Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Thơ Văn | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn |
Chủ đề: NHÓM THƠ 20 GÒ CÔNG | |
Người gởi | Nội dung |
đông quyên
Senior Member Tham gia ngày: 04/Jun/2007 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 267 |
Chủ đề: NHÓM THƠ 20 GÒ CÔNG Gởi ngày: 27/May/2008 lúc 11:03pm |
THỨC VỚI ĐƯỜNG THI
Ngỡ mình là Hạ Tri Chương*
Rời nhà đến tóc đẫm sương mới về
Hồn quê lắng đọng giọng quê
Bao năm hóa giải bùa mê phố người
Bao năm thương tiếc bóng ngồi
Dẫu rơi không vỡ, dẫu trôi không chìm
Ngỡ mình là Lý Trích Tiên**
Dãi thân phiêu bạt nỗi niềm ly hương
Ánh trăng trông ở trước giường
Tưởng là mặt đất ánh sương bềnh bồng
Ngẩng đầu lên ngắm trăng trong
Cúi đầu chợt chạnh chút lòng quê xa
Nỗi người hay chính nỗi ta
Vạc kêu cuối lũng, mù sa bên ngàn...
Phút nào "nhật mộ hương quan"***
Ngỡ mình Thôi Hiệu chơi Hoàng Hạc Lâu
Hạc xưa vút cánh đẩu đâu
Thơ buồn ở lại... từng câu lại về...
Đượm tình "phương thảo thê thê"
Hạc vàng, mây bạc...vẳng về đâu đây!
Ai người trôi giạt xa quê
Nổi chìm chợt tỉnh cơn mê thu vàng
Cùng ta khơi bếp lửa tàn
Thâu đêm thức với bàng hoàng Đường thi.
TRẦN NGỌC HƯỞNG
Nhóm Thơ 20 - GÒ CÔNG
* Hạ Tri Chương và bài "Hồi hương ngẫu thư"
** Lý Bạch với bài"Tĩnh dạ từ"
*** Thôi Hiệu với bài "Hoàng Hạc lâu"
Chỉnh sửa lại bởi trankimbau - 22/Jan/2014 lúc 11:00pm |
|
bx
|
|
IP Logged | |
trankimbau
Moderator Group Tham gia ngày: 02/Jun/2007 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 424 |
Gởi ngày: 29/May/2008 lúc 9:46am |
Tặng Trần Ngọc Hưởng và những Nhà Thơ
Có những người ta mến phục
Biết thả hồn theo đôi bờ hư thực
Đưa tay sờ soạng trái tim
Nặn những giọt máu đau thương và hạnh phúc
|
|
kb
|
|
IP Logged | |
đông quyên
Senior Member Tham gia ngày: 04/Jun/2007 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 267 |
Gởi ngày: 07/Jun/2008 lúc 8:43pm |
NGỌN GIÓ GẬP GHỀNH
Thổi suốt đường về xứ bậu
Gập ghềnh ngọn gió bậc thang
Lên đồi xuống dốc dọc ngang
Khựng bước bất ngờ quán lạ
Bậu bẹo hình hài lơi lả
Đón mời rao bán dung nhan
Giấu chi một chút bẽ bàng
Môi má nhạt nhòe son phấn
Phẩm tiết đổi đồng tiền bẩn
Mơ hồ chân giả thực hư
Quẩn quanh nước đọng ao tù
Khóe mắt đầu mày vờ vĩnh
Sặc sụa hơi men sực tỉnh
Phút nào bậu có lắng nghe
Mảnh lòng trống lạnh khôn che
Run rẩy đồng tiền bất lực...
Thổi tận ngỏ sâu ký ức
Gập ghềnh ngọn gió lòng qua
Nhớ về bậu lại xót xa
Quán lạ lênh đênh bèo giạt...
TRẦN NGỌC HƯỞNG
Nhóm Thơ 20 - Gò Công
Chỉnh sửa lại bởi đông quyên - 07/Jun/2008 lúc 8:44pm |
|
bx
|
|
IP Logged | |
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member Tham gia ngày: 16/Jan/2008 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 1332 |
Gởi ngày: 09/Dec/2009 lúc 1:49am |
12g55 trưa ngày 09/12/09 tại hội trường thư viện KHTH Sài Gòn (69 Lý Tự Trọng), đang giờ nghỉ trưa, checkmail và thật cảm động với bài thơ CÂU THỀ NGÀY XƯA của tác giả Trần Ngọc Hưởng; bài thơ có ghi "thơ gởi gocong.com".
Xin "huờn châu hợp phố".
Câu thề ngày xưa Gò Công chẳng ở đâu xa Ở ngay giữa nhịp tim ta bồng bềnh Nổi chìm giữa đáy mắt em Giữa ngày quấn quýt, giữa đêm bồn chồn Da chưa lành sẹo trong hồn Trách chi trăng mật bỏ buồn riêng ta Gò Công chẳng ở đâu xa Ở ngay giữa nhịp tim ta phập phồng Chập chờn ngày nhớ đêm mong Hồn thơ khép mở ai chong mắt chờ Một mình đất lạ bơ vơ Ta đem nửa mảnh tình xưa ráp đầy Gom bao kỷ niệm lên tay Mời em về lại đây ngày xa xưa Bao năm ngậm ngải phải bùa Bến xuân thổn thức ai khua mái chèo Yêu người chẳng được người yêu Góc trời nửa mảnh trăng treo...nhạt nhoà Gò Công luôn ở bên ta Dẫu bao bồi lở vẫn là quê hương Câu thơ thao thiết về nguồn Để ta gồng gánh nhớ thương cùng về Con đường oằn ngoặt lối quê Với tay chạm phải câu thề mới nguyên Trần Ngọc Hưởng Ta về Tặng Trần Anh Tài Về thôi, về với Gò Công Giao thừa có kịp để không lỗi thề Hưởng ba ngày Tết thoả thuê Giãn công giãn việc mà về nghe em! Tạm rời xa chốn bon chen Ta về với cõi bình yên tâm hồn Đã trôi giạt khắp phố phường Vẫn đau đáu nhớ con đường quê xưa Ta về mò ốc móc cua Thương người dãi nắng dầm mưa tảo tần Ngó sen ngân ngấn chân trần Hỏi muối muối mặn, hỏi gừng gừng cay! Ta về say thật là say Ngõ thơm hoa bưởi trắng đầy hoa cau Đường làng vắng nghé lẻ trâu Đâu quai nón tuột đâu câu hẹn hò? Ta về tìm lại cánh cò Liêu xiêu ông lão lái đò bên sông Ánh trăng ràn rụa mặt đồng Rạ rơm cỏ dại… nhói lòng hương quê Ta về, em nhé, mình về Phố người mấy đận ủ ê đã nhiều Khúc tình xanh, gió chiều reo Đắm trong tình nghĩa thương yêu đậm đà! Trần Ngọc Hưởng |
|
hoangngochung@ymail.com
|
|
IP Logged | |
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member Tham gia ngày: 16/Jan/2008 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 1332 |
Gởi ngày: 09/Dec/2009 lúc 1:56am |
