Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Thể Thao | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Thể Thao |
Chủ đề: MỘT BÀI THUỐC VÕ THẬT HAY | |
Người gởi | Nội dung |
Huy-Tưởng
Senior Member Tham gia ngày: 15/Aug/2008 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 164 |
Chủ đề: MỘT BÀI THUỐC VÕ THẬT HAY Gởi ngày: 29/Nov/2012 lúc 8:56am |
MỘT BÀI THUỐC VÕ THẬT HAY Huy-Tường thân tặng các bạn yêu mến thể-thao và võ-thuật một bài thuốc rượu thật hay để xoa bóp. Chúng ta chơi thể-thao hoặc tập luyện võ-thuật, có khi cơ-thể bị thương-tổn, hảy dùng bài thuốc nầy để xoa bóp, Đây là bài thuốc Luyện Thiết sa chưỡng mà tôi đã từng dùng qua. Bài thuốc này còn có thể dùng vào vào những trường hợp khác trầm-trọng hơn, tôi sẽ giải-thích sau. 7) BÀI THUỐC NGÂM RƯỢU LUYỆN THIẾT SA CHƯỞNG DƯỢC LIỆU : 1. Qui vĩ – 2. Hồng hoa – 3. Nhủ hương – 4. Mộc dược – 5. Mộc hương – 6. Chỉ xác – 7. Kiết cánh – 8. Xuyên khung – 9. Đơn bì – 10. Kinh giới – 11. Đào nhơn – 12. Chi tử – 13. Xích thược – 14. Huyết kiệt – 15. Hổ cốt – 16. Trầm hương CÁCH CHẾ : tất cả 16 vị, mỗi vị 3 chỉ, tán nhuyễn thành bột ngâm chung với hai lít rượu trắng, 7 ngày sau dùng được, càng lâu càng tốt. CÁCH DÙNG : Trước khi luyện rót thuốc ra thoa bóp cho nóng hai bàn tay xong mới luyện, sau khi luyện xong cũng hành dược công như thế. Khi nào hết thuốc thì đi bổ thêm thang khác. Luyện công hành dược tữu đúng 100 ngày thì thuốc mới thấm vào tới xương làm xương, gân cốt cứng mạnh vô cùng. Chỉnh sửa lại bởi Huy-Tưởng - 11/Dec/2012 lúc 7:56am |
|
mhth
|
|
IP Logged | |
Huy-Tưởng
Senior Member Tham gia ngày: 15/Aug/2008 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 164 |
Gởi ngày: 11/Dec/2012 lúc 7:54am |
CÁCH KHÁM VÀ ĐIỀU TRỊ NGƯỜI LUYỆN CÔNG BỊ THƯƠNG Chương này chỉ cho ta cách nhận diện được những trường hợp người bị Chưởng thương (luyện chưởng bị thương) có thể trị liệu được mà không cần phải nhờ Y sĩ chuyên môn. Trong trường hợp bị người khác đả thương bằng chưởng pháp cũng cùng một cách khám xét. Trong trường bợp bị thương được ghi nhận là bị tấn công bằng Chưởng lực có phần trầm trọng hơn cả. Và cứ như thực tế thì hầu hết người bị Chưởng đánh trúng đều bị nội thương ít có trường hợp bị thương bên ngoài. Vì thế trong phạm vi chương 12 nầy đặc biệt dành để nghiên cứu về cách điều trị Nội và Ngoại thương do Chưởng Lực đánh trúng cũng như hành công phu sai trật mà bị nội thương. 1. NỘI THƯƠNG Các triệu chứng : a) Trường hợp bị nội thương Gan: Khi bị đánh một chưởng nơi gan thì, sau khi thân thể ngã xuốg, sắc diện đổi khác, mặt tím đi, mắt đỏ ngầu và sau đó thân thể phát nhiệt (nóng). b) Trường hợp bị thương nơi Tim: Bị một chưởng nơi huyệt Cửu vĩ (vùng tim) tức là tim bị thương rồi. Trước nhất người bị thương khụy xuống bất tỉnh, mặt xanh, hơi thở yếu, đôi khi không chịu thở là trường hợp nặng lắm. Nếu nạn nhân còn đi được mà thấy hơi đau vùng tim thì là bị thương Tim nhẹ. c) Bị thương Dạ dày: Bị một phát chưởng mà mắt nhắm lại không buồn mở ra, hay chỉ lim dim mệt nhọc, Môi và Mũi thâm đen lại là đã bị đánh trúng bao tử rồi. d) Bị thương Thận: Bị đánh một chưởng phía sau eo lưng (thận du) mà cả hai lỗ tai nghe lùng bùng không rõ, trán đen (hơi hơi) mặt phù lên màu trắng bạch ấy là đã bị người ta đánh trúng Thận rồi. e) Bị thương Ruột già (đại trường): Bị đánh vùng bụng, sau đó mặt đỏ hơi hơi, hơi thở yếu, đi cầu phải vội vàng hơn lúc bình thường. Đó là bị đánh trúng ruột già. g) Bị thương Ruột non: Bị đánh bụng rnà mặt sưng lên, hơi thở không thông, khò khè như suyễn, người nóng lên, miệng khô, đại tiểu tiện bị nghẹn đau. Tức là đã bị đánh trúng ruột non. h) Bị thương vùng Ngực và Lưng: Võ sinh học võ thường hay giao đấu, khi trúng đòn thường hay ỷ lại sức khỏe nên lờ đi, đến thời gian đôi mươi ngày, 10 bữa hay một tháng lại tự nhiên thấy ngày càng ốm yếu ra, mặt trắng, người cứ lúc nào cũng hâm hẩm phát nhiệt. Đó là đã bị thương vùng ngực hay lưng rồi. Vì vùng này có nhiều chỗ yếu. i) Bị thương Ngực: Mặt hơi đen, người nóng, ngực và miệng thấy khó chịu, lá đã bị người ta đánh trúng ngực bằng chưởng có kình Thiết Sa chưởng rồi. k) Bị đánh nội thương Phổi: Bị đánh một chưởng nơi vùng ngực mà thấy thở không được điều hòa như bình thường, mặt trắng ra thiếu máu, thở khò khè mà rất đau lúc nằm ngủ như ai lấy dao cắt ngực đau đớn chịu không nổi. Ấy là bị đả thương nơi phổi rồi không có chi là lạ. Trên đây là những triệu chứng bị nội thương nơi các tạng lớn và hễ thấy có triệu chứng như thế thì người luyện chưởng phải quan tâm tìm cách điều trị kẻo nguy hại đến tính mạng. 2. NGOẠI THƯƠNG : Nội thương hơi khó khám nghiệm, ngược lại Ngoại thương thì dễ thấy hơn vì nó thuộc bên ngoài cơ thể. Tnước nhất xem coi bị thương bộ phận nào, và khi biết đích thị mới phân biệt thương tích nặng hay là nhẹ. a) Đầu là nơi lập trung mọi nguồn quan yếu điều khiển châu thân, khi bị thương trị liệu có phần khó khăn nhất. Khi bị thương nơi đầu phần chết có hơi nhiều so với hy vọng sống lành mạnh. b) Ngực và Lưng: hai nơi nầy là phần che chở nội phủ (nôm na gọi là bộ đồ lòng). Nếu bị đánh trúng, phần bên trong có thể bị thương. c) Eo và Thân: đây là phần mềm dẻo, non yếu hơn nhiều bộ phận khác, cũng dễ nguy hại đến tính mạng khi bị đả thương, cứu chữa cũng không dễ dàng. d) Chân và Tất cả trường hợp nào cũng phải quan sát thật kỷ rồi mới quyết định trị liệu. Thông thường, lối bị thương của người luyện công, nếu bị nhẹ sau khi xoa nắn, ấn định được chỗ bị thương rồi đắp thuốc “CÔN NGUYÊN TÁN” (tên toa thuốc có chỉ dẫn trang kế tiếp) thì lành sau đó đôi hôm. Nếu bị nặng thì trong uống ngoài đắp thuốc CÔN NGUYÊN TÁN (thuốc uống có toa trang sau). Nơi bị thương nhức nhối khó chịu thì uống thêm thuốc chỉ thống “ ĐẠI THỐNG TÁN” (có toa trang sau). Nếu thụ thương hôn mê bất tỉnh thì trước hết cạy miệng đổ thuốc “KHAI QUANG TÁN” (có toa ở sau), thì nạn nhân tỉnh dậy ngay, kế đó mới khám nghiệm và định chỗ để trị liệu. Trước hết xem xương cốt coi có trặc, gảy không, nếu không sao, cấp tốc quan sát nội tạng, nếu không hề gì. Tuy nhiên nếu không phải là Y sĩ chuyên môn, bác sĩ Tây y hoặc võ sư có tài y học có kinh nghiệm trong nghề thì sự định liệu cũng hơi khó. Vậy để tránh sự giao động nạn nhân nên cầm tay xem mạch cho kỷ rồi định liệu. Ngày xưa, mỗi ông thầy võ chính tông đều kim nghề y sĩ ít ra cũng là y sĩ cho chính ông ta và cho võ sinh của ông ta. Và như thế mỗi khi học trò có ngộ nạn thì ông thầy có đủ cách chữa chạy khỏi phải nhờ người ngoài. Ngày nay chắc chắn là không được bao nhiêu ông thầy võ trong hoàn cầu biết kha khá về nghề thuốc. Âu là một thiếu sót lớn cho chính giai cấp luyện tập công phu. Và chính họ đã không thể nào tự tin vào mình để có thể rầy la học trò như những ông thầy ngày xưa. Chữ Quân, Sư rồi mới Phụ Mẫu, ngày nay chắc là hơi kém phần vững chắc để đám học trò cúi đầu vâng dạ hết lòng, đó cũng không phải là lỗi của đám trẻ thơ. Mà chính là những người lớn đã đánh mất chỗ đứng của họ. Ai còn hiểu biết gì nữa đâu để xứng đáng đứng trên ngồi trước để đám mầm non kính ngưỡng cúi đầu. Và ngày nay hay ngày nào đó nhũng người mang danh nghĩa cao quí trên phải tự xét lại mình cũng như những vị Sư Tăng ngày xưa đã kiểm thảo lấy mình trước khi ra khỏi cửa Thiền để vào đời