Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Tâm Tình | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình |
Chủ đề: Vườn TÂM LINH | |
<< phần trước Trang of 9 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 01/Aug/2013 lúc 12:54am | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
mk
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
IP Logged | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 04/Aug/2013 lúc 1:43am | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
TRÍCH
DỊCH TỪ BỘ TỰ ĐIỂN BÁCH KHOA UY TÍN THẾ GIỚI BỘ ENCYCLOPAEDIA
BRITANNICA - ANH QUỐC)
Huỳnh Phú Sổ là một triết gia Việt Nam, là người chủ trương chấn hưng Phật giáo và là người sáng lập đạo Phật Giáo Hòa Hảo năm 1939. Ông bắt đầu thuyết giảng về sự chấn hưng nền Phật giáo, chủ trương sự quay trở lại tinh thần Phật giáo nguyên thủy và nối kết với tư tưởng đại thừa thịnh hành khắp Việt Nam, Ông đề cập sâu đến cách sống mộc mạc, bền bỉ, cùng hình thức thờ cúng đơn giản và sự tự giải thoát. Đạo Phật Giáo Hòa Hảo là một sự kết hợp giữa đạo Phật và truyền thống thờ cúng Tổ tiên cùng với những nghi thức nuôi dưỡng đời sống tâm linh, cùng những tinh tuý của Khổng giáo và những sinh hoạt thực tiễn phù hợp bản xứ người Việt Nam. Bằng lời nói của mình, Ông có khả năng cuốn hút thính gỉả một cách mãnh liệt và được biết đến dưới danh hiệu Ông “Đạo Khùng “. Ông đã tiên đoán chính xác sự thất bại của Pháp trong thế chiến thứ hai và sự xâm chiếm của người Nhật ở Đông Dương. Sự thành công của Ông trong vai trò một vị Nhà Tiên Tri đã khiến cho những người tín đồ gọi Ông là Phật Sống. Huỳnh Phú Sổ là một triết gia Việt Nam, là người chủ trương chấn hưng Phật giáo và là người sáng lập đạo Phật Giáo Hòa Hảo năm 1939. " Huynh Phu So. Vietnamese philosopher, Buddhist reformer, and founder (1939) of the religion Phat Giao Hoa Hao. He set about preaching Buddhish reform, advocating a return to Theravada (Way of the Elders) Buddhism, from the Mahayana (Greater – Vehicle) form prevalent in Vietnam, and stressing austerity, spartan living, simple worship, and personal salvation. Hoa Hao is an amalgam of Buddhism, ancestor worship, animistic rites, elements of Confucian doctrine, and indigenous Vietnamese practices. In speaking, he exerted an almost hypnotic influence over his audiences and became known as Dao Khung (Mad Monk). He predicted with accuracy the fall of France in world war 2, the Japanese invasion of Indochina … His success as a prophet led his followers to call him the Phat Song (Living Buddha). " nguồn Website : www. Britannica. com. Inc TRÍCH HỒI KÝ CỦA HỌC GIẢ NGUYỄN HIẾN LÊ
NGUYỄN HIẾN LÊ (*) Hai anh Tân Phương và Việt Châu (**) đều như tôi rất mừng khi Nhật đổ bộ lên Sàigòn, mong Nhật đuổi Pháp đi, nhưng không thích gì Nhật, không học tiếng Nhật. Tân Phương không làm chính trị, mà Việt Châu cũng vậy, nhưng Việt Châu không nhớ do một cơ hội nào được nghe Thầy Tư Hòa Hảo (tức Huỳnh Phú Sổ) xuất khẩu thành thi, lấy làm lạ, nhất là thấy Thầy như có một ma lực gì kỳ dị, thu phục được rất nhiều người, nên từ ngạc nhiên sinh ra ngưỡng mộ. Việt Châu bảo tôi : “Con người đó thật kỳ dị. Mỗi ngày ngồi xe hơi đi mấy trăm cây số, diễn thuyết hai ba nơi, mỗi nơi nói thao thao bất tuyệt trong hai, ba giờ ở giữa trời, trước một đám đông nông dân hằng ngàn người, ai nấy im phăng phắc như nuốt từng lời một, có kẻ khóc mướt nữa. Có lần đương diễn thuyết thì trời đổ mưa, Thầy Tư vẫn nói mà dân chúng vẫn đứng nghe dưới mưa. Lần nào diễn thuyết xong rồi cũng lên xe đi nơi khác liền, không thấy mệt nhọc, vẫn ung dung làm thơ. Mà ăn rất ít, toàn đồ chay. Sinh lực sao mà dồi dào thế ! Sức lôi cuốn, thôi miên quần chúng sao mà mạnh thế “ (*) Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, Nhà xuất bản Văn Học 1997. (**) Tức Nguyễn Xuân Thiếp, Nhà thơ bút hiệu Việt Châu, người gốc Hà Tây, là anh của Học giả Nguyễn Hiến Lê, và là một đệ tử trung thành của đức Huỳnh Phú Sổ. ________ ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ LÀ MỘT TRIẾT GIA VIỆT NAM (*) Phạm Công Thiện Nguyên Giáo sư triết học Đại học Vạn