Từ chín dòng sông vọng cổ – Trần Ngọc Hưởng“Hòa âm điền dã” trong thơ Trần Ngọc Hưởng Có tập thơ đến với ta như một người tình xa lạ, ta đọc nó như khám phá, chinh phục một đỉnh núi cao đầy hào hứng, ngoạn mục nhưng cũng lắm khi cảm thấy mệt nhoài. Lại có tập thơ đến với ta như một người tình cũ, tuy lâu ngày gặp lại, nhưng vẫn ẩn hiện những nét gần gũi, thân quen, ta đọc nó như cùng người đi dạo dọc theo những con đường, bờ sông kỷ niệm, và trên từng chặng nhàn du, ta cũng như gặp lại chính tuổi trẻ mình. Với tôi, tập thơ Từ chín dòng sông vọng cổ của Trần Ngọc Hưởng là thuộc vào trường hợp thứ hai. Sở dĩ tôi nói như vậy vì tôi đã đọc thơ Trần Ngọc Hưởng từ khi còn học ở một trường huyện miền Trung và là độc giả của báo Tuổi Hoa mà anh là cộng tác viên thường xuyên. Trần Ngọc Hưởng hồi đó là một cây bút của Nhóm Thơ 20, cùng với Dạ Huyền, Đan Dạ Uyên, Trần Anh Tài, Như Uyên Thuỷ… Đây là bút nhóm xuất phát từ Gò Công vào giữa những năm 60 mà tác phẩm đã được giới thiệu khá rộng rãi trên các nhật báo và tạp chí thời đó: Dân đen, Diễn đàn, Cảo thơm, Thế giới, Tin điển, Tin sống, Tin, Phụ nữ Việt…. Từ miền Trung, qua thơ Trần Ngọc Hưởng và các thi sĩ miền Nam đương thời, tôi cảm nhận được tình người và hơi thở đất đai vùng đồng bằng sông Cửu. Nhưng phải đến khi vào sống ở vùng đất này, tôi mới thực sự lý hội được vẻ đẹp của sự chân thành và giản dị trong thơ các anh. Khác với văn xuôi, cảm nhận về thơ hình như cần có một bầu khí tình cảm riêng nào đó. Chẳng hạn chỉ đến khi đi về dạy học ở miền Tây, đứng trên chuyến phà qua sông Tiền dạo cầu Mỹ Thuận chưa xây, tôi mới hiểu được những điều ẩn chứa trong mấy câu thơ Trần Ngọc Hưởng: Bồng bềnh mấy dải sông trôi, Thơ Trần Ngọc Hưởng vốn hiền lành, sóng có réo cũng chỉ là sóng nhỏ và tình có khát cũng chỉ là khát thầm. Nhưng ai bảo con sóng đó, cơn khát đó không âm ỉ đến nao lòng! Cảm giác của tôi khi đọc thơ Trần Ngọc Hưởng giữa màu khói đốt đồng hay mùi phù sa sông Tiền không giống cái cảm giác như ngày xưa, khi là cậu học trò xứ Quảng đọc trên trang báo mà tưởng tượng về đồng bằng Nam bộ. Nó cũng gần giống như khi tôi nghe một bài vọng cổ qua giọng ca “cải lương chi bảo” giữa đất Sài Gòn vẫn không xúc động bằng một buổi trưa hè kia trong căn nhà gần bờ biển Dương Tơ, Phú Quốc, nghe tiếng xuống xề của một bà mẹ trẻ ru con mà thấy gai lạnh vì cảm thấu nỗi lòng của người xa xứ. Trần Ngọc Hưởng quê ở Gò Công, tốt nghiệp trung học rồi lên Sài Gòn vào đại học, ra trường về Long An lập nghiệp, dựng xây tổ ấm. Từ Tân An về Gò Công đâu mấy khúc đường, vậy mà nỗi cách trở làm ray rứt hồn anh, người tự ví mình như kẻ lỡ “ăn phải bùa mê thị thành”: Mười năm khuất một nẻo về, Không lạ gì, khi sông Tiền, Cầu Nổi, Gò Công, Mỹ Tho, Vĩnh Bình… cứ mãi hiện về trong thơ anh như một nguồn suối mát múc hoài không cạn nước. Anh viết về ngôi trường tỉnh lỵ: Nhớ trang vở cũ thương trường tỉnh, Làm ta liên tưởng đến hai câu thơ trong bài Trường huyện của Nguyễn Bính: Lòng ta nhớ mãi thương ngày đó Trần Ngọc Hưởng tin, và ta cũng tin cùng với anh, là bao lâu anh còn cầm bút, thì bấy lâu anh còn cho ra đời những câu thơ viết về quê mẹ: Tôi còn gửi tặng ngàn câu Đó là ánh nắng toả xuống trên dòng sông Tiền, cũng là ánh nắng phản chiếu vào lòng anh và toả ra trên những dòng thơ anh. Như cách nói của Trần Ngọc Hưởng, đó là cái “hồn rơm rạ” vẫn đi theo anh qua những nẻo đường quê, lạc vào chốn thị thành: Xa lâu ngày lạc mất quê Cho nên dù viết về quê hương mới Tân An, về Cần Thơ, Đồng Xoài, Vĩnh Hưng, Cần Giuộc, Đức Hoà hay Mộc Hoá…, thơ Trần Ngọc Hưởng vẫn thoảng mùi hương thơm rơm rạ và ánh lên màu nắng mơ tan đó. Để mượn lại nhan đề một tác phẩm của André Gide, có thể nói thơ Trần Ngọc Hưởng cũng là một khúc “hoà âm điền dã”. Đường thơ của anh đi xa hơn, về với sông Hồng, sông Hương vẫn mang theo tâm hồn ấy, tâm thức ấy của một nhà thơ đồng bằng sông Cửu Long: Tôi mang đủ chín dòng sông Nhưng đừng ai nghĩ rằng trên hành trình thơ của mình, cảm hứng và tình điệu thơ Trần Ngọc Hưởng không hề thay đổi. Khi viết về Huế, chẳng hạn, cảm hứng thiên nhiên của anh được thể hiện khác hẳn và quan trọng hơn là cảm nhận về chính bản thân mình cũng không còn như cũ: Lá vèo trước cổng vào thu Hẳn nhiên cái tâm thức “đôi phần quạnh hiu” đó ta không dễ tìm trong những bài thơ viết giữa đồng bằng lộng gió. Có thể nói con người Trần Ngọc Hưởng sinh ra là để cho thơ. Đời anh miệt mài làm thơ, hoạ thơ, bình thơ. Từ khi được thi sĩ Kiên Giang giới thiệu trong mục “Mái nhà thơ” trên báo Tia sáng năm 1964, đến khi được thi sĩ Trinh Đường chọn in trong tuyển tập Thơ Việt thế kỷ XX, Trần Ngọc Hưởng đã trải qua một chặng đường dài của sáng tạo, với không ít giải thưởng văn chương. Nghề nghiệp và năng khiếu đã giúp anh trở thành một trong những người bình thơ cổ điển và hiện đại có uy tín trong nhà trường. Thơ, với Trần Ngọc Hưởng như nước uống, như khí trời. Không sợ quá lời nếu nói rằng anh không thể sống mà thiếu thơ. Tôi đặc biệt thú vị với những bài cảm tác về những nhà thơ tiền bối. Anh có một cách riêng để thâm nhập và phác hoạ những thế giới nghệ thuật đã gián cách qua thời gian. Trong tập này, cũng như tập Chân dung thơ trước đây, khi viết về Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử…, Trần Ngọc Hưởng đã tìm được một ngôn ngữ tương thích với phong cách của nhà thơ. Xin dẫn vài khổ thơ trong bài Trăng Phan Thiết làm thí dụ: Tiếng sóng gào man dại Nhưng dù có thỉnh thoảng đi xa khỏi chính mình, Trần Ngọc Hưởng vẫn sớm quay về với bản thân anh. Người đi xa lâu ngày, khi trở về, có ai hỏi cũng bảo chỉ quê mình là đẹp nhất. Huống chi Trần Ngọc Hưởng, cả đời gắn bó với mảnh đất đã nuôi nấng thơ anh, nuôi nấng tình yêu của anh. Đọc Trần Ngọc Hưởng, ta cầu cho tình yêu và tình thơ đó suốt đời được nuôi dưỡng và đơm hoa kết trái. Huỳnh Như Phương TỪ SUỐI NGUỒN XANH Hơn 30 năm nay, chưa từng đọc hết một tập thơ. Cũng một phần nào vì hoàn cảnh. Một người suốt mấy mươi lăm lao động cực nhọc thì “cơm áo không đùa với khách thơ” cũng là sự thường tình. Chiều nay, đi đồng về thấy trên bàn có một tập thơ : “Chắc có lẽ con gái đem về từ đâu đó; cô bé muốn ba phải đọc chăng”. Thoáng mở thấy 99 bài tứ tuyệt lại đắn đo. Một lượng thơ khổng lồ chỉ trong một tập thơ khiến người muốn đọc cứ ngại ngần. Bỏ qua những lời giới thiệu đập vào mắt là “Gánh nặng đường chiều”; chữ dùng thấy quen quen – Phải rồi “Đường xa gánh nặng” biểu trưng của nhà thơ Sông Đà Núi Tản giáo chủ của đạo “Thiên Lương”. Đọc qua bài thơ và tự nhủ lòng nên đọc nghiêm chỉnh và ghi ra giấy những gì hiểu được gọi là chút lòng thành trân trọng với tâm huyết người thơ. Bốn câu thơ đã làm khơi dậy hồi ức thuở ấu thơ bên dòng sông Vạn thẩn thờ đón mẹ buổi chiều sương. Đường xa, bóng xế mẹ thường dọn hàng khi hồi chuông Thiên Mụ gõ tiếng đầu tiên. Đường làng Kim Long, Phú Xuân, Vạn Xuân ngày xưa lợp toàn cây lá. Mẹ oằn vai gánh nặng liêu xiêu trong bóng chiều nhạt nhòa nôn nóng về nhà với lũ con thơ trước khi tiếng cuối cùng của hồi chuông chấm dứt. Hình ảnh mẹ ngày ấy chính là : Chợ tan ngày xuống liêu xiêu, Và cứ thế, năm qua tháng hết, sáng tinh mơ, chiều tối lặng, mẹ đã vấp ngã biết bao lần giữa hai hồi chuông triêu mộ. Hồi chuông giục giã, khuyến khích kẻ tục trần men mùi đạo và chính hồi chuông bổng bay thanh thoát đó cũng đày ải bao kẻ thương sinh ! Nhịp mỏ nay, tiếng chuông xưa; thân phận của mẹ ta sao mà da diết. Cái vấp ngã ở đây phải chăng đó chính là thân phận của bào ảnh nhân sinh hay thực thể của kiếp người nhân thế. Đi qua nhịp mõ chùa xa .. Xin cảm ơn nhà thơ những đêm “thắc thỏm mộng” đã khơi dậy cho người đọc những xuyến xao, thao thức cõi hoang tàn vắng lạnh thê lương mà vốn dĩ vì cơm áo mưu sinh đã chai lò theo năm tháng. Hương tàn khói lạnh … khu nhà cũ Chỉ 14 chữ rất bình thường nhưng vẽ được một bức tranh thủy mặc tiêu điều, ảm đạm làm da diết hồn người. Nhớ thuở thiếu niên đọc trong “Tang thương …” bài thơ cổ vô danh thường cho là khó có cảnh nào sầu thảm hơn : Bước qua “Trăng quê” tâm tư nhà thơ đang khắc khoải giữa hoa đèn phố thị. Cảm nhận được cái bức rức, quay quắt xốn xang của nhà thơ với ánh trăng vàng chốn cũ – Người đọc cũng từng thèm một ít sợi vàng, sợi trắng để trung hòa bớt cái nhợt nhạt, kiêu kỳ của ánh điện vàng chói chang chốn thị thành hoa lệ – ở đây xin cảm nhận sự chung thủy và tâm hồn nhã đạm của nhà thơ qua mấy câu : Sao lòng ai cứ xốn xang Phải nhận ra rằng ở đây nhà thơ cùng Tố Như chính là những tri âm. Cũng tiếc cho nhà thơ không sinh cùng thời để cùng với thiên tài so lời hoa gấm. Cũng trong cảnh xa quê và quay quắt với vầng trăng chốn cũ tâm sự của Tố Như có khác chi. Một đời gió bụi khuya thao thức Và có lẽ đoạn trường tân thanh được thai nghén trong những “khuya thao thức” đó và phiên bản cuộc đời Tố Như được thể hiện qua thân phận nàng Kiều với mười lăm năm phong trần gió bụi, đắm nguyệt chìm hoa mà: Ngỡ ngàng đến “Tình si” với câu : Người đọc rất thích hai từ “ướt lệ”. Ngoài sự đồng cảm với vị quân vương tài hoa lãng mạn còn chứng tỏ nhà thơ giàu lòng nhân ái và nhiều tài hoa trong ngữ nghĩa ngôn từ. Trong văn chương nhiều người đã sáng tạo nhiều từ như “từ lệ”, “dư lệ”, “thùy lệ”, “nghiêm lệ”, “u lệ”; còn từ ướt lệ đã được sử dụng nhiều nhưng cũng chỉ cho một nghĩa ướt + lệ (tính từ + danh từ). Ở đây có thể chẻ đôi từ “ướt lệ” và câu thơ này tùy theo cảm nhận mà có các cách đọc khác nhau. Nói đến “tình si” lại gặp nhà thơ si tình Phạm Thái. Viết đến đây trước mắt người đọc hiện lên hình ảnh chàng thi sĩ đa tình dưới lốt nhà sư, vai mang bầu rượu đang quỳ trước mộ Quỳnh Như kể lể “ta hăm hở chí trai hồ thỉ, bởi đợi tình cho nấn ná nhân duyên; mình long đong thân gái liễu bồ, vì giận phận hóa ngang tàng tính mệnh” và tâm đắc với câu thơ táo bạo rất mới của nhà thơ. Chẳng mê chuông mỏ hay kinh kệ Nhà sư “niệm tình”, “niệm rượu” ý tưởng lạ chẳng kém gì “Bồ tát Lỗ Trí Thâm niệm mộc tồn”. Tóc cũng sổ bung theo sóng biển Thì người thơ đã thả hồn mình vào đó. Ở đây có một sự đè nén, dồn ứ của tâm thức lãng mạn, một sự nôn nao chờ đón để rồi vỡ òa khi Tóc bay để mặc, em đừng buộc Sao lại không ghen được, gió thường suồng sã và hay trêu hoa ghẹo nguyệt. Đã từng có Anh lo bỗng chốc thành hư ảo Mây theo gió và biết đâu một ngày lỗi hẹn em quên luôn cây đa, bến cũ, bóng chiều xưa; “quên câu hẹn núi”, “thề sông” và Đầu sông cuối bể cũng liều Đó là phận số để rồi kẻ ngược người xuôi sông hồ cách trở tình đã chia xa. Nhưng … tạo hóa đã không nỡ vô tình với khách tài hoa nên đã cho những kẻ Gặp em rồi suối nguồn xanh Giang hồ đã mỏi, rũ áo phong sương sau những tháng năm “lấn chen khói phố bụi phường”; thi nhân đã được đắm chìm trong suối nguồn khói sương, mơ mộng, tình thơ yên ả. Chợt yên ả một suối nguồn là em …” Có gì đẹp hơn, hạnh phúc hơn khi thực mộng bây giờ đã hòa quyện nhau làm một. Bây giờ không còn cảnh “ước cũ duyên thừa”, “đá mòn, rêu nhạt”, “nước chảy hoa trôi” mà là một miên viễn một bến bờ hạnh phúc và Buộc ràng dần bạc mái đầu Tuy tóc đã ngã màu sương nhưng thủy chung vẫn bền chặt và hình ảnh trong mắt nhau chẳng khác lúc đầu. Anh xưa, nay đã làm ông Trong cuộc sống thường có những lúc trầm, lúc bổng, bao lo toan tất bật của đời thường và những đắng cay ngọt bùi đan xen là lẽ thường tình nhân thế. Thơ “Tặng vợ” của người rất dung dị nghĩa tình và thực cảm. Có lẽ không còn một lời nịnh đầm, ân hận nào đáng yêu hơn. Một đời làm vợ làm chồng Tập thơ nhiều ngôn từ dung dị, biểu cảm, còn rất nhiều hình ảnh sống động, gợi nhớ rất dễ thương trong tình yêu và cuộc sống. Gió day dứt tiếng chuông chùa Day dứt là một từ biểu cảm diễn tả tiếng chuông đang bị gió giật đứt khúc, vừa diễn tả ray rứt nội tâm giữa thanh thoát và tục lụy của không gian, thời gian u buồn, trầm lắng, mong manh, lẻ loi. Đọc qua toàn bộ tập thơ, người đọc thấy người thơ sao có vẻ lạc lỏng giữa dòng đời hoa gấm. Phải chăng vì thiếu khách đồng điệu, thiếu bạn tri âm nên nhà thơ phải mãi tìm kẻ thẩm âm trong kho tàng văn học cổ. Nhiều dáng xưa rõ nét trong tư tưởng nhà thơ. Có lẽ với tâm hồn bình dị, không thích bon chen giữa chốn thị thành nên nhà thơ đã mỏi mệt thật rồi. Có lẽ nên quay về thôi, quay về thôi !… quay về với thú điền viên, hóa thân vào thiên nhiên cây cỏ sống cuộc đời ẩn sĩ để “ươm ca dao, trồng tục ngữ” vui thú với gió bãi trăng ngàn. Men nồng chuếnh choáng ngùi nhân thế Rất mong một ngày nào đó nhà thơ sớm tròn ước nguyện. Riêng người đọc xin gửi tặng hai câu thơ gọi là đa tạ người thơ: Tiếng được mất mặc bon chen trần thế Tuyên Thạnh, Mộc Hoá : 29.09.07 Đạm Thuỷ Ghi chú : |
|
hoangngochung@ymail.com
|
|
IP Logged | |
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member Tham gia ngày: 16/Jan/2008 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 1332 |
Gởi ngày: 09/Dec/2009 lúc 1:59am |
Trần Ngọc HưởngNguồn: bachmaibutchi Trần Ngọc Hưởng Tên thật: Trần Văn Sáu Năm sinh: 1951 Nguyên quán: Gò Công, Tiền Giang Cư trú: 13 Huỳnh Việt Thanh, P.2, TX Tân An, Long An ĐT: 072.833077 . Tác phẩm: In riêng: 1. Bẻ lá che hường 2. Đồng vọng 3. Tay phấn 4. Thơ tuổi bốn mươi 5. Chân dung thơ 6. Tứ tuyệt Đường thi tuyển dịch 7. Cuống rún chưa lìa 8. Suối nguồn xanh Tuyển chọn: 1. Khúc xạ mùa thương 2. Phù sa của gió Góp bút trên 30 tuyển tập Bài đăng trên nhiều báo chí trên toàn quốc |
|
hoangngochung@ymail.com
|
|
IP Logged | |
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 22/Jan/2014 lúc 10:58pm |
NHÀ THƠ TRẦN ANH TÀI
Trong bài tựa quyển sách, “Gò Công …vọng tiếng đất
lành” xuất bản năm 2010, tôi viết Gò Công cũng vọng mãi tiếng thơ như sau:
Phan Thanh Sắc
http://lengoctrac.com/?655=5&658=37&657=2332&654=4 |
|
mk
|
|
IP Logged | |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |