Người gởi |
Nội dung |
hoangngochung
Senior Member
Tham gia ngày: 27/Nov/2010
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 513
|
Gởi ngày: 21/May/2013 lúc 9:48am |
.
Chỉnh sửa lại bởi hoangngochung - 21/May/2013 lúc 5:48pm
|
hung0989077120@ahoo.com
|
IP Logged |
|
hoangngochung
Senior Member
Tham gia ngày: 27/Nov/2010
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 513
|
Gởi ngày: 21/May/2013 lúc 9:48am |
Nhà văn Hồ Đình Nghiêm
Bạn à, kỹ thuật điện toán không đi thay mình được, mình để nó ở nhà, vác mạng không, đi ngao du.
Nhưng trước đó, chẳng thể bội bạc, nó giúp mình trong việc mua vé máy bay, mua vé tàu Euro-star London đi Paris, đặt cọc một chỗ nằm trong khách sạn… Nó quán xuyến giùm mình, nó là “đội quân hùng mạnh” đi mở đường dọn lối sẵn cho chân mình thong dong đến xứ lạ.
Và trong một vài trường hợp nó ngon lành hơn hẳn việc “gửi một nụ hôn qua điện thư”. Mình đi mà nơi đến không có người đợi sẵn với một nụ hôn. Dự tính sang năm thì đi Việt-nam một lần cho biết thân, sẽ hớt tóc Thanh nữ sẽ bia ôm sẽ mát-xa sẽ ăn chơi tới bến, khi ấy e có khối chuyện để viết nên. Châu Âu đẹp, thơ mộng hơn Bắc Mỹ xa lắc. Nó có riêng thứ “không khí” đặc thù mà chốn này chẳng thể sánh nổi. Với mình, thường thì sau mỗi chuyến đi xa, mình phải ngồi lắng lòng trở lại, sàng lọc bớt những cảm xúc đầy ứ, khi ấy mới có thể tìm “người đẹp điện toán” để tâm sự, giãi bày nguồn cơn bằng những mẫu tự.
Truyện ngắn tương lai mà mình sẽ viết ra ắt hẳn có chút sương khói của Luân-đôn, có chút nắng quái rơi bên kinh thành ánh sáng Ba-lê. Giờ này mình chưa hoàn hồn, chưa lại sức, chỉ tâm sự với bạn chút xíu vậy thôi. Tựa như trước bữa ăn chính, mình nên dùng thứ gì đó để khai vị. Cám ơn bạn đã nhọc công han hỏi con-cà-con-kê-con-dê-con-ngỗng tới mình.
Tự nhiên mình nhớ tới hai câu của Bùi Giáng, ghi ra cho bạn xem:
“Hãy mang tôi tới giậu rào,
cho tôi ngó vịt thì thào với chim”.
Dễ thương quá, thứ nhãn quang của thi sĩ. Hồn nhiên quá, và độ lượng nữa, trong thứ tình mà người biểu lộ.
Xin cho vịt cho chim mãi bình yên, bạn nhé.
Hồ Đình Nghiêm
|
hung0989077120@ahoo.com
|
IP Logged |
|
lo cong
Senior Member
Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
|
Gởi ngày: 22/Jun/2013 lúc 12:03pm |
Xin mời đọc một câu chuyện thật, rất cảm động "Người Con Lai và Chiếc Vỏ Ốc" được Hoàng Thanh viết lại. Tác giả :Hoàng Thanh
tên thật Võ Ngọc Thanh, một dược sĩ thuộc lớp tuổi 30, cư dân Westminster, Orange County, đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2010 với bài viết về Lễ Tạ Ơn mang tựa đề “Chỉ với một nụ cười...” Sau đây là bài viết mới của Hoàng Thanh, với lời đề tặng nhân vật có thật của câu chuyện “Thân tặng chị Amy - người con gái da đen có tấm lòng vàng.”
Người Con Lai và Chiếc Vỏ Ốc
Bước vào tiệm food to go, tôi thoáng thấy một phụ nữ da đen - mà tôi nghĩ ngay là người Mỹ đen hay Phi châu, đứng trước quầy thức ăn dường như đang lựa chọn. Như thường lệ, tôi đứng đợi tới phiên mình. Bỗng dưng nghe cô ta nói rất rõ ràng bằng tiếng Việt "Bán cho tui một phần cơm chiên nhỏ", làm tôi ngạc nhiên quay lại nhìn, vì không ngờ cô ta nói tiếng Việt rành thế. Da cô này rất đen, đúng điệu là dân lai Mỹ đen chính hiệu. Khi tôi ra bàn ngồi ăn, cô gái bước đến rụt rè chỉ vào chiếc ghế bên cạnh tôi và hỏi "Tui ngồi đây được không?" Tôi gật đầu.
Trời Cali vào đông lành lạnh, ngồi gắp từng đũa mì Nam vang nóng mà nghe ấm cả lòng. Đang múc muỗng nước lèo thì chị da đen lên tiếng "Trời lạnh quá, ăn cái này ngon lắm mà không chắc bụng". Tôi quay sang nhìn thì bắt gặp cô đen vừa đưa tay chỉ chỉ vào tô mì tôi đang ăn, vừa nói với ánh mắt có vẻ thèm thuồng. Chị đen nói với cái giọng chân chất rất nhà quê "Cơm chiên nó hổng ngon bằng nhưng nó chắc cái bụng, tui mới khiêng đồ nặng nổi". Thấy ái ngại, tôi nói ngay "Chị ăn không, tôi kêu tặng chị một tô". Chị đen lắc đầu "Giờ ăn hổng kịp đâu, trễ xe bus là cả tiếng nữa mới có chuyến sau". Tôi hỏi "Chị làm gì mà phải khiêng nặng?". Chị đáp "Tui lau chùi cầu tiêu, lau sàn nhà, chùi rửa hết tất cả phòng, sắp xếp đồ đạc lại ngay ngắn, khiêng bàn ghế, nhiều bàn ghế nặng lắm, cái gì tui cũng làm hết đó, để mười giờ người ta vô thì mọi thứ phải sạch sẽ đâu vô đó". Rồi chị tiếp "Tui ở xa, nên 7 giờ phải dậy rồi, đi xe bus tới đây thì phải đổi xe bus khác mới tới. Nhưng đói quá nên tui phải xuống mua đồ ăn cho no bụng cái đã rồi mới lấy bus đi tiếp đến chỗ làm". Tôi cứ nghĩ chắc chị đen này đi làm thêm overtime ngày cuối tuần, nên tôi nói "Chị làm thêm cuối tuần vậy, họ trả chị khá không?" Chị nói ngay "Tôi đâu có lãnh lương, làm cho nhà thờ mà, cái này là tui tự nguyện làm, tui làm là cho Chúa, mà tui làm nhiều năm nay rồi...".
Vừa thấy tội nghiệp cho chị đen, tôi vừa thầm khâm phục chị đã có can đảm mà đứng chờ hai chuyến bus từ 7 giờ sáng, ngày chủ nhật - là lúc mà ai nấy đều đang ngon giấc với khí trời rất lạnh ở bên ngoài. Chị không những đã làm được điều phi thường đó, không có lương, một cách vui vẻ, mà lại từ nhiều năm qua...
Bỗng dưng tôi muốn làm quen "Chị tên gì? Mà tại sao chị lại tự nguyện làm công việc này từ bao lâu nay, nhà thờ không có người nào phụ chị sao?". Thấy có người quan tâm, chị đen có vẻ xúc động, nỗi xúc động mà tôi linh cảm như của một con người thường bị hất hủi bỏ rơi. Chị nói nhỏ lại "Tui tên Amy, là tên Mỹ đó, còn tên Việt nam, tui không thích nó...". Chị có tên Việt nam? "Ừa, mà tui ghét nó lắm...". Tôi ngạc nhiên "Tại sao chị lại ghét tên mình?" Chị đen im lặng, và rồi chị kể, bằng cái giọng quê mùa một mạc ....
... " Khi Má sinh ra tui thì mọi người ai cũng đã ghét tui rồi. Chỉ vì tui ra đời dưới ngôi sao xấu, bởi vì cái màu da đen đúa không sao che dấu được của tui. Tui đâu có quyền được chọn màu da gì để sinh ra, cả Má tui cũng không chọn được cho tui. Nhà tui nghèo lắm, ở ven bờ một con sông. Gia đình tui gồm có sáu người: Má và năm chị em, chị Hai, chị Ba, chị Tư , tui, rồi đến em trai Út. Mấy chị và em trai là da vàng, chỉ có tui là đen thui thôi. Nhà tui nghèo mạt rệp, cả căn nhà dột nát không có cả cái bàn hay cái giường, cái ghế. Một mình Má đi mò ốc cả ngày để bán lấy tiền mua đồ ăn cho sáu miệng ăn. Mới ba, bốn tuổi là tụi con nít đã ghét tui. Tui tên Tí, họ Mai là họ của Má, vì Ba bỏ Má từ khi Má mới có bầu tui. Tụi con nít cả đám cứ đi theo sau tui hát nhạo là "Cút về Mỹ đi con Tí đen". Có đứa còn lấy que tre vít cứt chim, cứt gà rồi kêu cả bọn xúm lại đè tôi xuống, trét vô miệng tui, tới khi nào tui lạy, tui khóc thì tụi nó mới tha. Năm sáu tuổi, Má cho tui với mấy chị đi học trường làng, nhưng tụi học trò khinh ghét tui lắm. Có lần tụi nó hè hội đồng tống một đống cứt gà vô miệng, tui không chống cự được nên nuốt vô cổ họng, nghe thúi ình và chua loét. Tui oẹ ra, tụi nó bóc nhét vô lại. Tui vùng vẫy, la hét. Thấy tui khóc dữ quá, mấy chị và em trai xúm lại binh, thì tụi nó đánh mấy chị, vừa đánh tụi nó vừa chửi " Đồ Mỹ đen không cha cút về nước đen mà sống ". Lần đó tui chạy về khóc với Má sưng cả mắt. Má cứ im lặng và rồi bà cho tui nghỉ học luôn. Nhiều lúc tui thèm được đi học, thèm được chơi chung, bất cứ trò chơi nào với chúng bạn, vậy mà đứa nào cũng chê là tui đen, tui dơ, tui thúi... hổng ai thèm chơi.
Tui tủi thân lắm nên hỏi Má. Má bảo là "Ba bỏ Má từ lúc tui chưa sinh ra nữa". Tôi ức lắm, hỏi lại "Thế Ba tên gì? Sao Má không đi tìm?". Má im lặng, rồi Má khóc. Tui thương Má quá, và tui ghét Ba lắm. Tui thề sẽ có một ngày tui tìm gặp Ba và hỏi Ba cho ra lẽ...". Im lặng. Chị đen tiếp "Tại Ba mà giờ này tui vẫn chưa biết đọc, biết viết. Người ta nói là tui mù chữ. Mắt tui sáng mà, tui thấy đường, nhìn tờ báo thì tui chỉ thấy hình, chớ không biết đọc"...
Rồi từ đó tui thui thủi chơi một mình. Nhà nghèo quá làm gì có tiền mua đồ chơi, nên tui cứ quanh quẩn bên bờ biển mà lượm mấy cái vỏ ốc, hốt cát bỏ vô đó, rồi đổ đi, rồi lại hốt vào. Hễ có lượm được cái vỏ ốc nào đẹp đẹp, tui để dành vô cái thùng giấy, lâu ngày có nhiều, tui đem ra ngắm một mình , thích lắm. Tui nhớ lần nọ tui đem ra khoe con bạn, nó lại kêu mấy đứa khác tới coi. Tui khoái lắm, trong bụng chắc mẫm thế nào bọn nó cũng khen cho coi. Ai dè, tự dưng thằng Tọc giựt mạnh một cái làm rách thùng giấy, rồi nó quăng tung tóe hết cả chục cái vỏ ốc của tui ra biển. Tui hoảng hốt giơ hai tay chụp lại nhưng không kịp, thế là mất hết đống vỏ ốc " gia tài " mà tui gom góp gần cả năm trời. Tui đứng đó khóc ròng, cúi xuống nhìn thì chỉ còn sót lại trên cát một cái vỏ ốc to bằng nửa bàn tay, một bên màu đen còn nửa bên kia màu trắng. Tui lật đật lượm lên, dấu vào túi áo. Đám trẻ xúm quanh la to "Cút về Mỹ mà lượm vỏ ốc. Ở đây không có thứ gì cho mầy đâu, đồ da đen". Tui tủi thân quá chạy về nhà khóc với Má. Lần đó Má cũng khóc. Hôm đó Má nói "Làm cái vỏ ốc mà còn sướng hơn Má con mình, bởi nó không biết buồn, không biết khóc, nó tự do khi thì nằm trên cát, lúc lại nhập vào biển cả bao la. Còn Má con mình, suốt đời chỉ sống nhục mãi ở đây thôi". Tui quý cái vỏ ốc trắng đen này lắm, cứ lâu lâu đem ra nhìn. Phần nửa màu đen, sao mà đen thủi đen thui giống da của tui, còn bên kia màu trắng lại óng ánh như có pha lê. Nhớ có lần Má tui dạy "Con người ta giống cái vỏ ốc này vậy, có đen có trắng, có tốt có xấu. Da con dù có đen như bên này, nhưng con phải sống tốt, sao cho cuộc đời mình có ý nghĩa mà óng ánh như nửa bên kia"...
Một hôm bỗng dưng Má nói "Tí đen ơi, đúng là Trời thương Má con mình, mình sắp hết khổ rồi...". Thì ra là chính phủ nước của Ba tui (chính phủ Mỹ) cho nhà tui đi theo diện con đen (con lai). Má và tui mừng hơn bắt được vàng. Lúc vô phỏng vấn, tui run quá nên cứ khóc, mà tay chân thì lạnh ngắt. Tui cứ sợ ông Bill - tên ông hỏi chuyện Má tui, mà thấy tui đen, tui xấu, tui hôi, tui dơ... ổng không cho đi thì tui phải ở đây suốt đời tui khổ lắm. Má tui cũng khóc, năn nỉ cô thông dịch xin ông Bill cho đi Mỹ. Lúc đó tui nghe ai cũng nói ở Mỹ sướng lắm, con nít được đi học, dù mình đen cũng không ai đánh mình, không ai nhét cứt vô miệng mình... Khi đó chị Hai và chị Ba có chồng rồi, còn chị Tư và em trai thì chưa. Má định nếu được đi Mỹ rồi thì Má sẽ nhờ người làm đơn xin chính phủ cho chị Tư và em tui đi sau. Đêm trước hôm phỏng vấn, Má lo quá không ngủ được, mấy mẹ con cứ ngồi ôm nhau khóc cả đêm. Với gia đình tui, thì nước Mỹ là thiên đàng, chỉ tới Mỹ thì chúng tui mới hết khổ. Khi ông Bill biết rằng chị Tư và em trai còn độc thân, ông nói "Chiến tranh đã làm cho Bà và các con cực khổ, nên nay vì nhân đạo, chúng tôi cho Bà, cô con gái lai và cả hai người con độc thân cùng đi để qua Mỹ đùm bọc nhau mà sống". Cả nhà tui khóc, vì mừng quá, đến nỗi quên cả nói lời cám ơn ông Bill...
Đặt chân đến "thiên đàng" Virginia, bốn Má con tui không biết một chữ tiếng Anh, nói không được câu nào, mà đọc cũng rặn không ra, còn viết thì một chữ bẻ đôi cũng không biết. Một người quen cùng làng ngày xưa nhận ra Má nên giúp tìm dùm cho chúng tôi thuê một căn appartment nhỏ xíu một phòng ngủ để cả nhà ở chung.
Cả nhà tui đi làm đủ thứ nghề nặng nhọc đễ đắp đỗi qua ngày. Tui còn nhớ lần thi vô quốc tịch, tui lo quá chừng, cứ học thuộc lòng những câu hỏi như con vẹt, vì tui có đọc và hiểu được chữ nào đâu. Có một chị người Việt đọc cho tui nghe các câu hỏi rồi biểu tui học cho thuộc, hễ người ta hỏi câu nào thì trả lời y như đã thuộc. Vậy mà may mắn ghê, tui đậu. Khi họ hỏi tui muốn có tên Mỹ không, hay vẫn muốn giữ cái tên Việt nam là Tí Mai, thì tui khóc. Không biết nói tiếng, tui nhờ cô thông dịch nói dùm với ổng là "Tui ghét lắm cái tên Tí đen, vì nó đen như màu da tui, đen như tuổi thơ nghèo hèn của tui". Ông Mỹ trắng hỏi tui muốn tên gì. Lúc đó tui chỉ nhớ đến đứa cháu họ xa, đi lính cho quân đội Mỹ. Có một lần về thăm Má con tui ở Virginia, nó nói lý do nó đi lính là vì nó muốn đền ơn chính phủ. Tui nhớ mang máng nó có nói quân đội Mỹ gọi là... "AMI"... gì đó thì phải. Thiệt tình khi đó tui không biết chữ "AMI" viết làm sao nữa, nên tui nói đại với cô thông dịch là "Tui muốn cám ơn chính phủ Mỹ, cám ơn ông Bill đã thương mà cho Má con tui đi, nên tui muốn có tên Mỹ là AMI, có nghĩa là quân đội". Tui còn nhớ khi nghe tui nói vậy thì cô này cười, dễ thương lắm, và cô viết tên tôi lên tờ giấy đưa cho ông Mỹ. Thế là p***port của tui có cái tên Amy Mai từ đó. Mãi sau này tui mới biết là cô đã quên chữ e rờ (R), vì quân đội viết là "army", nhưng sao có người lại nói với tui là cô ta cố tình quên...?
Sau đó vài năm thì phát hiện ra là Má tui bị có nước trong phổi. Bác sĩ sau khi hỏi cặn kẽ thì giải thích rằng "Do Má ngâm nước lạnh hằng mấy chục năm liền khi đi mò ốc, nên giờ phổi Má yếu lắm". Mấy chị em sợ quá, đứa nào cũng đi làm quần quật mà không sao đủ tiền mua thuốc cho Má. May mà Trời thương, nên lại có người hàng xóm ngày xưa biết chuyện, bảo chị em tui qua Cali ở đi thì khí hậu ấm sẽ tốt hơn cho sức khỏe của Má. Nhưng tiền đâu mà mua vé máy bay? Cô Anh bảo "Khi xưa lúc chồng cô mới chết, cô một mình với con nhỏ, sức khỏe yếu nên không sao ngâm nước nổi, nhờ Má cho cô bữa bịch ốc, khi mấy con tôm mà sống qua ngày, nên cô muốn đền ơn Má bằng cách mua bốn vé máy bay cho chúng tôi qua Cali, cô cũng đã thuê sẵn một appartment nhỏ (cô Anh đã trả trước một tháng tiền nhà) cho Má con tui.
Thế là cả nhà kéo nhau qua Cali. Cả tháng trời không ai xin được việc làm. Khi chỉ còn vài ngày là hết tháng, tụi tui lo lắm vì tiền đâu để trả cho tháng tới? Gọi phone cho cô Anh thì cô và gia đình đi đâu rồi nên không sao liên lạc được. Một buổi tối trước ngày Giáng sinh, mấy Má con đứng đón bus về nhà. Trời lại lạnh , bụng ai cũng đói, nên không còn sức để mà đi, cứ đứng mà run. Chúng tôi thấy nhiều người đi vào một nhà thờ nhỏ. Vì lạnh quá, nên chúng tôi cũng đi vô đại định tìm một chỗ trú cho ấm chút rồi sẽ về. Đó là buổi tối đánh dấu một bước ngoặc lớn trong cuộc đời chúng tui. Trên kia, mục sư Bảo đang giảng về tình yêu của Chúa. Ông nói "Chúa luôn dang rộng vòng tay yêu thương cho mọi người". Có lẽ lúc ấy, vì quá buồn, mỏi mệt và tủi thân, nên bốn Má con đứng khóc ròng. Một người đàn bà bước lại hỏi thăm ( sau này tui mới được biết làvợ mục sư Bảo). Má con tui thật lòng kể hết. Vợ chồng mục sư cùng một vài cô chú ở nhà thờ thấy tội nghiệp nên chở dùm mấy Má con về nhà, rồi hôm sau người ta đem đồ đến cho, bàn ghế, quần áo, tiền bạc, thức ăn. Rồi đích thân vợ chồng mục sư giúp điền đơn dùm Má con tui để xin tiền bệnh, tiền trợ cấp. Cũng chính nhờ sự động viên, nâng đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần mà má con tui mới sống nổi qua ngày...
Và từ đó chúng tui đi nhà thờ mỗi chủ nhật. Cám ơn Chúa. Cầu nguyện cho Má mau hết bệnh. Cầu nguyện cho mấy chị em có công ăn việc làm. Các cô chú trong nhà thờ đối xử rất tốt với tui, không ai nhìn màu da tui mà khinh khi hết. Tui vui lắm khi mọi người cứ kêu "Amy, đến phụ cô làm cái này đi!", "Amy, ăn chút gì cho có sức rồi hẵng làm chứ cháu ..". Và tui biết là ở nơi nào có Chúa, thì tui có tình thương...
Mang ơn vợ chồng mục sư Bảo và các cô chú trong nhà thờ, nên mấy chị em tui tình nguyện làm bất cứ việc gì nhà thờ cần. Tiền thì không có, nên chúng tui đóng góp bằng công sức và thời gian. Tui không bao giờ buồn vì công việc mình làm hết. Mà cầu tiêu ở Mỹ sạch sẽ lắm kìa, không có dơ, không có thúi như mấy đống cứt gà mà hồi nhỏ tui phải nuốt đâu. Tui vui lắm, dù công việc có cực nhọc cách mấy, vì tui biết mình làm là đền đáp công ơn Chúa...
Và rồi một ngày Chúa gọi Má tôi về với Ngài. Bà chết khi trong túi mấy chị em cộng lại hết vẫn chưa được một đồng. Lúc còn sống, Má cứ ước có tiền về Việt nam thăm chị Hai, chị Ba và các cháu. Vậy mà mơ ước chưa thành, Má đã ra đi. Tui còn nhớ lúc biết mình sẽ không qua khỏi, Má nói với các chị em tui "Ngày xưa Má cứ ước ao cả nhà mình qua đến được thiên đàng, nhưng nếu như Má có mất thì mấy con ráng lo cho Má về Việt nam mà chôn cất, dù gì nằm bên bờ sông ngày xưa với mấy con ốc, Má vẫn thấy ấm lòng hơn...". Cả nhà ai cũng đều biết ước nguyện cuối cùng của Má là được chôn nơi miền quê cha đất tổ, mà đào đâu ra tiền để chở xác Má về Việt nam? Tụi tui chỉ biết khóc, vì không mua nổi một quan tài cho Má. Vợ chồng mục sư Bảo biết rõ ước nguyện của Má, nên tối nào mục sư cũng lên đài kêu gọi mọi người giúp một tay. Đêm nào mấy chị em cũng ngồi trên đài với mục sư Bảo và tụi tui cứ khóc, thương Má, mang ơn vợ chồng mục sư và tất cả những người hảo tâm. Nhiều người mang tiền đến tận nhà giúp. Cuối cùng quyên góp được 16 ngàn đồng - cả một gia tài mà mấy chị em tui không bao giờ dám mơ tới. Phải, 16 ngàn đồng - con số này suốt đời tui không thể nào quên. Đó là công ơn của hằng trăm người, mà nhiều nhất là vợ chồng mục sư Bảo và bác sĩ Nguyễn Hùng. Anh Tuấn ở nhà quàn biết hoàn cảnh nhà tui, nên anh bớt cho hai ngàn tiền chi phí chuyên chở xác Má về Việt nam. Em trai tui được mua vé đi cùng về Việt nam với Má. Rồi số tiền còn lại thì mục sư đưa cho em tui về mua đất và lo chôn cất Má. Thế là cuối cùng Má cũng được về yên nghĩ vĩnh viễn bên vùng ven biển ngày nào với những con ốc nhỏ ngày xưa. Tạ ơn Chúa. Tạ ơn những tấm lòng...
Hôm đưa em trai ra phi trường, tui đưa nó gói giấy trong đó có cái vỏ ốc trắng đen. Tui dặn nó nhớ thảy xuống huyệt khi chôn Má. Nó không chịu, hỏi lại là " Chị quý nó lắm mà ? ". Tui gật đầu. Nhưng tui biết Má thích biển, và đặc biệt là cái vỏ ốc này, Má cũng quý nó như tui. Lời Má dạy con ghi nhớ, con không tiền, không có gì tặng Má. Thôi con gửi Má cái vỏ ốc này, Má mang theo mà về với Chúa. Mong Má nói với Ngài rằng " Con Tí đen vẫn luôn cố gắng sống tốt, sao cho cuộc đời đẹp và có ý nghĩa nhưng nửa trắng óng ánh bên kia của vỏ ốc...
Chị Amy ngừng kể. Tôi im lặng, vì tôi biết có nói gì cũng sẽ là rất thừa thãi vào giây phút này. Bất chợt chị nói " Tui không biết tên Ba, phải chi tui được gặp lại ông Bill năm nào phỏng vấn, có thể tui nhờ ổng tìm ra Ba tui... "
- Chị mong gặp lại Ba chị à? Chị không giận Ba sao ?
- Ngày xưa tui ghét Ba lắm. Nhưng Chúa dạy rằng "Mình phải biết tha thứ và yêu thương. Tui chỉ mong gặp Ba, để nhìn ông và kêu một tiếng "BA" một lần trong đời". Ngừng một chút, chị tiếp "Và tui sẽ nói rằng "Ba đã làm Má khổ và con buồn. Vậy thôi..."
Gió ngoài trời lành lạnh, báo hiệu một mùa Giáng sinh nữa lại sắp đến. Tôi hỏi "Năm nay Giáng sinh, chị sẽ làm gì?". Chị Amy buồn buồn đáp "Tui đến nhà thờ dọn nhà cầu, khiêng bàn ghế, lau chùi các phòng, dự Thánh lễ rồi về nhà... nhớ Má. Má mới mất năm ngoái thôi, nên tui nhớ bả lắm, nhớ cả cái vỏ ốc trắng đen ngày xưa...". Chị lại tiếp "Năm nào tui cũng đâu có tiền mà mua gì dâng tặng nhà thờ, hay tặng vợ chồng mục sư - người mà gia đình tui mang ơn cả đời, nên tui chỉ biết cầu nguyện cho mọi người. Nhiều lúc tui buồn lắm, vì không năm nào có tiền mua món quà gì dâng Chúa..."
- Những gì chị làm, chắc chắn là Ngài sẽ biết mà. Tôi tin chắc là thời gian, công sức và tấm lòng của chị, sẽ là một trong những món quà mà Ngài ưng ý nhất...
Chị Amy chỉ cười, không nói. Tự dưng chị hỏi "Khi nào cuộc đời tui đăng lên báo, chị cho tui xin ba tờ được không?"
- Được chứ. Tôi đáp ngay.
- Tui sẽ mang biếu vợ chồng mục sư Bảo một tờ, bác sĩ Nguyễn Hùng một tờ, còn một tờ tui sẽ nhờ ai đó đọc cho tui nghe, tại tui không biết chữ, rồi thì tui sẽ giữ nó mãi suốt đời. Phải chi Má còn sống, nghe đọc tờ báo này, chắc Má tui vui lắm...".
Chị Amy nhờ tôi gửi bài viết này kính tặng vợ chồng Mục sư Nguyễn Xuân Bảo, bác sĩ Nguyễn Hùng cùng tất cả những tấm lòng nơi Thánh đường Sàigòn. Chị nói "Đây là món quà - từ trái tim, chị dâng tặng mọi người nhân mùa lễ Giáng Sinh ".
Trước khi chia tay, tôi hứa sẽ mang tặng chị Amy ba tờ báo, và sẽ đọc cho chị nghe. Chị nói "Cám ơn người đẹp". Tôi ngượng ngùng "Chị đừng gọi tôi là người đẹp, kỳ lắm". Amy đáp "Đẹp chứ, bởi vì chị trắng hơn tui.."...
Tôi quay đi. Chạnh cả lòng. Nhìn xuống làn da mình, tôi tự hỏi "Cuộc đời này có được bao người thật sự "trắng da" hơn chị?"
Hoàng Thanh
Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 14/Jul/2013 lúc 11:07pm
|
Lộ Công Mười Lăm
|
IP Logged |
|
lo cong
Senior Member
Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
|
Gởi ngày: 14/Jul/2013 lúc 11:08pm |
Tình Yêu Chung Thủy
( 24 chữ cái )
Anh cảm tạ đời luôn có em
Bông hoa xinh đẹp mãi nhìn xem
Cúc vàng tươi thắm , hoa mai nở
Duyên dáng nụ cười sung sướng thêm!
Đưa em đi đến phương trời xa
Em thỏa ước mơ đời nở hoa
Êm ấm tình ta dù xứ lạ!
Giữ gìn phẩm giá nước non nhà!
Hạnh phúc cho ta hưởng cuộc đời
Im nghe tiếng vọng mãi ngàn khơi
Khen em lo lắng anh năm tháng
Lanh lợi - nụ cười duyên thắm tươi!
May mắn tình yêu thật mặn nồng
Nhớ xưa duyên nợ phải chờ mong
Ong thơm mật ngọt nhờ hoa quý
Phận đẹp chung đôi thỏa má hồng!
Quý mến tình em đối với anh
Ra đi ly biệt vẫn trung thành
Say sưa mộng đẹp tình nồng thắm
Tha thiết yêu anh lúc tuổi xanh!
Uyên ương hạnh phúc bốn mươi năm
Vui sướng hợp duyên sống nội tâm
Xin cảm ơn Trời cho phước lộc
Yêu nhau trong sáng ánh trăng rằm !
Minh Lương Trương Minh Sung
Cali. ngày 12 / 03 /2010
**********
TÂM TÌNH CUỘC SỐNG
( 26 chữ )
Anh đi gần hết con đường
Bấp bênh cuộc sống đoạn trường đã qua !
Chào nhau thân hữu gần xa
Dành cho tình cảm bạn già cảm thông
Đi đâu cũng ngại trời đông
Em yêu chung thủy trọn lòng nhớ thương
Êm đềm kỷ niệm vấn vương
Giữ gìn sức khỏe đêm trường ngủ yên
Hạnh phúc chung sống bạn hiền
Im lặng vui hưởng phước duyên cõi đời
Khen chê là chuyện mọi người!
Luyện tập thân thể , nghỉ ngơi đúng giờ
May mắn thay - hết đợi chờ !
Niềm mong ước được đến bờ tự do
Ong lắm mật - mùi thơm tho
Ông bà con cháu ấm no xứ người
Phải đi cho biết nhiều nơi
Quên bao khổ nạn một thời đắng cay!
Rả rời thân xác đọa đày
Sung sướng thoát nạn rủi may tâm người
Thời gian còn lại càng vơi!
Ung dung tự tại cho đời thảnh thơi
Ưu phiền chi chuyện đã rồi!
Vợ chồng an phận nổi trôi quê người
Xin cảm tạ đấng Phật Trời
Yêu thương cuộc sống , vui đời bình an .
Minh Lương Trương Minh Sung
Cali. ngày 09 tháng 03 năm 2010
**************
Một bài đọc mà đọc đi đọc lại vẫn đầy đủ triết lý cho cuộc sống hàng ngày.
26 CHỮ CÁI TUYỆT VỜI
Cuộc sống không phải là một mẻ lưới của số phận. Cuộc sống chính là một mối giao hoà bất tận giữa mỗi cá thể đang tồn tại,
và trong mối giao hoà đó, những gì Bạn thể hiện sẽ nói lên Bạn là ai ? Hãy cùng khám phá cuộc sống qua bảng chữ cái kỳ diệu, để tự tìm lại cho mình những bài học quý giá mà cuộc sống muốn gửi gắm đến Bạn.
A - (Adult) - Trưởng thành Khi bạn trưởng thành, bạn có thể giải quyết được những vấn đề phát sinh từ cuộc sống. Và lúc này, mọi người sẽ trông đợi rất nhiều ở cách bạn ứng xử, nhìn nhận và hành động. Hãy giữ cho mình một nét cá tính riêng, đừng bị “ngả nghiêng” bởi những lời nhận xét của người khác. Nhưng chắc chắn bạn phải biết thế nào là phù hợp, phải chín chắn trong phong cách và thái độ cũng như cách cư xử với người khác. Suy nghĩ và hành động chín chắn là đức tính cần có của một người trưởng thành. B - (Better) - Cầu tiến Hãy hướng tới những gì tốt đẹp hơn hiện tại. Đối với một vài người thì những gì tốt nhất vẫn chưa hẳn là đủ. Nếu bạn muốn trở thành một sinh viên, một sinh viên xuất sắc? Hãy cố gắng hết sức để đạt được mục đích của mình. Thay đổi cách suy nghĩ và hành động. Nếu bạn sợ thay đổi, bạn sẽ mãi dẫm chân tại chỗ. Cầu tiến sẽ là “chất xúc tác” giúp bạn đạt được những mục tiêu cao hơn. Chỉ cần bạn không đánh mất chính mình thì sự thay đổi sẽ không bao giờ là xấu. C - (Control) - Điều khiển Bạn phải biết điều khiển cuộc sống của mình, đừng để cuộc sống điều khiển bạn. Tự quyết định, tự hành động, tự chịu trách nhiệm tất cả mọi vấn đề. Đừng sống một cách tẻ nhạt, cuộc sống chứ không phải là một vở kịch được diễn đi diễn lại nhiều lần. Mọi quyết định của bạn, một là sẽ đưa bạn đến gần hơn với mục tiêu, hai là đẩy bạn rời xa nó. Do đó, hãy có một quyết định đúng đắn nhất. Giống như diễn viên hài Tim Allen đã nói rằng “Nếu bạn không tự quyết định được cuộc sống của mình, cuộc sống sẽ quyết định thay bạn”. D - (Dream) - Ước mơ Dám ước mơ, kể cả những ước mơ mà bạn chắc rằng chẳng bao giờ đạt được nó. Nếu bạn dám khát khao, tin tưởng thì chắc chắn bạn sẽ biết cách để đạt được. Tất cả tuỳ thuộc ở việc bạn có sẵn sàng để thực hiện hay không. Đừng để ý đến những lời dèm pha của người khác. Nếu bạn không tin rằng những dự định tốt đẹp của mình sẽ thành hiện thực, bạn đã mất đi một nửa sức mạnh. E - (Enthusiasm) - Nhiệt tình Nhiệt tình, say mê - nếu bạn có được những cái đó, cuộc sống của bạn sẽ thú vị hơn rất nhiều. Sự nhiệt tình có sức “lây lan” rất nhanh, do đó, nếu được sống và làm việc trong một môi trường năng động, “sức ì” của bạn sẽ nhanh chóng bị đánh bật. Nếu bạn không cảm thấy say mê với những gì bạn đang làm, hãy cân nhắc và làm những điều mà bạn thích hơn. Cuộc đời quá ngắn, và bạn sẽ không đủ thời gian để kiềm chế lòng nhiệt tình, say mê của mình với cuộc sống. F- (Failure) - Thất bại Thất bại trong học hành, trong cuộc sống sẽ khiến bạn buồn phiền, chán nản, thậm chí buông xuôi. Nhưng hãy nhớ rằng thất bại là tạm thời, và bạn không việc gì phải lúng túng hay lo lắng gì về điều này cả. Có những chiến thắng oanh liệt nhất lại là kết quả của sự thất bại nặng nề nhất. Tất cả chúng ta đều có lúc phải tự đấu tranh giữa việc buông xuôi hay cố gắng. Nếu bạn là một sinh viên học hành sa sút, nợ nần ngập đầu… Điều xấu hổ không phải là sự thất bại của bạn mà chính là việc bạn không muốn làm gì để thoát ra khỏi tình trạng đó. G - (Giver) - Cho Cho đi thì hạnh phúc hơn nhận về. Một lời khen tặng, tình nguyện làm một vài việc tốt… tất cả điều đó đều mang đến cho bạn và người khác một cảm giác dễ chịu và thực sự là rất có ý nghĩa. Khi bạn cho,chỉ đơn giản là cho chứ không mong đền đáp, bạn sẽ nhận được nhiều hơn thế. H - (Happy) - Hạnh phúc Nên tự tìm lấy hạnh phúc cho mình từ những điều đơn giản trong cuộc sống. Công việc, sở thích riêng, bạn bè, đồng nghiệp… Tất cả những điều này đều ẩn chứa những giá trị mà bạn chưa khám phá hết được. Cuộc sống là một chuỗi phức hợp, bạn không thể tránh được những lúc chán nản, mệt mỏi, kêu ca, phàn nàn, nhưng quan trọng vẫn là cảm giác riêng của bạn. Khi bạn cảm thấy hạnh phúc, thì đấy chính là hạnh phúc thực sự. Đừng kêu ca, phàn nàn mãi về những gì chưa hoàn thiện trong cuộc sống, nên nhớ rằng bản thân bạn cũng chính là một vấn đề. Hãy tự hoàn thiện mình và cảm nhận hạnh phúc từ những gì mình đang có. I - (Invest) - Đầu tư Nên đầu tư cho tương lai của bạn ngay từ bây giờ. Bạn kiếm được nhiều tiền? Nhưng không có nghĩa là bạn “phải” tiêu cho bằng hết số tiền đó. Hãy học các tỷ phú, họ có rất nhiều tiền, nhưng luôn muốn đầu tư vào một lĩnh vực nào đó để làm tăng số tiền ấy lên hơn là chịu “ném tiền qua cửa sổ”. Đừng tiêu pha quá đáng, và cũng tránh lâm vào cảnh nợ nần chồng chất. Bạn có thể đầu tư cho tương lai bằng nhiều cách: học hành chăm chỉ, cố gắng thăng tiến trong nghề nghiệp, v.v… Làm thế nào đó để khi bạn bước vào tương lai, bạn không cảm thấy mình quá “nghèo nàn”. J - (Joyfulness) - Niềm vui Tự tìm lấy niềm vui và ý nghĩa trong tất cả các công việc bạn làm, như thế bạn sẽ cảm thấy hứng thú hơn. Tự tìm lấy niềm vui cho mình và cho cả người khác nữa. Bạn có thể gọi người lái xe, thư ký, nhân viên tiếp tân bằng tên thân mật, và hỏi thăm sức khỏe của họ. Sau đó hãy xem câu trả lời bạn nhận được là gì. Quan tâm đến người khác và tự tạo cho mình các mối quan hệ cá nhân, và bạn sẽ cảm nhận thấy niềm vui lớn nhất của mình. K - (Knowlegde) - Tri thức Có những điều bạn học được ở trường, nhưng cũng có những điều chỉ có cuộc sống mới dạy được cho bạn. Sự học là suốt đời và hãy làm một người học trò chăm chỉ. Bởi vì khi bạn càng biết nhiều, bạn sẽ ngẫm ra một điều rằng mình vẫn chưa biết gì cả. Những cái cũ bạn đã học được, những cái mới bạn chưa hiểu? Tất cả vẫn còn tiềm ẩn trong cuộc sống.Sự “học” và sự “biết” là mênh mông vô cùng trong cuộc đời này. Hãy tích lũy kiến thức cho mình, và hãy học thêm những điều mới trong tất cả các cơ hội bạn có được. L - (Listen) - Lắng nghe Nói một và lắng nghe gấp đôi. Bạn phải tự biết cân đối điều này. Lắng nghe theo đúng nghĩa của nó chứ không phải lắng nghe một cách hời hợt. Bạn sẽ hiểu thêm nhiều điều và ngẫm nghĩ được nhiều điều từ việc biết lắng nghe một cách hiệu quả. M - (Mistake) - Lỗi lầm Đừng sợ hãi nếu bạn lỡ gây ra một lỗi lầm nào đó. Hãy tự khuyến khích mình rằng đó chính là cách để bạn học hỏi và rút kinh nghiệm. Đừng để những lỗi lầm đó đánh gục bạn. Có thể bạn sẽ rất buồn và day dứt, vậy thì đừng cố giấu diếm, hãy tìm cách giải toả và cố học thêm những điều mới từ cái đã cũ. Và cố gắng đừng bao giờ lặp lại những sai lầm tương tự. N - (No) - “Không” Hãy biết nói “không” đúng lúc. Nói “không” với cuộc sống quá buông thả, nói “không” với những cách cư xử khiếm nhã, nói “không” với những thói quen xấu, với những người xấu mà bạn gặp. Nói “không” đúng lúc và đúng cách sẽ là cái rào chắn tốt nhất bảo vệ bạn không bị sa ngã và cám dỗ. O - ( Opportunity ) - Cơ hội Cơ hội nhiều khi gõ cửa rất nhanh và rất khẽ. Nếu bạn chú ý lắng nghe, bạn sẽ biết được khi nào thì nó đến. Để tâm đến những thứ diễn ra xung quanh bạn, và hãy biết chấp nhận rủi ro, mạo hiểm để nắm bắt lấy những cơ hội. Số phận của bạn nằm trong tay bạn. P - (Patience) - Kiên trì Thành Rome không thể xây trong một ngày, và sự nghiệp của bạn cũng vậy. Tất cả mọi người đều bắt đầu bằng một cách nào đó và tất cả mọi thứ đều cần có thời gian. Mặc dù có thể sẽ rất khó khăn để hiểu một vấn đề ngay lập tức, nhưng nếu bạn đủ say mê, kiên nhẫn để học hỏi và quyết tâm làm điều đó, bạn sẽ làm được. Chữ “Nhẫn” đúng là rất khó học, nhưng mọi thành công đều cần có nó. Q - (Quality) - Phẩm chất bên trong Hãy tỏ rõ năng lực của mình trong tất cả những việc mà bạn làm. Thiết lập những mối quan hệ nghiêm chỉnh, làm việc hiệu quả, suy nghĩ chín chắn, giữ gìn sức khỏe… Nên nhớ rằng, bao giờ giá trị bên trong cũng bền vững hơn dáng vẻ bên ngoài. Giá trị cuộc sống là ở những phẩm chất bên trong, là được đánh giá ở tính hiệu quả chứ không phải ở việc tính từ lúc sinh ra đến giờ bạn đã làm được bao nhiêu việc. R - (Reputation) - Thanh danh Dù là tiếng tốt hay tiếng xấu cũng sẽ được “lưu giữ”mãi. Bạn bè, người quen… sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành tính cách của bạn. Vậy nên, bạn phải biết chọn bạn mà chơi, chọn mặt gửi vàng. Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ càng đồn xa hơn. Thanh danh là cái sẽ theo bạn đến suốt đời, do đó hãy biết cách“chăm sóc” và “nuôi dưỡng” nó. S - (Success) - Thành công Thành công không phải là cân đo đong đếm số tiền bạn kiếm được hay số lượng tài sản mà bạn có. Thành công chính là khi bạn biết vượt qua chính mình, là khi bạn biết tự điều khiển cuộc sống theo hướng tích cực hơn. Nếu bạn so sánh mình với người khác, bạn sẽ rơi vào tình trạng bế tắc. Thay vào đó hãy tìm cách “chạy đua” với những mục tiêu cụ thể mà bạn đã đặt ra. Hãy tin rằng bạn có đủ khao khát và bạn có đủ những tố chất để có thể trở thành một người thành công. T - (Thankful) - Biết ơn Hãy biết ơn những gì cuộc sống mang lại cho bạn và trân trọng những gì mình đang có. Nếu bạn chưa có một công việc và địa vị cao? Đừng lấy điều đó làm xấu hổ, hãy tự nhủ rằng so với những người thất nghiệp mình còn may mắn hơn nhiều, rằng không có công việc nào là thấp kém nếu đó là công việc hợp pháp. Biết đánh giá đúng những cơ hội trong công việc cũng như những thứ giúp bạn sống tốt hơn. Hãy cám ơn sức khoẻ của bạn, gia đình bạn và tất cả những người tốt mà bạn may mắn được gặp. U - (Understanding people) - Thấu hiểu Cố gắng hiểu người khác nhiều hơn. Luôn nhớ ơn những người đã giúp đỡ bạn và cố gắng để giúp đỡ người khác. Đối xử với những người xung quanh bằng sự kính trọng bất chấp địa vị và thân thế của họ. Khi bạn chín chắn, bạn sẽ nhận thức được rằng, hiểu người khác tức là hiểu thêm nhiều điều về bản thân mình. V - (Values) - Giá trị Nhận ra giá trị của bản thân và phải xác định được cái gì là quan trọng nhất đối với mình. Đừng bao giờ buông xuôi với những thứ mà bạn biết rằng nó có ý nghĩa quan trọng đối với bản thân bạn. Hãy giữ vững lập trường và quan điểm của mình, tin tưởng vào sự lựa chọn của mình. Nếu bạn không có lập trường của riêng mình, bạn sẽ bị rơi vào một mớ hỗn độn và không tìm được lối ra. W - (Willing) - Sẵn sàng Nếu bạn mới đi làm, hãy sẵn sàng đến sớm và về muộn, bỏ thói quen đi ra ngoài ăn trưa hoặc mua sắm để không phí phạm thời gian và làm việc tốt hơn. Hãy sẵn sàng làm từ những cái cơ bản nhất, đừng ngại khổ, công lao của bạn sẽ được đền đáp xứng đáng. X - (“X” traordinary) - Bất ngờ Có một vài điều xảy ra mà không cần có lý do cũng như không thể nào giải thích được. Nhiều lúc bạn nghĩ mình đã nắm chắc trong tay chiến thắng, nhưng khi có một vài điều bất ngờ xảy ra bạn sẽ hiểu rằng không có gì là chắc chắn cả. Đừng có trở thành một người tự mãn, rằng bạn không bao giờ sai. Bạn không thể đạt được điều đó, tất cả mọi thứ đều chỉ là tương đối. Hãy sống cuộc sống của mình, mơ giấc mơ của riêng mình, nhưng đừng bao giờ nghĩ rằng sức khoẻ, gia đình, công việc… sẽ luôn luôn giống như bạn hình dung, không có gì thay đổi. Y - (You) - Bản thân bạn Bạn hãy biết tự hài lòng với mình ở một mức độ có thể. Đừng có chú ý đến những người hơn mình để so sánh và dằn vặt. Đó không phải là cầu tiến, đó là so sánh và ganh tỵ. Hãy giúp đỡ những người kém may mắn hơn. Vui mừng vì những gì bạn đã làm được, và cố gắng với những gì bạn chưa làm được. Hối hận và dằn vặt chẳng được ích lợi gì. Nên nghĩ rằng, một tương lai tốt đẹp đang chờ đón bạn ở phía trước. Z - (Zoom) - Biến ước mơ thành hiện thực Bạn đã sẵn sàng, bạn đã kiên quyết, bạn đã biết cách mở rộng con đường mà bạn đã chọn từ trước, bạn đã cảm thấy hài lòng về sự lựa chọn của mình? Vậy thì đấy là lúc bạn đủ năng lượng và điều kiện để “cất cánh”, để hoàn thành những dự định và ước mơ của mình.
| | | |
|
Lộ Công Mười Lăm
|
IP Logged |
|
lo cong
Senior Member
Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
|
Gởi ngày: 05/Oct/2013 lúc 6:04pm |
BUỔI CHIỀU Ở THị TRẤN SÔNG PHA
(Một chuyện tình đẹp)
Mưa càng lúc càng nặng hạt. Thị trấn Sông Pha với hai dãy phố trên quốc lộ 20 như chìm ngập trong mưa. Người đàn ông lom khom chạy, tay che đầu, cổ rụt xuống, tưởng như thế mưa sẽ không đổ xuống người. Khi đến một quán ăn, ông ta tạt vào hiên, đứng giũ giũ áo, phủi nước trên tóc rồi mới bước hẳn vào trong. Một cái quán bình thường, giống như bất cứ quán cơm, phở, mì nào trên quốc lộ, tỉnh lộ. Cũng mái tole, vách ván, vài cái bàn gỗ mộc, trên để ống đũa, muỗng, mấy chai xì dầu, nước mắm… vài con ruồi bay lãng vãng. Mùi ẩm mốc, mùi đất lẫn với mùi thức ăn gợi cho ông ta cảm giác dễ chịu, tưởng như quen thuộc với nơi này rất lâu.
Trong quán đã có vài ba người đang xì xụp ăn, mấy ly bia đã cạn. Có lẽ họ là thợ rừng vì bên lề đường có một xe be chở mấy súc gỗ to tướng, dài cỡ vài chục mét. Họ vừa ăn vừa nói chuyện nhát gừng với nhau. Người đàn ông tìm một góc, ngồi tránh gió lùa. Qua khung cửa sổ ông ta nhìn đăm đăm cái dốc cầu lở lói, rồi nghiêng người nhìn cho rõ cái cầu sắt, đen đủi, giống một con thú yên lặng chịu đựng cơn mưa lạnh. Mấy người đàn ông ăn xong, kêu lên: “Tính tiền, bà chủ!”. Một chị đàn bà, cỡ dưới bốn mươi, từ sau quày đi ra. Họ đối đáp, cười nói xã giao vài câu trong lúc trả tiền, rồi toán đàn ông cũng lom khom chạy ra xe, nổ máy. Chiếc xe be ì ạch leo lên dốc cầu, chậm chạp như con khủng long trườn qua dòng nước chảy xiết phía dưới, mờ dần trong mưa.
Có tiếng lao xao ngoài đường. Mấy tóan học sinh đi học về. Chúng đi từng bọn với nhau, trò chuyện. Những chiếc áo mưa đủ màu. Bọn con gái đi nép dưới hiên nhà, bọn con trai thì lội ngược dòng nước mưa, dung chân tạt nước vào nhau, đuổi nhau… Buổi chiều mưa u ám bỗng như sống động hẳn lên vì lũ học sinh. Người đàn ông chợt nhớ lại, lần trước, cách đây vài mươi năm, ông cũng ngồi trong quán ăn nhìn ra đường và bọn học trò cũng đi học về. Cảnh vật, nhà cửa hai bên đường đã hoàn toàn đổi khác nhưng chiếc cầu sắt và lũ học trò vẫn thế. Và nếu không có cơn mưa, ông đã đứng trên dốc cầu ngắm các cô đi học về rồi lần xuống bờ sông, nhìn mê mãi dòng nước như ông đã làm trước đây, khi ông còn trai trẻ.
“Thưa ông dùng chi ?”
Chị chủ quán đứng bên ông tự lúc nào “Xin lỗi chị !..”
“Dạ không sao. Ông có định ăn hay uống món gì ? Hay ông chỉ ngồi trú mưa, cũng không sao !”
“Chị có cháo lòng không ? Tôi nhớ lần trước, có ghé lại một quán ăn nào đó, hình như đằng kia kìa, có món cháo lòng ngon lắm”
“Dạ tôi cũng có cháo long nhưng có lẽ không ngon như ở cái quán mà trước đây ông đã ăn”
“Thú thật tôi cũng không nhớ có ngon không, nhưng ở đó có một kỷ niệm nên tất cả thành ra đẹp và ngon. Lúc nãy tôi đi tìm quán cháo lòng thì người ta chỉ đến đây. Bây giờ sao không còn thấy quán đó nữa, chị ?”
“Dạ, quán đó đã đóng cửa, bán nhà cho người khác rồi “
“Tiếc quá ! Chị cho tô cháo”. Trong lúc chị chủ quán lúi húi làm việc, ông ta để ý mới biết phía trước là quán ăn, phía sau làm nơi cư ngụ của cả gia đình. Lối đi vô nhà sau nằm ngay nơi bếp, cách biệt hẳn hai nơi rõ rệt.
Một cô học trò chạy ùa vào nhà. “Thưa mẹ, con đi học về !” Nó xoay qua chào ông khách “Chào bác ạ !” “Vâng chào cháu !” Nó chào xong là biến mất sau cửa.
“Hùng ơi ! Nhớ nấu cơm kẻo ba con về không kịp”. Tiếng con bé sau nhà vọng ra “Sao giờ này ba chưa về, mẹ ?”
“Nghe ba con nói chiều nay ghé trường đón em con rồi ra xưởng họp hành gì đó”. Chị chủ quán bưng tô cháo đến, ông ta hỏi. “Con gái sao đặt tên Hùng như con trai ?” Chị cười “Ở trường nó tên Hồng, ở nhà quen gọi Hùng từ lúc nhỏ, Chúng tôi cắt tóc ngắn, cho mặc đồ con trai, chúng tôi thích con trai…”
“Tôi thấy tên Hùng đặt cho con gái có vẻ hợp lý. Nhiều ông tên Hùng mà chẳng có vẻ hùng dũng gì cả như tôi chẳng hạn”.
Chị chủ quán đặt tô cháo trên bàn, không trả lời, chỉ liếc nhìn ông khách, xong chị quay về ngồi sau quầy, khuất sau mấy bó hành xanh, ớt chín đỏ treo tòn teng như những vật trang trí. Người đàn ông thong thả nhai những miếng thịt, miếng gan, mắt vẫn lơ đãng nhìn ra đường mưa. Chị chủ quán chăm chú nhìn ông khách ăn, rồi như chợt nhớ ra điều gì, chị lấy trái chanh, xắt mấy miếng, đặt trên cái đĩa nhỏ đem ra:
“Tôi quên mang chanh. Ông có uống gì không ? Nước ngọt hay bia?”
“Chị cho tôi xin trà nóng. Trời mưa uống trà thích lắm”.
“Dạ ông chờ cho chút. Tôi có sau nhà, trà cho khách uống không được ngon.”
“Cám ơn chị. Có lẽ tôi là khách đặt biệt mới được chị đãi trà ngon.”
“Dạ tôi đoán ông sành uống trà nên phải có trà thơm cho ông. Thường ngày khách chỉ uống cà phê, trà buổi sáng. Họ ngồi chuyện trò cả buổi nên chỉ dùng trà thường.”
Chị chủ trở về ngồi chỗ cũ. Cô gái sau nhà đi ra, âu yếm ôm vai mẹ. Hai mẹ con chuyện trò nho nhỏ gì đấy. Ông khách nhìn và cười.
“Ra đường người ta tưởng là hai chị em, giống nhau quá!”. Chị chủ quán cũng cười.
“Nó lớn rồi, lên trung học mà cứ làm nũng với mẹ như con nít”. Chị nói với con gái.
“Nước sôi rồi, con lấy hộp trà trên bàn thờ ra đây cho mẹ. Xong rồi lo học bài, làm bài. Theo mẹ hoài, bác khách cười cho”.
Ông khách không dám nhìn lâu, sợ bất nhã, nhưng cũng nhìn ra chị chủ quán có đôi mắt đẹp và buồn xa xăm như đăm chiêu về một nơi nào. Bỗng ông nhíu mày lại, đôi mắt đó, hình như ông đã gặp ở đâu? Ông ngước nhìn chị, bắt gặp chị ta cũng đang nhìn ông. Cả hai có vẻ bối rối. Ông đành hỏi một câu cho bớt ngượng:
“Chị lập quán này lâu chưa?”
“Dạ sau giải phóng độ vài năm”.
“Chắc chị người vùng này? Tôi nhớ lần trước có thấy đâu đó mấy chữ Thị Trấn Sông Pha, hình như lúc vừa từ đèo đổ xuống. Chữ lớn lắm”.
“Nó còn đấy chứ, có lẽ trời mưa nên ông không thấy”. Chị chủ quán bưng bình trà và một cái tách trên một khay nhỏ.
“Mời ông dùng trà”
“Cám ơn chị. Buôn bán có khá không chị?”
“Dạ cũng đủ sống. Mọi khi trời không mưa giờ này cũng có khách lai rai đến nhậu.”
“Chị cho tính tiền”
Sau khi trả tiền, ông khách nhìn ra đường:
“Mưa lớn quá!”
“Mọi năm tháng này đâu có mưa. Hôm qua trời còn nắng và cũng không lạnh”. Và như hiểu ý, chị nói: “Trời còn mưa, nếu không vội, ông cứ ngồi đây tự nhiên”
“Cám ơn chị, tôi định đi lanh quanh đây nhưng mưa quá!”
“Có lẽ ông muốn tìm ai?”
“Tôi tìm một người quen. Thú thật, tôi chỉ nhớ tên, không nhớ rõ người, lâu quá!”
“Chắc ông biết nhà?”
“Thì cái quán đằng kia, nhưng đã đổi chủ rồi nên tôi chỉ đi lang thang cho đỡ buồn. Nói đúng ra tôi tìm một kỷ niệm. Mà chị biết, kỷ niệm thì người thích thì giữ, người không thích không muốn nhớ đến. Nhiều khi chuyện không đâu, không có gì đáng nhớ, lại nhớ suốt đời...”
Chị chủ quán về lại sau quày, có vẻ tò mò.
“Người quen mà mình quên mặt! Thế làm sao ông tìm?”
“Giả như có tìm ra người, chắc gì người nhớ ra mình. Lâu quá! Cỡ vài mươi năm, cho nên tôi tìm cho biết thôi. Tôi nói thế này, chắc chị thông cảm với tôi liền. Bây giờ tình cờ chị tìm thấy quyển vở, quyển sách thời còn đi học, hay rõ hơn, chị đọc lại quyển lưu bút chẳng hạn, chị sẽ bồi hồi nhớ lại tất cả, thương yêu tất cả. Mà những người bạn trước kia, nay đã khác rồi, từ gương mặt đến tâm hồn, suy nghĩ, cho nên trong những giây phút hồi tưởng đó, cách tốt nhất là chị đến trường cũ đứng nhìn, chị sẽ thấy lại cả quãng đời thanh xuân với bạn bè ngày trước... Nghĩa là nó ở một thế giới khác, cách biệt hẳn với hiện tại. Tôi cũng thế, tôi muốn đến đấy, ngồi lại cái quán ăn cách đây mấy chục năm, gọi một tô cháo, ăn xong, lang thang trên đường này, đứng ở dốc cầu kia, ngắm mấy cô nữ sinh đi học về, rồi xuống dưới bờ nhìn dòng sông. Cũng may, con đường còn nguyên, cây cầu còn nguyên, dòng nước thì vẫn thế, chỉ có cái quán ăn không còn mà thôi. Cái lạ là người tôi muốn tìm, tôi cũng ước ao cô ta vẫn chỉ độ mười sáu, mười bảy tuổi thôi. Không phải cho tôi bây giờ, mà để tôi tìm thấy tôi lần đầu tiên trong đời được cô ta ban cho cái hạnh phúc đẹp đẽ, thánh thiện của tình yêu. Cho nên tôi nói với chị là tôi đi tìm dĩ vãng, tìm người cũng có, nhưng lại không muốn gặp người” Ông khách nói một hơi như sợ không còn dịp để thổ lộ ý nghĩ mình. Chị chủ quán có vẻ thông cảm. “Coi bộ ông cũng lãng mạng dữ. Nhưng, giả dụ, nay, ông gặp lại người cũ, dĩ nhiên bây giờ già rồi, xấu rồi, ông còn giữ tình cảm, đúng ra, tình yêu đối với người đó không?”
“Chị với tôi đều lớn tuổi rồi nên tôi nói chị sẽ hiểu ngay. Tình yêu lúc đầu là dáng người, ánh mắt, miệng cười, lời nói...Rồi theo thời gian nó không là hình bóng nữa mà là sự cảm thông, chấp nhận, hòa tan vào nhau. Ý tôi muốn nói ở đây là dù cô ta có thế nào tôi vẫn cứ yêu thương. Tôi yêu cái tình mà tôi tin rằng cô ta yêu tôi, yêu cả tình tôi yêu cô ta nữa. Thật khó giải thích! Nhưng chị nhớ một bài thơ của ông Phan Khôi có câu “Liếc đưa nhau đi rồi! Con mắt còn có đuôi.” Qua bao năm dài, nó còn lại là tấm lòng, chứ không phải vì tuổi tác hay sắc diện bề ngoài.”
Bàn của ông khách cách quày của chị chủ quán độ năm mét, nhưng tiếng mưa rơi rào rào trên mái tole, ông khách sợ người nghe không rõ, không thông cảm nên ông nói lớn tiếng. Chị chủ quán có vẻ bối rối, nhìn ra đường rồi chị lại cúi xuống lấy ấm nước đến rót vào bình trà cho ông khách. “Ông bảo đi tìm người ta mà lại không muốn gặp, vậy ông đến đây làm gì ?... Để tôi bỏ thêm ít trà nữa”. “Cám ơn chị. Thật tâm tôi muốn gặp nhưng sợ người ta quên nên không dám đối diện. Mà dù có còn nhớ, tôi cũng không nên xáo trộn cuộc sống của người ta. Chắc chắn cô ta đã lập gia đình, có con cái, sống với hạnh phúc bình thường của một người bình thường”. Chị chủ quán đi lấy hộp trà, mở ra, nghiêng đổ một ít vào lòng bàn tay rồi mở nắp bình trà cẩn thận bỏ vào. Ông khách ngước nhìn chị, hai khuôn mặt gần sát nhau, ông thấy rõ đôi mắt đen chăm chú vào bình trà, chiếc mũi thon, hơi hếch lên vẽ nghịch ngợm, miệng mím lại nửa như làm nghiêm, nửa như cười, gò má hồng da mịn. Ông nghe cả hơi thở nặng nề từ đồi ngực căng phập phồng sức sống của tuổi sung mãn. Ông nói nhỏ “Cám ơn chị, trà thơm quá! Vị đậm và có hậu.” Chị chủ vẫn cúi xuống, lắc nhẹ bình trà. “Ông chờ một lát cho trà ngấm. Trà Blao ướp ngâu, chúng tôi thường uống trà này, quen rồi.” Chị quay về quày. “Nghe ông kể tôi cũng tò mò muốn biết câu chuyện ra sao và tên của người hân hạnh được ông nhớ mãi suốt mấy mươi năm. Tôi sẽ cố tìm giúp ông, biết đâu tôi sẽ tìm thấy, tôi là người ở địa phương này.” “Lúc nãy chị nói tôi lãng mạn, có lẽ đúng. Chuyện chẳng có gì, với người khác, không đáng để nhớ; nhưng với tôi lại là một biến cố lớn trong đời. Đại khái như thế này: năm đó tôi học đại học, sắp ra trường, ở Sài Gòn. Trong dịp tôi theo mấy người anh họ đi dự đám cưới của một người bà con trên Đà lạt, lúc quay về chúng tôi đồng ý sẽ ghé Nha Trang chơi. Tôi nhớ đó là lần đầu tôi thea quốc lộ 20 nên tất cả đều mới lạ và đẹp. Đèo Ngoạn Mục, Đa Nhim, Sông Pha...Lúc vừa vào thị trấn Sông Pha thì xe bị trục trặc, người lái xe bảo phải chờ hơn hai tiếng đồng hồ để người phụ tài đi mua phụ tùng về thay. Chúng tôi rủ nhau vào quán đằng kia. Trong khi các người anh nhậu nhẹt, tôi chỉ kêu một tô cháo lòng. Cô con gái của chủ quán đem cháo ra. Tôi đoán thế vì tôi thấy cô đi học về, vào nhà thay đồ rồi ra phụ với gia đình ngay. Cô trông rất có duyên và vui. Bây giờ gặp lại có lẽ tôi không nhận ra, chỉ còn ấn tượng là cô có đôi mắt đẹp, đen nhánh như cười, môi hồng tự nhiên. Tôi bảo cô: “Anh đi chiếc xe đó kia kìa, nó bị hư phải sửa, ít nhất là vài tiếng nữa. Anh ra dốc cầu kia đứng chơi, khi nào xe đó sửa xong, em bảo họ chờ một lát và cho người ra kêu anh được không?” “Được chứ, nhưng kêu anh, anh sẽ thưởng gì?” “Nếu là người phụ việc ở đây, anh sẽ biếu ít tiền cám ơn.” “Nếu em gọi?” Tôi đùa: “Nếu là em, anh sẽ tặng em quả tim của anh, để em nấu cháo, khách sẽ khen ngon.” Cô le lưỡi: “Anh nói nghe mà ghê!”
Tính tôi vẫn thế, đến chỗ lạ là thích lang thang, nghiêng ngó cảnh vật, đường sá, nhất là nơi nào có chiếc cầu bắc qua sông là tôi có thể đứng ngắm nhà cửa bên kia bờ, ngắm dòng nước cả giờ không chán. Tôi nhớ rất rõ, khi tôi đứng dưới dốc cầu, mặt trời lặn sau dãy rừng cây âm u phía xa, màu mây trời làm đỏ rực mặt sông, tiếng chim về tổ gọi nhau...Chị có ra đó đứng ngắm cảnh chiều tà lần nào chưa? Đẹp lắm! Vẻ êm đềm của thị trấn yên tĩnh, hiền hòa này cứ ở mãi trong trí tôi, biến thành ước ao ngày nào được về đây sống, và mỗi buổi chiều ra ngắm dòng sông...Trong lúc đang mơ màng thì tôi nghe tiếng kêu: “Anh đi về lẹ lên, xe sắp chạy rồi.” Tôi ngẩng lên thấy cô học trò, con chủ quán, vừa chạy trên bờ vừa kêu. Cái bờ sông tuy không cao lắm, nhưng có cỏ, nên cô bị trượt chân, gượng lại không được, cứ chạy chúi nhủi xuống phía tôi. Tôi giữ được tay cô nhưng cô cũng ngã nhào vào người tôi, khiến tôi cũng suýt ngã theo. Đôi mắt cô ngước nhìn tôi sáng long lanh. Cô mắc cỡ nên má cô hồng. Tóc cô dài và đen, vướng đầy cánh tay tôi. Không hiểu sao tôi lại đủ can đãm hôn lên môi cô, chỉ hôn phớt thôi. Môi cô mềm, hơi thở cô thơm như của trẻ thơ. Đó là nụ hôn khinế tôi rung động, hạnh phúc nhất trong đời. Bao nhiêu năm rồi tôi vẫn cảm tưởng như mới đây. Cô đẩy tôi ra, lùi lại, nhìn sững tôi rồi cô cười và nói: “Chạy tìm anh bắt mệt!” Tôi nói “Cám ơn em”. Có lẽ cô bị xúc động nên cứ lúng túng không lên được bờ dốc. Tôi nắm tay cô kéo đi. “Anh tên Hùng, em tên gì?” “Phúc Lan”. “Anh sẽ trở lại thăm em.”
Lên khỏi bờ sông, cô gở tay tôi ra và chạy trước. Cô mới lớn, hơi cao và ốm nhưng dáng đi đã uyển chuyển, tóc cô bay trong gió...” Chị chủ quán bỗng kêu lên: “Thôi chết, trời mưa mà tôi quên đậy mớ củi, ướt hết.” Chị để đầu trần chạy ra cửa, vòng qua sau hè. Người đàn ông không quan tâm, rót nước trà uống, ông ta như muốn kể cho riêng mình nghe. Một lát, chị quay vào, cởi áo mưa treo trước hiên. Đầu tóc, mặt mũi ướt đẫm nước mưa. Chị phân bua: “Mưa lớn quá, ướt hết cả”. Chị ra sau quày, lấy khăn xoa đầu tóc, lau mặt, rồi hỉ mũi suỵt suỵt. Người đàn ông kêu lên: “Chị bị cảm rồi đó!” “Cám ơn, tôi sẽ uống thuốc. Ông kể tới đâu rồi. Xin lỗi, tôi vội quá” “Chuyện đến đó là hết, chẳng có gì hay ho.” “Ông hứa trở lại rồi ông có trở lại không?” “Thú thật, đôi khi tôi cũng quên bẵng đi. Chẳng phải tôi có người yêu khác, mà cuộc đời cứ bắt đầu óc mình quay cuồng với bao chuyện rắc rối, khi nhớ đến cô bé đó thì lại tự hẹn mình chờ dịp thuận tiện. Rồi vụ đổi đời năm 75, tôi không thể đi đâu được. Bây giờ tôi ở xa lắm. Hơn nửa đời người, bao nhiêu biến chuyển, chỉ còn đọng lại trong tâm hồn tôi kỷ niệm nhỏ bé với cô Phúc Lan và buổi chiều Sông Pha năm nào. Tôi nhớ người cũ, cảnh cũ lắm mới tìm về đây. Tôi thấy thích ở đây, ở đến già đến chết cũng được.” Chị chủ quán cười: “Nếu ông về đây, hễ đến quán này, tôi tính nửa giá thôi. Nhưng bây giờ ông định làm gì, có muốn gặp lại cô bé ngày xưa không? Theo ông kể, có lẽ tuổi cô ta cũng cỡ tôi, cũng đi học cùng trường với tôi, nhưng sao nghe cái tên lạ quá. Để tôi giúp ông, tôi sẽ hỏi các bạn tôi ở đây, dù cô ta có đi nơi khác cũng còn bà con, bạn bè biết cô ta. Nhưng hỏi ra thì báo cho ông cách nào. Ông có địa chỉ không? Ông có muốn nhắn gì với cô ta không?” “Ý kiến chị vậy mà hay. Tôi chỉ cần biết cô ta ở đâu để có dịp tôi chỉ đến nhìn thôi, chứ không gặp. E cô ta đã quên tôi rồi! Lại nữa, tôi không muốn xáo trộn cuộc sống của cô ta. Tôi là kẻ ngoại cuộc rồi.” “Ôn cứ cho tôi địa chỉ, khi tìm ra tôi sẽ báo cho ông.” Rồi chị cười “Tôi cũng bắt chước cô bé ngày xưa của ông, hỏi ông, nếu tìm ra cô ta, ông sẽ thưởng gì cho tôi? Tôi cũng không cần tiền, không cần quả tim của ông”. “Chà khó hè! Thôi thì như chị nói, tôi sẽ đến quán này hàng ngày, suốt quảng đời còn lại của tôi.” “Đùa với ông thôi, bây giờ ông cho tôi địa chỉ, nhưng bà xã của ông nổi ghen thì không phải lỗi của tôi đâu nghe.” “Tôi chẳng có gia đình. Tôi đã là thanh niên râu rồi, lỡ thì rồi. Chị có giấy cho tôi xin một tờ, cây viết nữa”. Chị chủ quán gọi lớn “Hùng ơi, đem cho mẹ cây viết và tờ giấy.” Cô bé chạy ra. “Con đem cho bác đàng kia”. Chị chủ quán nhìn con gái và ông khách, ngạc nhiên thấy hao hao như hai cha con.
Ông khách hỏi ý kiến chị chủ quán: “Có lẽ tôi nên viết mấy dòng cho cô ta để nhắc lại chuyện cũ xem cô có nhớ ra không. Tôi nên gọi cô ta là chị, bà hay là cô?” “Tôi thấy ông nên viết là bà, hợp lý hơn.” “Phải rồi, gọi là bà đứng đắn hơn. Rủi người ta không nhớ ra mình cũng không bảo rằng mình thiếu lịch sự”. Người đàn ông ngồi nép vào vách để tránh bụi mưa, chống cằm suy nghĩ một lúc rồi cắm cúi viết. Được độ nửa trang ông đọc lại rồi đem đến cho chị chủ quán: “Chị xem tôi viết thế này có được không?”
“Kính gửi bà Phúc Lan,
Tôi tên Hùng, cách đây gần hai mươi năm, tôi là người khách đến quán của gia đình bà ăn tô cháo. Xong, tôi ra bờ sông ngắm cảnh trong lúc chờ xe bị hỏng phải sửa chữa. Bà có ra gọi tôi vì xe đã sửa xong, tôi được biết tên bà là Phúc Lan. Tuy chỉ có thế nhưng tôi vẫn nhớ đến bà mãi. Hôm nay tôi ghé lại Sông Pha thì quán của gia đình bà không còn nữa! Tôi chỉ mong được biết tin về bà bây giờ ra sao? Bà chắc đã có gia đình, tôi thì cũng lớn tuổi rồi, không còn như ngày xưa! Thế nên tôi chỉ ước mong bà xem tôi như một người bạn nếu bà còn nhớ ra tôi. Còn như bà đã quên bẵng tôi thì tôi xin lỗi bà về những dòng chữ vô duyên này. Tôi đã kể hết cho chị chủ quán, người đưa mảnh giấy này, nếu tò mò, xin bà cứ hỏi chị ta. Kính chúc bà và ông nhà và các cháu khang an, vạn sự như ý. Kính thư. Hùng”
Chị chủ quán đọc xong. “Ông viết thế này đủ rồi, nếu cô ta có hỏi gì về ông, tôi sẽ kể lại như ông đã kể cho tôi nghe”. “Cám ơn chị. Tiếc quá, hôm nay trời mưa, tôi không thể đi lòng vòng thị trấn này”. “Ở đây buồn lắm, trời mưa lại càng buồn hơn. Ông từng đi đây đi đó... mà lại thích ở đây cũng lạ! Nếu ông chờ, hy vọng ngày mai mưa sẽ tạnh”. “Sáng sớm tôi phải đi rồi. Chào chị!” Nói xong ông ta lại xòe tay che đầu, rụt cổ lại đi nép vào hàng hiên. Chị chủ quán ngồi nhìn theo ông ta cho đến khi đi khuất. Chị bần thần đọc lại lá thư rồi xé ném vào bếp lửa, chỉ giữ lại cái địa chỉ.
Sông Pha, ngày... tháng... năm...
“Anh thân yêu,
“Buổi chiều, lúc anh rời quán, em muốn chạy theo kêu anh, cho anh rõ rằng người anh muốn tìm là em, nhưng không hiểu sao, em chỉ biết ngồi chết lặng. Tối đó, em cứ thao thức mãi. Tưởng tượng anh đang ở trong quán trọ đằng kia, ngay tại Sông Pha này... Anh gần đó mà sao em thấy xa vời quá! Tình yêu của em, ước mơ của em, hạnh phúc của em... em tưởng là tuyệt vọng, bây giờ đã hiện ra, nhưng em không còn quyền quyết định nữa!
“Và giờ đây, em đang khóc khi viết cho anh. Khóc vì mừng và giận anh. Sao anh hẹn mà không trở lại? Chỉ một cái trượt chân định mệnh, em ngã vào vòng tay anh, em gỡ tay anh ra nhưng em không gỡ được linh hồn em, cuộc đời em ra khỏi anh. Đã bao buổi chiều em ra ngồi ở dốc cầu, âm thầm khóc vì nhớ anh. Em tưởng như anh còn đứng đấy. Dáng anh cao, mắt anh sáng, miệng tươi cười với em. Vì lời hứa của anh mà em hy vọng mãi. Nghe tiếng xe đò ngừng trước đường là em hồi hộp, thầm nhủ rằng anh đang xuống xe và đến với em. Chỗ anh ngồi trong quán, không lúc nào là em không nhìn chừng. Em yêu thương cả đến chỗ ngồi của anh! Và tên anh, nghe người ta gọi nhau, em cũng rung động, nhớ anh.
“Với tuổi thơ ngây, em chỉ cầu mong được gặp anh, nhìn anh, chuyện trò cùng anh, thế thôi. Đến khi trưởng thành, nụ hôn của anh, vòng tay anh thành ước mơ được anh ấp ủ, được quấn quít bên anh.
“Khi quyết định lấy chồng, em cũng ra dốc cầu ngồi khóc đến sưng cả mắt mà chẳng biết tâm sự với ai. Em chỉ biết kêu lên với dòng sông, với gió chiều: “Xin hẹn anh kiếp sau” tưởng như gió sẽ đưa lời của em đến với anh. Nhưng biết anh nơi đâu? Chiều nay em cũng lại ra đấy, đứng nhìn dòng sông, lòng em vui khi anh đã quay lại nhưng không khỏi ngậm ngùi vì những ước mơ chẳng còn gì. Em cũng đành thì thầm với dòng sông, với gió chiều: “Xin hẹn anh kiếp sau”. Anh bảo rằng đã quên em, chỉ nhớ đôi mắt em rất vui, rất đẹp. Bây giờ đôi mắt không còn vui, cũng chẳng còn đẹp đến độ anh đã gặp mà không nhận ra em! Em thì giây phút đầu đã biết ngay là anh, nhưng không hiểu anh có còn nghĩ đến em không? Đến khi nghe anh kể lại, khi anh nhắc đến tên anh, tên em, em phải chạy ra ngoài mưa đứng khóc vì xúc động và để khỏi mềm lòng ngã vào tay anh. Yêu anh, nhớ anh đã là một hạnh phúc. Được biết anh cũng nhớ đến em, hạnh phúc và lòng biết ơn anh tràn ngập lòng em. Bao nhiêu năm rồi, nụ hôn của anh, có bao giờ em quên! Dù sao cũng là một an ủi cho em, không bỏ công em lập quán bên đường để chờ anh. Đứa con gái đầu lòng, em đặt tên anh để mỗi ngày gọi anh cho đỡ nhớ, và em cũng không ngờ nó lại phảng phất giống anh... Từ hôm nay em lại nhìn chừng về phía bàn anh ngồi, lại hy vọng. Anh vẫn thế, nhưng em đã thay đổi. Em đã có chồng, có con. Em thương chồng, thương con. Em có một gia đình bình thường, một hạnh phúc bình thường như anh đã bảo. Lý trí em thì nghe theo lời anh, “Không muốn xáo trộn cuộc sống của em”. Nhưng tự tim em, tự tâm hồn em, cứ mong ngóng được gặp lại anh hàng ngày.
“Hay là thế này. Chúng ta thỏa thuận, cứ vào gần cuối mùa xuân, mỗi năm anh về thăm em một lần, cũng vào buổi chiều như hôm trước. Anh như khách lạ ghé vào quán của em. Anh đừng chuyện trò, hỏi han gì em. Anh cứ ngồi đấy, để em được nhìn thấy anh trong chốc lát, là ban cho em hạnh phúc tuyệt vời rồi. Xin anh đừng liên lạc gì với em cả. Em không ghi địa chỉ của em là vì thế.
“Em van anh, đừng thực hiện ý định về sống suốt đời ở thị trấn này. Dốc cầu còn đó, dòng sông còn đó, ánh nắng chiều vẫn vậy. Nếu anh về ở hẳn nơi đây, mỗi chiều anh ra đứng đấy thì cái thảm cỏ kia sẽ làm trượt chân em. Lần này, em biết, sẽ không gỡ tay anh ra được nữa”
Phạm Thành Châu
| | |
|
Lộ Công Mười Lăm
|
IP Logged |
|
lo cong
Senior Member
Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
|
Gởi ngày: 28/Jul/2014 lúc 8:10pm |
Cám ơn tác giả Vô danh- đã mượn chữ đề thơ tuyệt diệu.
Quê em BIỂN MẶN dừa xanh
Sóng tình HOA BIỂN dổ dành người thương
KIẾP NGHÈO một nắng hai sương
LỐI VỀ XÓM NHỎ cuối đường cầu tre
Đượm nồng TÌNH THẮM DUYÊN QUÊ
Rung rinh GÁNH LÚA hẹn thề đêm trăng
NƯƠNG CHIỀU khói toả lều tranh
Vài con BƯỚM TRẮNG lượn quanh liếp cà
HƯƠNG THẦM còn mãi TÌNH XA
BUỒN VƯƠNG MÀU ÁO còn ra nổi này
CON THUYỀN KHÔNG BẾN có hay
THU SẦU, CHIỀU TÍM tháng ngày đơn côi
TRĂNG MỜ BÊN SUỐI ngàn đời
Sao MÙA THU CHẾT còn rơi rớt nhiều
ĐÈN KHUYA một bóng cô liêu
MÙA THU CÒN ĐÓ tình yêu ngỡ ngàng
ĐÒ CHIỀU chưa tiễn người sang
NỔI LÒNG sao biết THIÊN ĐÀNG ÁI ÂN
TRÚC ĐÀO rụng khắp đầy sân
DUYÊN QUÊ mong gặp một lần cho vơi
NỔI BUỒN HOA PHƯỢNG trong đời
DẤU CHÂN KỶ NIỆM một thời học sinh
Và TRANG NHẬT KÝ riêng mình
Làm sao có được chuyện TÌNH THIÊN THU
CÔ ĐƠN nhìn GIỌT MƯA THU
Nghe như TUYẾT LẠNH âm u sao đành
Lật từng LƯU BÚT NGÀY XANH
Thấy như LỆ ĐÁ vây quanh NỖI NIỀM
SẦU ĐÔNG chẳng phải của riêng
BÓNG CHIỀU TÀ nhạt, PHỐ ĐÊM hững hờ
ĐÒ CHIỀU chở mấy LÁ THƠ
KHUNG TRỜI TUỔI MỘNG, TÌNH BƠ VƠ sầu
Ôi NHỮNG ĐÓM MẮT HỎA CHÂU
NỦA ĐÊM NGOÀI PHỐ nhuốm màu thê lương
MONG NGƯỜI CHIẾN SĨ sa trường
Vào trong CÁT BỤI gíó sương không sờn
Để ai GIẤC NGỦ CÔ ĐƠN
NGƯỜI ĐẸP YÊU DẤU, DỖI HỜN phòng the
Từng đêm TRĂNG SÁNG VƯỜN CHÈ
TRĂNG MỜ BÊN SUỐI nghe se sắt lòng
CÔ ĐƠN, TÌNH NHỚ, phòng KHÔNG
NGHÌN TRÙNG XA CÁCH nhớ mong ngập trời
NẮNG CHIỀU giăng sợi đơn côi
GIỌT MƯA TRÊN LÁ khóc đời hợp tan
Bao giờ em bước SANG NGANG
GIỌT LỆ SẦU khóc CHIỀU HOANG VẮNG người
GA CHIỀU, NHƯ GIỌT SẦU RƠI,
TẦU ĐÊM NĂM CŨ biết NGƯỜI VỂ đâu
XÓM ĐÊM, TRĂNG RỤNG XUỐNG CẦU
TÌNH BUỒN biến SẮC HOA MÀU NHỚ thương
Cho em ĐÔI BÓNG bên đường
Chung HAI LỐI MỘNG một phương trời hồng
Sá gì ẢO ẢNH, ĐÊM ĐÔNG
NỔI BUỒN GÁC TRỌ chờ mong ngày về
NGĂN CÁCH, MẤY DẬM SƠN KHÊ
ĐƯỜNG XƯA LỐI CỦ trăng thề còn đây
Tình yêu CHIẾC LÁ THU PHAI
LÂU ĐÀI TÌNH ÁI không xây một mình
Từ ngày XẾP ÁO THƯ SINH
ANH ĐI CHIẾN DỊCH đăng trình nặng vai
NGẬM NGÙI cửa đóng then gài
NGƯỜI YÊU CỦA LÍNH không phai má đào
Lỡ khi BIẾT TRẢ LỜI SAO
TÌNH CHÀNG Ý THIÊP ai sầu hơn ai
Đượm nồng TIẾNG SÁO THIÊN THAI
KHÔNG BAO GIỜ CÁCH NGĂN hai mai đầu
Một lòng ĐỪNG NÓI XA NHAU
NGƯỜI YÊU LÝ TƯỞNG trọn câu vẹn thề
Rồi MỘT MAI QUA CƠN MÊ
HAI VÌ SAO LẠC đi về BẾN MƠ
VẮNG XA vẫn mãi ĐỢI CHỜ
Để em viết tiếp BÀI THƠ CUỐI CÙNG
Có ai THƯONG VỀ MIỀN TRUNG
QUÊ NGHÈO sỏi đá khốn cùng điêu linh
Lòng như KHÚC HÁT ÂN TÌNH
Trãi dài QUÊ MẸ nắng bình minh vui
MƯA TRÊN PHỐ HUẾ sụt sùi
CHO NGƯỜI TÌNH LỠ bùi ngùi vấn vương
VỀ ĐÂU MÁI TÓC NGƯỜI THƯƠNG
NƯẢ ĐÊM NGOÀI PHỐ lòng TƯƠNG TƯ sầu
Dẫu rằng HAI ĐỨA GIẬN NHAU
Vẫn không như thể QUA CẦU GIÓ BAY
Một lần TỪ GIÃ THƠ NGÂY
Là em NHƯ CÁNH VẠC BAY mất rồi
Dẫu cho CAY ĐẮNG, TÌNH ĐỜI
NGƯỜI EM SẦU MỘNG tuyệt vời yêu anh
Ân tình GẠO TRẮNG TRĂNG THANH
Làm sao NƯỚC MẮT LONG LANH cạn dòng
Bây giờ TRÊN ĐỈNH MÙA ĐÔNG
NGƯỜI EM XÓM ĐẠO chỉ mong một điều
Thương em HÃYNHỚ NHAU NHIỀU
Hãy xin LÝ LUẬN TÌNH YÊU thế nào
Cũng xin đừng VẪY TAY CHÀO
TÌNH YÊU TRẢ LẠI TRĂNG SAO thật buồn
MỘT LẦN DANG DỞ đau thương
THA LA XÓM ĐẠO thánh đường bơ vơ
Hằng đêm QUÁN NHỎ ĐỢI CHỜ
Ôm SẦU LẼ BÓNG vần thơ bẽ bàng
Còn đâu HOA SỨ NHÀ NÀNG
Gặp em trở lại CÔ HÀNG XÓM xưa
Còn đâu HUYỀN THOẠI CHIỀU MƯA
NHỮNG NGÀY THƠ MỘNG đón đưa hẹn thề
Em SAO KHÔNG THẤY ANH VỀ
MIỀN TRUNG THƯƠNG NHỚ tái tê lạnh nhiều
ĐÊM TÀN BẾN NGỰ cô liêu
AI RA XỨ HUẾ hắt hiu tháng ngày
Ôi chao THÀNH PHỐ MƯA BAY
KHÓC NGƯỜI TRINH NỬ đắng cay tình đời
HAI PHƯƠNG TRỜI CÁCH BIỆT rồi,
NGẬM NGÙI cắn chặt bờ MÔI TÍM màu
BAO GIỜ TA GẶP LẠI NHAU
NỔI BUỒN HOA PHƯỢNG giọt sầu ly tan
Anh XIN TRẢ LẠI THỜI GIAN
ĐƯA EM VÀO HẠ thênh thang vùng trời
THÔI thì ANH BIẾT EM ƠI
DƯ ÂM ngày MỘNG SẦU đời khó quên
CĂN NHÀ MÀU TÍM êm đềm
MỘT TRỜI THƯƠNG NHỚ làm nên CHUYỆN TÌNH
NÉT BUỒN THỜI CHIẾN điêu linh
Ráng đi em CHUYỆN CHÚNG MÌNH qua mau
TÌNH ANH LÍNH CHIẾN địa đầu
Trao em ÁO ĐẸP NÀNG DÂU mai này
CHIỀU MƯA BIÊN GIỚI có hay
ĐÊM BUỒN TỈNH LẺ tháng ngày héo hon
TÌNH YÊU CÁCH BIỆT mõi mòn
SAO ANH LỖI HẸN em còn đơn côi
Ngày MAI ANH ĐI XA RỒI
ĐÒ TÌNH LỠ CHUYẾN bờ môi nhạt nhoà
TÀU ĐÊM NĂM CỦ mấy toa
BIỆT LY như CHUYỆN TÌNH HOA TRẮNG tàn
NỔI LÒNG mang tận quan san
Là như vai nặng HÀNH TRANG GIÃ TỪ
Phương này VẦNG TRÁN SUY TƯ
Xem như PHÚT CUỐI, TẠ TỪ TRONG ĐÊM
Mà SAO EM NỞ ĐÀNH QUÊN
RỪNG CHƯA THAY LÁ, GỌI TÊN BỐN MÙA
Tiền đồn THÁNG SÁU TRỜI MƯA
Trọn tình thương nhớ CHO VỪA LÒNG EM
Trở về MỘT CHUYẾN BAY ĐÊM
VÙNG TRỜI NGÀY ĐÓ càng thêm mặn nồng
TẠ ƠN, TRĂNG SÁNG ĐỒI THÔNG
CƠN MÊ TÌNH ÁI phiêu bồng LÃNG DU
Ngõ hồn lạc lối VƯỜN THU
MỘT ĐÊM KHÔNG NGỦ ngục tù con tim
Ngày mai anh BIẾT ĐĂU TÌM
LINH HỒN TƯỢNG ĐÁ im lìm bơ vơ
Đắm chìm BIẾT ĐẾN BAO GIỜ
CHUYỆN NGƯỜI ĐAN ÁO đợi chờ đêm đông
Xin em ĐỪNG TRÁCH DIÊU BÔNG
BUỒN VƯƠNG MÀU ÁO má hồng chưa phai
Sao em NHƯ TIẾNG THỞ DÀI
NGHẸN NGÀO đắng GIỌT LỆ ĐÀI TRANG tuôn
Để cho TỪ ĐÓ EM BUỒN
NẾU MAI ANH CHẾT chim muôn gọi đàn
TÌNH YÊU VỖ CÁNH băng ngang
GA CHIỀU PHỐ NHỎ đèn vàng xót xa
TÌNH NGHÈO mang KIẾP CẦM CA
ĐIỆU RU NƯỚC MẮT phòng trà từng đêm
THỀM TRĂNG còn đọng môi mềm
GIỌNG CA DĨ VÃNG buồn thêm nản lòng
Cho em BẢY NGÀY ĐỢI MONG
SAO ANH KHÔNG ĐẾN phòng không cuối tuần
Anh còn VỌNG GÁC ĐÊM SƯƠNG
CHIỀU MƯA BIÊN GIỚI còn vương giặc thù
BỐN VÙNG CHIẾN THUẬT mật khu
Bên RỪNG LÁ THẤP sương mù giăng giăng
Trên đồi HOA TÍM BẰNG LĂNG
NHỚ MẦU HOA TÍM đêm trăng thuở náo
Chuyện tình HÒ HẸN trăng sao
PHÚT ĐẰU TIÊN ắy nghe xao xuyến lòng
LẶNG THẦM, HOA RỤNG VEN SÔNG
Ngập ngừng GỎ CỬA hằng mong trao nàng
KỂ TỪ ĐÊM ĐÓ thênh thang
ĐƯỜNG LÊN SƠN CƯỚC vai mang chử tình
Đếm từng sợi NẮNG THỦY TINH
TÌNH XA em mãi NHỚ MÌNH ANH THÔI
Đường tình NHẬT KÝ ĐỜI TÔI
THUYỀN MƠ, CHUYỂN BẾN nhẹ trôi im lìm
CHIỀU trên NHỮNG ĐỒI HOA SIM
TÌNH THƯ CỦA LÍNH gởi niềm riêng em
Có loài HOA NỞ VỀ ĐÊM
Một loài HOA TRẮNG mang tên là quỳnh
Gót chân NGƯỜI LÍNH CHUNG TÌNH
BẠC MÀU ÁO TRẬN vẫn tình không phai
CHỜ ANH TRỞ LẠI ngày mai
ĐƯỜNG XƯA LỐI CŨ sánh vai TÌNH HỒNG
Bây giờ em THẤY GÌ KHÔNG
Làm sao em biết NỔI LÒNG NGƯỜI ĐI
Bây chừ ĐÔI NGÃ CHIA LY
Cho NGƯỜI Ở LẠI CHARLY nghìn trùng
Đường chiều phủ kín MƯA RỪNG
SAO EM KHÔNG ĐẾN trời rưng rưng sầu
Cạn nguồn GIÒNG LỆ THƯƠNG ĐAU
Thương HÀN MẠC TỬ sớm mau lìa trần
PHÙ DU kiếp sống chinh nhân
ĐOÀN NGƯỜI LỮ THỨ, BƯỚC CHÂN ÂM THẦM
Và SAO CHƯA THẤY HỒI ÂM
Của người TÌNH LỞ TRĂM NĂM đợi chờ
Dẫu rằng TÌNH LÀ SỢI TƠ
DẤU TÌNH SẦU vẫn BƠ VƠ cuối tuần
Phương này PHIÊN GÁC ĐÊM XUÂN
BUỒN VUI ĐỜI LÍNH trầm luân tháng ngày
chiều nào TỪ GIÃ THƠ NGÂY
AI XUÔI VẠN LÝ vui vầy nước non
LỜI THỀ SÔNG NÚI vẫn còn
TÌNH ANH LÍNH CHIẾN chưa sờn chí trai
TÌNH ANH BIỂN RỘNG sông dài
DẤU CHÂN KỶ NIỆM, THƯƠNG HOÀI NGÀN NĂM
Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 28/Jul/2014 lúc 8:11pm
|
Lộ Công Mười Lăm
|
IP Logged |
|
lo cong
Senior Member
Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
|
Gởi ngày: 25/Sep/2014 lúc 8:50pm |
Hành trình tội ác của sát thủ gốc Việt (kỳ 1)Sinh ra tại Sài Gòn, lớn lên tại Pháp và mang trong mình dòng máu lai Việt - Ấn, Charles Sobhraj thường xuyên đi lại giữa châu Âu và châu Á để thực hiện tội ác "còn hơn cả trong phim".
Charles Sobhraj là cái tên đi vào phim ảnh như một trong những sát nhân nổi tiếng nhất thế giới với một loạt các biệt danh như “sát nhân bikini”, “kẻ đào tẩu”, “người rắn”. Đặc biệt, dù đang thụ án tại nhà giam nhưng y vẫn được nhận hàng triệu USD tiền bản quyền từ các nhà xuất bản hoặc hãng phim lớn khi người ta dựa vào cuộc đời y làm mẫu cho những tác phẩm đình đám.
|
Charles Sobhraj vẫn đạo mạo dù đang phải thụ án chung thân.
|
Sobhraj sinh ngày 6/4/1944 tại Sài Gòn, lớn lên tại Pháp, là con ngoài hôn thú của một người phụ nữ Việt Nam và một thợ may Ấn Độ. Là kẻ lừa đảo, trộm cắp, buôn ma túy và giết người hàng loạt nhưng cuộc đời phiêu bạt cùng những cuộc đào tẩu chỉ có trong tiểu thuyết giúp cho “sát nhân bikini” thành ngôi sao của giới truyền thông.
Bằng cách “bán” những câu chuyện cuộc đời ly kỳ của mình cho báo chí, nhà làm phim…Sobhraj có thừa tiền để sống cuộc sống vương giả đáng mơ ước ngay trong tù.
Tuổi thơ dữ dội
Ngay từ khi Sobhraj vừa mới cất tiếng khóc chào đời, cha đẻ của cậu dứt áo ra đi, bỏ lại mẹ bơ vơ một mình ôm con khóc mỏi mòn. Tại Sài Gòn, cậu bé con lớn lên trong sự thờ ơ của mẹ và thiếu hơi ấm của cha. Mẹ cậu, bà Song luôn cho rằng chính Sobhraj là nguyên nhân gây rạn nứt tình cảm, khiến cha cậu bỏ rơi bà.
Chẳng lâu sau, bà Song gặp và kết hôn với một sỹ quan người Pháp đồn trú tại Đông Dương. Ông Alphonse Darreau đồng ý trở thành cha dượng của Sobhraj và đưa mẹ con cậu sang Pháp nhưng không cho cậu bé lấy tên mình.
Những năm tháng tuổi thơ tiếp theo của Sobhraj gắn liền với thành phố cảng Marseilles của Pháp. Thời gian đầu, cha dượng đối xử rất tốt, yêu thương cậu như con ruột. Nhưng mọi sự thay đổi kể từ khi bà Song sinh hạ đứa con ruột đầu tiên cho ông. Càng ngày, cậu bé càng cảm thấy cô đơn, lạc lõng. Đã không còn được quan tâm, cậu bé trở thành người thừa trong ngôi nhà ấy.
Như để đáp trả lại sự thờ ơ ấy, cậu nhóc Sobhraj tìm đủ mọi cách để gây sự chú ý. Giống như suy nghĩ của nhiều đứa trẻ khác, Sobhraj thà bị ghét bỏ còn hơn bị lãng quên. Cậu cố tỏ ra ngang bướng và ương ngạnh, phá phách mọi thứ chỉ mong được bố mẹ để mắt tới.
Ở nhà, Sobhraj là một đứa trẻ ngỗ ngược, tới trường, cậu là một học sinh cá biệt. Dù được đánh giá là một cậu bé thông minh, nhưng Sobhraj thường xuyên trốn học. Nếu có tới trường, cậu cũng quậy cho tới lúc bị thầy cô tống cổ ra ngoài mới thôi.
Có một điểm kỳ lạ, dù bị cha ruột bỏ rơi từ lúc mới sinh, nhưng Sobhraj vẫn luôn tôn thờ ông như một người hùng. Càng cảm thấy lạc lõng ở Pháp, mơ ước được tới phương Đông để tìm cha càng cháy bỏng trong cậu.
Không ít lần người ta thấy một cậu bé loắt choắt đang cố len lỏi xếp hàng ở bến cảng Marseilles để trốn lên tàu tới Đông Dương. Thôn thường, Sobhraj bị chặn lại ngay từ cửa soát vé nhưng cũng có khi cậu lẻn lên được tàu lênh đênh giữa biển mới bị phát hiện và bắt trả về nhà. Không biết bao nhiêu lần mẹ và cha dượng lại phải nộp tiền để bảo lãnh Sobhraj.
Lần đầu tù tội
Nhiều người cho rằng, những chấn thương tâm lý từ thời thơ ấu chính là động cơ dẫn tới hàng loạt những tội ác của Sobhraj sau này. Càng lớn Sobhraj càng trở nên bất trị. Bố mẹ ở Pháp quá chán nản và mệt mỏi về cậu. Năm 1963, khi Sobhraj bị bắt ở Paris vì tội trộm cắp, không còn ai đứng ra bảo lãnh cho cậu nữa.
Chưa đầy 19 tuổi, Sobhraj lần đầu tiên ngồi tù. Cô đơn, lạc lõng, sống chết chẳng ai quan tâm, Sobhraj đâm ra oán hận gia đình và xã hội. Cậu nung nấu một quyết tâm sẽ phải làm điều gì đó để một ngày những người ruồng bỏ cậu sẽ phải hối hận.
|
Chân dung Charles Sobhraj.
|
Charles Sobhraj phải ngồi “bóc lịch” 3 năm trong nhà tù Poisy khét tiếng ở Pháp. Cậu nhanh chóng thích nghi và hòa nhập với cuộc sống tàn bạo và khắc nghiệt tại đây. Dù mang trong mình dòng máu châu Á với dáng người nhỏ con, cậu bị không ít “ma cũ” hằm hè, nhưng Sobhraj biết tận dụng vài món karate học được để tự vệ.
Thái độ khôn ngoan và tài ăn nói của Sobhraj đem đến cho cậu nhiều đặc ân ngay trong nhà tù. Không chỉ kết thân được với các đại ca có “số má” trong nhà giam, cậu còn lấy lòng được các quản ngục. Được tin tưởng giao cho giữ các sổ sách ghi chép trong nhà giam, Sobhraj không phải làm việc nặng nhọc và được đi lại tự do trong nhà tù.
Đặc biệt, Sobhraj ngay lập tức thu hút được sự chú ý của Felix d'Escogne, nhà hảo tâm giàu có thường đến thăm nom các tù nhân, giúp họ chuyển thư từ hoặc giải quyết một số vấn đề pháp lý. Người đàn ông này được coi như vị ân nhân và có vai trò quan trọng trong cuộc đời Sobhraj sau này.
Charles Sobhraj đủ khôn ngoan để nhận ra rằng phải tiếp cận và kết thân với Felix. Chẳng mấy chốc 2 người trở nên thân thiết. Felix thường xuyên mang sách, báo đến cho Sobhraj đọc, khích lệ động viên cậu cải tạo tốt. Thậm chí Felix còn tìm đủ cách để Sobhraj hòa giải với gia đình.
Charles Sobhraj được ân xá sớm. Ra tù, cậu chuyển đến sống trong ngôi nhà sang trọng của Felix. Tại đây, Sobhraj bắt đầu chạm tay vào cuộc sống của giới thượng lưu Pháp. Cậu làm quen và kết thân với những gia đình giàu có nhất nhì Paris lúc đó.
Nhưng cuộc sống xa hoa đó không làm chết đi con người trộm cướp của Sobhraj. Cậu nhanh chóng quay lại con đường cũ, hoạt động khôn khéo và tinh vi hơn. Chẳng lâu sau, Sobhraj trở nên giàu có nhờ các vụ lừa đảo và trộm cắp trót lọt.
Charles Sobhraj đang “chân trong chân ngoài” giữa 2thế giới khác biệt. Một bên là thế giới hào nhoáng sang trọng cùng người bạn tốt Felix, còn một bên là thế giới đen tối hơn – thế giới tội ác ngầm ở Paris – cuộc sống đích thực của Sobhraj.
Hành trình tội ác của sát thủ gốc Việt (kỳ 2)
Lừa cưới được tiểu thư xinh đẹp và danh giá Chantal nhưng cuộc đời Sobhraj không hề viên mãn mà ngược lại, y kéo cả vợ con lao vào vòng xoáy "tình, tiền, tù, tội" nơi đất khách quê người.
Trong thời gian sống cùng Felix d'Escogne, Charles Sobhraj gặp Chantal, một thiếu nữ xinh đẹp sinh ra trong một gia đình thanh thế thuộc chính phủ Pháp. Với tài ăn nói cùng vẻ ngoài giàu có, kẻ lừa đảo Sobhraj nhanh chóng "hớp hồn" Chantal. Cô gái trẻ mê mệt với câu chuyện về những chuyến viễn dương phương Đông và gia đình giàu có tại Sài Gòn mà Sobhraj bịa ra.
|
Charles Sobhraj "sở hữu" thành tích phạm tội và vượt ngục nhiều nhất thế giới.
|
Trốn chạy cùng người vợ danh giá
Cái đêm Sobhraj quyết định cầu hôn với Chantal là một đêm đen đủi đưa hắn trở lại nhà tù lần nữa. Sobhraj ăn cắp một xế hộp đưa người tình tới một sòng bạc sang trọng. Tại đây, hắn thua bạc, hàng ngàn france trong túi không cánh mà bay. Hắn điên rồ, phóng xe như điên cho tới khi Chantal phải bằng lòng với lời cầu hôn của hắn.
Tuy nhiên, cũng đúng lúc ấy, tiếng còi cảnh sát hú inh ỏi đằng sau. Trốn chạy không được, Sobhraj buộc phải quay lại nhà tù cũ "bóc lịch" thêm 8 tháng vì tội ăn cắp xe.
Dù vậy, Chantal vẫn một lòng tin tưởng, ủng hộ người yêu. Cô bất chấp sự phản đối kịch liệt của gia đình để đứng ra bảo vệ và chờ Sobhraj mãn hạn tù để kết hôn. Không lâu sau khi Sobhraj ra tù, một lễ cưới được tổ chức đơn giản với sự tham gia của đại diện 2 gia đình.
Khi cô vợ trẻ đẹp thông báo có thai cũng là lúc kẻ lừa đảo đội lốt đại gia đánh hơi được những vụ lừa đảo của mình sắp bị phanh phui. Hắn đủ tinh quái để biết rằng cảnh sát không sớm thì muộn cũng phát hiện ra hàng loạt các vụ làm séc giả trên toàn nước Pháp và vụ trộm cắp, lừa đảo các gia đình giàu có ở Paris do hắn chủ mưu.
Charles Sobhraj quyết định đưa vợ rời châu Âu sang phương Đông trước khi bị tóm. Trên đường chạy trốn, họ lợi dụng và trộm cướp cắp tài sản của bất cứ ai làm bạn với họ. Cuối cùng, 2 người cũng đặt chân tới được Ấn Độ huyền bí và một bé gái kháu khỉnh chào đời tại đây.
Không khó khăn để vợ chồng Sobhraj hòa nhập với cộng đồng những người Pháp xa xứ sống tại đây. Trong những năm 1970, Sobhraj kết thân được với khá nhiều người giàu có và quyền lực. Hắn tận dụng mối quan hệ này để làm môi giới, buôn bán xe ăn cắp cho giới nhà giàu Ấn Độ và người châu Âu. Trong một thời gian dài, Sobhraj tiêu thụ trót lọt rất nhiều xe do chính tay hắn ăn cắp hoặc buôn qua tay xe ăn cắp từ Pakistan và Iran tuồn vào Ấn Độ.
Trong khi đó, cô vợ Chantal vẫn không biết về những hành động trộm cắp phi pháp của chồng. Nhiều lần, Chantal vô tình trở thành đồng bọn trong các phi vụ của hắn. Nhưng chồng đi biền biệt với những phi vụ làm ăn, Chantal luôn cảm thấy cô đơn nơi đất khách. Bù lại, mỗi lần về Sobhraj tặng Chantal rất nhiều nữ trang quý giá mà chỉ hắn mới biết nguồn gốc ở đâu.
Sobhraj rất "máu me" cờ bạc. Đó là điểm yếu lớn nhất của gã đàn ông quỷ quyệt này. Trong một lần thua bạc ở Ma cao, hắn trắng tay, thậm chí phải gánh một khoản nợ rất lớn. Toàn bộ gia tài cùng số nữ trang tặng vợ không đủ để trả nợ. Sobhraj ngày đêm sống trong nỗi lo sợ bị chủ sòng bạc đến siết nợ.
Kẻ cướp lộ nguyên hình
Cùng thời điểm ấy, một người đàn ông Pháp đề nghị Sobhraj hợp tác trong một phi vụ lớn, hứa hẹn không những trả đủ nợ mà còn có thể sống dư dả một thời gian dài. Như kẻ chết đuối gặp phao cứu hộ, hắn lập tức gật đầu.
Hai tên đạo chích chuyên nghiệp lên một kế hoạch hoàn hảo để cướp tiệm nữ trang lớn ở Delhi. Theo kịch bản, chúng sẽ thuê một căn phòng tại khách sạn Ashoka ngay phía trên cửa tiệm. Lợi dụng lúc nửa đêm, chúng sẽ dùng khoan giảm âm, đục sàn nhà để nhảy xuống và khoắng sạch số châu báu trong cửa hàng mà không ai hay biết.
Thế nhưng kế hoạch lớn bất thành. Sau 3 ngày hì hụi khoan mà lớp bê tông vẫn không xi nhê. Chúng đành phải xoay sang phương án B. Đóng giả là những khách hàng giàu có và tiềm năng, Sobhraj lừa chủ tiệm vào phòng kín, dùng súng uy hiếp và khoắng sạch cửa hàng.
Mang theo túi nữ trang đầy cùng gần 10.000 USD tiền mặt, Sobhraj phóng thẳng tới sân bay Deihi. Tên trộm những tưởng sẽ cao chạy xa bay an toàn cùng khối tài sản lớn. Thế nhưng, hắn đã tính sai một bước.
Chủ tiệm trốn thoát và báo cho cảnh sát. Toàn bộ sân bay bị phong tỏa. Không còn sự lựa chọn, Sobhraj phải cắn răng bỏ lại túi của cải, tay trắng lên máy bay về Bombay.
Mẹ con Chantal vẫn ở đó chờ Sobhraj. Hắn tiếp tục hành nghề cũ sống qua ngày. Tuy nhiên, chẳng bao lâu cảnh sát tìm tới và “tóm cổ” hắn vì hàng loạt các vụ trộm cắp, buôn bán ô tô phi pháp và phi vụ cướp tiệm vàng bất thành.
Sobhraj hiện nguyên hình là một tên trộm ma mãnh, một kẻ lừa đảo quỷ quyệt. Hắn bị tống vào nhà tù Tihar khét tiếng tàn bạo và nghiêm ngặt ở Ấn Độ. Không cam chịu phận tù đày, Charles Sobhraj ngấm ngầm lên kế hoạch cho một vụ vượt ngục ngoạn mục đầu tiên trong đời.
Lừa đảo và trộm cắp đưa Sobhraj lên hàng "đại gia" nhưng những kế hoạch vượt ngục hoàn hảo gần như không tưởng. Cùng hàng loạt vụ sát hại phụ nữ trong trang phục bikini mới thực sự đưa tên tuổi Sobhraj trở thành điểm nóng của giới truyền thông với tên gọi "sát thủ bikini"...
Hành trình tội ác của sát thủ gốc Việt (kỳ 3)
Sau khi thực hiện hàng loạt vụ trộm cướp và đảo tẩu, Sobhraj dừng chân ở Thái Lan, thành lập băng cướp "gia đình" để thực hiện các vụ cướp giết đẫm máu và nổi tiếng với biệt danh "sát thủ bikini".
|
Charles Sobhraj cùng tình nhân Marie LeClerc.
|
Tù tội và đào tẩu
Lần vượt ngục đầu tiên trong đời Sobhraj có sự trợ giúp đắc lực của cô vợ trẻ Chantal. Trong tù, Charles Sobhraj vờ bị xuất huyết trong để được đưa tới điều trị tại một bệnh viện địa phương. Dù chẳng có bệnh tật gì nhưng hắn vẫn xoay sở được tờ bệnh án “viêm ruột thừa cấp”. Phục hồi sau ca phẩu thuật vô ích, hai vợ chồng thực hiện bước thứ 2.
Lợi dụng sơ hở, Chantal một mình lẻn vào phòng bệnh của chồng. Cô đánh mê toàn bộ lính gác, sau đó tự đánh mê cả bản thân để tạo chứng cớ ngoại phạm. Trong khi đó, Sobhraj tìm cách cải trang và nhanh chóng lẩn khỏi bệnh viện. Với tài luồn lách của mình, Sobhraj dễ dàng tẩu thoát thành công. Nhưng chẳng lâu sau cả 2 vợ chồng lại bị bắt. Nhờ khoản tiền bảo lãnh tại ngoại từ người cha ruột ở Sài Gòn, cặp đôi tội phạm vội vã rời khỏi Ấn Độ.
Sau đó là những tháng ngày vào tù ra tội và những lần đào tẩu ly kỳ chẳng kém gì tiểu thuyết.
Nơi dừng chân đầu tiên của kẻ đào tẩu là Kabul, Afghanistan. Họ thuê một phòng khách sạn khá đắt tiền để ở tạm. Với món nghề lừa đảo và cướp bóc, Sobhraj vẫn lo cho vợ con có một cuộc sống khá sung túc. Đối tượng của hắn chủ yếu là dân híp-pi (những thanh niên có lối sống lập dị) từ châu Âu theo con đường mòn buôn lậu thuốc lá tới phương Đông.
Nhưng cũng chẳng được bao lâu, với tính cách thích xê dịch, Sobhraj nhanh chóng chán Kabul. Hắn mang theo cả gia đình tới sân bay, chuẩn bị cho một chuyến hành trình mới. Chỉ có điều, hắn “quên” trả 2 tháng tiền phòng khách sạn. Đó là lý do hắn bị cảnh sát Afghanistan bắt lại.
Chiêu bài cũ lại được kẻ đào tẩu sử dụng. Hắn không khó khăn để có thể tuồn một cây kim tiêm vào nhà tù. Tại đây, hắn sử dụng cây kim tiêm đó để tự chích hút máu để tạo ra những vết loét như đang bị thương. Ghê rợn hơn, chỗ máu hút được hắn uống luôn. Hắn được đưa tới bệnh viện và lịch sử lại lặp lại, toàn bộ lính gác bị đánh mê còn tên tội phạm nhỏ con tẩu thoát.
Bỏ lại vợ con, Charles Sobhraj một mình bay sang Iran và lang thang khắp Đông bán cầu những năm sau đó. Mỗi nơi hắn chỉ dừng chân một thời gian đủ để không đánh động cảnh sát khu vực. Trong người hắn có tới 10 cuốn hộ chiếu, cả do hắn mua và do hắn “thó” được nhưng chẳng có cái nào mang tên Charles Sobhraj.
Tình cờ tái hợp với Andre, người em trai cùng mẹ khác cha ở Istanbul, 2 người cùng lên kế kế hoạch trộm cắp khắp các nước phương Đông.
Với lý lịch phạm tội dày đặc, những nơi Charles Sobhraj có thể đến ngày một bị thu hẹp. Vì thế, 2 người quyết định tìm tới Thổ Nhĩ Kỳ để thực hiện các vụ trộm cướp nhỏ lẻ nhằm vào khách du lịch. Khi tình hình trở lên căng thẳng, 2 anh em bay sang Hy Lạp tiếp tục hành nghề. Tuy nhiên, tại đây, cả 2 không may mắn bị bắt trong một vụ trộm nữ trang nhỏ.
Bị giam trong nhà tù Thủ đô Athens, Hy Lạp, Sobhraj lập mưu cho 2 anh em trốn thoát nhưng bất thành. Mặc kệ người em vụng về, hắn một mình vượt ngục bằng cách cũ, giả bệnh rồi đánh mê lính canh để trốn.
Băng cướp "gia đình"
Trong khi cậu em trai bị dẫn độ về Thổ Nhĩ Kỳ chịu mức án 18 năm tù khổ sai, Sobhraj tiếp tục cuộc hành trình tới Ấn Độ, Kashmir, Iran và vùng Cận Đông. Đối tượng chủ yếu của hắn là các cặp khách du lịch người Pháp hoặc Anh. Hắn tiếp cận, kết thân và lợi dụng họ như những đồng phạm trong các vụ vận chuyển hàng trái phép. Xong xuôi, hắn cuỗm toàn bộ giấy tờ, tài sản của họ rồi biến mất.
Thời gian này, Sobhraj đến Thái Lan và gặp được Marie LeClerc, một phụ nữ xinh đẹp quốc tịch Canada, người sẽ trở thành trợ lí và đồng phạm thân cận nhất của hắn sau này. Cô một mình đến Thái Lan để tìm kiếm sự phiêu lưu, mạo hiểm và cô tìm thấy tất cả điều đó trong con người Sobhraj. Marie say mê Sobhraj, một tình yêu mù quáng khiến cô mờ mắt trước những tội ác cũng như tính trăng hoa của hắn.
Sobhraj quyết định xây dựng một băng nhóm phạm tội theo kiểu “gia đình”do hắn đứng đầu. Người đầu tiên là Marie, người vì tình yêu sẽ trở thành kẻ đồng lõa trung thành với hắn trong mọi phi vụ lừa đảo. Đối với những thành viên khác, hắn áp dụng chiêu "ban phát ân huệ" để chiêu mộ.
Vờ là cặp vợ chồng tốt bụng, hắn và Marie cưu mang cậu bé lang thang Dominique người Pháp về sống cùng. Bọn chúng cho cậu bé uống một lượng thuốc độc nhỏ mỗi ngày để cậu ốm đau triền miên rồi chúng lại ra sức chăm sóc, thuốc thang cho đứa trẻ tội nghiệp. Chỉ đến khi cậu bé cảm kích và đồng ý tự nguyện đi theo hắn mới dừng chiêu trò hèn mọn.
Đối với Yannick và Jacques, 2 thanh niên từng là cảnh sát Đông Dương, Sobhra lại cuỗm sạch tiền bạc và giấy tờ của họ rồi lại giả vờ giúp đỡ họ. Hắn cho họ ở lại nhà mình và hứa sẽ cố gắng làm lại toàn bộ giấy tờ mới. Hai thanh niên cũng vì lòng biết ơn mà đồng ý ở lại với “gia đình”của ông trùm lửa đảo Sobhraj. Ngoài ra, trong nhóm của hắn còn có May, cô gái người Thái Lan, đảm trách vai trò thư ký và cặp kè với hắn.
Đặc biệt, một mắt xích quan trọng trong đường dây phạm tội của Sobhraj là cậu nhóc người Ấn Độ có tên Ajay Chowdhury. Lạnh lùng và tinh quái, dù nhỏ nhất đội, Ajay nhanh chóng ngồi lên chức phó, được Sobhraj tin tưởng giao phó những vụ phức tạp nhất.
Khi đã quy tụ đủ các thành viên trong băng nhóm cũng là lúc Charles Sobhraj bắt đầu thực hiện các phi vụ đình đám và đẫm máu, khiến y được gọi với cái tên “sát thủ bikini”...
Hành trình tội ác của sát thủ gốc Việt (kỳ 4)
Nạn nhân đầu tiên của" sát thủ bikini" Charles Sobhraj là cô gái trẻ Jennie Bollivar. Người ta tìm thấy thi thể Bollivar, chỉ khoác trên mình bộ áo tắm 2 mảnh nằm bên vịnh Thái Lan.
Sau khi quy tụ đủ các thành viên sẵn sàng sống chết cho “gia đình”, Charles Sobhraj tiến hành các phi vụ trộm cướp, buôn lậu và bắt đầu giết người.
|
Thi thể những người phụ nữ bị Charles Sobhraj sát hại.
|
"Sát thủ Bikini" xuất hiện
Con mồi đầu tiên của băng nhóm nhà Sohraj là một nữ du khách hành hương người Mỹ tên là Jennie Bollivar. Cô đến phương Đông huyền bí với mong muốn được đắm mình trong những giáo lý Phật giáo nhưng lại rơi vào tay của Sohraj để nhận cái chết oan nghiệt.
Thi thể của cô được phát hiện tại một bể bơi nước nóng gần vịnh Thái Lan. Khi người ta tìm thấy, trên người Jennie chỉ mặc đúng một bộ áo tắm. Nhiều giả thiết cho rằng người phụ nữ xinh đẹp bị chết đuối sau một đêm thác loạn với bia và cần sa. Nhưng sau đó, kết quả khám nghiệm tử thi của cảnh sát Thái Lan khẳng định, cô gái này bị dìm chết. Nguyên nhân cái chết của Jennie Bollivar đến giờ vẫn chưa được giải đáp. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, cô bị giết vì từ chối gia nhập vào gia đình tội phạm của Sobhraj.
Nạn nhân tiếp theo là một thanh niên Do Thái, Vitali Hakim, cũng giống như Jennie tới phương Đông để tìm ý nghĩa mới cho cuộc sống. Nhưng đáng tiếc, anh lại đánh mất mạng sống khi giao du với Sobhraj. Sau khi Vitali chuyển đến ở cùng vài ngày, Charles Sobhraj rủ Vitali cùng thằng nhóc Ajay tới khu du lịch Pattaya trên Vịnh Thái Lan. Điều làm mọi người ngạc nhiên là chỉ có hắn và Ajay trở về nhà, còn người bạn mới thì không thấy đâu trong khi toàn bộ quần áo của của Vitali vẫn còn trong tủ, hộ chiếu và séc thì do Sobhraj giữ.
Vài ngày sau, người ta tìm thấy xác người thanh niên xấu số bị cháy đen trên đường đến Pattaya. Cảnh sát khi đó nhận định, Vitali bị các băng nhóm tội phạm Thái Lan hành hung và tẩm xăng thiêu sống, không có mối liên hệ nào với vụ án mạng của Jennie.
Nóng lòng thấy bạn trai đi du lịch mãi không về, tháng 12/1975, Charmayne Carrou quyết định sang Thái Lan để tìm Vitali. Cô tìm tới khách sạn nơi Vitali từng ở mới biết anh trả phòng từ vài tuần trước và không quay lại. Nhưng trước đó anh có gửi cho cô một lời nhắn.
Chắc Vitali cũng không thể ngờ lời nhắn tuyệt mệnh vô tình đưa người anh yêu trở thành nạn nhân thứ 3 dưới bàn tay nhuốm máu của Sobhraj. Carrou là một cô gái khá liều lĩnh, một mình tìm hiểu về cái chết của người yêu. Sau nhiều manh mối, cô tìm được tới nhà Sobhraj. Cô biết điều hắn đã làm với người yêu mình và còn biết thêm một số tội ác khác của hắn nữa. Chính vì thế, cô bị giết vì biết quá nhiều. Cơ quan chức năng sau khi khám nghiệm tử thi khẳng định, Charmayne Carrou bị siết cổ đến chết. Cô bị tắc thở và gãy một số xương ở cổ. Điều đặc biệt là cô gái trẻ cũng chết trong bộ bikini màu hoa.
Người ta ngờ ngợ ra một mối liên hệ nào đó giữa cái chết của 2 cô gái trẻ nên cảnh sát Thái Lan ráo riết truy bắt một kẻ tội phạm với biệt danh “sát thủ bikini”.
Kẻ giết người hàng loạt
Danh sách nạn nhân chết dưới tay Charles Sohraj chưa dừng ở đó. Tại Hong Kong, Sohraj gặp một cặp đôi sinh viên Hà Lan là Henk Bintanja và Cornelia Cocky Hemker đang du lịch vòng quanh Đông Nam Á. Tự giới thiệu là Alain Dupuis, một doanh nhân kinh doanh đá quý, Sohraj hào phóng bán cho Cornelia chiếc nhẫn đá quý của mình với giá hời 1.600 USD. Để tỏ ra hiếu khách, hắn còn mời đôi tình nhân tới “biệt thự sang trọng” của mình ở Bangkok.
Hắn hứa sẽ lái xe đưa 2 người ra tận sân bay. Thế nhưng, cũng giống như nhiều nạn nhân khác, 2 người bạn Hà Lan nhanh chóng bị ốm một cách đầy khó hiểu. Chuyến bay bị hoãn lại. Sohraj dưới vỏ bọc là người bạn doanh nhân tỏ ra ân cần chăm sóc họ và chăm sóc luôn cả toàn bộ tài sản có giá trị và hộ chiếu của họ.
Cái đêm mà Charmayne Carrou đến tìm nhà Sohraj, cũng là lúc Henk and Cocky được nhanh chóng đưa ra khỏi căn nhà hộ dù đang ốm đau. Không ai dám hỏi tại sao chỉ có Sohraj và Ajay trở về với mùi xăng nồng nặc và người bám đầy bụi bẩn nhưng các thành viên khác trong gia đình bắt đầu cảm thấy nghi ngờ.
Ngay ngày hôm sau, báo chí Bangkok rầm rộ đưa tin 2 khách du lịch bị cướp và giết. Hai nạn nhân, một nam, một nữ bị bóp cổ chết trước khi bị tẩm xăng đốt cháy. Cảnh sát không tìm thấy bất cứ giấy tờ tùy thân nào trên người nạn nhân.
Về phần Sohraj, có hộ chiếu của Henk trong tay, hắn một mình lang thang tới Nepal. Tại Kathmandu, một cặp du khách phương Tây khác lại trở thành con mồi ngon của kẻ sát thủ máu lạnh. Anh chàng Laddie DuParr đến từ Canada tới đây để chinh phục đỉnh Everest trong khi Annabella Tremont là một cô gái người Mỹ đang ngao du để kiếm tìm ý nghĩa cuộc sống. Hai người tình cờ gặp nhau ở Nepal và nhanh chóng trở nên thân thiết.
Không biết Sohraj đã tiếp cận họ thế nào và “xử lý” ra sao, chỉ biết một thời gian ngắn sau đó người ta tìm thấy thi thể một người đàn ông bị thiêu chết giữa cánh đồng, trên người còn nhiều vết dao đâm. Trong khi cảnh sát địa phương đang loay hoay xác định danh tính nạn nhân thì xác của Annabella được tìm thấy cách đó không xa. Cô bị đâm nhiều phát vào ngực cho tới chết.
Manh mối đầu tiên được xác định càng làm vụ án rối thêm. Hải quan thông báo một người đàn ông có tên Laddie DuParr rời Nepan ngay sau cái chết của Annabella. Biết được mối quan hệ thân thiết giữa 2 người, cảnh sát nhận định chính DuParr ra tay giết cô bạn gái mới quen và tẩu thoát khỏi Nepan. Nhưng họ không thể xác định được động cơ giết người và quan trọng hơn, thi thể người nam giới gần đó là ai?
Hành trình tội ác của sát thủ gốc Việt (kỳ cuối)
Lưới trời lồng lộng, Charles Sobhraj bị bắt không lâu sau khi các quốc gia y gây án đồng loạt phát lệnh truy nã. Tuy nhiên, dù đang thụ án chung thân nhưng Sobhraj vẫn gây bất ngờ khi kết hôn với cô gái kém mình 41 tuổi.
Vạch mặt kẻ thủ ác
Cảnh sát Nepal không thể ngờ lại rơi vào bẫy của Charles Sobhraj. Làm sao Laddie DuParr có thể là hung thủ giết Annabella khi anh còn bị chết trước cô. Thi thể người đàn ông bí ẩn mà cảnh sát đang loay hoay truy tìm danh tính không ai khác chính là Laddie DuParr.
|
Charles Sobhraj (giữa) và cô vợ trẻ y cưới khi đang thụ án chung thân tại Nepal.
|
Kẻ thủ ác sử dụng hộ chiếu của chính nạn nhân, ung dung rời Nepal. Hắn tới Bangkok, rồi lại sử dụng một hộ chiếu khác của Henk Bintanja (nạn nhân bị thiêu chết ở Hong Kong) quay lại Nepal ngay ngày hôm sau nhằm đánh lạc hướng điều tra của cảnh sát.
Cùng thời điểm này, ở Thái Lan, Dominique, Yannick và Jacques tìm thấy hộ chiếu của hàng loạt những du khách xấu số từng gặp Sobhraj trong căn hộ. Họ nhận ra mình đang ở trong nhà một kẻ giết người hàng loạt chứ không đơn thuần là một kẻ trộm như họ vẫn nghĩ. Cả 3 vội bỏ trốn về Paris, không quên khai báo toàn bộ vụ việc cho cảnh sát.
Ở Nepal, cảnh sát cũng lần ra, trước khi chết, Laddie và Annabella có qua lại với Sobhraj, Marie và Ajay. Nhưng khi được hỏi, cả 3 đều chối bay chối biến. Biết không thể nấn ná ở lại Nepal, hắn cùng 2 đồng bọn thân cận vượt biên sang Ấn Độ, rồi tới Calcutta lánh nạn. Không có tiền trong tay, lại đang bị truy nã khắp Nepal và Thái Lan nhưng Sobhraj không hề tỏ ra nao núng. Hắn lập sẵn những kế hoạch tiếp theo và cái cần nhất là một số tiền vừa đủ và hộ chiếu sạch.
Học giả người Israel, ông Avoni Jacob không may lọt vào mắt xanh của Sobhraj. Avoni Jacob bị siết cổ chết ngay trong căn phòng khách sạn tại Calcutta, hộ chiếu, séc và khoảng 300 USD tiền mặt bị lấy mất.
Có trong tay hộ chiếu sạch, Sobhraj dẫn Ajay và Marie tới Singapore rồi tiếp tục bay về Thái Lan. Phải nói, Sobhraj quá liều lĩnh khi quay trở lại nơi mà tội ác của hắn đã bị phanh phui. Tuy nhiên, hắn đủ thông minh để nhận ra rằng, chỉnh phủ Thái Lan sẽ chẳng dại gì mà làm rùm beng vụ án “sát thủ bikini” vì sợ ảnh hưởng tới du lịch đất nước.
Và hắn đã đúng, cảnh sát Thái Lan vào cuộc một cách nửa vời. Và ngay cả khi bị bắt, Sobhraj không quá khó để mua lại tự do cho mình và đồng bọn bằng cách hối lộ cảnh sát 18.000 USD.
Rời Thái Lan, bọn chúng tạm dừng chân tại Malaysia để mua đá quý mang sang Geneva, Thụy Sĩ bán. Không biết điều gì xảy ra với Ajay nhưng chỉ một mình Sobhraj ra sân bay gặp Marie. Cô định hỏi về Ajay nhưng ánh mắt Sobhraj như nói với cô rằng đừng bao giờ hỏi bất cứ điều gì về cậu nhóc đó. Marie tự hiểu thằng nhóc lạnh lùng từng là trợ thủ đắc lực cho Sobhraj đã không còn giá trị và có thể đang nằm ở một nơi nào đó trong các khu rừng nhiệt đới Malaysia.
Dưới tác động của báo chí, cảnh sát Thái Lan buộc phải vào cuộc truy bắt tên sát nhân giết hại hàng loạt du khách, gây ảnh hưởng nghiêm trọng với ngành du lịch trong nước. Interpol sau khi chắp nối nhiều vụ việc trên nhiều quốc gia cũng vào cuộc truy bắt Charles Sobhraj.
Sa lưới
Sobhraj và Marie lên kế hoạch xây dựng một “gia đình” mới. Họ dắt về 2 phụ nữ phương Tây bị lạc đường là Mary Ellen và Barbara tại Bombay, Ấn Độ. Cả 4 cùng lên đường tới Delhi để thực hiện một âm mưu mới.
Tại đây, Sobhraj bám theo một nhóm sinh viên người Pháp đang du lịch và nhanh chóng trở thành một hướng dẫn viên tình nguyện cho họ. Nhóm sinh viên tỏ ra rất tin tưởng và vui vì gặp được một đồng hương nhiệt tình tại Ấn Độ mà không biết đang bị lợi dụng. Sobhraj phân phát cho mọi người một loại thuốc mà hắn nói là “thuốc chống kiết lỵ” nhưng thực chất lại là thuốc gây mê mạnh. Hắn định chờ lúc nạn nhân bị say thuốc để đột nhập và khoắng sạch tài sản của họ.
Nhưng lần này Sobhraj tính sai một bước. Thuốc gây mê quá mạnh, nhiều sinh viên uống thuốc chưa kịp vào tới phòng ngã hết ra tiền sảnh. Mọi nghi ngờ dồn về phía người bạn mới Sobhraj. Hắn bị một nhóm sinh viên bắt lại và gửi cho cảnh sát.
Sobhraj không ngờ đây chính là ngày tàn cho sự nghiệp phạm tội của hắn. Trong khi vẫn khăng khăng chối tội, hàng loạt các bản cáo trạng ào ào gửi tới chống lại Sobhraj. Cảnh sát Thái Lan dành bản án 20 năm tù cho hắn vì hàng loạt các vụ giết người tại Thái. Tòa án Nepal, Ấn Độ đang chờ thẩm vấn Sobhraj về một loạt các vụ án mạng tại đây. Trong khi đó, chính quyền Hy Lạp và Afghanistan vẫn chưa quên những vụ vượt ngục ly kỳ của hắn. Và trên đất Pháp, cái tên Charles Sobhraj cũng có không ít các tội danh. Cuối cùng, hắn cùng đồng phạm bị giải tới nhà tù Tihar khét tiếng ở ngoại ô New Delhi.
Tính tới thời điểm đó, ít nhất 2 phụ nữ Mỹ, 2 người Canada, 1 người Thổ Nhĩ Kỳ, 2 người Hà Lan, 1 người Pháp và 1 người Israel chết một cách bí ẩn dưới tay hắn.
Hồi kết vẫn còn sóng
Sau 2 năm bóc lịch ngồi chờ xét xử và với hơn 10 tội danh, Charles Sobhraj có thể phải đối mặt với án tử. Sobhraj hiểu quá rõ các luật ngầm trong hệ thống pháp luật Ấn Độ và không biết hắn có dùng tiền mua chuộc quan tòa không, chỉ biết, tòa tuyên một bản án 12 năm dành cho Charles Sobhraj. Bản án khiến không ít người bất mãn.
|
Chân dung cô vợ trẻ, xinh đẹp của Charles Sobhraj.
|
Sau khi mãn hạn tù, Charles Sobhraj bị dẫn độ ngay về Thái Lan để tiếp tục lĩnh án. Có lẽ chính vì thế, nhân dịp kỷ niệm 10 năm bị giam ở nhà tù Tihar, hắn tổ chức một bữa tiệc thân mật mời các tù nhân và quản ngục tới dự. Khi tất cả lăn ra vì thuốc mê, hắn đủng đỉnh rời khỏi nhà tù và chờ bị bắt lại. Thực chất, đây không phải một vụ vượt ngục, hắn muốn nhân cơ hội này được ở lại nhà tù Tihar cho tới khi lệnh bắt của Thái Lan hết hiệu lực. Hơn ai hết, hắn hiểu mình là một tội phạm quốc tế, vượt ngục thì quá dễ nhưng sống ở ngoài mới là khó.
Một lần nữa hắn tính đúng. Sau khi bị gia hạn tù 10 năm nữa, tháng 2/1997, tên tội phạm với hơn 10 tội danh nghiêm trọng đàng hoàng bước ra khỏi nhà tù Ấn Độ. Sobhraj bị trục xuất về Pháp. Tháng 9/2003, chẳng hiểu lý do gì mà hắn lại quay lại Nepal và bị bắt tại một sòng bạc casino. Mùa hè 2004, tòa án Nepal tuyên án chung thân và tịch thu toàn bộ tài sản của kẻ giết người hàng loạt trên đất nước này.
Trong lúc đang cố gắng tìm cách kháng án, Sobhraj thực hiện kế hoạch vượt ngục lần nữa nhưng bất thành. Bản án cuộc đời tạm khép lại, Sobhraj sẽ phải dành hết quãng thời gian còn lại của mình trong nhà tù Nepal.
Tuy nhiên, không vì đó mà hắn ngừng nổi tiếng. Hàng loạt các hãng làm phim, nhà xuất bản và các cơ quan báo chí tìm đến để xin viết về cuộc đời tội phạm có một không ai của hắn. Từ một tên tội phạm nguy hiểm, Sobhraj trở thành người nổi tiếng và sống cuộc sống sung túc, giàu có ngay trong nhà tù Nepal.
Năm 2008, Sobhraj một lần nữa gây sốc với giới truyền thông khi bất ngờ tuyên bố đính hôn với một phụ nữ người Nepal mới 23 tuổi tên là Nihita Biswas. Cô gái trẻ hoàn toàn biết về thân phận của kẻ thủ ác như vẫn một lòng kết hôn với Sobhraj. Không ai nghi ngờ về tài ăn nói và mưu mẹo của Sobh raj nhưng việc một cô gái trẻ chấp thuận lấy y khi đã ngoài lục tuần đang phải lĩnh án chung thân là điều thực sự khó tin.
|
Lộ Công Mười Lăm
|
IP Logged |
|
lo cong
Senior Member
Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
|
Gởi ngày: 11/Oct/2014 lúc 12:34pm |
Mời xem truyện ngắn với lời hành văn miệt vuờn.
TÔI CƯỚI VỢ
Thái Quốc Mưu
Hồi học lớp đệ tứ (lớp 9 bây giờ), tôi có đọc đâu đó truyện ngắn tựa là "Lấy vợ miền quê", của tác giả nào tôi quên. Tôi rất khoái truyện ngắn nầy và định bụng lớn lên mình cũng “lấy vợ miền quê” như tác giả kia.
Nói thì hơi xấu hổ, vừa đậu Tú Tài phần hai, lúc đó tôi mới 18 tuổi tây, tức 19 tuổi ta, mà tôi đã..."muốn vợ"! Con trai mà “muốn" chuyện gì thì thường vòi vĩnh với mẹ, như chiếc xe đạp, đồng hồ, quần áo mới, kể cả chiếc solex cáu cạnh tôi đang chạy, mà chỉ hàng “thiếu gia”... ở tỉnh như tôi mới có.
Những thứ đó tôi đều manh dạn nói với mẹ, và lần nào cũng vậy, mẹ tôi không cần suy nghĩ mà “ô kê” liền. Còn cái vụ "muốn vợ" nầy, tôi có miệng mà chẳng thốt nên lời! Tôi định bụng lúc nào mẹ vui và khi chỉ có hai mẹ con ở nhà thì tôi "tâm sự" liền. Mẹ lúc nào lại không vui!
Vả lại tôi là con một trong gia dình, chỉ cần ba tôi đi uống cà phê hay đi đâu đó thì có biết bao nhiêu dịp… may!
Thế mà khi thấy mẹ ngồi, tôi vừa xề lại thì bao dũng khí đã tiêu tan!
Bao lần như vậy, dường như bà để ý, giọng ngọt ngào cố hữu:
- Gì đó con trai cưng? Muốn gì nữa phải không?
Lúc đó tôi chỉ cần một “gờ-ram” dũng khí, thêm một tiếng "vợ" sau tiếng "muốn" của me tôi thì đòn cân cục diện đâu lại vào đấy rồi.
Đàng nầy tôi lại nhút nhát, rụt rè! – Điều nầy, vốn không phải là bản tính của tôi:
- Dạ... có "muốn" gì đâu mẹ!
Trả lời xong tôi thấy ấm ức, giận mình sao quá yếu gan! Thì may thay, vợ chồng anh hai Trân tới chơi. Anh với tôi là chú bác ruột tôi. Hai Trân là con trai trưởng của bác hai, còn cha tôi đến thứ chín, nên ảnh nhỏ hơn cha tôi chẳng bao nhiêu. Anh rất vui tính, cởi mở, lẹ làng, sốt sắng. Cái gì cũng chịu hoạch toẹt, không chịu úp úp mở mở, nên có
khi hơi lố lố. Vậy mà tôi lại quý mến anh ở điểm nầy nhất, mới lạ!
Chưa chào hỏi mẹ tôi, anh nhìn tôi bôm bốp:
- Đậu (Tú Tài ) rồi hả mậy? Là người lớn rồi, cưới vợ được rồi đó nghen!
Thuở đó đậu Tú Tài cũng oai lắm, kiếm việc làm dễ như chơi. Trong thân tộc có người đậu tú tài là niềm hãnh diện chung. Nghe anh nói, tôi khoái chí tử, nhưng cũng làm bộ:
- Mới bây lớn mà có vợ gì anh ơi!
- Sao lại “bây lớn"? Hồi tao cỡ mầy là con cu biết gáy rồi. Mầy hỏi chú chín....
Chị hai thúc mạnh vào hông chồng:
- Nói bậy không hà! Thím chín kìa!.. Chú nó còn nhỏ...
- Nhỏ nhỏ cái gì? Cỡ tuổi nó tôi có con rồi!
Tôi mỉm cười, thấy thích anh lạ! Anh hai quay sang mẹ tôi:
- Thím chín! Em lớn rồi nghen thím. “Nam đại bất hôn như liệt mã vô cương”đó thím. Em nó đẹp trai, học giỏi, nhà giàu, mà thím không chịu cưới vợ cho nó là có ngày có người bồng cháu nội về cho thím nuôi đó!
Chị hai nạt:
- Nói bậy không hà! Cái tật không bỏ!
Anh hai nói chuyện thường chêm vào mấy câu chữ nho, những lần đó tôi cũng bực mình, vì có câu tôi cũng không hiểu nghĩa rõ ràng.
Câu anh vừa nói tôi hiểu, xem ra nó cũng hay đó chứ! Còn chị hai, là người phụ nữ nết na, đẹp lại hiền, hay kìm chế chồng những khi anh quá trớn. Đặc biệt lần nầy tôi lại thấy chị hơi… quá trớn!
Mẹ mỉm cười:
- Biết nó chịu không mà cưới?
Tim tôi đập thình thịch. Không ngờ diễn tiến lại thuận lợi như vậy. Mẹ nói thế tức là nếu tôi "chịu" thì mẹ cưới chứ gì? Ôi con đường... cưới vợ sao mà hanh thông như vậy!
Anh hai quyết liệt:
- Sao lại hổng chịu thím? Hỏng lẽ nó muốn vợ nó lại la làng lên sao?
Hồi trước con muốn vợ, con cũng đâu dám nói cho má con mà phải nhờ chú chín mở hơi giùm. Thím quên rồi sao?
Quay qua tôi, anh dịu giọng:
- Nè cưng, anh hai hỏi thiệt nghen, cưng có muốn cưới vợ không?
Phải nói là nhờ anh hai mà lòng tôi tràn dũng khí. Tôi quyết không bỏ lỡ cơ hội. Chỉ cần tôi nói một tiếng "muốn" là bài toán có đáp số ngay, và bao nhiêu đè nén trong lòng bấy lâu chắc chắn giờ đây tan biến!
Nhưng như vậy xem phàm phu quá! Tôi cười cười, đợi cho mọi người chờ một lát, thần khẩu xui tôi phát ra một câu quá tuyệt vời:
- Thì hồi trước anh hai sao thì giờ em vậy thôi!
Mọi nghười cười rần và mang ý nghĩa khác nhau. Tôi cười cho... đở mắc cở. Chị hai cười xòa góp phần vui; anh hai cười ngất, cười sặc sụa của người thích chí; còn mẹ thì cười hiền hòa, sung sướng, lấy tay áo chậm hai khóe mắt rưng rưng. Tôi thấy thương mẹ vô cùng, sà vào lòng mẹ. Dù
là một cậu tú, nhưng với mẹ, tôi vẫn thường thích mẹ vuốt ve như thuở lên ba. Mẹ vò tóc tôi, nói với anh chị hai:
- Bây thấy hôn? Nó làm còn như nhỏ lắm vậy!
Mẹ hỏi tôi:
- Bộ con có để ý bạn gái nào ở trường hả?
Tôi lắc đầu. Mẹ bảo:
- Vậy thì mẹ biết ai mà cưới cho con?
Anh hai nhanh nhẩu:
- Thì làm mai! Hồi trước chú chín cũng vậy, con cũng vậy. Có ai thương yêu ai trước đâu? (liếc sang chị hai) Chừng về ở chung cũng khoái thấy mồ...
Anh phủi bàn tay chị hai định nhéo vào hông anh:
- Vậy chớ hỏng phải sao?
Rồi quay sang tôi, anh lại ngọt ngào và xôm tụ:
- Nè, bây giờ em chưa quen ai phải không? E hèm! Hồi trước anh cũng vậy thôi. Có sao? Nhưng em phải cho thím chín và anh chị hai đây biết mẫu người em ưng thế nào thì ở đây mới kiếm cho em được chứ! Thí dụ, hồi trước anh ra tiêu chuẩn là phải vừa đẹp, vừa hiền, vừa có chút học vấn.
Em thấy hôn, chị hai đúng bon tiêu chuẩn đó, Anh thấy là khoái liền.
Hề hề…!
Tôi thấy mặt chị hai đỏ lên vì sung sướng:
- Nói không biết mắc cở....
Sẵn đà, tôi tiếp:
- Mà phải ở miệt vườn nữa em mới chịu.
Anh hai có vẻ cụt hứng, còn mẹ thì có vẻ vui:
- Phải đó à bây, con gái ở vườn nó nết na, thùy mị, giỏi giang.
Anh hai cười. lại xông xáo:
- Trúng tủ bả rồi! Mà cũng dễ thôi! Thím bán tạp hóa lớn, mối mang miệt vườn biết bao nhiêu, nhờ họ mối lái giùm.
Chị hai:
- Sao hăng hái dữ! Mai mốt anh hai chịu lạy đó nghen!
- Tất nhiên! tất nhiên!
Thói thường người ta tin tưởng vào những gì mình hy vọng, và sợ mất những gì mình có. Mẹ đã xong rồi, còn ba thì sao? Ba thường hay chìu ý mẹ dù đôi khi ý mẹ có đôi chút ông chẳng hài lòng, nhưng đó là những việc nhỏ đời thường, còn đây là "hôn nhân đại sự", liệu ba có còn chìu
mẹ hay không?
Ngày hôm sau, tôi thấy ba có vẻ khác khác - vậy là mẹ nói với ba rồi!
Ba ít nói, có chiều nghĩ ngợi. Khi giáp mặt tôi, ba mỉm cười khó hiểu. Phúc hay là họa đây!
Rồi ngày tôi chờ đợi cũng đến. “Phái đoàn” gồm ba mẹ, anh chị hai và tất nhiên có vai chánh là tôi. Thật khó tả được bao cảm xúc bồn chồn lo lắng, hồi hộp, đủ thứ lộn xộn trong lòng tôi. Mẹ tôi cứ dặn dò đủ mọi việc, hết chuyện nọ tới chuyện kia, đến nỗi khó mà nhớ hết; còn anh hai thì cứ lải nhải bên tai "bình tỉnh, bình tỉnh, đừng có run". Nhà ông nhạc tôi (tạm gọi vậy) ở xã Ngũ Hiệp, cách thành phố Mỹ tho 30
cây số về hướng tây. Chợ Ngũ Hiệp nằm bên kia sông, muốn qua phải nhờ một phà nhỏ. Từ chợ, theo lời bà mai, chúng tôi phải đi bộ thêm gần ngàn mét nữa. Nghe vậy anh hai nói với tôi:
- Như vậy là "vườn trong vườn" rồi phải không cưng? Tiêu chuẩn một đạt hai trăm phần trăm rồi hén!
Chị hai cau mặt:
- Cái ông nầy lúc nào cũng đùa được.
Thật vậy, đây là vùng trù phú đất đai, cây lành trái ngọt. không biết cơ man nào là cây trái quả mọng trĩu cành! Cam, bưởi, sa bô, dừa, vú sữa, nhãn, chôm chôm... nhất là sầu riêng cây nào cây nấy chân tay đeo đầy nghẹt quả, theo gió thơm lừng. Bà mai chỉ tay về căn nhà ngói kiểu
xưa (kiểu "chữ đinh") nói:
- Nhà đó đó.
Tất cả dừng lại “hội ý”. Mẹ khẩn trương thấy rõ, lại dặn dò:
- Nhớ những gì mẹ dặn nghen con!”
- Dạ!
Anh hai cũng thì thào:
- Nhà cất kiểu nầy mà gặp ông già củ tỏi thì mệt lắm à nghen!
Chị hai nạt nhỏ:
- Ông lo cái miệng ông đó. Vô đó nói bậy đi!
Bà mai vô trước, mẹ sửa lại áo quần tôi chưa xong thì có người ra mời vào. Giờ phút nầy tôi càng thấy tình mẫu tử bao la như thế nào. Mẹ hồi hộp như sắp bước vào nơi hang hùm nọc rắn không bằng, lại điệp khúc "Nhớ nghe con!" lại phát ra!
Vừa vào cỗng, tôi bị hốt hồn vì hơn hai chục cặp mắt, đủ hạng tuổi, nhiều nhất là trẻ em chăm chú vào tôi, một bà trạc tuổi mẹ có lẽ thông cảm được điều ấy, bèn rầy đám nhỏ:
- Nè, mấy đứa làm gì tụ tập lại đây dữ vậy? Có đi hết không?
Đám trẻ tản đi vài bước rồi bẽn lẽn đứng nhìn. Phòng khách được bài trí hai bàn. Bàn giữa gồm ba mẹ tôi, bà mai, ông
bà nhạc và hai vị cao niên. Bàn bên có anh chị hai tôi và bốn người bên gái cùng trang lứa.
Phần tôi nghe lời mẹ là không được ngồi, mà đứng sau ghế cha mẹ, hai tay xếp lại để dưới bụng (nếu đã mời trà xong), tư thế y như lính hầu ở phủ huyện, hay các thái giám ở cung đình hầu hạ đức vua!
Theo cách nói chuyện… lại có dịp đứng trước nhạc phụ mẫu; tôi biết ông bà là người cởi mở, dễ tính. Câu chuyện của hai "sui" càng lâu càng khởi sắc tốt đẹp. Dần dà khách khí không còn, mà như đã quen nhau từ trước vậy.
Bỗng Ông nhạc gọi:
- Con hai đâu, châm trà mới đi con!
Một tiếng "dạ" thảnh thót không kém Điêu Thuyền thời Tam Quốc từ nhà dưới vọng lên làm tim tôi rộn ràng. “Phái đoàn” nhà trai ai cũng hồi hộp chờ đợi. Bởi ai cũng biết bảo “châm trà” chẳng qua là lời nói khéo cho con mình ra chào để nhà trai “coi mắt” đó thôi!
Mẹ quay lại nhìn tôi mỉm cười, thầm bảo ”hãy xem kỹ vì thời gian không lâu”. Tôi chưa kip mỉm cười với mẹ thì rèm hoa lay động, một kiều nữ vận bộ bà ba, không phấn không son mà má phấn môi hồng.Tóc dài phủ long gọn gàng bởi chiếc kẹp vàng có đính bông hồng chói lọi. Thoạt trông, tôi giật nẩy người, đến nỗi bố vợ nhìn thấy. Đợi giai nhân chăm
trà xong, ông vội bảo:
- À quên nữa, cháu qua bên ngồi uống nước, hay cứ ra ngoài dạo cho thoải mái.
Mẹ lại quay ra tôi, nhướng mày, thầm bảo “hãy đi đi con”, vì thực ra, ông nhạc cũng ngầm ý cho tôi và vợ tôi gặp nhau để “tìm hiểu”, dù thời lượng ít oi, nhưng nếu tri túc ắt tiện túc mà thôi! Mọi sự đều được người lớn sắp xếp có bài có bản và, có màn có lớp hẳn hoi!
Không khí bên ngoài thực thoải mái. Nhiều loại cây trái lớn nhỏ thi nhau che rợp ánh mặt trời làm mát rượi cả một không gian rộng. Vài tia sáng yếu ớt cố gắng chen vào đất tạo thành những đóm trắng lưa thưa đây đó tựa rãi hoa. Mùi sầu riêng thơm lừng. Hàng sa-pô thẳng tắp trái nặng sai oằn. Mấy nhánh ổi cho trái bóng láng no tròn, rục mềm rơi rụng tứ tung, tỏa hương thơm bát ngát. Chim hót líu lo, bướm vờn thẳng cánh.
Đàn ong tranh nhau hút mật của trăm ngàn hoa đủ sắc đủ màu. Rõ ràng là vùng đất lành thừa mứa cây lành trái ngọt.
Bên sau một giọng êm đềm:
- Biết người ta ưng hay không mà dám đi hỏi vậy?
Tôi quay lại, thì ra là vợ tôi, (tạm gọi vậy), mà cũng là Vi, người đã làm tôi kinh ngạc đến đánh thót cả người khi nãy!
Vi là bạn học cùng lớp với tôi hồi năm đệ tứ. Hồi đó lớp đệ tứ được xem là cái “móc” của sự chia tay. Bởi con trai, nếu thi rớt thì cha mẹ thường cho nghỉ để học nghề, còn thi đậu (cấp bằng Trung Học Đệ NhấtCấp) thì cũng mỗi người một hướng đi: Vào sư phạm hoặc gành nghề nào đó, hoặc học tiếp ba năm nữa để lấy Tú Tài rồi lên đai học. Con gái thì ít người được học đến chốn đến nơi. Rớt hay đậu cũng th ường bị cha mẹ cho nghỉ mà lo phụ việc nhà, viện lẽ con gái “học cao” khó có chồng! Vi cũng nằm trong số phận nầy. Bởi vậy cuối năm đệ tứ, chúng tôi thường trao nhau lưu bút, mọi người đều nắn nót tuồng chữ cho trang mình thường tặng cả ảnh, dán vào giữa trang viết, dưới đề:
"Thương nhau mới tặng ảnh nầy,
Để làm kỷ niệm những ngày xa nhau'
Dù cho ảnh có phai màu,
Cũng đừng xé bỏ mà đau lòng người!”
Không biết bốn câu thơ ấy là của tác giả nào, sáng tác tự bao giờ, mà đến nay, thỉnh thoảng tôi lại thấy sau bức ảnh ”tặng nhau” của các em cũng có đề như vậy.
Hơi lạc đề, nhưng nói thêm cho vui: Hồi đó tôi cũng có quyển lưu bút, tất nhiên khi ai nhận thì cũng nắn nót từng chữ và giữ sạch sẽ như nói ở trên. Khi tôi đưa cho thằng Nhứt, ngày sau nó trả (thường thì vậy), nó viết vào trang đôi mấy chữ tổ bố: “Lưu niệm làm cái xê bình phương
gì?" (2), rồi láu cá ký tên giáp cả hai trang giấy!
Tôi xem giận run. Cự nó. Nó cười: “Để sau nầy mầy nhớ tao”.
Tôi nghe cũng xìu lòng. Quả thật, đến giờ, nó là người tôi nhớ nhất.
Và đến ngày cuối, chúng tôi tổ chức tiệc liên hoan cuối khóa tại lớp.
Văn nghệ xung quanh các bài hát về “mùa chia tay”, “tạm biệt”, “nỗi buồn hoa phượng”... Tôi có sở trường ngâm thơ, ngâm hai bài thơ Đường luật, bài đầu của thầy H.C, giáo sư sử địa (3), bài nầy tôi chỉ nhớ hai câu cuối:
“...
Rồi đây nếu chẳng sau mùa phượng,
Tất cũng mai kia ở chợ đời!”
Và bài họa của tôi:
"Việc cũ, ngàn sau vẫn đổi dời.
Chút tình tâm huyết nói sao vơi?
Luyến lưu kẻ ở đôi dòng lệ,
Tiếc nhớ người đi một góc trời
Chín tháng vui buồn trong một lớp,
Vài giây ly biệt rẽ ngàn khơi,
Đường mây một kẻ hanh thông bước,
Một kẻ lang thang giữa chợ đời!
(Thơ Kha Tiệm Ly)
Đám con gái mắt đỏ hoe, có đứa khóc thành tiếng. Chúng tôi lai tặng quà lưu niệm cho các bạn “nghỉ luôn”. Tôi tặng Vi cái kẹp tóc bằng vàng 14 (tôi là... “thiếu gia” mà! Vàng hồi đó rẻ lắm, đàn bà con gái chẳng thấy ai đeo, có đeo thì cũng sơ sài, đeo nhiều mắc cở, bị coi là “quê”; không thấy ai đeo cục cục như giờ. Vi tặng lai cho tôi cây bút Pilot nắp vàng, loại cao cấp nhất thời ấy.
- Sao không trả lời?
Vi nghiêm trang như thuở nào, tôi hơi chột dạ:
- Thật lòng tôi không ngờ mình đi hỏi cưới Vi. Đã bao năm rồi, vả lại lúc đó mình còn nhỏ cả mà!
- Bộ mấy năm qua không nhớ chút gì về Vi sao?
- Vẫn nhớ về người bạn nhỏ hiền lành, nhiều nước mắt.
Vi vừa đưa tay rút cây viết trên túi áo tôi, vừa nói:
- Xin lỗi nghe, cho Vi mượn.
Rồi xoay cán viết, nhìn những dòng chữ khắc trên ấy, Vi có vẻ xúc động:
- Vẫn còn giữ của Vi à?
Tôi không đáp, nhìn hai rèm mi chơm chớp, tôi thấy Vi đẹp não nùng.
Tôi nắm lấy tay Vi:
- Không ngờ lại gặp lại Vi. Chẳng phải không có duyên số hay sao? Vi đồng ý nhé!
Vi tủm tỉm cười:
- Nếu em không ưng thì sao?
- Thì anh về, nhưng xin gởi trái tim anh lại.
Lại cười:
- Rõ là thi sĩ! Em đã đồng ý từ khi bà mai nói chuyện với ba mẹ, đâu phải đến bây giờ.
- Không biết mặt làm sao ưng?
Vi kéo mái tóc về phía trước ngực:
- Khờ quá đi! Mọi người ở đây ai không biết con trai một của tiệm tạp hóa Vạn Phát, chứ em thì rành lắm. Vị “công tử” ấy còn tặng cho em chiếc kẹp xinh đẹp nầy nữa phải không?
Trên đường về, mẹ luôn miệng với ba:
- Con nhỏ xem nết na và lịch sự (4) ghê ông há?".
Lại lo ngại:
- Hổng biết nó có ưng thằng con trai cưng tôi không nữa?”
Nãy giờ tôi lặng thinh, nhớ lại những lời nói của Vi mà thấy lòng hân hoan lạ. Nhưng thấy mẹ cứ lo lắng mãi, tôi mói nói:
- Chắc ăn rồi mẹ ơi! Mẹ đừng lo!
Mẹ nghi ngờ. Anh hai nói:
- Hồi nãy ngoài vườn tụi nó nói chuyện, chỉ cần khi về, đá lông nheo một cái là kể như xong. Thím lo gì!
Ba châm vào:
- Hồi trước bả cũng vậy, sao bả mau quên quá!
Không biết mẹ đánh hay phủi bụi cho ba::
- Cha già mất nết!
oOo
Thế là chậm lắm khoảng một tuần, mươi ngày tôi đều đến tham nhạc gia, nhạc mẫu. Ba mẹ vợ tôi đều nhân hậu, nghiêm khắc với con cái nhưng xem chừng ”dễ” với thằng rể tương lai.
Trước khi đi, ba tôi dặn. Con đến đó thấy cái gì làm được thì làm, chứ đừng lấy mắt ngó là không được! Ngày xưa trước khi cưới, phải làm rể ba năm: Chẻ củi, vác lúa, cày bừa, làm đủ thứ nặng nhọc, chứ chẳng phải chơi đâu!
Nhưng tôi biết cái gì mà làm, mà phụ? Lần đầu đến, tôi thấy ba vợ tôi đang chài cá, thấy tôi sựng rựng, ông hiểu ý, nói:
- Con đứng chơi, ba vãi vài chài nữa ba vô.
Thế coi sao được! Đợi mỗi khi ba kéo chài lên, tôi phụ gỡ cá, mà có được đâu! Tôi đụng tới con nào thì con ấy giãy rồn rột, rách cả tay, có khi phóng lại xuống mương; trong lúc ông bỏ vào giỏ lia lịa như bỏ đá vào vậy!
Một lần thì thấy ông đang chiết nhánh cây, cái nầy tôi càng mù tịt, nhưng cũng có việc làm là... đưa dây cho ba tôi cột “bầu”; cái công việc không cần người phụ tá!
Ba vợ tôi rất điệu đời, ông thường bảo vợ tôi dắt tôi ra vườn xem có “cái gì nó thích thì hái nó ăn”. Tôi biết ba tạo điều kiện cho chúng tôi chuyện trò. Ông dư hiểu, bởi nói tiếng là thăm cha mẹ vợ, nhưng chủ yếu của chàng rể tương lai nào cũng là thăm... vợ cho đở nhớ mà thôi.
Nếu không, tại sao mỗi lần đến thăm mà cha mẹ vợ đi vắng thì chàng rể lại hớn hở trong lòng!?
Vườn nhà vợ tôi đủ loại cây nên có trái quanh năm, chúng chen chút nhau nên chỉ cách hơn mười thước là không thấy dáng người. Tôi có cảm tưởng như hoàng tử gặp công chúa trong rừng vậy! Đến hàng dừa tơ, quày ôn trĩu trái màu vang rực, sai oằn đụng tới mép mương, Vi đưa tôi dao,
bảo:
- Chặt dừa uống nhé!
- Trái nào đây?
- Thì tùy chọn
Khổ sở lắm tôi mới đem được hai trái dừa rời quày được. Dùng dao chặt phần đầu có cuống. Dao bén ngót mà tôi phạt năm bảy nhát liền mà vỏ dừa chỉ dập dập, trầy trầy, tung mấy miếng văm! Vi cười khoe hai hàm răng đều như hạt bắp:
- Để nô tì giúp cho, thưa công tử!
Giành lấy dao, Vi chỉ phập ba nhát nhẹ nhàng mà vỏ dừa tách ra từng mảng lớn, nhát thứ tư, nhẹ hơn, chạm vào gáo, Vi thuần thục lách nhẹ lưỡi dao, để lộ phần “cái” trắng bóc mịn màng, bao quanh phần nước sóng sánh trong veo! Một tay đưa dừa cho tôi, tay kia chỉ chỉ vào trái dừa
bảo:
- Chặt dừa phải chặt đầu lớn nầy nầy, Lưỡi dao phải để hơi xiêng. Ai đời ở trên bổ xuống... 90 độ. Làm sao đứt được?
Lợi dụng tôi nắm lấy cổ tay tròn trịa mịn màng của Vi, ghé mũi xuống hít một hơi dài. Vi vẫn để yên nhưng bặm môi:
- Có thấy con dao ở đây không thì bảo?
Rồi cùng cười, tôi hít mũi chọc:
- Còn ngọt hơn cả nước dừa!
Đến địa phận chuyên canh sầu riêng. Ôi! hàng hàng thẳng tắp. Không biết cơ man nào là trái đậu trên cành! Toòng teng nhỏ to đủ cở, lủng la, lủng lẳng tầng thấp tầng cao, xem vô cùng ngoạn mục. Tôi hỏi:
- Nghe nói sầu riêng chỉ rụng về đêm, phải không?
- Sao lạ vậy?
- Thì ... trời khiến để đừng bể đầu người!
Vi cười ngoặt ngoẽo:
- Sao trái dừa vẫn rụng ban ngày? Bộ trái dừa không làm bể được đầu người? Chủ vườn nòi vậy để cho mấy thằng ăn trộm không dám lẻn vào đó thôi!
Rồi chỉ vào phía trước, bảo:
- Có hai trái rụng kìa! Anh lại lượm đi! Coi chừng nó "bịch" một cái là hết có vợ đo.o..ó!
Tôi nhìn lên, thấy hàng trăm trái lòng thòng, gai tua tủa, giống như những quả chùy của các võ tướng ngày xưa. Nói dại, nếu nó mà"phịch" xuống một cái như lời Vi nói thì dù không bể đầu, thì mặt mũi chắc cũng khó coi! Dợm chạy đi, bỗng luồng gió quái ác từ đâu lùa tới, bèn chột dạ, tôi dừng lại. Vi cười ngất:
- Coi vậy mà cũng sợ mất vợ hén!
Tôi chữa thẹn:
- Vậy chớ vợ như Tây Thi thì chết sao dành!
Má Vi càng đỏ thêm, nắm tay lại giá giá vào tôi:
- Cái tật nịnh.......
Tôi vừa dặt hai trái sầu riêng xuống thì Vi bảo:
- Tách ra đi!
Nói đoạn lại bờ rào tìm hái những nhánh bông. tôi lui cui lấy dao chặt phình phịch vào đầu lớn trái sầu riêng, dao cũng để xiêng một góc mà xem ra vỏ sầu riêng còn dai hơn cả vỏ dừa. Thật tình, sầu riêng tôi ăn có hàng trăm nhưng mỗi lần đều được mẹ bóc sẵn bỏ vào tủ lạnh, nên có biết gì đâu!
Tôi lật qua, lật lại, chợt nhớ tới cái vỏ sầu riêng mẹ bóc xong đâu có trầy trụa, hay mất một góc đàng đầu trái, mà xem ra nó còn nguyên vẹn giống như một chiếc xuồng! Tôi sửa lại rồi dùng dao bổ theo chiều dọc, cũng chẳng ăn thua! Mệt, tôi định gọi cầu cứu, thì Vi đã đứng sát bên tôi bụm miệng cười tự lúc nào...
Rõ ràng là Vi biết tôi không làm được mà cố chọc chơi! Bèn ngồi xuống, lấy dao, vừa làm vừa dạy đời:
- Hồi nãy em bảo công tử “tách” ra chứ có bảo “chặt” đâu mà làm như bửa củi vậy? Đây nè, chỗ nầy lúc nào cũng có một khe hở. Chỉ cần để mũi dao vào đây rồi dùng đòn bẩy Ạc-Shi-Met là xong. Làm rể kiểu nầy mất vợ như chơi.
Tôi bá lấy cổ Vi:
- Giỏi quá, để anh thưởng cho một cái.
Vi nhắm mắt, lắc đầu quầy quậy:
- H..ô..ông..!
Đợi khi tôi “chụt” xong, Vi mới mở mắt ra, chỉ tay vào vỏ sầu riêng, nói:
- Cái vỏ sầu riêng nầy mà vô mặt thì còn hơn té thùng đinh nữa đó!
Lần nào cũng có chuyện tương tự như vậy, thử hỏi sao tôi không khoái về thăm... ông bà nhạc?
Gần tới ngày cưới, tội nghiệp Vi gầy thấy rõ. Sau nầy tôi mới biết, là con gái trưởng trong gia đình, Vi lo lắng sắp xếp mọi thứ, lại nghĩ tới ngày theo chồng, xa mẹ bỏ em nên đủ thứ tình cảm ray rức trong lòng.Vậy mà trò chuyện với tôi một hồi, mặt hoa lại rạng rỡ, nói nhỏ cho tôi vừa nghe, như một chuyện gì quan trong lắm:
- Làm rể mà lỏng nhỏng không động móng tay, cứ đeo sát con gái người ta hoài không sợ bà con họ nói sao?
Ba vợ tôi thường bảo tôi: “Con ở chợ không quen việc ở vườn. Con cứ về thăm, khỏi làm gì hết, đừng ngại, cứ coi như ở nhà con”.
Tôi đem lời nầy nói cho vợ nghe, rồi châm thêm:
- Vậy chứ anh có việc gì để làm?
- Em chỉ cho. Gần tới ngày cưới rồi, phải có củi để nấu chứ! Hay là anh chịu khó ra chẻ một mớ....
- Ở đâu?
Vi chỉ tay về một hàng củi được chất ngay ngắn từng ô một, dài chừng... vài chục mét, khúc nào khúc nấy cở bắp đùi... voi. Tôi chột dạ:
- Chẻ hết sao?
Vi làm mặt nghiêm:
- Ừa!... thì tới đâu hay tới đó! Ngày còn dài mà!....
Tôi xách búa đi mà tác phong rời rã như Hạng Võ tại bến Ô Giang! Nhưng muốn ăn phải lăn vào bếp, muốn cưới được vợ thì phải bửa củi, cày bừa… Thì ra lời ba tôi nói chẳng sai, bằng chứng là tôi cũng không ngoại lệ!
Tôi cởi áo sơ mi máng trên cành bưởi, còn lại chiếc áo thun ba lỗ trắng tinh, vốn là mô đen của con nhà giàu mới có áo lót bên trong. Dù là “công tử”, nhưng tôi thường tập tạ nên bắp thịt coi cũng ngon lành.
Tôi đếm thầm: Một, hai, “phập!”; một, hai “phập!” Có cái “phập” làm củi vỡ ra, có cái “phập” thì búa lại dính khắn vào củi, gỡ ra cũng tróc vải trầy vi! Khi độ mệt đã choáng váng mặt mày, nhưng còn đủ để nhận được tiếng ông nhạc ở sau lưng:
- Bây làm cái gì vậy?
Tôi quay lại chào ông bà vừa đi xóm về, rồi trả lời với giọng điệu của người vừa lập nên công trạng:
- Dạ, vợ con biểu chẻ củi để khi đám cưới có mà xài!
- Thôi, thôi! Bây “bị” nó rồi! Đi vô! Đi vô uống nước con!
- Dạ, để con chẻ thêm một mớ nữa, ba!
- Củi nầy ba để bán cho lò bánh mì, đâu cần chẻ! Còn củi dùng cho đám cưới thì để trong nhà kho kia, có xài mười đám cũng không hết!
Bà nhạc lắc đầu:
- Cái con nhỏ nầy…
Vào nhà bà nhạc rầy Vi:
- Chồng của mầy nó không quen làm việc nặng. Xúi dại rũi nó trợt chân trợt cẳng thì sao?
Bà nhạc dùng tiếng “chồng mầy” tôi thấy ấm áp lạ lùng! Còn vợ tôi thì chúm chím cười, còn liếc qua tôi với ánh mắt còn bén hơn... lưỡi búa, lại chu đôi môi đỏ ao chế nhạo.
Thế là bao mệt mỏi trong tôi biến mất tiêu!
Phải nói trong đời thường, về sự thông minh, lúc nào vợ cũng hơn tôi một phép. Khi về làm dâu vợ tôi đã chứng minh đầy đủ điều đó. Ngoài sự hiếu thảo với cha mẹ chồng, vợ tôi còn nhiều đức tính như hân hậu, cần kiệm...
Thuở đó, ở thành phố “nhà giàu” mới có tủ lạnh (ti vi chưa có), còn dưới quê thì tuyệt đối không, bởi có điện đâu mà xài! Nên những ngày đầu, tủ lạnh đối với vợ tôi là một phát minh khoa học lớn lao, nó đủ công năng, nên có cái gì cũng “thồn” vô trong đó. Có lần mẹ tôi mở tủ lạnh, rồi nói với vợ tôi:
- Tô mắm nêm nầy, con đừng có để vào đây, nếu không tất cả cái gì trong nầy đều có mùi mắm nêm hết.
Chỉ chờ có dịp nầy, tôi cười hí hí:
- Trái cây mà có mùi mắm nêm ăn càng ngon chứ sao mẹ?
Mẹ cười, còn vợ tôi cứ đem cái sở trường là bắn nửa mắt vào tôi.
Tôi khoái chí, nói theo kiểu đá banh thì “gỡ” được một, nhưng dường như chỉ có một mà thôi!
Khi con chúng tôi đã lớn, tuổi có thể về quê thăm ngoại một mình, thế mà một tối cả nhà xem ti vi, không phải nhằm đoạn hài mà vợ tôi cười ngất. Con hỏi, “sao tự nhiên mẹ cười?” Một lát vợ tôi mới trả lời được:
- Mẹ thấy bộ tướng ông thái giám đứng khúm núm kia giống"mấy thằng cha“ lần đầu coi mắt vợ quá!” Hi! Hi!
Biết bị xỏ ngọt nhưng tôi biết gì hơn ngoài làm...thinh! May sao đến chương trình quảng cáo, quảng cáo tủ lạnh, tôi nói tỉnh bơ:
- Tủ lanh đời mới coi bộ tốt à nghen! Nó tự khử mùi, dù “mấy con mẹ” ở vườn có để mắm nêm vô đó cũng không sợ hôi. Ha! Ha!...
Tức thì vành tai tôi bị kéo ra cả thước, tiếp theo là một giọng tru tréo, muốn nổi da gà:
- Trời..u.u..i! Chuyện cũ nhắc hoài! Nhắc hoài!
Vậy đó, “chuyện xưa” thì vợ tội nhắc được, còn “chuyện cũ” tôi nhắc thì như bị muốn nhai xương!
Có vợ miệt vườn, miệt quê là vậy đó!
----------------------------------------
;-))
|
Lộ Công Mười Lăm
|
IP Logged |
|
lo cong
Senior Member
Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
|
Gởi ngày: 15/Jan/2015 lúc 8:56pm |
Một ngàn ngày trên triền núi Hi Mã Lạp Sơn
Thái Công Tụng
Tác giả bài này trước đây bắt đầu dạy tại trường Cao đẳng Nông Nghiệp Saigon vào năm 1965. Môn dạy là Thổ Nhưỡng học và còn nhớ khoá đó bắt đầu giảng dạy ở khu Thành Cọng Hoà cũ, nơi trú đóng của Lữ đoàn Liên Binh phòng vệ Phủ Tổng Thống.
Sau năm 1963, Thành Cọng Hoà này được giao lại cho dân sự và là nơi có các phân khoa đại học như Đại học Dược, Đại học Văn Khoa và Nông Nghiệp
Tôi bắt đầu dạy từ khoá 5 nên vẫn còn nhớ một số danh tánh vài sinh viên:
Khóa 5 Trần Văn Đạt, Trần Lệ Chi, Võ Anh Hào, Trương Văn Tấn, Nguyễn Xuân Sơn
Châu Cự Xu, Hồ Văn Lâm, Nguyễn Bá Khương v.v.
Khoá 6:
Hàng Ngọc Ẩn, Lê thị Châu, Nguyễn Thị Đẩu, Trương Đức Bảo, Nguyễn thị Diệu Hồng, Đặng Đức Bích, Nguyễn thị Phụng v.v.
Khoá 7 có Lưu Trường Kiện.
Khoá 8 có Nguyễn thị Mỹ , HÒ ThÎ Bích Thoa, Nguyễn Văn Ngưu, Nguyễn Đức Cao
Khoá 9 có Nguyễn Hoàng Hoành
Khoá 10: Trần Kiều Nga, Nguyễn Tùng Buông, Lê thị Hoàn, Lý Bạch Lang, Lương Trọng Nhân
Khoá 11: đồng Chí Hoành (Thûy Lâm), Tô Kim Liên ..
Khoá 12: Châu Ngân Lê, Hà Thu Cúc, Nguyễn Lê Huỳnh ..
18 năm sau khi bắt đầu dạy Cao đẳng thì năm 1983, thời thế đưa đẩy tôi có dịp ở trên triền núi Himalaya, ở một xứ mệnh danh là xứ mái nhà thế giới .
Nhiều bạn hỏi ngay mái nhà thế giới ở đâu ? Xin thưa ngay đó là xứ Nepal một xứ nằm giữa Ấn Độ và Tây Tạng và vì xứ có độ cao rất lớn, -dưới chân núi Everest- nên ai cũng gọi đó là the roof of the world!
Phần lớn người ta thường qua Nepal là để du ngoạn, đi bộ dọc các đường mòn lên núi xuống đèo (trekking), đi chừng 10 ngày lại về nước, hoặc có thể đi hành hương xứ Phật vì Đức Phật sinh ra đó tại vườn Lâm Tì Ni, tức Lumbini, một tỉnh của Nepal giáp ranh với Ấn Độ .
Riêng người viết bài này qua Nepal không phải đi du ngoạn trekking như những thanh niên lực lưỡng, chán cảnh nhà cao ốc beton, chán cảnh ô nhiễm tiếng động của các đô thị để muốn tìm về rừng, tìm lại cảnh thiên nhiên, nhìn cảnh mặt trời ửng sáng từ từ chuyển màu từ chân núi Everest... Kẻ viết bài này qua Nepal cũng không phải đi hành hương xứ Phật nhưng thật ra qua đó là để đi làm việc.
Thực vậy, tác giả không phải ở Nepal 5- 10 ngày như phần đông các du khách mà gần 1000 ngày, từ 1983 đến 1986,vì có dịp làm chuyên viên nông nghiệp tại xứ đó. Nhưng cũng trong khoảng thời gian đó, vào mùa đông 1984, tôi có dịp trở về Canada và khi trở lại Népal làm việc sau kỳ nghĩ thường niên, tôi về Népal qua ngã Thái Bình Dương chứ không phải qua ngã Âu Châu như mọi lần, do đó có ghé lại Los Angeles trước khi về Manila và Bangkok để đi Katmandu, thủ đô Nepal .Vẫn còn nhớ ở Los Angeles, có một số anh em Nông Nghiệp mời cơm tối tại nhà hàng; thoáng nhìn trong bàn tiệc tối hôm đó thấy toàn 'chức sắc ' của Hội Nông Nghiệp như Châu Cự Xu, Phạm Văn Bách., Bùi Bỉnh Bân, Chu Quang Cẩm v.v. Ngày hôm sau, tôi phải rời Los Angeles để đi Manila, thăm viếng IRRI; ở Manila, có dịp gặp lại Trần thị Lệ Chi đang làm cho một dự án bảo vệ thực vật của chính phủ Đức tài trợ cho chính phủ Phi luật Tân, còn chồng cũng là người Đức, kinh tế gia ở Asian Development Bank. Rời Manila bằng Japan Air Lines để đi Bangkok, tôi bồi hồi từ khung cửa chỗ ngồi trên máy bay nhìn xuống không phận Đà Nẳng: các năm đó, Việt Nam bế quan toả cảng không có ai thăm viếng được chứ không như ngày nay .
Vào thời điểm 1983-86, tôi là người Việt duy nhất sống và làm việc ở Nepal.
Địa lý
Nhỏ bằng nửa nước Việt, vì diện tích là 147 181 km2 (so với nước Việt là 330 000km2) và dân số quãng 20 triệu người (nước mình là 80 triệu)
Nằm giữa Ấn Độ phía Nam và Tây Tạng phía Bắc, nên trải qua hàng ngàn năm, đây là nơi hội tụ của hai làn sóng di dân : một của người Ấn Độ-Aryan từ phía Nam và một từ những dân bán du mục gốc Tây Tạng và Mông Cổ đến. Những tộc người Ấn-Aryan đến ở tại những núi đồi, lập thành nhiều tiểu quốc. Năm 1768, thủ lãnh vương quốc nhỏ Gurkha xâm chiếm được quyền hành các tiểu quốc lân cận kia và thống trị thống nhất sơn hà, tạo nên nền móng Nepal ngày naỵ
Tại Nepal, ngoại trừ một giải đồng bằng phù sa của sông Hằng dọc theo biên giới với Ấn Độ mà nguời ta thường gọi là TERAI, còn ra là những giải núi cao và càng gần giãy Himalaya thì núi càng vươn cao chừng nấy . Vì dân đông so với diện tích đất nông nghiệp vốn rất ít ỏi nên người ta phải tận dụng đất, làm ruộng bậc thang từ chân núi lên tận đỉnh núi cao.
Vì ít khi các hãng hàng không quốc tế có máy bay đến thẳng Katmandu, nên thông thường là tới New Delhi trưóc rồi từ đó mới lấy máy bay hãng Ân Độ Air India hoăc Indian Air Lines đi đến Katmandu .
Đáp máy bay từ Paris đi New Delhi, nơi tôi phải đến trình diện toà Đại sứ Canada trước khi đến Katmandu, tôi đã thấy nhiều chuyện là lạ. Trên máy bay, thức ăn là thịt gà không có thịt bò, không có jambon thịt heo vì Ấn Độ cử kiêng thịt bò (họ thờ bò) mà cũng kiêng thịt heo vì trong xứ Ấn Độ cũng có người Hồi giáo chứ không phải chỉ Ấn độ giáo .Báo chí trên máy bay cũng toàn báo chí Ấn Độ, không có các tạp chí các nước khác để đọc.
Công việc
Dự án có tên là K-BIRD. Và cũng xin bạn đọc đừng nghĩ chắc tôi lo bảo tồn chim chóc gì đó trong cái dự án có tên như vậy! Thật ra, chữ K-BIRD toàn chữ là Karnali-Bheri Integrated Rural Development. Karnali và Bheri chỉ là tên hai dòng sông lớn ở phía Tây Nepal và dự án này nằm trong bồn lưu vực (watershed) của hai sông này nên có tên đó
Trước khi bắt tay vào công việc, họ cho tôi học 1 tháng tiếng Nepali do một thầy còn trẻ dạy qua tiếng Nepali, chỉ nói với tôi bằng tiếng Nepali, lúc đầu không hiểu, nhưng từ từ hiểu dần. Học một tháng chỉ biết nói qua loa cảm ơn, chào ông, chào bà, anh ăn cơm chưa v.v. nhưng khi gặp nói vài câu như vậy cũng cho dân họ biết mình muốn cố gắng hoà đồng mà thôi. Họ cũng chỉ cho cách chào hỏi như chắp tay trước ngực và nói Namaste! Ngoài tiếng Nepali, ngôn ngữ chính thức là Anh ngữ .
Sau đó là phải đi làm việc. Dự án bao gồm 3 quận Surkhet, Dailek và Jumla và xem như thuộc vùng Trung du và Thượng du Nepal, nằm về phía Tây xứ này, cách Katmandu hơn 1 giờ bay .
Chức vụ của tôi gọi là Natural resources advisor tức cố vấn tài nguyên thiên nhiên . Chức năng này có một nội hàm rộng lớn vì bao gồm cả nông, lâm, súc. Nhưng vì là cố vấn (tôi còn nhớ chữ Nepali gọi là salahaka) nên chỉ giúp ý kiến và theo dõi sự thực hiện, còn thực hiện các họat động hoàn toàn do các Ty sở địa phương (line agencies) ở 3 quận trên trông nom.
Về nông thì ngoài lúa trồng miền Terai và trong các thung lũng, người Nepal còn trồng lúa từ chân núi lên đỉnh trên ruộng bậc thang, nhờ nước suối chận lại.
Nepal còn nhiều hoa màu nhiệt đới như bắp nhưng cũng có khoai tây, lúa mì, lúa mạch, mạch ba góc (sarrasin) . Trên các thung lũng cao về phía Bắc, họ cũng trồng lúa mạch, kê, táo. Trong vùng dự án cũng có vài Trung Tâm Thực Nghiệm Nông Nghiệp rải rác.
Về lâm thì nhiều vấn nạn hơn: nào là xói mòn, phá rừng, nạn dê thả rong phá cây con, đốn lá cây cho bò ăn, bồn lưu vực bị thoái hoá ..
Về súc thì có trâu bò nhưng nuôi bò chỉ để cày cấy chứ không được ăn thịt; trâu cái để cho sữa uống. Uống nưóc trà thì phải pha thêm sữa trâu . Còn bò cái địa phương giống không cải thiện nên sữa chỉ vừa đủ cho con bê bú mà thôi, không dư cho người.
Trụ sở chính của dự án là ở Surkhet, một quận lỵ nằm vùng Trung du, cao độ 700m.
Surkhet, chỗ tôi ở nao nao giống làng quê tôi ở miền duyên hải Trị Thiên. Đêm khuya, nghe tiếng chày giã gạo như tôi đã từng nghe những năm tháng thời tiền chiến thuở còn nhỏ học tiểu học trường làng, vì vùng này cũng chưa có máy xay lúa xát gạo, buổi trưa cũng có thể nghe tiếng gà gáy sau lũy tre, sáng cũng nghe tiếng gà gáy vì vùng này không có nuôi gà công nghiệp. Chợt nhớ những vần thơ:
Ao sâu nước cả khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà
Thỉnh thoảng cũng phải đi lên núi, trèo đèo, lội suối vì đọc phúc trình các nơi gửi về thì nhiều, nào inception report, semestrial report, monthly report, progress report. Đi tại chỗ có lợi là nắm vững tình hình hơn và thăm dân cho biét sự tình luôn.
Đi công tác toàn đi bộ, vì không có đường xe chạỵ. Tôi có dịp đi công tác tại cả 3 quận miền núi. Núi non Nepal hiểm trở nguy hiểm hơn ở Việt Nam nhiều. Thực vậy, giải Truờng Sơn ở Việt nam chỉ là đàn em của giải Himalaya.
Đúng như Tản Đà đã viết, 'non cao tuổi vẫn chưa già' , giãy núi Himalaya tuy cao chót vót vậy mà tuổi đời còn trẻ lắm vì mới phát sinh chỉ cách đây vài chục triệu năm mà thôi, so với nhiều sơn khối cổ cả hàng trăm triệu năm như giãy Rocky Mountain hay giãy Appalachian của Bắc Mỹ . Nhũng vách núi, những thung lũng , nhũng đồi vắt vẻo bên sườn núi dựng đứng. Đó là chưa kể vào mùa đông gặp tuyết rơi trên núi, nhiều đường lách núi bị bít luôn. Tôi nhớ một hôm nọ sau nhiều ngày đi miền núi, trước cảnh một vực đá thăm thẳm nguy hiểm bắt buộc phải vượt qua, một chuyên viên Canada khác phải thốt ra: Bây giờ tôi mới hiểu tại sao Anh không muốn xâm chiếm xứ nàỵ ! Qủa thực, người Anh đến Ấn Độ, Hồi Quốc chứ không bao giờ chiếm Nepal cả .
Tuy vậy, cũng có nhiều đoạn đường rất đẹp trên vùng núi. Không có những nấm mộ lồng bàn, 'sè sè nấm đất bên đường, rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh' bởi một lẽ rất đơn giản là xứ này như Ấn Độ chỉ đem xác người và lượm củi đốt cạnh bờ suối, bờ sông rồi liệng tro xuống nước chảy trôi ra sông, rồi ra bìển cả . Nhiều nơi 'nao nao dòng nước uốn quanh, nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang' với nhiều rừng thông, rừng sồi, rừng giẻ cùng những loài chim lạ góp nhạc về trời . Một vài nhà sàn cheo leo bên sườn núi dưới ánh chiều tà. Trên núi nhà sàn rất nhiều, nuôi gia súc dưới sàn nên không vệ sinh .
Máy bay trong nước phần lớn là máy bay Twin Otter (19 chỗ ngồi) của Canada bán. Đây là loại STOL nghĩa là short take-off and landing, có thể cất cánh hạ cánh xuống phi đạo ngắn vì nước Nepal toàn đất núi nên phi đạo thường rất ngắn ở các thung lũng xung quanh núi và không phải quận nào cũng có sân bay. Các phi công Nepal lái máy bay Twin Otter đều có đi học lái tại British Columbia, vì tiểu bang này có địa hình địa vật như Nepal, nghĩa là có thung lũng hẹp, có suờn núi dốc đứng.
Thiên nhiên khắc nghiệt
Thiên nhiên khắc khổ dĩ nhiên tác động đến tính con người: chịu thương chịu khó, tiết kiệm, cần cù. Người Anh vốn biết như vậy nên tuyển mộ lính tại Nepal. Họ có cả một Trung Tâm ở phía Đông Nepal, tại Dharan chuyên môn tuyển lựa những thanh niên thuộc các bộ lạc Gurung, Tamang có khuôn mặt tương tự như người Việt, người Tàu; đó là loại lính thiện chiến, đi hàng đầu trong mọi trận mạc hay nơi hiểm yếu. Trước kia họ đóng ở HongKong, Singapore, Brunei. Mà không phải chỉ nuớc Anh mới tuyển mộ lính Gorkha này mà ngay cả Ấn Độ cũng vậy.
Buôn bán trao đổi hàng hoá
Có sự hỗ tương giữa các vùng trong nước: ngưòi miền Jumla gần Tây Tạng chở len xuống đồng bằng, vì miền núi và cao nguyên Tây Tạng có nuôi nhiều cừu và chở bằng lừa ngựa xuống và khi chở lên thì phải chở muối vì trên núi không có muối . Đặc biệt tại miền núi Jumla không xa Tây Tạng bao lăm có một loại trâu gọi là yak, rất chịu lạnh và rất mạnh; dân chúng thồ hàng miền núi cao toàn bằng loại trâu yak nàỵ.
Kinh tế và viện trợ quốc tế
Vì là xứ toàn núi đồi, địa hình qúa sức hiểm nghèo nên đường giao thông trên núi rất hiếm. Cũng may là Trung Quốc làm cho đuờng xuyên núi từ Katmandu đi Pokhara, đưòng từ Katmandu đến cửa ải Tây Tạng ở Kodari, Ấn Độ cũng giúp làm đưòng. Tuy nhiên chẳng thấm vào đâu so vói nhu cầu giao thông của xứ này. Vì cái khó bó cái khôn, tài nguyên tài chính không thể nào thỏa mãn các nhu cầu qúa lớn lao về đủ mọi mặt như giáo dục, y tế, phát triển hạ tằng nên Nepal kêu gọi và được nhiều xứ đáp ứng: viện trợ song phương thì viện trợ của nhiều nưóc, đặc biệt là Nhật cho nhiều tiền nhất, sau dó là Ấn Độ rồi mới đến Đức, Anh, Mỹ, Trung Quốc; viện trợ đa phương thì các ngân hàng phát triển như Asian Development Bank cho vay lãi xuất thấp; đó là chưa kể nhiều tổ chức phi chính phủ như Peace Corps, thiện nguyện Nhật Bản, Anh, Đức, Thuỵ sĩ nmuôn màu muôn vẻ ..
Nepal là xứ rất nghèo vì tài nguyên không có bao nhiêu, không có dầu hỏa như Việt Nam, không ăn thông ra biển như Việt Nam, không có than đá như Việt Nam, không có mỏ hột xoàn như ở Nam Phi hoặc mỏ đồng như Congo (Zaire). Mọi việc xuất nhập đều phải qua hải cảng Calcutta của Ấn nên nếu Ấn Độ không cho qúa cảnh thì Nepal rất kẹt. Do đó, chính sách đối ngoại của Nepal thường nương nương với chính sách Ấn Độ.
Ăn uống
Tại sao thức ăn Nepal nghèo nàn? Là vì trái với người Việt nhiều tài nguyên hồ ao, biển cả, không kiêng cử, ăn đủ thứ còn người Nepali kiêng không ăn thịt bò vì thờ bò như Ấn Độ, không nuôi heo vì cũng chịu ảnh hưởng Hồi giáo, không biển nên không có cá, sông ngòi chỉ là thác ghềnh. Thỉnh thoảng giết dê mà thôi. Thức ăn quanh quẩn chỉ cơm món đậu, khoai tây...Katmandu thì gì cũng có vì là thủ đô, có khách sạn Sheraton, có trường học quốc tế. Đặc biệt ở các siêu thị tại Katmandu, người ta bán bufsteak (từ trâu) chứ không phải beefsteak
Họ ăn bốc, không dùng đủa (như ở Ấn Độ vậy), ẩm thực có thể kể món dhal bhaat tarkaari, nghĩa là đậu, cơm, rau cải pha cari, achaar (gia vị hơi cay), momos (một loại bánh bao)...
Chữ viết
Chữ viết căn cứ vào chữ Phạn nghĩa là viết chỉ cần vài chục chữ là đánh vần viết được ngay, không phải như tiếng Tàu mà mỗi tiếng phải có mỗi chữ, nên phải thuộc cả vài ngàn chữ mới đọc được tiếng Hán.
Còn tiếng Nepali chỉ cần học chừng vài tháng là đọc được viết được ngay. Chữ Phạn chính là nguồn gốc của các chữ Thái lan, chữ Miên, chữ Lào
Mo Népali Siktshou (Tôi học tiếng Népal)
Tôn giáo
Tôn giáo thì 88% là theo Ấn độ giáo, 8% theo Phật giáo, Hồi giáo quảng 3%
Nepal vì nhiều di sản văn hoá tôn giáo nên cũng là nơi hành hương hàng năm của hàng chục ngàn người mộ đạo như ngưòi Nhật, Đại hàn, Thái Lan và gần đây hơn là Phật tử Việt Nam ở nhiều nơi trên thế giới tụ tập về Vườn Lâm Tì Ni, chỗ đức Phật sinh ra đời .
Gần Katmandu cũng có nhiều đền thờ như Pashupatinath, Godnath và Swayambhunath. Một vài đền cổ thờ các vị nữ thần ở Patan, ở Bhaktapur không xa Katmandu bao nhiêu .
Ngoài Ấn độ giáo, Nepal sau này được tiếp xúc với thêm Phật Giáo Tây Tạng vì có nhiều nhà sư Tây Tạng đã thoát chạy tị nạn khi Trung Quốc tấn công Tây Tạng khiến Đức Dalai Lama hiện nay phải băng đồng, băng núi trốn qua Nepal rồi từ dó qua Ấn Độ. Hiện có nhiều người tị nạn Tây Tạng ở Nepal, trong đó nhiều tu sĩ.
Leo núi
Núi Everest là núi phía Đông Bắc Katmandu, ngoài leo núi , còn có thể đi thăm bằng máy bay nhỏ lượn quanh núi để quay phim, chụp hình
Cao gần 8000m, núi Everest là đỉnh nhìn về Bắc là Tây Tạng, nhìn về Nam là Nepal. Những dân Sherpa chuyên làm nghề cửu vạn, tải sau lưng những gùi vật dụng cho nhiều đoàn thám hiểm lực lưỡng leo núi: có đoàn từ Âu Châu, có đoàn Mỹ, có đoàn Nhật... Có nhiều người chết khi leo núi Everest, có khi vì không quen với những vấn đề không khí rất loãng, thiếu oxy ở cao độ, có khi chết vì nạn chuồi tuyết lăn; tóm lại không phải leo núi là thành công đâu . . Lúc tôi ở Nepal, có cựu Tổng Thống Carter cũng có lần leo núi, nhưng không thành công, nhà vua Nepal phải cho trực thăng lên đón về cùng với đám cận vệ ! (Nhà vua này sau bị con giết và người con cũng tự vẫn bằng súng luôn )
Ngoài núi Everest ra, còn có núi Annapurna, gần Pokhara. Pokhara cũng là một thành phố quan trọng của Nepal. Thành phố này có nhiều dân tị nạn Tây Tạng và vì qua đây từ những đợt đầu di cư tị nạn từ những năm 1957 nên họ đã có vài cơ sở kinh doanh như khách sạn ở đâỵ
Chủng tộc
Nepal có nhiều chủng tộc: chủng tộc Newar ở thung lũng Katmandu.
Tộc Gurung sống trên các ngọn đồi phía Tây Nepal, quanh núi Annapurna, Gorkha. Họ nói ngôn ngữ gốc Tạng-Miến, và dạng gốc Mông cổ. Các đoàn lính Gurkha đóng quân ở Brunei, Ấn Độ là người Gurung. Họ thiện chiến, có kỷ luật. Theo truyền thống, anh chị em trong họ có thể lấy nhau. Một định chế đặc thù của người Gurung này có tên là rodi, một loại câu lạc bộ trong đó, trai gái khi qúa 12 tuổi phải sống tập thể làm việc đồng áng chung. Cuộc sống như vậy tạo cơ hội cho con em họ hàng gặp gỡ, tiến đến hôn nhân
Tộc người Rai ở các ngọn đồi phía Đông Nepal, quanh Dhankuta, Bhojpur. Trồng lúa trên ruộng bậc thang. Họ cũng thiện chiến, can đảm như người Gurung nên cũng đi lính Gurkha và nhờ đó gửi tiền về cho thân nhân ở nhà quê
Tộc Limbu ở cực đông đồng bằng Terai và phần đông làm ruộng. Họ không ra đồng áng những ngày mồng 1 và rằm (kiêng cử )
Còn nhiều tộc người khác như tộc Magar dân số gần nửa triệu cũng nói ngôn ngữ gốc Tạng-Miến, khuôn mặt như người Việt; tộc Tamang, tộc Sherpa ở chân núi Everest chuyên làm nghề hướng dẫn du khách leo núi Everest .
Trong dự án tôi làm có vài nhân viên thuộc các tộc người Rai, ngưòi Tamang
Tuy có đến 36 tộc người khác nhau, có tộc gốc Tây Tạng-Mông cổ (Tạng Mông) chiếm 20% dân số, có tộc gốc Ấn-Aryan chiếm 80% dân số và có phong tục tập quán khác nhau trong quan, hôn, tang, tế nhưng các điều kiện địa lý đặc thù của Nepal đã làm các tộc ngưòi này có một hồn riêng biệt, đặc trưng cho căn tính (identity) Nepal.
Nếp sống thường nhật
Đại đa số nhân dân cũng nghèo như bên Việt Nam vậy; vì ăn uống thiếu thốn mà làm việc lam lũ, đầu tắt mặt tối, leo núi, tìm củi, cày cấy nên tuổi thọ thấp, dưới 50 tuổi. Vì vậy, họ lấy vợ sớm để có con nối dõi: tục tảo hôn là vì vậy . Một hôm, tôi đang đi công tác với một đối tác viên cũng chuyên viên nông nghiệp người Nepalais thấy một em bé xem chừng 15 tuổi dắt một con dê, đi sau là nguời cha; anh Nepali giải thích với tôi là dê là lễ vật trình nhà gái đó lúc xin hỏi .. Gia đình Nepal chỉ thích đè con trai, không thích sinh con gái, hầu như đó là đặc trưng văn hoá của họ.(và Ấn độ cũng vậy) Vì con gái khi lấy chồng phải đem nhiều hồi môn cho bên chồng và khi già yếu, con trai mới tiếp tục công việc đồng áng đuợc . Người Tây Tạng còn có tục đa phu, vì không đủ đàn bà.
Di dân
Có lần tôi bị đánh cắp p***eport nên phải qua New Delhi làm sổ thông hành lại. Nhiều công chức Canada lo về Di Trú ở đây rất bận rộn vì rất đông dân Ấn Độ muốn xin qua Canada lập nghiệp. Người Sikh được nhập vào rất đông; họ là người luôn luôn chít khăn trên đầu. Và vì tôi cũng có dịp đi Ấn Độ để tổ chức khoá tu nghiệp cho những chuyên viên Nepali trong dự án K-BIRD sang đó tu nghiệp, nên tôi có để ý là tiểu bang Ấn Độ có người Sikh (tiểu bang Punjab) là giàu nhất. Thì ra, họ chuyển tiền từ ngoại quốc về cho thân nhân.
Tòa Đại Sứ Canada ở Ấn luôn luôn bận rộn và là nơi bận rộn thứ nhì sau Hong Kong. Dạo đó, Hongkong chưa chuyển giao quyền hành lại cho Trung Quốc nên dân HongKong ào ào nối đuôi nhau xin visa vào Canada.
Dân số và kiểm soát sinh đẻ
Dân số là vấn đề trọng tâm hàng đầu của Nepal. Tôi còn nhớ, tờ báo hàng ngày Nepal Times cứ mỗi ngày, ghi dân số Nepal trên một tít trang đầụ, như nhắc nhở mọi người thấy dân số cứ tăng mỗi ngày. Tôi nghĩ Viet Nam cũng nên làm như vậy, thay vì chỉ trong thống kê mỗi năm.
Nhiều khi đi núi, gặp các bác sĩ, các y tá cắm lều, dựng trại, khuyến khích thanh niên các xã lân cận đến thắt ống dẫn tinh. Các công chức cũng được khuyến khích đi thắt ống dẫn tinh (vasectomy) sau đó được nghỉ thêm nhiều tuần và có cho thêm vài trăm roupie . Roupie là tiền Nepal, một USD bằng 20 roupie. Tôi hỏi Bác sĩ gặp miền núi tại sao không cột buồng trứng cho đàn bà thì họ trả lời miền núi không đủ phương tiện vệ sinh vì cột buồng trứng cho phụ nữ đòi hỏi điều kiện sát trùng tinh vi hơn so với đàn ông .
Tuy nhiên, số đi thắt ống dẫn tinh và cột buồng trứng không nhiều so với dân số. Nạn nghèo đói, nạn mù chữ, giao thông khó khăn cũng là những yếu tố trở ngại cho chương trình.
Năng lượng: mặt trời, nước
Tại phi trường Surkhet, người ta sử dụng năng lượng mặt trời để cho chạy các máy truyền tin. Nhờ năng lượng mặt trời chuyển hoá thành điện. Cũng tại Surkhet, vì cách xa giao thông nên không có nhà máy nhiệt điện dùng dầu cặn chạy máy mà có một đập thủy điện nhỏ để phát điện. Các tuabin điện tuy nhỏ nhưng cũng giúp cho thành phố có ít điện; tuy nhiên, vào những tháng cuối mùa nắng (3-4). thì nưóc trong hồ cạn dần nên không có điện, phải dùng đèn dầu hay thắp đèn manchon. Tại vài nơi thuận tiện, nông dân cũng tận dụng một sự chênh lệch mực nước để cho chạy cái cối xay, phần lớn xay bột bắp, bột gạo, bột mì
Nepal có tài nguyên nuớc phong phú và có nhiều nơi dễ xây đắp đập thủy điện để xuất cảng điện sang Ấn Độ
Liên lạc
Liên lạc thì dạo đó làm gì có Internet và điện thoại di động như bây giờ. Phải viết thư ra bưu điện mua tem. Tuy nhiên, hàng đêm, dù ở Surkhet rất xa Katmandu, tôi vẫn được nghe tiếng Việt qua làn sóng BBC, Tiếng nói Hoa Kỳ và nhất là Đài tiếng Việt phát thanh từ Melbourne của Úc vì Nepal nằm trong khu vực phát tuyến, gần Viẹt Nam nên bắt đài rất dễ
Thời điểm du lịch
Thuận lợi nhất là từ tháng 11 đến tháng 3 vì sau đó mưa to, gió lớn, mây mù dày đặc, máy bay đáp xuống phi trường Katmandu rất khó khăn và cách đây mấy năm, báo chí đăng tin máy bay Thái Lan chở hành khách từ Bangkok đâm đầu vào núi bao quanh thung lũng nàỵ
Lời kết
Từ ngày dạy ở cao đẳng cũng tưởng cuộc đời mình chỉ gắn bó với nước Việt thế mà thời cuộc đưa đẩy, tôi lại đi làm việc ở xứ đèo heo hút gió này nhưng bù lại biết thêm cả một nền văn hoá sâu sắc Ấn Độ, thấy được bằng mắt trần những ngọn núi cao như Annapurna, Everest mà lâu nay chỉ nhìn qua hình carte postale.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, bạn bè Nông Nghiệp giờ đây chân trời góc biển, người miền băng tuyết, kẻ ở trời Âu, người rừng già Phi châu, kẻ còn ở lại, người đã đi vào thế giới vĩnh hằng thật là
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Trong thời gian làm việc ở Nepal tôi có dịp đi Calcutta ở Ấn Độ và có ghé thăm trại người cùi của bà mẹ Teresa và thấy trên bức tường các dòng chữ sau đây :
Cuộc sống như một nỗi buồn, hãy vượt qua nó
Cuộc sống như một cuộc tranh đấu, hãy chấp nhận nó
Cuộc sống như một sự phiêu lưu, hãy can đảm lên
Cuộc sống như một thử thách, hãy đáp ứng nó
Cuộc sống như một cơ may, hãy nắm lấy nó
Mẹ Teresa đã dâng hiến trọn cuộc đời mình cho tình thương.
Xin thắp nén hương lòng cầu nguyện cho những bạn bè, sinh viên cũ, sống khôn thác thiêng hộ trì cho những kẻ còn sống. Xin nguyện cầu cho những người còn trên cõi đời này nối lại tình thâm trên quãng đời trước mắt rất ngắn ngủi còn lại, dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng .
Thái Công Tụng
Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 15/Jan/2015 lúc 8:57pm
|
Lộ Công Mười Lăm
|
IP Logged |
|
lo cong
Senior Member
Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
|
Gởi ngày: 08/Jun/2015 lúc 4:36pm |
)HÒN ĐÁ BÊN CÂY TÙNG
Sinh ra lớn lên tại khu ghetto nghèo đầy tội phạm thường thấy tại các thành phố lớn, John không có cha, mẹ nghiện ngập suốt ngày. Bao nhiêu tiền chính phủ trợ cấp hàng tháng cho gia đình nghèo, mẹ anh dùng mua rượu, thuốc.
John nhiễm theo tính xấu môi trường chung quanh, tuy chưa dính vào ma túy, nhưng thỉnh thoảng trốn học, cạy cửa xe, đột nhập nhà ăn trộm để có tiền mua những món đồ mình thích. John cũng từng bị cảnh sát bắt một lần nhưng dưới tuổi trưởng thành nên chưa phải ngồi tù.
Do mẹ anh không còn tiền mua thực phẩm, John ăn sáng ăn trưa tại trường học được Bộ Xã hội tài trợ cho học sinh nghèo. Chiều tối John cuốc bộ đến nhà ăn từ thiện dưới phố dành cho người khốn khó. Đến đây ăn đã nhiều năm nhưng John không quen ai trong nhóm thiện nguyện, bởi mỗi ngày có những nhóm khác nhau tham gia phục vụ.
Người duy nhất John nhớ đến là ông già tuổi ngoài 70 thường làm vào chiều thứ Bảy. Mỗi lần gặp, ông cười tươi, chào mọi người đến ăn rất chân tình. Ông khéo léo múc các món thức ăn vào khay, tươm tất gọn gàng. Khi đưa khay thức ăn, ông bao giờ cũng niềm nở, chúc người ăn ngon miệng như thể đang phục vụ cho vị khách cao quý tại nhà hàng sang trọng nào. Mỗi lần gặp ông, John cảm thấy an lạc, nhẹ nhàng. Thỉnh thoảng khi vắng người, thấy John ngồi ăn lẻ loi một mình, ông pha ly nước cam đem đến.
John thường không giấu ông điều gì, ngay cả chuyện đánh nhau ở trường hay cạy xe ăn cắp vặt bị cảnh sát bắt. Ông ngồi nghe chăm chú gật gù, cám ơn người thiếu niên to lớn tuổi teen đã chia sẻ. Sau mỗi lần trò chuyện, ông luôn cười rất tươi khuyên John:
- Làm cậu bé tốt tính đi! Đừng làm chuyện dính vào phiền phức nữa, khi đến tuổi trưởng thành sẽ không tốt cho cháu.
John bản tính ương ngạnh, máu giang hồ ảnh hưởng từ khu ghetto, cười lanh lảnh, chỉ vào bắp tay cuồn cuộn, tự hào:
- Cháu mạnh, chắc như đá tảng. Không ai làm gì được cháu đâu!
Không giống như những người khác đến dùng cơm một thời gian rồi ra đi, John đến đây hàng ngày, năm này qua năm kia nên tất cả các nhóm thiện nguyện đều biết đến cậu tuổi teen này. John trở nên thân thiết gắn bó với ông già, gọi ông thân mật hí hỏm bằng cái tên tự đặt: Ông già Cool (cool: vui vẻ, điềm tĩnh).
Bẵng đi một thời gian dài John đột nhiên biến mất không đến dùng cơm. Mọi người thắc mắc muốn tìm hiểu nhưng không biết địa chỉ. Mấy tháng sau, viên cảnh sát đến tìm ông Cool tại nhà ăn, trao bức thư:
“Ông Cool ơi, cháu đã 20 tuổi rồi, đang ngồi tù vì tội trộm cướp. Mẹ cháu mất hơn nửa năm nay. Tháng tới cháu sẽ được thả nhưng không biết phải đi đâu, làm gì để sống. Với hồ sơ tội phạm nếu không người bảo lãnh sẽ không ai muớn cháu, dù có tiền thuê nhà không ai sẽ cho cháu thuê. Cháu không muốn sống trở lại với giới giang hồ để tiếp tục con đường cũ. Cháu muốn làm người tốt, ông ơi!”.
*
Buổi chiều bước chân ra khỏi nhà tù, nét mặt John mệt mỏi, hoang mang cực độ sau một đêm trằn trọc. Cảm giác được tự do không đủ làm anh vui khi đối diện tương lai vô vọng phũ phàng. John thất thểu bước đến trạm đăng ký xe miễn phí dành cho tù nhân mãn hạn, dù không biết phải đi đâu. Hình như có ai đang vẫy tay nơi xa xa. Nụ cười tươi mát ấy, khuôn vóc điềm tĩnh ấy, không thể nào ai khác, John mừng rỡ kêu to, anh chạy ào đến ôm choàng, siết chặt:
- Ông Cool!
Ông xoa nhẹ, vỗ về tấm lưng chắc thịt của người thanh niên mới lớn, ông cho biết các nhóm thiện nguyện tại nhà ăn đã quyên góp mướn căn phòng gần đó giúp anh có nơi cư trú trong 6 tháng. Ông sẽ chở John về nhà ở tạm đêm nay rồi ngày mai đi nhận phòng. John bàng hoàng như không tin vào chính tai mình. Mới vài phút đây thôi anh thấy cô đơn lạc lõng tận cùng. Thế giới như không có anh, loài người như không biết đến sự hiện hữu của anh. Cảm giác được yêu thương, được chấp nhận làm John xúc động mạnh. Mắt anh hoen ướt đầu tiên trong đời.
Ông Cool sống một mình trong căn nhà nhỏ chỉ có một phòng ngủ nhưng có phòng khách lót sàn gỗ khá rộng thoáng. Nơi đây ngoài mấy kệ sách, vài tấm gối ngồi trên sàn của Nhật (tọa cụ), có chiếc bàn thô sơ chưng bức tượng đồng ngồi mỉm cười thật đẹp mà John không biết là ai và có ý nghĩa gì.
Ông Cool làm sẵn món mì Ý đãi John trong buổi cơm chiều. John kể cho ông nghe nhiều khía cạnh khốc liệt đời sống trong tù. Ông chăm chú lắng nghe, gật gù. Dùng bữa xong, ông khuyên John đi tắm để ông lót nệm ngoài phòng khách cho John ngủ tối nay. Khi tắm xong, John bước ra, không gian thanh tịnh lạ lùng. Anh chợt giật mình khi thấy ông Cool phong thái rất an nhiên, ngồi thẳng lưng lặng im giữa căn phòng, miệng mỉm cười cùng bức tượng trên bàn.
Đột nhiên ông nói khẽ:
- Cháu ngồi xuống đây bên cạnh ta, trên tấm gối này, chúng ta cùng trò chuyện.
John nghe lời, ngồi xuống như dáng ông ngồi, nhìn vào bức tượng đang mỉm cười. Không gian lắng đọng, anh nghe được cả hơi thở chính mình.
Ông Cool hỏi John:
- Cháu kể về đời sống trong tù, thế cháu có dự tính gì sau khi ra tù không?
- Cháu không biết bắt đầu ra sao ông ạ, mọi chuyện đối với cháu như ngõ cụt. Cháu may mắn được ban thiện nguyện giúp 6 tháng tiền trọ, nhưng sau 6 tháng cháu cũng không biết phải làm gì.
Vẫn nhìn bức tượng mỉm cười, dáng an nhiên bất động, ông lên tiếng:
- Thật ra cháu đã biết bắt đầu rồi đấy chứ. Cách đây 1 tháng, cháu biết bắt đầu bằng nhận thức rằng mình phải làm người tốt. Chính điều ấy đã gieo mầm cho những điều tốt đẹp hôm nay. Nếu cháu tiếp tục con đường làm người tốt thì điều tốt đẹp sẽ tiếp tục đến với cháu.
- Nhưng cháu tiếp tục như thế nào hở ông? Cháu sẽ cố gắng xin việc làm, nhưng cháu không có kinh nghiệm gì. Ai sẽ mướn một người từng ở tù như cháu?
Nhẹ nhàng, ông Cool khuyên:
- Cháu hãy cố gắng kiếm việc làm hàng ngày. Ai cũng muốn thuê người tốt. Vậy cháu nên làm gì để mọi người có cơ hội biết cháu là người tốt?
Suy nghĩ một lúc lâu, John lên tiếng, giọng vẫn còn rổn rảng, khô cứng của giới giang hồ:
- Mỗi ngày ăn ở nhà ăn thiện nguyện, cháu sẽ giúp dọn dẹp, rửa chén hoặc bất cứ việc gì cần làm.
Ông Cool đôi mắt sáng biểu lộ niềm vui:
- Thật tuyệt vời! Cháu thấy không? Cháu biết mình phải bắt đầu như thế nào mà.
Chỉ vào bức tượng trên bàn, ông nói tiếp:
- Làm người tốt bao gồm làm người chung quanh cảm thấy an vui. Mỗi ngày cháu ráng bỏ ra 10 phút, ngồi một mình, thở nhẹ nhàng, tập cười như bức tượng kia cười. Gặp ai cháu cũng cười nhẹ nhàng như bức tượng nhé. Làm được như thế, nhiều điều mầu nhiệm sẽ đến. Cháu sẽ thấy đời sống đáng yêu, âu lo cũng bớt đi rất nhiều. Mấy mươi năm nay mỗi ngày ông đều ngồi tập cười như thế.
John trầm trồ:
- Ồ, thì ra vì thế mà ông lúc nào cũng cười rất tươi mát với mọi người. Ai cũng thân thiện quý mến ông. Làm thế nào cháu cũng có một tượng như thế? Tượng là Buddha (Phật) phải không ông? Phật là vị thánh như thế nào?
- Ông sẽ cho cháu một tượng như thế. Phật là người có thể tự tại mỉm cười trước mọi hoàn cảnh. Cháu có thể nghĩ đơn giản rằng: Phật là người lúc nào cũng cool. Sau này cháu muốn tìm hiểu thêm, ông sẽ nói thêm.
*
Ngày đầu tiên John trở lại dùng cơm tại nhà ăn, mọi người vui vẻ đón chào. Khi anh ngỏ lời muốn giúp những việc lặt vặt tại đây, các nhân viên từ thiện đều đồng ý nhưng có chút ưu tư trong lòng: không biết tính khí giang hồ trước đây của anh có làm công việc khó khăn nặng nề thêm? Thế nhưng chỉ sau vài ngày, mọi người thì thầm bàn tán “thằng John rổn rảng ngang ngược ngày trước sao giờ dễ thương quá đỗi!”.
John không hề câu nệ bất cứ việc gì, từ lau chùi dọn dẹp cho đến nấu nướng. Anh tâm niệm lời ông Cool dạy, lúc nào cũng niềm nở cười tươi. Gặp những người già, anh tận tình đem đồ ăn thức uống đến tận bàn và thỉnh thoảng hỏi han cần thêm chi. Chỉ một tháng, hơn trăm nhân viên tình nguyện của các tổ chức phục vụ tại đây đều quý mến John. Sau hai tháng, biết John hằng ngày nỗ lực xin việc làm, ông chủ chuỗi nhà hàng sang trọng thỉnh thoảng đến đây làm thiện nguyện đã ngỏ lời mướn anh.
Ông ta nói với John:
- Anh làm việc không lương mà vẫn vui tươi tận tình như thế thì tôi biết khi có lương anh sẽ làm tốt hơn thế nữa.
John như không tin vào tai mình, vui mừng cực độ khi lần đầu tiên trong đời được mướn đi làm.
Anh đến vội nhà ông Cool báo tin. Gặp ông, anh dang hai tay lên trời sung sướng hét to:
- Ông ơi! Thật nhiệm mầu, cháu có được việc làm rồi! Cháu thật không ngờ những điều ông dạy đơn giản như thế lại thành sự thật. Lãnh lương đầu tiên, cháu sẽ đãi tiệc ông.
Ông Cool hân hoan, giọng điềm đạm từ tốn:
- Ông thật vui cho cháu, nhưng phải nhớ nhé, mỗi ngày cháu tiếp tục cố gắng bỏ ra ít phút tập thở và cười. Nếu mình bỏ lơ đi một ngày thì sẽ từ từ thành hai ngày và rồi đánh mất chính mình tự lúc nào. Điều mầu nhiệm cũng sẽ biến mất. Thực hành trong mỗi ngày nhắc nhở ta sống trong ý thức, nhắc nhở ta sống trong chánh niệm.
John hỏi:
- Chiều Chủ nhật hàng tuần, ông cho cháu đến nhà ngồi chung với ông nhé, để dạy cháu thêm?
Ông Cool nhìn John trìu mến, vỗ nhẹ vào vai anh:
- Được chứ, ông rất vui khi cháu đến!
Cuộc sống John kể từ đó thuận buồm xuôi gió, anh được tài trợ đi học thêm, thăng tiến chức vụ theo năm tháng, từ người hầu bàn, thành ca trưởng, trợ lý. Mười năm sau anh được thuyên chuyển qua tiểu bang khác làm quản lý nhà hàng. Tuy xa ông Cool nhưng anh vẫn liên lạc mỗi tuần và hàng ngày thực hành lời ông dạy.
Một hôm, khi gọi thăm như thường lệ, anh rất ngạc nhiên khi nghe giọng nói đầu dây khác lạ. Qua vài câu xã giao thăm hỏi, giọng người lạ báo tin:
- Tôi là cháu Thiền sư Sota từ tiểu bang khác về, cách đây vài hôm bệnh viện báo tin ông đã qua đời anh ạ. Ông ra đi khuôn mặt vẫn cười rất an lạc. Ông có để lại di chúc, trong đó có nhờ anh tí việc.
*
Một ngày mùa xuân, người đàn ông tên John tuổi ngoài 30, theo lời dặn trong di chúc để lại của ông lão dạy thiền nơi miền Tây bắc Hoa Kỳ, lái xe hơn 2 ngàn cây số xuôi Nam tìm đến Vườn quốc gia Zion, bang Utah, Hoa Kỳ. Đoạn đường dài như bất tận ấy, một mình lái xe, John thả hồn trong cảm xúc nhớ thương ông lão vô biên...
Sau một đêm nghỉ ngơi tại nhà trọ trong Vườn quốc gia, sáng sớm anh hỏi người quản lý giúp nhận định địa điểm tên một đỉnh núi trong hơn mấy chục đỉnh tại đây, John lần theo đường mòn đi bộ lên đỉnh núi cao. Con đường trắc trở, khi đi, khi trèo qua những khối đá, phải mất 4 giờ John mới tới nơi. Anh loay hoay ngang dọc trên đỉnh một lúc lâu rồi thốt lên mừng rỡ:
- Ô, đây rồi! Ôi, đẹp quá!
Một cây tùng xanh tươi mọc ngay trên bờ đông của đỉnh mà một phần thân trườn ra bên ngoài vực sâu thăm thẳm cả ngàn mét. Gió ở đây khá mạnh, rít từng cơn làm John cảm tưởng có thể hất văng anh xuống vực bất cứ lúc nào.
John mở ba-lô lấy hộp đựng tro, anh quỳ xuống, cẩn thận tỉ mỉ, rót từng giọt tro qua những khe đá nơi rễ cây tùng mọc. Xong việc anh ngồi đối diện cây tùng, hồi hộp mở lá thơ ông Cool để lại, không biết ông viết gì trong ấy mà phải đến đây mới được đọc.
John giọng mỗi lúc mỗi nghẹn ngào:
“Thời trai trẻ biết bao lầm lỗi, ta lang thang đến đây. Trong tuyệt vọng chán chường ta có ý định nhảy xuống vách núi kết liễu cuộc đời. Nhưng mi - cây tùng bỗng nhiên hiện diện vững vàng ngay trên vách. Ở đây chỉ có đá và gió, thân mi thì có thể rơi xuống vực sâu bất cứ lúc nào, nhưng mi vẫn sống khỏe trên vùng núi khắc nghiệt này, vẫn xanh, vẫn tươi mát chở che soi bóng cho hòn đá thô cứng bên cạnh. Cám ơn mi cứu mạng, giúp ta bài học nhiệm mầu. Xin gởi đám tro tàn góp phần cho mi”.
Nước mắt John tuôn chảy, xúc cảm từng cơn chấn động châu thân. John thấy mình hết sức phước đức được ông Cool bằng xương bằng thịt chỉ dẫn từng bước trong cuộc sống. Còn ông Cool khởi đầu chỉ có cây tùng. Anh thấy mình có nhiệm vụ làm cây tùng tiếp nối cho những hòn đá khác.
Nghẹn ngào, hùng tráng, anh ngâm to bài thơ ông Cool làm cho cây tùng trên đỉnh núi cao, giữa không gian lộng gió:
Núi sừng sững cao
Vực thăm thẳm sâu
Gió cuồng điên bạt!
Sấm gầm động vang!
Hề ta đứng! Mỉm cười cùng năm tháng
Soi bóng đời che chở đá cô liêu.
Huyền Lam
(Hoa Kỳ
Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 08/Jun/2015 lúc 4:42pm
|
Lộ Công Mười Lăm
|
IP Logged |
|