dạy đạo. Ngày nay giáo điều còn đó mà mấy ai đã thực thi cho đúng đường. Xã hội đảo điên không phải tại ai mà lầm lỗi chính là do nơi những danh từ Tôn kính mà tự nó đã làm mất điều đáng tôn kính. Đó là người ta đã quên nhìn mặt mình (bộ mặt thật) sau mỗi lần thức giấc trước buổi bình minh. Bực Thầy đáng tôn kính của người võ thuật hội đủ : Công phu căn bản, biết tôn kính lịch sử, y lý, toán và lòng rộng thênh thang (trước đám môn sinh của võ lâm và con người). Chương nầy đặc biệt cống hiến cho đời (đồng đạo võ lâm) ba bài thuốc gia bảo. Bảo rằng quí hơn tính mạng thì không dám nhưng quí thì thật là quí. Giá lâu nay khi chưa ra sách mà con hoặc thân bằng quyến thuộc của một vị đại tài chủ tập công phu thọ thương thập tử nhất sinh vô phương cứu chữa, mà chợt có người giới triệu tới tôi (soạn giả), với ba bài thuốc nầy cứu sống mạng đứa con cưng của ông triệu phú thì hiển nhiên là tôi đòi gì được nấy và chắc chắn món tôi đòi là phải quí ghê lắm, ít ra giá trị cũng bằng một mạng người. Tôi đố độc giả chứ nếu quả có trường hợp ấy thì tôi có được như ý hay không ? Riêng tôi nghĩ chắc chắn được vì bằng không thì đứa nhỏ chết liền. Điều mà tôi quả quyết được đó là tôi đã đòi khỏi tay ông triệu phú Diêm Vương (gia tài Diêm Vương có hàng triệu linh hồn chất trong kho đụng từ vua chúa bất nhân trên trần thế, các hào phú vô lương và lớp người ngu dốt vì thiếu học v.v... ba hạng nầy chết xuống âm phủ bị Diêm Vương chất chung một như chất gạo, chờ đi học lại một khóa làm người rồi mới cho đầu thai trở lên cõi trần). Chắc độc giả thấy tôi diễn có phần tối ý nên có vị muốn nói trắng ra là tôi nhờ ba bài thuốc hay mà cứu được đứa con ông triệu phú nào đó và chính làm cho đứa nhỏ khỏi lọt vào tay Diêm Vương tức là tôi đã đòi được một vật quí bằng một mạng người. Quả nhiên quí vị độc giả bội phần cao kiến, tôi đây ngưỡng mộ vô cùng, phải chi có dịp hội kiến mà cùng nhau yến ẩm vài chén trà sen cho thỏa tình tri kỷ. Mà chư vị hiểu như thế còn một chút xíu nữa thì tới rồi (giống như phi thuyền thứ mười mấy đó tôi đã quên bắn lên mặt trăng nhưng gần tới nó lại hết sức nên ngưng lại, tức là quay chung quanh quỹ đạo mặt trăng). Số là tôi vốn bản chất thanh tịnh, thường thích bụng trống mà an nhàn, thường nghe lời phải, tiền bạc khó mua, thế nên hễ có người đến hiện là kẻ hiền sĩ. Nay đột nhiên có khách triệu phú mà tôi bước ra cửa chịu cứu trẻ con ấy là điều quí, cái quí có ở đời rất hiếm, thành thử kho của Diêm Vương mới chất đống mấy triệu con người. Độc giả đã hiểu hết rồi, khi tôi vừa nói đầu câu chuyện. Vì trên môi ai cũng thoảng một nụ cười. Đời thật là vui, thật là sướng, bạn bè đông đảo, ai cũng thông minh, cùng nhau câu chuyện, dù thấp dù cao, chưa nói hết nửa câu đã lọt hết ý rồi. Nhẹ nhàng làm sao khi có người hỏi, tại làm sao mà được như thế ? Thì xin thưa có gì đâu, lòng trống thênh thang. Có người nghe rồi suy nghĩ. Nhưng mà tôi quên nói rõ ra là ba thang thuốc nầy của tiên sinh Hồ Hoà Minh cho bạn võ lâm chớ không phải của tôi, thật là thế ấy. Toa thứ nhất tên là CÔN NGUVÊN TÁN, là thứ thuốc tán, vừa uống được, đắp, bó ngoài vết thương được. Hay lắm, hay lắm. Tôi xin chép nguyên văn : 1) CÔN NGUYÊN TÁN HIỆU NĂNG : Chuyên trị bị đánh gây nên thương tích, làm được bớt đau nhức, bớt sưng và tiêu tan máu bầm. DƯỢC LIỆU: 1. Qui vĩ – 2. Hồng hoa 3. Nhũ hương – 4. Mộc hương – 5. Trầm hương – 6. Mộc dược – 7. Chỉ xác – 8. Kiết cánh – 9. Xuyên khung – 10. Đơn bì – 11. Kinh giới – 12. Đào nhơn – 13. La chi tử - 14. Xích thược – 15. Huyết kiệt – 16. Hổ cốt (mỗi vị một chỉ). Tất cả là 16 vị, tán nhuyễn thành bột hòa rượu mà uống khi bị thương. BỊ THƯƠNG Ở ĐẦU : thêm 2 vị Xuyên khung và Thiên ma (mỗi vị 1 chỉ). BỊ THUƠNG Ở BỊ THƯƠNG Ở CHÂN : thêm 2 vị Ngưu tất và Gia bì (mỗi vị 2 chỉ). BỊ THƯƠNG Ở LƯNG : thêm 2 vị Cương hượt và Độc hượt (mỗi vị 1 chỉ rưởi). BỊ THƯƠNG Ở TIM : thêm 3 vị Thần Sa, Hổ phát, Điền thất (mỗi vị 1 chỉ). BỊ THƯƠNG Ở HÔNG : thêm 3 vị Ngưu tất, Tục đoạn, Đổ trọng (mỗi vị 1 chỉ rưởi). BỊ THƯƠNG Ở 2 BÊN SƯỜN : thêm 3 vị Thanh bì, Kinh giới, Phòng phong (mỗi vị 2 chỉ). CÁCH DÙNG : Các vẽt thương : lấy ra 2 chỉ hòa chung với rượu để uống. Bên ngoài : Lấy thuốc tán (nhiều ít tùy thương lớn nhỏ) trộn chung với rượu, đem hấp nóng rồi bó lấy vết thương. Thuốc tán nên làm sẵn trong nhà, cất vào hủ (keo) đậy kín phòng khi gặp nạn có dùng liền. Đi đâu nên mang theo đề phòng bất trắc mới gọi là người biết phòng xa. Đây là thang thuốc cứu mạng cho người luyện tập võ công đó. 2) THANG ĐẠI THỐNG TÁN Thảng như trị rồi (trong uống ngoài thoa) mà còn thấy trong mình khó chịu (khó ở) đau nhức rai rứt, từng hồi hay dây dưa thì hãy dùng thang sau đây là chận đứng cơn họa hoạn. Nhớ phải tránh gió trong lúc trị thương. DƯỢC LIỆU : 1. Xuyên khung – 2. Thảo ô – 3. Bán Hạ (mỗi thứ 2 chỉ) – 4. Ma hoàng (1 chỉ) – 5. Xìm xú (5 phân) – 6. Cộng lại là 6 vị tán nhuyễn, bỏ vào bình kín, mỗi lần lấy ra một (1) phân hòa với rượu uống. 3) THANG KHAI QUANG TÁN HIỆU NĂNG : Trong trường hợp bị đánh bất tỉnh nhân sự, óc mê man, hoặc trúng gió sôi đờm hay các chứng ngẹt thở chết giấc, đều dùng thang dược nầy trị được lành. DƯỢC LIỆU : 1. Nha tạo (5 chỉ) – 2. Bạch chỉ - 3. Tế tân - (3 chỉ) – 4. Đại mai phiến – 5. Xạ hương (mỗi thứ 2 chỉ) – 6. Xìm xú (5 phân) CÁCH CHẾ : Lấy nha tạo để trên miếng ngói mới, nướng thành than, hòa với Tế tân và các vị khác cũng tán nhuyễn, xong bỏ vô chai. Khi hữu sự mang ra dùng. CÁCH DÙNG : Lấy thuốc bột nầy thổi vào lỗ mũi nạn nhân thì mọi cơ quan trong cơ thể thức tỉnh và hoạt động trở lại bình thường. Các thang thuốc trên người luyện võ bao giờ cũng nên làm sẵn mang theo trong mình, hoặc để trong nhà phòng khi hữu sự mà dùng thì chẳng những rất tiện lợi cho mình mà đôi khi dùng để cứu người khác cũng rất là tiện lợi, có thể lấy cảm tình và làm tăng uy tín cho nghề nghiệp của mình. Trong những trường hợp bị gảy xương, đứt thịt vì binh khí thì tốt nhất nên tìm cách mang nạn nhân đến cơ quan chuyên môn điều trị vì trong thời buổi tiện nghi chúng ta nên phân công làm việc sẽ đỡ mất nhiều thì giờ. Nếu ở những nơi xa xôi thành phố, xa thầy thuốc chuyên nghiệp thì có thế dùng những thang dược trị liệu về Kim sang vv… Tác giả sẽ trình bày trong một cuốn sách khác chuyên về trị liệu. (Trích TỰ LUYỆN THIẾT-SA-CHƯỠNG cùa Giáo- sư HÀNG-THANH và PHƯƠNG THÁI KHÔNG Đại sư, Xuất bản năm 1972) Chỉnh sửa lại bởi Huy-Tưởng - 01/Feb/2013 lúc 7:24pm |
|
mhth
|
|
IP Logged | |
Huy-Tưởng
Senior Member Tham gia ngày: 15/Aug/2008 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 164 |
Gởi ngày: 20/Mar/2013 lúc 9:58pm |
Giới thiệu phương pháp Giải Huyệt và Dùng thuốc của các Võ sư thời xưa
Tác giả: lương y Lê Văn Sửu I. Những vấn đề chung. 1.Đặt vấn đề. Võ Thuật cổ truyền là một di sản văn hoá của dân tộc Việt Nam.từ ngàn xưa cho đến ngày nay ông cha chung ta và nhiều thế hệ con cháu người Việt Nam đã tiếp thu, sáng tạo, vun đắp và giữ gìn qua mấy ngàn năm lịch sử trong truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc. Sức khỏe là niềm mơ ước chung của con người, có sức khỏe là có tất cả. các cụ xưa đã nói “ Sức khỏe là Vàng”. Từ lâu con người đã cố gắng tìm kiếm những biện pháp để nâng cao sức khỏe và tuổi thọ có rất nhiều biện pháp và phương pháp để giữ gìn sức khỏe như: ăn uống, thuốc men, tập luyện… mà trong đó tập luyện võ thuật đã mang lại hiệu quả cao. Mục tiêu cao nhất của võ thuật là giúp người học làm chủ được thần kinh của mình thông qua việc rèn luyện cơ thể. Với phương pháp vận động đặc biệt giúp cơ thể luôn giữ được hơi thở điều hòa, cá cơ bắp mềm mại là mục tiêu đưa cơ thể người tập vào trạng thái luôn luôn tỉnh thức, hài hòa, cực lạc và từ bi. Theo TS Phạm Hồng Dương môn phái Vĩnh Xuân Ngô Gia định nghĩa: “tỉnh thức là trạng thái nhạy cảm, nhận biết caco nhất của con người về những quy luật và sự biến đổi của thế giới khách quan, tác động qua các giác quan sự cảm thụ của con người cũng như nhận biết về tâm thức bên trong bản thể của người đó. Hài hòa là trạng thái phấn chấn mạnh mẽ, toàn bộ thân thể vận hành tại cực đỉnh của nó mà không có bất cứ rối loạn nào. Khả năng thích ứng nhanh với sự biến đổi của môi trường xung quanh là mục tiêu rèn luyện thân thể, cũng như hóa giải các va chạm đối kháng trong xã hội một cách nhẹ nhàng và đó chính là bản lĩnh của người tập võ. Cực lạc và từ bi nghe như những danh từ phật giáo nhưng lại là tiêu chí của người mạnh khỏe. Cực lạc là niềm vui tối thượng không thể nào diễn tả nổi. khi người ta đạt đến sự Cực lạc thì từ bi sẽ đến như một hậu quả” Theo bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, võ thuật là những phương pháp đem lại sự trưởng thành cho con người đưa con người đến tầm cao vĩ đại, vĩnh cửu vốn có của mình. Ngoài những giá trị quý báu của võ thuật vừa nêu trên. Trông kho tang vô giá của võ thuật còn một viên ngọc quý nữa đó chính là Y Võ mà chúng ta it biết đến hoặc bỏ quyên chưa sưu tầm khai thác và sử dụng. Chính vì lý do này mà chúng tôi muốn giới thiệu với các bạn đồng nghiệp “ phương pháp giải huyệt và dùng thuốc của các võ sư thời xưa” do cố lương y Lê Văn Sửu sưu tầm và biên soạn. Lương y Lê Văn Sửu là thày dạy của võ sư Đinh Diệp Hòa. 2. Lý do giới thiệu phương pháp giải huyệt và dùng thuốc. Ngày nay tai nan chấn thương ngày càng nhiều, nguyên nhân chấn thương rất đa dạng như: tai nạn giao thông, tai nạn lao động nghề nghiệp, tai nạn công trường xây dựng, tai nạn do đánh nhau, chấn thương trong tập luyện thể dục thể thao, trong luyện võ… Khi tai nạn chấn thương xảy ra nặng như gãy xương, hôn mê, dập nội tạng… thì phải đưa đến các bệnh viện xử lý cấp cứu theo y học hiện đại. Còn một số chấn thương nhẹ như: bong gân, dãn dây chằng, tụ máu, rách cơ, xưng đau… ta có thể sử dụng kho tang kinh nghiệm điều trị trấn thương rất phong phú trong môn Y Võ. Trong phần giới thiệu phương pháp giải huyệt và dùng thuốc mong các bạn đồng nghiệp lưu ý nhiều đến phương pháp dùng thuốc điêu trị bởi đây là phương pháp dễ áp dụng nhất cho tất cả moi người. tuy nhiên chúng tôi vẫn xin giới thiệu phương pháp giải huyệt và châm cứu để các bạn đồng nghiệp nào có kiến thức về đông y dùng để tham khảo. Nhìn chung chữa trị bằng thuốc võ cổ truyền có tác dụng đối với mọi chấn thương, trật đả nhằm thiết lập sự cân bằng âm dương điều hòa cơ thể, phục hồi các chức năng tạng phủ, kinh lạc, gân, xương và hàn gắn các sung chấn như bong gân, trật khớp, bị đâm, chem. Hoặc đánh trúng huyệt đạo. II. Nội dung của phương pháp 1. Phân loại điểm huyệt Từ xưa người ta vẫn thường gọi chung là điểm huyệt, thực ra trong môn điểm huyệt có phân biệt cụ thể như sau. - Điểm huyệt là dùng những ngón binh khí tự nhiên của cơ thể con người có diện tích tiếp xúc nhỏ ( như đầu ngón tay, đầy ngón chân…) đã được luyện tập điểm chính xác vào vị trí của huyệt đạo với một tốc độ và cường độ lực đúng với mức đòi hỏi để bế tắc huyệt đạo đó gây tổn hại cho người điểm trúng huyệt hoặc tạm thời ( đau đớn, tê bại …) hay vĩnh viễn (tật nguyền, mất trí, á khẩu…) - Đả huyệt là dùng những ngón binh khí tự nhiên của cơ thể con người có diện tích tiếp xúc tương đối lớn ( như bàn tay, cạnh bàn tay, đầu gối, ống chân, gót chân, đầu…) Đã được luyện tập, đánh trúng, chính xác vào vùng có huyệt đạo với một tốc độ và cường độ đúng với sự đòi hỏi để gây ảnh hưởng đến hoạt động của huyệt đạo đó, gây tổn hại nhất định cho người bị đánh trúng như đau đớn, bất tỉnh, tê nhức. Trong võ thuật hệ thống huyệt đạo toàn thân có tới 108 huyệt quan trọng ( yếu hại huyết) với 108 yếu hại huyết này có 72 huyệt lúc phạm phải không đưa tới nguy hiểm, 36 huyệt còn lại nguy hiểm có thể dẫn đến nguy hiểm đến tính mạng nếu không được cứu chữa kịp thời gọi là tử huyệt. Thông thường trong thi đấu võ thuật hiện nay, hầu hết những trường hợp bị đả thương bất tỉnh đều là bị đả huyệt. muốn điểm được huyệt phải được hướng dẫn chân truyền và luyện tập công phu tới nơi tới chốn về kỹ thuật điểm huyệt xin giới thiệu với các bạn trình tự như sau: Nhận thấy ngày nay, tai nạn chẩn thương ngày càng nhiều. Nguyên nhấn chấn thương rất đa dạng, như. Tai nạn giao thông, tai nạn lao động nghề nghiệp, tai nạn công trường xây dựng, tai nạn do đánh nhau… Khi tai nạn chấn thương xảy ra. Ngoài việc .phải đưa đến các bệnh viện 'xử lý cấp cứu theo y học hiện đại, chúng ta còn một kho tàng kinh nghiệm điều tri chấn thương rất phong phú trong môn Võ y. Trong sách “trật đả côi khoa”, soạn giả Thượng Trúc đã viết: "Nhìn chung lại, võ y thường đi sâu vào dùng thuốc điều trị, bởi đây lả phương pháp dễ áp dụng nhất cho tất cả mọi người. Trong khi hai phương pháp "đánh vào huyệt hoàn sinh" và dùng " kỹ thuật châm cứu" thì đòi hỏi nhiều chuyên môn hơn, nhiều hiểu biết sâu xa hơn.” Sách bước đâu nghiên cứu nguồn gốc – đặc trưng võ cổ truyền Bình định trong phần về võ 'y" đã viết: Chữa trị bằng thuốc võ cổ truyền có tác dụng đối với mọi chấn thương, trật đả, nhằm thiết lập sự cân bằng âm đương, điều hoà cơ thể. Phục hồi các chức năng tạng phủ, kinh lạc, gân xương và làm hàn gắn các sang chấn như gãy xương, bong gân, trật khớp, bị đâm, chém hoặc đánh trúng huyệt đạo… " Tôi lương y Lê Văn Sửu có một vài kinh nghiệm dùng bài thuốc võ như trên, nhưng đã thấy rất hay. Nhân đây, tồi chọn một số bài thuốc uống trong, rất dễ dùng, giới thiệu cùng đồng nghiệp và những người yêu thích. Những bài thuốc này được chọn từ sách: "Điểm đả huyệt pháp và giải huyệt liệu pháp' như sau: III- Phương pháp giải huyệt khi bị điểm huyệt đúng giờ cấm kỵ : 1- Đảm – Giờ Tý (23 – 01giờ). Khí huyết vận hành ở huyệt Nhân trung, hoặc ở lưng, mắt cá,mặt, dùng bài thuốc: - Mộc thông: 8 gr. - Sài hồ: 8 gr. - Trạch lan: 8 gr. - Xuyên khung: 8 gr. - Cam thảo: 6 gr. - Đỗ trọng: 6 gr. - Trúc nhự. 6 gr. Sắc với 400 ml nước,' còn 100 ml. Uống .3 thang. 2 - Can – Giờ Sửu (01 – 03 giờ). Khí huyết vận hành ở huyệt Thiên đình, hoặc vùng Chấn thuỷ (Cưu vĩ,hông, gan) dùng bài thuốc: - Đại hoàng: 8 gr. - Cát cánh: 8 gr. - Nguyên hồ: 8 gr. - Thanh bì: 8 gr. - Xích thược: 8 gr. Sắc với 600 ml nước, còn 150 ml nước. Uống 3 thang. 3 - Phế- Giờ Dần (03 – 05 giờ). Khí huyết vận hành ở huyệt Kiều không, hoặc phía dưới tôn, mắt, phổi. dùng bài thuốc: - Chỉ xác: 8gr. - Hồng hoa: 8 gr. - Cát cánh: 8 gr. - Mộc hương: 8 gr. - Nguyên hồ: 8 gr. - Nhũ hương: 8 gr. - Ồ dược: 8 gr. - Uất kim: 8 gr. - Xích thược: 8 gr. Sắc với 700 ml nước, còn 140 ml nước, uống mỗi ngày một thang, uống liên tục 3 ngày. 4 - Đại trưòng – Giờ Mão (05 – 07 giờ). Khí huyết vận hành ở huyệt Xuyên Tai, hoặc ở vùng trên rốn, mặt, dạ dày, đại trường, dùng bài thuốc: - Chỉ xác: 6 gr. . – Hoàng liên: 6 gr. - Ngưu tất. 6 gr. – Xuyên phác tiêu: 6 gr. - Bạch thược. 8 gr. – Đại hoàng: 8 gr. - Đào nhân: 8 gr. – Hồng hoa: 8 gr. - Quế chi: 8 gr. – Tang ký sinh: 8 gr. Sắc với 600 ml nước, còn – 240 ml nước. Mỗi ngày uống 2 thang. Uống năm ngày liên tục. 5 - Vị – Giờ Thìn (07 – 09 giờ). Khí huyết vận hành ở huyệt Thái dương, hoặc phía sườn bên trái, đầu, dạ dày, đại trường, dùng bài thuốc: - Bạch thược : 8 gr. - Chỉ xác: 8 gr. - Nguyên hồ: 8 gr. - Thần khúc: 8 gr. - Trạch lan 8 gr. - Đại hoàng: 6 gr - Hồng hoa: 6 gr. - Phác tiêu. 6 gr. Sắc với 600 ml nước, còn 140 ml nước. Mỗi ngày uống 1 thang. Uống liên tục trong 2 ngày. 6- Tỳ – Giờ Tỵ (09 – 11 giờ) Khí huyết vận hành ở huyệt Thượng thương, hoặc phía sườn bên phải, chân, tim, dùng bài thuốc: - Chỉ thực: 8 gr. - Mộc hương: 8 gr. - Nguyên hồ 8 gr. -Thanh bì: 8 gr. - Trần bì: 8 gr. - Uất kim: 8 gr. - Xuyên phác tiêu: 8 gr. - Đại hoàng: 6 gr. - Hồng Hoa: 6 gr. - Thần khúc. 6 gr. Sắc với 600ml nước, còn 140 ml nước. Mỗi ngày uống 1thang. Uống liên tục 2 ngày. 7 - Tâm – Giờ Ngọ ( 11 – 13 giờ). khí huyết vận hành ở huyệt Thái uyên, hoặc quanh vùng tim, tiểu trường. dùng bài thuốc: - Đương quy: 8 gr. - Hạnh nhân: 8 gr. - Hồng hoa: 8 gr. - ích mẫu: 8 gr. - Khuông hoạt: 8 gr. - Tế tân: 8 gr. - Bạch truất: 6 gr. - Cam thảo: 6 gr. - Chỉ xác: 6 gr. - Mộc hương: 6 gr. - Ô dược: 6 gr. - Sinh địa: 6 gr. -Thanh bì: 6 gr. Sắc với 800 ml nước, còn 200 ml nước. Mỗi ngày uống 1 thang uống liên tục 3 ngày. 8 - Tiểu trường Giờ Mùi (13- 15 giờ). Khí huyết vận hành ở huyệt Thất khảm, hoặc ở dọc ngón tay út lên vai. dùng bài thuốc.. - Hoàng bá: 8 gr. - Bạch mao căn: 8gr. - Trạch lan: 8 gr. - Đào nhân: 6 gr. - Khương hoạt: 6 g r. - Kinh giới: 6 gr. - Mộc thông: 6 gr. - Vân phục linh: 6 gr. - Sa tiền tử. 6 gr. - Sắc với 600 ml nước, còn 1 50 ml nước. Mỗi ngày uống 1. thang. Uống 2 ngày liền. 9 - Bàng quang – Giờ Thân (15- 17 giờ). Khí huyết vận hành ở huyệt Khí hải, hoặc dọc hai bên cột sống lưng theo đường kinh bàng quang đến sau gót chân trong tim, thận, bàng quang. dùng bài thuốc: - Chi tử. 10 gr. - Đan bì: 10 gr. - Hoàng bá: 10 gr. - Liên kiều: 10 gr. - Mộc thông: 10 gr. - Ngưu tất: 10 gr. - Quy vĩ. 10 g r. - Tri m ẫ u : 1 0 g r. - Sa tiền: 10 gr Sắc với 600 ml nước, còn 200 ml nước. Uống mỗi lần 100 ml, Mỗi ngày uống 3 lẩn. Uống liên tục 3 tháng. 10 - Thận Giờ Dậu (17 – 19 giờ). Khí huyết vận hành ở huyệt Huyết bài, hoặc vùng dưới vú bên phải, tỳ, thân, bàng quang, dùng bài thuốc: - Đại hoàng: 10 gr. - Cát cánh: 10 gr. - Trần bì. 10 gr. - Xích thược : 10 gr. Sắc với 600 ml nước, còn 100 ml nước. Uống liên tục 2 ngày, mỗi ngày 1 thang. 11 - Tâm bào – Giờ Tuất (19 – 21 giờ). Khí huyết vận hành ở huyệt Hạ âm, hoặc vùng má bên phải, đầu, thận, bàng quang, dùng bài -thuốc: - Cam thảo: 8 gr. - Đan bì. 8 gr. - Hoàng liên: 8 gr. - Quế chi: 8 gr. - Sài hồ: 8 gr. - Xuyên khung: 8 gr. Sắc với 600 ml nước, còn 150 ml nước. Uống mỗi ngày 1 thang Uống liên tục 2 ngày. 12 – Tam tiêu - Giờ Hợi (21 – 23 giờ). Khí huyết vận hành ở huyệt Dũng tuyền, hoặc ở não mặt bên phải, gót chân, mắt cá, thận, bàng quan, dùng bài thuốc: - Chỉ xác: 8 gr. - Đào nhân: 8 gr. - Long đảm thảo: 8 gr - Hoàng cầm: 8 gr. - Hoàng liên: 8 gr. - Mộc thông.. 8 gr. - Trạch lan: 8 gr. - Trí mẫu: 8 gr. Sắc với 600 ml nước, còn 150 ml nước. Uống mỗi ngày 1 thang, liên tục trong 3 ngày. IV. Phương pháp giải huyệt khi các huyệt đạo ở bộ phận tay và chân bị đả thường, dùng bài thuốc: - đương quy: 5 đồng cân. - Hà thủ ô: 5 đồng cân. - Xuyên ngũ gia bì: 3 đồng cân. - Cốt toái bổ. 3 đồng cân. - Hoàng cầm: 2 đồng cân. - Sinh địa: 5 đồng cân. - xuyên tục đoạn: 3 đồng cân. - Liên kiều: 2 đồng cân. - Nhũ hương: 2 đồng cân. - Một dược: 2 đồng cân. : Sắc với 3 bát nước, còn 1 bát, uống lúc còn ấm. V. Phướng pháp giải huyệt khi các huyệt đạo ở bộ phận ngực, bụng, lưng bị đả thương, dùng bài thuốc: -Xuyên uất kim: 3 đồng cân. - Đào nhân: 2 đồng cân. -Hương phụ : 3 đồng cân. - Khuông bì. 4 đồng cân. -Hạnh nhân: 2 đồng cân. - Điền thất: 2 đồng cân. -Cát cánh: 2 đồng cân. - Xuyên hậu phác: 2 đồng cân. Đổ 2 bát nước, sắc còn 1 bát nước. Uổng lúc thuốc còn ấm. VI. Phương pháp giải huyệt khi các huyệt đạo ở bộ phận đầu mặt bị đả thương, dùng bài thuốc: - Tô tử: 3 đồng cân. - Tô mộc: 1 đồng cân. - Hồng hoa: 1 đồng cân. - Đào nhân: 3 đồng cân. - Mạch môn : 3 đồng cân. - Quất hồng: 3 đồng cân. - Xích thược : 2 đồng cân. - Đương quy: 2 đồng cân. - Trúc nhự. 2 đồng cân. Nước nhất: Đổ vào thuốc 3 bát nước, sắc còn 1 bát Nước nhì. Đổ vào thuốc 2 bát nước, sắc còn 8 phần. Uống khi thuốc còn ấm. Biên soạn võ sư Đinh Diệp Hòa. |
|
mhth
|
|
IP Logged | |
Huy-Tưởng
Senior Member Tham gia ngày: 15/Aug/2008 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 164 |
Gởi ngày: 27/Apr/2013 lúc 10:44pm |
CÁCH GIẢI HUYỆT CỨU NGƯỜI KHI BỊ ĐỊCH ĐÁNH NGẤT: Thêm một vài cách cứu tĩnh người:Cách 1: Việc đầu tiên là đặt nạn nhân nằm ngữa xuống đất cho thoải mái.... Ta hãy nắm lấy tóc mai của nạn nhân giật mạch để kích thích cảm giác, rồi sau đó ta bắt đầu đè, ấn, chà xát, và vỗ đều đặn vào các đại huyệt (nếu có dầu thì càng tốt nếu ta không có nội công hoặc nhân điện) như: Bách Hội (Đỉnh đầu); Mục Song (giữa trán); Nhân Trung (ngay giữa mũi và miệng); Hợp Cốc (chổ lõm giữa ngón cái và ngón trỏ); Dũng Tuyền (giữa lòng bàn chân); Thập Tuyên (ngay má ngoài bàn chân gần ngón út). Cách 2: Nếu nạn nhân bị thương ở ngực, ta hãy dùng cách y chang như trên kích thích các đại huyệt sau đây: Thương Tinh (trên chân tóc trước trán một chút); Bách Hội (đỉnh đầu); Phong Trì (sau ót bên phải); Thái Dương (sau chân mày); Đầu Duy (ngay góc trán, trên huyệt Thái Dương một chút). Cách 3: Nếu nạn nhân bị bế khí ù tai thì ta kích thích ở các đại huyệt sau đây: Hợp Cốc, Đản Trung (ngay giữa ngực), Thính Cung + Thính Hội + Ế Phong (ba huyệt này nằm xung quanh tai) Còn rất nhiều cách cứu chữa nữa nhưng phần lớn tất cả đều giống nhau cho nên tóm lại, hể bất kỳ trường hợp nào mà nạn nhân ngất xỉu, khó thở, xùi bọt mép.....v....v... thì ta cũng đều phải cố gắng nhanh chóng kích thích bằng cách đè ấn, chà dầu, vổ đều đều và mạnh tay vào các đại huyệt trên Nhâm Đốc nhị mạch, và các đại huyệt ở trên hai cánh tay..... thì cơ hội cứu tĩnh nạn nhân rất cao vậy... !!! Sưu tầm Chỉnh sửa lại bởi Huy-Tưởng - 27/Apr/2013 lúc 10:56pm |
|
mhth
|
|
IP Logged | |
Huy-Tưởng
Senior Member Tham gia ngày: 15/Aug/2008 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 164 |
Gởi ngày: 27/Apr/2013 lúc 11:01pm |
ĐIỂM HUYỆT VÀ HUYỆT ĐẠO Trước đây bí thuật nầy vẫn luôn bị đóng kín trong giới võ lâm, ít người biết được công phu nầy, và cũng ít người tập luyện được cách điểm huyệt… và các vị thầy dạy theo lối bí truyền nên dần dần bị thất truyền . |
|
mhth
|
|
IP Logged | |
Huy-Tưởng
Senior Member Tham gia ngày: 15/Aug/2008 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 164 |
Gởi ngày: 21/Jun/2013 lúc 11:20pm |
16 BÀI THUỐC SƯU TẦM 3. Thang số 3: Luyện quyền tẩy thủ dược phương 1. 5. Thang số 5: Trị ám khí lọt vào da thịt 9. Thang số 9: Họat lạc thang 1. 11. Thang số 11: Thuốc trị thương nhẹ |
|
mhth
|
|
IP Logged | |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |