấy cô rất bản lĩnh, rất nguy hiểm. Đi bên cô tôi cố làm vẻ sung sướng, hạnh phúc nhưng thật sự tôi có cảm tưởng cô như con rắn độc, chỉ một tích tắc cô hành động là đời tôi tàn ngay. Mạng tôi đổi mạng cô thì không xứng. Thế nên tôi chẳng hứng thú gì trong vai trò nầy cả. Tôi được lịnh phải tiến xa hơn tức là phải chung đụng xác thịt để giữ chặt con mồi, nhưng tôi không làm được. Dù cô có yêu tôi thực hay giả vờ tôi cũng quyết không đụng chạm đến nơi thiêng liêng đó của người con gái. Đó là yếu điểm của một tên tình báo non tay nghề như tôi.

Mùa hè năm đó, đối phương lên phương án tấn công tỉnh. Mẻ lưới được tung ra. Chúng tôi dự định hành quân vào lúc khuya. Buổi chiều cô bé học may về báo cho tôi biết là lúc trưa có một ông sư khất thực đến trước nhà, cô Lan ra cúng dường, ông sư lầm thầm tụng kinh chúc phúc như mọi khi, nhưng lúc quay vào, thấy mặt cô tái mét, người cứ run lên bần bật…Chúng tôi đề nghị cảnh sát hành quân sớm hơn dự định. Thế là cả bọn bị tóm, kể cả chính tôi cũng bị cảnh sát đến gõ cửa, còng tay, đẩy lên xe cây.

Thường thì sau khi vở kịch đã hạ màn như thế, tôi thảnh thơi nghỉ ngơi rồi nhận công tác mới. Nhưng không hiểu sao hình ảnh cô ta vẫn nguyên vẹn trong đầu tôi. Khi cô bị bắt, bị giam giữ, lòng trắc ẩn của tôi lại nổi lên. Đàn bà, con gái, trẻ con không có chỗ trong chiến tranh, họ phải được ở hậu phương, phải được thường xuyên che chở, bảo vệ. Một cô gái vô ý vấp ngã thấy đã động lòng rồi, huống gì cô thợ may hiền lành, dịu dàng kia đang bị nhốt trong nhà giam sau những song sắt như một con thú đã bị săn bắt, chờ ngày bị đem xẻ thịt.

Tôi đã nhiều lần bí mật nhìn cô ủ rũ ngồi ở một góc phòng giam, héo úa như không có linh hồn, không còn cảm giác, suy nghĩ gì. Tương lai là chết rũ trong tù, tình yêu, hy vọng của tuổi thanh xuân coi như đã chấm hết. Đối với cô, tôi thấy thật bất nhẫn, lừa gạt một cô gái dù cô ta được điều khiển từ trong bóng tối. Và khi cảm tưởng cô không còn là kẻ thù của tôi nữa, sự cảnh giác đã được gạt bỏ, như bụi bặm trên một bức tranh đã được chùi sạch, để lộ ra hình ảnh trong sáng, dịu dàng của cô trong tâm trí tôi. Thế nên tôi đề nghị thả cô ra để cho những con mồi khác đến móc nối lại với cô.

Từ phòng giam, tôi lại được gọi lên để đối chất về sự liên hệ giữa tôi và cô. Chúng tôi xác nhận có yêu nhau nhưng  chẳng biết gì về việt cộng cả và anh cảnh sát thẩm vấn (vờ) tin ngay là thật, anh hứa sẽ thả chúng tôi ra và anh bỏ đi làm giấy tờ. Tôi đến ngồi gần cô cầm lấy tay cô, cô ngước nhìn tôi và lắc đầu, có lẽ cô cho rằng lời anh thẩm vấn viên chỉ là cái bẫy, nhưng tôi cố tình cho cô hiểu tôi là người có thẩm quyền, tôi cứu cô ra vì tôi yêu cô.

– Như em đã nghe lúc nãy, anh xin bảo lãnh em và chịu trách nhiệm liên đới về những hành động của em sau nầy. Nếu em thương yêu anh thực lòng thì em hãy lánh xa những gì có thể gây nguy hiểm cho em. Em còn mẹ già phải nuôi dưỡng, rồi em sẽ lập gia đình, có con cái, sống hạnh phúc như bao người bình thường khác. Đừng dại dột nữa, không phải anh sợ bị vạ lây nhưng nếu em gặp chuyện không may anh sẽ đau khổ lắm. Anh sẽ thu xếp cho em và mẹ em vào Sài Gòn sống lẫn trong đồng bào thì sẽ không có ai quấy rầy em nữa. Chúng mình sẽ làm đám hỏi và khi nào anh vận động xin về dạy gần Sài Gòn sẽ làm đám cưới.

Cô cúi đầu yên lặng nghe, rồi cô nắm tay tôi đặt lên đùi cô, siết nhẹ. Một giọt nước mắt rơi trên tay tôi. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Cô đã hiểu ý tôi. Cô viết cho mẹ cô một lá thư, dặn bán nhà để chuẩn bị về quê, chỉ giữ lại bàn máy may.

Sau đó chúng tôi lặng lẽ về Sài Gòn.

Nhờ bạn bè giúp đỡ, tôi tìm mua được một căn nhà nhỏ ở chợ Cây Quéo, góc đường Hoàng Hoa Thám, Ngô Tùng Châu Gia Định. Dĩ nhiên việc theo dõi cô không phải đã chấm dứt.

Công tác của chúng tôi thường được tình báo Mỹ yểm trợ. Người Mỹ rất hào phóng nhưng cũng rất nguyên tắc, họ đã vui vẻ trả lại tiền cho tôi mua lại chiếc xe gắn máy, trả cả những chi phí lặt vặt như đưa cô đi xem hát, ăn quà rong. Nhưng sau cuộc hành quân, hồ sơ coi như đã đóng. Lần nầy tôi lại bán xe, vay mượn thêm để lo cho cô mà không biết khi nào mới có tiền mua lại xe khác.

Suốt mấy tháng hè, tôi về Sài Gòn với  gia đình. Buổi chiều tôi thường ghé thăm cô, có khi tôi ăn cơm tối với gia đình cô. Sau bữa ăn, bà mẹ dọn dẹp chén đĩa, còn cô thì xin phép đi tắm. Chợ Cây Quéo nằm trong một đường hẻm, sau khi tan chợ chiều, trở thành vắng lặng như ở một vùng quê. Sau nhà cô có một sân vuông nhỏ, rào kín chung quanh, tôi thích ra đấy ngồi xuống một ghế gỗ dài để chờ cô. Cô có thói quen là sau khi tắm cô không mặc nịt ngực, nên qua lần vải mỏng, đồi ngực cô thẳng đứng lên, lồ lộ như hai mụt măng tre vừa chồi lên khỏi mặt đất. Cô ngồi cạnh tôi, nghiêng đầu dùng khăn vò mái tóc cho khô, chải nhẹ cho tóc thẳng, xong cô ngửa người vuốt mái tóc về sau lưng, rồi cô nhìn tôi mỉm cười. Tôi yên lặng ngắm cô, tưởng như thấy rõ làn da mịn màng, thơm tho của thân thể cô… Sau đó chúng tôi có một thứ quà rong như chè hay trái cây để vừa ăn vừa chuyện trò đến khuya mới chia tay.

Sau kỳ nghỉ hè tôi được chuyển ra Huế dạy học, tôi viết cho cô một lá thư dài và hẹn Tết sẽ về xin làm đám hỏi. Tính cô ít nói, ngay cả thư trả lời chỉ vỏn vẹn mấy câu “Được thư anh, em khóc mấy hôm nay vì vui mừng. Cám ơn anh đã hiểu em và lời hứa của anh lần nầy em tin là thật, bằng trái tim và cả cuộc đời em”

Khoảng cuối năm đó tôi xin phép về Sài Gòn, khi đến nhà cô tôi ngạc nhiên thấy nhà đã sửa sang lại tươm tất. Cô dẫn tôi ra phía sau khoe một căn phòng vừa mới được xây thêm.

– Mẹ ngủ phòng ngoài kia, em ngủ trong nầy.

– Còn anh thì nằm dưới đất?!

Cô đỏ mặt nhưng sung sướng.

– Anh với em phòng nầy chứ.



Lễ hỏi chúng tôi diễn ra đơn giản, kín đáo. Gia đình tôi cứ tưởng tôi sẽ lập gia đình với một cô nữ sinh nào đó, không ngờ là một cô thợ may. Chẳng phải họ kỳ thị hay giai cấp gì mà theo lệ thường, thầy giáo rất dễ chọn vợ đẹp trong trường mình dạy. Nhưng khi gặp lần đầu, mọi người đều thích cô ngay. Cô vừa hiền vừa đẹp một cách thùy mị. Mẹ tôi cứ mẹ mẹ con con với cô ngọt xớt, các cô em gái tôi thì tíu tít hỏi han, trò chuyện rất thân mật khiến cô bối rối, vụng về vì cảm động. Từ đó gần như ngày nào tôi cũng đến nhà cô, đôi khi ngủ lại nữa, nhưng chúng tôi đã hứa với nhau phải giữ gìn, để dành cho ngày hôn lễ. Cô có những suy nghĩ lẩm cẩm rất đàn bà. Cô thêu những áo gối có hình quả tim, tên tôi và tên cô lồng vào nhau, hình đôi chim đang bay, rồi cô phân vân về tên của những đứa con trong tương lai. Tôi chế giễu thì cô giận, nhưng thâm tâm cô rất vui sướng với giấc mơ đơn giản đó.

Tôi bàn với cô vài tháng nữa sẽ làm đám cưới, nhưng rồi đầu năm bảy lăm miền Nam bắt đầu sụp đổ từng mảng, tất cả tan rã như bọt nước. Người ta ùn ùn chạy về phía Nam, tôi phải nấn ná lo tiêu hủy hồ sơ, phân tán mạng lưới nên vào đến Đà Nẳng lại đành quay về Huế vì miền Trung đã rơi vào tay đối phương rồi. Kẻ thù hình như chưa biết gì về tôi cả ngoài cái vỏ bọc thầy giáo trung học. Chúng bắt đầu gọi các cô thầy  đến khai lý lịch và như đang sắp xếp mở cửa các trường học.

Thế rồi khoảng cuối tháng năm, năm bảy lăm, nửa khuya, chúng đến vây nhà trọ, gõ cửa, còng tay tôi dẫn ra xe. Thoạt nhìn, ngoài chiếc xe cảnh sát chở đầy bộ đội tôi còn thấy một xe mang số ẩn tế Sài Gòn, tôi biết  ngay bọn chúng đã tìm ra chính xác tông tích tôi. Nhưng tại sao trung ương lại không hủy hồ sơ?

Ngồi kèm tôi là hai tên bộ đội còn trẻ mang súng AK.  Phía trước, bên cạnh tài xế là một người đàn bà. Xe chạy ra khỏi cửa Thượng Tứ, qua cầu Trường Tiền đến đường Duy Tân, chiếc xe chạy trước quẹo vào ty cảnh sát (cũ), còn xe chở tôi chạy thẳng, hướng về quốc lộ. Tôi đoán chúng đưa tôi về Sài Gòn khai thác. Tôi dự định thoát thân, nhưng đến gần phía Nam tôi mới hành động. Nghĩ thế nên tôi buông thả, thiu thiu ngủ dưỡng sức.

Dọc đường xe phải ngừng ở các nút chặn, tên tài xế cũng là bộ đội trình giấy và nói gì đấy, ánh đèn loang loáng vào xe, rồi xe lại tiếp tục. Đến Quảng Ngãi trời đã rạng sáng, tôi lơ mơ mở mắt nhìn quanh. Bỗng tôi lạnh người khi nhận ra người đàn bà ngồi phía trước là cô thợ may, vợ sắp cưới của tôi. Hóa ra chúng tôi đã lầm trong điệp vụ vừa kể, tên đầu sỏ là cô ta chứ không phải gã thầy tu khất thực. Tôi cay đắng cười thầm mình thua trí một người đàn bà, cô đã ngụy trang một cách tài tình, không chỉ đánh lừa chúng tôi mà còn đánh lừa cả đến lũ chân tay của cô.

Nhớ lại những ngày chúng tôi bên nhau, tôi sượng sùng, xấu hổ với cô. Cô đã đóng một vai kịch rất xuất sắc, rất bản lĩnh, tôi vẫn chỉ là một con mồi ngây thơ. Ấy vậy mà tôi cứ tưởng tình yêu chân thành của tôi đã cảm hóa được cô. Giờ đây cô ngồi đó, lạnh như tiền. Cô đang nghĩ gì về tôi, một tên điệp viên hạng bét, ngây ngô, lãng mạng tiểu tư sản?

Xe đến Bình Định, ghé vào một quán cơm bên đường, tôi được tên bộ đội mở còng nhưng dặn “Cần gì nói tôi, giữ khoảng cách năm bước, đến gần hay xa hơn, sẽ bị bắn bỏ” Tôi được dẫn vào ngồi một bàn ở một góc quán, mấy tên bộ đội ngồi hai bên, còn cô ta thì ngồi riêng. Sau bữa ăn, lúc trả tiền cô lôi ra một xấp bạc mới tinh, rút vài tờ vất đấy, đứng dậy, không lấy tiền thối. Tôi cố tỏ ra sợ sệt và ngoan ngoãn để chúng tin, hi vọng đến chiều tối nếu cũng ăn uống như thế nầy tôi sẽ bỏ chạy rất dễ dàng và bóng đêm sẽ che chở cho tôi. Nhưng tôi đã lầm, xe chạy suốt đến sáng, đến ngã ba Hàng Xanh theo đường Bạch Đằng, rồi Chi Lăng, Ngô Tùng Châu và vào hẽm chợ Cây Quéo.

Cô vào nhà một lúc lâu mới đi ra với bà mẹ. Hai mẹ con ngồi phía trước, xe lại tiếp tục trở ra xa lộ đến Biên Hòa quẹo hướng Vũng Tàu. Tôi đoán chúng sẽ truy tôi về công tác ở Vũng Tàu, Long Hải trước đây hoặc giao cho lũ nằm vùng, nội tuyến đã bị tôi đưa đi tù, và chúng sẽ mặc sức trả thù.

Đến Vũng Tàu, ghé mua mấy ổ bánh mì thịt, xe vào một khách sạn hạng trung bình. Sau khi ăn uống, làm vệ sinh, tôi lại bị còng tay cho vào phòng riêng, phía ngoài là hai tên bộ đội canh cửa. Tôi nghe cô ta dặn hai tên gác là phải cảnh giác cao độ với tên địch nguy hiểm đó (là tôi), và cô đến ủy ban quân quản có chuyện cần, sẽ về ngay. Tôi mệt mỏi lăn ra ngủ một giấc lấy sức, dự định tối nay leo cửa sổ trốn đi. Cái còng không thành vấn đề, một cọng thép nhỏ là xong, và cọng thép đó đang nằm trong sợi dây đồng hồ mà tôi đã có được lúc tôi đòi đi tiểu ở hàng cơm ở Bình Định. Nhưng đến gần tối, sau khi được ăn một ổ bánh mì nữa, chúng lại còng cả chân tôi vào giường và hai tên bộ đội ngồi ngay trong phòng tôi, thay phiên nhau lõ đôi mắt cú vọ canh chừng tôi. Thế là hết đường trốn thoát! Nhớ lại thời gian hứa hôn chúng tôi sống bên nhau, cô đã dần dần hiểu tôi, trong sự săn sóc cô đón ý tôi rất tài. Lúc đó tôi sung sướng nghĩ rằng mình có được cô vợ toàn tâm toàn ý, bây giờ chính cái toàn tâm toàn ý kia lại hại tôi. Cô đã thấy được không sai chạy những gì tôi nghĩ trong đầu, dù chỉ vừa thoáng qua là cô đề phòng ngay.

Tối đó độ hơn mười giờ, tôi được dẫn ra xe, vẫn đủ sáu người như trước. Xe chạy loanh quanh trong thành phố một lúc rồi hướng ra Bãi Sau. Trời đêm đầy mây, lạnh kinh khủng, miền Nam chưa bao giờ lạnh như năm đó, đường vắng tanh, lờ mờ ánh đèn, tiếng sóng vỗ rì rào, buồn bã. Xe chạy đến cuối bãi thì dừng lại. Cô ra lịnh bịt mắt tôi lại.

– Đồng chí đưa tôi khẩu AK. Cứ ở đây chờ, khi nào nghe tiếng súng nổ tôi sẽ ra.

Và cô nói với bà mẹ, giọng lạnh lẽo, hàm răng rít lại.

– Mẹ phải theo con, xem con trả thù kẻ đã giết hại gia đình mình và bao nhiêu đồng chí khác nữa.

Đúng là oan oan tương báo. Tôi đã xử tội tên nằm vùng giết cha tôi ra sao, bây giờ tôi sẽ gặp y như vậy. Nhưng tôi không nhớ rõ mình đã làm gì để cô thù hận tôi  đến độ giờ đây đem  ra xử  bắn tôi, không lẽ cô là con của tên nằm vùng kia?!

Cô lên đạn, chĩa súng vào lưng tôi, đẩy tôi đi trước. Cô  đã phạm một sai lầm chết người. Cô dí súng vào lưng tôi là giúp tôi nắm được quãng cách giữa cô và tôi. Tầm vóc cô thì tôi còn lạ gì. Chỉ cần tôi quay nhanh lại là mũi súng sẽ chệch ra ngoài và với một đòn chân, tôi có thể đá gãy cổ cô hay ít ra cũng hạ gục cô trong tích tắt. Trong bóng tối thì bị bịt mắt hay không cũng mù như nhau. Tôi lần tìm cọng thép trong dây đồng hồ và bắt đầu mở khóa còng tay.

Được một quãng, khi đoán đã xa tầm nghe ngóng của mấy tên bộ đội, tôi vừa định ra đòn thì cô mở băng bịt mắt tôi.

– Anh cõng mẹ được không? Nhanh lên! Nếu có chuyện gì, anh và mẹ cứ chạy thoát đừng lo cho em. Có thuyền chờ sẵn đằng kia.

Cô ôm súng chạy phía trước, tôi cõng bà cụ men theo bờ rừng dương liễu mải miết theo cô. Độ một cây số, chúng tôi đến một thuyền nhỏ có người chờ sẵn. Thuyền được đẩy ra, nổ máy và nửa giờ sau chúng tôi ra thuyền lớn đi thẳng.

Hôm sau chúng tôi được tàu Mỹ vớt về đảo Guam.

PHẠM THÀNH CHÂU



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 21/Apr/2016 lúc 10:22am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 22/Apr/2016 lúc 4:52pm

TỪ BẮC VÀO NAM.


 

Sau ngày 30 tháng Tư cuộc sống của cả miền nam Việt Nam đã đổi đời, đổi từ sướng sang khổ, đổi từ tự do sang kềm kẹp, đâu đâu cũng là những cuộc sống dè dặt và khó khăn, gia đình chị Bông cũng nằm trong cảnh ấy.

 Món tiền của cha mẹ chị dành dụm gởi trong ngân hàng Việt Nam Thương Tín kể như mất toi, món tiền của vợ chồng chị cũng gởi trong Việt Nam Thương Tín thì chị may mắn hơn, tháng 8 năm 1975 chị sinh thằng con thứ hai, chị đã viết đơn ra ủy ban phường xin xác nhận hoàn cảnh vừa mới sinh con nên ngân hàng Việt Nam Thương Tín lúc này do nhà nước quản lý đã cho chị lãnh 10 ngàn đồng.

Tiền của mình bỗng bị cướp trắng trợn, phải nằm trong diện khó khăn, ma chay, sinh đẻ hay hoạn nạn gì đó mới được nhà nước cứu xét  trả lại 10 ngàn đồng cho dù tổng số tiền gởi là bao nhiêu, và rồi số tiền còn lại chết yểu, chết oan ức không bao giờ trở về với chủ.

Vài năm sau khi chị Bông đi thăm chồng tù cải tạo tại trại Z30C rừng lá Hàm Tân Thuận Hải, chị gặp bà vợ ông Nguyễn Văn Mão giám đốc ngân hàng Việt Nam Thương Tín cũng đi thăm chồng, người nổi tiếng đi đến đâu ai cũng biết. Ông giám đốc ngân hàng còn sa cơ thê thảm thế kia thì xá chi món tiền nhỏ nhoi của mình.

Với chế độ mới người ta phải cẩn thận từng lời ăn tiếng nói kẻo bị tù oan. Một thằng bé hàng xóm chị Bông  trong lúc chơi đùa với các bạn ngoài đường nó hát nhại câu hát trong bài “Túp lều lý trưởng”  là “Từ ngày giải phóng vô đây mình khổ thật nhiều” anh bộ đội đi đường nghe thấy, chẳng biết anh đang đi đâu vậy mà cũng mất thì giờ bắt nó đưa lên uỷ ban phường  nhờ giáo dục lại., bố mẹ nó phải làm giấy cam kết dạy dỗ con để bảo lãnh nó về, cũng may nó tuổi vị thành niên, nếu lớn hơn chắc đi tù cải tạo vì tội phản động, xuyên tạc chế độ.

Có hôm chị Bông đi chợ đang mua bó rau muống, bà bán rau người miền Nam  thấy hai anh bộ đội xách giỏ đến gần bà đã vồn vã mời chào :

         Mời hai đồng chí mua rau.muống….

Hai anh đã không mua mà khó chịu gắt gỏng:

         Ai đồng chí với bà, ăn nói phải cẩn thận nhé

         Bà đã đi bộ đội đã chiến đấu với chúng tôi ngày nào chưa mà gọi chúng tôi là đồng chí, hả?

Hai anh bộ đội mặc quân phục đội nón cối chân đi dép râu làm từ lốp xe chắc là “anh nuôi” lo việc bếp núc cho đơn vị hay cơ quan tập thể nào đó, hình ảnh các bộ đội mặc quân phục đi chợ, hai ống quần xắn lên khỏi mắt cá chân cho gọn thật khôi hài, thật ngứa mắt trông như người đi cày đi cấy nhưng nhìn mãi thành quen mắt không ai còn ngạc nhiên nữa.. Các anh đi chợ  bằng xe đạp thồ, rau cỏ chất đầy, thời ấy bếp ăn tập thể hay tư nhân thì rau luôn là thức ăn chủ yếu.

Bà bán rau xưng hô hai từ “đồng chí” với hai anh bộ đội là bày tỏ sự thân thiết, tưởng lấy lòng họ lại bị họ mắng…Khi hai anh bộ đội đi xa bà bán rau buông câu nói hậm hực:

– Bộ tao ham làm đồng chí với mày sao, tao chỉ muốn bán cho mày mấy bó rau thôi, đừng có chảnh nghe con.…

Người thắng cuộc miền Bắc vui mừng háo hức tràn vào miền Nam đủ mọi hình thức, làm việc, công tác, thăm thân nhân hay đi cho biết miền Nam, ngắm cảnh miền Nam để ăn mừng cho bao công lao của họ đã hi sinh chiến đấu.



Từ Nam ra Bắc Con búp bê cho con cái bóp da cho vợ

Nhưng người dân miền Nam chẳng mấy ai muốn ra thủ đô Hà Nội của bên thắng cuộc cả.

Bố chị Bông cũng  không có ý định về thăm quê cũ, ông không lạ gì Việt Cộng, thời buổi sau 1975 tranh tối tranh sáng, trong miền Nam cũng đã có kẻ thời cơ hại người rồi, bố chị đã bị công an đến nhà “mời” lên ủy ban phường “làm việc”, cả nhà rất lo ngại không biết chuyện gì đã xảy ra và sẽ xảy ra. Từ phường bố chị bị chuyển lên ủy ban huyện và biệt tăm biệt tích hơn 1 tháng mới được tha về.

Thì ra có kẻ hàng xóm nào đó đã tố với ủy ban quân quản bố chị là “mật vụ chìm”của “ngụy quân nguỵ quyền” trong khi ông chỉ là cảnh sát viên bình thường trong phủ thủ tướng …

Trong Nam đã thế nói gì đến miền Bắc của phe chiến thắng, những người di cư 1954 nay trở về thăm miền Bắc sẽ bị để ý, bị “nhân dân” khinh miệt trả thù.

Bố chị chỉ gởi cầu may một lá thư về quê cũ cho người em họ để hỏi thăm họ hàng quyến thuộc, gọi là “cầu may”  vì sau bao nhiêu năm ly tán kể từ 1954 chẳng biết thân nhân còn ở quê  không. Thế mà lá thư vẫn có người nhận và người em họ của bố đã trả lời thư.

Ban đầu chị Bông không tin, một mực nói:

         Làm gì một lá thư không số nhà lại đến tay người nhận được? Có chắc đây là thư của chú Côi không?

Bố chị giải thích:

         Chú ấy đã kể về những họ hàng nội ngoại,  bên nội và bên ngoại các con cùng quê mà, chú Côi còn  kể về những kỷ niệm giữa bố và chú ngày xưa thì chính là chú còn ai vào đây nữa .. Ở phố thì bố không biết chứ ở quê thì cả làng cả xã ai cũng biết nhau, lá thư gởi tên người nào thì sẽ đến đúng tay người ấy, chẳng cần số nhà ngoài tên làng tên xã.

         Nhưng lạ ở chỗ cả một thời gian dài từ 1954 đến giờ mà họ vẫn không rời khỏi làng quê…

         Vì tình quê cha đất tổ, vì luật lệ hành chính xã hội ràng buộc nên họ vẫn bám lấy làng quê. Biết đâu vài chục năm sau nữa chúng ta gởi thư về người thân ở làng quê này vẫn  không cần số nhà, tên đường..

1

Sau lá thư của bố thì gia đình chị Bông nhận được những lá thư của các thân nhân khác, chắc chú Côi đã khoe thư của bố chị với mọi người. Thư viết trên trang giấy học trò, có thư chữ viết nắn nót, có thư chữ viết như gà bới nhưng thư nào cũng đầy ắp nhớ thương và không bao giờ thiếu câu mở đầu nghiêm chỉnh trên mỗi lá thư là :” Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam . Độc lập tự do hạnh phúc”,  xong “thủ tục” với nhà nước rồi nhân dân mới viết riêng tư gì thì viết.

Chị Bông đã ngạc nhiên hỏi bố:

         Thân nhân của bố viết thư như viết tờ đơn, họ làm việc cho chính quyền nên quen tay chăng?

Bố chị chép miệng:

         Họ là nông dân thôi, nhưng là ai thì cũng là người của miền Bắc bao nhiêu năm sống với xã hội chủ nghĩa.

Không ngờ chỉ một lá thư bố chị gởi về hỏi thăm những thân nhân nội ngoại ấy mà đã nhận lại những  tình cảm qúa đổi thắm thiết, sau những thư từ là những người khách không mời đã lần lượt từ Bắc vào Nam thăm gia đình chị Bông..

Năm 1978 gia đình chị đón một khách đầu tiên từ miền Bắc vào. Lúc này xe lửa Thống Nhất Bắc Nam đã thông, gía vé bao cấp còn  rẻ.

 Một hai đứa trẻ con hàng xóm chạy xộc vào nhà chị Bông hí hửng báo tin:

         Chị Bông ơi, nhà chị có khách ngoài Bắc kìa. .Bà ấy gánh hai bao tải to lắm

. Chị Bông cũng vui mừng thông báo ngay với bố:

         Bố ơi khách Bắc này chắc giàu lắm, họ gánh hai bao tải qùa vào cho nhà mình.

Bà cô ruột của chị Bông đã gồng gánh từ Bắc vào Nam , bà hỏi thăm từ đầu đường đến cuối xóm nên cả khu xóm ai cũng biết nhà chị đang có khách Bắc.

Bố chị  dặn dò:

         Đây là em ruột của bố, chúng ta “giấy rách phải giữ lấy lề” tiếp đãi cô hậu hĩ . Ngày xưa khi bố theo ông nội đi làm ăn xa quê cô Cam đã mấy lần dẫn mẹ các con từ làng quê đi Hà Nội đến Bắc Giang rồi Móng Cái  thăm bố…

Thời điểm lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm đều phải mua bằng sổ hạn chế theo từng đầu người không đủ ăn đủ dùng nên bố chị đã cẩn thận dăn dò thế, kể lể ân tình thế để phòng xa vì đã từng có cảnh khách đến nhà người ta không muốn mời ăn ở sợ hao tốn. Miếng ăn cái mặc bỗng lên ngôi, gía trị tình cảm con người bị chà đạp xuống thấp.…

Vào đến nhà cô Cam đòi thắp hương cho ông nội chị và mẹ chị, cô nước mắt ngắn dài khóc thương người cha xa cách từ năm 1954 và bà chị dâu hiền lành vắn số.

Mấy đứa em háo hức thì thầm với chị Bông:

         Chị ơi, cô Cam mua những gì mà nhiều thế?

Chị Bông sốt ruột:

– Không biết, đợi cô thắp hương xong sẽ mở qùa…

Các em và hai con chị Bông tò mò và nao nức chờ cô Cam cho qùa, không biết là những qùa gì trong hai cái bao tải to tướng bằng vải ấy. Cô mở cái tay nải nhỏ trước, lấy ra mấy quả chuối tiêu chín nẫu đã nhũn mềm và tiếc rẻ:

         Chưa kịp ăn thì nó chín cả rồi, trong Nam nắng nóng qúa, mấy qủa chuối này cô mua ăn lúc đi đường, vẫn còn ăn được các cháu ăn đi…

Thấy chẳng đứa nào muốn nhận mấy qủa chuối thâm đen cô Cam lại moi trong tay nải ra mấy bịch bỏng, mỗi nắm bỏng to tròn bằng nắm tay, cô Cam hớn hở mời mọc::

         Đây là qùa cô mua cho các cháu, bỏng ở làng quê ta trẻ con nào cũng thích, gạo rang thành bỏng trộn với đường mật và gừng thơm ngon lắm.

Đứa em gái út  của chị Bông thất vọng:

         Ở đây cũng có bỏng này, thế còn món gì trong hai cái bao kia hả cô?

Thằng Bi 3 tuổi con của chị Bông cũng bắt chước dì nó vòi vĩnh:

         Bi muốn cô mở cái bao to kia cho cháu qùa…

         Này con, dì út gọi là cô Cam nhưng con phải gọi là bà Cam , từ từ bà Cam sẽ cho con qùa mà..

Chị Bông mắng con đừng nóng lòng mà lòng chị vẫn chờ mong hai bao tải kia được mở ngay ra.

Cô Cam trả lời con cháu út nhưng nhìn chị Bông để giải thích:

         Cái món này các cháu không ăn được, không phải qùa cháu ạ, đây là tỏi vườn cô thu hoạch, năm nay tỏi ở quê ta được mùa nên mất gía, bán rẻ như cho mà người ta còn chê không muốn mua, nhân thể chuyến đi cô mang vào Nam may ra bán khá hơn, thu đồng vốn nào hay đồng vốn ấy..

Tội nghiệp cô Cam đã mang cả gánh tỏi từ Bắc vào Nam .

Chị Bông  thất vọng thì ít nhưng các em và hai con chị thất vọng thì nhiều, chúng đành nhận mấy nắm bỏng đặc sản của làng quê cô Cam còn hơn không có món gì.

.Cô Cam bảo chị:

         Mai cháu dẫn cô ra chợ bán tỏi nhé, ở đây cô xứ lạ quê người.

Chị Bông bùi ngùi thương cô:

         Vâng, cô muốn chợ gần chợ xa gì cũng được…

Cô Cam đã gánh tỏi ra chợ tìm các bạn hàng và bán sỉ cho họ với gía rẻ bèo nhưng cô bảo cũng đỡ hơn gía ở quê rồi cô buồn rầu kể:

– Những mùa bội thu lại là mùa mất tiền cháu ạ, công sức mình như đổ sông đổ biển, có năm thu hoạch khoai tây gía qúa rẻ, vừa bán đổ bán tháo vừa  tranh thủ luộc khoai tây ăn trừ cơm ngao ngán đến tận cổ thế mà vẫn ăn không kịp, khoai tây mọc mầm tua tủa…

Thấy cô Cam tiêu thụ được gánh tỏi bố chị rất vui, chỉ sợ cô em nghèo khổ phen này mất hết vốn liếng trồng trọt.

Những ngày cô ở chơi mấy chị em chị Bông đã đưa cô đi chơi Sài Gòn, đi sở thú và đến thăm vài nhà họ hàng hay người làng người nước, đến nơi nào cô Cam cũng thích. Cô cảm động nói:

– Cám ơn anh và các cháu đã cho em đi tham quan nhiều nơi, xưa nay em chỉ quanh quẩn bên ao làng, bên ruộng nương..Sao mà  đường phố Sài Gòn hoành tráng thế cơ chứ..

Đời cô Cam là một bể khổ, lấy phải người chồng vũ phu lại phụ bạc, ăn ở với vợ có 3 con rồi bỏ đi lấy vợ bé, cô làm lụng ruộng vườn quần quật mà  nuôi con vẫn bữa đói bữa no. Ông chồng bệnh chết, người vợ bé hiền lành nhu nhược chẳng biết nương tựa ai mang 2 con về nhà vợ cả xin ở chung. Hai bà vợ của ông chồng qúa vãng cùng ở chung nhà thuận hòa như hai chị em ruột và nuôi 5 đứa con, nếu không biết thì chẳng ai phân biệt những đứa trẻ ấy là con bà nào vì hai bà đều thương yêu chúng như nhau, hai bà đều cật lực làm việc để nuôi chúng…

Ông chồng thật tốt số, lấy hai bà vợ cùng hiền lành phúc hậu, hai bà vợ góa  cùng yên phận thờ chồng, ông tha hồ sung sướng yên nghỉ nơi chín suối..

Có lẽ giai đoạn cuộc đời cô Cam sống chung với “tình địch” lại bình yên hạnh phúc hơn khi sống với người chồng.

Bà vợ bé cũng đoản mệnh như chồng, hiện 5 con vẫn sống với một bà mẹ là cô Cam ..

Ngày cô trở về Bắc bố chị đã mua vé tàu cho cô và tặng cô món tiền nhỏ, cô đã rưng rưng nước mắt trách anh trai từng xông pha  theo cha  buôn bán khắp phương Bắc, giỏi giang nhanh nhẹn thế mà cái ngày di cư cha và anh đi thoát sao không dẫn cô theo để đời cô bao nhiêu năm nghèo khổ cho đến bây giờ.…

Sau cô Cam những năm sau đó chị Bông không thể nhớ theo thứ tự những ai đã từ Bắc vào Nam thăm gia đình chị, họ hàng gần, họ hàng xa đều được bố chị tiếp đãi thân tình và cho tiền tàu xe lượt về quê,  có người chỉ là người làng, họ đi buôn hàng vào Nam cũng “quá cảnh” nhà chị để có chỗ tạm trú ăn ở không mất tiền và ít nhiều cũng có qùa mang về, những bộ ly tách đẹp ngày nào chị Bông đã mua trong các cửa hiệu trong thương xá Tax trưng bày trong tủ chè cũng mang ra tặng cho khách vì họ khen đẹp và khao khát được một bộ tách như thế, cả những tấm khăn lông to đẹp chị vẫn cất để dành trong tù chưa dám dùng đến cũng là món qùa tặng cho khách. để làm kỷ niệm.  Cuối cùng tủ chè và tủ quần áo của nhà chị rỗng dần chẳng có gì đẹp hay đáng giá nữa.

Chị Bông lo xa::

– Bố ơi,  nếu cứ cái đà này thì ….cả làng sẽ vào thăm nhà mình, gạo mua theo sổ thì ít , gạo chợ đen thì đắt đỏ..…

Bố chị luôn an ủi:

         Người ta có qúy mình mới  vào thăm, một giọt máu đào hơn ao nước lã…cao lắm mỗi người chỉ vào thăm một lần, đừng để bố mang tiếng cả đời.

Một hôm có chiếc xe xích lô máy đậu xịch ngay trước cửa nhà chị Bông, trên xe bước xuống là một bà Bắc kỳ quần đen ống quần ngắn lấc cấc, chân đi đôi dép nhựa màu trắng, tay xách một cái làn mây. Bà nhớn nhác nhìn số nhà chị rồi lao vào nhà gọi to:

         Anh ôi, các cháu ôi…

Bố chị chạy ra ngỡ ngàng:

         – Chào chị, chị đây là ai nhỉ…..??

         Em là vợ Côi đây, Côi và anh hay chơi đùa với nhau ngày xưa ấy.. Nhà em kể rằng.hai anh em họ mà cứ thân thiết hơn cả anh em ruột.

Và thím Côi òa khóc như mưa :

         Ôi anh ôi, ối các cháu ôi…!!

Bố chị luống cuống:

– A, thím Côi đây hả… nhưng chuyện gì thế thím Côi?  Nhà quê có tin gì xấu chăng?… mong thím bình tĩnh kể tôi nghe…

Chị Bông cũng ái ngại hỏi thăm:

–   Hay thím vừa bị kẻ cắp móc túi ở bến xe ??

Thím vẫn nước mắt tuôn rơi::

         Ôi anh ôi, ôi các cháu ôi. Chẳng có việc gì xảy ra cả, em vào thăm anh và các cháu đây, chỉ vì cảm động quá khi găp nhau em không sao cầm được nước mắt….

Thì ra thế. Một bà thím họ xa cách cả không gian và thời gian thậm chí chưa biết mặt các cháu sao mà tình cảm tha thiết đến thế, làm chị Bông  cũng cảm động theo.


Thím Côi khác hẳn với cô Cam, thím mang cho các cháu nhiều qùa bánh và luôn âu yếm xoa đầu nắm tay các em chị Bông và hai con chị Bông làm như chúng từng quen thuộc với thím, từng ở trong vòng tay của thím. Thím còn móc túi lấy ra những đồng tiền lẻ cho các cháu để muốn mua gì thì mua, trẻ con thích thím Côi ra mặt.

Khách Bắc nào cũng được gia đình chị Bông tiếp đón tương tự, dẫn đi thăm chợ Bến Thành, đi chơi sở thú và đi thăm họ hàng làng nước.

Bố của bố chị và bố của chú Côi là hai anh em ruột, thím Côi đã tha thiết nói với bố chị:

         Anh cho em xin một tấm hình của ông để em mang về Bắc thờ cúng với ông em., bây giờ đất nước ta hòa bình nhà nhà đoàn tụ, hai anh em ông ấy cũng đoàn tụ trên bàn thờ hương khói anh nhá.

Thế là hình ông nội chị Bông được trao cho thím Côi, ông sẽ trở về quê cũ, ngồi trên bàn thờ với ông em ruột sau những thăng trầm bể dâu của thời cuộc, của cuộc đời.

Một tuần sau thím Côi bảo chị Bông:

         Thím vào Nam  thăm gia đình cháu nhân thể muốn mua món đồ điện tử mang về nhà dùng, nghe nói hàng điện tử ở  Sài Gòn có nhiều loại xịn lắm…

         Vậy thím muốn mua gì cháu sẽ dẫn thím ra đường Huỳnh Thúc Kháng bán đủ thứ hàng điện tử tha hồ cho thím chọn lựa.

         Chỉ còn 2 ngày nữa thím về Bắc mà còn bận đi thăm mấy người nhà bên thím ở Khánh Hội và đi mua sắm thêm nhiều món quần áo nên bận rộn lắm. Cháu là người thành phố rành rẽ hơn thím, cháu cứ mua hộ thím 1 cái đài cát sét loại nào hiện đại nhất là được, bao nhiêu tiền không thành vấn đề. Thế thôi, cháu nắm bắt được ý của thím chưa? Cháu quán triệt chưa?. .

         Vâng cháu hiểu rồi…

Thím Côi rộng rãi và xài sang qúa, chị Bông ngầm nể nang thím. Như đọc được ý nghĩ của chị Bông, thím Côi khoe:

– Cháu ơi, nhà nước ta đang từng bước xóa đói giảm nghèo, chẳng mấy chốc mà ai cũng có điều kiện như thím mua đài nghe tin tức khỏi cần nghe loa từ uỷ ban thông tin văn hoá xã nữa. Loa đọc ra rả rát cả tai..

Chị Bông vui vẻ vì được thím tin cậy:

         Cháu sẽ mua 1 cái đài cát sét bảo đảm thím sẽ vừa ý.

Thím Côi nói xong không đưa tiền hay nói năng gì  thêm, chắc là thím quên, chị Bông không dám nhắc sợ thím buồn thím giận  người nhà không tin cậy nhau  trong khi thím đến nhà chị đã bộc lộ bao nhiêu là tình cảm, đã xin hình ông nội chị để thờ cúng, đã móc túi cho các em chị cho con chị  tiền mua quà vặt.

Chị Bông bàn với bố:

         Thím đi cả ngày thăm họ hàng bên thím mà ngày về quê cận kề hay là con cứ bỏ tiền ra mua cái radio c***ette rồi về thím trả sau bố nhỉ?

Bố chị gật gù:

         Phải đấy, chắc thím ấy bận rộn nên quên chưa đưa tiền hoặc là thím chẳng biết gía cả bao nhiêu mà đưa nên đợi con mua hàng về thím mới trả tiền sau …

Chị Bông đã đi đến mấy con đường nổi tiếng chuyên bán hàng điện tử để chọn mua 1 máy c***ette ưng ý nhất giá tương đương 5 chỉ vàng, mang về nhà chị khoe thím món hàng đẹp nhưng thím chỉ nói cám ơn vẫn không đá động gì đến tiền bạc dù chị đã mấy lần nhấn mạnh cháu phải bán đi mấy chỉ vàng để mua cái máy này.

Ngày mai thím Côi sẽ ra ga Hòa Hưng về Bắc, chị Bông  thấp tha thấp thỏm đợi chờ thím trả tiền từng giờ, từng phút, chị đã vờ nhắc nhở:

         Thím xem lại hành lý có quên gì không.?

         Đủ cả cháu ạ…

Thím ngọt ngào như đường như mật :

         Các cháu có quên thím thì quên chứ thím chẳng bao giờ quên các cháu.

         Thế …thế…cái máy cát sét thím lên tàu phải cẩn thận đề phòng kẻ cắp nhé, những 5 chỉ vàng đấy……

         Cháu vô tư đi, kẻ cắp nào dám đụng đến thím? Thím từng đi buôn mạn ngược rừng xanh núi đỏ thím còn không sợ nữa là…

Cuối cùng chị Bông chịu đựng hết nổi bèn ngượng ngùng nói::

         Thím ơi, còn tiền cái máy cát sét của cháu thím chưa đưa…..

         Ấy chết thím quên chưa báo cáo với cháu là thím đã mua hàng hết tiền rồi, thím  mua một mớ quần áo may sẵn về quê bán kiếm tí lời tí lãi  bù lỗ tiền tiêu vặt chuyến đi này cháu ạ.

Chị Bông thót cả tim:

         Vậy là….??

         Thím cháu mình đi đâu mà mất, về quê thím sẽ gom tiền gởi trả cháu ngay, cháu muốn tính tiền lời thím cũng trả.

         Cháu mua bao nhiêu thím trả bấy nhiêu là được rồi.

Năm chỉ vàng thời điểm này và  trong hoàn cảnh của chị Bông thật lớn lao vậy mà thím đã  khơi khơi mượn nợ chị một cách nhẹ nhàng và tài tình qúa.

Những gia đình Bắc kỳ di cư 1954 như gia đình chị Bông đều có khách từ Bắc vào thăm, phần nhiều chủ nhà đều phải tiếp đón và cho qùa tùy theo hoàn cảnh gia đình.

Nhà chị Mai bạn thân của chị Bông thì may mắn hơn, bà bác ở Hà Nội mang vào Nam rất nhiều qùa cho em và các cháu, bà mang vải hợp tác xã, bát đũa và cái phích nước Trung Quốc thịnh hành thời đó…

Vào đến Sài Gòn bà chị Hà Nội mới ngã ngửa khi thấy căn nhà 3 tầng lầu  nguy nga  của gia đình em ngay trên con đường lớn gần bệnh viện Từ Dũ

 Bà Hà Nội nói với bà  Sài Gòn::

         Chị nghe tuyên truyền trong miền Nam đói khổ thiếu ăn thiếu mặc nên chị đã mang vải và mua chợ đen mấy ký lương khô cho nhà em bồi dưỡng đây. Ai ngờ..

Bà em Sài Gòn thành thật:

         Vải hợp tác xã toàn mùi dầu mua về các con em không chịu may mặc em phải bán lại con buôn, còn  lương khô thì có ngon lành gì đâu, ăn vào chỉ tổ khát nước.…

         Ừ,  nhưng lương khô tổng hợp nhiều chất bột bổ dưỡng, bộ đội chiến trường nếu mất nguồn liên lạc có lương khô và nước thì vẫn  sống và chiến đấu đấy em….

Bà chị Hà Nội đi dạo khắp nhà và trầm trồ khen nhà em gái to lớn còn hơn cả cơ quan nhà nước ở Hà Nội. Bà bùi ngùi :

-.Chị cứ tưởng đời chị là yên ổn sung sướng hơn người, hai vợ chồng đều là cán bộ, chế độ tem phiếu đầy đủ, chính phủ cấp nhà ở ngay Hà Nội dù chật hẹp và chung hộ với gia đình khác nhưng khối kẻ mơ mà không có. Vào miền Nam thấy nhà em chị tủi thân qúa., 3 tầng lầu có 3 cái chuồng xí, còn nhà chị phải dùng chuồng xí tập thể..…

Để đáp lễ bà chị, mẹ Mai đã tặng chị nhiều hàng hóa gía trị gấp mấy lần món qùa bà đã nhận.

Gia đình chị Bông đã sang Mỹ định cư, không còn ai ở lại Việt Nam dĩ nhiên không kể những thân nhân miền Bắc. Mối liên hệ tình cảm vẫn tiếp tục, những người khách không mời năm xưa vẫn nhận qùa mỗi cuối năm.

Bố chị nói đúng, cho tới bây giờ gia đình chị vẫn gởi thư về thân nhân miền bắc chỉ cần ghi tên người nhận và địa chỉ vẫn không có số nhà, vẫn là tên làng tên xã không hề thay đổi.. Thật bền bỉ đến kinh ngạc và thán phục khi hơn 3/4  thế kỷ mà người ta vẫn ở yên một chỗ nếu tính những người cùng trang lứa với bố chị sinh từ năm 1927 tại làng quê này.

Sau vụ biến cố September 11, 2001 gia đình chị Bông nhận được lá thư từ miền Bắc của chú Côi, chữ chú vẫn gà bới như xưa, phần đầu thư vẫn trịnh trọng tuyên truyền giùm nhà nước như xưa:

“Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam .. Độc lập tự do hạnh phúc.

Anh kính nhớ và các cháu luyến nhớ, trước tiên em có lời hỏi thăm sức khỏe cả nhà, được tin cả nhà ta bên ấy bình an không bị ảnh hưởng gì trong vụ khủng bố chúng em bên này  vui mừng lắm…”

Và cuối thư chú Côi đã bày tỏ cảm tưởng:

“Nghe đài thấy vụ khủng bố toà nhà cao tầng ở Mỹ vào ngày mồng 11 tháng 9 chúng em cực kỳ kinh hãi. Em xin gởi lời chia buồn đến tất cả nhân dân Mỹ và chúc nhân dân Mỹ kiên cường phấn đấu vượt qua giai đoạn khó khăn này.”.

Những câu văn này chắc là chú Côi bắt chước những bài viết trên báo, trên đài, sặc mùi nhà nước..

Bây giờ những thân nhân ngoài Bắc của gia đình chị Bông có muốn đến thăm nhà chị cũng không được, ai bán vé xe lửa cho họ từ Bắc…sang nước Mỹ như ngày nào họ mua vé xe lửa từ Bắc vào Nam.

Từ Bắc vào Nam năm 1975 những đoàn quân miền Bắc  đã vơ vét bao nhiêu “chiến lợi phẩm” nhà cửa, đất đai ruộng vườn, của cải của dân miền Nam bỏ lại hay bị cưỡng chế.

Từ Bắc vào Nam những người dân miền Bắc dù bất cứ thành phần nào, thăm thân nhân họ hàng sau bao nhiêu năm xa cách cũng nhặt nhạnh xin qùa, xin của mang về.

Người bên thua cuộc là kẻ cho và người bên thắng cuộc là người nhận. Điều nghịch lý lại là sự thật, thế nên trong thời điểm đó nhân gian miền Nam đã có câu “Người miền Bắc thích “cua bể” miền Nam.”.

    Nguyễn Thị Thanh Dương.


* “Cua Bể” : Bê của



Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 22/Apr/2016 lúc 5:02pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 26/Apr/2016 lúc 7:38am
Giọt nước mắt của lính




Đây là chuyện thật của người bạn học cũ của tôi và người lính Biệt Động Quân VNCH, sau 40 năm thất lạc nhau vì chiến tranh, một bất ngờ duyên trời đã cho anh chị gặp lại nhau, và tôi được nghe anh chị kể cho tôi về một phần đời của họ đầy vui, buồn, sợ hãi, chán chường của một người con gái đẹp đã vì hoàn cảnh mà ra nông nỗi ấy, của một người trai thời loạn thất chí, vì không làm tròn trọng trách đối với núi sông. Hôm được anh chị mời đến nhà chơi, qua một tách trà sen Huế (anh chị và tôi đều gốc Huế), anh nhìn vợ, âu yếm bảo:

- Em kể lại chuyện tình mình cho Mousti ( nick của tôi ) nghe đi, anh nghĩ Mousti sẽ thích chuyện tình đẹp của mình, đẹp như một cổ tích...và chị bắt đầu kể, anh ngồi nghe, lâu lâu thêm vào một vài chi tiết.

Anh nhìn tôi, tay vuốt tóc chị, nói với tôi:

- Cánh Hoa Thời Loạn. Xong quay lại nói với chị:

Anh phải đem em về lại Huế ngày nào đó nhé cưng.
Hạnh phúc thật là nhỏ bé mà đồng thời cũng thật lớn vô cùng.
Gặp nhau chỉ có một giờ
tình yêu bất tận chẳng ngờ tái sinh...( Thơ của anh )




Tôi mất anh đã hơn 40 năm rồi, ngày mà quê hương còn rền vang tiếng súng, tiếng đại bác... của những trận chiến ác liệt như Pleime, Đồng Xoài, Bình Giả...

Lúc đó tôi còn là một người đàn bà 25 tuổi, mở một quán rượu gần đồn lính, thời bấy giờ không biết làm gì để nuôi cuộc sống còn của mình, cha mẹ chết, có người yêu đi lính cũng đã gục ngã trên chiến trường, nhà cửa tiêu tan vì chiến tranh, buồn quá, nhân có con bạn học cũ hoàn cảnh gần như tôi, nhưng nó còn đau hơn tôi là chồng nó bỏ gia đình đi tập kết ra Bắc, bỏ lại vợ con nheo nhóc buôn thúng bán bưng sống qua ngày. Hai đứa tôi, nhìn vẫn còn mặn mà lắm, ngày còn đi học là hai hoa khôi của Gia Long. Bây giờ nghĩ lại thời gian đẹp này chỉ còn trong hoài niệm. Tôi bây giờ đau đớn nói ra, mình đã là một cô gái giang hồ, nôm na là "gái điếm". Khách của Vân và tôi gần như là lính, vì thành phố tôi đang ở gần một trại lính. Vân rủ tôi mở quán rượu ở đây vì vậy, lính là những người không có tương lai, sống chết không biết ngày nào nên họ ăn chơi bạt mạng, hễ cuối tháng lãnh lương ra là đến quán nhậu, rượu chè, gái... họ sống như vậy, lao mình vào những ly rượu mạnh hay những cuộc truy hoan để quên nỗi sợ những tiếng súng, những tiếng đại bác, những hầm chông cọc nhọn đang chờ, quên đi tử thần đang rình đâu đó... Cũng may là Vân và tôi không còn gia đình, nếu không tôi không biết phải ăn nói làm sao với cha mẹ mình về cái nghề tôi đang làm! Lúc mới đầu chưa quen với nghề này, tôi ghét lắm những bàn tay vô tình để lên không đúng chỗ trên thân tôi, hay tiếng đùa giỡn quá trớn của những anh lính uống say, khi tôi đi ngang qua bàn, víu vai tôi xuống, ôm mặt tôi đặt chiếc hôn nặc nồng mùi rượu... có lúc tôi chán nản, muốn bỏ nghề đi tìm một nghề khác dù không đủ tiền nuôi mình, nhưng sau đó, ngày qua ngày, tháng qua tháng rồi cũng bắt đầu quen. Tuy vậy nhiều khi nhìn Vân ngả ngớn với mọi người, ăn mặc hở hang, lắm lúc nó ngồi luôn trên chân khách, ỏn ẻn như muốn làm tình luôn ngay tại chỗ. Tôi nhìn những cử chỉ ấy, rồi thấy tởm cho chính mình luôn. Có những chàng lính trẻ khuôn mặt còn non, có thể nặn ra sữa được, phần đông là học sinh bị rớt Tú Tài, đến tuổi phải đăng lính thì nhiều lắm là cỡ tuổi em trai út mình thôi, vậy mà phải chịu đựng khói thuốc trong căn phòng bẩn không mấy sạch, vì làm gì có thời gian để thay đổi chiếu, chăn, nhiều đêm phải tiếp vài người khách là gần trắng đêm rồi, vì họ cho rằng tiền trao cháo múc, có những lần tôi gọi là xáp lá cà vì sự hùng hục không chút dịu dàng, sao cho thoả mãn sinh lý là được, không tình cảm trong đó, chính tôi, tôi cũng chẳng muốn có tình cảm, tôi tuy là một gái điếm nhưng tôi vẫn trọng phần hồn mình, chuyện làm tình với bất cứ ai chỉ là chuyện kiếm cơm mỗi ngày, không ăn thua gì đến trái tim mình cả, quan niệm tôi là vậy. Tôi cũng không bao giờ hy vọng hay ước mong ngày nào đó sẽ có một người sẽ đến yêu tôi và đưa tôi ra khỏi chốn bùn nhơ này. Rồi ngày tháng vẫn trôi qua, cuộc đời của Vân và tôi vẫn vậy, vẫn nhịn nhục chiều chuộng những người đàn ông thoáng qua đời chúng tôi trong vài giờ ngắn ngủi rồi ra đi, không để lại chút gì luyến tiếc. Tiền trao cháo múc mà! Rất hiếm những lần truy hoan có người nhìn tôi âu yếm, hay cử chỉ dịu dàng, chỉ có vừa mới chưa kịp cởi đồ là mình đã như con vật bị lên bàn mổ vậy, hùng hục, hùng hục, đúng như nghĩa của chữ này vậy, xong rồi, nằm thở dốc, hút điếu thuốc, mặc lại quần áo và mở cửa bước ra, không một lời chào hay một cái ngoắc tay từ giã... Toán lính này đi, toán lính khác đến, không có gì thay đổi trong cuộc sống, không biết Vân nghĩ thế nào, phần tôi, tôi nhầy nhụa thêm như mình đang lội trong vũng bùn cuộc đời vậy.

Vậy mà, một hôm anh đến, anh vừa đổi đến đơn vị này; hôm ấy là ngày phép của anh, anh theo đồng bạn đến quán, gọi một chai Martell thứ nặng nhất, mắc nhất uống với nhau. Con Vân đi ngang bàn, ngả ngớn với bạn anh, vuốt tóc anh, anh để tự nhiên cho Vân làm, chỉ mỉm cười chào lịch sự. Bàn anh gọi thức nhậu, Vân lo tán tỉnh với bạn anh, nó ngoắc tay nhờ tôi làm giùm. Tôi mang mấy dĩa đồ nhậu đến bàn anh, tôi thấy ánh mắt anh đậu lại trên mắt tôi một khắc, mỉm cười cám ơn; cả bàn gom tiền lại trả, anh móc túi cho riêng tôi một số tiền khá, anh cầm tay tôi, mở tay tôi ra, đặt tiền vào đó và đóng tay tôi lại, rồi thôi.

Chiều ấy, anh nói với Vân muốn tôi tiếp anh, tôi bằng lòng, đưa anh lên phòng. Trong lúc anh ngồi trên ghế, tôi lấy "drap" và áo gối mới thay, vì chăn chiếu cũ đã có nhiều người nằm trên ấy, mùi thuốc lá, mùi đàn ông, những dấu vết vàng vàng của những lần làm tình trước dơ dáy.

Không hiểu vì sao tôi lại đối với anh đặc biệt như vậy, tôi cũng tự đang hỏi mình. Anh có một khuôn mặt thật... Tôi không biết tả ra sao, cái nhìn ấm áp khi anh nhìn tôi. Sửa soạn giường gối sạch sẽ, tôi như bình thường, mời anh lại giường, tôi đứng cởi đồ trước mặt anh, xong tôi dìu anh nằm dài xuống, và từ từ cởi quần áo cho anh, anh để yên cho tôi làm, xong tôi ngồi xuống giường, nằm xuống cạnh anh, anh dang tay anh ra cho tôi đặt đầu lên, xong quay lại vuốt tóc tôi, hôn lên môi tôi dịu dàng, làm tôi hụt hẫng, bất ngờ trước những cử chỉ trìu mến ấy, rồi anh bắt đầu cuộc chơi. Tôi thú nhận là lần đầu tiên từ ngày tôi làm điếm, tôi có cảm tưởng như tôi là người con gái còn trinh được người yêu "yêu" mình lần đầu, có một rung động không tên chuyền vào tôi, tôi đáp trả lại anh, tôi không gọi lần này là cuộc truy hoan của một người đàn ông và cô gái điếm. Xong cuộc, anh lấy tấm khăn để trên bàn lau cho tôi và anh, xong anh bảo tôi nằm yên đó, anh chồm dậy lấy bao Capstan châm lửa hút, chợt anh nghe tôi ho, anh giập tắt ngay điếu thuốc chưa kịp hút.

- Tôi làm em ho? Em không chịu được khóí thuốc?

Tôi giật mình xin lỗi nói không phải vì khói thuốc mà ho mà tại tôi có cái tật từ nhỏ là nhạy cảm, và lúc nào bị xúc động là tôi ho. Nghe tôi trả lời, anh ôm đầu tôi lại gần và hôn tôi như anh đang hôn người tình của anh vậy. Rồi hứng lên, anh lại đưa tôi vào cuộc chơi thứ nhì.

Sau lần yêu này, anh đặt đầu anh giữa hai vú tôi, hôn lên đó, và hai vai anh bỗng rung lên, anh khóc nức như đứa trẻ làm tôi sửng sốt. Tôi ôm đầu anh, trìu mến, hỏi anh nguyên do nhưng anh không muốn trả lời...

Anh và tôi nằm yên như vậy một lúc lâu, tôi không còn nghe anh khóc nữa, tôi nhìn anh, anh đang ngủ trên ngực trần tôi. Tôi lấy tay gỡ nhẹ đầu anh, đặt đầu anh lên gối, nhìn anh ngủ, lòng tôi chùng xuống, một tình cảm mới mẻ hiện ra trong tôi không có tên.

Tôi đứng dậy đi tắm và trước khi xuống quán, tôi nhìn anh ngủ, tôi cúi xuống đặt lên môi anh một chiếc hôn hình như có thương yêu trong đó, tôi cũng không hiểu luôn cử chỉ này tại vì sao nữa! Từ ngày hành nghề, tôi luôn tránh nếu có thể những chiếc hôn môi, cái cảm giác lợm giọng hôi nồng nặc thuốc lá và rượu làm tôi muốn ói, nhiều khi khách hôn mình, tôi muốn đấm vào mặt khách một cái, đạp cái thân thể trần truồng xuống đất và chồm dậy mặc nhanh áo quần, chạy trốn như vừa gặp phải ma. Vậy mà chính tôi lại hôn anh.

Tôi xuống quán xem Vân có cần đến tôi không, nhưng tối nay ít khách nên Vân để cho tôi yên.

Tôi xuống bếp làm vài món ăn đem lên phòng. Anh đã tỉnh, vẫn nằm yên trong tư thế con nhộng, trên môi một nụ cười hóm hỉnh, nhìn tôi như nói:

- Em thẹn thấy anh trần truồng phải không? Tôi cười nhẹ không trả lời, trả lời sao bây giờ trong hoàn cảnh tôi, một cô gái điếm mà lại mắc cỡ đứng trước người đàn ông trần truồng như gái nhà lành!

Tôi nói anh đi tắm rồi ra ăn cơm với tôi. Trong lúc anh tắm, tôi lại giường, nằm xuống úp mặt lên gối, ngửi mùi tóc anh và mùi mồ hôi anh còn thoảng trên đó, có chút gì thật dễ thương khó quên!

Xong buổi cơm chiều, hai đứa cởi hết đồ, ôm nhau nằm trên giường, chợt nghe anh thở dài, tôi hỏi anh tại sao và anh chưa hề hỏi cho biết tên tôi cũng như tôi chưa biết tên anh, anh nói:

- Anh với em, mình không có tương lai, mai anh đi rồi, biết sống chết ra sao, và em cũng vậy, ngày anh may mắn còn sống trở về, chắc gì mình còn gặp lại nhau, thì thôi nếu em có chút tình cảm cho anh thì cứ giữ vậy làm kỷ niệm, anh không hề xem em là cô gái giang hồ, chỉ xem em là người con gái bất hạnh của cuộc đời trong chiến tranh mà thôi.

À, mà đây, vừa nói anh vừa tháo ở cổ anh sợi dây chuyền vàng có miếng mề đay nhỏ bằng vàng hình trái tim, có khắc số quân của anh. Tôi ngơ ngác, giương mắt nhìn anh:

- Đó là quà cuối cùng của Mẹ anh cho anh trước khi bà mất trong Tết Mậu Thân, Huế, bà cho thợ vàng khắc số quân của anh khi lỡ anh chết trận, có trên cổ anh vừa tấm thẻ bài lính và số quân này, như vậy chắc ăn hơn, bà nghĩ vậy. Bây giờ anh gửi tặng em, giữ lấy như quà cưới, vì hôm nay anh không ngờ trước một sự gặp gỡ dễ thương và đáng nhớ như vầy, xem như hôm nay là ngày cưới anh và em, và đêm nay là đêm động phòng của mình. Anh cảm nhận được tình cảm em qua mấy lần yêu nhau chiều nay, em đã đặt tình cảm em trong đó; anh hiểu rõ lắm, vì trước đây, anh cũng đã sống trong trụy lạc, mê đắm trong thuốc lá, trong rượu, cùng gái điếm với những đêm truy hoan nhưng thú thật em, chỉ vì lâu ngày thèm khát đàn bà, với em hôm nay, anh không thèm khát chuyện xác thịt, lúc đầu anh cũng nghĩ sẽ như những cuộc truy hoan với những cô gái giang hồ khác (trong cuộc nói chuyện, anh vẫn tránh chữ gái điếm, và tôi thầm cảm ơn, sự tế nhị này của anh.) nhưng hôm nay thì không, anh có cảm tưởng người đang nằm bên anh là người yêu của anh.Anh xem em như người bạn đời của anh dù chỉ gặp nhau trong một đêm, và cuộc tình ngắn ngủi này sẽ theo anh suốt dọc quãng đường anh đi tiếp.

Tôi tháo chiếc nhẫn bạc kỷ niệm sinh nhật 18 tuổi của mình, đeo vào ngón tay út anh.

Tôi tắt đèn, và hai đứa lại lao vào những trận yêu bỏng cháy đầy tình cảm...

Liên tiếp tuần sau đó, tôi gặp lại người lính không tên này ngày chủ nhật. Anh đến quán cùng với vài người bạn lính khác, các anh và anh, nhất là anh vẫn oai hùng trong bộ quân phục với áo hoa rừng và chiếc mũ nâu, cũng vẫn khuôn mặt dễ mến mà từ tuần trước khi anh ra về, tôi ra điều kiện với Vân, nếu Vân còn muốn tôi giúp Vân trông nom quán tiếp Vân, tôi sẽ không tiếp khách nữa. Vì hình như tôi vẫn đợi anh đến, tình cảm tôi hình như có sư đổi thay, và hình như tôi có linh tính là cuộc đời tôi đang đến một ngã rẽ khác.

Anh ngồi chơi với bạn, uống một chai bia lạnh hiệu 33, trong không khí đầy khói thuốc lá, mùi rượu, những mẩu chuyện lính đầy tính chất gái giang hồ, và sexe; tôi lén để ý anh, anh chỉ ngồi cười nghe bạn, không hoà đồng vào với bạn, Vân lăng xăng ôm cổ người này đến người khác, bằng lòng cho khách hôn hít, sờ soạng... Tôi đứng yên sau quầy rượu, giả vờ lau ly, cốc... Anh quay lại nhìn tôi, mỉm cười chào nhẹ bằng một nụ cười thật hiền và dễ thương. Anh làm hiệu cho tôi đến gần anh, anh đứng dậy kéo ghế cho tôi ngồi cạnh. Nhiều bận mấy đồng đội anh định giở trò ờm ờ, những cử chỉ như đối với Vân, anh đưa tay như bảo họ stop, và lạ lùng nhất là họ nghe anh răm rắp, tôi nghĩ trong toán lính này, anh là huynh trưởng của họ, vai vế lớn hơn. Sau đó, chiều lại, mấy người lính kia đứng dậy đi về trại, anh ngồi lại quán, hỏi Vân với tôi có thể cho anh ăn cơm chiều ở đây không, Vân cười nhìn tôi, ý là cô nàng hiểu anh muốn gì.

Vân đứng dậy dọn ly cốc và vỏ chai không trên bàn, đem đổ tàn thuốc, đưa mắt cho tôi như bảo: Mày lo cho chàng đi. Mâm cơm chiều này tự tay tôi nấu, ngon hay vì cảm tình anh dành cho tôi mà anh thấy ngon?

Chiều nay anh uống hơi nhiều một chút, rồi ngà ngà say, Vân và tôi không để anh về một mình, giữ anh lại cho anh ngủ lại đây.

Sáng hôm sau, khi anh ấy dậy, tôi pha nước cho anh tắm, bưng điểm tâm lên phòng cho anh vì tôi muốn hưởng trọn với anh ấy những giờ phút cuối trước khi anh ấy trở về đơn vị.

Anh kéo ghế sát lại, bảo tôi ngồi cạnh anh, một tay anh cầm cốc café, tay kia anh ôm ngang người tôi, tôi cảm nhận được hơi nóng từ thân thể anh thấm vào người tôi, lòng tôi nhũn ra, nước mắt muốn ứa nhưng không dám vì sợ anh buồn biết tôi đang buồn.

Anh ôm tôi chặt trong vòng tay mạnh mẽ của anh, chặt nhưng trìu mến chứ không như lũ khách tôi thường gặp.

Rồi cũng phải đến giờ xa nhau. Anh cầm tay tôi, quàng cổ tôi đi xuống cầu thang, tôi không để ý đến bao thuốc Capstan anh quên trên bàn. Xuống quán, anh hôn má Vân từ giã, và hôn tôi nồng nàn, môi tôi và anh như bị gắn chặt bởi một thứ keo đặc biệt mà thiên hạ gọi là keo sơn. Vân hỏi anh bao giờ anh ghé ngang, anh chỉ cười, đưa tay lắc lắc như nói không biết được, rồi anh đi. Tôi nhìn theo bóng anh, tim tôi muốn ngất đi vì thương nhớ.

Tôi bỏ Vân một mình vì sớm quá, quán chưa đông, tôi lên phòng, đóng cửa định ngồi khóc cho đã, chợt nhìn thấy trên bàn gói Capstan anh quên, nhưng tôi biết anh xa rồi nên thôi. Tôi mở gói thuốc xem còn thuốc nhiều hay không, chợt tôi khựng lại; trong bao thuốc có một bao giấy gói, tôi mở ra xem: một photo anh ngày còn sinh viên chắc, vì trẻ lắm, một số tiền và một lá thư ngắn có theo một bài thơ.

- Em giữ hộ anh nhé khoản tiền lương tháng này anh vừa lãnh, vì lúc này anh chưa cần đến, và anh tặng em hình chụp ngày anh vừa 17 tuổi như một kỷ niệm. Em giữ số lương anh đến khi nào gặp lại anh em hãy đưa trả anh, còn nếu rủi không gặp nữa, em cứ giữ lấy phòng thân vì không ai biết ngày mai như thế nào với chiến tranh.

2. GỬI EM CHÚT QUÀ

(Bài thơ này anh viết trong đêm khi em ngủ ngon giấc bên cạnh, anh ngồi dậy viết vội tặng em.)

mai lên nớ bao giờ gặp lại
ta biết em trong phút si cuồng
thằng lính trận thấy lòng ấm lại
tình của mình dù chỉ một đêm...

mai lên nớ thèm môi nào ngọt
phút hiến dâng như cả đời mình
ta bỗng chốc thành thằng ngu độn
chín bệ vàng hoàng hậu nương nương

mai lên nớ say cùng chiến trận
dòng chữ ghi ân hận chút tình
bao giấy thuốc thơm tình lính trận
gửi cho người tấc dạ trung trinh

mai lên nớ nhớ thân thể nóng
em rướn người vào bóng trăng tan... (Người lính không tên...)

Trước khi anh đi, Anh hỏi tôi có tấm hình nào không? Tôi mở tủ, tìm được một tấm hình mặc áo dài trắng có gắn huy hiệu bông mai của trường Gia Long, hình này tôi giữ kỹ vì để nhớ thời gian mình còn là một nữ sinh trong trắng chưa vướng bụi đời. Tôi đưa cho anh, anh bảo như vậy những khi nhớ tôi anh sẽ nhìn cho nhớ mặt tôi vì hình lúc 10 năm về trước và tôi bây giờ không khác nhau bao nhiêu, tôi ngồi thừ trước hình anh... nước mắt chan hoà.

Sáng hôm sau, anh dậy sớm trở về trại vì đã hết phép. Anh hôn tôi nồng nàn, từ giã Vân và tôi. Tôi nhìn theo anh... hình như tôi vừa mất một cái gì thật thương qúi...




Quán Vân và tôi bây giờ khách thật đông, ngoài trại lính bên cạnh, tấp nập khách thương di chuyển hàng ngang thành phố, thêm gia đình vợ con lình cũng lên đây để thăm viếng chồng, anh, em trai cho tiện. Quán bây giờ không còn là ổ gái giang hồ mà là quán café và quán ăn. Vân cũng chán cái nghề mà thiên hạ vẫn gọi là nhơ nhớp và đê tiện. Vân trở về với đời sống bình thường, ngày ngày lo công việc rót rượu và các thức uống, mướn thêm người để tiếp khách, phần tôi vì tôi giỏi về nấu ăn nên Vân để trọng trách này cho tôi đảm đương.

Cuộc đời tôi không ngờ lại có sự thay đổi bất ngờ không tính trước, vì vài tháng sau, tôi đang thái rau cải, bỗng cơn buồn nôn thúc tôi chạy vào nhà sau ói, và tắt kinh: tôi mang thai với người lính không biết tên.

Tôi nửa mừng nửa lo, mừng là tôi sẽ lên chức mẹ, nhận ra tôi đã yêu thương anh ta vô cùng và tôi muốn giữ cái bào thai này như một kỷ niệm đẹp của đời mình, lo là không biết rồi đây cái thai lớn lên, rồi tôi sẽ làm gì và đi đâu, tôi kể cho Vân nghe, tôi muốn bỏ quán đi về quê quán để sinh nở nhưng Vân cản lại, Vân bảo thứ nhất là tôi mang thai, không chồng lại mang tiếng đồ gái chửa hoang, thứ hai tôi lấy gì để sống và nuôi cháu bé.

Vân bảo tôi hãy ở lại với Vân, nó rất tốt với tôi, thương tôi như ruột thịt, ở lại đây, dù sao tôi vẫn sống qua ngày được, tôi mềm lòng, cảm ơn Vân và tiếp tục công việc của mình.

Đêm đêm trước khi ngủ, tôi vẫn lấy hình người lính không biết tên ra nhìn, nhớ anh ấy như nhớ người tình hay người chồng của mình. Nhiều khi tôi nghĩ dại, lỡ anh chết ở chiến trường, chắc tôi khóc đến giọt nước mắt cuối cùng, và vui là biết bây giờ tôi còn thêm một kỷ niệm sống với anh sau mấy đêm thương yêu nhau thật như hai người tình.

Ngày tháng cứ theo nhau trôi qua, cuộc sống tạm ở quán Vân và tôi cũng đắp đổi qua ngày. Bây giờ tôi đã sinh nở xong, cháu bé trai ra đời trong tình thương của tôi và Vân. Tôi đặt tên cho cháu là Việt Nam, gọi Vân là dì Vân giùm cho cháu bé. Mỗi lần tôi ngồi cho con bú, tôi nhớ anh ấy kinh khủng, không biết bây giờ tiểu đoàn của anh đã trôi nổi ở chiến trường nào.

Quán chúng tôi bây giờ rất đông đảo, tấp nập đủ hạng khách, nhất là lính. Nhưng lúc này tôi cảm nhận hình như có gì không yên ổn lắm; trên gương mặt của những đám lính đến uống nước ở quán, lúc này có vẻ lo âu, tôi nghe lóm ở họ những tiếng di chuyển, thuyên chuyển, nào những địa danh như Đồng Xoài, Bình Giả... Pleime.

Tiếng máy bay trực thăng rền trên đầu, ngoài đường cái những xe tăng, xe cứu thương, xe jeep, từng đoàn convoi chở đầy lính không biết đi đâu... và càng ngày càng nghe tiếng súng, tiếng đại bác, tiếng bom gần lại. Tôi đâm lo, tôi nói với Vân, Vân cũng nghĩ như tôi, thấy tương lại bấp bênh quá.

Trong toán lính còn đóng ở đơn vi cạnh quán, có một người mặt mày thật chân hậu, dễ mến, xem ra hình như rất cảm nàng Vân và nàng ta cũng vậy, Vân đối với anh ta rất đặc biệt. Thấy anh mặc áo hoa rừng, trên vai có mang chữ V, tôi hỏi nhỏ một người lính bạn anh, anh ấy trả lời, ah, Hậu nó mang lon trung sĩ mà chữ nghĩa lính gọi là cánh gà đó chị.

Một trưa quán ít khách, tôi ngồi ru cháu bé ngủ ở nhà sau, để cho Vân và Hậu (anh ta tên là Nghĩa Hậu) nguyên buổi trưa. Lúc Hậu trở về đơn vị, Vân gọi tôi tâm tình, Vân thố lộ với tôi là hai anh chị mết nhau lắm, và Hậu bảo Vân, Hậu muốn cùng Vân thành vợ chồng ngày Hậu mãn lính. Vân bằng lòng chờ đợi anh. Vân thú hết với Hậu về đời Vân, nhưng Hậu bảo Hậu không nề hà dĩ vãng của nàng, Hậu bảo Vân và tôi là hai sắc hoa trong thời loạn. Vân rất vui và cảm động tấm lòng độ lượng của Hậu, Vân nói nhưng làm sao anh giới thiệu Vân với gia đình của Hậu ở Đà Lạt lần tới khi anh được nghỉ phép vài ngày, Hậu trả lời không cần phải nói rõ Hậu gặp Vân ở đâu, hơn nữa, anh lớn rồi và anh là lính cuộc đời nay sống mai chết nên anh muốn cho Vân hưởng hạnh phúc cùng anh cho dù vài tháng, vài ngày, vài giây....Vân hứa sẽ lấy Hậu làm chồng và sau đó sẽ gửi quán lại cho tôi trông nom.

Tuần sau đó, Vân bảo tôi Vân sẽ về thăm người dì ruột ở Quảng Trị và hôm rồi sẽ trở về với tôi trông coi quán và chờ Hậu về. Nhưng Vân sẽ không bao giờ về với mẹ con tôi nữa. Chuyến xe đò trong đó có Vân đã trúng mìn, tất cả xe đều chết hết.

Thế là tôi lại bơ vơ thêm lần nữa, mất người bạn thiết, lạc người lính không biết tên mà tôi đã đem lòng yêu thương, tôi khóc hết nước mắt. Hậu cũng đi rồi, không biết phải ra chiến trường nào! Nhiều lúc nghe tiếng súng và đại bác gầm trong đêm, tôi ước có viên đạn lạc nào đó lấy luôn sự sống của tôi cho rồi, nhưng khi tôi nghe tiếng khóc con thơ bên cạnh, tôi sực tỉnh cơn ác mộng. Tôi đã tự hứa với mình là tôi sẽ nuôi cháu cho thành người vì tôi vẫn có hy vọng có thể ngày nào đó mẹ con tôi sẽ gặp lại người xưa.

Tôi vẫn tiếp tục ngày ngày cho quán, nhưng rồi cũng bối rối quá vì hình như có cái gì đó không ổn. Ngoài đường bây giờ từng đoàn người tay nải, tay bế tay bồng chạy, mà chạy đi đâu, không hỏi ai được, rồi thêm vào đó xe chở lính đầy đường, máy bay trực thăng bay rền trời, tôi cũng đâm hoảng, lúc này không còn thấy lính đến uống nước nữa.

Cuối tháng Tư 75

Đang hoang mang chưa biết phải làm gì thì ngay sáng hôm đó, Hậu không biết từ đâu chạy bay vào quán, réo tôi bảo thu xếp vài thứ cần thiết cho cháu bé, bảo hai cô gái giúp quán cũng vậy, tôi đang còn tần ngần không biết đem gì bỏ gì thì Hậu hét to lên bỏ hết, bỏ hết, mau lên, xong Hậu bồng thằng Nam, một tay nắm tay tôi dắt ra cửa, hai cô gái một cô dùng dằng không chịu đi vì em ấy còn mẹ già và em trai nhỏ, bảo chúng tôi cứ đi, để quán lại em lo tiếp.

Hậu bồng Nam ra xe, trao cháu cho người lính ngồi trên xe, đẩy tôi và cô gái tên Uyên lên xe rồi nhảy phóc lên chỗ tay lái, cho xe chạy thẳng. Trên đường bây giờ thiên hạ như tổ ong vỡ, vừa chạy vừa gào vừa khóc, không còn biết chạy hướng nào nữa. Chiếc xe jeep Hậu phải lách tránh vừa người, vừa con voi lính, phải tay lái cừ lắm mới không đụng ai và cán ai, có nhiều người muốn níu xe lại xin cho quá giang, như Hậu không ngừng, thì giờ khẩn cấp quá rồi. Tôi như con ngáo, hỏi Hậu là thế nào, mới hay là miền Nam đã mất vào tay cộng sản, và chúng tôi đang tìm đường thoát.

Tội thằng Nam, chắc nó cũng cảm được gì đó không an, nó ngồi êm rơ trong lòng người lính. Xe chạy như vậy không biết đã bao lâu và hướng nào vì đi từ sáng sớm tinh mơ, giờ đã tối thui. Hậu bảo chúng tôi là sắp đến Vũng Tàu. Tôi và cô gái cũng không dám hỏi thêm.

Sau cùng, tôi nhận ra bãi biển Vũng Tàu với những hàng dừa như ngái ngủ bây giờ bị dựng đầu dậy bởi tiếng khóc, tiếng réo, tiếng cầu cứu loạn xà ngầu của đám người chạy loạn cũng đang tìm cách thoát ra khơi bằng đủ cách. Vì Hậu hình như đã tính toán sẵn trước nên khi vừa đến Bãi Trước, anh hối mọi người theo anh chạy xuống mé biển, ở đấy đã có sẵn một chiếc tàu quân sự nhỏ đang chờ chúng tôi, anh để người lính bạn nhảy lên tàu trước, đưa Nam cho anh ta, xong đến cô gái, đến tôi và Hậu cuối cùng, chiếc tàu nhổ neo chạy vọt ra khơi.

Chiếc tàu chúng tôi chạy ra xa, và tiếng máy hình như vừa ngừng lại, trước mắt là một chiếc tàu lớn của binh chủng Mỹ vì có treo cờ Mỹ. Chiếc tàu dừng hẳn lại, trên tàu Mỹ, có mấy người lính Mỹ thả xuống một cái thang bằng dây. Hậu bảo người lính bạn leo lên, Hậu buộc cháu Nam trên lưng anh ta, xong Hậu đỡ tôi leo lên sau, rồi đến phiên cô gái và Hậu.

Thường ngày, leo thang bằng dây như vậy thật là khó khăn, nhưng hôm nay, sự lo lắng và sợ hãi đã làm cho tôi như mọc cánh, leo thật dễ dàng.

Lên đến tàu rồi, thấy Hậu lăng xăng nói chuyện với mấy người lính Mỹ anh gặp. Trong lúc đó tôi nhìn quanh, chiếc tàu lớn này chở có lẽ đến 5, 6 ngàn người vừa lính Mỹ, vừa quân nhân Việt Nam Cộng Hoà, vừa đám người tị nạn như tôi, vợ con quân nhân...những người đầy may mắn chạy thoát đặc biệt như vầy.

Qua khỏi cơn kinh hoàng, bất chợt tôi vừa nhận ra mình sẽ rời xa mãi Việt Nam thân yêu, tôi quay lại nhìn về phía Vũng Tàu, xa lắm nên tôi không còn thấy và nghe tiếng đám người chạy loạn, chỉ thấy lửa; toàn lửa đỏ cả một góc trời và đám khói đen nghịt bốc cao, Vũng Tàu vừa bị đốt. Tôi thở dài, thế là quê hương thân yêu tôi đã bỏ lại sau lưng mình!

Tôi tìm anh lính để cám ơn anh đã lo cho Nam, tôi tìm Hậu để muốn nói một lời nào đó, và để hỏi Hậu về tin tức mình sẽ đi về đâu...Hậu thấy tôi đến gần, anh nhìn tôi, nở một nụ cười đón tôi nhưng thật buồn, rồi thôi, hai chúng tôi đứng bên nhau không nói thêm gì nữa, tôi thấy mắt Hậu nhìn về phia tôi cũng vừa nhìn lúc nãy, đôi mắt anh chứa một nỗi buồn kín đáo, trầm lặng, tôi biết anh đang nghĩ đến quê hương vừa bỏ mất, đến Vân, tình yêu đầu đời của anh nay chỉ còn là một hoài niệm khó quên, hình ảnh của những mảnh thịt da tan tác đó đây, nhầy nhụa máu cùng đất đỏ cao nguyên của Vân, của những người lính đồng đội của anh đã nằm xuống, của những người dân chết vì một viên đạn, một mảnh bom vô tình rơi trúng trên một quãng đường nào đó của quốc lộ...




Trên chiếc Hàng Không Mẫu Hạm Hoa Kỳ chở dân tị nạn chúng tôi bây giờ bớt người, vì đến đảo Subic Bay, có khu trục hạm khác đang đậu chờ để chia bớt số dân di tản chia làm hai ra, dân trên tàu chúng tôi thấy tàu kia tản bớt còn ít người nên ùn ùn xuống bớt tàu nầy qua bên tàu kia. Không biết là chiến hạm này sẽ đi Canada hay Úc thì tôi không rõ lắm.

Thấy bớt được người, Hậu bảo anh bạn lính, Uyên và tôi cứ ở lại đây vì Hậu bảo tàu này chắc sẽ qua thẳng đảo Guam.

Tôi mở ngoặc nói về người Mỹ một chút, những ngày trên tàu, hầu hết lính Mỹ đối với đám dân tị nạn chúng tôi rất tốt, chúng tôi mỗi ngày vẫn nhận được 3 bữa ăn có cơm chỉ khổ là họ không biết biết nấu kiểu Việt Nam, nhiều nước quá nên cơm nhão, nhưng dù sao khi đói ăn gì vẫn thấy ngon, đồ ăn toàn là đồ hộp như thịt hộp...các cháu bé thì được phát thêm sữa bột Mỹ...Tôi cám ơn những người Mỹ đã đón nhận chúng tôi với nỗi thông cảm sâu sắc tình người.

Vì bớt người nên chúng tôi không còn nằm như cá mòi sắp lớp nữa, Hậu tìm được cho bọn con gái chúng tôi một chỗ trên boong, thoải mái. Những người lính Mỹ đem cho chúng tôi mỗi người một tấm nệm bằng cao su,một tấm mền.vừa ấm cũng vừa êm nên cũng đỡ khổ cho tấm lưng gầy, mấy hôm nay bị cong vì nằm hụt chỗ.

Đêm nay, đêm bình yên đầu tiên tôi nhìn thấy trăng, bao ngày lênh đênh trên biển, sự lo âu và đau buồn vì cớ cái chuyện rời bỏ quê hương đang bị dày xéo bởi chế độ khắc nghiệt độc tài sau chiến tranh. Nhớ cái chết thảm thương tội nghiệp của Vân, tôi như người ngồi trên lửa và mắt tôi như mù đi. Đêm nay ngồi ôm cho bé Nam ngủ, tôi ngồi cạnh Hậu, Sang – anh lính chưa quen và Uyên, tôi chợt thấy trên nền trời đêm xanh trong, có mặt trăng và những ngôi sao lấp lánh, chợt tôi nhớ đến 4 câu thơ của người lính không biết tên đọc cho tôi nghe lúc anh nằm cạnh, anh vuốt tóc tôi âu yếm:

Giữa khuya tay gối đợi chờ
em đi vào giấc mơ đời lênh đênh
trăng vào xiêm áo nhẹ tênh
oằn thân ngà ngọc cong vênh cội nguồn...

Mắt tôi chợt ướt, tôi lắc đầu cho quên đi kỷ niệm, vì giờ này đâu còn là lúc để nhớ mà chỉ lo ngay ngáy ngày mai mình và con sẽ ra sao, tương lai sẽ đi về đâu...

Lênh đênh trên biển như vậy, sau 11 ngày, thì chiến hạm đến hải phận của đảo Guam. Trước khi cho chúng tôi sang những chiếc tàu nhỏ của tuần dương hạm để vào đảo, họ phát cho chúng tôi ít quần áo, các người đàn ông mỗi người một chiếc sơ mi chim cò kiểu người Phi Luật Tân.

Bỗng tôi nghe có tiếng thét từ trên boong cao, tôi đưa cháu Nam cho Uyên, đưa mắt tìm Hậu nhưng không thấy, tôi chạy vội leo lên boong, thấy Hậu và một nhóm người đang nhìn xuống biển, tôi vội vàng chạy đến tìm Hậu, đưa mắt hỏi. Chỉ nghe Hậu thở dài và đám người kia phần nhiều là quân nhân VNCH, mặt họ thật buồn.

Hậu kể cho tôi nghe câu chuyện từ đâu có tiếng thét nhói tim người nghe lúc nãy: Lúc mọi người được phát cho quần áo, chiếc áo sơ mi chim cò kiểu Phi Luật Tân vẫn mặc. Như mọi người quân nhân khác, Hậu cầm chiếc áo trong tay, tần ngàn không biết nên cởi bộ quân phục đang bận trên người để thay, chợt Hậu thấy đằng xa một anh quân nhân cầm trên tay chiếc áo, vẻ mặt như đang nghĩ ngợi một điều gì quan trọng, có lẽ anh ta đang đối diện với một sự thật tàn nhẫn không thể chối bỏ hay quên được: Đó là danh dự tổ quốc, lý tưởng của người làm trai đã hy sinh cả cuộc đời, tuổi trẻ, gia đình để bảo vệ miền đất tự do của anh đã mất hết. Trong một khắc ngắn, như đã quyết định, anh leo lên bờ boong tàu, lao mình xuống biển mà sóng đã nuốt chửng mất hút thân anh trong biển mênh mông trong lúc Hậu chưa kịp làm một cử chỉ gì để giữ anh lại! Vậy là bao nhiêu chí lớn trong một khắc ngắn đã chìm theo những bọt sóng vô tình....Hậu nắm tay tôi, ngậm ngùi cho hoàn cảnh của những người cầm súng không giữ được quê hương! Hậu nghĩ trong đầu, khi cầm chiếc áo chim cò anh vừa nhận được, anh cảm thấy lòng anh rất thẹn, thẹn vì anh thấy mình thật bất lực, anh là một quân nhân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, trong tay anh cầm súng cùng với anh em chiến hữu cố chiến đấu đến phút cuối cùng, vậy mà không làm tròn được sứ mạng của người trai lúc quê hương đang gặp nguy biến, không ngăn chận được kẻ thù, anh cũng đã nghĩ đến chỉ có cái chết mới có thể xin tạ lỗi cùng quê hương, nên anh rất hiểu tâm trạng người quân nhân vừa đã nhảy xuống biển tự vẫn vừa rồi.

Tôi nhìn Hậu, thấy sự xót xa trong mắt Hậu, tôi vội bấu chặt lấy cánh tay Hậu:

- Hậu, Hậu đừng làm vậy, đã không có ích gì mà còn làm cho Vân dưới suối vàng buồn thêm, và còn những người còn sống, đồng bạn Hậu, mẹ con chị còn cần đến Hậu.

Vào đến đảo, chúng tôi cũng được đón tiếp đàng hoàng. Mỗi gia đình được chia cho một căn lều vải. Chúng tôi là những người gần như đầu tiên đến đảo, được đối đãi rất tốt. Mỗi ngày nhận được 3 khẩu phần. Cuộc sống trên đảo cũng tạm qua ngày trong lúc chờ đợi Uỷ Ban Liên Hiệp Quốc quyết định cho tương lai của những người di tản.

Trên đảo có một văn phòng đại diện Liên Hiệp Quốc, họ cần những người biết tiếng Pháp, tiếng Anh để làm thông dịch viên. Hậu và tôi tình nguyện vào làm vì chúng tôi nói thạo 3 thứ tiếng.

Sau đó thấy Hậu độc thân, họ hỏi anh muốn đi đâu và có thân nhân ở đâu, Hậu bảo anh đã liên lạc được với vợ chồng em gái anh ở Mỹ và chịu bảo trợ cho anh, và anh đã được đồng ý cho đi Hoa Kỳ. Sau đó đến tôi, thấy tôi thạo tiếng Anh, và có con nhỏ, họ bảo tôi được quyền ưu tiên chọn xứ, và sau đó do sự bảo trợ của nhà thờ, họ tìm được cho tôi một gia đình hai vợ chồng người Mỹ cao tuổi đang cần một người giúp việc nhà, họ liên lạc với gia đình này và tôi được nhận.

Cuộc đời mẹ con tôi đến một ngã rẽ may mắn, nhiều khi nghĩ lại, tôi cũng tự hỏi có phải tôi đẻ bọc điều không, hay định mệnh do Trời Phật xếp đặt.

Ông bà Mỹ đối với mẹ con tôi như người nhà. Ngoài những giờ làm việc, bà chủ cho tôi theo học lớp tiếng Anh cho người ngoại quốc, vì dù tôi thạo tiếng Anh, nhưng ở Mỹ họ nói mau quá khó nghe vì nuốt chữ. Và vì chợ búa, món ăn tôi chưa thạo việc lắm, chỉ có cái vui là ông bà rất thích đồ ăn Việt nên mê những món tôi nấu.

Ở đây có nhiều hội từ thiện các nhà thờ, thường cho mẹ con tôi quần áo …có mặc rồi nhưng chưa cũ lắm, cháu Nam thì ban ngày được đi mẫu giáo, tóm lại, cuộc đời tôi không đến nỗi nổi trôi lắm nếu hai ông bà Mỹ không mất đi. Từ đó, tôi lại phải lo tìm việc khác để làm nuôi con.

Tôi nhờ nhà thờ tìm cho tôi chỗ làm, và tôi được nhận vào nấu ăn cho một nhà hàng Việt, với sự dành giụm, mấy năm sau tôi mua được một căn nhà nhỏ đủ cho mẹ con tôi ở. Tôi tiếp tục như vậy và nuôi con cho đến lúc nó ra đại học. Bây Giờ Nam đã là một luật sư. Nó tìm được chỗ làm tốt cùng với một luật sư người Mỹ gốc Việt.

Hiên nay tôi đã ngoài lục tuần. Tôi vẫn sống độc thân nuôi con, dù có rất nhiều người thương và xin cưới tôi. Trong tim tôi, bao giờ cũng chỉ có một hình bóng duy nhất của người lính không biết tên mà tôi vẫn xem anh như chồng mình. Tôi cứ cầu nguyện Trời Phật cho tôi gặp lại anh ấy dù chỉ một lần là đủ mãn nguyện rồi. Nam từ nhỏ vẫn hỏi cha nó đâu, tôi giải thích cho con cha nó là một người lính trước đây của binh chủng Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Hoà.




40 năm sau...

Buổi tối hôm đó, tôi đi dự đám cưới con của bạn, tôi không thể nào ngờ là mình đã gặp lại người xưa. Anh đưa tôi về nhà, tôi mời anh hôm sau đến chơi và để cho anh biết một chuyện mà anh không bao giờ ngờ đến.

Trong một bữa tiệc cưới con trai bạn, tôi đi dự hôm đó, mặc chiếc áo dài tím như thời còn là học trò nhưng hở cổ, thân người vẫn mỏng mảnh, và nhìn chung sắc diện cũng còn dễ coi, chưa bị thời gian hằn những nếp nhăn mặc dù đời tôi quá ê chề lúc trẻ. Trên cổ trắng ngần của mình, sợi dây chuyền người lính không biết tên đã tặng vẫn nằm yên cùng chỗ khi người ấy đeo vào cho tôi. Tôi đang đứng nói chuyện với mẹ cô dâu, chợt thấy có một người đàn ông tóc hơi hoa râm nhìn tôi chăm chú, tôi cố nghĩ tìm xem có quen không, thì người ấy đã đi về phía tôi, nhìn đăm đăm vào khoảng cổ trần của tôi:

- Xin lỗi bà về tội tôi đường đột sắp hỏi môt câu, nếu có gì thấy thất lễ, mong bà lượng thứ cho. Chưa kịp trả lời bằng lòng hay không, ông ta tiếp theo:

- Xin lỗi bà, làm sao bà có sợi dây chuyền này? bất giác tôi nhìn tay ông ta đang cầm cốc rượu, một chiếc nhẫn bạc quen thuộc trên ngón tay út, cả hai người, ông ta và tôi đánh rơi hai cốc rượu xuống đất cùng một lần theo sau hai tiếng như thoát ra từ ngực mỗi người:

- Anh...

- Em...

Anh đưa tôi về nhà, tôi mời anh hôm sau đến chơi và để cho anh biết một chuyện mà anh không bao giờ ngờ đến.

Hôm ấy tôi làm một bữa cơm thật giản dị nhưng để hết thương yêu vào những món mà ngày anh đến quán Vân tôi đã tự tay nấu cho anh và nhân thể tôi gọi Nam đến ăn cơm nhưng chưa cho con biết vì sao, tôi căn dặn con là phải đến. Hôm nay tôi cũng sửa soạn làm đẹp một chút và nhìn gương, tôi rất tự hào mình vẫn còn những nét xưa.

Nghe chuông cửa reo, tôi vội vàng ra mở cửa, thấy anh ôm trên tay một bó hồng đỏ và chào tôi bằng một nụ cười thật tươi, tôi sững hết một phút, ban ngày nhìn rõ, nụ cười đó của anh vẫn dành cho tôi những ngày ngắn ngủi thương yêu nhau ngày xưa. Anh đưa cho tôi bó hồng, anh bảo có 40 đoá hoa, tôi hỏi tại sao lại 40 đoá hoa?

- Vì đã 40 năm anh chưa gặp lại em. Và mỗi một đoá hồng là một năm tròn anh nhớ em đó em.

Nước mắt tôi ứa ra vì cảm động. Tối qua ở tiệc cưới, anh bảo anh vẫn ở một mình đến bây giờ vì cũng thầm mong ngày nào đó gặp lại tôi.

Tôi mời anh vào nhà, mời anh vào salon, mời anh ngồi ở chiếc ghế bành một chỗ bên tay trái tôi, tôi mở chai champagne, rót vào hai cốc, mời anh uống rượu khai vị. Anh nắm tay bảo tôi ngồi xuống cạnh anh, anh ôm tôi hôn nồng nàn như đêm đầu tiên mới gặp.

Qua hết những phút cảm xúc, tôi đứng dậy, đi lại bàn viết, mở hộc tủ lâu nay tôi vẫn khoá, tôi lấy bao thuốc lá Capstan cũ đưa cho anh, anh ngạc nhiên nhìn tôi, tôi ra dấu cho anh mở đi.

Anh cầm bao thuốc, mở ra, anh như sững lại: trong bao thuốc anh để lại trên bàn khi anh trở về đơn vị còn y nguyên số tiền lương tháng cuối cùng anh để lại cho tôi, tấm ảnh cũ của anh và bài thơ anh viết vội tặng tôi trước khi anh lên đường. Anh lặng người đi mấy phút, xong anh kéo tôi lại, dang tay ôm trọn tôi trong vòng tay anh.

- Sao em lại để dành số tiền này vậy?

- Vì đó thuộc về những kỷ niệm ít oi anh để lại cho em trước khi anh đi.

- Anh bảo em nếu em cần thì tiêu, không thì ngày gặp lại, em trả lại anh cũng được.

- ???

- Vì em không phải cần đến số tiền đó nên...

Ngay lúc ấy, cửa nhà mở, cháu Nam bước vào, thấy anh, nó khựng lại một giây, xong bước lại gần, đứng cụp hai chân với nhau và đưa tay phải lên trán chào anh theo kiểu nhà binh.Thấy anh bỡ ngỡ, Nam lên tiếng trước:

- Con chào Ba, rồi đến gần hôn anh trên má.

Anh ngạc nhiên nhìn Nam rồi nhìn tôi, tôi chưa kịp lên tiếng thì Nam đã giành nói: - Thưa, con biết là Ba, vì khi con vừa bước vào phòng khách, thấy Ba ngồi trên chiếc ghế mà Mẹ con không mời ai ngồi trên ấy, kể cả bạn bè của Mẹ hay ngay cả chú Hậu, vì Mẹ con vẫn nói với con là người đàn ông nào bước vào nhà và được Mẹ con mời ngồi vào chiếc ghế này sẽ là cha của con mà thôi, vì vậy mà con biết là Ba.

Anh nhìn tôi, tôi hiểu ra, tôi nói:

- Mấy tháng sau khi anh đi, em đã có thai, và đây là con trai chúng mình đấy anh, con tên là Nam, Nguyễn Việt Nam, em khai họ mẹ vì không biết anh tên gì và họ gì, anh cười thật tươi:

- Anh là Cường, Nguyễn Việt Cường.

- Còn em là Trầm Hương, anh trả lời hộ tôi, vì phía trong chiếc nhẫn em tặng anh đêm đó, anh đọc thấy tên em khắc trong nhẫn : Tôn Nữ Trầm Hương, rồi ôm tôi âu yếm... Hạnh Phúc thật bất ngờ còn đến với những người bạc hạnh như tôi.


đht


Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 26/Apr/2016 lúc 8:40am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 27/Apr/2016 lúc 8:56am

ĐƯỜNG RA VĨNH PHÚ



Ngồi trong toa của con tàu Thống Nhất, tôi vẫn chưa hoàn hồn. tay khư khư ôm chặt chiếc túi xách trong lòng, tôi nhìn theo Dim đang cố len lỏi tìm lối ra giữa những người đang đứng lố nhố tranh giành nhau xếp đồ đạc. Gần ra tới cửa, Dim còn ngoảnh lại nhìn tôi, đôi mắt đỏ hoe. Tôi cũng khóc. Nước mắt tôi làm nhòa đi hình ảnh Dim trong giây phút ngắn hai chị em chia tay nhau. Dim như bị xô xuống khỏi con tàu…

Xa xa, sân ga Bình Triệu dưới những ngọn đèn vàng vọt không đủ sáng, cảnh tượng vô cùng hỗn độn. Người đi, kẻ lại, người mang, kẻ vác… xô đẩy, chen lấn nhau. Tiếng la hét, tiếng gọi nhau í ới trên một khoảnh đất gồ ghề, tăm tối. Tôi cũng vừa từ đám đông đó lên đây. Bọn cán bộ nhà nước được lên tàu trước từ ga Phạm Ngũ Lão, trên những toa riêng hoặc những toa có giường nằm…

”Thật may, nếu không có Dim đi tin thì làm sao mình còn đủ hành lý!” Lần đầu tiên tôi thấy Dim khỏe quá! Hai tay hai túi xách nặng, cồng kềnh, chen đám đông phăng phăng mở lối cho tôi lên tàu. Bọn cướp giật trà trộn giựt xách tay, rạch ví, móc túi. Tiếng la thất thanh. tiếng chửi thề. Tiếng khóc, tiếng gọi nhau… tất cả tạo thành một âm thanh hỗn loạn. Thần kinh tôi như muốn đứt ra. Hai chị em chỉ kịp bám lấy song sắt của toa tàu là đã như có người đẩy lên rồi. “Kìa! Nó giựt đồng hồ của tôi!” “trời ơi! ví của tôi đâu mất rồi!” Mặc kệ. Mạnh ai nấy chen. Chân tôi bị dẫm lên đau điếng. Áo quần tôi tả tơi, xốc xếch, đầu tóc rối bời.


Giờ đây, tôi ngồi trên tàu, dưới kia cảnh tượng vẫn đang tiếp diễn…

Tiếng còi hú vang báo hiệu sắp đến giờ khởi hành. Tiếng còi dài văng vẳng trong đêm tối. Ngày xưa còn bé, tôi đã từng được học những bài văn tả cảnh sân ga. Niềm vui sum họp, nỗi buồn chia ly. Tiếng còi tàu lanh lảnh âm vang trong lòng tùy theo tâm trạng của mỗi người. Lòng tôi hôm nay, tiếng còn nghe ghê rợn quá! Như tiếng rú, tiếng thét đe dọa những con người thất thế – như tôi – một thân một mình đi thăm nuôi chồng “học tập cải tạo” tại một nơi rừng sâu, nước độc tận cùng miền Bắc.

Không có một bóng người đứng trên thềm ga đưa tin. Không có một ngọn đèn vàng lẻ bóng hắt hiu, như tiếng hát của nữ ca sĩ Thanh Thúy u buồn ngày nào trong một ca khúc tin đưa nào đó… Xa rồi, chỉ có hàng ngàn con người lam lũ, hối hả, vội vàng trên sân ga giành giựt tranh nhau từng miếng cơm sạn mốc, từng manh áo rách.

”Giấy tờ đâu? Mở túi này ra!” Giọng hách dịch của tên kiểm soát. Rồi những khuôn mặt lạnh lùng của toán công an kinh tế phía sau. Một tên nghênh ngang cầm đèn pin, bất kể rọi vào cả mắt hành khách. Một tên cầm chiếc gậy ngắn, xấc xược thọc thọc vào hành lý của khách… Đến lượt tôi: “Giáo viên. Về Bắc nghỉ hè à? A, đi thăm nuôi chồng học tập cải tạo. Thăm nuôi tù thì nói mẹ nó ra đi. Học tập học tiếc cái nỗi gì với cái bọn ngụy ác ôn đó. Thôi, khỏi xét.” Lẽ dĩ nhiên, xét làm gì ba cái đồ lương thực. Họ muốn bắt những con buôn. Tôi cố nén tức giận, tủi hờn, mừng rỡ nhận lại tờ giấy phép, không có tờ giấy này tôi không thể vượt qua mọi cửa ải từ Nam ra Bắc. Chạy chọt hàng bao nhiêu nơi, chờ đợi hàng bao nhiêu ngày, tôi mới có được mảnh giấy đen thui này đây.


Họ di chuyển xuống hàng ghế dưới, tiếp tục hạch sách, lục lọi. Và hành khách tiếp tục năn nỉ, van xin. Hàng hóa nào có nhiều nhặn gì cho cam! Chục mét vải. Dăm gói bột ngọt. Rổ rá nhựa, xô xách nước. Bình nước mắm… Vậy mà có người vẫn khóc ngất khi bị tịch thu. Nồi cơm độn mì, độn khoai tay chỉ mong vào tiền lời nhỏ nhoi đã mất cả rồi.

Tiếng máy xình xịch. tiếng còi tàu rú lên từng hồi như thúc giục, như đồng lõa với những việc làm sai trái trên con tàu mang tên Thống Nhất Bắc Nam.

Bên ngoài trời tối, không một ánh sao. Sương khuya lạnh buốt. Vài con đom đóm lập lòe. Chung quanh tôi, mọi người đều đã nằm ngủ la liệt. Người trải miếng ni-lông dưới chân ghế chật hẹp, người nằm ngả nghiêng trên đồ đạc, ngổn ngang chật cả lối đi. Võng mắc chi chít. Tiếng ngáy, tiếng thở mệt nhọc vang lên. Tôi mệt mỏi tựa đầu vào thành ghế gỗ. Có lẽ chỉ còn có một mình tôi thao thức nên thấy đường dài. Nhớ mẹ, nhớ con, nhớ nhà.

Thế là tôi đã phải xa nhà, xa những người thân yêu, vượt mấy ngàn cây số, đi đến một nơi xa lạ. Làm sao tránh khỏi lo âu? “thân gái dặm trường”, lời nói người xưa thật đúng tâm trạng của tôi bây giờ.

Cũng trên quãng đường này, trong toa xe lửa của một thời xa lắc – thuở còn đi học – ánh mắt long lanh, giọng cười ròn rã reo vui suốt cuộc hành trình. Trại hè Nha Trang. trại hè Thống Nhất Huế. Trại hè sinh viên Huế-Saigon Đà Lạt. Mỗi mùa hè là một mùa tưng bừng hứa hẹn. Còn đâu nữa những tiếng cười khúc khích, tinh nghịch của các bạn tôi trong những đêm không ngủ? Các bạn học cũ của tôi, giờ phiêu bạt nơi đâu? Phạm Hữu Lộc, Bùi Thức Phước, Nguyễn Long Hải, Duy Trác… trong những trại tập trung cải tạo của Cộng Sản. Ấu Oanh, Hoàng Oanh, Ngọc Diệp, Kim Oanh… bán đứng buôn chạy quần áo cũ, thuốc tây. Hồng Thủy, Hồng Hảo, Ngọc Tâm, Hương Kiều Loan… ngàn trùng cách biệt.

Tôi cố quên đi những gương mặt đang say men chiến thắng Nguyn Đắc Xuân, Cao Thị Quế Hương, Kim Tuyến. Tôi ngậm ngùi thương tiếc Lê Hữu Bôi, bị thảm sát trong biến cố Tết Mậu Thân 1968 tại Huế. Bốn năm “giải phóng miền Nam” rồi, bốn năm quay cuồng, vật lộn với cuốc sống mới, có bao giờ được một vài phút suy tư?

Qua mỗi lần tàu ghé một sân ga, bất kể ngày đêm, hàng hóa rỡ xuống, chất lên nhanh chóng gọn nhẹ. Bọn chỉ huy đoàn tàu kết hợp cùng bọn công an kinh tế buôn bán thì còn sợ gì ai xét. Trong khi những người dân, hàng chỉ có một chút xíu thôi mà vẫn bị dòm ngó, hoạch họe đủ điều.

Những giỏ soài Nha Trang của vợ chồng chú bộ đội ngồi trước mặt tôi đã biến mất. Những giỏ soài treo toòng teng trên đầu, những giỏ soài la liệt dưới sàn tàu đều trống trơn. Càng đi xa hơn thì hành lý trên tàu càng vơi nên hành khách còn có lối đi. Hành khách buôn dọc đường. Xã hội chủ nghĩa cấm buôn bán cá thể mà hầu như cả nước đều buôn. Cán bộ công nhân viên mua được nửa ký đường, lon sữa, mươi gam bột ngọt mỗi tháng đều mang ra chợ bán cho người buôn, kiếm chút tiền bù đắp vào đồng lương ít ỏi. Cũng nhờ đó mà tôi mới mua được những thực phẩm thăm nuôi chồng. Tôi thở dài ngao ngán cho kiếp sống đói nghèo.

Tàu càng rời xa miền Nam, làng mạc càng hiu hắt. Bốn năm tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội là đây? Đồng ruộng khô cằn, xóm làng xơ xác. Con tàu đưa tôi vượt qua vĩ tuyến 17, tới miền Trung “ôi, quê hương xứ dân gầy” của nhạc sĩ Phạm Duy. Dân không chân lấm tay bùn – vì đồng ruộng bỏ hoang – mà sao đen đủi. Gương mặt ngơ ngơ ngẩn ngẩn, đứng trước những thau nước chờ khách trên tàu xuống mua rửa mặt, rửa chân.

Một bà cụ lưng còng xuống, manh áo vá không đủ che thân, xách ấm nước đi bán rong. Đường tàu mỗi lúc một xấu, nhất là Thanh Hóa. Con tàu tròng tranh nghiêng ngả. Đồ đạc rơi đổ cả vào người.

Làng quê miền Bắc kia sao? Tôi ngờ mình đang nằm mơ. Bởi hiện thực quá phũ phàng.

“Việt Nam đất nước ta ơi,

Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn…”

Miền Bắc hai mươi năm xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhân dân đi vào con đường làm ăn tập thể. Đồng ruộng xóa mờ ranh giới, bao la bát ngát thẳng cánh cò bay… Chỉ là hình ảnh tưởng tượng của cán bộ vẽ ra, khi tuyên truyền, khoác lác với dân miền Nam. Trước mắt tôi… đồng khô, nắng cháy. Xa xa xóm làng hoang vắng. Quán nước bên đường che bằng một mái tranh cũ nát, chiếc chõng tre lỏng chỏng một vài món quà lặt vặt: viên kẹo bột vàng, trái chuôi thâm đen. Điếu cầy tre, ấm nước, ly trà cũ bẩn… Mỗi lần tàu ngừng, hành khách tranh nhau mua từng bát cơm khô cứng, lèo tèo một ít rau xào…

Tôi đến Ga Hàng Cỏ – Hà Nội sau ba ngày, ba đêm trên tàu như một người bị tra tấn. Rã rời, mệt mỏi. Hà Nội hiện ra trong mắt tôi với tất cả sự nghèo nàn, lạc hậu. Đèn đường vàng vọt. Trong nhà, ánh điện lù mù nhưng tôi vẫn nhìn thấy nhà nhà ngồi quanh mâm cơm để dưới đất. Đó là hình ảnh đầu tiên về Hà Nội.

Nhà anh chị tôi ở tầng thứ tư của một khu nhà tập thể vùng Kim Liên. Chỉ là một phòng nhỏ hai mươi mét vuông. Độc nhất một cái giường cũ mọt dành cho bố mẹ và đứa con út còn bé. Hai đứa con lớn học đại học nằm dưới đất. Kệ sách vở đụng trần nhà. Dưới gầm giường lỉnh kỉnh bát chén, nồi niêu, xô nước. Gia đình anh chị tôi điển hình cho giới trí thức Hà Nội: chồng, cán bộ nghiên cứu khoa học, vợ bác sĩ. Tôi rùng mình lo sợ tương lai.


Hà Nội với những con đường nhỏ hẹp, đầy ổ gà, bụi bậm. Hà Nội với nhà cửa cũ nát, xiêu vẹo. Hà Nội với con người nhâng nhâng, nháo nháo, chửi thề nói tục. Không phải một thủ đô văn minh lịch sự như theo lời những cái máy nói đã mạt sát Sàigon, ca tụng Hà Nội – mà trong những buổi học tập chính trị ròng rã qua năm tháng, chúng tôi đã phải nghe. Hà Nội trong ký ức tôi, trong thơ, trong nhạc… chỉ là hư ảo.

Lên ga Bình Triệu, xuống ga Hàng Cỏ: kinh hoàng. Tiếp tục cuộc hành trình, tôi đáp tàu đi Vĩnh Phú. Ga nhỏ, người đông. Mùi hôi thối dưới đất, mùi mồ hôi nồng nặc trong ánh nắng hè gay gắt. Tôi muốn nôn oẹ. Lại bị hạch sách, nạt nộ khi làm thủ tục để được lên tàu. Lại chen lấn, xô đẩy. Tôi chạy mãi tìm cửa lên tàu. Toa nào cũng chật cứng người. Cuối cùng chỉ còn giành được một chỗ đứng ở cuối nơi toa tàu nối nhau. Khi con tàu ra khỏi thành phố, một số thanh niên leo lên nóc, tôi mới có một chỗ để ngồi bó gối.

”Ban nãy tao leo lên toa chở lợn, gà. Bị đuổi xuống.”

”Xã hội này là súc vật sướng hơn!”

Tôi nghe tuổi trẻ miền Bắc nói chuyện như thế.

Gió thổi mát lạnh. Trời vần vũ cơn mưa. Cứ ngồi như thế này cho đến tối hay sao? Thế rồi sức chịu đựng của tôi vẫn vượt qua những trận mưa trời làm ướt sũng toàn thân, những trận mưa than từ ống khói tàu nhả xuống. Cũng may là than đá, nếu không biết bao nhiêu hành khách kém may mắn không được ngồi trong toa như tôi sẽ bị nhuộm đen như thế nào?

Con tàu nặng nềđi qua những cánh rừng cọ xác xơ, những đồi chè cằn cỗi thưa thớt dưới cơn nắng cháy.

“Đẹp vô cùng Tổ Quốc ta ơi,

Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt

Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát

Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca…”

Tôi không hiểu sao Tố Hữu lại có thể làm được những câu thơ với những hình ảnh tươi đẹp như thế?

Ga Ấm Thượng là trạm cuối cùng, tôi xuống. Nơi đây chỉ là một túp lều tranh vách nát giữa vùng đất đìu hiu của miền thượng du Bắc Việt. Bốn bề hiu hắt, vắng vẻ. Trời chập choạng tối. Ánh đèn dầu leo lắt run rẩy như muốn tắtlàm tăng thêm vẻ hoang vu.

Tôi sẽ ở lại đây một đêm.

Sau một ngày dài ngồi bó gối trên tàu, tôi muốn ngả lưng trên chiếc giường tre ọp ẹp có trải manh chiếu nát. Những con rệp lâu ngày bị đói rủ nhau ra tung hoành làm tôi phải bật dậy suốt đêm. Sáng sớm đã có tiếng xì xầm ở bên ngoài. Dân quanh vùng lén mang chuối, gạo, gà… bán cho những người thăm nuôi tù. Họ giành nhau để được tên cán bộ nhà ga phân phối khuân vác từng thùng lương thực xuống thuyền để lấy tiền công.

Sang đò ngang, lại chuyển đò dọc. Tiền khuân vác, tiền chuyên chở, bao nhiêu cũng phải trả.

Con thuyền cũ chòng chành vì nặng hành lý. Khách trên thuyền chỉ có khoảng năm người. Từ Saigon hay từ các tỉnh miền Nam đi thăm nuôi. Thuyền không có mái. Hơi nóng từ trên trời giội xuống, từ dưới nước bốc lên. Tôi như muốn ngất lịm đi vì say sóng. Đây là con sông Lô trong nhạc Văn Cao. Không có tiếng hò, tiếng hát trên sông. Chỉ có tiếng mái chèo đập nước, tiếng sóng vỗ ì oạp vào mạn thuyền. Hai bên bờ sông, chỉ toàn là cây dại. Hoàn toàn im lặng.

Khi mặt trời đứng bóng, thuyền cập bến đò Ngọc. Trái với tên bến Ngọc, bến đò này toàn sỏi đá lởm chởm. Từ bờ sông lên tới đường đi, chúng tôi phải trèo lên từng phiến đá sắc cạnh. Phụ nhau kéo đồ đạc lên rồi ngồi chờ xe trâu tới thuê chở chuyển đồ vào trại.

Tôi ngồi tựa lưng vào một gốc cây khô. Bên kia sông, không một mái nhà. Cỏ cây chằng chịt. Phía sau lưng, hoang vắng. Một lối đi nhỏ mất hút sau rặng cây rậm rạp. Đứa bé trai khoảng trên mười tuổi, không biết từ đâu xuất hiện. Chiếc quần ngắn cũ chắp vá đủ màu bọc ngoài đôi chân gầy guộc. Lấm lét nhìn chung quanh, nó đến gần chúng tôi, khẽ nói:

”Cho nhà cháu vác vào trại nhá! Tiền công rẻ hơn xe trâu.”

”Trại có gần đây không hả cháu? Đi chừng bao lâu? …”

Chợt thằng bé chạy vụt vào lùm cây.

”Này, chị kia, nói chuyện gì với nó thế?”

Tên công an, mặt non choẹt, vác súng đi tới: “Gia đình nhà đó “nà” bọn “nười” lao động. Không chịu sản xuất, chỉ định “nàm” thuê.”

Đưa đôi mắt nhìn khắp lượt có vẻ đe dọa, hắn hất hàm nói tiếp: “Đợi đấy. Sẽ có xe của Hợp tác xã phục vụ. Ai không tuân lệnh, cúp thăm nuôi.”


”Việt Nam tham dự Thế Vận Hội mang về ba cúp: Cúp điện, cúp nước, cúp lương thực. Giờ đây lại sắp lãnh thêm một cái cúp nữa.” Tiếng thì thầm, rúc rích của hai thanh niên đi cùng chuyến.

Tiếng lọc cọc từ xa mỗi lúc một gần. Xe trâu đến. Những mảnh cây ngang dọc sơ sài đóng vào nhau. Bốn bánh xe đẽo bằng gỗ. Sợi dây thừng lớn nối từ cổ xe vào mình một con trâu già. Cán bộ hợp tác xã nhảy xuống khỏi xe. Chúng mời nhau điếu thuốc lá Thủ Đô. Lương thực được chúng tôi khuân chất lên xe. Bao nhiêu thùng là bấy nhiêu tiền. Thùng to, nhỏ giá chở khác nhau. Tên cán bộ ngồi trên một thùng đồ vững vàng nhất. Chiếc roi mây quất nhẹ vào mình trâu để con trâu bước đi. Ngươì thăm nuôi lẽo đẽo đi bộ theo sau. Trời nắng. Đường gồ ghề những đá. Người và vật lê bước nặng nhọc. Đi, đi mãi… Sâu tít vào rừng. Đường vòng vèo tưởng như không có lối ra. Qua những con suối cạn, ì ạch mãi chúng tôi mới đẩy được xe qua. Tên cán bộ ngừng lại cho con trâu nghỉ mệt. Dãi nhớt đầy miệng, trâu thở phì phò. Tội nghiệp cho cả trâu. Tội nghiệp cho cả người thăm nuôi. Cổ tôi khô. Đầu nhức như búa bổ. Tôi ngồi vật xuống cỏ…

Trời đã xế chiều, ánh nắng nhạt dần. Người và vật vẫn tiếp tục cuộc hành trình trong yên lặng. Có tiếng lá khô vỡ vụn. Không phải tiếng xào xạc của lá cây rơi rụng. Không phải tiếng chân chạy của thú rừng.

Cặp mắt tôi như sáng lên. Một toán người bẻ lá đi ra. Có người thân quen không nhỉ? Bộ quân phục của binh chủng thủy quân lục chiến dù phai màu theo năm tháng, dù bị rách vá bởi kiếp đọa đầy, vẫn không làm mất đi vẻ thông minh sáng sủa của những người tù. Vai vác cuốc, tay cầm xẻng, bi đông nước lủng lẳng thắt lưng, các anh nhìn chúng tôi với ánh mắt cảm thông, chia sẻ.

Tên công an thấp bé ôm súng chạy xộc lên phía trước. Tôi đi sát bờ cỏ, len lén rắc kẹo lên lối đi. Những mảnh giấy cuộn tròn thật nhỏ vội vàng chuyền tay. Lời nhắn gửi của các anh gửi về Saigon.

Quãng đường rộng hơn, bằng phẳng. Đó đây, thấp thoáng mái nhà. Tôi gặp Ngô Kim Thái, bạn học cũ Trưng Vương đi trở ra. Chúng tôi chỉ kịp chào hỏi nhau vài ba câu. Sắp tới K5. “K1 hả? Còn đi lâu lắm…”

Xe trâu mỗi lúc một nhẹ hơn khi ghé qua một K. Tôi là người cuối cùng, đi vào K có con số nhỏ nhất. Lố nhố vài người đến trước đứng trên thềm. Mọi người nhanh nhẹn phụ giúp chuyển đồ trong khi tôi trả tiền xe.

Xếp đồ vào phòng qui định, tôi chỉ kịp nhận giường chiếu là buông mình nằm mê mệt.

”Chị! Dậy đi chị! Không trình giấy, ngày mai làm sao được gặp?”

Nghe đến giấy tờ, tôi bật người lên. Quên cả nhức đầu. Tú, người lay gọi tôi, có gương mặt trái soan, còn rất trẻ. Tú đi chuyến tàu đêm, đến đây từ sáng.

”Phòng tắm ở đâu?”

”Phòng tắm hả?” Tú cười chỉ về hướng sau nhà.

”Mấy tấm phên che không kín. Có còn hơn không. Nhưng nước bẩn lắm. Phải xuống tít dưới kia lấy nước ở suối. Em có mua được một cái xô. Cho chị mượn đó.” Tôi cảm ơn người bạn mới.

”Trước anh làm gì?”

”Chiến tranh chính trị.”

”Cấp bậc?”

”Trung tá. Chức vụ luôn nhé! Tham mưu trưởng trường Đại Học chiến tranh chính trị Đà Lạt.”

”Chết, chức to quá! Chồng em cũng chiến tranh chính trị. Cấp úy nhỏ nhất thôi. Mà chị ơi, đúng rồi! Chính trị tội nặng nhất. Họ gọi là thành phần ác ôn, tập trung tại K1. Không biết họ nhốt mấy ổng có gần đây không nhỉ?” Tú thì thầm. “Họ cấm không cho người thăm nuôi ra khỏi khu này, cho nên… em chẳng biết gì hơn.”

Tôi nhìn quanh, Vẫn cỏ cây chằng chịt. Chỉ có hàng rào chung quanh khu tiếp tân này là được cắt xén cẩn thận, ngay ngắn. Ngôi nhà ba gian. Tường cây, mái bằng lá cỏ khô, nền đất. Hai gian dành cho thân nhân. Khoảng sân nhỏ với những bồn hoa, luống cây cảnh xếp bằng sỏi đá đơn sơ. Khung cảnh nơi đây chắc chắn phải có bàn tay của những người tù. Lòng tôi chùng xuống. Ngậm ngùi. Phía xa là nhà bếp. Trong ánh lửa bập bùng, thấp thoáng bóng người mẹ già, người vợ trẻ lui cui đun nấu thức ăn tươi cho ngày mai. Thịt gà kho gừng, thịt bằm ớt rang khô. Bát canh rau, thịt kho trứng… Những món ăn quen thuộc như chìm vào quên lãng – vì bên ngoài cũng thiếu thốn, có được ăn đâu?

”Chị có nhìn thấy những cây nhang cắm trên cành cây phía đằng kia không? Của một bà phòng bên cạnh. Ổng chết lâu rồi.”

Tôi lạnh người. Sáng nay mới biết. Dã man. Để người ta lặn lội ra đây?

Đêm xuống. Bao trùm núi rừng. Tôi thao thức không ngủ. Lo lắng. Chỉ mong trời sáng. Cuối cùng tôi cũng thiếp đi được một chút để rồi được đánh thức bởi tiếng khua động của mọi người chung quanh.

Giây phút chờ đợi như kéo dài. Hơn tám giờ, hai tên công an ôm giấy tờ đến, lững thững trong khi mọi người nôn nóng. Gọi tên ai, người đó mới được vào phòng đợi.

”Con chị tên gì?”

Kỳ quá! Hôm qua đã ghi rồi mà. Người đàn bà ấy đã đứng tuổi, đi cùng chuyến đò với tôi. Tên công an thì chưa đến hai mươi tuổi. Bà đáng tuổi bà, tuổi mẹ hắn.

”Thưa ông…”

”Này, chị phải bỏ ngay cái giọng quan niêu phong kiến ấy đi nhá!”

Giọng rụt rè: “Thưa anh…”

”Ai anh em gì với cái nhà chị?”

Tiếng nói cất lên như một tiếng thở dài:

”Thế bây giờ tôi phải gọi như thế nào đây?”

”Gọi nà cán bộ. Báo cáo cán bộ. Biết chưa?”

Lần lượt mỗi người vào như bị hỏi cung. Mỗi người bị tên công an vặn vẹo, nạt nộ. Gian phòng nhỏ hẹp, chỉ đủ kê một cái bàn nhỏ ở góc cửa ra vào, tên công an ngồi làm cái việc hỏi cung. Một cái bàn dài, rộng kê ở giữa. Thân nhân ngồi một dãy. Phía bàn đối diện dành cho tù nhân. Vị trí của mỗi người tùy theo sự sắp xếp của công an.

Và giây phút chờ mong đã đến. Người thân của chúng tôi đã được giải tới. Mọi người trong phòng nhốn nháo. Người ngồi bên trong đứng lên để được nhìn rõ hơn. Những người tù thong dong bước tới mỗi lúc một gần. Quần áo mang trên người còn nguyên nếp gấp. Quần áo mang theo, nhưng lần này sao rộng thùng thình như đi mượn. Cặp mắt ai cũng sáng lên khi nhận ra người thân yêu.

Tên công an áp giải bắt xếp hàng ở dưới sân. Hắn hất hàm cho từng người vào. Hơn bốn năm xa cách, chúng tôi nhận ra ngay những nét thay đổi của nhau. Thời gian và khổ cực. Cuộc sống bên ngoài cũng chẳng mấy tự do. Khóc thì sẽ bị đuổi ra. Nhưng những giọt nước mắt vẫn lặng lẽ rơi.

Năm phút. Mười phút. Thời gian trôi nhanh. Gần hết giờ thăm. Những câu hỏi, câu trả lời lạc lõng. Toàn những chuyện đã viết trong thư. Đôi mắt tên công an gườm gườm. Mấy cái gai nhọn lúc nào cũng muốn đâm vào da thịt.

Đi suốt cả chiều dài đất nước để có được mười lăm phút gặp nhau. Quà sắp lên xe trâu. Tôi nhìn theo chồng đứng vào hàng để giải về. Chúng tôi theo ra cổng, nhưng chỉ được đứng bên hàng giậu nhìn theo cho đến khi toán người đã khuất vào lùm cây.

“Cùng trông lại mà cũng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”

Thuở còn đi học, nghe cô Tỉnh giảng Kiều say mê. Nhưng chỉ thích Chinh Phụ Ngâm, để rồi ngày nay phải mang nỗi buồn cô phụ. Tôi nuốt nước mắt nghẹn ngào. Bỗng dưng vạn vật mờ tất cả.

Trích từ tập hồi ký Lối Cũ Chẳng Sao Quên

(The Trail I Never Forget)



Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 27/Apr/2016 lúc 9:08am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 28/Apr/2016 lúc 11:07am

CƠN NƯỚC LŨ


Để biết ơn Thương Binh V.N.C.H.

Thấy một thanh niên trông quen quen, mặc quân phục Hải Quân, đi ngược chiều với mình, Thạch chậm Vespa lại. Nhận ra người bạn thân hồi trước học trường Hưng Đạo rồi sau cùng vào Đại Học Khoa Học với chàng, Thạch thắng Vespa, reo lên:

-Luân! Phải Luân không?

Chàng Hải Quân ngạc nhiên:

-Ủa, Thạch! Mày làm gì mà mặc đồ Biệt Động Quân “ngon” vậy?

-Tao bị động viên vào Trường Sĩ Quan Thủ Đức; ra trường, xin về Biệt Động Quân. Còn mày, đi Hải Quân hồi nào? Tao nhớ hình như mày nhỏ tuổi hơn tao mà.

-Ừ, tao chưa bị động viên; nhưng thấy bạn bè nay đứa này “lên đường”, mai đứa kia bị thương, mốt đứa khác tử trận, tao chịu không được, tình nguyện vào Hải Quân.

-Hải Quân mà giờ này lang thang ở đây?

-Chiến hạm vừa về nghỉ bến, tao muốn ghé thăm bà Cô để nhờ nhỏ em chở giùm về nhà Bố Mẹ tao. Còn mày?

-Tao đi phép về thăm gia đình. Mày đi đâu, tao chở mày đi?

Vừa “phóng” lên phía sau Vespa Luân vừa nói:

-Cảm ơn mày. Cô tao ở gần đây thôi.

-Có phải bà Cô mà hồi trước tụi mình thường tới chơi rồi đàn hát “lung tung beng” hay không?

-Đúng rồi.

-Vậy thì tao nhớ rồi.

Thạch chợt nhớ Cô có người con gái đàn và hát rất hay, nhưng chàng không nhớ tên; vì lúc đó cô bé còn nhỏ, chưa gợi được sự chú ý của thanh niên.

Thạch dừng Vespa trước nhà Cô. Luân bước xuống, chưa kịp cảm ơn Thạch thì Thủy Ngọc – con gái của Cô – đi học vừa về. Thủy Ngọc vui mừng chào Luân và Thạch rồi đi vào nhà. Ánh mắt của Thạch không rời Thủy Ngọc.

Thấy ánh mắt của Thạch, Luân hơi phân vân; vì biết Chú của chàng không thích nhà binh – nhất là sĩ quan thuộc các quân binh chủng “thứ dữ” – vì Ông ngại con gái của Ông sẽ…Nhưng nếu, ngay bây giờ, Luân từ giả người bạn thân từng học chung, đi biểu tình chung, từng “văn nghệ văn gừng” với nhau trên các sân trường đại học thì Luân không đành!

May quá, nhờ Thủy Ngọc cho biết có Luân và Thạch đến thăm, Cô bước ra cửa:

-Luân! Sao không đưa bạn vô nhà chơi, con?

Luân chưa kịp đáp, Thạch đã vội dựng Vespa, cúi chào:

-Dạ, kính chào Cô. Lâu rồi mà Cô vẫn nhận ra cháu.

-Cháu bận đồ lính thấy khác thật, nhưng Cô vẫn nhận ra. Vô chơi, cháu.

Từ hôm đó, mỗi ngày Thạch đều đến Bến Bạch Đằng, lên chiến hạm HQ505, rủ Luân đi thăm Cô. Như dạo còn đi học, mỗi khi đến nhà Cô, Thạch thường đệm Guitar, Luân đàn Piano, Thủy Ngọc đàn Violon; đôi khi ba người thay đổi nhạc cụ hoặc cùng hát bên nhau.

Sau đó, mỗi khi về phép, Thạch đều đến nhà Cô để thăm Thủy Ngọc. Thời gian này Thủy Ngọc đã trở thành một thiếu nữ cao, với những đường nét rất cân đối cùng gương mặt xinh đẹp, nhân hậu và đôi mắt nâu thơ dại. Chính nét thơ dại trong đôi mắt nâu nồng nàn và khuôn mặt phản phất vẻ đẹp Tây Phương cùng với tiếng đàn, tiếng hát của Thủy Ngọc mà rất nhiều chàng trai say mê, theo đuổi nàng.

Thạch thầm tiếc là thời gian trước đây, cùng Luân đến thăm Cô và biết Thủy Ngọc học cùng trường, Thạch đã không hề để ý đến cô bé con, người còn “suôn đuột”, “chưa có ngực”. Bây giờ, mỗi lần về phép là mỗi lần hồi hộp, vì Thạch không biết Thủy Ngọc đã bị ai chinh phục hay chưa!

Riêng Thủy Ngọc, dù biết Bố không thích nàng giao thiệp với nhà binh, nàng cũng vẫn bị cuốn hút vì bộ quân phục thẳng nếp, mái tóc cắt ngắn, làn da sạm nắng, dáng đi hiên ngang, đôi mắt nhìn thẳng và thái độ tự tin.

Tình yêu trong lòng Thủy Ngọc và Thạch âm thầm nảy sinh cho nên chàng và nàng thường chọn những tình khúc có lời ca ướt lệ để cùng đàn, hát bên nhau.

Những khi vắng Thạch, Thủy Ngọc thường thẩn thơ một mình, nét mặt buồn buồn và đôi mắt xa xăm như mong ngóng một điều gì! Khi Thạch về phép, ghé thăm, Thủy Ngọc tươi cười, líu lo như chú chim non vừa sổ lồng.

Mỗi khi thấy sự thay đổi thái độ nhanh chóng của Thủy Ngọc, Bố Mẹ của nàng tự hỏi, tại sao Thủy Ngọc không vui tươi, hớn hở đối với những thanh niên khác, có bằng cấp và địa vị cao, đang cố chinh phục nàng mà nàng lại chỉ vui tươi hớn hở với Thạch thôi?

Không những thế, khi Thạch và Thủy Ngọc cùng đàn và hát bên nhau, Bố Mẹ của Thủy Ngọc để ý: Dư Âm là tình khúc Thủy Ngọc và Thạch cùng đàn và hát nhiều nhất; kế đến là Love Me Tender. Bố Mẹ của Thủy Ngọc không hiểu tiếng Anh, nhưng động từ “love” thì Bố của Thủy Ngọc biết. Thế là Bố chỉ cần nhớ chữ “tender” rồi phiên âm ra tiếng Việt, hỏi Luân. Luân vô tình và ngay thật cho Bố biết đó là tựa một tình khúc của Elvis Presley. Bố bảo Luân dịch lời ca ra tiếng Việt.

Sau khi hiểu rõ lời ca, Bố Mẹ trực tiếp cho Thạch hay rằng Ông Bà không cho phép Thủy Ngọc giao thiệp với Thạch nữa!

******

Nơi hậu trường, cách sân khấu bằng một tấm màn dày, thấy Thủy Ngọc đang hóa trang cho màn trình diễn thời trang, thái độ rất vui và tự tin, Thầy phụ trách văn nghệ hỏi:

-Thủy Ngọc! Sẵn sàng cả rồi chứ?

-Dạ, thưa Thầy…

Vừa nói ngang đó, Thủy Ngọc chợt dừng lại; vì giọng Tenor của ai nghe quen quen, vang lên từ bên kia bức màn ngăn cách sân khấu và hậu trường: “Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu muôn tiếng tơ. Không gian trầm lắng như âu yếm ru ai trong giấc mơ…”(1) Thủy Ngọc nhíu mày, đứng lặng như pho tượng! Nhưng trong tiềm thức, tình yêu nàng âm thầm dành cho Thạch bỗng cuồn cuộn trổi dậy như cuồn phong!

Riêng Thạch, sau khi bị Bố Mẹ của Thủy Ngọc yêu cầu đừng liên lạc với Thủy Ngọc nữa, Thạch rất buồn và thất vọng! Những lúc hành quân truy kích hoặc trực thăng vận nhảy ngay trên đầu địch, Thạch quên mất nỗi buồn; nhưng khi rảnh rỗi hoặc nghe ai đàn, hát một nhạc phẩm mà chàng và Thủy Ngọc thường đàn và hát bên nhau thì nỗi buồn và sự thất vọng kéo về, đè nặng trong tim! Giờ đây, đang diễn đạt tất cả nỗi niềm của tác giả và cũng là niềm đau của chàng, giọng Thạch trở nên tha thiết vô cùng: “…Yêu ai anh nắn cung đàn đầy vơi đôi mắt xa vời….Anh như lầu vắng em như ánh trăng reo muôn ý thơ…Tim anh băng giá đang nhại ngùng câu năm tháng mong chờ…”(2)

Mấy năm qua, những kỷ niệm khi Thạch và nàng cùng đàn hát bên nhau tưởng đã chìm vào dĩ vãng; nhưng bây giờ, tiếng hát cao vút của ai bên kia tấm màn lại làm cho trái tim của Thủy Ngọc thổn thức âm thầm – nhưng rất dữ dội!

Thái độ của Thủy Ngọc làm Thầy phụ trách văn nghệ thắc mắc:

-Thủy Ngọc! Chị bình an chứ?

-Dạ…thưa Thầy, ai…ai… đang hát ngoài đó, thưa Thầy?

-Nhận không ra giọng à? Thạch đó. Thạch hồi trước cũng trong ban văn nghệ với Luân và Thủy Ngọc đó, nhớ không?

-Dạ thưa Thầy, hôm tổng dợt, sao con không thấy màn đơn ca của anh Thạch trong chương trình?

-Hôm qua Thạch ghé thăm trường, biết trường có buổi văn nghệ đêm nay, Thạch xin hát một bài. Nhận thấy Thạch là học trò cũ, năng khiếu văn nghệ cao, lại lên đường tòng quân, tôi cảm phục và chấp thuận. Thôi, chị chuẩn bị đi, sắp đến phiên chị đó.

Nói xong, Thầy quay đi. Thủy Ngọc thở dài vừa khi Thạch chấm dứt màn đơn ca trong tiếng vỗ tay vang dội; rồi nhiều tiếng “bis…bis…” vang lên. Thạch nói vào micro:

-Xin cảm ơn quý vị, quý Thầy Cô và các bạn. Tiếp theo, Thạch xin trình bày tình khúc My Heart Will Go On của Celine Dion

Lại tiếng vỗ tay. Thạch dạo đàn rồi “bắt” vào: “Every night in my dreams, I see you, I feel you that is how I know you go on. Far across the distance and spaces between us you have come to show you go on…” Theo giọng hát buồn buồn của chính mình, Thạch nhớ những buổi chiều im vắng, sau khi hành quân trở về, chàng thường ôm Guitar, vừa đàn vừa hát vừa nhìn dòng suối cạn phía xa trong khi hoàng hôn lũ lược kéo về phủ xuống núi rừng thâm u.

Nơi vùng núi rừng thâm u đó, mỗi khi đoàn quân dừng chân, Thạch thường chạnh lòng nghĩ đến phận đời của chàng và của những thanh niên cùng thế hệ với chàng – ở miền Nam – rời gia đình, xa người thân và bạn hữu, phải hành quân liên miên để chống trả những đợt tấn công ác liệt của Bắc quân xâm lược!

Suốt thời gian được tăng phái, Thạch không thể nhớ được bao nhiêu lần đơn vị chiến lược này bị “tiền pháo, hậu xung” và bị tấn công bằng chiến thuật “biển người”. Thạch chỉ nhớ lần cuối cùng, để giải tỏa áp lực của Bắc quân quanh đơn vị chiến lược này, đơn vị của chàng được lệnh tham dự cuộc hành quân hỗn hợp với một đơn vị Bộ Binh, vào một ngày mưa to gió lớn, có thiết giáp yểm trợ để càn quét các đơn vị Cộng Sản Việt Nam từ Bắc xâm nhập.

Chính trong cuộc hành quân quy mô này Thạch bị Bắc quân dùng súng CKC bắn sẻ, khi Thạch đang khom người điều quân qua ống liên hợp. Viên đạn trúng chân trái của Thạch. Thạch và Tiểu Đoàn Trưởng Thiết Giáp xin trực thăng tải thương; nhưng thời tiết quá tệ và cũng vì súng phòng không của địch bắn lên xối xả, trực thăng không thể “bốc” thương binh!

Khi được đưa về quân y viện, vết thương đã sưng to và làm độc!… Nhớ đến đây, giọng Thạch trở nên nghẹn ngào, đầy u uất:“…And my heart will go on and on. Love can touch us one time and last for a lifetime and never let go till we’re gone…”

Trong khi nén xúc động, cố kềm nước mắt để Thầy và bạn khỏi biết, Thủy Ngọc chợt nghe các nam sinh “xầm xì”:

-Anh Thạch “hết sẩy”! Ảnh “ngon” thiệt!

-Tội nghiệp ảnh quá!

Hai tiếng “tội nghiệp” khiến Thủy Ngọc tò mò. Bước đến bên trái sân khấu, nhìn ra, Thủy Ngọc ôm ngực, tưởng như trái tim của nàng đã thoát khỏi lồng ngực! Trước mắt nàng, Thạch – trong quân phục Biệt Động Quân, mũ nâu vắt hờ vào cầu vai trái – đang ngồi trên ghế, chiếc nạn gỗ dựa thành ghế, hai tay của Thạch ôm Guitar. Thạch tựa thùng Guitar lên bắp vế chân phải và đệm theo tiếng ca não nùng của chàng. Như không tin vào mắt mình, Thủy Ngọc cố thay đổi vị thế nhưng nàng cũng chỉ thấy một chiếc giày trận bên chân phải của Thạch thôi!

Trong khi Thủy Ngọc run rẩy, nước mắt nhạt nhòa thì Thạch hát đến câu cuối: “…We’ll stay forever this way. You are safe in my heart. And my heart will go on and on.” Thạch cúi chào. Cả hội trường vừa vỗ tay vừa đứng lên.

Thủy Ngọc hy vọng rằng Thạch sẽ vào hậu trường bằng cánh trái để nàng có dịp trực diện với chàng; nhưng, không hiểu vì vô tình hay cố ý, Thạch rời sân khấu bằng cánh phải. Thủy Ngọc ôm mặt, khóc như mưa!

Vài cô bạn cho Thầy phụ trách văn nghệ biết sự việc đang xãy ra cho Thủy Ngọc. Thầy đến, đưa Thủy Ngọc ra sau tấm màn:

-Tại sao chị lại xúc động quá độ như vậy?

Tự nhủ, sẽ không để niềm đau thương của riêng mình ảnh hưởng đến buổi văn nghệ mà toàn trường đã dày công tập luyện, Thủy Ngọc trở nên bình tĩnh một cách lạ thường:

-Thưa Thầy, con xin lỗi. Như Thầy biết, anh Thạch là bạn cùng lớp với anh Luân của con. Anh thạch thường đến nhà con hòa đàn với anh Luân và con. Bây giờ, bất ngờ thấy anh Thạch như thế con chịu không được!

-Tôi hiểu. Chị nghĩ chị có vững tinh thần để giữ tiết mục độc tấu Violon hay không?

-Dạ, thưa Thầy…

Bất ngờ một ý nghĩ thoáng qua, Thủy Ngọc tiếp:

-Thầy cho con xin một đặc ân, được không ạ?

-Vâng, chị cứ nói.

-Thưa Thầy, con xin Thầy cho con được đổi mục độc tấu bằng mục đơn ca.

Đã từng nghe Thủy Ngọc hát nhiều lần trong những buổi văn nghệ trước đây, Thầy gật đầu:

-Vâng. Chị cho người giới thiệu chương trình biết sự thay đổi này và cho anh đàn Guitar biết “tông” và nhịp điệu của bản nhạc, nhé!

-Dạ. Con xin cảm ơn Thầy.

Sau khi nghe người điều khiển chương trình giới thiệu Thủy Ngọc sẽ trình bày ca khúc Kỷ Vật Cho Em của Phạm Duy, Thạch cảm thấy bồi hồi, xúc động! Nhìn dáng Thủy Ngọc thướt tha bước ra, cúi chào, đến sau micro rồi kéo micro cao hơn, Thạch tự hỏi, không biết tình cờ Thủy Ngọc chọn ca khúc này hay là…Thạch thở dài, lắc đầu, không muốn nghĩ tiếp.

Dạo phân đoạn đầu xong, người đàn Guitar “rải” một tràng hợp âm và Thủy Ngọc “bắt” vào: “Em hỏi anh. Em hỏi anh bao giờ trở lại? Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về… Anh trở về anh trở về trên đôi nạng gỗ. Anh trở về, anh trở về bại tướng cụt chân…” Nét mặt thống khổ, hai hàng nước mắt tuôn dài cùng tiếng ca nức nỡ của Thủy Ngọc khiến tất cả khán giả bàng hoàng đến sửng sờ!

Đến đoạn điệp khúc, giọng Soprano của Thủy Ngọc vút cao: “…Anh trở về nhìn nhau xa lạ. Anh trở về dang dở đời em. Ta nhìn nhau ánh mắt chưa quen. Cố quên đi một lần gian dối, anh ơi!…”. Một quân nhân mặc quân phục Biệt Động Quân, chống nạn, khập khểnh rời hội trường; vì trái tim của quân nhân này không thể nhận thêm bất cứ sự đau đớn, dày vò nào nữa!…

******

Thấy Luân cùng với Bố Mẹ đến thăm, Ni Cô Diệu Thu rất ngạc nhiên; càng ngạc nhiên hơn nữa khi Ni Cô thấy thái độ của Luân rất bối rối, bồn chồn và Bố Mẹ thì lo âu, buồn bả, chứ không bình thản như những lần Bố Mẹ đến thăm nàng trước đây. Luân nhập đề ngay:

-Ni Cô có theo dõi thời sự hay không?

-Dạ không. Nhưng em nghe nhiều Phật tử bàn tán.

-Cô Chú muốn tôi đưa lên đây để thuyết phục Ni Cô cùng di tản với gia đình.

-Thưa Bố Mẹ, thưa anh, con đã an trú cửa Phật rồi thì đâu có gì mà phải di tản?

-Ni Cô chưa hiểu bản chất của Cộng Sản đâu. Ni Cô nên nghe lời, về nhà cùng đi với gia đình; gia đình không bao giờ ra đi mà để Ni Cô ở lại.

Quay sang Bố, Ni Cô giải thích:

-Thưa Bố Mẹ, người đã thành tâm xuất gia thì không bao giờ chọn sự sung sướng cho bản thân mà chỉ cầu an vui cho tha nhân. Con chỉ muốn sớm tối nương tựa cửa Phật và phát huy đạo pháp.

Giọng Bố rất buồn:

-Nếu Ni Cô muốn phát huy đạo pháp thì Ni Cô nên đi với gia đình; dù gia đình cũng chưa biết sẽ đi đâu và đến đâu. Nhưng gia đình – nhất là các em trai của Ni Cô – không thể nào ở lại với Cộng Sản. Đến bất cứ đâu, Ni Cô cũng có thể rao truyền về Phật Giáo để cảm hóa con người.

-Thưa Bố, nếu muốn cảm hóa con người một cách thiết thực thì con nên ở lại Việt Nam để cảm hóa những kẻ ác – những kẻ đã tạo ra không biết bao nhiêu đau thương cho dân tộc Việt Nam!

Rất ngạc nhiên trước sự suy luận rất hiện thực của Ni Cô, nhưng Bố vẫn thuyết phục:

– Ni Cô nên nhớ, ở ngoại quốc rất ít người theo đạo Phật; Ni Cô nên ra đi để có cơ hội giúp người ngoại quốc hiểu về Phật Giáo.

-Thưa Bố, con nghĩ, trên thế giới, bất cứ người nước nào cũng có nhiều thiện tâm hơn người Việt mình; thế thì người ngoại quốc không cần con phải đem đạo lý của Đức Phật ra giảng cho họ.

-Lý do nào Ni Cô lại nói như thế?

-Bố và anh Luân nghĩ xem, trên thế giới có quân đội nào xua quân tàn sát gần như trọn vẹn dân chúng của một thành phố lớn, như Huế, năm 1968? Có quân đội nào mỗi ngày pháo kích cả ngàn quả đại pháo hoặc hỏa tiễn 120 ly vào các thành phố đông dân cư, như Bình Long, An Lộc rồi pháo kích ngay vào trường học Cai Lậy và bệnh viện Long An? Có quân đội nào pháo kích chính xác và điên cuồng vào đoàn dân chạy loạn từ Quảng Trị vào Huế năm 1972 và từ Đà Nẵng sang Tiên Sa vào tháng cuối Ba năm 1975? Có quân đội nào đưa ra chiến trường thanh niên 15, 16 tuổi rồi buộc những thanh niên này phải thực hiện chiếc thuật biển người? Có quân đội nào, ngay sau khi cưỡng chiếm được mục tiêu, đã xua đuổi tất cả thương binh ra khỏi những quân y viện của “bên thua cuộc”? Câu giải đáp là: Chỉ có Quân Đội Cộng Sản Bắc Việt mới vô nhân tính khi thực hiện những hành động tàn ác đó. Những hành động dã man như thế không thể gọi là chiến đấu.

-Nếu Ni Cô hiểu được như thế thì Ni Cô càng nên ra đi, xa lánh kẻ ác. Nơi môi trường mới Ni Cô cũng vẫn có thể hoành dương đạo pháp.

-Thưa Bố, nếu cần phải dùng tín ngưỡng để cảm hóa con người thì chúng ta nên dùng tín ngưỡng để cảm hóa kẻ ác trước; và kẻ ác cần phải cảm hóa chính là những người Cộng Sản Việt Nam; vì họ đã bị đầu độc, bị cổ xúy, rồi dùng vũ khí của Nga, Tàu và tất cả mọi thủ đoạn để giết người miền Nam với chủ đích cướp đi phần đất mà chính những kẻ ác đó đã đồng ý phân chia từ năm 1954!

Luân có vẻ sốt ruột:

-Chúng ta không có thì giờ để tranh luận. Ni Cô nên nghe lời Cô Chú kẻo Cô Chú buồn.

-Thưa Bố Mẹ, con xin lỗi Bố Mẹ. Bố Mẹ cho con ở lại để con được thực hiện hạnh nguyện của con.

Đến lúc này, không thể kềm giữ tình cảm được nữa, Mẹ khóc ròng:

-Con ơi! Bố Mẹ chỉ có con là con gái, không hiểu vì lý do gì con đi tu, Mẹ đã đau buồn nhiều lắm rồi! Bây giờ con lại đành đoạn ở lại thì Mẹ sống sao nỗi, con ơi!

… Kể đến đây, Luân cảm thấy đau lòng quá, vội nhìn xuống để Thạch không thấy đôi mắt ửng đỏ của Luân. Cả hai im lặng rất lâu. Nhìn vùng biển lao xao phía xa của trại tỵ nạn Orote Point, Guam, tâm trí của Thạch quay cuồng. Cảm giác hụt hẩng và trạng thái chối bỏ quyện vào nhau khiến Thạch cảm thấy nhức đầu và gần như ngộp thở! Cảm giác này cũng tương tự như buổi sáng năm nào, tại quân y viện Pleiku, Thach tỉnh lại, nhận ra chân trái của chàng không còn nữa!

Luân hỏi:

-Thạch! Lần cuối cùng mày thấy hoặc gặp Thủy Ngọc là lúc nào?

Thạch kể lại diễn tiến buổi văn nghệ liên trường. Luân thở dài:

-Thế thì tao hiểu rồi. Tội nghiệp em tao! Nó giữ kín niềm đau, gia đình không ai biết. Tại sao mày bị thương mà mày cũng giấu tao?

-Vì mày biết thì Thủy Ngọc biết.

-Nếu thế thì mày tham dự văn nghệ liên trường để làm gì?

-Tình cờ ghé thăm trường tao mới biết có buổi văn nghệ đó. Tao suy nghĩ và muốn đích thân tao giải bày nỗi niềm của tao với Thủy Ngọc chứ tao không muốn người khác mách lại.

Bất ngờ nghe Luân vô tình nói tên ngôi chùa mà Thủy Ngọc đang tu, tâm trạng của Thạch rối bời và trí óc quay cuồng! Sau khi bằng lòng với quyết định của mình, Thạch bảo:

-Thôi, tao đi!

-Đang sắp hàng lấy phần ăn, sắp tới phiên rồi, sao mày lại bỏ đi?

Thạch vẫy tay, khập khểnh bước đi…

******

Nhờ số tiền những người di tản biếu trước khi Thạch trở về trên thương thuyền Việt Nam Thương Tín – khi Thạch bị giam tại Nha Trang, ban quản giáo tịch thu hơn một nửa – Thạch đi xe đò về Saigon, đến ngay ngôi chùa mà Luân đã vô tình nói tên.

Sư Cô trù trì cho Thạch biết, lý do Ni Cô Diệu Thu xin hoàn tục là vì Bố Mẹ của Ni Cô bị “cách mạng” cho đi kinh tế mới. Ni Cô biết Bố Mẹ không quen lao động cực nhọc, Ni Cô muốn nhận lãnh trách nhiệm của người con bất hiếu! Bao giờ Bố Mẹ quy tiên, Ni Cô sẽ trở lại con đường tầm đạo!

Đến nhà Thủy Ngọc, chỉ thấy những kẻ quê mùa, đen đúa, còi cọc và hầu như ai cũng có đôi má gồ, răng vẩu, đầy cáu bẩn, đôi mắt láo liêng như rình rập ai, như sợ sệt điều gì và phát ngôn the thé thứ tiếng Bắc rất lạ tai, Thạch than thầm: “Những kẻ này mà thắng mình được sao, Trời!”

Đến nhà Bố Mẹ của Luân, Thạch cũng chỉ thấy những người của “bên thắng cuộc”!

Thạch về nhà Cha Mẹ. Một người đàn ông – cũng da xanh mét, răng hô, má gồ và đôi mắt láo liêng như sợ sệt, như theo dõi ai – bước ra, hỏi:

-Anh cần gì?

-Cách nay không lâu, tôi ngụ tại ngôi nhà này.

-Ô, thế anh “nà” con của ông Trưởng Ty…

Thạch đáp nhanh, không để ông này nói tiếp:

-Vâng. Tôi là con cả.

-Thế anh “nà” đại úy Biệt Động Quân, đúng không?

-Vâng.

-Tôi được “nhà nước” cấp cho ngôi nhà này, ngoài ra chúng tôi không biết gì cả.

Thạch thầm nghĩ “Chiến thắng để được như thế này hèn chi ‘cha con nó’ mới thề ‘sinh Bắc tử Nam’!” rồi hỏi:

-Thế ông biết Ba Má tôi dời đi đâu không?

-Gia đình tôi mới dọn vào nhà này khoảng vài tháng thôi nên tôi chả biết.

Thạch cảm ơn ông rồi bùi ngùi quay đi.

Lang thang, đau khổ và lạc lõng ngay trên Quê Hương mà chàng đã để lại một phần thân thể, Thạch bỗng nghe tiếng hát nghẹn ngào của một thương binh “Ngụy” đang ngồi xin tiền bên gốc cây: “…. Chạnh lòng tìm người em gái cũ, em tôi đã đi phương nào? … Giờ này tìm đâu hình bóng cũ, em ơi! Em đi về đâu?… Để rồi một năm nơi biên cương dấn bước thân nơi sa trường. Ngày thì tìm vui bên tiếng súng khi đêm anh vui với đàn…Dù mộng tàn phai trong thương đau…”(3)  

Tiếng ca ai oán của anh thương binh như cơn nước lũ cuốn đi tất cả sự kiên nghị, bản tính can cường và ý chí phấn đấu của Thạch! Thạch hơi cúi đầu, bậm môi thật chặt rồi kín đáo đưa tay quẹt nước mắt!…

ĐIỆP MỸ LINH






Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 28/Apr/2016 lúc 11:18am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
giodocgocong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 12/Jan/2011
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 132
Quote giodocgocong Replybullet Gởi ngày: 29/Apr/2016 lúc 4:00pm

RA TÙ




Kể từ lúc nghe lệnh buông súng đầu hàng của Tổng-thống Dương-văn-

Minh , Thọ như rả rời thân xác , đầu óc nóng ran bỡi suy nghĩ quá nhiều

nên đi hay ở lại .

Rồi sau cùng …..Noi theo gương ông xếp bị kẹt vợ con tại Sài-gòn , Thọ ở

lại , không theo đoàn tàu Di tản ra Côn-sơn để cùng Hạm-đội HQVN qua

Philippine .

Từ Nam-căn Thọ bôn tẩu về Sài-gòn rồi ba ngày sau nghe theo lời Bố Mẹ

hối thúc , đi trình diện học tập cải tạo vài ba ngày sẽ được trở về , như lời

kêu gọi của Chính-quyền Cách-mạng .

Nhưng ngặt nổi , với lý-lịch HQ Đại-úy Nguyễn Thọ , đánh giặc nổi tiếng

trong các sông rạch Nam-căn Cà-mâu , đã từng được Cộng quân treo giải

mấy triệu đồng nếu ai lấy được cái đầu của Thọ .

Do đó , Thọ đã trải qua sáu trại tù từ Nam ra Bắc với một thời gian hơn

mười năm  dài , tưởng chừng hơn thế-kỷ  , làm kiếp ngựa trâu .

Nhờ ơn các cán ngố Việt-cọng cai quản trại giam , làm đảo điên đời sống ,

biến đổi người thành thú vật , vô luân-thường đạo-lý .

Làm cho kiến thức hiểu biết của con người ngày càng trở về ám-chướng

u-mê của thời ăn-lông-ở lỗ .

Mọi thứ trong cuộc sống tù đày chỉ gom về một mối là :

Tranh sống . Thế thôi .

Làm bất cứ điều gì , ăn bất cứ cái gì có có thể cho vào bụng , bất kể chuột

rắn giun dế ….. , miễn được sống còn , khỏi cần suy nghĩ .

Nhìn gương thằng bạn ở cùng trại , không chịu nổi cảnh tù đày khổ ải ,

nhục nhã , với sự  đối xử tàn ác bất nhân của những tên Quản-giáo .

Nó chỉ than vắn thở dài  vài lời bất mản . Thế mà hai tên trong Ủy ban

điều hành trại tù kéo nó ra sân cờ xử bắn gọi là để làm gương , không cần

xét xử tuyên án .

Thân phận con người ở trại tù là cỏ là rơm , mạng sống con người như

giun như  dế .

Thọ hoàn toàn không hiểu Cộng -sản đã nung đúc , giáo huấn cán bộ

như thế nào mà chẵng còn một chút lương tri , tình cảm giữa con người

và con người như mấy tên quản giáo đối xử với tù binh hiện nay ?

Nên sau ngày mản tù trở về , Thọ như mất hết bản tính làm người  , trở

nên lầm lì ít nói , nhiều thú tánh , hung dử …..

Gặp bất cứ người nào dù đã quen hay xa lạ , Thọ cũng dò xét , nghi ngờ ,

người này sắp làm điều gì hại ta ? .

Nhớ lại ngày ra khỏi trại tù cuối cùng ở Nha-trang cùng với 03 tên tù nổi

tiếng anh chị , một Thiếu-tá Dù , một Đại-úy Thủy-quân Lục-chiến và một

Đại-úy Biệt-động quân .

Cả bốn thằng áo quần rách nát tả tơi , thân xác chỉ còn da bọc xương .

Trưởng Ban quản giáo trại tù phát mỗi thằng sáu chục bạc cụ Hồ kẹp

trong tờ giấy xuât trại với lời nhắn nhủ giọng Bắc-kỳ :

– “ Các anh về ráng sống cuộc đời nương thiện và đàng hoàng cho phù

hợp đường nối giáo dục Bác Hồ nhé ! …”

Thọ định nói “ Tụi tao là Sỉ quan VN Công-hòa bại trận , chứ có phải dân

cướp bóc đâu mà mày bảo về sống đàng hoàng lương thiện ? “

Nhưng rất may đã kềm chế lại được .

Lúc này chỉ cần một chút nóng nảy sơ hở , làm nó nổi giận là có thể bị giử

lại ở tù thêm vài ba năm như chơi , bỡi luật pháp tùy sự buồn vui nóng

giận của tên quản giáo này .

Bốn thằng nhìn nhau nháy mắt , nhắc nhủ nhau không nên trả lời .

Bỗng tên quản giáo nói :

– Các anh về , được hưởng đời sống sung túc , vậy anh nào còn có đồ tiếp

  tế lần cuối như sữa , đường , bột ngọt… mà chưa dùng hết thì tình

  nguyện  để lại cho chúng tôi trước khi về thì tốt lắm .

Thọ dằn nén cơn bực tức lần nữa trả lời :

– Quản giáo biết tôi gần mười năm nay đâu có ai thăm viếng tiếp tế ? .

Hai thằng Thiếu tá dù và Đ/úy Thủy-quân Lục-chiến cũng lên tiếng :

– Tôi cũng năm năm rồi không ai thăm viếng .

– Tôi hơn hai năm rồi , vợ con bịnh họan đói khổ không tiếp tế được.

Anh quản-giáo ngắt lời , chỉ tay vào anh Đ/úy Biệt-động  :

– Còn anh ?. Người hùng Biệt-động , vừa mới được tiếp tế tuần trước ?

– Thưa Quản-giáo , tôi đã cho những bạn bè không thân nhân , chỉ còn lại

  gói nhỏ bột ngọt định nêm vào nồi canh rau trưa nay . Nhưng nếu

  Quản-giáo cần thì tôi xin nhường lại .

– Thôi được , cho các anh năm phút thu xếp hành trang và rời trại ngay

lập tức nhé .

Lần này thả tù đặc biệt , chỉ có bốn người nên không có xe đưa ra phố .

Các anh phải tự túc ….

Rồi anh quay qua dặn anh Đ/úy Biệt-động :

– Anh nhớ để gói bột ngọt trên bàn tôi nhé ….

Hành trang bốn thằng giống nhau , thằng nào cũng chỉ một bộ áo quần

rách nát mặc trong người , một bộ khác cũng rách nát gói bọc bằng tờ báo

cũ . Ngoài ra chẵng có gì khác . Bụng đói cồn cào nhưng cũng ráng đi

nhanh như chạy ra khỏi cỗng trại tù như sợ có ai kêu bắt trở lại .

Ôi ! Đất Trời có hiểu thấu tâm trạng bốn thằng tù được phép đội mồ sống

dậy lúc này không nhỉ ? .

Đã hơn mười năm trời rời xa phố thị , tình người miền Nam dưới xã

hội chủ nghĩa giờ đây thế nào hay cũng giống như những tên quản-giáo ?

Tàn ác , ích kỷ , ngu dốt , dơ dáy ….Nếu giống thì mình về biết sống với ai

đây ?. Cả bốn thằng tù cùng chung ý nghĩ , bắt đầu nói chuyện khi đã đi

xa trại chừng hơn cây số .

Ra tới quốc lộ chính về phố Nha-trang . Thọ đề nghị :

– Thề nào từ nay đến chiều cũng về tới phố , bây giờ vừa đói vừa mệt , ta

nên ngồi nghỉ một chút , chứ tiếp tục đi chắc sẽ ngất  xỉu dọc đường .

Không ai bảo ai , cả bốn thằng nằm sãi tay , thở hồng-hộc  ven quốc lộ

vắng vẻ , dưới ánh nắng chói chang buổi trưa hè ….

Chừng hơn năm phút , nghe tiếng xe gắn máy xình xịch sắp tới gần ,  cả

bốn đứa nhìn lên thấy một tên bộ-đội chạy Honda , không có súng .

Thọ nói với ba đứa kia như ra lệnh :

– Tụi bây im lặng , để tao nói chuyện với nó . Nếu nó hỏi lôi thôi , tao sẽ

  giết nó ngay .

Tên bộ đội chạy qua rồi quẹo xe trở lại , giảm tốc độ chạy chầm chậm ,

thả lết hai chân trên đường nhựa muốn ngừng lại , nhưng khi bắt gặp

bốn cặp mắt cú vọ , trợn trừng nhìn nó một cách hung dử , nó đổi ý rồ ga

dọt nhanh .

Bốn thằng lom khom đứng dậy tiếp tục đi bộ giống như bốn bóng ma thất

thểu trên đường vắng  . Thằng Th/tá Dù vừa thở vừa nói :

– Kể từ nay chắc bọn mình nên thay đổi thái độ nhìn người , tiếp xúc

người .

Nếu ta cứ tiếp tục nhìn người bằng ngờ vực, hận thù …thì làm sao ta

chung sống trong xả hội có nhiều kẻ thù hơn bạn như hiện nay ?

Hồi nảy , tên bộ đội kia cũng có thể muốn giúp ta điều gì không chừng ?

Thằng Đ/úy Biệt-động trợn mắt nói lớn :

– Đù má … gói bột ngọt nó còn tịch thu thì thử hỏi cái gì tụi nó không bóc

lột và giúp đỡ mình gì đây  ?

Khi đến xóm nhà gần Cầu Xóm-bóng , lần đầu tiên thấy dân chúng tấp

nập bán buôn , nhưng không che dấu được cuộc sống nghèo đói khó khăn

so với năm xưa .

Thình lình , một bà trạc tuổi ngoài bốn mươi , bưng rổ bánh tráng chạy

đến , lấm-lét nhìn trước nhìn sau rồi hỏi nhỏ vừa đủ nghe  :

– Các anh vừa mới được thả phải không ? . Chắc các anh đói lắm  hả ? .

Này , mỗi người lấy một cái ăn đi , tôi không tính tiền đâu .

Bốn thằng đang ngơ ngác nhìn nhau thì bà lấy phát cho mỗi đứa một cái

vừa nói :

– Chồng tôi là Th/tá thuộc sư-đoàn 23 , đã chết trong trại tù Cổng-trời Bắc

Việt ba năm trước . Không có xác đem về .

Thình lình , thằng Th/tá Dù ngữa mặt lên trời thút thít khóc và nói :

– Xã hội này còn có người thương xót ta sao ?

Bà bán bánh tráng cũng bắt đầu sụt sùi nấc nghẹn …..rồi đột nhiên bà

nói :  – Thôi ta giải tán , mấy tên công an đang đi tới kìa ….

Bà làm bộ chỉ tay và nói lớn :

– Cuối đường này có xe lamb  đi về phố ….

Rồi bà quay lưng bưng rổ bánh đi .

Ba tên công an đến gần , một tên lên giọng hách dịch hỏi :

– Các anh được thả về hay trốn tù ?

Cả bốn thằng không trả lời , tự động trưng giấy tờ xuất trại .

Sau khi xem xét kỷ càng , nó cũng chỉ tay về cuối đường nói :

– Cuối đường này có bến xe Lamb về phố . Muốn vô thành phố HCM thì

  phải đi nhanh mới kịp chuyến xe cuối cùng .

Tự nhiên Thọ lên tiếng :

– Chúng tôi muốn về Sài-gòn .

Tên công-an trợn mắt, to tiếng  trả lời :

– Sài-gòn đã là thành phố HCM từ ngày giải phóng , bộ quên rồi sao ?

Bốn thằng quay lưng lặng lẽ đi tới bến xe lamb .

Chiếc xe lamb đã gần đầy khách , rồ máy sắp chạy .

Bỗng có hai bà già bước xuống nhường chỗ cho bốn thằng lên .

Một lần nữa bốn thằng nhìn nhau nghi vấn ? .

Không lẽ hai bà này thấy bốn thằng dơ dáy hôi hám nên không muốn ngồi

chung ? . Hoặc là như tên quản-giáo đã nói trong trại tù : “ Các anh về

phải thận trọng tối  đa , bỡi nhân dân rất căm hận Ngụy-quân , Ngụy-

quyền . Lúc nào nhân dân cũng muốn lánh xa các anh . “ .

Thọ để ý nhìn thấy một bà chạy ra trước nói gì với anh tài xế , bà còn lại

nói nhỏ với thằng Th/tá Dù :

– Các anh khỏi cần trả tiền khi tới bến . Cô em tôi đã trả cho các anh rồi .

Bốn thằng chưa kịp nói cám ơn thì tài xế đã rồ máy chạy . 

Thằng Th/tá Dù không cầm được niềm cảm xúc , bưng mặt nấc lên nghẹn

ngào lần nữa . Thằng Đ/úy Biệt-động chưởi :

– Đù má …cái uy dũng , cứng rắn anh hùng của Binh-chủng Dù mày để

  đâu mà hở một chút là rơm rớm nước mắt  ? …

Bước xuống xe lamb , cả bốn thằng chạy nhanh qua bến xe đi Sài-gòn

nhưng cũng không kịp . Những người buôn bán cho hay xe vừa chạy 

khoảng mười phút . Thọ nói với ba đứa :

– Đù má …tới đâu thì tới … tao đói quá chắc phải vào tiệm mua cái gì cho

  vào bụng …

Rồi cả ba đứa cùng lên tiếng :

– Ừ , tao cũng đói quá …và thèm cơm …

Thằng Đ/úy Thủy-quân Lục-chiến nói :

– Tao vừa hỏi vé xe đi Sài-gòn 125 đồng một người . Nếu gom tiền bốn

thằng , chỉ đi được một . Bây giờ đòi ăn cơm nữa chắc khỏi đi .

Thọ chưỡi thề :

– Đù má… đói thì ăn … tới đâu thì tới…

Thằng Th/tá Dù lên giọng đạo đức :

– Mấy đứa bây nên bỏ bớt ĐM khi nói chuyện có được  không ? . 

Bây giờ ta bắt đầu tập sống đời lịch sự trở lại ….. 

Cả bốn thằng đi băng qua quán cơm lề đường , vào tuốt bên trong không

thấy ai , tự động kéo ghế  ngồi xuống bàn .

Đã gần bảy giờ tối nhưng nhà hàng vẫn vắng tanh , chỉ có bốn bóng ma

hôi hám của bọn Thọ . Gọi là nhà hàng nhưng sự thực chỉ là quán ăn

nhỏ , trong quán chỉ có vài bóng đèn mờ ảo . Trên mái tranh treo cái loa

phát ra tiếng nhạc rè rè , nho nhỏ với tiếng hát cô ca-sỉ trẻ . Hát những

bài nhạc như trong trại tù  .

Nhạc hùng thì nghe : ”  Như có Bác Hồ trong mùa xuân dại thắng ….” . 

Nhạc buồn êm dịu thì nghe : “ Đi mô… chừ nhớ về Hà-tĩnh…  “ .

Bà chủ nghe tiếng người vào , vội vả đi ra hỏi : 

– Mấy bác ăn cơm hay chỉ uống nước , hay uống bia-hơi ?

Bốn thằng nghe bia hơi , danh từ có vẻ xa lạ , trố mắt nhìn nhau .

Bà chủ quán giải thích :

– Chỉ là bia ướp lạnh , khi mở ra như có khói hơi bay ra . Bộ đội miền Bắc

  gọi là bia hơi .

Thọ lên tiếng :

– Nghe đến bia , tụi tôi thèm nhỏ giải , nhưng mới ra tù chỉ đủ tiền ăn

  một chén cơm lót bụng . Làm sao uống được bia ?

Bà chủ chưa kịp trả lời , thì có tiếng ồn ào cười nói  từ cữa của năm sáu

thanh niên vừa bước vào . Người đi đầu nói lớn :

– Dì Nuôi cho két bia hơi và hai đĩa dồi chó .

Bà chủ nhanh chân đi khiêng bia , lấy ly bỏ lên bàn , rồi đi vào bếp ,

chẵng ngó ngàng gì đến bốn thằng đang đói bụng  .

Thằng Đ/úy Biệt-động định lên tiếng gọi , hối thúc bà chủ thì Thọ đưa

tay ra dấu ngăn cản nói :

– Quán ăn này bà chủ kiêm đầu-bếp , kiêm bồi bàn , kiêm luôn cashier ,

nên ta phải kiên nhẫn đợi chờ .

Cả bốn đứa nhìn qua bàn kia thấy mổi tên nhanh tay lấy bia mở ra , đưa

lên miệng tu ừng- ực mà thèm .

Bất chợt thằng đầu đàn đứng lên , tay cầm chai bia vừa uống vừa bước

sang bàn Thọ hỏi nhỏ :

– Hình như mấy bác vừa mới ra tù phải không ?

Bốn thằng không ai bảo ai , bỏ tay phải ra sau nắm chặt chân ghế đề

phòng , nếu có gì , nắm chân ghế phang cho lẹ .

Không thấy ai lên tiếng trả lời nên nó nói tiếp :

– Mấy bác đừng lo , khu vực này của bọn em , bọn công an em cho ăn

  ngập họng rồi , không bén mảng tới đây đâu .  

Thọ trợn mắt , ngước lên nhìn nó trả lời :

– Đúng rồi .  Tụi tôi mới được thả . Có chuyện gì không ?

Nó tự động quay lưng nói với mấy đàn em :

– Ê ! Tụi bây khiêng bàn bia và đồ nhậu kê sát vào đây .

Rồi quay lại nói với Thọ :

– Em mời mấy bác tối nay .

Xong bảo đàn em mở bia chuyền sang cho bọn Thọ .

Bốn thằng nhìn bia như mèo thấy mỡ , chụp đưa lên miệng uống ừng ực .

Thọ bắt đầu giới thiệu :

– Thằng này là Th/tá Dù , thằng này Đ/úy Biệt-động , đây là Đ/úy Thủy

  quân Lục-chiến , còn tôi là … Thọ đen Hải-quân .

Bỗng nhiên thằng đầu đàn ngồi thẳng dậy , chăm chú nhìn Thọ và lặp lại

nho nhỏ :

– Thọ đen… HQ . ?

Thọ hỏi lại :

– Bộ biết tôi hay sao ? .

– Bây giờ anh thay đổi quá …. Nếu anh không nói , chắc không thể nào

nhận ra …Anh còn nhớ năm xưa …Thọ đen HQ và Đạt Phước-hải không

đội trời chung … nhưng… bây giờ …có thể là bạn thân thiết … Em là

Đạt , đại-ca băng nhà thờ Phước-hải năm xưa ,  đã từng đánh lộn với anh

chắc chắn anh không quên chứ ?….. Mấy thằng em này , em mới kết vào

những năm sau này … cũng chịu chơi lắm …Nhưng thôi … chuyện cũ bỏ

qua … Hôm nay em làm theo luật giang-hồ giúp người ngã ngựa , lo lắng

tiếp đãi các anh trước khi lên đường về Sài-gòn .

Bọn Thọ nhìn nhau với tâm trạng vui sướng hiện rõ lên nét mặt .

Rồi Đạt quay sang đàn em nó thông báo :

– Nè ! Nghe đây – Cho tụi bây hay , đây là anh Thọ đen Hải-quân , đại-ca

  năm xưa của tao hôm nay tình cờ gặp lại , bọn mình phải tiếp đải thật

  đẹp đó nghe  .

Thế rồi tất cả mọi người cùng nâng ly …chúc mừng…chúc mừng…

Không ngờ lần đầu nhìn thấy ánh sáng xã-hội chủ-nghĩa lại đúng vào

môi-trường sống năm xưa . Thọ cảm thấy mình như cọp được trở lại núi

rừng , cá được bơi trong biển xanh mát trở lại .

Câu chuyện hơn hai mươi năm tại thành phố quê hương miền cát trắng ,

nơi đây bước chân đầu tiên vào đời của Thọ như bước đi trên thảm êm ,

nhung ấm . Nhưng thời gian đó Thọ rất ích-kỷ , sống theo bản năng vui

thích của mình , không bao giờ nghĩ đến Bố Mẹ , Vợ Con , Anh Em …

Bây giờ lần lượt Thọ được nghe nhiều chuyện , nhưng chỉ chăm chú nghe

chuyện Huệ của Thọ năm xưa . Đạt ghé sát tai Thọ thì thầm :

– Chắc Anh rất muốn nghe chuyện Huệ vợ anh và thằng Lộc con trai của

  anh phải không ?

Không đợi Thọ trả lời , nó kể tiếp :

– Từ lúc anh ra trường Hải-quân , nghe Huệ nói anh đã cao bay xa chạy .

Huệ vẫn đi làm nuôi con ăn học . Khi giải-phóng vào , thằng Lộc khoảng

chừng mười tuổi , Huệ mất việc làm , đi làm bé cho một cán bộ miền Bắc .

Lộc nghỉ học , sống bụi đời  .

Đến năm nó mười lăm , toàn quốc Việt-nam nghèo đói kiệt quệ . Mẹ con

Huệ cũng như mọi người dân , bữa đói bữa no .

Anh cán bộ trở về Bắc , bỏ Huệ ở lại tự túc mưu sinh .

Để được sống còn , Huệ đem thân vào động mãi-dâm , thằng Lộc vào

băng đảng của em , chuyên lo tìm bãi chôn dầu cho những tổ chức vượt

biên . Nghề này nguy hiểm nhưng bọn em đã từng sống quen với hiểm

nguy nên có cơm ăn no bụng . Bỡi khi lo xong một chuyến em cũng lời

được vài cây chia nhau .

Thọ ngắt lời hỏi :

– Tại sao thằng Lộc không giúp Mẹ nó để khỏi vào động mãi-dâm ?

– Khi Mẹ nó vào động nó đâu biết . Khi tìm gặp thì Mẹ nó ở thời kỳ chót

  của bệnh Giang-mai  lậu mũ , không có thuốc men chữa trị  nên chết vài

  tháng sau đó .

Nghĩ lại thằng Lộc cũng may mắn , nhờ tánh tình gan lì , bất kể hiểm

nguy , lại còn mưu mô , lanh lẹ . Em rất chịu nó .

Một hôm đi chôn dầu , nó có ý định vượt biên nên theo dõi . Khi tàu đến

lấy dầu và rước người , lúc hai giờ sáng ,  nó lặn bu theo bánh lái  . Ra

tuốt ngoài khơi cách bờ khá xa , nó bắt đầu leo lên  . Chủ tàu không

nở xô xuống biển nên nó được đi . Đến Mả-lai vài năm sau có người viết

thư về cho hay nó được phỏng vấn đi Mỹ . Anh nên mừng cho nó .

Thọ lấy tay dụi hai mắt bỡi đã ướt nhạt-nhòa , rồi ngồi im  như pho tượng

không gạn hỏi gì thêm .

Bây giờ đã gần 12 giờ đêm , nguyên cả bàn nhậu đứa nào cũng gục lên

bàn say sưa ngủ , nhìn ra ngoài trời  , đêm tối vắng tanh . Không xe cộ ,

không một bóng người qua lại , không nghe tiếng chó sủa như năm xưa .

Dì Nuôi  ôm mấy chiếc chiếu rách từ sau nhà đi ra nói với Đạt :

– Dẹp bàn ghế , trải dưới đất , và kéo tất cả xuống ngủ .

Đưa chiếu cho Đạt xong Dì đi ra đóng cữa .

Khi đi vào , Đạt đứng lên nắm tay kéo đến bàn Thọ nói :

– Anh Thọ đen Hải-quân , Đại ca của em năm xưa . Em muốn đêm nay Dì

  phục dịch anh thật đặc biệt giùm em nghe chưa ? .

Thọ trợn mắt ngơ ngác nhìn hai người , chưa hiểu , Dì Nuôi lên tiếng nói

một cách tự nhiên :

– Đi tắm rửa sạch sẻ trước khi lên giường với tui .

Rồi Dì đi nhanh vào phòng nhỏ độc nhất gần bên cạnh nhà bếp .

Đạt ngồi xuống sát bên Thọ và nói :

– Trước khi đi tắm , em cho anh hay một điều  , Dì Nuôi hợp tác làm ăn

  với em lâu nay , rất dễ thương và chịu chơi . 

  Bất cứ ai , em đem đến , Dì làm theo lời em dặn  .  Nhất là mấy thằng

  cán bộ cao cấp từ Bắc vào công tác 6 tháng hoặc một năm , không mang

  theo vợ con . 

  Trước 75 Dì tên  Trần Hồng-Thủy , là vợ của một  Thiếu-úy Dù . Khi mất

  nước , chồng đi học tập và bị đánh chết trong tù . Đến năm đất nước lâm

  vào tình trạng đói khổ , đàn bà con gái miền Nam , nhất là những người

  lở thời lở vận như Dì , hùa nhau tìm cán bộ cao cấp từ Bắc vào để tình

  nguyện làm vợ , nhưng hầu hết là làm vợ bé .

  Mục đích để cuộc sống khỏi bị chèn ép hăm doạ và có cơm ăn .

  Dì Nuôi nhờ nhan sắc mặn mà , vớ được và làm bé một tên cán bộ cấp

  tỉnh . Tiệm ăn này chính nó vơ vét tiền dân chúng xây cất lên cho Dì .

  Cách đây hơn ba năm , nó bị trúng gió chết .

  Em gọi Dì Nuôi nhưng thực sự năm nay mới ngoài ba mươi , trẻ hơn tụi

  mình nhiều lắm . Thọ ngắt lời hỏi :

– Tại sao gọi là Dì Nuôi ?.

– Em nghe mấy tên bộ-đội giải thích : Bất cứ ông bà anh chị nào nấu cơm

  nước phục vụ cho người khác đều được gọi Anh nuôi , Chị nuôi , Dì

  nuôi …v.v. Dì nấu cơm bán nên cũng được tụi em gọi như thế .

Câu chuyện chưa dứt thì Dì Nuôi xuất hiện với cây đèn dầu trên tay nói :

– Đã khuya rồi , điện sắp cúp , anh Đạt mang cây đèn này ra lu nước sau

hè cho ông ta tắm .

Vừa nói xong thì điện cúp tối thui . Thọ đứng lên theo Đạt ra sau hè .

Đạt để cây đèn cạnh lu nước rồi đi vào ngủ với mọi người .

Đêm khuya thanh vắng , lần đầu được hít thở không khí tự do , Thọ cởi

hết quần áo , đứng tồng-ngồng nhìn trời sao với muôn vàn ý nghĩ .

Rồi cầm gáo múc nước từ từ dội lên mình , một cảm giác mát mẻ cùng

với tâm trạng đang được sống tự do làm tâm hồn thanh thoát một niềm

vui sướng kỳ lạ  .

Thọ nhủ thầm , hãy gạt hết những ưu-tư phiền muộn trong đầu để  kéo

dài và giử mãi phút giây tận hưởng .

Ôi ! Chúa ơi ! Phật ơi ! . Có phải sự tự-do đang xoá dần niềm hận thù sầu

khổ đè nặng cuộc đời con hơn mười năm qua ?.

Thọ nhắm mắt , ngước mặt lên trời , giang rộng hai cánh tay như đang

thầm nói cám ơn Trời , Phật và nguyện cầu nhân tính trở lại với mình….

Vài phút sau , khi vừa mở mắt , bỗng thấy Dì Nuôi đang đứng trước mặt

nhìn mình tự bao giờ .

Thọ đang trần truồng nhưng không cảm thấy bối rối , Dì Nuôi cũng

không có vẻ gì bối rối , Dì nói :

– Còn một chút xà-phòng giặt hiệu Liên-sô , có xài còn hơn không .

Thọ đưa tay cầm lấy cục xà-phòng chà xát lên thân thể , múc nước mát

dội lên đầu , lên mình . Vuốt nước trên mặt xuống , nhìn thấy Dì vẫn còn

đứng đó bèn nói :

– Xin lổi , tôi tưởng chỉ có mình tôi , hơn nữa , không có áo quần lót nên

  phải tắm truồng .

Dì Tư vẫn đứng yên đáp lại :

– Có gì đâu , tôi bây giờ chỉ khác anh là đi  tiểu phải ngồi xuống và có cặp

  vú lớn hơn cặp vú của anh , thế thôi .

Thọ vẫn đứng yên hỏi lại :

– Nói thế có ý-nghĩa gì ? .

Dì Nuôi không trả lời , quay lưng đi .

Tắm rửa xong , đi vào nhà , Thọ thấy tất cả mọi người ngủ say như chết ,

đèn tắt tối thui , chỉ có ngọn đèn dầu leo lét hắt chút ánh sáng ra ngoài ,

đủ soi lối cho Thọ đi vào phòng Dì Nuôi .

Dì Nuôi nằm sát vào tường , chừa hơn nữa phần giường cho Thọ .

Ngồi nhẹ lên mép giường Thọ hỏi :

– Hồng-Thủy ngủ chưa ?

Nàng giật mình xoay người lại , chăm chú nhìn Thọ hỏi :

– Anh Đạt kể hết chuyện tôi cho anh nghe rồi sao ?

– Nó chỉ cho biết tên em ngày xưa .

Hai người im lặng nhìn nhau như đang suy nghĩ riêng tư một điều gì .

Một lát sau  Hồng-Thủy lên tiếng :

– Nếu anh muốn làm thì làm lẹ để em ngủ .

Một lần nữa Thọ chưng hửng ngạc nhiên , không ngờ hơn mười năm

sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa , đã biến người đàn bà thành món đồ

để đổi chác , vô tri , vô giác , không còn tình cảm con người  .

Thọ thở dài buồn bả …ngồi suy tư im lặng .

Hồng-Thủy hỏi hối thúc lần nữa :

– Có làm không ? .

Thọ cay đắng trả lời :

– Hơn mười năm ăn bo-bo , củ mì , khoai sắn , cọng với sự đày đọa trí óc ,

  thân xác hằng ngày ….bây giờ làm sao ngóc lên nổi mà làm ? .

– Vậy thì chúc ngủ ngon .

Thọ hỏi tiếp :

– Có muốn tôi ra ngoài ngủ để khỏi quấy rầy giấc ngủ của Thủy ? .

– Hãy ngủ đây…  anh ngủ ngoài …sáng mai anh Đạt sẽ trách la em .

Nàng nằm xoay người vào tường ngủ tiếp .

Thọ vói tay tắt đèn cho bóng tối ru giấc ngủ , nhưng nằm hoài vẫn thao

thức bỡi suy nghĩ đủ thứ .

Cuộc đời mười năm dĩ vãng của Thọ là chuổi dài hãi-hùng kinh khiếp .

Ngay cả chuyện cá nhân Bố Mẹ , Vợ con , mạnh ai nấy sống . Thọ đã là

một người con bất hiếu , một người chồng tắc trách .

Con Tám đã giao ba đứa con cho Bố Mẹ đem về quê Bến-tre , rồi đi làm

vợ một anh bộ-đội bỡi không kham nổi cuộc sống , ngay khi nước mất

nhà tan . Đúng như lời la mắng của Bố Mẹ Thọ ngày xưa : “ Con cãi Cha

Mẹ , trăm đường con hư  “ .

Huệ và thằng con trai thì Đạt mới cho hay hôm qua  . Lài và con gái  ở

nam-căn Cà-mâu không biết trôi dạt phương trời nào ?

Thọ trằn trọc mãi đến gần sáng vẫn không ngủ được . Nghe tiếng rục rịch

Hồng-Thủy trở mình  , sau vài tiếng ho khan , nàng hỏi :

– Trong trại tù chắc dễ ngủ hơn ?

 Thọ nằm im trả lời nho nhỏ :

– Đúng vậy… bỡi trí óc , thân xác quá mệt mỏi sau một ngày bị hành hạ

  nên nằm xuống là ngủ như chết …. Chắc đêm nay có tôi nên Thủy

  không ngủ được ?

– Không đúng vậy đâu . Mỗi lần ngủ với ông nào là đầu óc nghĩ đến

  người yêu , người chồng quí mến yêu thương nhất đời của em .

Nói xong , nàng xuống giường đi đốt đèn , ra bếp pha hai ly café , một cho

nàng  , một cho Thọ .

Bưng vào phòng bỏ lên bàn nhỏ nàng nói :

– Mời anh . Còn sớm nhưng chắc không ngủ được nữa .

Thọ đi rửa mặt , trở vào bưng ly café ngòi xuống cạnh giường khơi

chuyện :

– Hôm qua Thủy nói : “ Tôi bây giờ chỉ khác anh ….” , có nghĩa gì ?

Im lặng một lúc , nàng nhìn Thọ bằng đôi mắt thoáng chút u-sầu , chậm

rải khe khẻ nói :

– Khi thể xác và tâm hồn không còn là đàn bà thì người đó là đàn ông .

– Bắt đầu từ lúc nào có trạng thái đớn đau chai đá này ? . Thọ hỏi .

– Chuyện hơi dài  , nhưng anh muốn biết thì em vắn tắt :

Ngày đó chúng em yêu thương nhau . Anh học Vỏ-bị Đà-lạt . Em học Sư-

phạm Qui-nhơn . Cả hai ra trường , làm đám cưới . Biết bao ước mơ

đẹp cho tương lai ? . Anh là Th/úy Dù , Em là Cô-giáo . Tuy cách xa

nhưng hai trái tim và tâm hồn như lúc nào cũng ở cạnh nhau .

Rồi Đất-Trời dậy sóng , đời sống đảo điên …

Chồng em đi tù , bị đánh chết trong tù . Ba Má em bị đánh tư-sản , nhà

cữa ruộng vườn bị tịch thu , buồn phiền lâm bệnh chết . 

Em là đứa con độc nhất . Mất Cha Mẹ ,  mất Chồng , mất công ăn việc

làm . Sống lây lất không bà con nương tựa trong xả-hội mới đầy xảo trá ,

hận thù .

Vì chưa muốn tự tử nên phải tìm con đường sống . Làm vợ bé một cán bộ

từ Bắc vào công tác .

Những lúc làm tình với nó , em thường nghĩ đến chồng em nên khóc .

Nó gạn hỏi tại sao ? . Ban đầu em không nói . Nó bực tức hung dử quyết

hỏi cho bằng được . Em nói thật làm nó tức giận đánh đập rất tàn nhẫn .

Trận đòn nặng nhất lúc em đang có thai hai tháng . Nó đánh em bầm dập

mình mẩy và ngất xỉu .

Hài nhi bị chết trong bụng . Đến bệnh viện cấp cứu em và giải-phẩu lấy

hài nhi ra .

Em nhờ Bác-sỉ cắt tử-cung , cắt buồng trứng  .

Từ đó tánh tình em thay đổi  . Thay vì thương yêu , em hận thù nó .

Chính nó cũng thế , ngày càng ghét và đánh đập em nhiều hơn  .

Em phải nhờ anh Đạt giúp ý-kiến trả thù . Mua thuốc diệt côn trùng bỏ

vào tô canh , nó ăn chết tại chổ .

Thọ ngắt lời hỏi :

– Bệnh viện không khám nghiệm tử thi hay sao ? .

– Em làm theo chỉ dẫn của anh Đạt . Phi tang tô canh , múc tô canh mới

  không có thuốc độc . Em cạo gió cho nó trước ngực , sau lưng ….

   An-ninh Phường khóm đến làm biên bản  . Tịch thu chai rượu và tất cả

  thức ăn kể cả tô canh để khám xét , làm bằng chứng .

  Em lo lót tiền bạc cho Công-an phường khóm và nhận Giấy chứng nhận

  kết quả :  “ Tất cả thức ăn không độc hại . Chết vì trúng gió . Vợ đã cố

  gắng cạo gió nhưng không cứu được  . “ .

  Ngày đưa tang chôn cất , em khóc lóc thảm thiết . Nhưng em khóc cho

  chồng củ của em .

  Từ đó em cảm thấy vui sướng , vì nghĩ rằng đã trả thù được cho chồng

  em ….

Thủy úp mặt lên hai bàn tay , uất nghẹn khóc . Thọ thở dài….ngồi xích

gần lại , vuốt tóc vuốt lưng nàng , vổ về nói :

– Chuyện cũ qua rồi ….khóc thương chỉ để biết mình khác với gổ , đá  ,

  thú vật  ,… vẫn còn là con người trên cõi đời này , thế thôi . 

  Hãy cố gắng vươn lên , thoát ra khỏi đời sống đen tối hiện tại như tôi

  đang cố gắng …

Đợi nàng bớt khóc , ngẫng đầu lên , Thọ hỏi :

– Thủy giết người dã tâm tàn ác , đã đánh đập , hành hạ mình , giết chết

  hài nhi , con mình . Như vậy là để trả thù cho chính mình , chứ sao lại

  nói trả thù cho chồng ? . Trong khi chồng bị mấy thằng trong trại tù

  đánh chết . Hai sự kiện đâu liên hệ  gì nhau  ?

Thủy trợn trừng mắt , tức tối nói :

–  Nó là Việt-công .

  Việt-cộng vào Nam hủy hoại đời sống mọi người .

Thọ nhỏ nhẹ phân tích :

– Việt-cộng thuộc hệ-thống Cộng-sản quốc tế .

  Làm việc đắc lực , vạch kế hoạch , bảo vệ chủ nghỉa Cộng-sản là công

  việc của  mấy thằng đầu sỏ nằm trong Chính-trị bộ Đảng, chứ mấy thằng

  đảng viên tép riu đưa vào Nam chỉ vì miếng cơm manh áo cho gia-đình

  vợ con chúng nó mà thôi . Chưa chắc chúng nó trung thành với Đảng ?.

  Hành động giết một tên Việt-cộng nào đó , nói là để trả thù cho chồng

  chẳng khác gì giận con trâu đập con bò .

  Lý do nào đó trong tương lai , Cộng-sản sụp đổ , nếu mình trả thù thì

  cũng giết mấy trăm thằng , mấy ngàn thằng đảng viên đầu sỏ , chứ

  chẳng lẻ giết hết cả 26 triệu dân miền Bắc hay sao ?.

  Năm xưa tôi một thời du đảng , tôi cũng chỉ trả thù trực tiếp kẻ nào hại

  tôi . Hơn mười năm tù đày , cho đến ngày được thả , tôi vẫn nuôi ý nghĩ

  trả thù như Thủy . Có nghĩa là tôi sẽ giết bất kỳ thằng Việt-cộng nào .

  Nhưng sự suy nghĩ của tôi đã thay đổi kể từ đêm hôm qua .

  Tôi phải làm sao cho Đảng Cộng-sản suy sụp . Chứ giết từng thằng

  Cộng-sản thì biết đến bao giờ ? .

  Mặt khác , tôi cũng đã tìm được câu trả lời cho điều mình thắc mắc hơn

  mười năm qua : ”   Khi ra khỏi tù tôi phải hận thù ai ? ” .

  Suốt đêm không ngủ , tôi đã tìm thấy câu trả lời . Đó là :

  Tôi hận thù tôi . Vì kém hiểu biết , thiếu suy nghĩ , cọng với bản tánh ích

  kỷ , nóng nảy nên đã làm hư hỏng nhiều chuyện trong đời …

  Những thằng đánh đập , hành hạ tôi trong tù , bây giờ nếu có cơ hội ,

  tôi cũng không muốn giết nó nữa .

Thủy cắt ngang nói :

– Không lẽ bây giờ anh trở thành nhà tu ? . Em thì vẫn chưa có thiện

  tâm bao dung , tha thứ như Chúa , như Phật ….

Thọ muốn nói , muốn giải thích thật nhiều quan niệm giết người để trả

Thù của Thủy cũng như để giải tỏa những uẫn khúc cho chính bản thân

Thọ đã dồn nén , ẩn chứa trong tim , trong tâm hồn bấy lâu nay .

Nhưng nhìn ra ngoài ,  trời đã sáng và nghe tiếng gỏ cữa , tìếng Đạt gọi :

– Anh Thọ ơi , em đem mấy thằng em đi làm , xong sẽ trở lại .

Thủy bắt đầu sửa soạn mọi thứ thức ăn để bán buổi sáng . Thọ quá mệt

mỏi nên nằm xuống giường ngủ tiếp ….

Mê man ngủ đến gần trưa , thức dậy đi ra khỏi phòng thấy Đạt đang ngồi

ăn trưa với Thủy .

Đạt vội báo cáo :

– Em đã lo vé xe đò cho ba anh kia về Sài-gòn rồi , họ đi lúc 09 giờ sáng

  nay . Họ nhắn lại , sẽ tìm cách gặp anh ở  Sài-gòn .

Thọ kéo ghế ngồi xuống nói :

– Rất tốt . Tôi cũng  muốn ở lại đây vài hôm để lấy lại tinh thần và tìm xem

  việc gì có thể làm được . Không biết Thủy có cho tôi tá túc không ?

Thủy xới cơm đưa Thọ vừa nói :

– Nếu sau này anh không gặp được vợ con thì trở ra đây với em .

Thọ cảm động trả lời :

– Cám ơn em , đã cho anh cảm giác như một mái ấm gia-đình …

 

Hôm nay , đêm thứ nhì được ngủ ngoài trại tù , không phập phồng lo sợ

tiếng còi hiệu lệnh tập họp khẩn cấp khi có tên tù nào vượt ngục .

Trong bóng đêm dày đặc , Thọ vẫn mở mắt nhìn lên trần nhà suy nghĩ

nếu quyết định ở lại Việt-nam , không biết phải làm nghề gì để sống ? .

Nếu nhứt quyết rời bỏ quê hương thì phải tính toán ngay từ bây giờ .

Chiều nay Đạt đã giúp ý kiến là nên vượt biên càng sớm càng tốt .

Thủy cũng có cùng ý kiến như Dạt , lại còn cho hay thêm là Sỉ-quan HQ

ra tù rất có giá , bỡi các chủ tàu vượt biên tìm thuê mướn để lái tàu bằng

bất cứ giá nào  .

Do đó , vài hôm nữa về Sài-gòn Thọ sẽ tìm hiểu thêm đường dây vượt biên

Thủy trở mình nằm sát và ôm bụng Thọ . Thọ nằm yên bỡi sợ nàng thức

giấc , mất ngủ như đêm qua  . Nhưng bổng chốc nàng lại cất tiếng hỏi :

– Anh vẫn chưa quen giấc ngủ ở đây sao ? .

– Quen thì đã quen , nhưng cần suy nghĩ nhiều chuyện nên chưa ngủ .

– Có chuyện nào liên quan đến em không ? .

– Đương nhiên có .

– Chuyên gì ? .

– Cùng em vượt biên .

– Chuyện này em chưa dám nghĩ tới .

– Em khỏi cần nghĩ , Anh đã nghĩ cho em rồi .

Im lặng hồi lâu , rồi nghe tiếng nàng sụt sùi khóc . Thọ hỏi :

– Em còn nước mắt để khóc sao ?

Vẫn im lặng , vẫn sụt sùi khóc …..rồi nàng nằm áp má , gục đầu lên ngực

Thọ  nhỏ nhẹ nói :

– Thực sự đã từ lâu  , không còn nước mắt để khóc . Kể từ chiều qua nhìn

  hình ảnh các anh , em tưởng tượng có chồng em trong đó . Nhưng khi

  vào bếp nấu ăn mới nhận biết chỉ là tưởng tượng .

  Nước mắt bắt đầu tuôn rơi …..

  Ngày xưa ở tuổi lên mười , những lúc có tâm trạng buồn hoặc tức tối

  điều gì , em thường áp má úp mặt vào ngực Mẹ để khóc và giải bày niềm

  uẩn khúc trong lòng , sau đó cảm thấy thanh thản nhẹ nhàng và vui tươi

  trở lại .

  Tâm trạng đó vẫn giử nguyên khi chồng em thay thế Mẹ . Những lúc

  buồn phiền em lại gục đầu áp má vào ngực chồng em .

  Đến khi làm bé thằng chồng cán bộ , thì điều đó không còn xảy ra , bỡi

  những lúc gần nó , trong đầu em chỉ có gian dối hận thù …

  Bây giờ em tìm lại được cảm giác đó trên ngực anh …Rất cám ơn anh .

 Thọ bắt đầu ôm chặt Thủy và hôn nhẹ lên tóc nàng …

Đêm vẫn tối đen im vắng….Đoạn đời gian truân trước mắt Thọ đang đón

chờ ………………………………. 

 

                                    Tâm-Phương-Đăng



Chỉnh sửa lại bởi giodocgocong - 29/Apr/2016 lúc 4:18pm
GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23786
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 01/May/2016 lúc 10:57pm

Chị Hai Cua Đồng    <<<<<<

chum-anh-quang-ganh-nang-triu-doi-vai-nguoi-phu-nu-viet



Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 03/May/2016 lúc 6:34am


Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 03/May/2016 lúc 6:39am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 05/May/2016 lúc 7:41am

Từ Trại Tù Ra Biển Khơi 


Tác giả là một nhà giáo hưu trí, cư dân Riverside, đã góp nhiều bài viết đặc biệt cho giải thưởng Việt Báo từ năm đầu tiên, và nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2009. Bài sau đây trích từ báo xuân Việt Báo Tết Giáp Ngọ 2014.

Tôi quen Khoa ở trại tỵ nạn Chimawan, Hongkong, cuối 1983, ghe hai đứa cùng vượt biên xuất phát từ Nha Trang, Bình Thuận cùng một thời điểm tính qua Phi mà bị bão thổi lên Hongkong, nhưng anh và tôi sĩ quan khác ngành nên không thân nhau mấy. Khoa tánh xuề xòa, trước làm Tình báo bên An ninh quân đội, nên phái đoàn Mỹ tin cậy, giao anh nhiệm vụ kiểm tra coi ai là lính thiệt, ai là lính giả khai man để được đi định cư Mỹ.

Anh Hùng, người tổ chức vượt biên cho tôi tháp tùng năm đó là đại úy CTCT, ngày xưa ở tù ngoài Bắc tám năm, còn Khoa tù tám năm Campuchia, nên hai người này cùng cảnh ngộ mới thật là thân nhau. Qua Mỹ, hai người lại tình cờ ở gần nhau, người Orange County, người Long Beach. Anh Hùng bán địa ốc, Khoa làm thầu khoán xây cất sửa nhà, sửa điện, plumbing, ráp cửa garage, thay bồn nước nóng, cắt cỏ…cái gì cũng biết.

Năm kia, nhân trên San Jose tổ chức hội Ái hữu tỵ nạn Chimawan họp mặt, anh lái xe chở anh Hùng và tôi lên dự tiệc, coi có gặp người quen cũ không. Nhờ chuyến đi đó mà anh thân với tôi hơn, gọi phone thăm, ghé nhà chơi, vui vẻ tới sửa giùm điện, nước, gas, thay bồn nước nóng, thay cửa garage bị hư trong nhà. Bất cứ cái gì hư… gọi một tiếng là anh tới, sốt sắng mua đồ, thay, sửa, mau mắn làm được hết… Tôi có nhà mà không biết sửa nhà, tự nhiên được một ông bạn “handyman” tới giúp đỡ các việc linh tinh trong nhà, thật là may mắn. Có lần tôi than, “Già ở một mình mà con cái bạn bè đều ở xa, lỡ lái xe bị “panne” trên freeway đêm hôm, không biết gọi ai tới cứu…”, anh buột miệng liền, “thì có tôi, gọi tôi, tôi lái xe tới cứu cho”, làm tôi nín lặng, cảm động.

Bạn bè sống chung thời kỳ Chimawan cũ nay ở tứ tán, chỉ có tôi và anh Hùng ở gần, nay anh Hùng mất, chỉ còn tôi, nên Khoa thường xuyên ghé thăm trò chuyện, tâm sự. Hai đứa cũng lăn lộn thăng trầm đủ nghề ở Cali, nếm đủ cả thành công lẫn thất bại nên thông cảm nhau lắm.

Hồi mới qua anh đi rửa chén cho nhà hàng lấy tiền mặt, rồi đi học nghề, làm chủ thầu, điều động đám thợ Mễ đi chỗ này chỗ nọ, bây giờ kinh tế suy, không có việc, đành làm công cho hãng Mỹ sửa chữa nhà cửa, chung cư, ăn lương tháng, khi làm ở L.A, Long Beach, Chino Hills, khi ở Riverside… Thấy nhà tôi mát mẻ, yên tĩnh, thích lắm, nhờ coi khu này có ai rao bán, cho anh hay để mua một căn như vậy để nay mai về hưu ở gần cho vui.
Một lần anh ghé tôi loay hoay thay cái motor điện xay rác ở sink nhà bếp bị hư, tôi đứng gần coi, anh bảo đừng đụng người anh, coi chừng bị giựt. Tôi nói đùa:
– Mạng tôi lớn lắm, đừng lo.

Tôi nấu cà phê, anh sửa xong, tôi lấy bánh Pháp ra mời ngồi ăn, vui chuyện kể con người có số, tôi chết hụt mấy lần mà Trời cứu: hồi trẻ đi lính đang gác đồn mấy tháng không sao, vừa được chuyển vô Trung tâm hành quân làm thì đồn bị đánh úp nửa đêm, cụt tay cụt chân chết biết bao nhiêu lính; lần khác trong một cuộc cãi cọ, bị lính say đập chai bia lên đầu nứt sọ mà không sao; qua Mỹ lái xe đêm khuya bị tài xế chạy ngược chiều đâm sầm vào mà lách kịp trong nháy mắt… Anh buột miệng kể mạng anh cũng lớn, năm 75 ở tù bên Campuchia cũng bị đánh nứt sọ mà không chết, bị cai tù VC đập cây lên đầu bất tỉnh, rồi xối nước cho tỉnh tra hỏi tiếp vì nghi làm cho CIA, làm tôi giật mình trố mắt:
– Anh làm chức gì mà bị nhốt tuốt bên đó vậy?
– Tôi trước làm cho DAO (Defend attack office) thuộc CIA Mỹ, VC được tình báo cho biết nên bắt tôi, nhưng chưa có bằng chứng, bèn đưa tôi qua đó nhốt riêng, ở chung với các thành phần làm cho Mỹ. Nó tra hỏi tôi, bắt đưa cái code để mở computer truy tìm danh sách nhân viên tình báo làm cho Mỹ. Tôi nói, “Tôi không biết, mà dù có biết đi nữa, tôi cũng không thể tiết lộ”. Nó tức giận cầm cái chày đạp lên đầu tôi nứt sọ, tôi bất tỉnh té xỉu. Nó dội nứớc lên đầu lên mặt cho tỉnh, tiếp tục tra tấn tiếp….

– Thì anh có tiết lộ, Mỹ cũng đã thua rút về nước hết rồi, đâu có biết mà trừng phạt anh? Mà sao họ không mang theo tất cả những người làm tình báo giúp họ như anh về Mỹ, lại bỏ rơi lại đây cho VC làm thịt? Thật là nguy hiểm cho tánh mạng, không riêng anh, mà cả gia đình anh nữa.
– Mỹ đi nhưng người của họ để lại nhiều lắm, làm sao mình biết được kế hoạch của họ ra sao. Tôi đã lỡ thề giữ bí mật suốt đời khi làm cho DAO rồi. Mình mà tiết lộ bí mật đó thì suốt đời như ngồi trên lửa, lo sợ không biết chết lúc nào… mà cũng chắc gì VC để cho mình yên thân khi đã khai ra. Anh thấy như Osama Bin Ladin được Pakistan che dấu bảo vệ kỹ lưỡng như vậy mà Mỹ còn theo dõi ám sát được.
– Anh đi Thủ đức khoá mấy?
– Khóa 27.

– Ủa, tôi cũng khóa 27… nhưng khóa đó đông quá, thặng dư nên họ chuyển tôi ra Đồng Đế học khóa 2/68.
– Tôi có cử nhân luật, nên chỉ học Thủ đức hết giai đoạn một là họ đưa về Nha quân pháp, tuyển chọn đưa qua làm tình báo cho Mỹ…. Tới ngày mãn khóa, tôi được gọi vô trường dự lễ gắn lon chuẩn úy cho có lệ. Nhưng thực ra tôi mang lon trung úy giả định. Đám bác sỹ cũng vậy, đâu có tốt nghiệp hay chiến đấu gì cũng được gắn lon trung úy giả định như tôi. Họ gửi tôi qua Mỹ học. Khi về, làm cho DAO thuộc CIA, hay đi máy bay với Mỹ hết vùng này qua vùng kia, chụp không ảnh, nghiên cứu địa hình…..
– Vậy sao? Tôi chưa hề nghe có vụ như vậy..

– Anh biết, sau lần chết hụt đó, được mấy năm, nó tìm ra manh mối về tôi, chuyển tôi qua trại khác, bắt ăn uống khổ sở, lao động vất vã, ba đứa mà có một tô cơm hẩm rắc muối. Một đêm nọ, có hai thằng xách súng vô chỗ tôi nằm, kêu dọn đồ đi theo chúng. Tôi đã chuẩn bị cái chết sẵn trong đầu rồi nên không sợ hãi. Lâu lâu tụi nó vẫn đêm khuya đang ngủ, hùng hổ vô dẫn người ra bìa rừng, rồi nghe tiếng súng nổ, anh em không bao giờ thấy mặt lại… Một thằng ném cho tôi bộ đồ bộ đội xanh cứt ngựa, bảo thay đồ, nó ấn cái nón cối lên đầu tôi, nhưng tóc tôi nhiều và dài tới vai-cả mấy năm trời đâu có được cắt tóc, thấy không giống bộ đội, mới dẫn tôi tới một trạm gác nhỏ, nói thằng lính trong đó hớt tóc cho tôi. Tôi không biết tụi này tính làm gì. Nếu thủ tiêu tôi thì cần gì mất công cắt tóc, thay đồ làm chi. Một thằng lái Honda chở tôi, hai đứa kia lái Honda khác theo sau, đi trong rừng ban đêm, tới trạm khác lại thay cặp khác lái theo hộ tống, hai tên cũ quay về… Có vẻ như chúng nó dẫn tôi đi đâu xa lắm, trình diện ai đó… Lúc nào cái thằng ngồi kèm với tôi cũng theo chặt tôi, hai thằng kia theo sau hộ tống từng chặng một, rồi đổi người. Qua tối hôm sau thì tới Tây Ninh biên giới Việt Nam, chúng bỏ tôi vô đồn lính gác ăn qua loa rồi kêu đi ngủ, tụi nó trao đổi xầm xì gì với nhau một lúc. Tôi nghe loáng thoáng là mai chúng đưa tôi về Saigon, lúc đó tôi hết sợ, biết là được cứu thoát rồi…

   – Bà con anh có ai làm lớn ở ngoài mà cứu ra khỏi tù hay vậy?
– Má tôi chạy một ông đảng viên gộc (1) ở Saigon 30 cây vàng chứ ai cứu, họ đưa thẳng tôi từ tù ở Campuchia qua Saigon, chở ra Phan thiết bỏ nằm ở nhà ga mấy ngày, sau đó đưa tôi ra ghe đi vựợt biên luôn.
– Trời…sao bà già biết đường dây gộc đó hay vậy? Ngừời nào mà móc nối bã với ông gộc đó cũng là thứ dữ lắm. Hồi bã đi thăm nuôi anh, có khi nào úp mở nói mánh chuyện đó cho anh biết trước không?
– Làm gì có… Thăm nuôi, nó đứng bên cạnh dỏng tai nghe, ở đó mà dám nói chuyện đại sự… Bã chỉ cho biết là thằng em tôi đã về “ở” với cậu Năm rồi, mà cậu Năm thì chết đã lâu, tôi ngẫm nghĩ thấy lạ không dám hỏi, sau mới hiểu ra là em tôi bị chúng giết chết trong tù. Nó đại úy làm bên an ninh. Còn lại có tui là con một.
Thấy tôi trố mắt chăm chú nghe, Khoa kể tiếp như thuộc lòng câu chuyện từ lâu:
– Sáng ra cái thằng phụ trách tôi chở tôi từ biên giới Tây Ninh về Saigon, thấy chiều còn nắng, nên nó ngừng ở ngoại ô, chờ sụp tối mới chở tôi vô thành phố, vì ban đêm an toàn hơn, không ai thấy rõ mặt tôi.

Nó chở tôi vô dinh ông đó, đèn đuốc sáng choang, trình giấy tờ hai ba chỗ, tôi thấy lính gác đi qua đi lại ngoài vườn trong nhà đông lắm. Ông đó lúc đó làm lớn ở Saigon, ở trong cái dinh khổng lồ của ông lớn nào chế độ cũ bỏ lại, lính nói chuyện với nhau có lúc nhắc tên ổng, tôi nghe được. Vô phòng khách, ổng kêu tôi ngồi xuống, hỏi thăm vài ba câu rồi sai lính đưa tôi đi tắm thay một bộ đồ công nhân hỏa xa, rồi mời vô ngồi ăn cơm chung bàn. Lính mỗi lần trình báo điều gì, đều kính cẩn kêu “Chú Sáu, chú Sáu”. Sau này suy nghĩ mãi, tôi mới đoán biết ổng là ai, hồi làm CIA tôi thấy tên đó trong danh sách những người đặc biệt làm việc với Mỹ hoài mà không biết là ai. Ổng hoạt động ở Củ Chi. Té ra ổng làm việc cho cả hai bên. Bà vợ ngồi phòng khách, lâu lâu đứng dậy đi tới đi lui liếc nhìn tôi. Ổng nói, “Tôi chỉ cứu anh một lần này. Hiện giờ người ta đang truy nã anh khắp Saigon, tới các nhà bà con bạn bè anh kiếm bắt anh, anh phải rất cẩn thận. Tôi không muốn thấy anh lại, nếu bị bắt lại đừng nói tên tôi. Tôi muốn anh phải đi thật xa… ra khỏi nước. Ở lại ngày nào là nguy cho cả anh lẫn tôi. Bây giờ anh là nhân viên hỏa xa. Ngay đêm nay sẽ có xe hộ tống anh ra ga Phan thiết, ra chợ anh sẽ gặp lại gia đình anh và biết chuyện gì sẽ tới…”. Ổng đưa tôi cái căn cước mới có hình tôi, một thẻ nhân viên hỏa xa và một ít tiền. Nói xong là có lính đưa tôi ra xe liền.”

Tôi chép miệng:
– Công nhận, tụi đảng viên cao cấp có trình độ ăn nói khôn ngoan, dùng chữ vắn tắt, nói lửng lơ, đủ cho mình hiểu chứ không dùng từ ngữ “giúp vượt biên”, sợ sau này có gì đổ bể xảy ra, mình không thể dùng từ đó “đập” lại họ được.
– Bởi vậy mới làm lớn được, đâu phải ba đứa công an cán bộ thất học ăn nói bậy bạ như bây giờ.
Tôi lo lắng hỏi:
– Anh ở nhà ga, lỡ công an thấy lạ, tới hỏi, nói lớ ngớ lộ chuyện chết..
– Ga Phan thiết đông lắm, họ bảo tôi nằm ngủ trên băng ghế dài với cái “balô” và tấm mền ở các toa xe lửa trống một vài hôm, chờ sẽ có người đón đi. Chỗ đó tàu ra Bắc vô Nam liền liền mỗi ngày, nhân viên cán bộ di chuyển cũng ngủ tạm ở các toa xe trống như tôi nên chả ai để ý hỏi tôi. Tôi có thẻ nhân viên hỏa xa đóng dấu đàng hoàng nên cũng không lo, chỉ sợ gặp người quen nhận ra hỏi han lôi thôi. Mỗi sáng tôi ra chợ mua thức ăn rồi về lại toa xe ngồi, ngắm thiên hạ. Lần thứ ba ra chợ, tôi giựt mình thấy vợ tôi, có hai thằng công an kè kè bên cạnh, mắt nhìn láo liên.

Tôi lấy vợ dân Phan thiết năm 74, qua năm sau VC vô thì đi tù, vợ chồng xa nhau tám năm bây giờ mới gặp lại, tôi bồi hồi xúc động, nhưng không dám gọi. Bà ấy nhìn dáo dác, thấy tôi, mắt sáng lên, nhưng lật đật quay mặt phóng tầm mắt ngay đi phía khác. Tôi hiểu ngay công an địa phương đi theo người nhà để lùng kiếm tôi, vội cúi mặt, lẻn trốn chỗ khác, rồi về lại toa xe lửa. Hai hôm sau, ban đêm có người tới chỗ tôi, mang lon sĩ quan, chắc làm chức vụ lớn, thấy tôi nằm, xung quanh có nhiều người còn thức, bảo tôi đứng dậy chuẩn bị “đi công tác”. Tôi hiểu ý, đứng lên dọn đồ xách “balô”, đi theo ổng ra ngoài có xe hơi đậu, leo lên ngồi. Xe chạy thẳng ra hướng biển, gió mát thổi lồng lộng. Tới chỗ nhà nọ, hắn ngừng xe, đi vô nhà dắt ra cái Honda, rồ máy bảo tôi lên ngồi đàng sau. Tôi loay hoay khoác ba lô trên lưng, hắn nói:
– Anh không cần hành lý này nữa đâu, vứt đi..
Rồi hắn chạy xe len lỏi mấy vòng trong mấy ngõ cụt, đậu truớc một bãi biển vắng vẻ có một chiếc ghe và mấy bóng người đứng lố nhố gần đó. Hắn hất hàm bảo tôi xuống xe:
– Vợ anh đang chờ anh dưới đó, xuống đi. Coi chừng cẩn thận… Chúc đi may mắn…

Tôi ngỡ ngàng, cảm ơn rồi chạy xuống bãi. Vợ tôi chạy tới ôm chầm lấy, kéo tay xuống ghe… Có khoảng mười mấy người vừa đàn ông vừa đàn bà, trong đó tôi nhận ra vài người bà con bên vợ. Người chỉ huy là một anh trung úy tôi quen, tên Hà, đang cãi nhau với chủ ghe tại sao hứa bán ghe 2 “lốc” mà giờ chót giao ghe F10 nhỏ xíu… Tôi nghe qua, biết ngay bà già tôi trước đây thương lượng mua ghe của ông già này, lão hứa đưa ghe lớn mà giờ chót tráo trở đưa ghe nhỏ, còn bãi là đã mua của công an địa phương rồi, nhắm chuyện đã lỡ, có dằng co cũng vô ích, không còn thì giờ nữa, mà tên ngồi Honda trên kia thì đi đi lại lại có vẻ sốt ruột, kêu nhổ neo cho mau, đành xua tay bảo Hà, “thôi thôi, chuyện lỡ rồi anh, mình đi cho rồi.” Chủ bán ghe ở lại, tất cả lên ghe. Tài công giựt máy nổ, ghe xình xịch rời bến. Tôi nhìn quanh thấy mấy cuộn dây dừa thật to, bốn cây tre dài bốn thước, mười can dầu, nước uống đầy đủ, thức ăn chuẩn bị tươm tất, có cả bốn cây súng M16. Hà nói có hải bàn, hải đồ ở buồng lái.

Ghe đi khoảng được trăm mét, tôi nhìn lên bờ thấy tên đi Honda bắt đầu rồ máy rời bãi, bỏ chạy biến mất trong bóng đêm.
Tối hôm sau thì ghe đang chạy, vướng phải lưới đánh cá của dân giăng chìm bên dưới, mấy ghe cá xa xa chạy lại tính gây sự, Hà bèn lôi súng ra bắn mấy phát khiến họ bỏ chạy. Tụi tôi xúm lại cắt lưới dính vô chân vịt, chạy tiếp… Mấy tiếng sau ghe lại mắc kẹt vô lưới nữa, lưới đánh cá chỗ khác. Lại lụi hụi cắt lưới. Qua ngày sau thì trời nổi cơn bão lớn, chắc ra tới hải phận quốc tế rồi. Từ xa sóng cao bằng cái nhà lầu hai tầng ầm ầm kéo tới, ai nấy nhắm mắt sợ hãi chờ chết thì tự nhiên tới gần ghe, sóng nó cúi xuống thấp chui lòn dưới ghe qua bên kia… Lạ thiệt… Chiếc ghe hẹp nhỏ xíu, mỏng manh mà sóng to gió lớn dập vùi nghiêng ngả, tôi kêu đám thanh niên cột chặt bốn thanh tre dài vào hai bên bờ ghe,mỗi bên hai cây, để làm ghe rộng ra, hóa giải các ngọn sóng đập vào, cản nước khỏi tràn vô, nhờ vậy mà ghe chỉ chòng chành qua lại nhưng lúc nào cũng giữ được thăng bằng, không cách chi bị sóng đánh chìm qua một bên nỗi. Đó là lý do tại sao ông chủ ghe bỏ vào mấy cây tre dài khi bán ghe cho đám vượt biên mấy ngày trước. Có lần sóng mạnh như muốn hất tung chiếc ghe lên trời, tôi phải bắt đàn bà con nít nằm mọp dưới đáy ghe, lấy mấy cuộn dây dừa ra ràng chằng chịt qua lại bên trên để giữ họ khỏi bị hất văng xuống nước.

Thấy tài công không rành coi hải bàn ngòai biển lớn, tôi dành lấy, soi đèn pin coi, nhờ ở tù nhiều năm học được của anh em bạn tù hải quân, hướng dẫn lái ghe tắp vô Phi. Nhưng thấy bờ biển Phi trước mặt không xa mà không tới gần được, ghe cứ quay tròn chứ không đi thêm được, coi lại bản đồ thì ra có cái hố nước xoáy sâu, đường kính dài tới mười cây số nên ghe cứ lòng vòng mắc kẹt ở đó hoài. Tôi phải cho lái lên phía bắc, tắp vô chùm đảo Hoàng sa tụi Tàu chiếm đóng từ 1974. Tui bảo anh em quăng mấy cây súng xuống biển, sợ Tàu thấy nó nả súng bắn mình oan mạng. Lúc đó Tàu với VN là kẻ thù, nên họ cho một chiếc tàu tới ghe tụi tôi nhảy xuống tra hỏi khám xét, nói tiếng Tàu xì xồ nên chẳng ai hiểu gì. Vợ tôi sợ, muốn quăng mấy lượng vàng đem theo xuống nước, tôi bảo đừng, cứ dấu trong mình, tụi này đâu phải hải tặc cướp biển. Viên chỉ huy toán lính gọi máy liên lạc với trên đồn chở tới một thông dịch viên, hỏi tụi này bằng tiếng Việt rồi dịch lại tiếng Tàu cho tên chỉ huy tàu lớn. Biết dân VN vượt biên, họ có vẻ an tâm, thông dịch viên bảo ghe đi theo họ vô đồn trong những con đường nước có thả phao đỏ hai bên, không được đi ra ngoài, sẽ bị đá ngầm đâm lủng ghe. Họ cho thức ăn, xì dầu, đồ hộp thừa mứa. Tụi tôi ở lại gần đồn họ đêm đó, tờ mờ sáng họ đã ra dấu đuổi đi, cho mấy thùng dầu để đi tiếp lên phía bắc.

– Tụi lính Tàu tử tế quá nhỉ…
– Tôi cũng nghĩ vậy… nhưng chính vì mấy thùng dầu đó mà ghe tôi tắt máy giữa biển sau đó. Loại dầu đó dành cho tàu lớn xài, ghe nhỏ xài loại dầu khác. Thế là chạy mới được một ngày, ghe khọt khẹt một lúc rồi tắt máy, nổi lênh đênh giữa vùng nước tối đen bao la… Mà bão thì ở đâu ngay lúc đó ầm ầm kéo tới… Lênh đênh giữa trời tối như mực, gió tung ghe lên xuống liên hồi… Bị nhồi xóc liên tục, ai cũng lăn ra ói mửa nằm đài la liệt… Tôi là người cuối cùng kiệt sức lăn ra lịm đi, mơ mơ màng màng không biết là đang ở trên vùng biển nào, phó mặc cho số mệnh, nghĩ có lẽ ghe đang trên đường lên Đài Loan hay lạc lõng vô vịnh Bắc Việt, gần đảo Hải Nam. Thình lình không hiểu sao, tôi cảm thấy như gió bão đẩy ghe vùn vụt, hay như có bàn tay Ơn Trên phù hộ, nâng ghe lên cho gió thổi ào ào đẩy ghe thật nhanh…

Không biết bao lâu, khi tôi tỉnh cơn mê ngồi dậy thì thấy ghe đã dập dềnh tắp vô bờ biển, xa xa hàng trăm ghe đánh cá thắp đèn sáng rực. Mọi người lục đục quanh tôi ngồi dậy ngó dáo dác, tháo dây dừa ra, vì bể lặng, sóng êm, ghe nổi bềnh bồng… Có vài chiếc ghe nhỏ tụi thanh niên Bắc kỳ vượt biên từ mạn Hải phòng tới, lảng vảng ở bờ, gần ghe tôi, nói tiếng Bắc kỳ rổn rảng. Tôi gọi hỏi thăm, tụi nó nói đây là bờ biển Trung quốc, giữa Hải nam và Hongkong, chúng nói tụi Tàu biên phòng không cho lên bờ, cũng không bắt giữ ghe vượt biên từ Việt Nam, chỉ xua tay đuổi đi tiếp về phía bắc. Ghe tui mừng quá, coi như thoát chết, đám thanh niên lấy mấy cây chèo ra, cứ men theo bờ biển mà chèo đi.

Có lần thấy một bãi biển vắng, tụi tôi lén tắp vô, xách can nhựa chạy lên kiếm mấy cái giếng múc lấy nước uống, ai dè công an ở đâu xuất hiện, xách súng ra la ó, xua đuổi. Nhưng thấy múc nước họ cũng chờ, để yên cho múc đầy, rồi đi theo xuống chỗ ghe đậu coi có ai trốn ở lại không. Một ngày sau thì ghe tắp vô Macao, thành phố sòng bạc nổi tiếng Á châu. Cảnh sát xuống ghi số ghe, tịch thu các giấy tờ cá nhân coi từ đâu tới. Sợ họ đuổi đi, tụi tôi phá hư máy, để được tiếp nhận. Coi giấy tờ xong, biết từ Việt Nam tới, họ nói bằng tiếng Anh, “Ở đây, chúng tôi một tuần chỉ có một ngày nhận dân tỵ nạn tới, đó là ngày thứ sáu, hôm nay mới thứ năm, chúng tôi buộc lòng phải đuổi các anh đi. Đi thêm nửa ngày nữa, các anh sẽ tới Hongkong, ở đó họ nhận tỵ nạn… Nhưng nếu họ hỏi, không được nói ở đây đẩy qua đó…”

Họ tử tế cho một chiếc ghe tốt hơn, nhận chìm ghe cũ, bắt chúng tôi dời qua ghe mới, rồi cho một tàu nhỏ kéo đi qua Hongkong. Thấy Hongkong hiện ra xa xa là tàu tháo dây cáp, vẫy tay chào chúng tôi, bỏ quay về lại Macao. Khi ghe tụi tôi cập bến, cảnh sát tới tịch thu giấy tờ, hỏi ai là chỉ huy. Tôi bảo Hà để tôi nhận là chỉ huy, vì có giấy tờ làm cho CIA của Mỹ trước kia. Giấy tờ này, gồm cả hình ảnh mặc đồ lính, bằng cử nhân luật trước 75, vợ tôi chuẩn bị sẵn một phong bì bao bịch nylon, đưa tôi lúc gặp nhau dưới ghe ở bờ biển Phan thiết. Họ hỏi đi từ đâu tới. Tôi nói từ Việt Nam. Họ hỏi sao đi ghe của Macao. Tôi nói tại ghe tôi hư máy tắp vô Macao, Macao cho ghe khác rồi đuổi đi. Họ ghi chép tên họ cấp bậc chức vụ tôi, báo ngay cho phái đoàn Mỹ biết… Phái đoàn điện về Washington, và ba hôm sau ông boss Mỹ cũ của tôi bay qua Hongkong gặp tôi, gửi gấm cho phái đoàn Mỹ tại Hongkong. Tôi trở nên cố vấn tin cậy của họ, làm việc trực tiếp với một bà xếp Mỹ. Bất cứ vấn đề gì liên quan tới nhân sự làm cho Mỹ trước kia, họ đều hỏi ý kiến tôi.

Trong mấy tháng ở Hongkong, tôi đã giúp biết bao nhiêu người tỵ nạn tình ngay mà lý gian, chỉ vì họ vô tình khai gian, hay giấy tờ không đầy đủ. Tôi bắt họ nói thật, nếu đúng là cựu quân nhân mới bảo đảm với bà boss, để giữ uy tín mình… Anh biết, người ta đã tin mình, mình không nên vì tình cảm cá nhân, hay mủi lòng thương hại mà làm chuyện gian dối, Mỹ sẽ khinh cả đám. Ở đây tôi gặp anh Hùng, đại úy Hải, Thiện, anh… thằng Danh. Anh nhớ thằng Danh, cái thằng láu cá, nó đâu có đi lính ngày nào mà xưng là thiếu úy. Nghe có người mách nó lấy giấy tờ anh nó là thiếu úy nhảy dù qua đây, mặt hai anh em giống nhau y hệt, nên không ai biết. Lúc đó, tôi nghĩ tới hoàn cảnh chính tôi, em thì bạc phước bị VC giết, còn mình thì có phước được qua đây như nó, công trình vượt biên một lần đi chín phần chết, một phần sống chứ đâu phải dễ, nên làm ngơ… Nó mới 22 tuổi, còn cả một tương lai trước mặt, cho nó có cơ hội giúp đỡ mẹ già, anh khổ ở lại…

– Hồi đó tôi được chuyển qua Phi học ESL mấy tháng không gặp anh. Hình như anh đi thẳng Mỹ.
-Tôi và anh Hùng được đi thẳng Mỹ vì tình cảnh đặc biệt, kể ra dài lắm. Ông boss CIA cũ của tôi bên Mỹ nhờ một ông bạn đại tư bản ở Boston bảo trợ tôi, cho vợ chồng tôi ở nguyên một cái nhà to khỏi trả tiền rent, đưa tôi đi làm ngay trong hãng của ổng. Tôi qua đó tháng 8/84, mấy tháng sau mùa đông tới… ôi chao là lạnh, tuyết rơi, lạnh chịu không nỗi, thời gian đó tôi liên lạc được với bạn bè bên Nam Cali nên tính chuyện lén dọn về Cali ở, tính thầm trong bụng chứ không dám cho ông sponsor hay, sợ ổng buồn. Ổng tốt quá, nên mình ngại, sợ ổng nghĩ mình chê tiểu bang của ổng, được voi đòi tiên. Qua Little Saigon được hai tuần tôi có gọi phone về xin lỗi ổng. Ổng nói, “OK, nếu mày không có việc làm, cứ qua trở lại đây, tao sẵn sàng tiếp đón”. Nhưng nói vậy chứ mặt mũi nào mình chạy qua đó lại. Tôi làm cho nhà hàng, rồi ghi danh đi học trường tư, học điện, plumbing, contruction… rồi sau cùng lấy bằng thầu khoán contractor luôn. Làm chỗ này chỗ kia vùng Orange County, Long beach, Los…. Tôi làm ăn cũng được, mua chung cư cho thuê, nhà ở, đất nhà… đầu tư… lu bù bây giờ chỉ còn có cái nhà đang ở ở Santa Ana là trả off, mấy cái kia tiêu hết.

  – Cái đất 3 acres có nhà ở Peris họ tịch thu bán short sale anh nhờ tôi làm đơn mua giùm lúc trước, tới đâu rồi, sao thấy im lìm…
– Họ bán cho người khác rồi. Người đó qualified hơn anh.
– Anh giỏi thật, đủ nghề, lăn lộn chìm nỗi nhiều phen mà cũng không khá được. Rõ ràng con người có số. Những người ở tù CS như mình qua đuợc Mỹ, coi như đã trả xong cộng nghiệp, tưởng thoát khổ, bắt đầu ăn nên làm ra, coi vậy mà không phải vậy. Đâu phải ai tới Mỹ cũng thành triệu phú. Anh chịu khổ tám năm tù, lẽ ra giờ này bù lại phải được an nhàn phè phỡn, mà tới giờ con cái vẫn chưa thành đạt, còn phải đi làm. Tôi ở tù ít hơn, qua đây học hành, lao động, năm chìm bảy nỗi, đôi phen mất job mất nhà, về hưu mấy năm sau mới trả off cái nhà này, rồi được tiền hưu, medicare…

   – Số tôi cực hơn anh nhiều…
– Mà thôi, so với các dân tộc khác qua Mỹ tìm cơ hội, nhiều người Mễ vượt biên qua Mỹ đói khát chết khô ở biên giới, nhiều người Hoa bỏ tiền qua đây đi làm lậu, có bầu, du lịch đẻ con để lấy quốc tịch Mỹ, người Trung đông qua ở lậu bị INS sau truy ra có liên hệ quân khủng bố trục xuất về nước, hay dân Phi châu vượt biên ngang biển Ý đại lợi tới Âu châu chết chìm liên tục… mình được như vầy là may mắn lắm rồi.
– Tất nhiên…
– Lại so với bao nhiêu người giờ này còn ở VN, cướp giật, làm điếm, bán thức ăn độc hại để kiếm lời, bệnh viện bê bối, giáo dục nhồi sọ, tương lai con cái đen tối, thì mình còn hơn nhiều, phải không anh Khoa…
– Tất nhiên rồi chứ còn gì nữa…
Phạm Hoàng Chương
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 201 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.504 seconds.