Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Âm nhạc | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Âm nhạc |
Chủ đề: GIAI THOAI VĂN-THƠ-NHẠC-NHẠC SĨ-VĂNTHI SĨ | |
<< phần trước Trang of 4 |
Người gởi | Nội dung | |||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 11/Oct/2014 lúc 6:09pm | |||||
Nói Về Ca Khúc và Thơ Phổ Nhạc
Nói Về Ca Khúc và Thơ Phổ Nhạc Tranh Nguyên Khai Vào năm 1970, nhà xuất bản BORDAS, Paris-Montreal cho ra đời một cuốn sách nhan đề LA LITTÉRATURE EN FRANCE DEPUIS 1945. Các tác giả là Jacques Bersani, Michel Autrand, Jacques Lecarme, Bruno Versier... đã cho rằng từ năm đó trở đi, Văn Học Pháp Quốc không phải chỉ là thơ, tiểu thuyết và kịch bản mà thôi. Vào thời đại này, trong văn học phải kể thêm truyện trinh thám, truyện bằng tranh và ca khúc. Riêng về ca khúc, người ta nhận định rằng: sau thế chiến 2, vì sự góp mặt của các thi sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ như Jacques Prévert, Boris Vian, Joseph Kosma, Georges Br***ens, Charles Trenet v.v... ca khúc (chanson) của nước Pháp phải đi vào văn học sử bởi vì nó đã không còn là một thứ nghệ thuật yếu kém (un art mineur) nữa rồi. Thơ Prévert được phổ thành ca khúc và rất thành công cho nên vào lúc đó triết gia Jean Paul Sartre làm lời ca cho bài La Rue Des Blancs Manteaux, nhà thơ Raymond Queneau soạn lời cho ca khúc Si Tu T'imagines. Georges Br***ens thì đem thơ Victor Hugo, Paul Fort ra phổ nhạc. Léo Ferré phổ thơ Aragon và Hélène Martin phổ thơ Jean Genet... Trong sách, có nói rõ về chỗ đứng của ca khúc : En quelques années, la chanson est devenue intelligente, humoristique, sensible, satirique, enfin intéressante. La chanson a pénétré dans toutes les couches sociales. (...) Elle fait partie de notre vie quotidienne. Biên giới giữa ca khúc và thơ gần như không còn nữa. Nhạc còn làm cho thơ (hay lời ca cũng vậy) đi nhanh vào lòng người. Bây giờ ta nói đến Văn Học Sử Việt Nam. Phần nhiều nó là những thi phẩm được hát lên như TRUYỆN KIỀU, LỤC VÂN TIÊN với lối kể Kiều và nói thơ Vân Tiên. Dân chúng thường biết đến văn chương thi ca qua hình thức ca ngâm cho nên tác phẩm thường có thêm chữ NGÂM hay chữ CA vào, ví dụ CHINH PHỤ NGÂM, CUNG OÁN NGÂM KHÚC, GIA HUẤN CA. Còn HÁT Ả ÐÀO thì hoàn toàn là thơ của những thi sĩ lỗi lạc như Tú Xương, Nguyễn Khắc Hiếu v.v... Ta có thể nói văn học Việt Nam của thời trước là những ca khúc ngắn hay những ca khúc dài. Trong Nhạc Sử Việt Nam, kể từ khi có Tân Nhạc để thay thế cho Cổ Nhạc, ca khúc dù là những đoản khúc hay những trường ca, dù sử dụng nhạc ngũ cung của dân tộc hay đi theo đường lối nhạc chủ âm của Âu Mỹ... ca khúc đều đã đóng một vai trò rất lớn. Nó có một chỗ ngồi rất vững trong lòng người, không phải là một mà tới ba, bốn thế hệ. Chẳng cần phải nghiên cứu kỹ càng, ta cũng thấy rằng trong 50 năm qua, nhạc điệu của ca khúc Việt Nam mỗi ngày một phong phú thêm, lời ca mỗi ngày một trí thức hơn, mỗi thời đại, mọi tình cảm đều được diễn dịch qua hàng ngàn ca khúc của hàng trăm tác giả, từ Lê Thương, Ðặng Thế Phong qua Văn Cao tới Trịnh Công Sơn... Và nếu thế hệ nhạc sĩ đương thời hay tương lai rất giỏi về nhạc lý, về nhạc thuật, chịu bỏ công ra để soạn phần hoà âm, phối khí mới mẻ cho những ca khúc cũ của các bậc cha chú thì nhạc Việt Nam chắc chắn sẽ không thua nhạc cổ điển hay tân thời của Âu Mỹ đâu ! Hơn nữa, vì hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của nước ta cho nên nhạc Việt còn có rất nhiều sự sống mà chưa chắc nhạc cổ điển hay nhạc tân kỳ của Âu Mỹ có thể có được. Khởi sự là một người soạn ca khúc, rồi không hề có một mặc cảm nào cả, tôi cứ mãi mãi là người soạn ca khúc bởi vì sau khi đi học ở Pháp về và nhìn vào tình trạng sinh hoạt âm nhạc ở nước mình thì tôi thấy không thể đi vào con đường nhạc thuần túy như nhạc cổ điển Tây Phương được. Lúc đó, tôi chỉ nghĩ rằng nếu tiếp tục soạn ca khúc thì phải thăng hoa nó lên, nghĩa là phải làm sao cho cả hai phần nhạc và lời càng ngày càng tiến bộ. Nghĩa là vào lúc cuối đời, làm sao nhạc của mình có thể tiến dần tới cõi giao hưởng mà hình như mọi người đều coi là cái đỉnh của nghệ thuật âm thanh và làm sao cho lời ca của mình có thể được cho vào văn học sử. Ca khúc của tôi, như mọi người đã biết, về phần lời ca, đa số là do tôi soạn, còn một số là những bài thơ đã nổi danh hay chưa ai biết tới khi được tôi phổ nhạc. Lý do tôi thích phổ thơ cũng rất là giản dị. trước hết, tôi yêu thơ từ ngày còn bé. Lớn lên, tôi có nhiều bạn là thi sĩ làm thơ hay và làm cho tôi càng yêu thơ hơn lên. Cuối cùng, tôi có một người tình rất yêu thơ tiền chiến và làm 300 bài thơ tình tặng tôi. Hành trình phổ nhạc những bài thơ hay của tôi xét ra cũng thật là dài. Khởi sự với thi phẩm của những thi sĩ đã thành danh như Cô Hái Mơ của Nguyễn Bính (1942), rồi tới Tiếng Thu (1945) rồi sau đó là Vần thơ Sầu Rụng, Hoa Rụng Ven Sông, Thú Ðau Thương của Lưu Trọng Lư. Tôi đến với Tiếng Sáo Thiên Thai của Thế Lữ vào năm 1952, với Ngậm Ngùi của Huy Cận và với Chiều của Xuân Diệu vào đầu thập niên 60. Những bài thơ của các thi sĩ lớn khác như Mầu Thời Gian của Ðoàn Phú Tứ, Tỳ Bà của Bích Khê, Con Qùy Lại Chúa Trên Trời của Nhất Tuấn cũng được tôi đem vào nhạc trong những ngày xa xưa đó. Ngoài việc phổ nhạc những bài thơ đã trở thành thơ cổ điển của nền THƠ MỚI, vào những năm 60, tôi là người đóng góp vào việc phổ biến những bài thơ tình của lớp thi sĩ trẻ vừa mới được in ra hoặc chưa ai biết tới như : Kiếp Nào Có Yêu Nhau, Ðừng Bỏ Em Một Mình của Hoài Trinh, Mùa Thu Paris, Tiễn Em, Kiếp Sau, Bên Ni Bên Nớ, Về Ðây, Chiều Ðông của Cung Trầm Tưởng, Mùa Xuân Yêu Em của Ðỗ Quý Toàn, Tâm Sự Gửi Về Ðâu của Lê Minh Ngọc... Thơ về chiến tranh/hoà bình và về tình yêu trong suốt 30 năm ly loạn ở trong nước cũng được tôi phổ nhạc rất nhiều như : Thanh Niên Ca của Ðào Duy Kỳ, Ðồi Tím Hoa Sim của Hữu Loan, Lời Mẹ Dặn của Phùng Quán, Kỷ Vật Cho Em của Linh Phương, Tưởng Như Còn Người Yêu của Lê Thị Ý, Khi Tôi Về của Kim Tuấn, Nhân Danh của Nguyễn Ðắc Xuân, Bi Hài Kịch của Thái Luân, Ði Vào Quê Hương của Hoa Ðất Nắng, Tình Khúc Trên Chiến Trường Tồi Tệ, Thầm Gọi Tên Nhau Trên Chiến Trường Tồi Tệ của Ngô Ðình Vận, Mười Hai Tháng Anh Ði của Phạm Văn Bình, Còn Chút Gì Ðể Nhớ của Vũ Hữu Ðịnh, Ở Rừng U Minh Ta Không Thấy Em của Nguyễn Tiến Cung, Chuyện Tình Buồn của Phạm Văn Bình... Ðó là chưa kể trường khúc CHIẾN CA MÙA HÈ gồm 13 bài thơ của Phạm Lê Phan mà tôi phổ nhạc trong Mùa Hè Ðỏ Lửa vào năm 1972. Trong khoảng đầu của thập niên 70, tôi lại có diễm phúc là làm cho mọi người nhanh chóng biết tới hai hiện tượng về thơ là : thơ rất Ðạo của Phạm Thiên Thư: Ðưa Em Tìm Ðộng Hoa Vàng, Gọi Em Là Ðoá Hoa Sầu, Em Lễ Chùa Này... (nhất là mười bài thơ được phổ thành MƯỜI BÀI ÐạO CA), và thơ tình ngộ nghĩnh của Nguyễn Tất Nhiên: Thà Như Giọt Mưa, Em Hiền Như Ma Soeur, Hai Năm Tình Lận Ðận... Ra hải ngoại, ngoài những bài thơ ngắn của Hà Huyền Chi như Mười Năm Một Chuyện Tình Buồn, Năm Ngàn Năm Về Trước, của Nguyên Sa như Vết Sâu, của Cao Tần như Thư Em Ðến, Mai Mốt Ông Về, của Viên Linh như Thủy Mộ Quan, của Nguyễn Xuân Quang như Mây Trôi Trôi Hết Một Ðời, của Duyên Anh như Có Bao Giờ Em Hỏi, Em, Anh Ðã Tới Paris và một loạt 5 tập thơ của Ngô Xuân Hậu nhan đề MỘ KHÚC I, II, III, IV và V... tôi còn tung ra hai loại ca là Ngục Ca và Hoàng Cầm Ca mà mọi người đều biết đó là thơ Nguyễn Chí Thiện và thơ Hoàng Cầm do tôi phổ thành ca khúc. Thế là sau khi đã đi qua gần như hầu hết các nẻo thơ của Nền Thi Ca Việt Nam Hiện Ðại trong tuổi thanh xuân và tuổi giữa trưa rồi, bây giờ vào tuổi về chiều, hành trình phổ nhạc phải dẫn tôi tới THƠ HÀN MẶC TỬ và THƠ NGUYỄN DU. Sau đây là bảng danh sách (chưa đầy đủ) của những bài thơ mà tôi đã phổ nhạc: 1942 Cô Hái Mơ (theo thơ Nguyễn Bính) 1945 Tiếng Thu (theo thơ Lưu Trọng Lư) 1947 Thanh Niên Ca (theo thơ Ðào Duy Kỳ) 1952 Tiếng Sáo Thiên Thai (theo thơ Thế Lữ) 1953 Thuyền Viễn Xứ (theo thơ Huyền Chi) 1958 Kiếp Nào Có Yêu Nhau (theo thơ Hoài Trinh) Tình Quê (theo thơ Hàn Mặc Tử) Hoa Rụng Ven Sông -- Vần thơ Sầu Rụng -- Thú Ðau Thương (theo thơ Lưu Trọng Lư) 1959 Mùa Thu Paris -- Kiếp Sau -- Chiều Ðông -- Về Ðây -- Bên Ni Bên Nớ -- Tiễn Em (theo thơ Cung Trầm Tưởng) 1960 Nhạc Cảnh Mầu Tím Hoa Trinh Nữ (theo thơ Kiên Giang) 1961 Ngậm Ngùi (theo thơ Huy Cận) 1962 Mộ Khúc (theo thơ Xuân Diệu) Tâm Sự Gửi Về Ðâu (theo thơ Lê Minh Ngọc) Nhạc Cảnh Chức Nữ Về Trời -- Nhạc Cảnh Tấm Cám (libretto của Năm Châu) Quán Bên Ðường (theo thơ Bình Nguyên Lộc) Mùa Xuân Yêu Em (theo thơ Ðỗ Qúy Toàn) 1966 Nhân Danh (theo thơ Nguyễn Ðắc Xuân) Bi Hài Kịch (theo thơ Thái Luân) Ði Vào Quê Hương (theo thơ Hoa Ðất Nắng) 1968 Kỷ Vật Cho Em (theo thơ Linh Phương) Khi Tôi Về (theo thơ Kim Tuấn) 1969 Ðừng Bỏ Em Một Mình (theo thơ Hoài Trinh) Tỳ Bà (theo thơ Bích Khê) 1970 Con Qùy Lạy Chúa Trên Trời (theo thơ Nhất Tuấn) Mùa Thu Chết (theo Apollinaire) Thu Ca Ðiệu Ru Ðơn (theo Verlaine) 1971 MƯỜI BÀI ÐạO CA Pháp Thân -- Ðại Nguyện -- Chàng Dũng Sĩ Và Con Ngựa Vàng -- Quán Thế Âm -- Một Cành Mai -- Lời Ru Bú Mớm Nâng Niu -- Qua Suối Mây Hồng -- Giọt Chuông Cam Lộ -- Chắp Tay Hoa -- Tâm Xuân (theo thơ Phạm Thiên Thư) Ngày Xưa Hoàng Thị -- Ðưa Em Tìm Ðộng Hoa Vàng -- Em Lễ Chùa Này - Gọi Em Là Ðoá Hoa Sầu (theo thơ Phạm Thiên Thư) Huyền Thoại Trên Một Vùng Biển (theo thơ Thái Phương Thư tức Phạm Thiên Thư) Tình Khúc Trên Chiến Trường Tồi Tệ -- Thầm Gọi Tên Nhau Trên Chiến Trường Tồi Tệ (theo thơ Ngô Ðình Vận) Thôi -- Anh Yêu Em Vào Cõi Chết (theo thơ Nguyễn Long) Mười Hai Tháng Anh Ði -- Chuyện Tình Buồn (theo thơ Phạm Văn Bình) Tưởng Như Còn Người Yêu (theo thơ Lê Thị Ý) Mầu Tím Hoa Sim (theo thơ Hữu Loan - sửa lại ca khúc đã soạn từ lâu) Nụ Hôn Ðầu (theo thơ Trần Dạ Từ) 1972 Còn Chút Gì Ðể Nhớ (Vũ Hữu Ðịnh) Rừng U Minh Ta Không Thấy Em (Nguyễn Tiến Cung) CHIẾN CA MÙA HÈ Qua Cầu Ái Tử -- Bên Giòng Thạch Hãn --Lời Dặn Dò -- Suối Trăng Hờn -- Ðêm Hội Máu -- Một Tình Thương -- Ðêm Hội Pháo -- Bất Khuất -- Ðưa Mẹ Về -- Trị Thiên Yêu Dấu -- Sữa Trắng Rừng Xanh -- Mặc Niệm -- Xin Tha Thứ (theo thơ Phạm Lê Phan) Khúc Lan Sầu (theo thơ Thanh Lan) Xin Tình Yêu Giáng Sinh (theo thơ Trụ Vũ) 1973 Thà Là Giọt Mưa -- Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ -- Em Hiền Như Ma Soeur -- Anh Vái Trời -- Hãy Yêu Chàng -- Hai Năm Tình Lận Ðận (theo thơ Nguyễn Tất Nhiên 1975 Ta Yêu Em Lầm Lỡ (theo thơ Ðào Văn Trương) 1978 Thư Em Ðến (theo thơ Cao Tần) Mưa Rơi Ở Ca Li (theo thơ Nam Lộc) Những Mùa Ðông Dĩ Vãng (theo thơ Hà Huyền Chi) Biển Máu (theo thơ Diệu Văn) 1980 Mây Trôi, Trôi Hết Một Ðời (theo thơ Nguyễn Xuân Quang) NGỤC CA Từ Vượn Lên Người -- Ðảng Ðầy Tôi -- Ngày 19 Tháng 5 -- Xưa Lý Bạch -- Những Thiếu Nhi Ðiển Hình Chế Ðộ -- Tôi Có Thể --. Chuyện Vĩ Ðại Bi Ai -- Thấy Ngay Thủ Phạm --Nước Ðổng Trác Ðiêu Thuyền -- Sẽ Có Một Ngày -- Ðôi Mắt Trưương Chi -- Cái Lầm To Thế Kỷ -- Vì Ấu Trĩ -- Tia Chớp Này Vĩ Ðại -- Ôi Mảnh Ðất Nửa Trên Hình Chữ S -- Trong Bóng Ðêm -- Ðất nước Tôi -- Xin Hãy Giữ Mầu Trong Trắng -- Biết Bao Giờ Lời thơ Của Tôi -- Thời Ðại ************ (theo thơ Nguyễn Chí Thiện) 1981 Sương Khói Tây Nguyên (theo thơ Lâm Hảo Dũng) Người Tù Dũng Liệt (theo thơ Thái Tú Hạp) 1982 Anh Ði Từ Ðộ Ấy -- Bài Ca Dang Dở Cho Con -- Trinh Nữ Biển Xanh (theo thơ Nguyễn Long) Mộ Khúc I -- Mộ Khúc II -- Mộ Khúc III -- Mộ Khúc IV -- Mộ Khúc V (theo thơ Ngô Xuân Hậu) Tôi Phải Chết Từ Năm Ngàn Năm Về trước (theo thơ Hà Huyền Chi) Mai Mốt Ông Về -- Xa Em Anh Về (theo thơ Cao Tần) 1983 Ðất Mẹ Và Ðôi Ta -- Bài Ca Tình Ái -- Cười Chung Một Nụ (theo thơ Trần Quan Thái) 1984 Có Bao Giờ Em Hỏi -- Em ! Anh Ðã tới Paris (theo thơ Duyên Anh) HOÀNG CẦM CA Tình Cầm -- Lá Diêu Bông -- Qua Vườn Ổi -- Cỗ Bài Tam Cúc -- Ðạp Lùi Tinh Tú -- Trăm Năm Như Một Chiều (theo thơ Hoàng Cầm) Mầu Thời Gian (theo thơ Ðoàn Phú Tứ) Lời Mẹ Dặn (theo thơ Phùng Quán) 1985 Bài thơ Xanh (theo thơ Vi Khuê) Thủy Mộ Quan (theo thơ Viên Linh) Vết Sâu (theo thơ Nguyên Sa) 1986 Từ Dạo Ta Buồn (theo thơ Cung Vũ) Buồn Xưa -- Sao Em Biết Thu Về -- Tìm Người (theo thơ Hoàng Ngọc Ẩn) 1987 Mơ Về Đất Mẹ -- Hãy Trả Về Em -- Mộ Chiều Xuân (theo thơ Hoàng Ngọc Ẩn) Mười Năm Chuyện Tình Buồn (theo thơ Hà Huyền Chi) 1990 Tình Như Biển Xanh Muôn Thuở -- Một Khắc Bay Chơi (theo thơ Trần Văn Nam) 1993 Tập HOA THÔNG THIÊN : Huyền Trân -- Người Em Xứ Huế -- Em Ðến Thăm Tôi -- Tôi Ðưa Em Về -- Thần Tượng -- Si Mê-- Sao Em Chẳng Nói -- Mừng Cưới -- Xin Làm Nhân Chứng -- Hoa Thông Thiên -- Em Tập Viết -- Nếu Em Hỏi -- Người Em Gái -- Lỗi Hẹn (theo thơ Ðào Tiến Luyện) Ngựa Biển (theo thơ Hoàng Hưng) Tôi Yêu (theo thơ Bạch Vân) Tháng Mười Yêu Dấu (theo thơ Võ Hoàng Châu) Lời Vọng -- Tháng Tư Không Quên (theo thơ Trần Thiện Hiệp) Buồn Xưa -- Sao Em Biết Thu Về -- Tìm Người -- Xuân Chết -- Nếu Ngày Mai Tôi Chết -- Gửi Lại Em Yêu -- Mãi Tiễn Ðưa -- Hãy Trả Về Em -- Mộ Chiều Xuân (theo thơ Hoàng Ngọc Ẩn) Ðá Soi Nhật Nguyệt -- Ảo Giác -- Lỗi Hẹn (theo thơ Thái) Thuyền Say -- Lời Cuối (theo thơ Nguyễn Thị Thanh Bình) Còn Cát Bụi Tìm (theo thơ Ngô Tịnh Yên) Trường Ca HÀN MẶC TỬ Tình Quê -- Ðây Thôn Vỹ Dạ -- Dalat Trăng Mờ -- Trăng Sao Rớt Rụng -- Hồn Là Ai -- Trút Linh Hồn -- Lạy Bà Là Ðấng Tinh Truyền Thánh Vẹn -- Ôi Sứ Thần Thiên Chúa Gabriel -- Phượng Trì Ôi Phượng Trì (theo thơ Hàn Mặc Tử) 1994 Mặt Trời Buồn (theo thơ Mùi Qúy Bồng) Thu Man Mác (theo thơ VTT Paris) Mùa Xuân Hoa Thắm -- Nhớ Con Sông Ðà (theo thơ Danielle) Ngàn Hôn Mộng (theo thơ Nguyễn T.) 1997 MINH HỌA TRUYỆN KIỀU - PHẦn MỘT Rằng Năm Gia Tĩnh Triều Minh -- Ngày Xuân Con Én Ðưa Thoi -- Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba --Ngổn Ngang Gò Ðống Kéo Lên -- Sè Sè Nấm Ðất Trên Ðường -- Ðau Ðớn Thay Phận Ðàn Bà -- Một Vùng Cỏ Áy Ác Tà -- Dễ Hay Tình Lại Gặp Tình -- Gốc Cây Lại Vạch Một Bài Cổ Thi -- Dùng Dằng Nửa Nửa Về -- Chàng Vương Quen Mặt Ra Chào -- Tình Trong Như Ðã Mặt Ngoài Còn E (theo thơ Nguyễn Du) 2002 MINH HỌA TRUYỆN KIỀU - PHẦN HAI Người Đâu Gặp Gỡ Làm Chi -- Lơ Thơ Tơ Liễu -- Một Buổi Êm Trời -- Biết Đâu Hợp Phố -- Đá Biết Tuổi Vàng -- Hán Sở Tranh Hùng -- Tư Mã Phượng Cầu -- Kê Khang Và Khúc Quảng Lăng -- Chiêu Quân Cống Hồ -- Càng Tỏ Hương Nồng -- Trăng Thề Còn Đó -- Càng Tỏ Hương Nồng -- Trăng Thề Còn Đó (theo thơ Nguyễn Du) Trên đây là bản danh sách chưa đầy đủ của những bài thơ mà tôi đã phổ nhạc trong đó có một số bài không được tôi cho vào MỤC PHẠM DUY TỔNG QUÁT. Nay tôi xin được ghi những bài đó vào mục THƠ PHỔ NHẠC này để các bạn đọc và nghe lại những bài -- đa số là thơ tình -- đã một thời trở thành những ca khúc ghi lại khá nhiều những kỷ niệm buồn vui của các bạn... Và của cả riêng tôi nữa. Phạm Duy http://www.phamduy.com/en/van-nghien-cuu/mot-doi-nhin-lai-ngan-loi-ca/5778-38-noi-ve-ca-khuc-va-tho-pho-nhac Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 11/Oct/2014 lúc 6:11pm |
||||||
mk
|
||||||
IP Logged | ||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 15/Nov/2014 lúc 11:57pm | |||||
Giai Thoại Về Nhạc Phẩm Làng Tôi NHẠC SĨ chung quân(1936-1988) Tác Giả: Phan Văn Thanh, CHS Văn Đức Lớp 12C Niên Khóa 1972 – 1975 Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh Có sông sâu lờ lững vờn quanh êm xuôi về Nam … Làng tôi bao mái tranh san sát kề nhau Bóng tre ru bên mấy hàng cau đồng quê mơ màng! Năm ấy, đoàn hát Kim Chung lần đầu tiên có kế hoạch thực hiện bộ phim nhựa có tiếng nói (âm thanh). Để cho bộ phim thêm phần hấp dẫn, trang trọng và gây ấn tượng với công chúng trong buổi chiếu ra mắt, toàn bộ êkíp điều hành, bầu sô, đạo diễn … đồng ý việc tổ chức một cuộc thi sáng tác bài hát làm nền cho phim với giải thưởng lớn cho tác phẩm được chọn. Đây cũng là bộ phim nhựa có âm thanh đầu tiên của ngành điện ảnh Việt Nam vào thời ấy. (1952) Cuộc thi được tổ chức rộng rãi trong công chúng, không phân biệt tuổi tác, chuyên nghiệp hay nghiệp dư…đã có nhiều nhạc sĩ tên tuổi cùng một số những người mới thành danh trong làng ca nhạc giải trí thời đó tham gia. Đề tài sáng tác là quê hương và con người Việt Nam. Sau nhiều lần chọn lựa rất công bằng và vô tư, ban giám khảo đã mất khá nhiều thời gian bàn bạc, nhận xét rồi cân nhắc để đưa ra một sự chọn lựa chính xác, dù biết đó là một quyết định rất khó khăn. Cuối cùng, Ban tổ chức đã công bố, tác phẩm được chọn để trao giải là bài hát “Làng Tôi” của một tác giả vô danh tiểu tốt, cái tên nghe chừng như rất xa lạ trong làng ca nhạc Việt thời ấy đó chính là nhạc sĩ Chung Quân. Bản nhạc Làng Tôi được chọn vì nó mang hơi thở của một vùng quê yên bình, lời lẽ cũng mộc mạc, dung dị thấm đẫm tình cảm của người dân Việt Nam, cho dù năm đó tác giả bài Làng Quê mới chỉ vừa 16 tuổi. Nhạc phẩm Làng Quê và cái tên Chung Quân ra đời từ dạo ấy. Nhờ giai điệu du dương, thắm thiết tình người tình quê của Làng Tôi cứ mãi bay xa mà cái tên nhạc sĩ Chung Quân trở nên nổi tiếng và đi vào lòng người. Nhiều nhạc sĩ tên tuổi và giới văn nghệ thời đó có hơi ngỡ ngàng, nhưng mọi người đều công nhận bản nhạc "Làng Tôi" xứng đáng được nhận giải thưởng vinh dự đó. Quê tôi chìm chân trời mờ sương Quê tôi là bao nguồn yêu thương Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn Là bao vấn vương tâm hồn ... người bốn phương. Bản Làng tôi đã giành được giải của công ty điện ảnh, đoàn cải lương Kim Chung ở Hà Nội để làm bản nhạc nền cho phim Kiếp Hoa. Hành trình về phương Nam Thế rồi, thế sự đổi thay theo mệnh nước nổi trôi. Năm 1954, Chung Quân cùng gia đình di cư vào Nam, định cư ở vùng Khánh Hội. Nhờ đã từng học sư phạm chuyên ngành về nhạc và danh tiếng của Làng Tôi, Chung Quân được Bộ Quốc gia Giáo dục của Đệ Nhất Cộng Hòa ưu đãi, cho dạy môn nhạc tại hai trường trung học Chu Văn An, và Nguyễn Trãi. Thời gian giảng dạy ở trường Nguyễn Trãi, Chung Quân là thầy dạy nhạc của nhiều nhạc sĩ nổi tiếng sau này như Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An, Đức Huy, Nam Lộc... Cũng khoảng thời gian 1955 - 1956, ông có soạn bản hợp xướng Sông Bến Hải, theo một vài ý kiến thì đó là một trường ca có giá trị nghệ thuật, viết về cuộc di cư năm 1954, nhưng về sau không thấy phổ biến rộng rãi. Trường Nguyễn Trãi năm ấy có cậu học trò nghèo nên buổi trưa thường không về nhà mà nghỉ lại ở trường cùng bữa ăn trưa là gói xôi mà mẹ cậu đã mua cho cậu đem theo từ sáng sớm. Thay vì nghỉ trưa, cậu học trò lại tha thẩn trong trường để rồi lắng nghe được câu chuyện tranh cãi giữa hai người thầy. Trong một căn phòng, tiếng của vị giáo sư Hà Đạo Hạnh (cử nhân toán) đang ầm ĩ nói với nhạc sĩ Chung Quân
Rồi thời gian trôi qua, tưởng mọi chuyện đã rơi vào quên lãng. Nhưng không, nhạc sĩ Chung Quân đã không chịu bỏ qua dễ dàng như vậy, ông nhất định phải đòi lại món nợ danh dự này. Không công danh thà nát vói cỏ cây. Nhạc sĩ Chung Quân sau đó đã quyết chí tiếp tục con đường kinh sử, ông ghi danh theo học và hoàn thành tú tài toàn phần, sau đó, ông lại tiếp tục việc học để đạt cho kỳ được mảnh bằng Đại học. Cuối cùng, ông đã tốt nghiệp cử nhân văn chương tại Anh quốc. Đã mang tiếng đứng trong trời đất Phải có danh gì với núi sông Nhớ lại câu chuyện ngày xưa, nhạc sĩ Chung Quân sao chép tất cả văn bằng mà mình có được gửi về cho giáo sư Hà Đạo Hạnh kèm theo lời nhắc nhở rất nhẹ nhàng lịch sự. Thưa giáo sư Hà Đạo Hạnh, tất cả những gì mà giáo sư làm được thì Chung Quân tôi cũng đã làm được. Còn những gì Chung Quân tôi làm được thì giáo sư đã không làm được. Viết tới đây tôi bỗng nhớ tới bài thơ của cụ Nguyễn Công Trứ có đoạn như sau: Đã hẳn rằng ai nhục ai vinh Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong Chí những toan xẻ núi lấp sông Làm lên tiếng phi thường đâu đấy tỏ … Nhạc sĩ Chung Quân đã đòi lại món nợ danh dự năm xưa một cách sòng phẳng bằng ý chí và lòng kiến nhẫn của chính ông. Rất lịch sự, tế nhị mà cũng rất quân tử. Không ồn ào, không gióng trống khua chiêng làm người khác phải ngượng ngùng, mất thể diện. Quả thật, chẳng ai biết trước được chuyện gì xảy ra trong cuộc đời. Cậu học trò nghe lén câu chuyện ngày xưa sau này cũng theo cái nghề “gõ đầu trẻ”. Ông dạy Trung học đệ nhị cấp (cấp 3) ở miệt dưới tận tỉnh Bạc Liêu. Ngoài công việc dạy học, ông còn làm thêm nghề tay trái là viết báo, viết văn với bút hiệu Thái Phương. Sau biến cố 1975, ông nghỉ dạy và chuyển hẳn sang viết báo. Hiện nay, độc giả biết nhiều đến ông với bút danh nhà văn Đoàn Dự. Đã có lần, nhà văn Đoàn Dự gặp lại thầy cũ là giáo sư Hà Đạo Hạnh và ông có hỏi vị giáo sư:
Nguồn : http://www.truongvanduc.net/LangToi.htm |
||||||
mk
|
||||||
IP Logged | ||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 23/Nov/2014 lúc 10:11pm | |||||
Ai muốn đánh cắp "Nỗi Lòng Người Đi" của Anh Bằng?
Giáo sư Hoàng Tụy, nhà toán học nổi tiếng của Việt Nam từng nói: “Giả
dối hiện nay đang có nguy cơ trở thành nỗi nhục trong khi truyền thống
dân tộc Việt Nam không phải là dân tộc giả dối. Ngành giáo dục càng
không thể là ngành giả dối. Thế nhưng đã có hơn một nhà khoa học nước
ngoài nói thẳng với tôi rằng, điều thất vọng lớn nhất mà ông ta cảm thấy
là sự giả dối đang bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội ở
các tầng nấc.” (trích Phỏng vấn của báo Dân Trí)
Thực tế đã chứng minh số người có bằng giả đã hoặc đang làm việc trong
các cơ quan nhà nước không hiếm ở Việt Nam. Người nổi tiếng trong vụ
khai gian bằng Tiến sĩ là Thứ trưởng Bộ Y tế Cao Minh Quang nay đã bị sa
thải. Ông Quang khai đã có bằng Tiến sĩ tại Đại học Uppsala, Thụy Điển,
nhưng sự thật thì trường này, theo báo chí Việt Nam, chỉ cấp chứng chỉ
về nghiên cứu Khoa học Dược phẩm tự nhiên cho ông Cao Minh Quang, chứ
không phải văn bằng.
Báo VnExpress viết ngày 16/9/2011: “ĐH Uppsala xác nhận: "Ông Cao
Minh Quang, sinh ngày 6/6/1953, đạt chứng chỉ "Licentiatexamen" về
nghiên cứu khoa học dược phẩm tự nhiên vào ngày 26/10/1994. Đây là chứng
chỉ chứ không phải văn bằng. Theo quy định của trường Uppsala chứng chỉ
nói trên cần phải đạt được để tham dự khóa học tiến sĩ".
Bằng chứng này đã xác nhận một thực trạng ai cũng biết đang diễn ra
trong xã hội Việt Nam: Ở bất kỳ địa vị nào trong xã hội, nhất là những
kẻ có chức có quyền, cũng có thể gian dối để đạt lợi ích cá nhân mà
không cần phải hổ thẹn với lương tâm.
Trường hợp của "Nỗi Lòng Người Đi"
Vì vậy khi đem bi kịch gian dối lồng vào sự bất lực của nhà nước trong
cuộc chiến phòng, chống tham nhũng từ bao nhiêu năm mà nay vẫn còn
“nghiêm trọng” cũng không phải là một ngoại lệ. Nếu sự dối gian này cũng
đã lan sang lĩnh vực Văn nghệ trong thời gian 2 năm qua đối với Tác
phẩm Âm Nhạc nổi tiếng “Nỗi lòng người đi” của Nhạc sĩ Anh Bằng thì cũng không ai ngạc nhiên.
Tuy chuyện “tranh quyền Tác giả” bài ca lịch sử này đã râm ran từ lâu
nhưng không mấy người quan tâm cho đến khi Đài Truyền hình VTV1 loan báo
có chương trình Giai điệu tự hào mang chủ đề Người Hà Nội lúc 20h ngày
24/10 (2014), và Ca khúc Nỗi lòng người đi - của nhạc sĩ hải ngoại Anh Bằng sẽ lên sóng VTV1.
Vì vậy ông Khúc Ngọc Chân - nguyên nhạc công cello Dàn nhạc Giao hưởng
Việt Nam đã làm to chuyện rằng chính ông ta mới là Tác giả của “Nỗi Lòng Người Đi”, có tên gốc là “Tôi Xa Hà Nội” viết năm 1954!
Câu chuyện bắt đầu như thế này :
Nhạc sĩ Anh Bằng, người có tên thật là Trần An Bường, sinh năm 1926 tại
Nga Điền, Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa cùng quê với Nhà thơ Hữu Loan, Tác
giả của Bài Thơ bất tử “Mầu tím hoa sim”.
Khi bước sang tuổi 88 năm 2014, Nhạc sĩ Anh Bằng đã có một gia tài gần
700 ca khúc nhạc tình, nhạc dân tộc và nhạc trẻ nổi tiếng, trong đó có “Nỗi lòng người đi” ra đời ngày 15/04/1967.
Khi Tác phẩm này in ra, ai cũng thấy chỉ có một mình tên Tác giả Anh Bằng in trên Bản nhạc.
Và trong suốt 47 năm qua, qua trình diễn của nhiều thế hệ ca sĩ từ trong
nước ra hải ngoại, không có bất cứ một ai dám “cả gan” tranh chấp chủ
quyền với ông.
Tại sao? Bởi vì ông đã viết ra “Nỗi Lòng Người Đi” cho cả một thế
hệ người Bắc di cư vào Nam năm 1954, trong đó có gia đình ông, sau khi
Việt Nam phải chia đôi đất nước tại Hội nghị Geneve tháng 07/1954.
Nội dung bài hát nói lên tâm trạng rời bỏ quê hương Hà Nội của một Thanh
niên đã phải bỏ lại người yêu đi tìm tự do vì không thể nào có thể ở
lại miền Bắc sống chung với quân Việt Minh thời ấy.
Lý do dễ hiểu vì Anh Bằng thuộc một gia đình chống Cộng sản như Tiểu sử ông đã cho biết: “Năm
1935 ông xa gia đình để học Tiểu chủng viện Ba Làng tại huyện Tĩnh Gia
thuộc tỉnh Thanh Hóa, sau đó ông lại tiếp tục theo học trung học ở Hà
Nội. Vì gia đình anh em ông chống Việt Minh, vào thời kỳ Kháng Pháp, ông
bị Việt Minh bắt giam ở trại Lý Bá Sơ. Các anh em ông bị tuyên án tử
hình nhưng sau được thả, riêng người anh Trần An Lạc bị Việt Minh thủ
tiêu. Ông theo gia đình di cư vào Nam năm 1954 và sinh sống ở khu Bà
Chiểu, Sài Gòn cho đến năm 1975.”
Chuyến ra đi lịch sử của Anh Bằng năm 1954 và cuộc di cư vào Nam trong
thời gian 300 ngày của trên 1 triệu người dân miền Bắc đã in đậm trong
tâm khảm người Việt Nam thời ấy. Vì vậy, mỗi khi nghe ai hát “Nỗi lòng người đi” là người dân gốc Bắc, dù ở trong nước hay hải ngoại suốt 60 năm qua (20/7/1954 – 20/07/2014), cũng phải rưng rưng nước mắt!
Thế nhưng, tuy đã gần đến tuổi 50 kể từ ngày ra đời 1967, “Nỗi lòng người đi”
vẫn không thoát khỏi một tai nạn không ai có thể ngờ tới xẩy đến năm
2012 qua “một việc làm chung” của 2 người ở Hà Nội, Nhà báo phê bình ân
nhạc Nguyễn Thụy Kha và Nhạc sĩ Khúc Ngọc Chân, người tự nhận chính ông
mới là “tác giả thật” của “Nỗi Lòng Người đi” đã được ông Anh Bằng đặt thay cho “tên nguyên thủy” là “Tôi Xa Hà Nội”.
Nguyễn Thụy Kha - Khúc Ngọc Chân
Lập luận của 2 ông Kha và Chân có một số điểm “rất nên thơ” nhưng họ lại không chứng minh được:
Thứ nhất, hãy nghe ông Nguyễn Thụy Kha kể: "Một buổi sáng cuối thu Hà
Nội, có một người nhỏ thó đến văn phòng tôi làm việc ở 59 Tràng Thi -
Hà Nội. Ông tự giới thiệu là Khúc Ngọc Chân.
Tôi nhìn mãi mới nhận ra ông đã từng là nghệ sĩ đàn cello ngồi ở Dàn
nhạc Giao hưởng Việt Nam từ những năm mới thành lập. Các anh em của ông
là Khúc Phác và Khúc Ka Hoàng cũng đều là dân nhạc nổi tiếng từ lâu. Ông
Chân họ Khúc, đích thị là con cháu Khúc Thừa Dụ ở Ninh Giang - Hải
Dương rồi. Ông nói rằng ông có bài thơ về tổ tiên được khắc trên bia đá
tại đền thờ họ Khúc ở quê. Dần dà, ông bắt đầu kể cho tôi nghe về hoàn
cảnh ra đời của ca khúc “Nỗi lòng người đi” mà chính ông là tác giả với
cái tên đầu tiên là “Tôi xa Hà Nội.”
Thế rồi chuyện tình của Tác giả “Tôi Xa Hà Nội” Khúc Ngọc Chân được ông Kha kể:
“Vốn yêu âm nhạc, ông Chân tìm đến học đàn với thầy Wiliam Chấn ở gần
Hồ Tây. Lúc ấy, cả nhạc sĩ Đoàn Chuẩn và Tạ Tấn cũng đều đến học thầy
Chấn nổi tiếng. Qua học thầy mà ông Chân quen với một thiếu nữ Hà Nội
tên là Nguyễn Thu Hằng, kém ông hai tuổi. Rồi tình yêu nhen lửa. Họ đã
có những ngày đầu yêu thương thật thơ mộng bên bờ Hồ Gươm. Không thể
quên những chiều ngồi bên bờ hồ té nước đùa vui với nhau.
Sau thất bại ở Điện Biên Phủ, Pháp buộc phải ký hiệp định Genève. Ông
Chân phải theo gia đình về quê. Nỗi nhớ nhung người yêu khiến cho ông
cảm xúc bâng khuâng.
Khi trở về Hà Nội, ông Chân mới biết gia đình người yêu đã xuống Hải
Phòng, ở khách sạn Cầu Đất chờ di cư vào Nam. Ông tìm xuống Hải Phòng để
sống cùng người yêu, chờ tiễn nàng xuống tàu. Những ngày đó, với cây
guitar luôn mang theo bên mình, Khúc Ngọc Chân viết Tôi xa Hà Nội tại
khách sạn Cầu Đất – Hải Phòng, viết lại những gì đã bâng khuâng trong
suốt những ngày tháng qua, những ngày tháng xa Hà Nội:
(1) "Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu
Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói bay theo mây chiều
Hà Nội ơi! Nào biết ra sao bây giờ
Ai đứng trông ai bên hồ
Khua nước chơi như ngày xưa.”
Trong khi Anh Bằng viết :
“Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu
Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều
Hà Nội ơi! Nào biết ra sao bây giờ
Ai đứng trông ai ven hồ khua nước trong như ngày xưa.”
Bài của Nguyễn Thụy Kha viết tiếp như ông viết Truyện tình thơ mộng của Khúc Ngọc Chân: “Chàng
tròn 18 tuổi. Nàng tròn 16 tuổi. Khi ấy, tuổi ấy yêu đương là bình
thường. Nếu nỗi nhớ thương người yêu ngày đó đã khiến cho Hoàng Dương
viết ra Hướng về Hà Nội nổi tiếng, thì Khúc Ngọc Chân cũng viết Tôi xa
Hà Nội nổi tiếng không kém. Chàng lại tiếp tục dào dạt trở lại cái cảm
xúc ấy, cái giai điệu ấy nhịp 3/8 hát chậm và tình cảm (Lento - Espressivo):
(2)“Tôi xa Hà Nội năm em mười sáu xuân tròn đắm say
Đôi tay ngọc ngà dương gian tình ái em đong thật đầy
Bạn lòng ơi! Thuở ấy tôi mang cây đàn
Quen sống ca vui bên nàng
Nàng khóc tơ duyên lìa xa…”
Nhạc Anh Bằng :
“Tôi xa Hà Nội năm em mười sáu xuân tròn đắm say
Đôi tay ngọc ngà dương gian, tình ái em đong thật đầy
Bạn lòng ơi! Ngày ấy tôi mang cây đàn quen sống ca vui bên nàng
Nay khóc tơ duyên lìa tan.”
Nguyễn Thụy Kha còn bi thảm hóa cuộc gặp của đôi tình nhân Nguyễn Thu Hằng-Khúc Ngọc Chân với những dòng: "Không
biết trong những ngày ngắn ngủi bên nhau ở Hải Phòng, nàng đã khóc bên
chàng bao lần. Chỉ biết rằng họ vẫn an ủi nhau, nàng cứ vào trước, chàng
hứa hẹn rằng sẽ vào sau, sẽ tìm nàng ở Sài Gòn. Nàng hãy gắng chờ đợi
giữa đô hội phồn hoa:
(3)“Giờ đây biết ngày nào gặp nhau
Biết tìm về nơi đâu ân ái trao nàng mấy câu
Thăng Long ơi! Năm tháng vẫn trôi giữa dòng đời
Ngậm đắng nuốt cay nhiều rồi
Hồ Gươm xưa vẫn chưa phai mờ.”
Nhưng đoạn này lại giống hệt như lời của Anh Bằng:
“Giờ đây biết ngày nào gặp nhau
Biết tìm về nơi đâu ân ái trao nàng mấy câu
Thăng Long ơi! Năm tháng vẫn trôi giữa giòng đời ngậm đắng nuốt cay nhiều rồi
Hồ Gươm xưa vẫn chưa phai mờ.”
Nhưng đến đoạn chót của Bài hát thì ông Khúc Ngọc Chân thay đổi:
(4)“Hôm nay Sài Gòn bao nhiêu tà áo khoe màu phố vui
Nhưng riêng một người tâm tư sầu não đi trong bùi ngùi
Sài Gòn ơi! Mộng với tay cao hơn trời
Ai nhắn thay tôi đôi lời, chỉ ước mơ mong đẹp đôi.”
Trong khi Anh Bằng đã viết:
“Hôm nay Sài Gòn bao nhiêu tà áo khoe màu phố vui
Nhưng riêng một người tâm tư sầu vắng đi
trong bùi ngùi
Sài Gòn ơi! Mộng với tay cao hơn trời
Tôi hái hoa tiên cho đời để ước mơ nên đẹp đôi.”
Những mặt trái bị lộ
Đến đây thì chân tướng không thật bắt đầu lộ ra với giọng văn tiểu thuyết của Nguyễn Thụy Kha: "Ca
khúc được viết xong, Khúc Ngọc Chân đã tập cho nàng hát thuộc lòng, hát
đi hát lại đến chan chứa cảm xúc. Khi ấy đã là cuối tháng 11.1954.
Ngày đưa tiễn nàng và gia đình xuống tàu há mồm di cư vào Nam, chàng
và nàng cùng xuống một chiếc thuyền con ở bến Bính để đi ra nơi tàu đậu
ngoài cửa biển. Thuyền cứ trôi, còn chàng thì cứ bập bùng guitar và hát
Tôi xa Hà Nội cho nàng nghe. Nàng thì vừa nghe vừa đập nhịp bằng tay lên
mạn thuyền. Một cảnh tượng chia tay thật lãng mạn như trong tiểu thuyết
của Tự lực văn đoàn. Và rồi con tàu đã rời xa đất liền, trôi mãi vào
biển cả mênh mang, mang theo nàng và mối tình đầu day dứt cùng giai điệu
đượm buồn kia. Còn chàng thì quay về, rồi trở lại Hà Nội. Nhưng nỗi nhớ
nàng thì cứ thắp sáng trong những đêm trường cô đơn.”
Lối “tả chân” của Nhà văn Nguyễn Thụy Kha chất chứa đầy đủ những hoạt
cảnh cần thiết cho một khúc phim tình cảm của thời bình trên chiếc du
thuyền, nhưng chắc chắn không thể có “trong chuyến đò” di cư của người
miền Bắc vào Nam của thời 1954. Tất nhiên vào khi ấy, không người di cư
tất tưởi nào lại còn đủ bản lãnh để thư thái mà “bập bùng guitar và hát
Tôi xa Hà Nội cho nàng nghe” , và nàng cũng “ung dung”, chả quan tâm gì
đến bố mẹ và gia đình ngồi quanh để “vừa nghe vừa đập nhịp bằng tay lên
mạn thuyền”!
Về trường hợp của cô Nguyễn Thu Hằng, qua ngòi bút điêu luyện không cần có chứng minh, ông Nguyễn Thụy Kha viết:
“Còn nàng, khi vào Sài Gòn, vì mưu sinh, với khả năng văn nghệ và vẻ
đẹp của mình, nàng đã đến đầu quân cho một quán bar. Ở đó, nàng vừa làm
việc, vừa nhớ người yêu. Ca khúc của chàng đã được nàng tự hát trong
những đêm thương nhớ. Hát để nhớ chàng, hát để chia sẻ với bao người
khác có tâm trạng nhớ nhung như nàng. Và đương nhiên, một ca khúc hay
như thế đã lọt vào thẩm âm của nhiều nhạc sĩ lúc đó cũng đã lìa xa Hà
Nội. Chắc chắn trong đó có nhạc sĩ Anh Bằng. Ca khúc đã có một số phận
khác khi được nhạc sĩ nhận thức và tìm cách xử lý. Còn ở Hà Nội, Khúc
Ngọc Chân đâu ngờ gia đình ông bao đời không chịu làm cho Tây đã không
theo dòng người di cư mà ở lại Hà Nội vừa giải phóng. Vậy là lời hứa với
nàng đành lỡ dở theo thời gian.”
Đến đây thì “mùi sắc” chính trị “làm cho Tây” và “Hà Nội vừa giải phóng”
đã được Nguyễn Thụy Kha lồng vào âm nhạc. Chả lẽ Nguyễn Thụy Kha không
biết đâu phải hơn 1 triệu người bỏ miền Bắc di cư xuống Nam là vì đã
“làm cho Tây” nên đã đi theo Tây vào Nam?
Cũng chẳng lẽ ông Kha không biết lực lượng Việt Minh đã “tiếp quản”
thành phố Hà Nội từ tay quân đội Pháp sáng ngày 10/10/1954 chứ đâu có
đánh đấm gì mà bảo là “giải phóng” như Ban Tuyên giáo đảng CSVN đã viết
tài liệu tuyên truyền trong dịp kỷ niệm 60 năm mới đây (10/10/1954 –
10/10/2014)?
Không dừng ơ đây mà Tác giả Nguyễn Thụy Kha đã cùng với Khúc Ngọc Chân đong đưa tiếp với nhiều huyền thoại:
Nhà báo này viết: “Ở lại Hà Nội, năm 1956, ông Chân vào học đàn cello
ở Trường Âm nhạc Việt Nam. Khi tốt nghiệp thì về công tác tại Dàn nhạc
Giao hưởng Việt Nam. Ngày thống nhất đất nước, khi Dàn nhạc Giao hưởng
vào biểu diễn ở Sài Gòn vừa giải phóng, ông Chân đi tìm người yêu qua họ
hàng thân thiết thì biết tin người yêu vò võ đợi chờ ngày gặp lại đã
mất vì mắc bệnh hiểm nghèo năm 1969, khi mới vào tuổi “tam thập nhi
lập”. Theo người thân của người yêu, ông đã tìm đến mộ nàng và thắp
hương, thầm khóc cho cuộc tình chia phôi bất hạnh. Chính vì người yêu đã
mất, nên ông không sao hiểu nổi bằng cách gì mà ca khúc Tôi xa Hà Nội
của ông lại lọt vào tay nhạc sĩ Anh Bằng, được ông sửa thành nhịp 4/4
theo điệu Slow và phổ biến “quá trời” tại Sài Gòn.”
Rồi ông Kha và ông Chân kể tiếp như người chết đuối vớ được phao giữa dòng nước xoáy:
"Ông Chân nói rằng đó là điều may mắn. Khi ấy, nếu ca khúc lan ra mà
lại ghi tên ông là tác giả, chắc ông khó mà ngồi yên ở Dàn nhạc Giao
hưởng cho đến khi về hưu. Nhưng vì ca khúc ghi là của tác giả Anh Bằng,
nên những ca từ rất thực của ông diễn tả nỗi phấp phỏng trong lòng Hà
Nội tạm bị chiếm lại trở thành một vệt đen mang đậm nỗi ấm ức của bao
người di cư ở bên kia chiến tuyến. Lại nữa, vì Anh Bằng đổi tên ca khúc
thành Nỗi lòng người đi nên vệt đen kia hóa thành có thực khi đất nước
bị chia cắt. Cũng chính vì thế mà cho đến nay Nỗi lòng người đi (vốn là
Tôi xa Hà Nội) vẫn chưa được cho phép hát lại.”
Nhưng làm sao mà ông Chân có thể “hát lại” được, bởi vì Trung tâm bảo vệ
quyền Tác giả Âm Nhạc Việt Nam ở Hà Nội (Vietnam Center for Protection
of Music Copyright , VCPMC) đã bác lời xin bảo vệ quyền lợi cho ông vì
ông “đã không chứng minh được quyền Tác giả” của mình.
Nguyên văn điện thư của Bà Đinh Thị Thu Phương, Phó quản lý, đặc trách
ngoại vụ của Trung Tâm gửi Nhạc sĩ Anh Bằng về tác quyền như sau:
From: "Dinh Thu Phuong" <phuong.dtt@vcpmc.org>
Date: September 24, 2014 at 1:08:06 AM PDT
Subject: Fwd: NOI LONG NGUOI DI
Kính gửi Nhạc sĩ Anh Bằng,
Cháu nhận được email kèm theo bản nhạc của bác đã lâu, nhưng phải chờ
thẩm định, rồi lại vì bận nhiều việc quá nên hôm nay cháu mới hồi âm
tới bác được, mong bác thứ lỗi.
Nhạc sĩ Khúc Ngọc Chân ủy quyền cho VCPMC ca khúc Tôi xa Hà Nội từ
ngày 24.4.2014, tuy nhiên sau đó phát hiện có sự song trùng với ca khúc
Nỗi lòng người đi của bác. VCPMC đã yêu cầu 2 bên cung cấp chứng cứ bằng
văn bản, nhưng ông Khúc Ngọc Chân không có, vì vậy VCPMC đã quyết định
ngừng bảo vệ, quản lý và khai thác ca khúc Tôi xa Hà Nội. Điều đó có
nghĩa VCPMC chỉ công nhận tính hợp pháp của ca khúc Nỗi lòng người đi
của nhạc sĩ Anh Bằng. Cháu xin chúc mừng bác ạ.
Đây là việc thường xuyên phải giải quyết của VCPMC, mong bác giải
thích với mọi người rằng chỉ thuần túy là việc tranh chấp dân sự bình
thường, ai không đủ chứng cứ là thua, có thế thôi, không phải là âm mưu
chính trị gì đâu (như có bài viết ở hải ngoại phỏng đoán) vì sự việc nó
quá tầm thường không đáng để suy diễn làm ảnh hưởng đến chính sách đại
đoàn kết dân tộc của Nhà nước Việt Nam.
Để thực hiện khoản 1, 2 Điều 3 của Hợp đồng ủy quyền (mà cô Trương Mỹ
Dung – học trò của bác ở Việt Nam đã thay mặt bác ký với VCPMC) một lần
nữa cháu đề nghị bác vui lòng gửi qua email cho cháu toàn bộ ca khúc
của bác mà bác đang có, nếu đã là xuất bản phẩm trước 1975 tại Sài Gòn
thì bác scan cho cả mặt ngoài và mặt trong của bản nhạc khổ giấy A3, ca
khúc nào chưa xuất bản hoặc viết sau 1975 chưa in thì bác gửi cho cháu
bản chép tay cũng được. Cháu cảm ơn bác trước.
Cháu xin gửi kèm theo đây 1 quyết định của Giám đốc VCPMC và 1 mẫu Hợp đồng ủy quyền để bác tham khảo.
Trân trọng kính chào bác – người nhạc sĩ tài danh mà tác phẩm luôn
hướng tới và dành cho tình yêu con người cùng quê hương đất nước Việt
Nam. Chúc bác vui khỏe và dồi dào sức sáng tạo.
Kính thư,
--
Dinh Thi Thu Phuong (Ms)
Deputy Manager of External Relations Divison,
Cellphone: +84 91 660 5156
Vietnam Center for Protection of Music Copyright (VCPMC)
66 Nguyen Van Huyen Str, Cau Giay District., Hanoi, Vietnam
Phone: +844 3762 4718 (ext: 268) / Fax: +844 37624717
Office hour: 8am - 5pm GMT+7, Mon-Fri
Ngoài ra, Giám đốc Trung Tâm, Nhạc sĩ Phó Đức Phương cũng ra Quyết định ngày 12 tháng 09 năm 2014 có 3 điểm, nguyên văn như sau:
Điều 1: Ngừng bảo vệ quản lý và khai thác 1 ca khúc “Tôi xa Hà Nội” của Nhạc sĩ Khúc Ngọc Chân.
Điều 2: Những ca khúc khác của Nhạc sĩ Khúc Ngọc Chân vẫn được bảo vệ, quản lý và khai thác bình thường.
Điều 3: Quyết định này có hiệu lực từ ngày ký. Các phóng ban chức năng của Trung tâm chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.
Tiếp tục sai lầm
Bài viết của Nhà báo phê bình âm nhạc Nguyễn Thụy Kha xuất hiện trong
Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay số 804 và được Website Giai Điệu Xanh đăng
lại ngày 21/12/2012 còn tiếp tục sai lầm rằng: “Tìm hiểu về nhạc sĩ
Anh Bằng qua nhiều luồng thông tin, qua trang mạng Google thì thấy rằng
điều ông Chân thổ lộ rất có cơ sở. Nhạc sĩ Anh Bằng tên khai sinh là
Trần An Bường. Ông sinh năm 1925 tại thị trấn Bỉm Sơn thuộc Ninh Bình.
Ông học trung học tại Hà Nội trước khi di cư vào Nam. Sau ngày
30.4.1975, Anh Bằng sang Mỹ, cư trú tại Houston, bang Texas . Ông vẫn
hoạt động văn nghệ trong cộng đồng người Việt và hiện là cố vấn Trung
tâm Asia Entertainment tại Houston.”
Ngay trong đoạn này, ông Kha đã “khẳng định chuyện kể của ông Chấn “rất
có cơ sở”, căn cứ theo những gì ông Kha tìm được trên mạng điện tử
Google, nhưng ông lại nói sai “Sau ngày 30.4.1975, Anh Bằng sang Mỹ,
cư trú tại Houston, bang Texas . Ông vẫn hoạt động văn nghệ trong cộng
đồng người Việt và hiện là cố vấn Trung tâm Asia Entertainment tại
Houston”, trong khi gia đình Nhạc sỹ Anh Bằng và Trung tâm Asia chưa bao giờ sinh sống hay xây dựng sự nghiệp âm nhạc ở Houston, Texas.
Tuy vậy, tác giả Nguyễn Thụy Kha cứ “đong đưa” với chữ nghĩa để tiếp tục thêu dệt rằng: “Ngày
ấy, khi vào Sài Gòn, theo thiển nghĩ của tôi, Anh Bằng chưa được biết
đến như Chung Quân, Cung Tiến. Nghe được ca khúc Tôi xa Hà Nội do một
thiếu nữ làm ở quán bar hát những khi chia sẻ mà lại không biết xuất xứ.
Với khả năng âm nhạc của mình, Anh Bằng đã thuộc được giai điệu này.
Ông thấy rất hợp tâm trạng của ít nhất là những thanh niên vừa phải xa
Hà Nội di cư vào Sài Gòn. Vậy là cuộc sử dụng một giai điệu mang tâm
trạng của thanh niên xa Hà Nội, nhưng để hợp thời thế, Anh Bằng đã
chuyển nhịp 3/8 gốc của ca khúc Tôi xa Hà Nội thành nhịp 4/4 dùng tiết
điệu Slow.”
Tệ hại hơn, Thụy Kha còn dựa vào lời nói của người duy nhất tự nhận là Tác giả “Tôi xa Hà Nội” Khúc Ngọc Chân để bịa ra rằng: “Còn về ca từ, Anh Bằng đã khéo léo gắn vào đó tên của một nhà thơ tình nổi tiếng là Nguyễn Bính.
Nguyễn Bính là nhà thơ đã từng tham gia chiến tranh tại Nam bộ và có
bài thơ Tiểu đoàn 307 được Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc rất hoành tráng.
Nhưng sau Hiệp định Genève, ông đã ra tập kết ở miền Bắc. Có lẽ thông
tin này, Anh Bằng không biết, nên ông đã tự “vu” cho Nguyễn Bính chịu
trách nhiệm ca từ này.”
Nhưng Nhạc sĩ Anh Bằng, đã trả lời câu hỏi của tôi (Phạm Trần) về chuyện Nguyễn Bính như sau:
“Cảm ơn Anh đã tỏ ra rất quan tâm đến ca khúc NỖI LÒNG NGƯỜI ĐI của tôi đang bị cướp đoạt một cách trắng trợn.
Anh đã xem Bản nhạc được in và phát hành năm 1967 tại Sài Gòn chỉ có
tên Tác giả là ANH BẰNG trong ca khúc NỖI LÒNG NGƯỜI ĐI. Tuyệt đối
không có tên Thi sĩ Nguyễn Bính in bên cạnh như kẻ gian manh, xáo quyệt,
vô lương tâm, vô liêm sỉ bịa đặt.
ANH BẰNG xin minh xác như vậy để Anh yên tâm.”
Nhạc sĩ Lê Dinh, người bạn tâm giao của Anh Bằng trong nhóm 3 Nhạc sĩ Lê
Minh Bằng (Lê Dinh-Minh Kỳ-Anh Bằng) phản ứng về chuyện này:
“Bài viết này, của báo trong nước, tôi cũng đã đọc cách nay một tuần.
Đây chỉ là một bài viết lập lại những lý luận mà họ đã lải nhải như
trong nhiều bài trước, không có gì mới lạ.
Nhưng họ không đá động gì tới việc cô Đinh thị Thu Phương, Vietnam
Center for Protection of Music Copyright (VCPMC / thuộc Trung Tâm Bảo Vệ
Quyền Tác Giả) đã xác nhận với Anh Bằng, qua thư đề ngày 24-09-14,
rằng: “Sau khi thẩm định, VCPMC đã quyết định ngừng bảo vệ, quản lý và
khai thác ca khúc Tôi xa Hà Nội (của Khúc Ngọc Chân vì không cung cấp
chứng cứ bằng văn bản). Và VCPMC chỉ công nhận tính hợp pháp của ca khúc
Nỗi lòng người đi của nhạc sĩ Anh Bằng”.
Như vậy, chúng ta xem như việc này đã kết thúc qua lá thư của cô Đinh
thi Thu Phương (CVPMC) gửi cho Anh Bằng ngày 24-09-14 (được trích trên
đây)
“…Việc lên tiếng của VCPMC là một tiếng chuông cảnh cáo những kẻ giả
mạo để ăn cướp công lao của những nhạc sĩ sáng tác, vì không gì dễ bằng,
cứ lấy một tác phẩm cũ nổi tiếng nào đó, của một nhạc sĩ nổi tiếng nào
đó, chép bằng máy vi tính, sửa lại vài chữ và nói đây là bài nhạc của
tôi sáng tác năm đó, năm đó… ông nhạc sĩ này lấy bài nhạc của tôi làm và
nói là của ổng. Chủ nhà trở thành kẻ cướp và kẻ cướp trở thành chủ nhà,
quá dễ.
May mà có sự quyết định sáng suốt của Trung Tâm Bảo Vệ Quyền Tác Giả,
nếu không thì sẽ có loạn trong làng âm nhạc Việt Nam, chứ chẳng không.”
Tại sao đến 2012 mới biết ?
Về chủ quyền bài hát, ông Khúc Ngọc Chân tỏ ra lúng túng khi phóng viên
báo Thể thao- Văn hóa Việt Nam (Thethaovanhoa.vn) hỏi ngày 15/10/2014
rằng: “Tại sao đến tận bận bây giờ ông mới nhận Nỗi lòng người đi là
của mình. Ông có bằng chứng gì thuyết phục rằng đó chính thức là ca khúc
của mình không? Ông đã sáng tác ca khúc đó trong hoàn cảnh nào và liệu
ông có còn nhạc bản ngày xưa hay không?”
Ông Chân đáp gọn: “Bản nhạc ngày xưa sao mà giữ được. Ca khúc của tôi
sáng tác hồi đó chính ra chỉ có 2 người biết với nhau là tôi và cô
người yêu thôi.”
Về chuyện bảo Anh Bằng ghi tên Nhà thơ Nguyễn Bính vào bản nhạc, ông Chân lại ú ớ khi được báo Thanh niên-Văn hóa (TTVH) hỏi: “Sau này rồi có ai biết có bài nào nhác nhác như thế của ông Nguyễn Bính không?
Khúc Ngọc Chân: “Không có. Gia đình Nguyễn Bính ở Nam Định cũng không
còn ai, con cháu đi hết rồi. Tất cả các tuyển tập thơ Nguyễn Bính không
có bài nào như thế.
May cho tôi là khi kể chuyện này với nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha và một
số người bạn, có người lên mạng đã copy được bản nhạc Anh Bằng sáng tác
đề rằng Nỗi lòng người đi, nhạc Anh Bằng, thơ Nguyễn Bính. Tuy nhiên,
sau bài viết đầu tiên của Nguyễn Thụy Kha được đưa lên mạng thì đến ngay
cả Thụy Kha đi tìm bản đề thơ Nguyễn Bính cũng không có nữa mà chỉ đề
là tác giả Anh Bằng thôi, bỏ phần thơ đi. Nếu mà sự thực phổ thơ Nguyễn
Bính thì vẫn để nguyên chứ. Giả dụ là thơ của Nguyễn Bính thật thì không
sao, không thì tôi phải là Nguyễn Bính chứ không phải Anh Bằng, bởi Anh
Bằng chỉ phổ nhạc thôi mà.”
Nhưng tại sao ông Khúc Ngọc Chân (KNC) không yêu cầu ông Nguyễn Thụy Kha
và “một số người bạn” trưng ra bằng cớ về chuyện “đã copy được bản nhạc
Anh Bằng sáng tác” có tên Nguyễn Bính trên đó?
Báo TTVH: “Ông nói rằng Nỗi lòng người đi không phải của Anh Bằng,
vậy chỉ cần ông đưa ra bằng chứng xác đáng đó là của ông và nếu thực sự
là của ông thì dù cho nhiều người chưa biết thì sẽ biết đến ca khúc này
là của ông?
KNC: "Người yêu của tôi đã mất, do vậy tôi không tranh chấp quyền tác
giả. Tôi chỉ muốn nói về một số phận khác khi ca khúc được một nhạc sĩ
nhận thức và xử lý và đã thành một ca khúc hay, đó là điều may mắn. Khi
xưa, lúc tôi biết Anh Bằng phổ nhạc, tôi cũng không dám nói ra, bởi Tôi
xa Hà Nội với những ca từ rất thực diễn tả nỗi phấp phỏng trong lòng Hà
Nội tạm bị chiếm của tôi lại trở thành một vệt đen thì sao?"
Chân trái đá chân phải
Trong ki đó, Nguyễn Mạnh Hà (báo Tiến Phong, 11-10-2014) viết: “Khúc
Ngọc Chân khẳng định, mãi tới năm kia (2012) ông mới biết đến sự tồn tại
của Nỗi lòng người đi. Bởi ông không thích và rất ít nghe nhạc hải
ngoại.
Qua lời kể của ông Chân thì thậm chí Nguyễn Thụy Kha cũng biết đến
“nghi án” Nỗi lòng người đi. Ông Chân thuật lại lời ông Kha trong cuộc
gặp lần đầu tiên của hai người: “Anh có cái bài Nỗi lòng người đi bên
kia người ta nói là bài của anh?!” Nhưng Nguyễn Thụy Kha lại khẳng định
không hề biết đến nghi án này cho tới khi Khúc Ngọc Chân kể ra. Tuy
nhiên, ông Kha vẫn cảm thông với cách trình bày hơi khó hiểu của ông
Chân: “Người ta không phải người ăn nói với công chúng. Nhưng mình biết
được cái lõi của vấn đề. Tôi bằng trực giác biết chắc chắn bài này của
ông ấy rồi!”.
“Phổ thơ cũng được nhưng đấy là cái sai lầm nhất của Anh Bằng. Toàn
bộ gia tài Nguyễn Bính không có bài thơ nào như lời bài “Nỗi lòng người
đi”. Mà lúc đấy Nguyễn Bính tập kết ra Bắc ra Hà Nội rồi, không dính
dáng đến miền Nam nữa mà viết cái đó. Đấy là kẽ hở của câu chuyện.
Thế rồi Nguyễn Mạnh Hà nhận xét: "Sự vô danh của Khúc Ngọc Chân là
một điều bất lợi khi đặt cạnh Anh Bằng- tác giả của hàng trăm bài hát
trong đó có Khúc thụy du, Nếu vắng anh, Anh còn nợ em, Tình là sợi tơ…
Một điểm yếu nữa trong câu chuyện của Khúc Ngọc Chân mà những người đứng
về phía Anh Bằng xoáy vào là có nhiều hình ảnh tư liệu cho thấy tàu há
mồm đưa người vào Nam cập sát cảng Hải Phòng. Trong khi ông Chân kể, ông
vẫn còn hát Tôi xa Hà Nội cùng người yêu trên thuyền từ bến Bính ra
“phao số không” để tiễn nàng lên tàu há mồm. Nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha,
người gốc Hải Phòng, cho hay Thu Hằng vào Nam là đợt đầu tiên, tháng
11/1954. Lúc đó tàu há mồm chưa cập vào cảng Hải Phòng."
Với những gì chúng ta đọc được quanh “vụ án Nỗi Lòng Người Đi” của Nhạc sĩ Anh Bằng cho thấy đã có những thay đổi nguy hiểm trong tâm tư của cả giới làm văn nghệ ở Việt Nam trong thời đại “gian
dối đã ngự trị trên, không những con người mà cả nền tảng văn hóa
truyền thống lấy nhân, nghĩa, lễ, trí, tín của dân tộc làm kim chỉ nam
cho đời sống hàng ngày.”
Một nền văn hóa loạn xạ như thế phải là mối lo nhức nhối của mọi người, vì như Giáo sư Hoàng Tụy đã báo động: “Giả dối hiện nay đang có nguy cơ trở thành nỗi nhục trong khi truyền thống dân tộc Việt Nam không phải là dân tộc giả dối.” -/- (10/2014) |
||||||
mk
|
||||||
IP Logged | ||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 27/Jan/2015 lúc 1:18am | |||||
Ca Sĩ Mộc Lan là : "NGƯỜI EM GÁI MIỀN NAM" của Nhạc Sĩ ĐOÀN CHUẨN Hà Đình Nguyên** Mời nghe Quang Tuấn hát " Gửi người em gái miền Nam" :
Những
người am hiểu và gắn bó với nền tân nhạc Việt Nam, hẳn vẫn còn nhớ về một thế hệ
nữ ca sĩ cách đây hơn 60 năm. Đó là những giọng ca: Mộc Lan, Tâm Vấn, Châu Hà,
Kim Tước... Thời may, tôi được gặp một người trong số họ: danh ca Mộc Lan.
Hương sắc 60 năm trước
Giai thoại cuộc tình Đoàn Chuẩn - Mộc Lan
Ở đây chúng tôi xin thuật lại như là một giai thoại. Xuất phát của giai thoại này có lẽ là từ bộ sách Chuyện tình các nhạc sĩ tiền chiến (2 tập) do nhạc sĩ Lê Hoàng Long biên soạn, trong đó có bài viết Gởi gió cho mây ngàn bay nói về cuộc gặp gỡ và lối tỏ tình ly kỳ của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn với ca sĩ Mộc Lan. Nhiều bài viết (trên báo chí, trên mạng internet) và cả những lời kể hầu như đều dựa theo những tình tiết mà nhạc sĩ Lê Hoàng Long đã viết. Người viết bài này cũng đã từng gặp gỡ những người trong cuộc (Lê Hoàng Long, Mộc Lan, Châu Kỳ) chỉ trừ nhạc sĩ Đoàn Chuẩn (do ông ở ngoài Bắc và nay đã mất). Cuối năm 2002, khi thực hiện bài phỏng vấn tác giả ca khúc Gợi giấc mơ xưa tại tư gia của ông ở đường Cách Mạng Tháng Tám (gần Bệnh viện Thống Nhất - ngã tư Bảy Hiền), nhạc sĩ Lê Hoàng Long có tặng cho người viết bộ Chuyện tình các nhạc sĩ tiền chiến, do đó mới “thắc mắc” chuyện tình cảm giữa nữ danh ca sắc nước hương trời Mộc Lan và “Ông hoàng nhạc tình” Đoàn Chuẩn. Như ở bài trước chúng tôi đã từng nói đến, nữ ca sĩ Mộc Lan nổi tiếng cả nước với bài hát Đi chơi chùa Hương của nhạc sĩ Trần Văn Khê phổ thơ Nguyễn Nhược Pháp. Bài hát này có những đoạn xen kẽ giữa hát và nói thơ cho nên rất dài và kén người hát. Dạo ấy (đầu những năm 1950), bài hát này hầu như chỉ có Mộc Lan độc diễn. Nàng là người gốc Hải Phòng nhưng vào Sài Gòn khá sớm (khoảng cuối thập niên 1940), lập gia đình với ca sĩ kiêm nhạc sĩ Châu Kỳ, rồi về quê chồng ở cố đô Huế sinh sống. Tuy nhiên, thỉnh thoảng nàng vẫn được mời đi lưu diễn, kể cả ra Bắc (sau năm 1954, chia đôi đất nước mới cách ngăn sự đi lại giữa hai miền). Và trong một lần hát Đi chơi chùa Hương ở Nhà hát Lớn (Hà Nội), giọng ca và sắc đẹp của nàng đã khiến một anh chàng đẹp trai, tài hoa và phong lưu bậc nhất thời đó ngây ngất. Chàng chính là nhạc sĩ Đoàn Chuẩn...
Khúc ly ca Chàng là nhạc sĩ tài hoa, nàng là ca sĩ nổi tiếng - định mệnh đã đưa họ đến với nhau, yêu nhau ngay lần gặp đầu tiên.Như chúng tôi đã đề cập ở bài trước, Châu Kỳ và Mộc Lan gặp nhau ở Sài Gòn qua “nhịp cầu” của cặp vợ chồng nghệ sĩ Mạnh Phát - Minh Diệu. Chỉ ít tháng sau, họ tổ chức lễ cưới và đưa nhau về Huế ra mắt gia đình chồng. Tại Huế, họ được ông Thái Bá Kiểm - Giám đốc Nha Thông tin và Đài Phát thanh Huế nâng đỡ, tạo điều kiện cho họ được biểu diễn thường xuyên trước công chúng cũng như trên sóng phát thanh với mức lương khá hậu hĩ. Tuy nhiên, cái “tổ uyên ương” của họ chỉ là “... một căn phòng nhỏ phía sau Ty Thông tin Huế dưới chân cầu Tràng Tiền. Căn phòng quá nhỏ cho đôi uyên ương quá nổi tiếng ở đất Thần Kinh...” (trích trong Những trang sách khép mở - Trần Áng Sơn). Phải chăng đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho cuộc hôn nhân của họ mau chóng đổ vỡ? Sinh thời, nhạc sĩ Châu Kỳ đã từng nhiều lần tâm sự với người viết: Chung sống ở Huế được 6 năm thì nàng “phải lòng” và đi lại với một người bạn học cũ của Châu Kỳ - người này là con một bà chúa (hoàng tộc), chủ sòng xóc đĩa ở Kim Long (Huế). Vì chuyện đau lòng này mà Châu Kỳ đành đưa vợ trở vào Sài Gòn để giấu không cho gia đình mình biết và cũng để ngăn trở đôi tình nhân. Tuy nhiên, Châu Kỳ vẫn không ngờ tình địch vẫn bám theo. Ở Sài Gòn, đôi nhân tình vẫn hẹn hò, gặp gỡ nhau... Lời ong tiếng ve râm ran nên Châu Kỳ quyết theo dõi vợ. Ông nhờ nhà thơ Đặng Văn Nhân (người đứng ra tổ chức đám cưới cho Châu Kỳ và nàng) chở đi bằng xe hơi bám theo nàng vào tận Chợ Lớn. Châu Kỳ không đủ can đảm chứng kiến người đã từng cùng mình “hương lửa mặn nồng” nay lại ở trong vòng tay người khác nên nhờ ông Đặng Văn Nhân đi bộ theo dõi, còn mình ngồi lại trong xe. Khi ông Nhân trở ra kể lại sự tình, Châu Kỳ thấy trời đất như sụp đổ, ông tông cửa xe, định đâm đầu xuống sông tự tử, may nhờ có ông Nhân ôm ghì lại. Người viết hỏi: “Rồi ông có gặp lại nàng?”. “Có, nhưng mà cũng lâu lắm rồi. Đó là hôm đám tang nhạc sĩ Lê Thương (1996 - NV), cô ấy đi cùng ca sĩ Tâm Vân đến phúng điếu. Chúng tôi chỉ chào hỏi xã giao. Không nói chuyện gì nhiều. Chuyện cũ cũng đã vời xa quá rồi!”. Chuyện trên là do đích thân nhạc sĩ kể với người viết. Ông không nói tên tình địch, nhưng trong tập sách Những trang sách khép mở, nhà văn Trần Áng Sơn cũng có đề cập đến nhân vật này. Đó là một người đàn ông tuy lớn tuổi nhưng có ngoại hình rất thu hút, khuôn mặt quyến rũ, được mọi người kính trọng gọi là Mệ Phủ (“mệ” là tước hiệu chỉ người thuộc hoàng tộc). Mệ Phủ là trung úy Ngự lâm quân bảo vệ hoàng cung. “Ông ta thường đến thăm các chị tôi vào những buổi chiều, lúc nào cũng mang quà cáp cho mọi người, nhất là các chị tôi. Ông tự lái chiếc xe jeep hiệu “Lăng-Rô-vơ”, tiếng máy nổ rất êm... Mỗi lần ông đến, chị Ngọc tôi mừng rỡ như muốn reo lên. Cũng dễ hiểu, thường thì quà tặng chị là món quà lớn nhất, đẹp nhất. Sau đó, ông còn lái xe đưa cả nhà khi thì đi nhà hàng, khi xem phim ở rạp Morin, cũng có lúc ông đưa cả nhà đi thăm khắp các di tích, dinh thự các đời vua Nguyễn. Tuy tặng những món quà đắt nhất, đẹp nhất cho chị Ngọc nhưng người ông chú ý lại là cô em Mộc Lan, con họa mi tuyệt sắc của cố đô Huế. Tôi nhận ra điều này vì thời gian gần đây anh Châu Kỳ ít đi chung với chị tôi, nhất là trong những lần có sự hiện diện của vị khách quý tộc... Rồi, anh Châu Kỳ đã công khai phản đối gia đình tôi về sự hiện diện quá ư đặc biệt của Mệ Phủ. Với tư cách gia trưởng, anh Long tôi không chấp nhận thái độ của em rể. Cuộc xung đột đi đến kết quả đổ vỡ. Ít lâu sau, anh Long có lệnh gọi nhập ngũ. Anh Châu Kỳ và chị tôi vào Sài Gòn và họ chia tay nhau” (Những trang sách khép mở - Trần Áng Sơn). Đây là giai đoạn đầy những đau thương, u uất chất chứa trong nhiều ca khúc của Châu Kỳ: Từ giã kinh thành, Khúc ly ca, Đàn không tiếng hát, Biệt kinh kỳ, Khuya nay anh đi rồi, Tìm nhau trong kỷ niệm, Hương giang tôi còn chờ, Đừng nói xa nhau, Tiếng ca đó về đâu (thơ Nguyễn Tiến Thịnh) và nhất là ông đặt lời cho ca khúc Mưa rơi của anh bạn nhạc sĩ hoàng tộc Ưng Lang, lúc đó ở Huế đi đâu cũng nghe thanh niên hát: “Mưa rơi chiều nay vắng người. Bên thềm gió lơi. Mơ bóng ngàn khơi... Mưa rơi màn đêm xuống rồi. Mây sầu khắp nơi. Thương nhớ đầy vơi... Ai đi như xóa bao lời thề. Thuyền theo nước trôi không về, thấu cùng lòng ai não nề, riêng chốn phòng khuê... Mưa rơi đìu hiu dưới trời. Đêm dài vắng ai. Thương nhớ nào nguôi...”. Nhạc sĩ Ưng Lang (sinh năm 1919, lớn hơn nhạc sĩ Châu Kỳ 4 tuổi), cũng vốn là chỗ thân thiết với người viết (ông từ trần ngày 17.8.2009 tại TP.HCM). Khi tôi hỏi ông về chuyện nhạc sĩ Châu Kỳ đặt lời cho bài Mưa rơi, ông nói: “Bài hát tôi làm lúc đó đã xong cả nhạc lẫn lời. Thế rồi Mộc Lan xa Châu Kỳ mà đi Hà Nội. Châu Kỳ có tâm sự buồn như vậy cho nên khi thấy bài hát của tôi thì đề nghị cho thay đổi vài chỗ trong lời hát cho gần với cảnh ngộ của mình! Tôi đồng ý để Châu Kỳ sửa vài chỗ như thế và đồng ý để Châu Kỳ đứng tên nơi phần lời ca cho đúng với nguyện vọng về mặt tình cảm riêng tư của anh ấy...”. Đôi uyên ương rẽ cánh, mỗi người bay đi một ngả kể từ lúc ấy... Hậu Châu Kỳ - Mộc Lan Họ đã từng có một thời
gian chung sống rồi chia tay... Dòng đời cuốn mỗi người về một phía, ở đó họ lại
gặp ý trung nhân của riêng mình sau những trải nghiệm về hạnh phúc lẫn khổ đau.
Hà Đình Nguyên
Thêm lời của người chuyển : Tôi được biết, vào cuối thập niên 60 (68-69), Bà Mộc Lan lấy Trung Tá Đẩu. Tr/Tá Đẩu là chánh văn phòng của Tướng Dưong Văn Minh (TT 1 ngày, cuối cùng của VNCH), sau 75 Tr/Tá Đẩu bị đi hoc tập....không biết cuộc sống của Bà Mộc Lan ra sao, cho đến khi tôi đọc bài này.
Chế Linh và nhạc sĩ Châu Kỳ tại Sài Gòn Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 27/Jan/2015 lúc 1:28am |
||||||
mk
|
||||||
IP Logged | ||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 29/Jan/2015 lúc 5:30pm | |||||
9/01/2015 19:34 GMT+7 Tiếng chim đã ngừng hót trong bụi mận gai- Nữ nhà văn Colleen McCullough, tác giả của tiểu thuyết kinh điển 'Tiếng chim hót trong bụi mận gai' vừa dừng bước trần ai ở tuổi 78.
Nhà văn Colleen McCullough. Colleen McCullough đã qua đời ở tuổi 78 tại bệnh viện ở Norfolk Island, một hòn đảo nhỏ thuộc Thái Bình Dương vào chiều ngày 29/1 sau khi gặp hàng loạt vấn đề về sức khỏe cũng như thị lực. Thông tin này đã được nhà xuất bản HarperCollins tại Úc xác nhận.
"Thế giới sẽ trở nên thiếu màu
sắc nếu thiếu Col.”, HarperCollins viết trong một thông báo vừa được phát đi.
Những năm cuối đời, dù gặp vấn đề nghiêm trọng về thị lực nhưng Colleen
McCullough vẫn ham sáng tác và xuất bản sách bằng cách đọc chính tả. Năm 2013,
bà vẫn xuất bản cuốn Bittersweet. Sinh năm 1937, trước khi trở
thành một tiểu thuyết gia, Colleen McCulolough từng làm tại một bệnh viện ở
Sydney. Bà cũng từng có 10 năm làm nghiên cứu sinh tại trường Y Yale của Mỹ.
Tiểu thuyết đầu tay, Tim ra mắt năm 1974 khi Colleen McCulolough 37 tuổi. 3 năm sau đó, ở tuổi 40, bà nổi tiếng toàn cầu với cuốn tiểu thuyết vô cùng ăn khách, 'Tiếng chim hót trong bụi mận gai' cùng 30 triệu bản bán ra trên toàn cầu. 'Tiếng chim hót trong bụi mận gai' được coi là tác phẩm nổi tiếng nhất trong sự nghiệp sáng tác của Colleen McCulolough, đưa bà trở thành một trong những tác gia người Úc đầu tiên thành công trên văn đàn thế giới. Trong sự nghiệp sáng tác kéo dài gần 40 năm, Colleen McCulolough đã xuất bản 25 tiểu thuyết.
'Tiếng chim hót trong bụi mận gai' nổi tiếng đến nỗi nó đã được chuyển thể thành series phim truyền hình ăn khách cùng tên năm 1983 và nhanh chóng trở thành một trong những bộ phim ăn khách nhất mọi thời đại cùng 4 giải Quả cầu vàng cho series phim truyền hình hay nhất (trong tổng số 8 đề cử năm 1984). Đây cũng là bộ phim truyền hình
được khán giả Việt Nam rất yêu thích khi được công chiếu vào đầu thập niên 1990
với sự tham gia diễn xuất của Richard Chamberlain (vai Cha Ralph) và Rachel Ward
(Meggie). Linh Anh - Theo The Guardian, ABC Tiếng chim đã ngừng hót trong bụi mận gai - VietNamNetTác giả 'Tiếng chim hót trong bụi mận gai' qua đời - Giải trí ...Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 29/Jan/2015 lúc 5:32pm |
||||||
mk
|
||||||
IP Logged | ||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 26/Feb/2015 lúc 6:12pm | |||||
Giã biệt nhạc sĩ bài hát Em Tôi – Lê Trạch Lựu
Em tôi - Nhạc và Lời: Lê Trạch Lựu - Ca Sĩ: Duy Trác - Thực hiện PPS: Doanh Doanh*** ******
Được tin buồn từ Nhạc sĩ Trần Quang Hải: Nhạc sĩ LÊ TRẠCH LỰU
đã qua đời tại Paris ngày 6 tháng 2, 2015, hưởng thọ 84 tuổi. Tang lễ
được cử hành trong vòng thân mật gia đình với sự hiện diện của một số
thân hữu và văn nghệ sĩ tại Paris ngày 11 tháng 2, 2015. Nhạc sĩ Lê Trạch Lựu sáng tác bản nhạc nổi tiếng EM TÔI, cảm hứng có thật từ một cuộc tình lãng mạn với một thiếu nữ tên Kim Phượng năm 1946. Cuộc tình không thành khi Ông rời quê hương đi du học ở Paris năm 1951, cùng lớp với thi sĩ Nguyên Sa Trần Bích Lan và thi sĩ, đạo diễn Hoàng Anh Tuấn ... Bản nhạc "Em Tôi" Ông sáng tác ở Pháp rồi chép tay gởi về Việt Nam, được Nhà Xuất Bản Tinh Hoa chọn và ấn hành năm 1955 (bản nhạc Tinh Hoa số 445). Tôi hân hạnh
được nói chuyện điện thoại nhiều lần với Ông, sau khi Ông gặp một số anh
chị em Cỏ Thơm trong buổi họp mặt "Thu Tao Ngộ" ở Paris năm 2009. Ông
mong ước được sự hỗ trợ để phổ biến một số nhạc phẩm của Ông. Nhờ vậy mà
tôi được biết thêm: NHỚ, TÌM, KHI EM YÊU, CÀNH MAI TÓC NGẮN ... và thực
hiện một trang về Ông ở website Cỏ Thơm cuối năm 2009:
Nhạc Sĩ Trần Quang Hải đến thăm Nhạc Sĩ Lê Trạch Lựu (10/2009) Xin
được dâng một đóa hoa hồng để tưởng niệm Nhạc sĩ "Em Tôi" nhân ngày Lễ
Valentine ở Hoa Kỳ. Kính mong Ông được an bình vĩnh cữu trên Thiên Đàng.
Cảm ơn Ông đã dâng cho tân nhạc Việt những tuyệt tác phẩm để đời. Mời quý vị thưởng thức: NHỚ: http://cothommagazine.com/nhac1/LeTrachLuu/Nho-LeTrachLuu-TamHao.mp3 *** Ghi chú: Trang này được hoàn tất cuối năm 2009 và bổ túc 14/2/2015 *** Lê Trạch Lựu - Nguyễn Đình Toàn Khi "Tiếng Hát Lênh Đênh" của Lương Ngọc Châu và Tử Phác được hát ở Hà Nội, thì cùng một lúc, ở đấy, người ta cũng được nghe "Khúc Nhạc Chiều Mơ" của Ngọc Bích, "Trách Người Đi" của Đan Trường, "Tiếc Thu" của Hoàng Dương, "Em Tôi" của Lê Trạch Lựu. Lương Ngọc Châu và Lê Trạch Lựu có một điểm giống nhau, họ đều học nhạc và bắt đầu sáng tác tại Việt Nam, sau đó đi Pháp, rồi không thấy đâu nữa. Thực ra, sau Em Tôi, Lê Trạch Lựu còn một sáng tác nữa đã được các ca sĩ đem hát trên các đài phát thanh, cũng rất hay, nhưng hình như nó đã bị cái bóng của Em Tôi che khuất, nên ít người biết, và cũng chưa thấy một ca sĩ nào tìm hát lại, đó là bài:
Tình ca được viết nhiều nhất vào giai đoạn được gọi chung là “nhạc tiền chiến” của chúng ta. Nhưng đây không phải là thời người ta hạnh phúc. Trái lại nữa là đằng khác. Chiến tranh đã lấy đi mọi thứ. Tình ca không còn chỉ là những lời tỏ tình, mà cùng một lúc, người ta còn bầy tỏ cả lòng yêu đời, tiếc đời, phản ứng trước những tang thương, đe dọa, người ta không làm gì được. Còn có thể coi là những lời minh oan vô tội trước trời đất nữa. Nguyễn Đình Toàn Ghi
chú: Tiếng Hát Lênh Đênh: Anh Ngọc hát- Trách Người Đi: Sĩ Phú hát -
Khúc Nhạc Chiều Mơ: Mai Hương hát - Tiếc Thu: Khánh Ly hát
Nhạc Sĩ Thanh Trang nói về "Em Tôi" - trích trong chương trình Ca Khúc Việt Nam (VOA -22 tháng 8, 2009) Lê Trạch Lựu viết về "Em Tôi" 05/1946
– Năm 1946 là năm tôi đi trại hè Sầm Sơn, đi với đoàn Hướng Đạo, cùng
nhiều đoàn khác, tập trung tại sân ga Hà nội. Tôi thoáng thấy một cô gái
xinh xinh, dáng người phong nhã, có đôi mắt đẹp tuyệt vời. Không hiểu
sao tôi thấy tôi như choáng váng, má tôi nóng bừng như lên cơn sốt; lần
đầu tiên tôi thấy tôi có cái cảm giác lạ lùng này. Nhà đoàn tôi « đóng
trại » to lớn, rộng rãi, đó là những biệt thự nghỉ mát của bọn Pháp
thuộc điạ bỏ lại, trước nhà là bãi biển mênh mông, sau nhà có một cái
giếng. Trưa nào tôi cũng thấy cô gái ấy, đội nón, dưới nắng trang trang
rũ áo, tôi ngồi bên cửa sổ nhìn cô ta. Thỉnh thoảng cô nàng ngửng đầu
lên, vành nón che đôi mắt, nhưng tôi biết là cô ta đang nhìn tôi. Thú
thật, tim tôi đập thình thình. Chao ơi, yêu đương là như vậy hay sao?
Đây là một rung động đầu tiên, nào đâu tôi có biết cảm giác này từ thuở
ra đời.
** Nhạc sĩ Lê Trạch Lựu nói chuyện ở buổi họp mặt Thu Tao Ngộ - Paris 2009 ** KHI «EM TÔI» ĐƯỢC NỔI TIẾNG , TÔI KHÔNG ĐƯỢC SỐNG CÙNG VỚI THỜI ĐẠI ĐÓ VÌ TÔI Ở XA , TÔI KHÔNG ĐƯỢC NHÌN NHẬN RÕ RÀNG THẾ NÀO LÀ MỘT BẢN HÁT ĐƯỢC NGƯỜI ĐỜI YÊU CHUỘNG… TRAI HAY GÁI, AI AI CŨNG TƯỞNG LÀ MÌNH CÓ MỘT NGƯỜI YÊU , HAY MÌNH ĐƯỢC YÊU , HAY MÌNH TƯỞNG TƯỢNG CHÍNH MÌNH LÀ CÔ GÁI ẤY , CÒN CẬU TRAI ĐƯỢC YÊU CÔ GÁI DỊU DÀNG, THƠ NGÂY, ÂU YẾM , MƠ MÀNG CHO NÊN AI AI CŨNG HÁT… CŨNG TƯỞNG LÀ MÌNH… CŨNG CẦM LẤY CÂY ĐÀN… Rồi một hôm tôi tìm ra điạ chỉ của Phượng tôi viết về cho chú Mỹ, Mỹ trả lời tôi: Thu Tao Ngộ
**
Thu Tao Ngộ Paris 2009 trong hội trường và du ngoạn sông Seine với một
số văn nghệ sĩ: Thi sĩ Đỗ Bình, Nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên, Nhà văn Nguyễn
Thị Ngọc Dung ... ** > > Em Tôi (youtube - Đàm Trung Phán thực hiên với pps của Doanh Doanh) qua tiếng hát Duy Trác và Hồng Vân diễn ngâm bài thơ "Một Mùa Đông" của Lưu Trọng Lư Mời quý vị nghe một số nhạc phẩm của Nhạc Sĩ Lê Trạch Lựu - bấm vào tên người trình bày: Em Tôi - Quang Tuấn Ngọc Bảo Mai Hương (với phụ họa của Ban Tiếng Tơ Đồng) Em Tôi - Vĩnh Tâm (guitar, nhạc không lời)
Bấm vào tên người trình bày để nghe: Em Lễ Chùa Này - Thiên Trang
Em tôi: Lê Trạch Lựu và mối tình theo mãi một đời > Bấm vào đây để nghe: "Chương Trình Phát Thanh" - Lan Phương - VOA thực hiện "Em
tôi" ra đời đầu năm 1953 đến nay vẫn tiếp tục đem đến cho người nghe
những xúc cảm như gần, như xa của một thời tưởng như đã thuộc về dĩ vãng
nhưng vẫn tiếp tục làm rung động trái tim những thính giả trẻ tuổi ở
thế hệ bây giờ. Đằng sau ca khúc lãng mạn này là một cuộc tình mang theo
từ thuở vừa biết yêu cho đến tuổi xế chiều khi nhạc sỹ sáng tác "gặp"
lại người xưa qua đường dây điện thoại viễn liên. Hôm nay nhạc sỹ Lê
Trạch Lựu nói về câu chuyện tình đã đưa chúng ta đến với "Em Tôi", mời
quí vị cùng theo dõi với Lan Phương sau đây. Lê Trạch Lựu rời Việt Nam thời loạn ly năm 1951, bỏ lại sau lưng một mối tình, không hiểu người yêu của mình ở phương nao khi mà khói lửa, chiến tranh, tản cư, ly tán đã đẩy mọi người vào tình huống chẳng biết những người thân của mình còn sống hay đã chết. Ở Pháp, theo học nốt bậc trung học rồi vào ngành điện ảnh và làm truyền thông, ông vẫn nhớ hình bóng cũ, cô thiếu nữ tên Phượng mà ông đã gặp lần đầu trong một chuyến đi cắm trại của đoàn hướng đạo ở Sầm Sơn. Chiều nào, qua khung cửa sổ, ông cũng nhìn thấy cô gái ngồi giặt áo bên bờ giếng, người cao, trắng trẻo, đôi mắt thật đẹp đến nỗi chàng thanh niên mới lớn thấy ngây ngất như lên cơn sốt rồi mới chợt nhận ra: "chao ơi tình yêu là thế hay sao?" Trở về Hà Nội, ông may mắn tìm biết được địa chỉ của người mà ông say đắm. Liên tiếp trong 3 tháng trời ông viết cho cô Phượng gần 70 lá thư mà không được trả lời. Cậu em trai của cô Phượng, chú Mỹ đóng vai chim xanh đưa thư cho ông. Cho đến một ngày ông được người trong mộng hồi âm, rằng cô rất yêu ông nhưng muốn thử lòng xem ông có phải là người nghiêm túc hay không, và lúc đó là 1 tuần lễ trước ngày toàn quốc kháng chiến. Sau đó thì gia đình cô Phượng tản cư về Hà Đông. Từ Hà Nội ông tìm đến thăm cô Phượng. Thân mẫu của hai người cũng là chỗ quen biết và hai người đã cùng nhau đi chơi suốt buổi chiều bên ven sông, dưới sự... giám sát của cậu em cô Phượng! Hạnh phúc, đến nỗi hai người nói chuyện gì ông không thể nhớ, chỉ nhớ rằng hạnh phúc như chưa bao giờ được hạnh phúc như vậy, duy có một điều ân hận, là ông chưa hề nắm lấy bàn tay của người yêu, dù chỉ một lần. Rồi chiến tranh, gia đình Phượng tản cư, mất liên lạc, ông sang Pháp. Tháng ngày qua, ở Pháp, cũng là thời gian mà nỗi nhớ quay quắt đã là nguồn suối trào dâng để một ngày, bên những bạn bè như Nguyên Sa, Hoàng Anh Tuấn, ông bấm lên phím đàn, đưa "Em Tôi" vào đời. Ông cho biết: "Mối tình đối với cô theo tôi suốt đời, vì rằng đó là mối tình đầu, mà mình không biết nhau ở đâu, không biết người ta sống hay chết, tôi nhớ đến cô và tôi đã làm bài 'Em Tôi'." Bẵng đi một thời gian dài, một hôm tình cờ tìm lại được địa chỉ ở Hà Nội của Phượng, ông viết thư về cho cậu em thử hỏi thăm, thì được hồi âm rằng chị của cậu chờ đợi mãi, bao nhiêu đám hỏi mà không nhận lời, sau này ngỡ ông đã chết cô lập bàn thờ, để tang ông 2 năm, nhưng sau vì gia đình thúc giục và đã 26 tuổi, phải có con, cô đành đi lấy chồng. Từ đó ông im lặng, cắt đứt để cho người cũ yên ấm bên chồng con. Về phần cô Phượng, người chồng cô cũng chấp nhận là cô có một mối tình trước, hết sức cảm thông. Nhưng đôi khi thấy vợ buồn, ông khuyên vợ để ông cất những lá thư và hình cảnh cũ, đến bao giờ vui hãy mở ra xem. Thế rồi ông mất, những lá thư xưa không tìm lại được nữa. Mãi đến cuối năm 2009, 60 năm sau, ông liên lạc được một người bạn cũ từ bao năm ở lại Hà Nội, và chính người bạn này đã giúp nhạc sỹ họ Lê tìm ra số điện thoại của người xưa. Qua đường dây điện thoại ông đã gọi về thăm hỏi bà. Bà không thể tin là ông còn sống, nhắc đi nhắc lại 3 lần như ngỡ trong mơ "anh Lê Trạch Lựu đấy ư?". Ông tâm sự tiếp: "Bây giờ chúng tôi nói chuyện với nhau. Tình ngày xưa xa lắc xa lơ. Cô đã đi lấy chồng, mà tôi đã lấy vợ, bây giờ chỉ coi nhau như bạn già thôi. Quí nhau, kính trọng nhau, chứ không nghĩ đến tình yêu ngày xưa nữa. Không thể nào lập lại thời đó được. Nhưng hai người vẫn rất quí nhau, tôi vẫn thường gọi cho cô, hay cô có gọi tôi, nhưng mà ăn nói như hai người bạn thân thôi." Từ ngày rời Hà Nội năm 1951, nhạc sỹ họ Lê chưa một lần trở lại quê hương. Ông lập gia đình với một người vợ Pháp, gốc Ba Lan, mà theo lời ông thì bà là người rất đẹp, đoan trang, miệng cười tươi như hoa, và ông nhận là số ông may mắn, từ người yêu đến người vợ ai cũng đoan chính. Thời còn trẻ cũng có người bạn rủ ông về miền nam làm việc, và hãng thông tấn Pháp cũng muốn ông về để lập một cột trụ ở bên đó, nhưng nhạc sỹ họ Lê tâm sự: "Tôi nghĩ rằng hồi đó tôi có đứa con nhỏ nhất mới 3 tuổi, nếu tôi về Việt Nam tôi sẽ mê một cô Việt nam, tôi sẽ lấy cô Việt Nam, sống với cô Việt Nam thì tôi sẽ không trở lại Pháp nữa. Tôi tự nghĩ: mình sinh ra con, mình không nuôi con, mình bỏ nó, sung sướng với cuộc sống của mình, rồi sau này con mình nó nhìn mình bằng cách gì mình không thể sống được. Vì thế tôi không đi. Mà nếu tôi đi, thì cũng không thể trở về được, nghề của tôi là ra chiến trường quay phim. Tôi vui thích với nghề đó lắm, mà có thể chết được, nên về thì không thể nào trở lại được nữa." Trong buổi nói chuyện với nhạc sỹ Lê Trạch Lựu, năm nay đã trong lứa tuổi bát tuần, ông có cho biết về những sáng tác khác của ông, những ca khúc đã bị cái bóng của "Em Tôi" che mờ: "Nhạc của tôi người ta không biết nhiều, người ta chỉ biết đến 'Em Tôi' thôi. Ở Hà Nội, ông Thẩm Oánh có ra một bài của tôi là bài 'Thôn Chiều', ông ấy quí bài đó lắm. Sang Pháp, nhớ quê hương, tôi làm bài 'Nhớ' được trình bày trên đài phát thanh Hà Nội, và Sài Gòn sau này. Bài thứ ba là bài 'Em tôi'. Bài 'Em Tôi' được người ta quí trọng nó quá nên thên hạ quên mất 'Nhớ' và 'Thôn Chiều'." Khoảng 20 năm sau khi "Em Tôi" ra đời, vẫn nỗi nhớ người xưa, nhạc sỹ họ Lê đã sáng tác "Cành Mai Tóc Ngắn". Cũng trong buổi nói chuyện, nhạc sỹ Lê Trạch Lựu có lời nhắc những ai yêu mến ông xin để ý cho 3 chỗ trong lời nhạc của bài "Em Tôi" mỗi khi hát: 1. Cho anh gót thắm đem dệt nhớ nhung lời thơ (không phải "rót thắm" hay "góp thắm"); Ông giải thích: người đàn bà xưa ăn mặc kín đáo, quần chùng áo dài, gót sen của nàng là nguồn xúc cảm, gợi trí tưởng tượng, chứ không lộ liễu như bây giờ. 2. Đèn trăng phô sắc huy hoàng sáng hơn màu nắng (không phải là "đàn trăng"). 3. Này trăng, này sao chia nhé em (không phải là "này trăng, này sao kia nhé em"). Xin cảm ơn nhạc sỹ Lê Trạch Lựu, cảm ơn "Em tôi", cảm ơn cả người xưa đã là nguồn cảm xúc để nhạc phẩm trữ tình này hiện hữu. Quí vị vừa nghe Anh Ngọc, Sỹ Phú, Mai Hương trình bày nhạc phẩm Em Tôi. Xin cảm ơn quí vị đã theo dõi buổi nói chuyện hôm nay với nhạc sỹ Lê Trạch Lựu. Quí vị có thể vào cothommagazine.com để nghe 1 số nhạc phẩm khác của nhạc sỹ Lê Trạch Lựu. Tài liệu từ Nhạc sĩ Lê Trạch Lựu; http://khanhly.net/phoxua/; http://tranquanghai.info/; Chương Trình Ca Khúc Việt Nam của NS Thanh Trang; Chương Trình Văn học nghệ thuật của Đài VOA do Lan Phương thực hiện ... Vui lòng gởi ý kiến xây dựng và tài liệu về Phan Anh Dũng: dathphan1@gmail.com===================================================================================================================================================================================================================================================== Nguồn : EM TÔI và Nhạc Sĩ Lê Trạch Lựu - Biên sọan: Phan Anh ...cothommagazine.com/index.php?option=com_content&task...Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 26/Feb/2015 lúc 7:01pm |
||||||
mk
|
||||||
IP Logged | ||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 30/Mar/2015 lúc 1:44am | |||||
30 NHẠC SĨ VỚI
30 BẢN NHẠC ĐỂ ĐỜI
30 bản nhạc của 30 nhạc sĩ, được chọn lọc là hay nhất, nhưng tuyệt vời với người này mà chưa hẳn hay với người kia. Chúng ta hãy thưởng thức những tình khúc nổi tiếng này nhé! Bản nhạc MƠ HOA rất hay! Có 2 người hát, link đầu là 1 ông.... cụ hát, có lẽ tuổi cỡ 80, xem ra còn phong độ lắm!
Một Nhạc-Sĩ / Một Bài Hát Un Musicien Compositeur Vietnamien / Une Chanson One Vietnamese Musician Composer / One Song
Nhạc-sĩ VN có những người làm cả trăm bài , thậm-chí nhiều trăm bài , nhưng cũng có những người chỉ một vài chục bài hoặc vài bài , nhưng "ít nhất" thì không ai có-thể "qua mặt" được Lê-Hoàng-Long !
Nhạc-sĩ Lê-Hoàng-Long chỉ sáng-tác duy-nhất 1 Bài , Ông đúng là "Only-One-Song Composer" , đã cảm-tác "đột-xuất" 1 bản nhạc "để đời" trong hoàn-cảnh đau-khổ khi người yêu đi lấy chồng ! Với chỉ 1 nhạc-phẩm Gợi Giấc Mơ Xưa nhưng cũng quá đủ để đưa tên tuổi Ông vào "hàng-ngũ" những Nhạc-sĩ "Đại-gia" trong Âm-nhạc VN !
Nhạc-sĩ Nguyễn-Văn-Khánh với số Bài "đếm trên đầu ngón tay" , nhưng bài Nỗi Lòng của Ông đã được Đài Phát Thanh Dalat-Tuyên Đức dùng làm nhạc nền trong suốt mấy năm liền 1965-1966-1967 ... khi mở Đài ra , trước tiên ta nghe nhạc-bản Nỗi Lòng không lời ... và được trổi lên 1 lần nữa khi cô Xướng-ngôn-viên nói lời giã-từ ...
Những ai ở Dalat vào khoảng thời-gian này chắc-chắn không thể nào quên (nếu là người yêu nhạc) ?
Nhạc-sĩ Lê-Hoàng-Long :
Tôi hân-hạnh được biết và gặp nhạc-sĩ LHL nhiều lần , Ông là bạn thân của ông Chú Ruột trên 60 năm từ những ngày trước 1954 còn ở đất Bắc. Nhạc-sĩ LHL đã ngoài 80 nhưng còn tráng-kiện , rất to-con , nước da hơi ngăm ... nhìn Ông có-vẻ "Võ-sĩ" hơn "Nhạc-sĩ" . Về "Physically" , ngoài việc đi hơi "cà-nhắc" vì bị vấp-té trên bãi-biển Nha-trang , NS LHT nói chung còn khoẻ-mạnh , nhưng "Mentally" thì cũng đã hơi ... "lẩn-thẩn" (?) . Một ngày cuối tháng 9/2013 tình-cờ tôi đang ở nhà Chú thì NS LHL ghé thăm , nhằm lúc Chú đang trong "Toilet" , Ông càu-nhàu :
- Tại-sao lại có sự trùng-hợp vô-lý đến như-thế , Ngài đi cầu đúng ngay lúc Ta tới thăm? Rồi Ông quay ra gọi người xe-ôm vừa chở tới, chở về luôn (cũng may chưa rồ máy đi mất) . Khi ông Chú hay tin , liền nói: "Thế là Cụ giận rồi !" , và lật-đật bảo tôi chở tới nhà NS LHL ngay , cũng khá gần (Chú ở Ngã-3 Ông-Tạ , LHL ở Ngã-Tư 7-Hiền) . NS LHL về tới nhà có-lẽ chưa quá 5 phút , mặt còn "hầm hầm" ngồi ở quán Café Cóc ngay cạnh nhà . Chú tôi cười chã-lã : - Mình "đi đồng" thiệt chớ nào phải "đi trốn" đâu , Bác không tin thì tôi biết lấy gì làm "tang- chứng vật-chứng" ? ... thế là vui-vẻ trở-lại , cả 2 cùng cười hồn-nhiên "hớn-hở" ... LHL mời uống Café , nhưng tới phiên ô. Chú nhất-định từ-chối và về ngay , không quá 3 phút . Trên đường về Chú nói "Xong việc rồi ! Ngại lắm nhưng phải đi. Bữa nay mình mà ko đến là Cụ giận dai lắm đấy !" ...
Tôi có cảm-tưởng 1 mối "bang-giao" thân-tình giữa 2 "nhi-đồng lớn tuổi"! Bạn-bè "cao-niên" có-lẽ phần nhiều là dzui dzui như-rứa?
NS LHL an-hưởng tuổi già khá ung-dung nhờ có mấy Người Con ở nước ngoài cấp-dưỡng , còn bảo-lãnh thì Cụ nhất-định "ko thèm" đi !
NS LHL thật may-mắn , nhưng thực-tế có rất nhiều Nhạc-sĩ khác ko được như-vậy ... họ sống cuối đời hẩm-hiu đạm-bạc và ra đi trong nghèo-khó "xanh-xao" ! Thật là bất-công và "ngậm-ngùi" cho những Người đã đóng-góp cho nền Âm-nhạc Nước-nhà những bài hát "để đời", những tình-khúc "vượt thời-gian" !
Chắc còn lâu lắm VN mới thực-sự biết thế-nào là "Tôn-trọng Tác-quyền" ? Ở trong cũng như ngoài nước !
Lê Hoàng Long - Gợi giấc mơ xưa
http://www.youtube.com/watch?v=9g0r8QYIHxc (Xem trước)
http://www.youtube.com/watch?v=9QA8NSaaGDs (Xem trước)
http://www.youtube.com/watch?v=CpNS4BZxavY (Xem trước)
Dương Thiệu Tước - Bóng Chiều Xưa http://www.youtube.com/watch?v=eGJ77xO_o2U (Xem trước)
Nguyễn Văn Đông - Về Mái Nhà Xưa http://www.youtube.com/watch?v=6f5oJhhOlME (Xem trước)
Hoàng Trọng - Cánh hoa xưa
Trịnh Công Sơn - Diễm Xưa http://www.youtube.com/watch?v=zBFrLYJ5KOY (Xem trước)
http://www.youtube.com/watch?v=tQszDqxLnq4 (Xem trước) (in Japan)
http://www.youtube.com/watch?v=mgFIUa8KvVI (Xem trước)
Hoàng Thi Thơ - Đường Xưa Lối Cũ http://www.youtube.com/watch?v=GZgv7w1c3Tw (Xem trước)
Hoàng Giác - Mơ Hoa
http://www.youtube.com/watch?v=W6wci5U0Dtw (Xem trước)
Văn Cao - Lỡ Cung Đàn
Y Vân - Lòng Mẹ
Y Vũ - Tôi đưa em sang sông http://www.youtube.com/watch?v=5iQ_lkhEFLw (Xem trước)
Cung Tiến - Thu Vàng http://www.youtube.com/watch?v=429x9eYYH_o (Xem trước)
Ngô Thụy Miên - Mùa Thu Cho Em
Phạm Trọng Cầu - Mùa Thu Không Trở Lại http://www.youtube.com/watch?v=SUv2kXOwe0I (Xem trước)
Trần Hoàn - Sơn Nữ Ca
Lê Trọng Nguyễn - Nắng chiều http://www.youtube.com/watch?v=qKkxqLur61w (Xem trước)
http://www.youtube.com/watch?v=Tftqu_SumZI (Xem trước)
Dzoãn Mẫn - Biệt ly
Vũ Đức Nghiêm - Gọi Người Yêu Dấu http://www.youtube.com/watch?v=n7G1eQgsyCA (Xem trước)
Lê trạch Lựu - Em tôi http://www.youtube.com/watch?v=1kU6Yd4RBxI (Xem trước)
Nguyễn Văn Khánh - Nỗi Lòng http://www.youtube.com/watch?v=7k7NzH_1Plg (Xem trước)
Huỳnh Anh - Nếu Anh về bên Em http://www.youtube.com/watch?v=X3aM5EBoqL0 (Xem trước)
Từ Công Phụng - Tuổi Xa Người
ĐoànChuẩn TừLinh - Tình nghệ sĩ http://www.youtube.com/watch?v=VvpMs9vMYVg (Xem trước)
Nguyễn Văn Tý - Dư Âm http://www.youtube.com/watch?v=b57hp82OIEY (Xem trước)
Lam Phương - Bài Tango cho em
Tô Hải - Nụ Cười Sơn Cước
Tuấn Khanh - Chiếc Lá Cuối Cùng http://www.youtube.com/watch?v=Ez_QDVFtRDQ (Xem trước)
Minh Kỳ - Đà Lạt Hoàng Hôn
Trường Sa - Xin Còn Gọi Tên Nhau http://www.youtube.com/watch?v=h75ZLdw43Z4 (Xem trước)
Nguyễn Ánh 9 - Cô Đơn http://www.youtube.com/watch?v=An7wq5ZB_a0 (Xem trước)
Phạm Duy - Áo anh sứt chỉ đường tà http://www.youtube.com/watch?v=DglMstaYtr0 (Xem trước)
Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 30/Mar/2015 lúc 1:46am |
||||||
mk
|
||||||
IP Logged | ||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 30/Mar/2015 lúc 5:06am | |||||
Ca khúc "Gửi người em gái miền Nam" của Đoàn Chuẩn - Những thông tin thú vị bởi Vu Le nguyen Ca khúc "Gửi người em gái miền Nam" của Đoàn Chuẩn - Những thông tin thú vị bởi Vu Le nguyen Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 30/Mar/2015 lúc 5:13am |
||||||
mk
|
||||||
IP Logged | ||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 17/May/2015 lúc 8:44pm | |||||
La Cumparsita -
Bản Tango nổi tiếng nhất.
"La cumparsita" (tiếng Tây Ban Nha dịch ra tiếng Việt: "Cuộc diễu hành nhỏ") là một bản nhạc tango không lời được nhạc sĩ người Uruguay Gerardo Matos Rodríguez sáng tác vào năm 1916. Thực tế, Roberto Firpo (giám đốc kiêm nghệ sĩ vĩ cầm của dàn nhạc biểu diễn ra mắt bản nhạc này) đã bổ sung những đoạn trong các bản tango "La Gaucha Manuela" và "Curda Completa" của ông vào bản hành khúc dành cho carnaval của Matos ("La Cumparsita"), từ đó tạo nên bản "La cumparsita" như được biết đến hiện nay. Bản nhạc vốn dĩ không có lời, về sau Pascual Contursi và Enrique Pedro Maroni đặt lời, biến nó thành bài hát. "La cumparsita" được coi là một trong những khúc tango nổi tiếng nhất và dễ nhận ra nhất.
Lịch sử Bài hát vốn là một bản hành khúc dành cho carnaval của Uruguay, phần giai điệu được anh sinh viên ngành kiến trúc 18 tuổi tên Gerardo Hernán "Becho" Matos Rodríguez soạn vào đầu năm 1916 ở Montevideo. Ngày 8 tháng 2 năm 1916, Matos Rodríguez nhờ người bạn Manuel Barca đưa bản nhạc cho Roberto Firpo xem, tại quán cà phê La Giralda. Firpo nhanh chóng nhận ra rằng ông có thể biến nó thành một bản nhạc tango. Bản nhạc khi ấy gồm hai đoạn, và Firpo bổ sung một đoạn nữa trích từ những bản tango của ông nhưng ít người biết là "La gaucha Manuela" and "Curda completa". Ông cũng dùng một phần của bài hát "Miserere" (của Giuseppe Verdi) lấy từ opera. Nhiều năm sau đó, Firpo thuật lại khoảnh khắc đáng nhớ ấy như sau:
Firpo thu âm bản nhạc vào tháng 11 năm 1916 cho hãng Odeon Records - đĩa số 483. Ông thu tại phòng thu của Max Glücksmann ở Buenos Aires, Argentina và thuê hai nghệ sĩ vĩ cầm, một nghệ sĩ bandoneón (Juan Bautista "Bachicha" Deambrogio) và một nghệ sĩ flute còn ông làm trưởng dàn nhạc và chơi dương cầm. Bản nhạc ra mắt trên mặt B của đĩa hát 78 vòng, thu được thành công ít ỏi và chìm vào quên lãng sau vài năm. Năm 1924, nghệ sĩ người Argentina Pascual Contursi đặt lời cho bản nhạc, khiến nó nhanh chóng biến thành một bản hit. Phiên bản này hiện được coi là bài hát tango nổi tiếng nhất trên thế giới, đứng ngay phía trước bản "El Choclo".Contursi thu âm bài hát dưới nhan đề "Si Supieras" (nghĩa là "Nếu bạn biết"). Thời gian đó Matos Rodríguez đang sống tại Paris, Pháp. Anh phát hiện tác phẩm đã trở nên nổi tiếng lúc nói chuyện với nghệ sĩ vĩ cầm kiêm trưởng dàn nhạc tango người Uruguay Francisco Canaro khi ông đang biểu diễn bài hát dưới tựa đề "Si Supieras". Canaro cho anh biết rằng bài hát được "tất cả các dàn nhạc cuồng mê". Matos Rodríguez dành hai thập niên tiếp theo để đấu tranh pháp lý đòi tiền tác quyền và cuối cùng cũng thành công khi đảm bảo rằng bài hát từ giờ sẽ lấy lại nhan đề cũ là "La cumparsita". Tuy nhiên, phần lời hát của Contursi đã gắn chặt với bài hát. Năm 1948, Canaro dàn xếp một thỏa thuận giúp chấm dứt các vụ kiện tụng. Ông xác định 20% tiền tác quyền sẽ thuộc về Contursi và đối tác kinh doanh của Contursi là Enrique P. Maroni. 80% còn lại sẽ thuộc về Matos Rodríguez. Canaro cũng định ra rằng các tờ nhạc in trong tương lai sẽ in phần lời của Contursi kèm với các phần lời ít nổi tiếng do Matos Rodríguez viết, ngoài ra không in bất cứ phần lời nào khác. Sự phổ biếnNăm 1997, Quốc hội Uruguay thông qua Luật số 16.905 quy định phần nhạc của "La cumparsita" là bản nhạc văn hóa và đại chúng của quốc gia. Bài hát xuất hiện trong nhiều phim như Anchors Aweigh (1945), Sunset Boulevard (1950), Some Like It Hot (1959), Take the Lead (2006). Trong tập "Down Beat Bear" của phim hoạt hình Tom and Jerry cũng chèn bài hát. Bài hát nằm trong đoạn mở đầu của vở kịch truyền thanh khét tiếng The War of the Worlds - vở kịch có nội dung khiến nhiều thính giả tin rằng "người sao Hỏa" đã đến Trái Đất. Trong Thế vận hội Mùa hè Sydney 2000, đội tuyển Argentina đã diễu hành bằng bản nhạc này khiến Chính phủ Uruguay phải lên tiếng phản đối. Nhiều vận động viên thể dục dụng cụ cũng dùng các biến thể của bài này khi biểu diễn như Vanessa Atler (1998–99), Jamie Dantzscher (2000), Oana Petrovschi (2001–02), Elvire Teza (1998), Elise Ray (1997–98), Natalia Ziganchina (2000), Maria Kharenkova (2013) và Mykayla Skinner (2011–12).Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 17/May/2015 lúc 8:48pm |
||||||
mk
|
||||||
IP Logged | ||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 07/Jun/2015 lúc 7:55pm | |||||
20/5/2015
Có một tượng đài phượng hoàng gãy cánh tại Sài Gòn, đặc biệt trong lòng người yêu nhạc trẻ miền Nam. Tượng đài nằm im lặng trong trái tim mỗi người, nhưng luôn ngân vang với những câu hát trở thành lịch sử âm nhạc hiện đại của Việt Nam – vốn từng mở màn cho một giai đoạn cách tân âm nhạc độc nhất vô nhị.
Thật khó biết là nhạc sĩ Lê Hựu Hà qua đời vào lúc nào. Theo báo cáo pháp y, người ta chỉ tìm thấy ông vào ngày 11 tháng 5, 2003, nhưng dự đoán thời gian qua đời có thể từ 5 ngày trước. Lê Hựu Hà là một người cô đơn. Và những ngày cuối đời của ông lại càng cô đơn hơn khi đi về chỉ một mình, đóng cửa lặng lẽ đọc sách, nghe nhạc, mở ti vi cho có tiếng người chung quanh mình. Chính vì ti vi vẫn mở suốt nhiều ngày liền, nên chung quanh hàng xóm không ai ngờ rằng ông đã qua đời. Chỉ đến khi vài người bạn đến tìm, gọi chuông không được thì sau đó mọi người mới phát hiện rằng ông đã đi rất xa rồi.
Những ngày bạn bè đến thăm nhạc sĩ Lê Hựu Hà lần cuối, Lúc ấy, trời lất phất mưa, mây trĩu xám. Đám tang vừa phải và khiêm tốn, không khác gì tính cách của ông lúc sinh thời. Nhạc sĩ Minh Châu tay cắp giỏ, ánh mắt bàng hoàng “lẽ nào vậy sao?”. Minh Châu vốn là một người yêu say đắm dòng nhạc Phượng Hoàng với những bài hát mà nhạc sĩ Lê Hựu Hà khai sinh. Anh ghé qua thắp nén nhang với chiếc áo sơ-mi bó, quần ống hơi loe, không khác gì thập niên 60, thì thầm “chừng nào chúng ta lại có một Lê Hựu Hà hay Nguyễn Trung Cang?”.
Câu hỏi đó thật khó trả lời. Phượng Hoàng sinh ra từ lửa và hóa kiếp trong lửa, tuần hoàn vô lượng. Nhưng để nhận biết là điều bất khả. Thật khó hình dung nền nhạc trẻ Việt Nam thập niên 60-70 nếu không Lê Hựu Hà, Nguyễn Trung Cang, Elvis Phương... thì hôm nay sẽ là gì? Ban nhạc Phượng Hoàng của Lê Hựu Hà thành lập năm 1963, với chủ trương dứt khoát của Lê Hựu Hà là “người Việt phải chơi nhạc Việt”, nhằm tạo một khuynh hướng khác biệt với hàng loạt các nhóm nhạc trẻ lúc đó, phần lớn đang cover lại các bài hát ngoại quốc, và lấy tên tiếng nước ngoài như The Enterprise, CBC, The Dreammers, Les Vampires... nhạc trẻ thuần Việt được coi như khai sinh từ đó. Nếu lịch sử âm nhạc Anh Quốc có cột mốc vĩ đại từ cuộc nói chuyện vô tình trên tàu điện giữa Paul McCartney và John Lennon, thì ở Việt Nam cũng có chương lịch sử âm nhạc kỳ thú từ sự kết nối giữa Lê Hựu Hà và Nguyễn Trung Cang.
Là một ban nhạc rất trẻ, nhưng các sáng tác của Lê Hựu Hà và Nguyễn Trung Cang làm không ít người sửng sốt về tính triết lý sâu đậm trong ca từ. Nếu Nguyễn Trung Cang vung vẩy tung tóe màu sắc hiện sinh với Mặt Trời Đen, Sống Cho Qua Hôm Nay... thì Lê Hựu Hà dàn trãi từ khuynh hướng yêu tha nhân vô kiện của Kant cho đến tâm trạng hippy phản chiến, kêu gọi yêu thương. Trong các phẩm của Lê Hựu Hà, là niềm yêu tha nhân dù khổ đau vẫn phải gìn giữ như một định mệnh “Hãy cứ yêu thương người – dù người không yêu ta”. Từ cảm giác đó, Lê Hựu Hà bước theo lộ trình nhận thức thế giới không khác gì John Lennon từ việc viết về tình yêu cho đến hát về người nghèo khó, về một cuộc sống đầy súng đạn và hận thù. Hãy Nhìn Xuống Chân hay Lời Người Điên... là một dòng phát triển rất đặc biệt của nhạc sĩ Lê Hựu Hà bên cạnh những bài tình ca nhạc trẻ độc đáo của ông. Chỉ tiếc là sau 1975, chế độ kiểm duyệt của Nhà nước Cộng sản đã bóp chết không ít niểm cảm hứng và sự phát triển của nhiều văn nghệ sĩ, trong đó có nhạc sĩ Lê Hựu Hà.
Nhạc sĩ Phạm Duy, lúc sinh thời không phải là người dễ tính, cũng đã phải thốt lên rằng âm nhạc của Phượng Hoàng đầy chất tâm hoặc (psychedelic culture) và phản ánh một tâm thức của thế hệ trẻ không lối thoát trong một xã hội chiến tranh, bất an không hồi kết. Sau tháng 4/1975, khi bị buộc phải đi học tập cải tạo tư duy với các cán bộ cách mạng, nhạc sĩ Lê Hựu Hà cũng phải viết tự kiểm, nhận định rằng âm nhạc của ông là thứ suy đồi và tiểu tư sản thối nát. Nhưng Lịch sử âm nhạc Việt Nam đã may mắn biết mấy khi có được dòng nhạc “thối nát” đó làm nền tảng cho mọi phát triển hiện đại sau này. Lê Hựu Hà cũng như nhiều nhạc sĩ miền Nam tự do khác, cũng được khuyến cáo viết những tác phẩm cho nền “văn hóa mới” – một nền văn hóa mà không ít người vẫn tự hỏi nó sinh ra từ đâu, để làm gì?
Có một điều không may cho nhạc sĩ Lê Hựu Hà là sau 1975, có một trung tâm sản xuất băng nhạc chống Cộng lấy tên Phượng Hoàng, cho ra chương trình và gửi vào trong nước. Trong thời buổi còn chưa đủ sức phân biệt được trắng đen, công an đã coi nhạc sĩ Lê Hựu Hà như là một trong những thành phần sản xuất chương trình đó. Đã vậy, có lúc ông còn bị Sở VHTT Cộng sản những ngày đầu kiểm soát miền Nam nhầm lẫn tên ban nhạc của Lê Hựu Hà và hệ thống tình báo Phượng Hoàng của VNCH. Hai điều đó hoàn toàn không liên quan. Ủy ban tình báo Phượng Hoàng, vốn là tên gọi khác của Intelligence and Operations Coordinating Centre, do giám đốc CIA thời đó là William Colby dựng nên, hoạt động từ 1967 và chấm dứt vào 1973. Vốn đã bất đắc chí vì thời cuộc, việc bị truy vấn bởi công an mật vụ liên tục trong thời gian đó đã khiến nhạc sĩ Lê Hựu Hà trở nên trầm uất, và luôn lo sợ. Thậm chí, khi đi đường, nghe tiếng còi của cảnh sát giao thông cũng làm ông kinh hoảng, dừng xe, dù đó không phải là chuyện của ông. Đã vậy, sau năm 1968, bị gọi nhập ngũ, nhạc sĩ Lê Hựu Hà đến học tại trường Bộ Binh Thủ Đức, rồi làm việc ở Cục Quân Nhu, và dù không cầm súng bắn phát nào, nhưng do mang lý lịch là “ngụy quân” nên sự nghiệp của ông không bao giờ có thể nối tiếp trọn vẹn được nữa.
Những khó khăn từ vật chất cho đến đời sống tinh thần vẫn đeo đuổi đến tận ngày nhạc sĩ Lê Hựu Hà qua đời, dù tài năng của ông vẫn chinh phục mọi giới. Những tác phẩm mới sáng tác sau 1975 như Vào Hạ, Ngỡ Đâu Tình Đã Quên Mình, Vị Ngọt Đôi Môi... luôn gây nên những cơn sốt trong thính giả. Nhưng cũng ít ai biết rằng các bài hát như Hãy Yêu Như Chưa Yêu Lần Nào là bài hát viết cho phim Vết Chân Hoang (chuyển thể từ tiểu thuyết Tuổi Choai Choai của Trường Kỳ), được sửa lời và chút ít giai điệu. Bài Lời Trái Tim Muốn Nói cũng là một ca khúc viết lại một văn bản cũ, trong đó ông lặng lẽ để vào chút tâm tư của mình,qua những câu chữ như “những tháng năm không có ngày vui”.
Năm 1999, khi đang là thành viên trong ban nhạc Phiêu Bồng của nhạc sĩ, tôi cầm lấy những bài hát của ông và đi đến nhiều hãng băng đĩa, đề nghị làm album tác giả, nhưng mọi nơi đều lắc đầu, nói khéo. Chân thật nhất là một biên tập viên của Xí nghiệp băng đĩa nhạc Sài Gòn Audio, Hãng phim Bông Sen, đã nói thẳng thừng “Lê Hựu Hà là một người nhân thân có vấn đề”. Sau này, khi nhạc sĩ Lê Hựu Hà căn vặn hỏi mãi, tôi đành phải kể lại. Ông mỉm cười nhã nhặn và buồn. Sau đó, ngay khi tập bài cho các buổi diễn, tôi đề nghị chơi lại những bài hát nhẹ nhàng, không bị soi mói về quan điểm chính trị như Tôi Muốn, Yêu Em... ông chỉ lắc đầu, cười nhẹ. Khó biết được đằng sau cặp kính của người nhạc sĩ hết sức uyên bác đó là những suy nghĩ gì về cuộc sống khốn khó này. Về sau, nhạc sĩ Bảo Thu “luồn lách” bằng cách nào đó, cũng in ra được một băng c***ette pha trộn các tác phẩm của Lê Hựu Hà cùng các bài hát dịch lời Việt của ông, nhưng cũng không dám quảng cáo hay tổ chức ra mắt công khai như các ca sĩ, nhạc sĩ bây giờ.
Giờ đây khi tìm kiếm trên internet, thấy những tấm ảnh sau 1975 của ông, lòng tôi chợt chùng lại. Để mừng một ngày sinh nhật của nhạc sĩ Lê Hựu Hà, tôi “dỗ” ông cho chụp vài tấm ảnh, tự mình design bìa CD cho ông, gom những bài hát làm thành một đĩa master rồi đi tìm Tuấn – biệt danh là Tuấn Chó (do có logo thương hiệu bầy chó đốm), một trong những ông trùm sản xuất CD lậu thời đó ở Sài Gòn, nhờ chép ra phát hành giùm. Thật buồn cười và mỉa mai, khi người nhạc sĩ cầm lấy những bài hát của mình được lén lút phát hành bất hợp pháp ngay trong đất nước của mình, và cười như một hạnh phúc. Tôi vẫn còn nhớ.
Có lần, trong một buổi tập ở nhà, nhạc sĩ Lê Hựu Hà cao hứng đàn và hát cho tôi nghe vài bản nhạc chưa ra mắt công chúng của ông. Những bài hát mang đầy niềm cảm hứng mãnh liệt của một thời Phượng Hoàng trai trẻ nhưng đầy sự buồn chán muốn rời xa cõi nhân thế quá trớ trêu. Hát xong,ông quay qua nhìn tôi, cười trầm “Đừng hỏi, anh biết tỏng em muốn hỏi gì. Anh không muốn đưa những bài hát này ra nữa đâu. Không còn để làm gì”. Im lặng. Tôi vẫn tự hỏi là có bao nhiêu con người tài năng trên đất nước này đã chối từ đại lộ và nói với bạn bè,con cháu mình khi quay về ngõ nhỏ, rằng “không còn để làm gì”.
Cuộc sống của nhạc sĩ Lê Hựu Hà sau năm 1975 hết sức khó khăn, đã vậy ông còn mang nhiều mặc cảm khi người vợ của mình, ca sĩ Nhã Phương, phải đi hát, đi làm tất bật để trang trãi cho cả gia đình. Ông chọn quay lại sân khấu một phần vì yêu âm nhạc, một phần khác vì đó là cách kiếm sống duy nhất của ông. Lê Hựu Hà đã thử làm nhiều thứ như hùn mở quán cà phê, cho thuê băng video... nhưng rồi không có gì tồn tại lâu. Tài sản lớn nhất, và có lẽ vĩ đại nhất đất nước, là bộ sưu tập đĩa nhựa âm nhạc của ông. Tất cả những đĩa quý nhất của thế giới, những ấn bản hạn chế của Rolling Stones, Beatles... ông đều có đủ và luôn làm bạn bè kinh ngạc ngưỡng mộ. Thế nhưng một ngày mùa hè cách mạng, các nhân viên Sở Văn hóa Thông tin đã ập đến lục soát và tịch thu, theo “tố giác của quần chúng nhân dân”. Nhìn từng chiếc xe ba gác chồng chất các bản đĩa mà ông nâng niu, chở ra đi, là một trong những điều suy sụp lớn của đời ông. Nhạc sĩ Bảo Chấn kể rằng đời ông chưa bao giờ hoảng sợ bằng nhìn thấy hình ảnh nhạc sĩ Lê Hựu Hà ngồi gọi rượu đế ra uống một mình, trầm ngâm và khóc. Đó là lần uống rượu duy nhất trong đời của người nhạc sĩ chơi rock,Phật tử và không biết thuốc lá, rượu bia.
Trong một lần đi diễn ở Đông Âu và Nga, sau khi hệ thống Cộng sản ở đây sụp đổ. Lê Hựu Hà mang về những viên đá, lấy ra từ những mảnh vỡ của bức tường ô nhục Berlin, để tặng cho bạn bè. Đêm đó, ngồi hát ở một quán bar nhỏ Old Friends với Phước, tay cao bồi già yêu nhạc rock, nhà thơ hippy Đỗ Trung Quân, Lê Hựu Hà đưa cho mọi người, ông cười, thì thầm với tôi “đây là tự do”. Sau cặp mắt kính cận ấy, là ánh mắt thông minh, ẩn chứa biết bao nỗi niềm và dường như không còn niềm vui nữa, dù miệng vẫn cười. Lê Hựu Hà đến Nga, ứa nước mắt khi nhìn thấy tự do trở lại trên đất nước tuyết trắng, nghĩ đến phận mình. Ông ra phố Arbat ở Moscow, nơi lừng danh của giới nghệ sĩ. Khi đang đi dạo thì Lê Hựu Hà nhìn thấy một người ngồi bệt dưới đất, đánh đàn và hát tiếng Anh ở phố, dưới chân có hộp đàn mở ra cho khách qua lại bỏ tiền vào. Nhìn thấy cây đàn đẹp và quý, ông dè dặt hỏi xem đàn có bán không. Người nghệ sĩ Nga lạnh lùng nhìn và nói “Anh không mua nổi đâu, vì trên đàn đã có dấu tay của tôi”. Sau này ông được giới thiệu cho biết đó là một nghệ sĩ rất nổi tiếng ở Nga về tài năng cũng như độ kiêu hãnh. Ghé vào một cửa hàng gần đó, nhạc sĩ Lê Hựu Hà đổi một ít tiền lẻ và đến ngồi kế bên. Những bài hát tiếng Anh thời thập niên 60 – 70 mà người nghệ sĩ Nga ấy hát, đã là thứ thuộc nằm lòng của Lê Hựu Hà nên ông vừa nghe, vừa hát bè theo. Cứ mỗi bài hát kết thúc, ông lại bỏ vào hộp đàn một chút tiền lẻ. Người nghệ sĩ Nga từ thái độ lạ lùng, tò mò, dần dần chuyển sang cảm mến. Cho đến khi hết tiền bỏ vào, Lê Hựu Hà đứng lên chào và đi. Người nghệ sĩ Nga bất chợt gọi lại “Anh là ai?”. Lê Hựu Hà cười “Tôi là một người thích nhạc”. “Nếu anh quá thích cây đàn, tôi có thể bán cho anh, vì anh rất thú vị”, người nghệ sĩ Nga nói. “Cám ơn, tôi đã có thứ tôi muốn rồi”, Lê Hựu Hà nói, “hát với anh, tôi đã có lại tất cả những kỷ niệm đẹp nhất mà tôi đã mất”.
Trong đánh giá của giới phê bình âm nhạc, vẫn hay có hiện tượng bất công về overrated và underrated. Tức có những nhạc sĩ mà công lao hay khả năng chỉ vừa phải thôi, nhưng vì lý do gì đó luôn được tung hô. Ngược lại, có những người vô cùng quan trọng với lịch sử âm nhạc nhưng lại bị coi nhẹ hay lãng quên. Nhạc Nguyễn Trung Cang hay sĩ Lê Hựu Hà là một trong những trường hợp underrated của Việt Nam, khi giá trị tiền phong của họ xuất hiện ở mọi nẻo của âm nhạc hiện đại, nhưng lại bị phủ lấp bởi truyền thông, quan điểm chính trị hay sự cố tình chôn lấp quá khứ văn hóa vàng son của một niềm Nam VNCH.
Tháng Năm, nghe vua nhạc Blues B.B.King qua đời. Tháng Năm nhớ Chuck Brown, tay guitar có biệt danh là "Godfather of Go-Go”. Tháng Năm rồi cũng góp vào ký ức nhân loại một tượng đài Phượng hoàng Việt Nam gãy cánh, với đường bay chưa trọn. Tượng đài của Lê Hựu Hà, một người tài hoa, khiêm tốn và nhã nhặn, chưa bao giờ dám mong ai dựng tượng mình, nhưng lại đứng trên quê hương mình, trong trái tim của những người yêu âm nhạc, của một nền văn hóa vàng son của miền Nam mãi lấp lánh trong ký ức con người. |
||||||
mk
|
||||||
IP Logged | ||||||
<< phần trước Trang of 4 |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |