Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Sức Khỏe - Y Tế
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Khoa Học - Kỷ Thuật :Sức Khỏe - Y Tế  
Message Icon Chủ đề: CÁC THÔNG TIN VỀ SỨC KHỎE Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 190 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23884
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/Aug/2014 lúc 12:38pm

Tổn hại sức khỏe vì tư thế ngủ



1/3 quỹ thời gian hàng ngày của mỗi người dành cho việc ngủ. Một giấc ngủ ngon giúp cơ thể luôn khỏe mạnh. Tuy nhiên, có nhiều thói quen xấu khi ngủ vô tình lại có hại cho sức khỏe.

Dưới đây là một số ví dụ:

1. Ngủ theo tư thế mặt đối mặt

Đây là tư thế ngủ của khá nhiều người, nhất là của các cặp vợ chồng hoặc giữa bố mẹ và con cái. Tuy nhiên, đây là tư thế ngủ "mất vệ sinh" nhất vì khi ngủ đối mặt, chúng ta vô tình sẽ hít phải khí cabonic do người đối diện thở ra. Điều này dẫn tới việc não thiếu nguồn oxy cần thiết, người ngủ không ngủ sâu, dễ tỉnh giấc, giật mình, mộng mị hoặc khi ngủ dậy luôn có cảm giác mệt mỏi, đau đầu.

Tốt nhất, hãy chọn cho mình một "thế giới riêng" khi ngủ. Nếu có ngủ chung giường với một người khác, hãy quay về 2 hướng khác nhau.

2. Đeo đồ trang sức khi ngủ

Nhiều chị em phụ nữ thường có tâm lý "ngại" cởi bỏ trang sức khi đi ngủ. Hầu hết các đồ trang sức làm bằng kim loại. Khi ngủ, chúng tiếp xúc và cọ sát với da khiến làm tăng nguy cơ bị dị ứng da. Một số trang sức lại phát quang vào buổi đêm chứa radium - nguyên tố kim loại phát xạ, tuy lượng nhỏ nhưng lâu dần sẽ gây hại cho cơ thể.

Ngoài ra, đeo trang sức khi ngủ sẽ gây trở ngại cho tuần hoàn máu và trao đổi chất trong cơ thể, khiến đẩy nhanh quá trình lão hóa cơ thể.

3. Há miệng thở khi ngủ

Thông thường chúng ta đều thở bằng mũi. Thở qua mũi giúp tạo nên áp lực phản hồi để phổi có nhiều thời gian hấp thu ôxy và cân bằng pH máu.

Thói quen thở miệng bỏ qua các phản xạ trên có thể dẫn đến hội chứng ngừng thở khi ngủ hay các vấn đề tim mạch khác. Khi thở miệng, não cho rằng cơ thể mất carbon dioxide quá nhanh, não nhạy cảm tình trạng này và ức chế trung tâm hô hấp.

Ngoài ra, khi thở bằng miệng, luồng khí đi thẳng vào họng và phổi không được "lọc sạch" nên dễ gây viêm họng. Lâu ngày có thể hay đổi mức khí máu; mất ngủ, thay đổi giọng nói hoặc các bệnh nghiêm trọng về đường hô hấp.

Hãy từ bỏ thói quen thở bằng miệng ngay hôm nay. Còn nếu vì một lý nào đó buộc bạn phải dùng miệng để thở, hãy tới bác sỹ để được tư vấn cách điều trị.

Tổn%20hại%20sức%20khỏe%20vì%20tư%20thế%20ngủ%201

Không nên thở bằng miệng khi ngủ. Ảnh minh họa

4. Mặc áo ngực khi ngủ

Nghiên cứu chỉ ra rằng, những người phụ nữ mặc áo lót hơn 12h mỗi ngày có tỉ lệ ung thư vú cao gấp 21 lần, đặc biệt những người mặc áo lót khi ngủ nguy cơ này tăng lên đến 113 lần.

Mặc áo ngực khi ngủ, nhất là áo ngực chật khiến các mạch máu không được lưu thông, các chất thải không được giải phóng sẽ tích tụ lâu ngày gây ung thư vú.

Ngoài ra, hầu hết các loại áo lót hiện nay được làm từ các sợi hóa học. Các sợi này khi tiếp xúc với da sẽ dễ gây dị ứng. Vì vậy, các chị em tốt nhất nên tháo bỏ áo lót khi đi ngủ, chọn các loại áo lót làm từ các loại sợi tự nhiên. Hãy cố gắng giảm thiểu thời gian mặc áo lót hàng ngày và thường xuyên matxa bầu ngực mỗi ngày để kích thích lưu thông máu vùng ngực.

5. Ngủ trong phòng quá nóng

Nhiệt độ quá cao trong phòng có thể gây rối loạn quá trình trao đổi chất của cơ thể. Khí nóng khi hít vào có thể gây tổn thương niêm mạc mũi. Không khí nóng cũng là môi trường thuận lợi cho các vi sinh vật sinh sôi và phát triển nên dễ gây cảm cúm.

Đối với những người cao tuổi mắc bệnh tim mạch, nhiệt độ trong phòng ngủ cao có thể gây tức ngực, mất ngủ, khó thở.

Phòng ngủ là 20 độ, độ ẩm 60% là môi trường lý tưởng cho giấc ngủ của bạn.

6. Trùm chăn khi ngủ

Nhiều người thích trùm chăn kín đầu và toàn thân, đặc biệt là khi sợ hãi hoặc trời lạnh. Đây là thói quen không tốt, ảnh hưởng xấu đối với sức khỏe.

Trong quá trình thở, cơ thể hít vào khí oxy vào và thở ra khí CO2. Khi đầu bạn bị trùm kín, khí ôxy trong chăn ngày càng ít đi, còn khí CO2 ngày càng nhiều lên. Vì không được cung cấp đủ dưỡng khí nên não bạn sẽ hoạt động kém đi. Tình trạng thiếu ôxy kéo dài sẽ khiến các tế bào não bị tổn thương.

Người ngủ trùm chăn sẽ cảm thấy tức ngực, thở gấp hoặc nửa đêm thấy ác mộng, lo sợ. Sáng ngủ dậy toàn thân mệt mỏi như vừa trải qua hoạt động nặng. Với những người có tiền sử động kinh hoặc các vấn đề về não, thói quen trùm chăn khi ngủ làm tăng nguy cơ gặp các tai biến.

Do đó, bạn không nên trùm chăn kín đầu khi ngủ. Những ngày quá lạnh, nếu bạn cần đóng kín các cửa sổ vào ban đêm thì nên mở chúng ra cho thoáng vào ban ngày.

Tổn%20hại%20sức%20khỏe%20vì%20tư%20thế%20ngủ%202

Không nên gối lên tay khi ngủ. Ảnh minh họa

7. Dùng tay thay gối

Hãy từ bỏ ngay thói quen dùng tay gối đầu khi ngủ nếu bạn không muốn mắc phải các vấn đề về tiêu hóa cũng như chất lượng giấc ngủ.

Dùng tay thay gối khi ngủ ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng tuần hoàn máu của cơ thể, dẫn đến các cơn đau hoặc tê liệt ở chi trên như cột sống, bả vai... Ngoài ra, thói quen xấu này còn dễ tạo áp lực nơi ổ bụng, lâu dần sẽ gây trào ngược thực quản.

 


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 20/Aug/2014 lúc 12:39pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 22/Aug/2014 lúc 11:43am

Chích Ngừa và Khai Trường

Thế là các em học sinh lại sắp trở về với trường ốc, sau mấy tháng nghỉ trong một mùa hè nóng bức.

Cha mẹ bận rộn lo sắm sửa quần áo đồng phục, sách vở cho con em. Đồng thời cũng không quên đưa con em tới phòng mạch bác sĩ để khám sức khỏe tổng quát, nhất là cập nhật hóa sổ chích ngừa các bệnh có thể ngừa được.

Nói tới chích là các em sợ, sợ đau. Mà các bậc cha mẹ đôi khi cũng e dè không tin tưởng ở công hiệu của chích ngừa hoặc ngại có phản ứng của thuốc chủng.

Nhà chức trách quan tâm tới vấn đề sức khỏe của dân chúng thì chặt chẽ hơn: Hầu hết các trường học đều đòi hỏi một số chích ngừa trước khi các em có thể đi học..

Câu chuyện ngừa bệnh này dường như cũng nêu ra nhiều khúc mắc, nên xin cùng tìm hiểu thêm.

Tính miễn dịch của cơ thể

Ngay khi còn nằm trong lòng mẹ, thai nhi đã được thiên nhiên trang bị cho một hệ thống phòng thủ, bảo vệ để chống lại bệnh tật, đó là “tính miễn dịch”.

Đây là một hiện tượng di truyền được tạo ra do một số tế bào đặc biệt trong máu và hạch bạch huyết sản xuất chất kháng thể để tìm diệt mầm gây bệnh. Ban đầu nó còn kém phát triển, nhưng trong thời gian mà cơ thể lớn lên, nó được tăng cường bằng những yếu tố phòng bệnh từ máu và sữa mẹ. Nhờ đó con người tự nhiên tránh được một số bệnh mà các động vật khác thường mắc phải.

Khi khỏe mạnh, cơ thể có thể ngăn chặn sự xuất hiện của bệnh, nhưng nếu vì lý do nào đó mà cơ thể yếu đi, mầm độc sẽ lấn át, gây ra bệnh.

Có điều đáng lưu ý là thường thường khi đã bị bệnh một lần thì lần sau sẽ được miễn nếu chẳng may tái nhiễm với cùng vi khuẩn. Lý do là cơ thể đã được kích thích để hệ thống miễn dịch tạo ra kháng thể chống lại bệnh. Đây cũng là nguyên tắc của việc tạo ra miễn dịch bằng sự tiêm chủng: gây ra một bệnh rất nhẹ để tạo ra sức đề kháng với tác nhân của bệnh đó.

Ngoài sự miễn dịch, lớp da bao bọc cơ thể cũng là thành trì chống mầm độc ngoại xâm từ môi trường chung quanh; chất acid chua trong bao tử có công dụng tiêu diệt vi trùng tình cờ còn lẫn trong thực phẩm; chất nhờn ở cơ quan hô hấp và tiểu tiện để đưa đẩy chất có hại ra khỏi cơ thể.

Nguồn gốc sự chủng ngừa bệnh

Sự chủng ngừa đã được dùng ở Trung Hoa, Ấn Độ, Hy Lạp từ ngàn năm trước khi họ tìm cách ngừa bệnh đậu mùa bằng chất liệu lấy từ người bệnh đưa vào người lành. Sau đó, nhiều y khoa học gia cũng lưu tâm khảo cứu thêm về vấn đề này.

Nhưng phải đợi tới năm 1796, sự việc mới được cụ thể hóa. Một y sĩ người Anh, Edward Jenner, nhận thấy là người vắt sữa ở những con bò có bệnh đậu mùa sẽ bị lây bệnh nhưng đồng thời họ đã tạo ra được tính miễn dịch với bệnh này. Ông ta bèn chủng đậu bò cho con người với hy vọng bảo vệ không bị bệnh đậu mùa trong những dịp tiếp xúc với mầm bệnh sau này.

Để chinh phục y giới về kết quả việc khảo cứu, ông ta chủng cho chính con trai của mình và đứa bé không bao giờ mắc bệnh. Bác sĩ Jenner đã thành công và đặt nền móng cho việc chế biến thuốc chủng an toàn chống bệnh nhiễm khuẩn ở các quốc gia Tây Phương.

Từ nước Anh, thuốc ngừa Đậu Mùa nhập cảng vào Hoa Kỳ. Được thông báo sự công hiệu của thuốc chủng, Tổng Thống Thomas Jefferson bèn áp dụng cho thân nhân, gia đình, và cả bà con lối xóm nữa.

Cách bào chế thuốc chủng ngừa

Nhắc lại là để có thể gây ra bệnh truyền nhiễm, vi khuẩn cần được tăng gia sinh sản và gây tổn thương cho các cơ quan, bộ phận của cơ thể.

Trong thuốc chủng, mầm gây bệnh được chế biến để không có khả năng sinh sản hoặc sinh sản rất ít, không đủ mạnh để gây ra bệnh nhưng có khả năng tạo ra kháng thể chống lại với mầm bệnh về sau này.

Có loại thuốc chủng trong đó:

a-Gene của mầm độc đã được thay đổi khiến sự sinh sản tuy còn nhưng rất yếu

(bệnh sởi, quai bị, trái dạ, tê liệt loại uống).

b- Gene bị tiêu diệt hoàn toàn không còn sinh sản (thuốc chủng bệnh tê liệt loại chích).

c- Thuốc chủng chỉ dùng một phần của mầm độc, không có gene cho nên tri73 thành vô sinh (chủng ngừa viêm gan B, ho gà).

đ- Thuốc chủng mà độc tố của mầm độc đã bị vô hiệu hóa ( bệnh yết hầu, phong đòn gánh).

Ở bên Mỹ, sau khi được các viện bào chế sản xuất, thuốc được đưa cho cơ quan Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ kiểm soát coi có an toàn và công hiệu không.

Rồi một ủy ban khác gồm các chuyên viên có tkiến thức cao về dịch học và bệnh trẻ em sẽ thảo luận về ích lợi, phí tổn của thuốc, đưa ra lời khuyến cáo nên dùng thuốc chủng như thế nào.

Giai đoạn cuối là các trường học thường đòi hỏi là trẻ em muốn nhập học phải có giấy chứng nhận đã chích ngừa một số bệnh. Tất nhiên, riêng tại Hoa Kỳ, cha mẹ có thể từ chối sự chủng ngừa vì lý do tôn giáo, đạo đức, quan niệm sống hay chủng tộc.

Nhiều người không chấp nhận, ngần ngại chích ngừa vì một vài hiểu lầm cho là chủng ngừa không công hiệu, không an toàn, có thể gây ra tác dụng phụ hoặc gây ra bệnh.

Có người lý luận là cứ để tự nhiên có tính miễn dịch sau khi mắc bệnh hơn là chủng ngừa, vì chủng ngừa đôi khi làm suy yếu tính miễn dịch tự nhiên của trẻ em.

Thực tế cho hay không có thuốc ngừa nào an toàn 100%. Hơn nữa, khi kiểm điểm kết quả sự chủng ngừa với các bệnh trên thế giới ta thấy sự ích lợi quá to lớn so sánh với một số tác dụng phụ nhẹ nhàng, không nguy hiểm. Thuốc chủng ngừa bệnh đã là một trong mười kỳ công trong phạm vi y tế công cộng của thế kỷ 20.

Hữu hiệu của chủng ngừa

Giáo sư Nhi khoa Samuel Katz của Trung Tâm Y Khoa Duke University bên Mỹ, người có nhiều kinh nghiệm về chủng ngừa, đã quả quyết: ”Sự tạo ra tính miễn dịch là phương tiện hữu hiệu duy nhất để làm giảm số bệnh tật và số tử vong ở trẻ em”.

Để thấy sự công hiệu của thuốc chủng, xin hãy coi qua vài thống kê sau đây về một số bệnh:

a-Bệnh tê liệt trẻ em: Trước khi có thuốc chủng bệnh này vào thập niên 50, có cả ngàn trẻ em bị bệnh, làm tê liệt hạ chi phải mang nạng, ngồi xe lăn; nhiều bệnh nhân bị liệt hô hấp phải nằm trong lồng phổi sắt để thở.

Từ năm 1997, không còn trường hợp tê liệt nào được báo cáo ở nước Mỹ và các nước ở Tây bán cầu. Năm 1994, một dịch tê liệt từ Ấn Độ xâm nhập Gia Nã Đại nhưng nhờ chích ngừa ráo riết nên đã chặn đứng được dịch này.

b- Bệnh sởi: Còn nhớ khi xưa ở bên nhà hầu hết trẻ con bị ban sởi với số tử vong cao vì các biến chứng như sưng phổi, viêm não, tổn thương não bộ. Đó là do không có chích ngừa đầy đủ. Cho nên các cụ ta khi đó thường nói là đừng tính có bao nhiêu con cho tới khi chúng sống sót sau bệnh ban sởi.

Ngày nay con cháu ta bên Mỹ này năm thì mười họa mới có em mắc bệnh sởi, nhờ chương trình chủng ngừa sởi ở đây rất chu đáo, hầu như bắt buộc ngay từ khi các em vào học lớp mẫu giáo. Trong nước thì việc chủng ngừa bệnh này cũng được khuyến khích mạnh mẽ.

Năm 1941, chưa có chủng ngừa, có gần 900.000 trường hợp bệnh sởi. Thuốc chủng được bào chế năm 1962 và năm 1997, chỉ còn trên 100 trường hợp.

c-Bệnh đậu mùa một thời đã làm thiệt mạng nhiều người trên thế giới, nay coi như đã bị xóa sổ; bệnh ho gà, bệnh yết hầu, bệnh phong chẩn đã giảm rất nhiều nhờ chủng ngừa.

Nếu ngưng chương trình chủng các bệnh có thể ngừa được thì chắc ta sẽ thấy bột phát trở lại những dịch chết người kinh khủng như vào đầu thế kỷ vừa qua.

Các bệnh nên chích ngừa

Hiện nay 10 loại chủng ngừa sau đây được khuyến cáo nên áp dụng vì công hiệu miễn dịch cao: yết hầu (Diphteria), uốn ván (Tetanus), ho gà (Pertussis), tê liệt (Polio), ban sởi (Measles), quai bị (Mumps), phong ban (Rubella), viêm gan B (Hepatitis B), viêm não B (H. influenza B), thủy đậu (Varicella).

Việc chủng ngừa thường bắt đầu thực hiện khi các em mới sanh hoặc sanh được 2 tháng. Tới khi chúng lên 2 tuổi thì hầu như 80% việc chủng ngừa đã được hoàn tất.

Thuốc chủng có thể gom chung với nhau cho tiện, chẳng hạn ngừa quai bị, sởi, phong ban với nhau, yết hầu, uốn ván, ho gà cùng một lúc.

Lịch trình chích ngừa:

a- Mới sanh : chích viêm gan B (Hep B) lần đầu.

b- Hai tháng: ho gà, uốn ván, yết hầu (DTaP), tê liệt (Polio), Hemophillus Influenza (Hib) lần đầu + Hep B lần thứ nhì;

c- 4 và 6 tháng: DTaP lần thứ nhì + Hib lần thứ nhì rồi thứ ba;

đ-12 tháng: thủy đậu, ban sởi, quai bị, phong ban (MMR) lần đầu + Hib lần thứ tư; Hepatitis A 2 lần cách nhau 6 tháng.

e- 15 tháng: Hep B lần ba + DTaP lần thứ tư;

g- 4 tới 6 tuổi: MMR lần thứ nhì + Polio lần thứ tư.

Thường thường tất cả các chích ngừa này được hoàn tất sau năm sáu lần tới phòng mạch bác sĩ.

Một câu hỏi thường được đặt ra là nếu mình quên một lần chủng ngừa theo lịch trình thì phải làm sao.

Xin thưa là không bao giờ quá trễ để chích ngừa. Khi lịch trình bị gián đoạn vì quên, ta không phải chích lại từ đầu mà chỉ cần chích từ lần đã ngưng.

Phụ huynh nhiều khi cũng bối rối không biết phải chích bao nhiêu lần để có miễn dịch hoàn toàn hoặc bao giờ phải chích bồi dưỡng, bổ túc. Đặc biệt là các em hay nghịch ngợm chạy nhẩy dễ té ngã trầy da, nguy cơ nhiễm bệnh phong đòn gánh gia tăng, cho nên cần chích tăng cường thuốc ngừa này mỗi mười năm.

Do đó, cần giữ sổ chích ngừa cẩn thận để ghi nhớ, theo dõi lịch trình chích ngừa đã được các nhà chuyên môn y tế ấn định, nhất là khi di chuyển sang địa phương khác, hoặc khi thay đổi bác sĩ gia đình.

Tại Hoa Kỳ, đa số các chương trình chích ngừa đều miễn phí hoặc lệ phí rất thấp, qua các trung tâm y tế địa phương hay tại phòng mạch bác sĩ.

Phản ứng phụ và trường hợp không chích ngừa

Tác dụng phụ của thuốc chủng cũng thường xẩy ra nhưng rất nhẹ: chỗ chích hơi sưng, hơi đau, ngưa ngứa, nhiệt độ hơi lên cao. Trong các trường hợp này, ta có thể cho con em uống một liều thuốc giảm sốt acetaminophen ( Tylenol). Nhớ là không nên cho thuốc Aspirin. Cho con em uống nhiều nước để hạ nhiệt; mặc quần áo thoáng nhẹ; chườm khăm tẩm nước ấm.

Hãn hữu lắm mới có phản ứng mạnh như khó thở, hạ huyết áp, nổi ngứa cùng mình, ngất xỉu ngay sau khi chủng. Khi bị phản ứng mạnh như vậy thì không được chủng ngừa với thuốc chủng đó nữa.

Khi các em có các dấu hiệu sau đây thì nên cho bác sĩ hay ngay:

a-Nhiệt độ đo ở hậu môn lên trên 105F hoặc 39 C;

b-Nếu da xanh rờn và con em đi cà nhắc

c-Con em khóc liên tục cả mấy giờ sau khi chích ngừa;

d-Cơ thể con em run giựt.

Các em bị bệnh ung thư, bị bệnh liệt kháng AIDS cũng không được chủng loại thuốc trong đó mầm bệnh bị làm suy yếu, như thuốc chủng bệnh sởi, quai bị, phong ban, thủy đậu, tê liệt.

Trẻ em đang đau ốm thì tùy theo trường hợp: nặng với nóng sốt cao vì nhiễm trùng thì hoãn chủng ngừa tới khi bình phục. Khi các em chỉ bị đau nhẹ như viêm tai, ho, sổ mũi, tiêu chẩy thì đều có thể chủng ngừa được. Bác sĩ gia đình sẽ cho ta lời khuyên quyết định.

Kết luận

Bệnh tật không phải tự nhiên tan biến đi.

Mặc dù con người đã ý thức được những nguyên nhân gây bệnh, đã sống điều độ, vệ sinh hơn, y học đã cống hiến nhiều phương tiện trừ bệnh tật, nhưng bệnh tật vẫn còn luẩn quẩn đó đây chỉ chờ cơ hội thuận tiện là xâm nhập cơ thể ta.

Cho nên sự phòng ngừa bệnh, mà chủng ngừa là một, vẫn còn rất quan trọng.

Vả lại “An ounce of prevention is worth a pound of cure” hoặc “Phòng bệnh hơn chữa bệnh”.

Chỉ cần một sự quan tâm, dành ra một chút thì giờ để thực hiện sự phòng ngừa này là ta có thể tránh được những dịch bệnh gây tử vong cao như dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918 giết gần 20 triệu người trên thế giới; giúp cả ngàn trẻ em tránh được khuyết tật bẩm sinh về tim, mắt, điếc và chậm trí do bệnh Rubella từ mẹ truyền cho con; cứu sống cả triệu trẻ em trên thế giới khỏi thiệt mạng vì bênh sởi.

Đấy là phần thưởng của mũi thuốc chích mang lại sức khỏe tốt cho con người. Chẳng lẽ ta lại bỏ qua những cơ hội phúc lợi mà xã hội đã ân cần cung ứng, hiến dâng.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức

Texas- Hoa Kỳ
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23884
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 26/Aug/2014 lúc 5:01am

Sớm Khám Phá Ung Thư Ruột Già


Từ năm 2000, tháng Ba mỗi năm đã được các tổ chức chống ung thư tại Hoa Kỳ chọn là tháng để bà con ”đề cao cảnh giác” với nan bệnh ung thư Ruột Già và lưu ý tới việc tới các bác sĩ khám nghiệm để sớm tìm ra bệnh.

Ung thư ruột già là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ nhì trong các bệnh ung thư tại Mỹ, sau phổi.

Thống kê cho biết, năm 2008, có 139,000 người lớn tại Hoa Kỳ được chẩn đoán bị ung thư ruột già với hơn 50.000 tử vong.

Theo Hội Ung Thư Hoa Kỳ, phân nửa số tử vong này có thể được cứu sống nếu mọi người hiểu rõ bề bệnh, phòng tránh các nguy cơ gây ra bệnh và làm các thử nghiệm tìm bệnh đều đặn. Các thử nghiệm sàng lọc này có thể sớm nhận diện bướu thịt (polyp) đáng ngại hoặc u tiền ung thư để loại bỏ trước khi chúng chuyển sang bệnh hiểm nghèo.

Theo bác sĩ Durado D. Brooks, Giám đốc khoa ung thư nhiếp tuyến và ruột già thuộc Hội Ung Thư Hoa Kỳ thì “Ung thư ruột già là một trong những ung thư duy nhất có thể phòng tránh qua khám nghiệm đều đặn”. Cơ quan Kiểm Soát Bệnh Hoa Kỳ (CDC) cũng có cùng quan điểm.

Ngoài ra nghiên cứu cho hay, 90% người được sàng lọc khám phá ra ung thư ruột già sớm có tỷ lệ sống sót 5 năm, trong khi đó nếu khám phá trễ số người sống sót còn có 10%.

Vậy thì những thử nghiệm đó là gì và được thực hiện như thế nào, chúng ta cùng nhau tìm hiểu.

Trước hết, xin nhắc lại là những rủi ro đưa tới ung thư ruột già gồm có:

-Tuổi cao ( trên 50 tuổi);

-Cá nhân hoặc thân nhân có tiền sử bướu thịt, ung thư ruột già;

-Cá nhân có tiền sử viêm loét ruột;

-Di truyền;

-Hút thuốc lá;

-Đời sống quá tĩnh tại;

-Ăn nhiều thịt đỏ.

1-Khám hậu môn với ngón tay

Thử nghiệm đầu tiên mà thầy thuốc sẽ làm là khám hậu môn. Nói tới khám xét là ta cứ ngượng ngùng “em chã ”. Vì khi không lại phải “vạch mông” cho người coi cái ”cửa sau”, phần thầm kín của con người, thì cũng lạnh mình, đỏ mặt. Nhưng khi cần thì vẫn phải làm.

Chổng mông để lương y thọc ngón tay chuối mắn - ngọc ngà vào, ngoáy qua ngoáy lại từ trước ra sau, từ trên xuống dưới. Để coi mặt trong ruột có trơn tru, có cái u cái mụn nào không; rút ngón tay ra có chút máu dính vào bao cao su. Với chiêu thức ngoáy tay, thầy thuốc cũng kiểm tra coi cái tuyến tiền liệt của các ông xem có sưng, có gồ ghề. Chẳng là ung thư ruột cũng “ nhân nghĩa bà Tú Đễ ” thường tới thăm chú tuyến tinh dịch này của quý lão ông lắm đấy.

Với vài giọt hóa chất, thầy thuốc thử phân coi có vết máu.

Thử nghiệm này rất giản dị, không đau đớn mà lại rẻ tiền nhưng hữu ích thì “thần sầu”. Thần sầu vì có thể giúp ta sớm phát hiện những10% nan bệnh, sớm điều trị, nâng cao kết quả, nhiều hy vọng lành bệnh. Do đó, ta nên làm mỗi năm.

Nếu thử nghiệm thấy có máu thì thầy thuốc sẽ tìm cách trực tiếp nhìn vào trong ruột

2-Chụp X-quang ruột với chất cản quang

Dung dịch cản quang được bơm vào ruột để hình ảnh ruột hiện rỏ ràng trên phim X-quang. Quan sát hình chụp, bác sĩ có thể tìm ra u bướu hoặc bất thường trong ruột. Nếu thấy bướu thịt, bác sĩ sẽ đề nghị làm nội soi.

3-Thử phân tìm tế bào ung thư (Stool DNA test)

Đây là thử nghiệm tương đối mới.

Bác sĩ đưa cho bệnh nhân một hộp thử nghiệm với hướng dẫn cách thức lấy phân rồi chuyển cho phòng thí nghiệm để tìm tế bào ung thư tách ra từ u bướu của ruột.

Bệnh nhân sẽ được nhắc nhở không ăn một vài thực phẩm hoặc dùng vài loại thuốc để có kết quả chính xác. Nếu kết quả dương tình, nội soi ruột sẽ được thực hiện.

4-Tìm máu ẩn trong phân

Trong điều kiện bình thường, phẩn không có máu và đàm. Phẩn có máu là dấu hiệu của một bệnh nào đó của ống tiêu hóa.

Máu có thề đỏ tươi, bầm đen hoặc nâu sẫm tùy theo vị trí bệnh xa hay gần hậu môn. Gần ( trực tràng, trĩ) thì đỏ, xa (ruột non, bao tử) thì bầm vì đã bị vi khuẩn biến thành hóa chất hematin có mầu đen.

Máu đỏ tươi thường là do trĩ hậu môn, trĩ mạch lươn dưới da chung quanh hậu môn, bướu thịt hoặc ung thư ruột già, trực tràng.

Máu bầm đen trong các bệnh loét dạ dày, đứt mạch máu ở ruột già, dùng quá nhiều aspirin hoặc rượu, uống thuốc chống đông máu.

Số lượng máu có thể nhiều hoặc ít như trường hợp máu ẩn (occult blood).

Máu ẩn có rất ít trong phẩn mà mắt thường không thấy và chỉ tìm ra được khi nhìn qua kính hiển vi hoặc thử nghiệm hóa học.

Nguồn gốc máu ẩn có thể từ loét viêm dạ dày, viêm đường ruột, trĩ, ung thư hoặc polyp trong ruột già.

Để thử nghiệm, phẩn được lấy trong ba ngày liên tiếp và đựng trong hộp đặc biệt do phòng thí nghiệm cung cấp. Giao hộp phẩn cho phòng thí nghiệm để họ tìm máu.

Ba ngày trước và trong thời gian lấy phẩn, bệnh nhân cần theo hướng dẫn như sau:

-Tránh dùng vitamin C hoặc tiêu thụ quá nhiều thực phẩm chứa sinh tố này như chanh, cam vì sinh tố này cho kết quả dương tính sai.

-Tránh ăn nhiều thịt đỏ có nhiều heme, thực phẩm có nhiều enzym peroxidase như nấm, broccoli, giá đậu, cauliflower, táo, cam, chuối, dưa canteloup, nho. Các chất này có thể làm cho kết quả thử nghiệm dương tính sai

-Nên ăn thực phẩm có nhiều chất xơ như đậu, rau để khối phẩn mềm lớn.

-Tránh thuốc kích thích dạ dày, ruột gây ra xuất huyết như thuốc chống acit, thuốc có chất steroid, thuốc chống viêm đau có chất aspirin, rượu.

-Tránh uống sinh tố có chất sắt.

Kiếm máu ẩn trong phẩn có khả năng tìm ra polyp và ung thư ruột già khá sớm. Tuy nhiên, kết quả dương tính không có nghĩa là đã bị ung thư vì có nhiều nguyên do khác gây ra xuất huyết đường ruột. Thí dụ khi dùng thuốc aspirin, ibuprofen, trong bệnh loét dạ dày, viêm ruột…Đo đó, bệnh nhân có máu ẩn trong phân cần được xác định với phương pháp nội soi, quan sát đường ruột.

Giới chức y tế đề nghị tìm máu ẩn trong phẩn mỗi năm một lần.

5-Nội soi ruột già

Có người ví Nội soi ruột già là tiêu chuẩn vàng (golden standard) để sàng lọc ung thự ruột già-trực tràng.

Đây là phương pháp khảo sát mặt trong của toàn thể trực tràng với một ống dây quang học bằng nhựa mềm dễ uốn, có đèn sáng dẫn đường và máy chụp hình. Đưa ống sâu vào hậu môn, điều chỉnh máy, bác sĩ có thể làm một vòng thám hiểm bất cứ góc cạnh nào của ruột và mao tôn cương: qua đèn, nhìn ruột rõ như ban ngày, nào là gồ ghề bướu thịt, loét lở thành ruột, bê bết máu tươi đều thấy hết, ngoại trừ bầy vi sinh vật lúc nhúc cộng sinh. Nhắc lại là trong trường hợp bình thường, lòng ruột già chơn mềm như mặt trong của má.

Hình ảnh ruột được chiếu trên màn hình TV để phân tích và có thể lưu trữ.

Nội soi được làm tại bệnh viện hoặc phòng nội soi ngoại chẩn, trung bình kéo dài từ 30-60 phút và do bác sĩ chuyên ruột-bao tử thực hiện. Bệnh nhân được cho dùng liều thuốc an thần để giảm lo âu, khó chịu, do đó cần người lái xe đưa về sau khám nghiệm.

Trước khi làm nội soi, bệnh nhân được cho thuốc tẩy rửa ruột sạch sẽ để bác sĩ dễ quan sát. Đây là điểm mà nhiều người e ngại vì phải uống một lọ thuốc xổ cộng thêm cả lít nước để rồi tiêu chẩy soèn soẹt. Hiện nay có thuốc tẩy rửa dạng viên cho nên việc sửa soạn ít khó chịu hơn.

Một ngày trước thử nghiệm, bệnh nhân không ăn thực phẩm mà chỉ uống nước trong không bã.

Nếu thử nghiệm vào buổi sáng, không ăn uống gì sau nửa đêm. Nếu là buổi chiều thì uống thuốc tẩy xổ theo đúng hướng dẫn.

Không nên uống aspirin hoặc thuốc chống viêm 5 ngày trước thử nghiệm để tránh nguy cơ xuất huyết.

Sau thử nghiệm, bệnh nhân cảm thấy tưng tức ở bụng, nhưng hết sau vài giờ. Dăm giờ sau thử nghiệm, bệnh nhân có thể ăn lại như thường lệ.

Mục đích của nội soi gồm có:

-Đánh giá các u bướu, loét lở, thu hẹp lòng ruột già khi chụp hình X-quang ruột;

-Chẩn đoán viêm ruột;

-Tìm nguyên nhân gây ra tiêu chảy khi các thử nghiệm thông thường không thành công;

-Tìm nguyên nhân xuất huyết đường tiêu hóa, đặc biệt trong bệnh thiếu máu do thiếu sắt;

-Chẩn đoán ung thư ở người có thân nhân bị ung thư hoặc bướu thịt;

-Cắt bỏ bướu thịt, chữa xuất huyết ruột hoặc lấy vật lạ trong ruột.

Nội soi được áp dụng khi có một trong các bất thường như thay đổi thói quen đại tiện, máu trong phẩn, đau bụng liên tục, người từ 50 tuổi trở lên.

Hội Ung Thư đề nghị những ai trên 50 tuổi nên làm nội soi ruột già mỗi 7-10 năm. Người có rủi ro ung thư ruột già cần thực hiện sàng lọc này gần hơn, tùy theo ý kiến của bác sĩ điều trị.

Bình thường, phương pháp rất an toàn, hãn hữu lắm mới có khó khăn như lủng ruột.

Nếu có u bướu, bác sĩ sẽ thực hiện sinh thiết (biopsy) để xác định tế bào ung thư, chụp x-quang xương, CT scan…rồi điều trị.

Mặc dù nội soi ruột là phương thức sàng lọc hữu hiệu, nhưng số người thực hiện cũng khá khiêm nhường. Lý do là nhiều người ngại đau, ngại phải uống thuốc tẩy sổ để làm sạch ruột và lý do quan trọng hơn là chi phí nội soi khá cao. Nếu bảo hiểm không đài thọ thì bệnh nhân phải bỏ tiền túi ra trang trải.

Với người trẻ hơn mà có các rủi ro như:

-đã có ung thư hoặc bướu thịt trong quá khứ;

-thân nhân bị ung thư hoặc bướu thịt ruột già;

-có bệnh loét ruột hoặc bệnh Crohn;

-tiêu thụ nhiều chất béo, ít chất xơ

thì nên thực hiện cá phương pháp sàng lọc tìm kiếm ung thư ruột già.

6-Virtual Colonoscopy

Đây là phương pháp mới được giới thiệu năm 2008 để chụp hình hiện trạng thực sự của ruột với máy CT scan ( computerized tomography). Những hình ảnh này nom giống như khi nhìn trực tiếp ruột già. Virtual colonoscopy do bác sĩ quang tuyến thực hiện, Một loại gas được bơm vào để ruột già phồng lên rồi làm CT scan tìm polyp.

Nếu thấy có bất thường, bác sĩ sẽ làm nội soi ruột để quan sát rõ ràng hơn và nếu cần thì cắt bỏ. Chi phí cho phương pháp này cũng khá cao.

7-Flexible Sigmoidoscopy

Một thiết bị đơn giản hơn máy nội soi ruột già là máy nội soi ruột sigma (sigmoidoscope) chỉ được dùng để quan sát phần dưới của ruột già và trực tràng mà thôi. Khoảng 50% ung thư hoặc bướu thịt xuất hiện ở phần trên ruột già.

Một ống mềm uốn cong , đầu có gắn máy thu hình nhỏ với đèn được dưa vào hậu môn. Qua thiết bị, bác sĩ quan sát phần dưới ruột già và trực tràng để tìm ra bất thường.

Coi vậy ta thấy có nhiều cách để sàng lọc tìm kiếm ung thư ruột già, nhưng căn bản chỉ có hai loại được giới chức y tế khuyên cần làm theo định kỳ: Đó là tìm máu ẩn trong phẩn (Fecal occult blood test) và nội soi ruột già (Colonoscopy screening).

Kết luận

Với chiều dài 5 feet ( 152 cm) ruột già có vai trò quan trọng trong cơ thể.

-Ruột tái hấp thụ chất lỏng, nhiều sinh tố khoáng chất cần thiết từ khối thực phẩm đang được tiêu hóa.

-Loại bỏ độc chất và vi sinh vật gây hại ra khỏi cơ thể theo phẩn.

Nếu các nhiệm vụ này không được hoàn tất chu đáo, sức khỏe tổng quát sẽ chịu nhiều khó khăn mà ruột già cũng bị tổn thương, bệnh hoạn.

Ung thư ruột già là một trong những bệnh hoạn đó.

Điều trị ung thư ruột già không phải là chuyện dễ dàng, vì bệnh thường chỉ được khám phá khi đã vững vàng, ổn định, đôi khi còn gieo rắc một vài hạt giống ác quái vào các cơ quan bộ phận khác ngoài ruột.

Do đó, các giới chức y tế đều nhắc nhở dân chúng để ý tới dấu hiệu báo động của bệnh, cấp kỳ thông báo cho bác sĩ và làm các thử nghiệm sẵn có đề truy tìm “ung tặc”, càng sớm càng tốt.

Nhưng nhiều thử nghiệm như vậy thì chúng tôi biết chọn lựa cái nào bây giờ?

Về thắc mắc này thì không có nhà chuyên môn nào dám cả quyết trả lời. Vì mọi sự tùy theo điều kiện bệnh, tình trạng bệnh nhân, lại cũng còn tùy khả năng tài chánh, có đủ tiền trả cho nội soi hay không. Cái khó nó bó cái khôn mà. Nhiều bảo hiểm thuận trả cho chi phí này. Riêng người được

Mà tại sao lại phải thử nghiệm rắc rối như vậy. Vâng, quả tình có rắc rối, nhưng những phương thức này có thể cứu sống ta đấy. Vì với thử nghiệm, có thể tìm ra ung thư ở giai đoạn rất sớm, từ đó điều trị sẽ có nhiều kết quả hơn. Và hồi phục cũng mau hơn.

Theo Giáo sư Giải Phẫu LaSalle Leffall, Đại Học Y Khoa Howard, nếu được điều trị từ khi còn trứng nước, ung thư ruột già có từ 80% tới 90% cơ may lành hẳn; nếu để tới khi nó lan rộng thì tỷ lệ xuống còn 1/3.

Điều đáng ngại là, theo Hội Ung thư Hoa Kỳ, chỉ có 30% người được khuyến khích làm thử nghiệm tìm kiếm bệnh chịu thực hiện lời khuyên.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23884
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 28/Aug/2014 lúc 9:53am
Nói chuyện gạobịnh tiểu đường (thiện ác tranh hùng).pps <<<<



thai%20jasmine%20rice,%20royal%20umbrella%20brand 

Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 28/Aug/2014 lúc 9:53am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23884
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 02/Sep/2014 lúc 10:47am

Chăm sóc đôi bàn chân

Có một nhà nghiên cứu đã tò mò, tỉ mẩn ngồi tính ra rằng, trong suốt cuộc đời, con người đã cất bước đi tới trên 1 tỷ lần. Ðây là lấy con số trung bình. Chứ người vô công rồi nghề, la cà bát phố suốt ngày, người phải lội bộ kiếm kế sinh nhai thì chắc là phải nhân lên nhiều lần.
Cũng như những ai thường xuyên “lên xe mercedes, xuống ngựa sắt Honda hai bánh” thì những bước chân đi sẽ âm thầm ít ỏi hơn. Mà bước đi được như vậy là nhờ ở đôi bàn chân. Bàn chân cũng giúp cơ thể đứng vững và bám vào mặt trái đất.
Bàn chân và cổ chân có một cấu trúc khá phức tạp với:
- 26 chiếc xương nhỏ, chiếm 1/4 tổng số xương của cơ thể.
- 33 khớp xương
- 33 sợi gân, cơ, dây chằng
- Trên một cây số mạch máu, dây thần kinh nằm trong da và tế bào mềm.
Phần trước của bàn chân gồm có năm xương bàn chân và năm ngón chân.
Xương bàn chân thứ nhất to và ngắn hơn nhưng lại có vai trò quan trọng trong việc đẩy bước đi về phía trước.
Gót chân gồm hai xương sên (talus) và xương gót chân (calcaneus).
Xương sên nằm trên xương gót chân, giúp cho cổ chân cử động qua lại được.
Ðầu ngón chân có thể chuyển động lên, xuống, ra phía ngoài và vào phía trong.
Tất cả các thành phần này làm việc phối hợp nhịp nhàng với nhau để cung cấp cho cơ thể một thế đứng vững chắc, những bước đi, bước chạy, bước nhẩy cao nhẩy xa, khiêu vũ, múa may nhịp nhàng.
Bàn chân có hai nhiệm vụ chính: chống đỡ sức nặng cơ thể và đẩy cơ thể về phía trước. Ngoài ra, các khớp của bàn chân cũng phải du di uyển chuyển để chân có thể thích ứng với sự không bằng phẳng của mặt đất. Các khớp này tạo ra độ cong của bàn chân
Vậy mà đôi khi bàn chân cũng có bệnh tật bất thường, khiến cho con người không đi đứng được vì đau đớn, vì có sự thay đổi hình dạng, cấu trúc của hai bàn chân.
Sau đây là một số bệnh tật thường thấy của bàn chân.

Ðau gót chân

Với người trưởng thành, đau gót chân là rối loạn thường thấy nhất của bàn chân. Ðau xảy ra khi ta vận động hoặc làm các công việc hàng ngày.
Xương gót chân là xương lớn nhất của bàn chân đồng thời cũng là phần đầu tiên tiếp xúc với mặt đất khi ta bước đi. Ðau gót chân thường thấy ở lớp người ngoài 40 tuổi mà lại hoạt động nhiều. Ở lớp tuổi này, sức đàn hồi của gân và dây chằng nơi gót chân đều giảm bớt.
Nguyên nhân thông thường nhất là viêm mô liên kết chạy từ gót chân tới ngón chân dọc theo mặt dưới bàn chân. Nguyên do kế tiếp là gẫy xương gót chân và bệnh thấp khớp.
Dấu hiệu chính là cảm giác đau ngầm ngầm đôi khi cách quãng ở dưới bàn chân hoặc chung quanh gót chân.
Nếu không điều trị, cường độ đau tăng dần, nhất là khi mới ngủ dậy hoặc khi ngồi quá lâu. Trong khi ngủ, ít có cảm giác đau. Đa số các trường hợp đau gót chân đều tự nhiên khỏi.
Ưu tiên điều trị là để bàn chân nghỉ ngơi trong vài ngày để giảm viêm, sưng và đau.
Uống thêm thuốc chống đau như aspirin, ibuprofen trong dăm ba ngày. Thoa bóp và chườm gót chân với nước đá cũng rất công hiệu. Có thể mua một miếng lót gót chân đặt trong giầy để giảm cọ sát, gây đau. Khi cảm giác đau thuyên giảm, từ từ sử dụng lại bàn chân.
Xin cứ kiên nhẫn, vì đôi khi cơn đau kéo dài cả tháng, nhưng đa số trường hơp, bệnh sẽ qua khỏi. Chẳng may mà cả hai tháng sau, bệnh chưa hết thì nên đi bác sĩ để được khám.
Có thể là có vấn đề với xương chân như gẫy xương, viêm xương mà chụp hình X-quang sẽ làm sáng tỏ. Trong trường hợp trầm trọng, thuốc cortisone được chích tại chỗ để giảm đau.
Vật lý trị liệu cũng là phương thức trị liệu tốt. Rât ít trường hợp phải giải phẫu vì đau gót chân.

Viêm bao hoạt dịch ngón chân (Bunion)

Ðây là một sự sưng dầy vừa rất khó coi mà lại còn gây đau ở các mô bào chung quanh xương ngón chân cái.
Nguyên nhân có thể là do thừa kế gia đình (giao chỉ) hoặc đi giầy quá chật, gót quá cao.
Ngón chân cái, thay vì hướng thẳng về phía trước, lại vẹo về phía ngón chân thứ hai. Mô bào sẽ mọc phủ lên mấu xương nhô ra để bảo vệ ngón chân lệch chỗ. Qua sự cọ xát với giầy, lớp mô này càng ngày càng dầy lên, gồ ghề, viêm và gây cảm giác đau. Hình dạng bàn chân cũng thay đổi và không vừa với giầy.
Lâu ngày, bệnh gây khó khăn cho sự đi đứng nếu không điều trị.
Ðiều trị không làm giảm sưng, nhưng có thể tránh sưng trở nên trầm trọng, và để giảm đau. Ðó là mang một loại giầy đặc biệt bằng da mềm, phần đầu rộng rãi để ngón chân khỏi ép vào nhau, gót thấp để giảm áp lực lên ngón chân. Giải phẫu ít khi được dùng trong trường hợp này.Mục đích của giải phẫu là để giảm đau chứ không phải để làm đẹp bàn chân. Cần thảo luận kỹ càng với bác sĩ chuyên khoa về xương và bàn chân trước khi quyết định phẫu thuật.

U dây thần kinh (Morton neuroma)


Một dây thần ở bàn chân có thể bị kẹp giữa hai ngón chân thứ ba và thứ tư vì mang giầy quá chật, bóp xương các xương vào với nhau. Lâu ngày, dây thần kinh đó phản ứng lại bằng cách tạo ra một cục u, gây ra đau. Cảm giác đau lan cả xuống các ngón chân. Ðiều trị rất giản dị.
Chỉ cần mang giầy rộng rãi để tránh co ép các xương bàn chân, uống ít viên thuốc chống viêm-đau ở chung quanh dây thần kinh. Mang một miếng lót dưới gót chân cũng giảm đau.
Trong một số trường hợp, thuốc cortisone cũng được bác sĩ chích vào chung quanh u dây thần kinh.
Khi cảm giác đau không giảm với các phương thức vừa kể, giải phẫu cắt bỏ u dây thần kinh có thể được áp dụng. Cần thảo luận cặn kẽ với bác sĩ về công hiệu trước khi quyết định giải phẫu.

Chai cứng da

Chai là một vùng da ở trên hoặc giữa hai ngón chân dầy cứng lên, thường là do đi giầy quá chật, các ngón chân ép với nhau hoặc cọ xát với giầy.
Ngón chân cái và ngón thứ năm thường hay bị chai. Chai cũng thấy ở gót chân.
Ngâm chân vào nước ấm cho tới khi chai mềm, rồi dùng hòn đá riêng có bán ở tiệm để mài chai cho mòn xuống. Sau đó mang miếng đệm để giảm sức đè vào da.
Nên cẩn thận với vài loại thuốc bôi tẩy chai, có chất acid salicylic, vì chất này có thể hủy hoại tế bào lành ở chung quanh.
Nếu chai quá dầy và gây đau, khó khăn đi lại, nên tới bác sĩ chuyên khoa để được điều trị.

Ngón chân búa (Hammertoes)

Ngón chân búa là một trong nhiều loại biến dạng của ngón chân.
Ngón chân bất thường cong xuống như hình chữ C hoặc cụp xuống như móng chân chim, vì các sợi gân của ngón chân co lại, kéo đầu ngón chân xuống và khớp lại cong lên. Biến dạng cũng xẩy ra khi mang giầy quá chật, quá ngắn. Vì lẽ đó, nữ giới thường hay bị tật này.
Bệnh tiểu đường ảnh hưởng tới dây thần kinh bàn chân cũng có thể là rủi ro gây ra biến dạng ngón chân.
Bất cứ ngón chân nào cũng có thể bị biến dạng, nhưng ngón chân thứ hai và thứ năm thường bị nhiều hơn. Lớp da trên ngón chân đó dầy cứng thành chai vì liên tục cọ sát với giầy, gây đau khi đi lại.
Nếu ngón chân búa không gây đau và không gây khó khăn cho sự đi đứng, thì cũng không cần chữa trị. Có điều hơi mất thẩm mỹ, khi mình trần tắm biển, hồ bơi.
Nếu chân đau, khó chịu có thể mang miếng đệm bao phủ ngón chân có bán sẵn ở các dược phòng hoặc mang giầy rộng rãi để ngón chân được thoải mái, không ép vào với nhau và cọ xát với da giầy.
Trong trường hợp ngón chân búa gây trở ngại cho sinh hoạt đi đứng hàng ngày, giải phẫu có thể là phương tiện tốt để giải quyết vấn đề. Nên tham khảo bác sĩ chuyên khoa xương (orthopedic surgeon) hoặc bác sĩ chỉnh hình chân (podiatrist)

Mụn cóc bàn chân (Plantar warts)

Mụn cóc thường thấy ở lòng bàn chân và do một loại virus gây ra. Virus có ở nơi ẩm ướt, như cạnh hồ bơi. Người nhiễm phải khi đi chân đất.
Thường thường mụn cóc trên da ở các nơi khác mọc ra ngoài, nhưng ở bàn chân lại mọc sâu vào trong vì sức nặng cơ thể đè lên bàn chân. Do đó, cảm giác đau mạnh mẽ hơn khi đi đứng
Mụn cóc bàn chân hơi khó chữa. Thuốc bôi acid salycilic có thể hủy hoại mụn cóc.
Bác sĩ có thể chích vài loại thuốc vào mụn cóc, làm đông cứng mụn với dung dịch nitrogen, hoặc cắt mụn cóc với tia laser, tiểu giải phẫu.

Bệnh nấm giữa ngón chân

Tiếng Anh gọi bệnh là athhlete’s foot, có lẽ vì các lực sĩ luôn luôn đi giầy không phải bằng da súc vật, bàn chân đổ mồ hôi, nóng và bí hơi tạo ra môi trường tốt cho những loại nấm gây bệnh. Nấm thông thường tấn công bàn chân thuộc nhóm Trichophyton.
Bàn chân luôn luôn ngứa ngáy khó chịu với các mụn nước, da chóc, nứt nẻ, mùi hôi như mùi chuột chết. Có thể giải quyết nấm với bột thuốc chống nấm hoặc kem chống nấm có hoạt chất clotrimazole, mua tại tiệm thuốc tây. Thay tất thường xuyên.
Không nên mang một đôi giầy mấy ngày liên tiếp, để giấy khô bớt độ ẩm.
Không nên đi chân đất nơi công cộng, để tránh lan truyền nấm cho người khác, nếu họ cũng đi chân không.

Móng chân mọc vào trong da (Ingrown Toenails)

Như tên gọi, bệnh này là do cạnh móng chân mọc lẹm vào trong da thịt, gây ra đau và có thể nhiễm vi khuẩn. Ngón chân cái thường hay bị bệnh hơn các ngón khác
Nguyên nhân gồm có đi giầy quá bóp vào ngón chân, đi trên đầu ngón chân hoặc đôi khi vì một vài bất thường của xương ở bên dưới.
Trường hợp bệnh nhẹ, ngâm bàn chân trong nước ấm khoảng 15 phút cho da và móng mềm và loại hết mủ dưới móng. Nếu khéo tay và không sợ đau, lấy đầu mũi dao nhọn, nâng cạnh móng lên một chút rồi nhét vài sợi bông gòn khô, để móng khỏi lẹm vào da.
Làm như vậy trong vài ngày cho tới khi móng mọc bình thường ra phía trước.
Nếu da bị nhiễm trùng nhẹ, bôi với kem có thuốc kháng sinh và bao che với một miếng band-aid. Ðôi khi cũng phải giải phẫu cắt một phần móng nếu liên tục mọc vào da.
Và từ nay, nên mang giầy thích hợp, để các ngón chân được thoải mái
Trên đây là một số bệnh thường thấy ở đôi bàn chân. Một số thay đổi khác xuất hiện trên bàn chân cũng có thể là dấu hiệu một số bệnh tổng quát. Chẳng hạn:
-Sưng phù một bàn chân có thể là do huyết cục tĩnh mạch nằm sâu hoặc tắc nghẽn mạch bạch huyết.
-Sưng phù hai bàn chân trong bệnh tim, thận, gan.
-Ngón chân hai bên tái xanh trong bệnh Raynaud vì co thắt hoặc vữa xơ động mạch.
-Ðau bàn chân khi nghỉ hoặc nâng cao, bớt đau khi hạ thấp trong giai đoạn cuối của bệnh động mạch
-Bàn chân đau với cảm giác tê tê do bệnh của dây thần kinh ngoại vi như trong trường hợp tiểu đường.
-Ðầu ngón chân và cổ chân đau, nóng và đỏ trong bệnh thống phong (gout)...
Tiện đây xin nói rõ một chút về hai nhà chuyên môn y học mà ta có thể tới để tham khảo, điều trị khi có khó khăn của bàn chận.
Bác sĩ y khoa chuyên ngành xương (orthopedic surgeon) là bác sĩ y khoa có huấn luyện chuyên môn thêm về các bệnh xương khớp-cơ bắp. Các vị bác sĩ này cũng khám chữa các bệnh về xương ở chân.
Bác sĩ chuyên về chân (podiatrist) được huấn luyện về khám xét định bệnh, điều trị và phòng ngừa các bệnh của bàn chân, có thể làm giải phẫu, làm giầy đặc biệt cho người bệnh.

Kết luận

Hai bàn chân nom tuy bé nhỏ nhưng công dụng cho cơ thể rất nhiều. Chúng cần được chăm sóc chu đáo để luôn luôn trong tình trạng tốt lành.
Bàn chân cần khoảng chống để thở. Chúng không thích bị gò bó, ép sát với nhau trong đôi giầy kiểu cọ hợp thời trang nhưng không thoải mái cho chúng.
Chúng cũng cần được rửa sạch mỗi ngày, được mang đôi tất mềm mềm, khô sạch, để nấm độc không quấy rầy.
Riêng với quý bà quý cô, lâu lâu cũng nên tới mỹ viện để được các chuyên viên trau chuốt, tô điểm đôi bàn chân xinh xinh, có gót hồng hồng.
Ðược chăm sóc chu đáo, chẳng bao giờ bàn chân quên ơn.

Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 04/Sep/2014 lúc 8:09am


8 lý do khiến bạn luôn mệt mỏi




Những cơn mệt mỏi kéo đến rất kì quặc và bạn không tài nào giải thích được. Dưới đây là 7 lý do rất phổ biến khiến bạn luôn mệt mỏi.

1. Bạn bị thiếu nước

Theo một nghiên cứu được đăng tải trên Tạp chí Dinh dưỡng Mỹ năm 2012, ngay cả phụ nữ khỏe mạnh cũng có thể bị mất nước khi bị rối loạn tâm trạng hay hoạt động thể chất quá sức. Các nhà nghiên cứu cho rằng khi tâm trạng thay đổi, tế bào thần kinh trong vùng dưới đồi – khu vực não có nhiệm vụ kiểm soát độ ẩm và nhiệt độ cơ thể - sẽ gửi một tín hiệu tới các phần còn lại của cơ thể để “nhắc” bạn uống nước. Ngoài ra bác sĩ dinh dưỡng Gina Sirchio tại Viện y tế LaGrange ở Chicago cũng cho biết, bạn cần chú ý tới màu nước tiểu. Khi thấy nước tiểu sậm màu, điều đó có nghĩa bạn đang thiếu nước.

Cách khắc phục: Bạn nên uống thật nhiều nước tuy nhiên không nhất thiết là phải đủ 8 cốc nước mỗi ngày. Lượng nước cơ thể bạn cần còn tùy thuộc vào thời tiết và cơ thể bạn.

2. Thiếu vitamin B12

Cơ thể cần vitamin B12 để sản sinh các tế bào máu đỏ và giữ cho các tế bào thần kinh hoạt động tốt. Thiếu hụt vitamin này sẽ làm giảm lượng ôxy trong máu, khiến cho cơ thể rơi vào trạng thái mệt mỏi ủ rũ, các bộ phận hoạt động không linh hoạt. Mỗi độ tuổi, cơ thể sẽ sản xuất ít đi một loại protein được gọi là yếu tố nội tại có nhiệm vụ giúp bạn xử lý các chất dinh dưỡng. Chính vì vậy, càng có tuổi, sức khỏe của bạn càng giảm sút do lượng protein này bị ít đi. Vì thế nếu thường xuyên cảm thấy mệt mỏi kèm theo các triệu chứng như mau quên, chân tay bủn rủn, tê hoặc ngứa… thì có thể bạn bị thiếu vitamin B12.

Cách khắc phục: Nếu sự mệt mỏi của bạn đi kèm với sự bủn rủn chân tay, bị tê hoặc ngứa ran, nhớ nhớ quên quên thì đó chính là do bạn thiếu B12. Hãy đến ngay bác sĩ để làm các xét nghiệm máu cần thiết để được bổ sung kịp thời lượng B12 phù hợp.

3. Stress quá mức

Thông thường, hooc-môn cortisol gây căng thẳng cao nhất vào buổi sáng và giảm xuống vào ban đêm giúp duy trì một nhịp hàng ngày của cơ thể. Nhưng khi cơ thể bị stress quá mức, nhịp điệu này sẽ bị xáo trộn, thậm chí mức độ cortisol không giảm xuống vào ban đêm, ảnh hưởng đến giấc ngủ của bạn. Hoặc tuyến thượng thận vẫn tiếp tục sản xuất cortisol trong lúc ngủ gây ra mệt mỏi, uể oải vào buổi sáng.

Cách khắc phục: Bạn không thể kiểm soát được những nguồn cơn gây ra căng thẳng nhưng bạn có thể có những cách phản ứng khác nhau khi phải đối diện với chúng. Ngoài ra thiền cũng là một cách để giảm bớt căng thẳng và mệt mỏi ở những người có bệnh mãn tính như viêm khớp dạng thấp. Hãy dành ít nhất 15 phút mỗi ngày để ngồi thiền và xóa đi những phiền muộn trong tâm hồn mình.

4. Bạn có nguy cơ tiềm ẩn về bệnh tim

Theo một nghiên cứu trên tạp chí Heart & Lung, một nửa số bệnh nhân nữ bị bệnh đau tim cho biết họ đã bị khó ngủ và mệt mỏi bất thường trong những tuần trước khi biết mình bị bệnh. Cảm giác mệt mỏi và khó thở xuất hiện khi bạn tập thể dục, leo lên cầu thang... cũng là những dấu hiệu mắc bệnh tim do động mạch bị chặn hoặc cơ tim yếu sẽ làm giảm lưu lượng máu, cản trở ôxy cung cấp cho cơ bắp và các mô của cơ thể khiến chúng không thể hoạt động đúng chức năng.

Cách khắc phục: Tốt nhất là bạn nên tới các bác sĩ để kiểm tra toàn diện nếu phát hiện mình có các dấu hiệu đau tức ngực, lo âu và khó tập trung.

5. Thiếu sắt dẫn đến thiếu máu

Hầu hết những người bị thiếu máu đều dẫn đến mệt mỏi. Nguyên nhân chính gây ra thiếu máu là do thiếu sắt. Mức độ sắt trong cơ thể thấp sẽ làm cho quá trình hình thành các tế bào máu đỏ bị suy giảm, lượng ôxy mới cung cấp cho cơ thể không đủ khiến cơ thể uể oải, mất năng lượng. Nhóm có nguy cơ bị thiếu sắt cao là những người ăn chay, ăn uống thiếu chất hoặc những bệnh nhân bị bệnh về tiêu hóa hoặc các bệnh về tuyến giáp, phụ nữ có kinh nguyệt kéo dài, chị em ngừa thai bằng biện pháp nội tiết tố…

Cách khắc phục: Những người ăn chay, những người có bệnh tiêu hóa hoặc các vấn đề về tuyến giáp, những phụ nữ ngừa thai bằng thuốc hoặc người tự ý uống thuốc bổ sung sắt không theo chỉ dẫn … là những người có nguy cơ cao bị thiếu sắt. Thiếu sắt sẽ khiến bạn luôn cảm thấy lạnh, móng tay yếu hơn và tóc bị rụng nhiều. Vì thế đừng tự ý uống các loại thuốc bổ sung sắt, hãy đến các bác sĩ chuyên khoa để kiểm tra máu hàng năm.

6. Nhiễm trùng đường tiết niệu

Khi mắc bệnh này bạn sẽ có cảm giác nóng rát khi đi tiểu và hệ lụy của nó là khiến bạn luôn cảm thấy mệt mỏi. Tình trạng này càng rõ ràng hơn nếu ở nhóm phụ nữ trên 40 tuổi, tiến sĩ Ashley Carroll ở khoa Tiết niệu tại Đại học Virginia Commonwealth, Mỹ cho biết. Vì thế khi bị nhiễm trùng đường tiết niệu, nên tranh thủ nghỉ ngơi, uống nhiều nước và có chế độ ăn lành mạnh, nếu bị lâu và nặng bạn cần đến bác sĩ để tư vấn dùng thuốc kháng sinh phòng bệnh.

Cách khắc phục: Đi đến bác sĩ ngay nếu bạn nghi ngờ mình bị nhiễm trung đường tiết niệu. Thuốc kháng sinh có thể giải quyết tận gốc vấn đề nhưng tất nhiên sẽ khiến bạn cảm thấy mệt mỏi. Những phản ứng đó của cơ thể sẽ hết sau 1 tuần đến 10 ngày. Trong thời gian điều trị, bạn hãy nghỉ ngơi, uống nhiều nước và có một chế độ ăn uống lành mạnh.

7. Tập thể dục quá nhiều

Làm cái gì quá nhiều cũng không tốt. Nếu bạn đã có một ngày phải lao động nặng, vận động không ngừng, mệt mỏi và khó ngủ là 2 dấu hiệu quan trọng cho bạn biết rằng cơ thể bạn đã quá sức chịu đựng. Việc luyện tập các môn sức bền như chạy maratong hay đi xe đạp đều là nguyên nhân làm tăng hormone cortisol. Nếu bạn không giữ được sự cân bằng giữa nghỉ ngơi và hoạt động, bạn sẽ gặp nhiều vấn đề cả về thể chất lẫn tinh thần.

Cách khắc phục: Hãy dành cho mình vài ngày nghỉ ngơi hoàn toàn sau đó bắt đầu trở lại một cách từ từ với các thói quen hằng ngày. Bạn có thể cần tới vài tuẩn để trở lại tốc độ cũ vì thế nên không cần quá vội vàng.

8. Cơ thể bạn không linh hoạt

Một ngày làm việc căng thẳng sẽ làm tăng hormone cortisol và glucose trong máu khiến các khớp gối thiếu linh hoạt. Cả ngày ngồi trước máy tính, bạn sẽ không thể giải phóng năng lượng và áp lực công việc. Đây là nguyên nhân chính khiến nhiều nhân viên văn phòng hiện nay mắc phải, gây mệt mỏi, kết hợp lười tập thể dục khiến tình trạng càng xấu đi. Vì thế hãy tranh thủ dạo bộ 30 phút sẽ cải thiện tình hình và cân bằng năng lượng hàng ngày.

Cách khắc phục: Cố gắng đi lại nhiều nếu bạn là người ít vận động. Theo một nghiên cứu mới đây cho thấy phụ nữ cần ít nhất 150 phút tập thể dục với các vận động vừa phải hoặc 75 phút vận động mạnh trong một tuần và phải làm điều này liên tục trong nhiều tháng mới có thể thu được hiệu quả để ngăn ngừa căn bệnh này.

st.



Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 04/Sep/2014 lúc 8:11am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23884
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 06/Sep/2014 lúc 7:57am

30 cách ngăn ngừa và trị ung thư

 30 cách ngăn ngừa và trị ung thư

Mỗi năm, cả thế giới phát hiện 10 triệu trường hợp ung thư (UT), nhưng theo Tổ chức Y tế Thế, giới ước tính đến năm 2020 có khoảng 15 triệu, tăng 50%, nếu chúng ta không tích cực “hành động”. Hầu hết các chứng UT có thể biết trước, thay đổi cách sống có thể làm giảm nguy cơ. Đây là “tế cấp tam thập điều” để ngăn ngừa UT:
  
1. Một nghiên cứu của Phần lan thấy rằng quá trình lên men có liên quan tới việc dưa bắp cải (sauerkraut, của Đức) sản sinh các hợp chất kháng UT – kể cả ITC, indole và sulforaphane. Để giảm lượng sodium, hãy rửa dưa muối trước khi ăn.

2. Ăn bông cải (broccoli), nhưng nên hấp hoặc chưng chứ đừng nấu bằng lò vi-ba. Bông cải là “siêu thực phẩm ngăn ngừa UT, nên ăn thường xuyên. Tuy nhiên, nghiên cứu của Tây ban nha thấy rằng bông cải nấu bằng lò vi-ba làm giảm 97 % flavonoid (chất kháng UT). Do đó nên luộc, hấp, chưng, trộn hoặc ăn sống.

3. Ăn món trộn với dầu hạnh nhân ( by Text-Enhance">brazil nut) vì chất selenium giúp ngăn chặn quá trình phát triển tế bào UT và “điều chỉnh” AND. Nghiên cứu của ĐH Harvard ở hơn 1.000 người đàn ông (bị UT tiền liệt tuyến) cho thấy rằng những người có mức selenium cao thì giảm phát triển bệnh 48% trong 13 năm kế tiếp so với những đàn ông có mức selenium thấp. Nghiên cứu trong 5 năm, ĐH Cornell và ĐH Arizona thấy rằng lượng 200mg selenium mỗi ngày (tương đương 2 hạt hạnh nhân Brazil) giúp giảm 63% UT tiền liệt tuyến, giảm 58% UT trực tràng, 46% bướu phổi ác tính, và giảm 39% hấu hết các loại UT gây tử vong.

4. Bổ sung calcium và by Text-Enhance">vitamin D. Nghiên cứu của Trường Thuốc Dartmouth cho thấy rằng việc bổ sung này làm giảm polyp đại tràng (nguy cơ gây UT) ở những người dễ phát triển bệnh này.

5. Hãy thêm tỏi vào món ăn. Tỏi chứa by Text-Enhance">sulfur khả dĩ kích thích sức đề kháng UT tự nhiên của hệ miên nhiễm  và có thể ngăn ngừa ung bướu. Các nghiên cứu đã cho thấy rằng tỏi có thể làm giảm UT bao tử  khoảng 12%.

6. Phi 2 nhánh tỏi đập giập với 2 muỗng dầu ôliu, rồi trộn với cà chua và dùng với mì sợi. Chất lycopene (có trong cà chua) giúp đề kháng UT đại tràng, UT tiền liệt tuyến và UT bàng quang. Dầu ôliu giúp cơ thể hấp thu lycopene, còn mì sợi (giàu chất xơ) giúp giảm nguy cơ UT đại tràng.

7. Mỗi tuần, nên mua dưa đỏ (cantaloupe) về xắt miếng và cho vào tủ lạnh để ăn dần mỗi sáng. Dưa đỏ giàu carotenoid – loại hoá chất thực vật làm giảm nguy cơ UT phổi.

8. Trộn nửa chén trái việt quất (blueberry) với bột ngũ cốc dùng mỗi sáng. Việt quất giàu chất chống ôxít hoá. Chính chất chống ôxít hoá làm trung hoà các căn nguyên tự do làm tổn hại tế bào và gây bệnh.

9. Atixô giàu silymarin - chất chống ôxít hoá khả dĩ chống UT da. Loại này dễ an và ngon. Có thể luộc hoặc hấp khoảng 30-45 phút thì mềm.

10. Thịt nướng ăn ngon miệng nhưng nó chứa nhiều hoá chất gây UT. Viện Nghiên cứu UT Mỹ thấy rằng thịt ướp nước sốt và nướng thì giúp giảm tạo ra loại hoá chất như vậy. Nên luộc thịt rồi nướng.

11. Nghiên cứu cho thấy rằng những đàn ông uống 8 ly nước lớn mỗi ngày giúp giảm nguy cơ UT bàng quang được 50%. Phụ nữ uống nước nhiều giúp ngăn ngừa UT đại tràng khoảng 45%.

12. Hãy có thói quen uống trà. Trà xanh được đánh giá cao ở Á châu hàng ngàn năm qua. Tây phương nghiên cứu mới đây cho thấy trà đề kháng nhiều loại UT, kể cả bệnh tim. Một số khoa học gia tin rằng một loại hoá chất trong trà là EGGG có thể là một trong các hợp chất kháng UT mạnh nhất được phát hiện từ trước tới nay.

13. Hãy uống một chút bia, đừng uống nhiều. Bia đề kháng vi khuẩn Helicobacter pylori, loại gây ung bướu khả dĩ dẫn đến UT bao tử. Uống bia, rượu nhiều có thể gây UT vú, miệng, họng, thực quản và gan.

14. Các nhà nghiên cứu cho thấy những người ăn từ 4 phần cá hồi trở lên mỗi tuần thì giảm gần 1/3 nguy cơ bệnh bạch cầu. Các nghiên cứu khác cho thấy việc ăn cá có mỡ (cá hồi, cá thu, cá bơn, cá mòi và cá ngừ - kể cả tôm, sò) thì giảm nguy cơ UT tử cung ở phụ nữ. Omega-3 có trong cá rất có lợi cho sức khoẻ và kỳ diệu!

15. Nên bổ sung viên đa vitamin mỗi sáng. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng vitamin và khoáng chất khả dĩ cải thiện hệ miễn nhiễm và giúp ngăn ngừa nhiều chứng UT.

16. Mỗi ngày phơi nắng sáng 15 phút để làm khoẻ xương. Ánh nắng chứa nhiều vitamin D tự nhiên rất cần cho cơ thể. Nghiên cứu cho thấy rằng thiếu vitamin D có thể làm tăng nguy cơ mắc nhiều chứng UT như UT vú, đại tràng, tiền liệt tuyến, buồng trứng, bao tử, loãng xương, tiểu đường, đa ngạch kết (xơ cứng) và cao huyết áp. Nhưng nên tránh ánh nắng gắt, vì nó có thể gây UT da. Cũng có thể bổ sung vitamin D.

17. Cắt đôi trái kiwi và múc phần “thịt” mà ăn. Trái kiwi chứa chất chống ôxít giúp ngăn ngừa UT. Nó còn chứa vitamin C, vitamin E, lutein và đồng.

18. Cẩn thận khi quan hệ tình dục. Virus papillomavirus (HPV), lây nhiễm qua đường tình dục, có thể gây UT cổ tử cung.

19. Giảm ăn mỡ động vật. Nghiên cứu của ĐH Yale cho thấy rằng các phụ nữ ăn nhiều mỡ động vật có nguy cơ 70% bị bạch cầu, ăn nhiều chất béo bão hoà tăng nguy cơ là 90%. Do đó nên ăn ít chất béo động vật, thay vào đó nên dùng dầu thực vật và dầu cá.

20. Nho chứa nhiều hợp chất resveratrol giúp đề kháng UT, ăn nho chứ đừng uống rượu nho, vì rượu làm tăng nguy cơ UT vú ở phụ nữ. Nho có khả năng làm mạnh hệ miễn nhiễm.

21. Hành tươi tốt cho sức khoẻ vì nó khả dĩ chống UT tiền liệt tuyến khoảng 50%. Ăn sống tốt hơn nhúng tái hay nấu chín.

22. Hằng ngày nên dùng nước chanh. Các nhà nghiên cứu Úc thấy rằng chanh có khả năng làm giảm UT miệng, họng và bao tử.

23. Sau bữa tối nên đi dạo 30 phút. Theo nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Ung thư Fred Hutchinson ở Seattle, hoạt động này giúp giảm nguy cơ UT vú. Đi bộ giúp điều chỉnh mức estrogen (hormone gây UT vú) và giảm cân hiệu quả.

24. Dùng thực phẩm hữu cơ, vì chúng không có thuốc trừ sâu hoặc thuốc tăng trưởng. Cả 2 loại thuốc này đều có thể làm tổn thương tế bào và gây UT.

25. Cây bồ công anh (dandelion) có thể làm giảm nguy cơ UT.

26. Tự giặt ủi quần áo, không dùng máy sấy khô. Nhiều loại máy sấy khô (Dry cleaning) dùng hoá chất perc (perchloroethylene), chất này có thể gây tổn hại thận, gan và UT. Đừng lạm dụng ly nhựa uống nước hằng ngày hoặc đựng đồ ăn bằng đồ nhựa.

27. Dùng dưa leo (dưa chuột) tươi thay vì dưa muối và dùng cá hồi tươi. Nghiên cứu cho thấy thực phẩm muối hoặc hun khói chứa nhiều carcinogen (chất gây UT).

28. Đừng ăn nhiều khoai tây chiên và bánh quy vì chúng chứa nhiều acrylamide - chất gây UT, sản sinh trong quá trình nướng. Theo Michael Jacobson, giám đốc điều hành Trung tâm Khoa học về Quan tâm Cộng đồng, acrylamide gây khoảng 1.000 đến 25.000 trường hợp UT mỗi năm. FDA đang xem xét mức nguy hại của acrylamide.

29. Nên nằm giường vải, ngồi ghế vải (kiểu ghế bố) để cơ thể thoải mái, tránh tổn hại da.

30. Nghiên cứu của ĐH Quốc gia New York ở Stony Brook cho thấy rằng quý ông chịu stress nhiều và ít giao thiệp, hoặc các thành viên gia đình có mức cao về sinh kháng thể tiền liệt tuyến (prostate-specific antigen – PSA) trong máu thì dễ bị UT tiền liệt tuyến.

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23884
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 09/Sep/2014 lúc 9:42pm

10 thực phẩm nên hạn chế

10%20thực%20phẩm%20nên%20hạn%20chếTiến sĩ Bryce Wylde, một chuyên gia về sức khỏe ở Canada, đã đưa ra lời khuyên về 10 thực phẩm chúng ta nên hạn chế. Đó là:

1. Thức ăn nhanh.

2. Chất béo hydrogenated (Hydrogenated fat). Vì loại chất béo này có thể gây bệnh tim, vốn thường có trong các loại bánh nướng, bơ thực vật...

3. Olestra là một loại chất béo tổng hợp được dùng để làm khoai tây chiên và nhiều loại snack khác không có chất mỡ.

4. Nitrate. Có nhiều trong thịt muối xông khói hoặc xúc xích. Nitrate giúp bảo quản màu và ngừa vi khuẩn sinh sôi. Tự bản thân nitrate thì vô hại song nó có thể chuyển hóa thành nitrite trong cơ thể, vốn có thể lần lượt hình thành nitrosamine - chất có thể gây ung thư. Nếu bạn phải ăn thực phẩm chứa nitrate, nên bổ sung thêm vitamin C vì vitamin này giúp ngừa nitrate chuyển hóa thành nitrosamine trong dạ dày.

5. Chất cồn, ngoại trừ uống một lượng nhỏ rượu vang đỏ mỗi ngày.

6. Hàu sống và sushi vì chúng có thể chứa các vi khuẩn độc hại có thể dẫn đến nguy cơ mắc một số bệnh nặng hoặc tử vong. Hàu và cá chỉ an toàn cho sức khỏe sau khi đã được nấu chín.

7. Chất mỡ động vật bão hòa, nhất là mỡ thịt heo, thịt bò và da của thịt gia cầm. Chất mỡ này cũng có trong phó mát, sữa và kem.

8. Nước soda vì thường chứa nhiều đường hoặc chất làm ngọt nhân tạo và caffeine.

9. Các loại snack chứa nhiều chất béo và muối.

10. Thức ăn đông lạnh, thay vào đó nên dùng thực phẩm tươi.
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23884
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 11/Sep/2014 lúc 9:21am

    An Toàn Sức Khỏe Mùa Đông



Winter%20Wallpaper
 

            Chúng ta đang ở trong mùa Đông, thời gian mà Xuân Diệu cảm thấy là “Đã nghe rét mướt luồn trong áo”.

Thực vậy, trong mấy tuần lễ vừa quan, những cơn giá lạnh đã bao phủ nhiều địa danh trên trái đất. Có những nơi tuyết trắng cả tuần lễ thì cũng có nơi nhiệt độ ngoài trời xuống quá thấp khiến đời sống của vạn vật hầu như tê liệt.

             Giống như các mùa Thu, Hạ, Xuân mà tạo hóa đã sắp đặt, mùa Đông cũng có những nét tốt xấu khác nhau lên sức khỏe con người.

            Riêng mùa Đông, với nhiều hấp dẫn của lễ hội, Giáng Sinh, Nguyên Đán với ngày ngắn đêm dài, ít nắng ấm, với gió lạnh giá băng và với nhiều vi sinh vật gây bệnh trong không gian thì sức khỏe cũng dễ dàng bị đe dọa. Tuy nhiên, nếu trang bị vài hiểu biết để lưu ý đề phòng, ta cũng có thể bình an vượt qua.

Sau đây là mấy khó khăn thường thấy vào mùa Đông.

1- Cúm

Một câu hỏi thường được nêu ra là tại làm sao mà cứ mỗi độ Đông về thì “Ông Cúm Bà Co” lại cứ hay viếng thăm bà con loài người chúng ta. Thế thì mủa Hè, mùa Thu ông bà virus bệnh Cúm đi đâu?

Ai mà giải đáp chính xác được câu hỏi này thì chắc chắn sẽ được Ủy ban giải thưởng y khoa học Nobel chiếu cố vinh danh kèm theo tấm ngân phiếu dăm trăm ngàn đô la tức thì.

Trong khi chờ đợi thì cũng có một số giải thích được nêu ra.

-Có người nói các virus Cúm nguyên thủy là từ loài chim biến dạng rồi gây bệnh cúm ở người. Chúng xuất phát từ một số địa danh ở  Á châu rồi lan tràn khắp thế giới.

-Cúm là bệnh theo mùa trong năm. Ở miền bắc xích đạo, cúm xuất hiện vào các tháng lạnh nhất là từ tháng 11 đến tháng 3. Trong khi đó ở nam xích đạo, cúm có từ tháng 5 tới tháng 9. Tại vùng nhiệt đới có rất ít cúm và hầu như không có mùa Cúm.

-Có giải thích cho rằng vào mùa lạnh, con người ít ra ngoài nắng, ít sinh tố D, giảm tính miễn dịch với tác nhân gây bệnh;

-Hoặc sống quây quần trong nhà khiến virus dễ lây lan;

-Rồi lại còn nhân mùa lễ hội, con người đi đó đi đây thăm viếng, nghỉ ngơi tạo điều kiện cho virus xâm nhập vào nơi vô trùng.

Theo khoa học gia Joshua Zimmerberg,  National Institute of Child Health and Human Development Hoa Kỳ, thì với thời tiết lạnh, virus cúm tạo ra một lớp vỏ bọc rất cứng, như là một chiếc phong bì. Nhờ đó virus có thể bay đi xa. Một khi xâm nhập cơ quan hô hấp con người thì vỏ bọc này tan vỡ  và virus bắt đầu gây bệnh. Theo ông, vỏ không được tạo ra vào mùa ấm nóng.

Nhà nghiên cứu Peter Palese, Đại học y Mount Sinai, New York, cũng cho là virus cúm mạnh và sống lâu hơn trong không khí khi thời tiết lạnh và khô. Với độ ẩm, virus hấp thụ nước và mau rơi xuống đất.

Dù chưa có giải thích chính thức nhưng ta biết chắc chắn là virus cúm lây lan qua đường hô hấp và qua tiếp xúc trực tiếp giữa người bệnh với người lành.

Virus nằm sau cuống họng. Khi bệnh nhân ho, hắt hơi là virus bay vào không khí. Hít thở không khí đó, người lành mắc bệnh.

Nên để ý là virus cúm sống tới 24 giờ trên mặt bằng không xốp như nắm cửa ra vào, điện thoại, tiền, dụng cụ văn phòng và trên bàn tay người bệnh. Sau khi che miệng ho, hắt hơi là bàn tay bệnh nhân lúc nhúc những virus cúm. Bàn tay đó mà nắm tay thân tình với người khác sẽ là phương tiện truyền lan virus rất hữu hiệu. Trên vải vóc, chăn màn, virus chỉ sống được vài giờ.

Cho nên, xin có vài đề nghị nho nhỏ để giới hạn virus cúm lan truyền, gây bệnh.

a-Rửa tay

Rửa tay thường xuyên với nước ấm và xà bông, nhất là sau khi lấy tay bụm miệng che mũi khi ho và hắt hơi. Có người đề nghị dùng khuỷu tay che mũi miệng khi làm hai động tác phun virus ra không khí cũng là ý kiến nên theo.

Và cũng rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, trước khi sờ tay lên mặt, mũi, miệng hoặc sau khi viếng thăm người bệnh.

Ngoài bệnh cúm, rửa tay còn phòng tránh được rủi ro nhiễm độc tiêu hóa, hô hấp, cảm lạnh…

Đừng ăn bốc và  cẩn thận khi bắt tay người lạ.

b-Chích ngừa cúm

Mặc dù vaccin ngừa cúm không hoàn toàn bảo vệ với bệnh nhưng cũng giảm thiểu các dấu hiệu và  các biến chứng của bệnh. Người trên 65 tuổi cũng như những ai đang mắc các bệnh mãn tính như tim, phổi, tiểu đường, suy miễn dịch đều cần chích ngừa.

Bắt đầu chủng ngừa từ tháng 10 tới tháng 12, đôi khi tháng Giêng cũng vẫn được vì cúm còn hoành hành tới tháng 3, tháng 4.

Phụ nữ có thai cần chích ngừa để tránh biến chứng của cúm cũng như để truyền tính miễn dịch cho thai nhi, vì bé sơ sanh chỉ được chích ngừa cúm từ 6 tháng tuổi trở lên.

c-Tăng cường khả năng miễn dịch

Bằng vận động cơ thể mỗi ngày, ăn nhiều thực phẩm tự nhiên khác nhau, uống nước và ngủ nghỉ đầy đủ

c-Đừng hút thuốc lá

Vì khói thuốc làm tổn thương niêm mạc lỗ mũi, vi khuẩn đễ dàng vượt rào cản, xâm nhập cơ quan hô hấp.

Nếu với tất cả đề phòng như trên mà chẳng may vẫn bị cúm thì nên cho bác sĩ hay để được điều trị.

 Hiện nay có một số dược phẩm có thể rút ngắn thời gian cúm, nhưng phải uống sớm, khi bệnh chớm phát sinh thì mới công hiệu tối đa.

Ngoài ra, nên nghỉ ở nhà trong thời bị cúm để dưỡng sức cũng như tránh truyền bệnh cho người khác.

Tiện đây xin nói qua về một bệnh thường thấy quanh năm và hay xảy ra vào mùa Đông. Đó là bệnh Cảm Lạnh (Common Cold).

Cảm lạnh gây ra do những virus khác với virus Cúm, có những triệu chứng tương tự, không có thuốc đặc trị và cũng không có thuốc chủng ngừa. May mắn là bệnh tự hết sau mươi ngày nóng , sốt, sổ mũi, ho hen.

Cách truyền bệnh cũng giống virus cúm, cho nên những áp dụng phòng tránh cá nhân với Cúm thì cũng áp dụng được với cảm lạnh.

2- Cóng Giá.

Ở mức độ nhẹ, khí lạnh có thể gây ra buốt giá (frost nip) lớp da ở các phần phơi ra không khí như đầu ngón chân, ngón tay, hai bên má và mũi vì các mạch máu ngoại vi co hẹp. Một cảm giác đau thấu xương với da tê dại, trắng bệch là dấu hiệu thường thấy.

Để chữa buốt giá, chỉ cần phủ vùng gặp rủi ro với nước ấm trong vòng nửa giờ là giải quyết được những tổn thương gây ra do lạnh giá.

Cóng Giá (Frost-bite) thì trầm trọng hơn và có thể nguy hiểm tới tính mệnh

Cóng giá đưa đến mất cảm giác tạm thời hay vĩnh viễn ở bộ phận bị thương tổn.. Mũi, tai, má, cằm, ngón tay, ngón chân là những nơi hay bị cóng giá cắn nhiều nhất.

Nguy cơ cóng giá tăng lên nếu máu bị cản trở hoặc không mặc quần áo đủ ấm khi khí trời rất lạnh.

Thương tổn do lạnh giá có thể ở ngoài da hoặc nằm sâu trong tế bào dưới da.

Khi ở phía ngoài thì da hơi đau, tái, cứng trong khi đó tế bào bên dưới lại mềm.

Khi tế bào dưới sâu bị cóng giá thì da không còn cảm giác, tê dại, cứng ngắc. Nhiều nạn nhân không biết bị cóng giá cho tới khi có người nhìn thấy, cho hay

Cóng giá là một trường hợp cấp cứu, cần được chữa trị tức thì tại bệnh viện.

Trong khi chờ đợi:

a- Đặt nạn nhân vào phòng ấm áp.

b-Ngâm phần bị cứng giá trong nước ấm chứ không phải nước nóng.

c-Không thoa bóp phần bị cóng giá, tránh gây tổn thương thêm cho tế bào.

đ-Đừng hơ bộ phận cóng giá trên lửa hoặc tấm sinh nhiệt (heating pad) vì phần cóng không còn cảm giác, dễ bị phỏng.

Ngón tay cóng giá có thể đặt vào nách là nơi có nhiệt độ thích hợp.

 3-Giảm Thân Nhiệt.

Giảm nhiệt ( Hypothermia) xảy ra khi nhiệt độ trong mình xuống dưới 95°F (35°C). Bình thường là từ 97°F tới 100°F (36.1°C- 37.8°C) .

Khi thân  nhiệt giảm, mạch máu dưới da co lại để tránh thất thoát nhiệt. Cơ bắp bắt đầu co để sinh nhiệt. Nếu nhiệt độ tiếp tục xuống, cơ thể bắt đầu rùng mình run. Nếu nhiệt độ tiếp tục xuống dưới 90°F thì tính mạng lâm nguy.

Có nhiều nguy cơ đưa tới giảm nhiệt độ: nhà không được sưởi đủ nóng; ăn không đủ chất dinh dưỡng ; uống nhiều rượu; có bệnh kinh niên về tim, gan, tuyến giáp trạng; đang mắc bệnh nhiễm trùng; do tác dụng của một số dược phẩm; ở ngoài lạnh quá lâu; mặc quần áo không đủ ấm; mới gặp tai nạn hay té xuống nước; người sống cô đơn, túng thiếu.

Giảm nhiệt có thể xẩy trong vòng một vài giờ, tùy theo số lượng hơi nóng mất đi nhiều ít.

Nạn nhân thấy mệt mỏi, lờ đờ, tâm thần rối loạn, nói ngượng nghịu, người lạnh giá, cơn run rẩy rùng mình, ngón chân ngón tay lợt lạt, cử động khó khăn, cơ thịt cứng nhắc, người lạnh toát.

Nhịp tim và hơi thở lúc đầu nhanh sau đó chậm dần. Giảm nhiệt ảnh hưởng tới não bộ, nạn nhân kém nhận thức, ứng phó  khó khăn với các rủi ro và có thể rơi vào tình trạng hôn mê.

Giảm nhiệt là một vấn đề sức khỏe trầm trọng cần được cấp cứu tức thì tại bệnh viện điều trị để tránh các biến chứng hiểm nghèo có thể xảy ra.

Trong khi chờ đợi, đặt nạn nhân nằm nơi ấm áp, kín gió; sưởi ấm ngực, cổ, đầu và bẹn với chăn thường hoặc chăn điện.

Đừng nâng cao chân nạn nhân vì làm vậy sẽ dồn máu về phần trên của cơ thể khiến chân bị băng lạnh nhiều hơn.

Cũng như các rủi ro bệnh tật khác, sự phòng ngừa là quan trọng. Mà cũng chẳng đòi hỏi nhiều công sức, chỉ một vài để ý, lưu tâm:

a- Kiểm soát nhà coi lấp kín các khe hở làm mất nhiệt mà hơi lạnh lại lùa vào.

b- Giữ nhiệt độ trong nhà không nóng quá, khoảng 72° F là vừa. Cao quá, da khô ngứa, dễ chẩy máu cam. Mặc thêm tấm áo len hồng người yêu mới tặng, vừa đẹp vừa ấm lòng cả hai.

c- Mặc quần áo nhiều lớp, không bó sát quá để máu lưu thông và thoáng khí. Không khí là lớp cách nhiệt rất tốt.

đ- Khi ra ngoài lạnh, nên mặc quần áo nhiều lớp: trong cùng là loại vải hút hơi ẩm như lụa, polypropylene; lớp giữa là hàng len giữ nhiệt trong cơ thể; lớp ngoài vừa giữ nhiệt vừa chắn gió, ngăn nước.

e- Một phần tư nhiệt trong cơ thể bay đi ở đầu nên ta cần đội nón nỉ, che kín đầu và tai, kẻo lạnh quá rụng mất chỗ đeo khuyên vàng.

g- Che chở bàn tay, bàn chân bằng tất và bao tay.

h- Khi ra ngoài lạnh, che mũi miệng để khỏi mất nhiệt qua hơi thở.

i- Nếu quần áo, cơ thể bị ướt thì cần lau khô, thay quần áo ngay. Đồ ướt làm mất rất nhiều nhiệt của cơ thể.

k- Dự trữ thêm một cái mền trong phòng ngủ, phòng khách để khi cần thì đã có sẵn mà dùng.

l- Ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng. Mùa Đông cần nhiều thực phẩm hơn để có nhiều nhiệt năng. Uống nước ấm như trà, cà phê, nước chocolate vừa làm ấm người vừa mang thêm chất lỏng cho cơ thể. Về mùa lạnh cũng như mùa nóng, cơ thể vẫn đổ mồ hôi nên vẫn cần tiêu thụ  nước đầy đủ.

m- Tránh uống nhiều rượu vì rượu làm giảm nhiệt độ cơ thể. Nhiều người cứ nói” làm cốc rượu cho nóng người”. Thực tế là có nóng một lúc rồi người lạnh toát ngay.

n- Hỏi bác sĩ hoặc nha sĩ xem các thuốc mình đang uống có ảnh hưởng tới thân nhiệt không.

o- Nếu sống một mình thì nên sắp xếp để có bà con, bạn bè thỉnh thoảng hỏi thăm xem mình ra sao.

p- Người cao tuổi đừng cho là mình không bị giảm nhiệt nếu ta không cảm thấy lạnh. Ở nhóm người này cơ chế điều hòa thân nhiệt không còn nhậy cảm như khi còn trẻ.

q-Trẻ em dưới một tuổi không nên để ngủ trong một phòng lạnh một mình vì em bé mất nhiệt dễ hơn người lớn đồng thời các em cũng khó thích nghi với nhiệt độ quá lạnh.

4-Da khô

Có nhiều lý do khiến cho da trở nên khô và ngứa vào mùa Ðông:

-Với thời tiết lạnh, nhiều người thích ngồi bên bếp lửa hồng, nhâm nhi ly trà xanh hoặc ly cà phê nóng. Nhiệt độ trong nhà cao, không khí lại khô khiến cho độ ẩm trên da bốc hơi, da trở nên khô và ngứa.

            -Khi ra ngoài trời lạnh, mạch máu ngoại vi co lại, máu lưu thông kém, da thiếu dưỡng khí, dưỡng chất cho nên cũng khô teo, nứt nẻ.

-Các tuyến nhờn không tiết ra đủ chất nhờn để da ẩm.

-Do di truyền.

-Kém dinh dưỡng nhất là thiếu sinh tố A và các sinh tố B.

-Môi trường xung quanh như ánh nắng, khí lạnh, hóa chất, mỹ phẩm, tắm nhiều với xà bông mạnh.

-Các bệnh ngoài da như viêm da, vẩy nến.

-Bệnh nội khoa như nhược tuyến giáp; biến chứng tiểu đường.

-Tác dụng phụ của một số dược phẩm như thuốc lợi tiểu, thuốc chống dị ứng.

 

Sau đây là một số điều nên áp dụng để tránh da bị khô ngứa:

a-Theo ý kiến nhiều người, về mùa Ðông, ta ít đổ mồ hôi lại mặc quần áo kín, cơ thể tương đối ít bụi bậm, cáu ghét cho nên cũng chả cần tắm rửa mỗi ngày. Nhưng cần lau rửa những vùng hấp hơi, ẩm nóng.

b-Khi tắm không nên kéo dài quá mươi phút và tắm với nước vừa ấm, thoa xà bông ở các vùng bí hơi như nách, hạ bộ, hậu môn, bàn tay bàn chân. Nước quá nóng tắm quá lâu sẽ lấy đi các chất nhờn bảo vệ da và làm da mau hư và khô.

c-Sau khi tắm, lau nhẹ những giọt nước trên mình với tấm khăn mềm, thoa vỗ nhẹ để giữ độ ẩm càng nhiều càng tốt rồi bôi kem ẩm lên da. Ðừng chà sát mạnh đến đỏ da như nhiều người thường làm gọi là cho máu lưu thông, nóng mình. Chà mạnh làm mất chất nhờn trên da và gây tổn thương cho tế bào da. Khi da còn ẩm bôi kem tăng ẩm phủ lên trên để giữ một chút nước.

d-Da mặt:

Không nên dùng xà bông hoặc mỹ phẩm lau mặt quá mạnh để tránh mất độ ẩm và chất dinh dưỡng trên da.

Thoa kem buổi sáng và buổi tối nhất là chung quanh mắt và trán nơi có nhiều vết nhăn. Da khô làm đường nhăn trên mặt nổi rõ hơn vào mùa Ðông.

Trước khi đi ngủ nhớ lau hết phấn son trên mặt rồi bôi kem dưỡng da.

e-Dùng xà bông nhẹ ít chất tẩy detergent để tránh kích thích da;

g-Bôi kem mềm ẩm da nhiều lần trong ngày;

h-Ðừng hút thuốc lá vì nicotine làm mạch máu co hẹp, giảm lưu thông máu tới các tế bào, chất dinh dưỡng và oxy ít đi

i-Tránh ánh nắng gay gắt. Bôi kem chống tia tử ngoại khi ra ngoài trời nắng gắt.

k-Khi chạy lò sưởi trong nhà, không khí rất khô làm da bị khô và ngứa. Nên dùng một máy giữ độ ẩm trong phòng. Nhiệt độ trong nhà nên giữ mức vừa phải, đừng quá nóng.

l-Mặc quần áo nhẹ nhiều lớp để tránh quá nóng đổ mổ hôi cho cơ thể.

m-Mang bao tay, đội mũ khi ra ngoài lạnh để da khỏi bốc hơi nước.

n-Ngoài ra, muốn da tốt ta nên ngủ đầy đủ và vận động cơ thể mỗi ngày. Ngủ để giúp các tế bào có thì giờ tái tạo, tu bổ hư hao. Vận động giúp máu huyết lưu thông để nuôi dưỡng da.

Về kem tăng ẩm da, nhiều người thích loại có chất Alpha hydroxy acid lấy ra từ rượu vang đỏ, sữa chua va trái cây. Chất này kích thích tế bào da tăng sinh mạnh, làm da se mịn.

Da mỗi người có độ acid/kiềm khác nhau, nên cần nhờ chuyên viên thẩm mỹ thử và hướng dẫn loại kem ẩm thích hợp.

Các tinh dầu thực vật rất tốt để giữ da ẩm. Dầu Avocado đặc rất thích hợp cho da khô thiếu nước; dầu cà rốt: tốt cho da bị ngứa, rát; dầu castor: tốt cho da bị khô nứt.

Kết luận

Đành rằng mùa Đông mang một số rủi ro cho sức khỏe, nhưng, như thi sĩ Anne Bradstreet (1612-1672) đã nói :

“ Nếu không có mùa Đông thì mùa Xuân đâu có trở thành hấp dẫn: đôi khi nếu không nếm những hoàn cảnh bất lợi, thì sự phồn vinh đâu có được nồng hậu đón tiếp”.

Hoặc nhận xét của nhà văn kiêm chuyên gia trồng tỉa Ruth Stout 1884-1980):

“Có một sự riêng tư mà không  mùa nào mang tới cho ta được… Vào mùa Xuân, mùa Hạ và mùa Thu, con người có thời gian mở rộng cho nhau; chỉ riêng trong mùa Đông, ở một vùng quê, ta có thể có một một khoảng thời gian dài yên tịnh để tận hưởng mình thuộc về mình”.

Còn tác giả kiêm nhà báo Mignon McLaughlin (1913-1983) có ý kiến là:

“Xuân, Hạ và Thu tràn ngập ta với những niềm hy vọng, chỉ có Đông mới nhắc nhở ta về thân phận con người”

Chắc là bà muốn nói tới sự mỏng manh, dễ bị đổi thay của con người trước những phũ phàng khắc nghiệt của thời tiết, thiên tai.

Dù thân phận đó như thế nào, nhưng sự sống vẫn là quà tặng của tạo hóa. Hãy tận hưởng đời sống đó với nhiều tích cực, nhiều niềm vui và nhiều biết ơn.

Vì “ Xưa nay Nhân định thắng Thiên cũng nhiều”

 

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 11/Sep/2014 lúc 9:45am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 15/Sep/2014 lúc 8:34am
     9 điều "không nên" uống nước
 

1. Nước vừa đun sôi uống liền

Uống nước đun sôi là thói quen tốt, nhưng bạn có biết không thể uống nước ngay khi nó vừa được đun sôi? Bởi nước sinh hoạt chúng ta dùng hàng này đều đã thông qua khử trùng bằng clo, mà clo kết hợp với chất hữu cơ sẽ lưu lại trong nước, sinh ra các hợp chất gây ung thư như halogen hóa hydrocacbon, chloroform.
Khi đun nước, bạn nên chú ý 3 điều:

-Sau khi lấy nước vào ấm nên để một lúc rồi hãy đun;
-nước sắp sôi thì mở nắp ra;
- cuối cùng, đợi nước sôi sau 3 phút mới tắt bếp.
Làm đúng quy trình này sẽ giúp lượng clo trong nước giảm đạt mức tiêu chuẩn an toàn. Đấy mới gọi là nước sôi "chính hiệu" bạn ạ.

2. Không bao giờ rửa bình lọc nước

Nước đóng bình hay bình lọc nước vốn được sử dụng rất nhiều không chỉ trong gia đình mà còn ở các nơi công cộng, nhưng thường mọi người chỉ uống chứ ít khi nghĩ đến chuyện... cọ rửa chúng cho sạch định kỳ. Nước trong bình lọc nhìn tưởng là sạch nhưng thực tế, mức độ ô nhiễm rất nghiêm trọng.
Lời khuyên của các chuyên gia là tốt nhất bạn nên rửa bình lọc nước mỗi tháng 1 lần, mùa hè 2 tuần một lần.

3. Uống nước đun lại nhiều lần

Ngày nay, các gia đình dùng nước đun bằng ấm điện ngày càng nhiều, có những gia đình do đun nước sôi, nhưng uống một lần không hết, đến lúc nguội lại tiếp tục đun sôi để uống tiếp mà không hề biết rằng, nước đun sôi lại nhiều lần đặc biệt không nên uống.

4. Thích dùng nước đóng chai

ước đóng chai khá thuận tiên, mở nắp là có thể uống, nên ngày càng được mọi người ưa dùng. Tuy nhiên, vỏ chai đóng nước có chất liệu là nhựa PET, thường có chứa chất dễ khiến cơ thể bị nhiễm độc mãn tính. Đặc biệt là khi nước đóng chai để ở nhiệt độ cao, hoặc sau khi mở nắp không uống hết kịp thời. Vì vậy, nếu bạn vẫn thích uống nước đóng chai, bạn nên nhớ không được để nước ở môi trường nhiệt độ cao, phơi dưới ánh sáng mặt trời, hoặc để ở cốp xe.

5. Đợi khát mới uống

Đợi đến khi khát khô cổ họng mới bắt đầu tiếp nước cho cơ thể thì lúc ấy cơ thể của bạn đã bị mất 1% nước rồi. Uống nước không phải chỉ để thỏa mãn cơn khát, mà còn để góp vào quá trình tham gia trao đổi chất, để cơ thể hô hấp dễ dàng hơn.
Thời gian dài thiếu nước sẽ làm gia tăng độ đặc của máu, dẫn đến bệnh tim, huyết quản.
Ngoài ra, càng không chú ý uống nước, thói quen uống nước sẽ ngày càng ít, cơ thể người sẽ ngày càng khô. Cho nên bất kể khát hay không, bạn đều cần kịp thời thêm nước cho cơ thể.

6. Uống nước có ga thay nước

Nước trắng không có vị, chi bằng uống các loại nước khác thích hơn, rất nhiều người vì thế đã chọn các loại nước uống có ga, chứa chất kích thích để dùng thay thế nước, vô tình tốn tiền mua bệnh vào người.
Nước có ga không có tác dụng thêm nước cho cơ thể, mà nó còn làm giảm sự ngon miệng, giảm ham muốn uống nước, ảnh hưởng đến hô hấp và tiêu hóa. Nếu nhất định phải uống nước có vị, bạn cũng cần tuân theo thể chất cơ thể để có những thay đổi thích hợp.

Như người bị táo bón nên uống nước mật ong hoặc nước ép rau quả, để tăng sự họat động của ruột; còn người bị dạ dày, lạnh bụng, cần ít uống trà tính lạnh, hoa quả, nên uống nhiều trà ấm, như trà gừng chẳng hạn…

7. Ngủ dậy không uống nước, đến già mới hối hận

ỗi sáng ngủ dậy việc đầu tiên bạn cần làm là uống một cốc nước. Thực sự, cốc nước buổi sáng có ý nghĩa "cứu mạng" rất lớn, mọi người nên hết sức chú ý.
Cơ thể sau một đêm trao đổi, chất thải trong cơ thể cần được rửa sạch. Hơn nữa, một cốc nước sẽ làm giảm độ đặc của máu, giúp tăng cường khả năng lưu thông máu của cơ thể.

8. Ăn mặn xong không uống nước ngay

Ăn quá mặn sẽ dẫn đến huyết áp cao, cũng có thể làm cho sự tiết nước bọt giảm, miệng bị niêm mạc phù nề… Nên sau khi ăn mặn, bạn cần uống nhiều nước, tốt nhất là nước khoáng đơn thuần hoặc nước chanh, không nên uống sữa và nước uống có đường, bởi thành phần đường cũng sẽ làm tăng khát. Sữa đậu nành cũng là sự lựa chọn khá tốt, bởi trong đó có trên 90% là nước.

9. Trước khi đi ngủ không uống nước

rước khi ngủ không cần phải uống quá nhiều nước, nhưng nên uống một hai ngụm nhỏ. Khi ngủ, do thành phần nước trong cơ thể mất đi, khiến cho nước trong máu giảm, độ dính của máu tăng cao. Ngoài ra, vào những ngày khô, nước còn có tác dụng làm nhuận đường hô hấp, giúp bạn ngủ ngon hơn.

st.

Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 190 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 1.445 seconds.