Hạnh Saigon Có lẽ không ai mà không biết Đức Huỳnh Phú Sổ là Đức Giáo Chủ của Phật Giáo Hòa Hảo, nhưng ít ai biết rằng Đức Huỳnh Giáo Chủ là một triết gia Việt Nam. Chẳng những thế, không phải chỉ triết gia Việt Nam như bất cứ một triết gia nào xứng đáng được gọi là “triết gia “mà Đức Huỳnh Giáo Chủ lại đúng là một minh triết, một thánh triết, trong mọi ý nghĩa cao siêu nhất của danh từ. Khi tình cờ đọc một bộ từ điển bách khoa có thẩm quyền nhất thế giới, bộ Encyclopaedia Britannica, dở qua cuốn 6, trang 181, tôi thấy tên tuổi và cuộc đời sự nghiệp của Đức Huỳnh Giáo Chủ chiếm trên nửa cột chữ in nhỏ trên trang giấy tự điển, mấy hàng chữ đầu đã đập mạnh vào mắt tôi : “Huynh Phu So is a Vietnamese philosopher … “Hiển nhiên mấy hàng chữ tiếp tục cũng xác định thêm rằng Đức Huỳnh Giáo Chủ là nhà cải cách Phật giáo và nhà sáng lập Phật Giáo Hòa Hảo, nhưng chính điều xác định đầu tiên của Encyclopaedia Britannica đã làm tôi chú ý đặc biệt : “Huỳnh Phú Sổ là triết gia Việt Nam …”Mặc dù tôi có thói xấu giống như Aldous Huxley là hay thích đọc tự điển như đọc tiểu thuyết (Aldous Huxley rất say mê đọc bộ Encyclopaedia Britannica), nhưng không phải bất cứ cái gì tự điển đã định nghĩa thì tôi tin ngay lập tức ; bản tính cố hữu của tôi là ngờ vực tất cả định nghĩa của tất cả tự điển và từ điển. Tuy nhiên, lúc thấy Encyclopaedia Britannica gọi Đức Huỳnh Phú Sổ là “triết gia Việt Nam “thì tôi bỗng ngừng lại và bắt đầu suy nghĩ. Bao nhiêu âm hưởng bất ngờ xoáy tròn xung quanh một danh từ quen thuộc. Từ lâu, tôi đã có thói quen nghĩ rằng Đức Huỳnh Giáo Chủ là một thiên tài tôn giáo dân tộc, là một đại Bồ Tát trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, là tất cả những gì đáng tôn kính trong vị thế của một Giáo chủ một tôn giáo gồm nhiều triệu tín đồ ở Việt Nam. Nhưng tôi chưa nghĩ đến khía cạnh “triết gia “của Huỳnh Giáo Chủ. Hiển nhiên tất cả mọi Giáo chủ tôn giáo đều là triết gia ở một bình diện nào đó, và tất cả mọi triết gia ở trên tất cả bình diện đều không thể là Giáo chủ được, nếu người ta hiểu được tính thể chân chính của triết lý như là triết lý. Một triết gia có thể là một triết gia về tôn giáo với một nền tảng triết lý về tôn giáo, nhưng một nhà tôn giáo học không hẳn bị bắt buộc phải là một triết gia, và nhất là một nhà tu hành tôn giáo và nhất là một Giáo chủ tôn giáo lại không nhất thiết phải cần đến một triết lý nào cả, nhất là thứ triết lý kinh viện nhà trường. Tuy nhiên nếu triết lý được hiểu là triết lý trong tất cả mọi ý nghĩa toàn diện của triết lý thì không có ai có thể chạy thoát ra ngoài cái vòng tròn khủng khiếp của triết lý, dù triết lý được hiểu theo nguyên nghĩa Philosophia hay được hiểu theo nguyên nghĩa Minh triết Đạo lý của Đông phương. Nếu được hiểu theo nghĩa nguyên vẹn toàn diện thì Đức Huỳnh Giáo Chủ đúng là một triết gia Việt Nam vĩ đại mà chỉ có người nào nắm trọn tất cả triết lý Tây phương và đạo lý Đông phương thì mới có khả năng nhìn thấy được tất cả ý nghĩa ẩn hiện của bốn chữ triết lý Việt Nam. Một thanh niên Việt Nam mới 20 tuổi mà đã cưu mang tất cả sức nặng bí ẩn của đạo lý Đông phương, đã thể hiện tất cả khả tính có thể có được của tư tưởng Việt Nam, đã thể hiện trọn vẹn tất cả tinh tuý của Mật tông, Thiền tông và Tịnh độ tông, đã thành tựu oanh liệt truyền thống Thiền Lý Trần và Thiền Trúc Lâm Yên Tử của Việt Nam, đã nối kết lại tinh thần Phật giáo nguyên thuỷ với đại nguyện và đại hành của lý tưởng Bồ Tát trong Đại thừa, đã đốt cháy lại ngọn lửa thiêng trao truyền từ lục tổ Huệ Năng , đã gây dựng lại với hai bàn tay trắng tất cả những gì cao siêu nhất của dân tộc và của nhân loại trong sự nghiệp tư tưởng và hành động của mình, đã nuôi dưỡng đời sống tâm linh và hùng khí dân tộc cho bao nhiêu triệu người Việt Nam. Một người như thế, chẳng những là một triết gia Việt Nam thôi, mà chính là minh triết, thánh triết cho cả nhân loại Tác phẩm của ngài Huỳnh Phú Sổ ·
Sấm giảng
khuyên người đời tu niệm (q. 1 - Thơ
lục bát dài 912 câu, 1939). Nội dung sách nhằm đánh thức quần chúng bằng cách
tiên tri những cảnh lầm than khốn khổ mà nhân dân phải hứng chịu.
·
Kệ nhân của
người khùng (quyển 2 - thơ thất ngôn
trường liên, dài 846 câu, xuất bản năm 1939).
Ở cuốn này tác giả vừa tiên tri tai nạn sắp xảy ra mà dân
chúng phải gánh chịu, vừa khuyên mọi người nên làm lành tránh dữ.
Nội dung minh giải về tứ ân, tam nghiệp, thập ác, bát chánh,
cùng giảng dạy về cách thờ phụng, cúng lạy, nghi thức cử hành tang lễ, giá thú,
cùng cách giao tế với các tôn giáo khác.
TIỂU SỬ ĐỨC THẦY HUỲNH
PHÚ SỔ
Sinh ngày 25 tháng 11 năm Kỷ Mùi, tức ngày 15/1
năm 1920, tại làng Hòa Hảo, gần Vàm Nao, quận Tân Châu, tỉnh Châu đốc, một tỉnh
miền Tây nằm sát bên nước Cao Miên và trên sông Cửu Long (Tiền Giang), trong
một gia đình nông dân, con của ông Hương Cả (người đứng đầu trong làng) Huỳnh
Công Bộ và bà Lê Thị Nhậm. Lúc nhỏ ông thường bịnh hoạn, đau yếu, xanh xao, chỉ
đi học trường làng, và đã đậu bằng tiểu học tại Tân Châu, nhưng đến năm 15 tuổi
phải nghỉ học vì lý do sức khỏe. ông được điều trị bởi nhiều thầy thuốc và bằng
nhiều cách nhưng bịnh tình càng ngày càng trầm trọng và theo đuổi suốt quãng
đời thiếu niên của ông. Mãi cho đến khi ông 18, 19 tuổi, bỗng nhiên ông hết
bịnh và trở thành một thanh niên mạnh khỏe, tuấn tú, da mặt hồng hào, tươi
sáng, tướng bộ chững chạc, trang nghiêm.
Từ thuở bé, ông đã có căn tính của một người tu
hành, ông không thích đàn địch, ca hát, cười dỡn như các bạn cùng trang lứa,
lúc nào ông cũng trầm tư, mặc tỉnh, thích ở nơi thanh vắng, yên tỉnh. ông lại
rất hổ thẹn và phản đối ngay khi nghe song thân bàn chuyện kiếm người bạn đời
cho ông.
Dù mới chỉ học xong tiểu học và chưa từng nghiên
cứu Phật Học, ông bỗng nhiên có một kiến thức Phật Học uyên bác, và hơn thế
nữa, một khả năng "xuất khẩu thành thơ" biến những kiến thức Phật Học
thành những bài thơ giảng đạo đi sâu vào lòng quần chúng bình dân, ít học.
Ngoài ra ông làm thơ bằng chữ Nho một cách tinh thông, xuất sắc dù không học
chữ Nho. Không những thế, ông còn bỗng nhiên có tài chữa bịnh, kể cả những bịnh
nan y dù chưa từng học về y khoa. Ngày 18 tháng năm năm Kỷ Mão, tức ngày 4/7
năm 1939, Huỳnh Phú Sổ tuyên bố khai lập đạo Phật Giáo Hòa Hảo, khi ấy ông chỉ
mới 19 tuổi.
Mấy vị trí thức đa số ít ai chú ý đến hiện tượng
Phật Gíao Hòa Hảo ở miền Nam , nhất là chư vị miền Bắc vì họ vẫn được tuyên
truyền rằng Hòa Hảo là những nông dân cường khấu , chuyên ăn gan uống mật kẻ
thù . Còn ở miền Nam thời đó là thời nhiễu nhương kháng chiến , cũng như sau
này dưới thời ông Diệm - một người Công Gíao , thì việc tìm hiểu về PGHH không
có cơ duyên được khai triển . Trong khi đó , đối với những người học Phật khi
có cơ hội được tìm hiểu về PGHH , thường rất ngạc nhiên , giựt mình vì sao một
vị giáo chủ trẻ tuổi chỉ thọ có 27 năm , thời gian khai đạo có 7 năm , lại có
thể gây được ảnh hưởng sâu rộng như thế cho bao thế hệ sau .
HPS giảng dạy cho tín đồ nội dung Phật Pháp đúng
theo lời chuyển pháp luân của Phật Tổ , từ con đường trung đạo đến tam nghiệp ,
tứ diệu đế , tứ vô lượng tâm , tứ ân , ngũ giới , lục độ , bát chánh đạo , thập
thiện , thập nhị nhân duyên . Đức Thầy chỉ có chút phần thay đổi trong thứ tự
Tứ Ân . Ngoài ra trọn vẹn nội dung là đúng với những gì Phật Tổ giảng dạy cho
đệ tử , Ông không có chủ trương đưa ra những tư tưởng Phật học gì mới lạ . Lại
, Đức Thầy thấu hiểu căn cơ chất phác của người nông dân Nam Bộ vùng đồng bằng
Sông Cửu Long không thể hành trì các pháp tu đòi hỏi công phu tu học phức tạp ,
nên Đức Thầy chọn pháp môn Tịnh Độ để truyền dạy vì đây là pháp phù hợp nhất
với tất cả mọi căn cơ chúng sanh bất luận cao thấp
Văn Đức Thầy thực tế , gần gũi , dễ lãnh hội như
Ngài giảng cho nông dân miền Nam nghe về con đường trung đạo :
" Không trưởng dưỡng xác thịt quá ư sung
sướng như : ăn nhiều, ngủ nhiều, chẳng lo làm công chuyện, chẳng học hỏi, vì
sung sướng thái quá thì sanh nhiều dục vọng mê đắm, làm cho trí đạo tối tăm,
không đạt huệ được .
Không nên hành xác hay ép xác thái quá như :
phơi nắng dầm sương, bỏ ăn, bỏ ngủ, làm lụng quá sức lực của mình, vì ép xác
quá độ hay sanh bịnh hoạn nhiều, người mà đa mang bịnh tật rồi, tinh thần kém
cỏi, nhọc mệt, trí hóa lu mờ, không đủ sức mà học Đạo đặng.
Nên người biết Đạo chẳng ép xác thái quá, mà
cũng chẳng để nó sung sướng quá độ, chỉ ăn ngủ có chừng mực, làm việc vừa với
sức mình, giữ gìn sức khỏe mới mong được Đạo Pháp.
Vậy Phật chẳng buộc ai phải ăn ở khổ hạnh và
cũng chẳng biểu ai ăn ở sung sướng, chẳng ép ai ăn chay, chẳng xúi ai ăn mặn,
tùy theo trình độ và lòng nhơn của mình. "
Những lời thuyết giảng của Huỳnh Phú Sổ vì mang
tính cách bình dân nên không khỏi bị một số tăng ni chê là kém cỏi, tầm thường,
hoặc giáo lý PGHH không có gì là cao siêu, là chân chánh. Tại vì Đức Thầy thấu
hiểu được trình độ của người nông dân vào thời khoảng nhiễu nhương 1940 khó có
thể thông hiểu được các tư tưởng cao siêu chứa đựng trong thiên kinh, vạn quyển
của triết lý Phật giáo. Hoằng pháp bằng những bài thơ chuyên chở đạo Phật vào
sâu trong tâm nảo tín đồ là một thành công sâu đậm, bền vững. Trong một thời
gian ngắn ngủi độ 7 năm, ngoài những việc khó khăn khác phải đương đầu, quả
thật trong lịch sử miền Nam, chưa thấy có một giáo chủ nào có thể được hơn 2
triệu tín đồ trên một dân số khoảng 10 triệu vào thời đó
Huỳnh Phú Sổ đặc biệt tạo nên một nền Phật giáo
mới do các giới Phật tử tại gia điều hành không có giới tăng lữ tham gia.Đức
Thầy tuy không chủ trương xây chùa, đúc tượng nhưng trong " Lời khuyên bổn
đạo", Ông vẫn khuyên tín đồ phải kính trọng giới tăng sĩ , tránh tạo sự
bất hòa giữa giới tăng sĩ và cư sĩ tại gia. Đức Thầy đã viết: " Hạng tại gia gồm tất cả thiện nam tín nữ chưa đủ điều
kiện xuất gia, vì cảm thấy mình còn nặng nợ với non sông tổ quốc, với gia đình,
với đồng bào xã hội, nên chưa thể làm như các nhà sư hay ni cô đặng. Thế nên ở
tại nhà, họ phượng thờ Đức Phật, phát nguyện quy y, giữ gìn giới luật, hằng coi
kinh sách, sửa tánh, răn lòng, ủng hộ các sư ". Ông đặt trọng tâm vào việc tu tâm sửa tánh, khuyên không nên
dựa vào hình tướng, lễ nghi. Hình tướng như tượng Phật, chuông, mỏ chỉ là những
trợ lực, những phương tiện giúp để dễ tu tập nhưng lắm khi sự chấp vào hình
tướng lại dẫn đến sự hiểu sai về giáo pháp
Những thành tựu Ông đã thực hiện trong thời gian
ngắn ngủi 7 năm thật khó có thể giải thích ngoại trừ phải chấp thuận ý kiến xem
Ông là một vị Bồ Tát đã xuất hiện sau nhiều kiếp tu tập để cứu rỗi nông dân ở
địa linh Cữu Long.
Sự độc đáo và vĩ đại của Huỳnh Phú Sổ được giới
trí thức quốc tế công nhận, dù bị giới trí thức Việt Nam và trí thức Phật Giáo
Việt Nam, do thiếu thông tin, thành kiến nông cạn, sai lầm, không biết đến và
đề cập đến: Bộ Bách Khoa đại Từ điển có thẩm quyền nhất
thế giới, bộ The New Encyclopaedia Britannica đã công nhận Huỳnh Phú Sổ là một
triết gia Việt Nam "Huỳnh Phú Sổ
is a Vietnamese philosopher...
"(Vulume 6, Micropaedia, 1987, trang 18).
Chữ “triết gia” đối với người Việt Nam thì nghe
không mấy hấp dẫn , nhưng đối với Tây Phương là một chữ phi thường . Triết học
có vai tròn rất đặc biệt trong lịch sử và chính trị Tây Phương, như Platon –
ông tổ Triết học Tây Phương , từng đề cập đến mô hình xã hội lý tưởng mà ở đó ,
những người lãnh đạo quốc gia phải là những bậc triết nhân có phẩm chất và trí
tuệ cao cả .
(Tương truyền Platon đã từng có thời tu học ở Ai
Cập và được những tu sĩ Ai Cập truyền thụ cho những tri thức bí mật của nền ăn
minh Atlantis đã có từ trước Đại Hồng Thủy , mô hình thành phố Atlantis mà
Platon miêu tả ,nghe giống như mô hình phong thủy “thôn bát quái” của ngôi làng
dòng họ Gia Cát Lượng thời Tam Quốc )
Không một người Việt Nam nào khác thế kỷ 20 này
được đánh giá như vậy.Huỳnh Phú Sổ được coi như là hóa thân của Bồ Tát và những
hiểu biết của ông xuất phát từ Tuệ Giác và những hành động của ông là những
hạnh nguyện của tâm đại từ bi. ông dã vượt qua mức độ phàm phu và đã đạt đến
trình độ của thánh nhân.
Nhân dân Nhật Bản ca ngợi sư Nhật Liên là đại bồ tát, thì Phật tử
Việt Nam ca ngợi Huỳnh Phú Sổ là đại bồ tát cũng không quá đáng. Có ai, trong
suốt mấy ngàn năm lịch sử Việt Nam, khi chỉ mới 19 tuổi, đã là một Gíao Chủ có
những viễn kiến đi trước thời đại và được hàng triệu người tôn thờ ? Chỉ có
Huỳnh Phú Sổ - “Cậu Tư Hòa Hảo” , một thanh niên quê quán ở làng Hòa Hảo trên
đồng bằng sông Cửu Long |
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
mk
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
IP Logged | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 08/Aug/2013 lúc 10:21pm | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Thế nào là cuộc sống có ý nghĩa? (Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ)
.1) Sống lợi mình lợi
người là cuộc sống có ý nghĩa.
Chúng ta biết mình thực sự là ai, biết mình thực sự đang làm gì, biết mình thực sự đang nói gì, biết mình thực sự đang nghĩ gì. Chúng ta thường mang cái áo đời danh lợi, cho nên quên "con người chân thật" của mình, luôn luôn sống trong ảo tưởng. "Con người chân thật" là con người luôn luôn sống trong tỉnh thức, kiểm soát được hành động, lời nói và tư tưởng, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, trình độ, xuất xứ, đời sống, dân tộc. Sống trong tỉnh thức nghĩa là phải có chánh kiến, theo chánh tư duy, giữ gìn chánh ngữ, thực hành chánh nghiệp, sống với chánh mạng, có chánh tinh tiến, luôn luôn chánh niệm, có được chánh định.
Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy: Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc. Nghĩa là chuyện quá khứ cảm giác đã qua đi, không nên nhớ nữa, chuyện hiện tại thấy đó rồi mất đó, cảm giác nào rồi cũng qua mau, không có gì tiếc nuối, chuyện tương lai chưa đến, đừng lo lắng ưu tư phiền muộn, chỉ khiến cuộc đời thêm phức tạp phiền não mà thôi!
(Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ) |
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
mk
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
IP Logged | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 15/Aug/2013 lúc 7:04pm | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Giải mã ánh sáng chói lòa khi cận kề cái chết Sự gia tăng đột biến hoạt động điện trong não là nguyên
nhân tạo ra các trải nghiệm cận tử của những người gần kề cái chết,
trong đó đặc biệt là một thứ ánh sáng chói lòa.
Kinh nghiệm cận tử hay kinh nghiệm cận chết là một trải nghiệm được kể lại bởi một người suýt chết hoặc đã bị chết lâm sàng và được cứu sống. Theo nghiên cứu thực hiện trên chuột, mức độ sóng não tăng cao tại thời điểm cận kề cái chết của nó. Giới khoa học Mỹ cho biết, con người trong tình trạng tương tự sẽ phát sinh một trạng thái ý thức đặc biệt. Nghiên cứu được công bố trong Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia, BBC đưa tin. Tác giả chính của nghiên cứu, tiến sĩ Jimo Borjigin từ Đại học Michigan, Mỹ cho biết: “Rất nhiều người nghĩ rằng não sau khi chết lâm sàng sẽ không hoạt động hoặc hoạt động hạn chế. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy, điều đó không chính xác. Khi cái chết diễn ra, não bộ hoạt động nhiều hơn". Theo những người đã cận kề cái chết rồi sống lại, xung quanh họ khi ấy được bao phủ bởi một không gian tràn ngập ánh sáng trắng, họ thấy một cảm giác kỳ lạ và có thể trông thấy thân xác mình ngay trước mắt. Nghiên cứu trên chuột Việc nghiên cứu cảm giác cận chết ở con người là một thách thức lớn. Vì vậy, các nhà khoa học Đại học Michiga đã theo dõi trên đối tượng là 9 con chuột sắp chết. Trong khoảng thời gian 30 giây sau khi tim con vật ngừng đập, sóng gama trong não chúng hoạt động rất mạnh. Xung điện não ở các con chuột thí nghiệm cũng hoạt động với mức độ cao hơn so với trước. Các xung điện não có chức năng hình thành ý thức con vật, liên kết thông tin giữa các bộ phận khác nhau của não bộ. "Điều tương tự sẽ xảy ra trên bộ não con người, một mức độ gia tăng hoạt động của não và ý thức có thể đem lại những trải nghiệm cận tử", tiến sĩ Borjigin nói. “Những người cận kề cái chết có vỏ não thị giác bị kích hoạt mạnh, sóng não gama gia tăng khiến họ trông thấy ánh sáng và cảm giác kỳ ảo", bà nói thêm. Tuy nhiên theo bà Borjigin, để xác nhận kết quả trên, nghiên cứu cần phải thực hiện trên những người trải qua cái chết lâm sàng và được hồi sinh. "Vấn đề là chúng ta không biết khi nào trải nghiệm cận tử xảy ra, có lẽ là khi bệnh nhân được gây mê hay trước khi tim ngừng đập", bà cho biết. "Những phát hiện trên mở ra cánh cửa để nghiên cứu sâu hơn trên con người”, tiến sĩ Chris Chambers từ Đại học Cardiff, Anh nói. Lê Hùng http://vn.news.yahoo.com/gi%E1%BA%A3i-m%C3%A3-%C3%A1nh-s%C3%A1ng-ch%C3%B3i-l%C3%B2a-khi-c%E1%BA%ADn-222000880.html |
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
mk
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
IP Logged | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 15/Aug/2013 lúc 9:13pm | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
đào lý vẫn đơm hoa
Basho
là một vị thiền sư thi sĩ Nhật Bản sống vào thế kỷ thứ 17, ông cũng
được công nhận như một nhà thơ Haiku nổi tiếng nhất của mọi thời
đại. Có lần, Basho chia sẻ về nghệ thuật làm thơ của mình như sau, “Trong
khi viết, ta đừng để mình bị ngăn cách với thực tại, dầu chỉ là một
khoảng cách mỏng như một sợi tóc. Ta chỉ có thể hiểu được cây thông từ
ngay chính cây thông, ta chỉ có thể học cây trúc từ chính ngay cây trúc…
và cái thấy ấy tự nó sẽ sáng tạo nên bài thơ của mình.”
Và cũng vậy, tôi nghĩ,
ta chỉ có thể tiếp xúc được với sự sống của mình từ ngay chính nơi thực
tại này, mà không thể bằng một lý thuyết hay đường lối nào khác hơn.
Nhưng dường như ngày
nay chúng ta lại thường đặt ra bao nhiêu những phương cách để nắm bắt
thực tại. Thật ra, ta chỉ cần mở rộng ra với những gì đang có mặt chung
quanh mình, bằng một cái thấy tự nhiên và trong sáng. Hiện thực này, ta đâu cần phải lao công tìm kiếm, mà chỉ cần dừng lại và nhận diện mà thôi.
Một nhà thơ La Mã, Horace, có dùng chữ "Carpe diem", seize the day,
nắm bắt ngày hôm nay, như là một công thức để sống tích cực. Tôi cũng
thấy ngày nay chúng ta lại ưa thích dùng những chữ đó, nhưng có lẽ ta
cũng cần nên nhìn lại thái độ ấy của mình. Vì thật ra ta không cần phải
nắm bắt cái gì hết, chúng ta chỉ cần để yên và có mặt tự nhiên với ngày
hôm nay thôi. Vì mục đính của ta là để tiếp xúc được với một tuệ giác
sẵn có của thực tại, chứ không phải để tìm kiếm một cái gì khác hơn, hay
đẹp hơn, theo sự mong cầu của mình.
Sen và bùn
Có lần, tôi có dịp
tiếp chuyện với một Sư cô ở một tu viện. Trong thiền quán, chúng ta
thường quen nghĩ rằng, hạnh phúc có mặt là nhờ sự có mặt của khổ
đau. Cũng như sen có mặt là nhờ có bùn nhơ, hay là nhờ có cõi Ta bà mà
Tịnh độ mới có thể hiện hữu. Nhưng nếu như ta nhìn sâu sắc hơn, đừng
vướng mắc vào ý niệm, thì có thể ta cũng sẽ thấy rằng, hoa sen có cái
“thật” của hoa sen, và bùn nhơ cũng có cái “thật” của bùn. Và nếu như
chúng ta để cho chúng được như "đang là", as-is, một cách tự nhiên, thì mỗi cái đều có giá trị hoàn toàn như nhau, chứ không phải vì cái này mà có được cái kia. Cô chia sẻ,
Người ta thường nói
đến giá trị của khổ đau là để nâng cao giá trị của hạnh phúc. Cũng như
hay lấy bùn để tôn xưng sự tinh khiết của hoa sen: gần bùn mà chẳng hôi
tanh mùi bùn. Vì vậy hoa sen thường được dùng làm biểu tượng cho những
gì cao quý, thỏng tay vào trần mà không nhiễm bụi trần. Giá trị của
bùn ở đây là làm cho hương thơm của hoa sen càng có giá trị.
Trong kinh có viết
“Thị pháp trụ pháp vị”, nghĩa là ta nên thấy pháp đúng với thực tánh
ngay nơi sự có mặt trong không gian (vị) và thời gian (thời) của
nó. Như nó đang là. Mỗi pháp đều có một vị trí, một “đang là” của
chính nó, và không thể so sánh với bất cứ gì khác. Hoa sen có "vị" của
hoa sen, bùn có "vị" của bùn. Mùi thơm của hoa sen hay mùi hôi của bùn
là do cảm quan của chúng ta thôi, chứ sen hay bùn tự chúng đâu có nói
một lời nào! Mà chúng cũng chẳng muốn nâng giá trị gì cho nhau. Sen
mọc trên bùn là do ở nhân duyên, thì đó cũng chỉ là lẽ thường nhiên
thôi!
Vậy khổ đau có "vị"
của khổ đau, hạnh phúc có "vị" của hạnh phúc, giá trị hoàn toàn như
nhau nếu chúng được như "đang là." Thật ra thì đâu phải nhờ khổ đau mà
ta mới có thể thấy giá trị của hạnh phúc, hay "hạnh phúc chỉ được nhận
diện trên cái nền của khổ đau..." Sao ta không thử nhìn thấy hương sen,
mùi bùn, hạnh phúc, đau khổ... như nó đang là, và chỉ thế thôi?
Thật ra, nếu như ta
biết ý thức và chấp nhận giá trị của khổ đau, thì đó cũng đã là điều
rất tích cực rồi. Nó giúp ta giảm bớt đi những bất an do sự tham cầu,
chống đối, vừa lòng, nghịch ý… khi tương giao với mọi sự. Nhưng nếu như
ta không vượt thoát khỏi cái thói quen so sánh - sản phẩm của bản ngã -
thì mình sẽ không để cho sự vật được như nó “đang là”, vì vẫn còn một ý
niệm phân biệt, cho dù rất vi tế.
Trong kinh Hoa Nghiêm có viết "đương xứ tức chân", chỉ có cái đang là ấy mới chính là cái thật, và ngoài ra không có cái thật nào khác hơn,
nên ta mới có thể nói "Ta bà là Tịnh độ" được đúng nghĩa. Chứ không
phải nó ám chỉ rằng Ta bà chỉ là nền, background, của Tịnh độ. Vì thật
ra, đâu phải nhờ có “hậu cảnh” Ta bà mà “chính cảnh” Tịnh độ mới được
tỏa sáng!
Mọi bất an đều có khuynh hướng tự an
Có thể tôi cũng chưa
hiểu hết ý sâu sắc của Cô, nhưng như Basho nói, nếu như chúng ta muốn
hiểu thế nào là hoa sen thì ta hãy tiếp xúc ngay chính với hoa sen đi,
hay bùn nhơ cũng vậy. Vì chỉ có cái đang là ấy mới chính là cái
thực. Mỗi cái đều có một tuệ giác riêng của nó, và ta chỉ cần thấy
trong sáng tự nhiên thôi, chứ đâu cần đến một sự phân tách hay suy tưởng
xa xôi gì khác.
Nếu như ta để cho chúng được như chúng đang là, as-is, buông
bớt đi những phân biện của mình, thì tuệ giác sẽ hiện rõ hơn. Các thầy
tổ vẫn thường nhắc nhở chúng ta hãy tập buông bỏ những ý niệm và lý
thuyết của mình đi, dù cao siêu đến đâu, để cho tuệ giác có thể được có
mặt.
Tôi nghĩ, chúng ta
chưa tiếp xúc được với thực tại có lẽ vì mình chưa thể dừng yên được
những tìm kiếm lăng xăng của mình. Và trong cuộc sống, chúng ta lại có
thói quen thay thế những lăng xăng này bằng những lăng xăng khác. Mà
bạn biết không, cho dù chúng có là vi tế hay tốt đẹp hơn thì đó cũng vẫn
là những lăng xăng.
Nhưng nếu như ta không
làm gì hết, và cứ để yên cho những lo nghĩ và bất an của mình, thì
chúng sẽ ra sao bạn hả ? Bạn biết không, tôi được dạy rằng, nếu như ta
biết buông bỏ cái thái độ mong cầu của mình, để cho cái nghe, cái thấy
của mình được trong sáng tự nhiên trong giờ phút này, không can thiệp
vào, thì mọi bất an đều có khuynh hướng tự nó sẽ trở thành an. Chúng không cần gì đến sự can dự hay một sự tập luyện nào của mình. We need to learn how to step out of our own way.
Đào hồng tự nở hoa
Sáng
nay là một ngày đầu tiên của mùa xuân. Vậy mà mới mấy hôm trước, trời
đổ một cơn tuyết lớn ngập trắng khu vườn, lấp kín lối đi ngoài sân. Tuyết
phủ trắng xóa những cành cây khô trong khu rừng nhỏ. Đất trời của một
ngày tuyết đang rơi thật yên lắng, không gian tĩnh và đẹp. Sáng nay
nắng lại lên, tuyết tan, bước ra ngoài vườn tôi thấy trên cành khô có
những nụ hoa tím nở tự lúc nào không hay, dưới ánh nắng trong sáng ban
mai đẹp mới tinh.
Tôi nhớ bài thơ của thầy Nhất Hạnh lấy ý từ một công án Thiền của vua Trần Nhân Tông.
Bạn là khu vườn của tôi
Và tôi thường nghĩ tôi là người chăm sóc
Nhưng mới sáng hôm qua thôi
Mắt tôi vừa thấy
Một khu vườn xưa, rất xưa
Không hề có ai chăm sóc
Vậy mà
Khi Xuân về
Chẳng biết tại sao
Đào lý vẫn đơm hoa.
Chúng
ta có cần phải lao tác tìm kiếm gì không bạn hả, hay chỉ cần để cho tất
cả được trong sáng tự nhiên mà thôi, và lý trắng đào hồng sẽ tự chúng
nở hoa…
Nguyễn Duy Nhiên
“Vườn xưa vắng mặt người chăm sóc
Lý trắng đào hồng tự nở hoa.”
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
mk
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
IP Logged | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 17/Aug/2013 lúc 8:29pm | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
đừng xô nhau giữa chiêm bao Có lần tôi được nghe một bài hát của Trịnh Công Sơn với những ý lạ, "Biển sóng đừng xô nhau, ta xô biển lại sóng về đâu? Biển sóng đừng xô ta, ta xô biển lại sóng nằm đau!" Ông viết bài đó do cảm hứng khi nghe tụng câu kinh Bát Nhã "Gate, Gate, Paragate, Parasamgate, Bodhi Svaha." Ông giải thích ý mình, "Tuy là do cảm hứng bắt nguồn từ câu kinh, nhưng nó không nương tựa gì câu kinh cả. Tôi muốn nói, sống trong cuộc đời, ta đừng nuôi thù hận, đừng có ác ý trong cuộc tình. Đừng để trong tình thương có bóng dáng thù địch, của lòng sân hận. Sóng xô ta, ta xô lại sóng. Biết bao giờ mới đến được bờ bên kia của tịch lặng, của bình an!" Ông nói về những cuộc tình, mà cuộc đời cũng thế, bạn có nghĩ vậy không? Vì cuộc đời cũng được làm bằng những mối liên hệ giữa ta với người chung quanh. Mà nếu mỗi lần "sóng xô ta" rồi "ta xô lại sóng", thì biết bao giờ biển khổ này mới được lặng yên, phải không bạn! Tôi nghĩ sự tu học trước hết là để đem lại cho ta một tấm lòng. Một tấm lòng rộng lớn, không nhỏ nhen, không nghi kỵ, không xô đẩy nhau. Một tấm lòng không cô lập, không cố chấp. Với tấm lòng rộng mở ấy, chúng ta có thể chuyển hóa được những khổ đau cho nhau. Đêm nay trăng sáng yên ngoài cửa sổ. Trong căn phòng viết nhỏ của tôi có một vùng ánh sáng nhỏ tĩnh lặng. Trên bàn viết, tôi có chép lại một bài thơ của bác Ngọc Quế in trong tập sách bác gởi tặng nhà hôm nào, Ngàn năm, Giọt nước có buồn không Sao vẫn long lanh Dưới ánh hồng Trên cánh sen vàng Ai biết được Ngàn năm Giọt nước có buồn không. Đêm đã khuya. Tôi thổi tắt ngọn nến trên bàn. Một làn khói tỏa nhẹ dưới ánh trăng xanh.
nguyễn duy nhiên http://nguyenduynhien.blogspot.com/2013/08/ung-xo-nhau-giua-chiem-bao.html Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 17/Aug/2013 lúc 8:31pm |
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
mk
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
IP Logged | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 20/Aug/2013 lúc 11:11am | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Mẹ không phá thai, hai con song sinh làm linh mục
Hai
linh mục người Chile là anh em song sinh cho hãng tin Công Giáo Hoa Kỳ
CNA biết, nhờ thân mẫu kiên quyết không chịu phá thai mà hai anh em đã
được sinh ra và nay trở thành linh mục. Nguyễn Long Thao (Vietcatholic) |
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
mk
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
IP Logged | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 22/Aug/2013 lúc 7:28pm | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xây nhà thờ với 57 xuNgày đăng bài Thứ Ba, ngày 13-11-2012
Philadelphia - cuối thế kỷ 19. Cô bé Hattie May Wiatt đứng thổn thức bên cạnh ngôi nhà thờ nhỏ của giáo xứ, sau khi đã chạy lòng vòng mà không vào được bên trong vì nhà thờ đã chật cứng.
Mang theo mảnh giấy và chiếc ví rách nát của cô bé trong các buổi lễ, cha kể cho mọi người câu chuyện về tấm lòng hy sinh cao cả của cô bé. Rồi cha bỏ ra rất nhiều công sức để kêu gọi, quyên góp tiền xây dựng một nhà thờ rộng hơn. Câu chuyện của cô bé đã được một tờ báo có uy tín đăng tin, và một nhà kinh doanh bất động sản đã đọc được nó. Ông nhượng bán cho nhà thờ một mảnh đất rộng, với giá chỉ có… 57 xu trên. Giáo dân thì tổ chức một đợt quyên góp với quy mô rộng lớn, và sau 5 năm số tiền đã lên tới 250.000 đô la - một số tiền rất lớn thời bấy giờ. Tấm lòng nhân hậu cao cả của cô bé đã được đền đáp một cách xứng đáng.
Đây là một câu chuyện có thật, hoàn toàn thật, minh chứng cho những gì mà một tâm hồn cao thượng và tấm lòng hy sinh cao cả có thể làm được, chỉ với 57 xu.
BBT sưu tầm
Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 22/Aug/2013 lúc 8:07pm |
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
mk
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
IP Logged | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 27/Aug/2013 lúc 8:32am | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Lắng và Cảm Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 28/Aug/2013 lúc 6:54pm |
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
mk
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
IP Logged | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 28/Aug/2013 lúc 7:03pm | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
mk
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
IP Logged | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
<< phần trước Trang of 9 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |