Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Âm nhạc | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Âm nhạc |
Chủ đề: Nghe Nhạc Pạm Duy | |
Trang of 2 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | |||||||||||||||||||||||||||||||
thonglo2003
Admin Group Tham gia ngày: 31/May/2007 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 406 |
Chủ đề: Nghe Nhạc Pạm Duy Gởi ngày: 19/Dec/2008 lúc 4:22pm |
|||||||||||||||||||||||||||||||
Nghe Online Và Muốn Dowload, Right click at:
", click here to play" Select save tảget as...
Chúc quý vị mùa Noel Vui Vẻ
|
||||||||||||||||||||||||||||||||
IP Logged | ||||||||||||||||||||||||||||||||
lo cong
Senior Member Tham gia ngày: 30/Oct/2007 Đến từ: Canada Thành viên: OffLine Số bài: 2596 |
Gởi ngày: 27/Jan/2013 lúc 11:48am | |||||||||||||||||||||||||||||||
Nhạc sĩ Phạm Duy đã từ trần lúc 2 giờ 30 trưa nay, Chủ Nhật 27/1/2013,
tại bệnh viện 115, Sàigòn. Hưởng thương thọ 93 tuổi. |
||||||||||||||||||||||||||||||||
Lộ Công Mười Lăm
|
||||||||||||||||||||||||||||||||
IP Logged | ||||||||||||||||||||||||||||||||
lo cong
Senior Member Tham gia ngày: 30/Oct/2007 Đến từ: Canada Thành viên: OffLine Số bài: 2596 |
Gởi ngày: 27/Jan/2013 lúc 11:09pm | |||||||||||||||||||||||||||||||
Nhạc sĩ Phạm Duy qua đờiỞ tuổi 93, nhạc sĩ Phạm Duy ra đi
14h30 chiều 27/1, nhạc sĩ Phạm Duy mất tại bệnh viện 115, TP HCM sau 3 ngày nhập viện cấp cứu. Hiện người nhà ông đang làm thủ tục để chuyển thi hài người nhạc sĩ tài hoa về nhà lo an táng. Chăm sóc ông những ngày cuối đời có con trai Duy Cường luôn túc trực cùng với một vài người thân.
Nhạc sĩ nổi danh qua đời chỉ hơn một tháng sau khi con trai cả Duy Quang của ông mất ở tuổi 62. Trước đó người nhà giấu tin Duy Quang mất vì sợ Phạm Duy buồn và ảnh hưởng đến sức khỏe vốn đã rất yếu của ông. Nhưng khi biết tin, Phạm Duy không quá đau buồn. Ông tâm sự với nữ danh ca Ánh Tuyết, ông biết con trai bệnh và sẽ không qua khỏi nên đã chuẩn bị sẵn tâm thế để đón nhận.
Từ sau năm 1975, ông sang Mỹ sống và định cư. Năm 2005, ông về Việt Nam sống an hưởng tuổi già. Tang lễ nhạc sĩ Phạm Duy được tổ chức tại tư gia ở Lê Đại Hành, phường 3, Quận 11, TP HCM. Lễ nhập quan diễn ra lúc 9h ngày 28/1, lễ động quan lúc 6h ngày 3/2. Nhạc sĩ Phạm Duy sẽ yên nghỉ tại Hoa viên Nghĩa trang Bình Dương. |
||||||||||||||||||||||||||||||||
Lộ Công Mười Lăm
|
||||||||||||||||||||||||||||||||
IP Logged | ||||||||||||||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 29/Jan/2013 lúc 8:29pm | |||||||||||||||||||||||||||||||
Thành Kính Tưởng Niệm NS PHẠM DUY,
một Cây-Đại-Thụ, một Tài-Hoa của nền âm nhạc Việt Nam đã nghìn trùng xa cách
! 3/ Tình ca Phạm Duy ( PBN 19 ) http://www.youtube.com/watch?v=yzH6VYfItog
MyKieu Ngậm ngùi tiễn “người tình già” HỒNG HẠNH | 28/01/2013 20:42 (GMT + 7)
TTO - Vẫn là căn phòng ấy, nơi có bức tranh thư
pháp ghi mấy câu thơ của nhà thơ Lưu Trọng Văn: “Về thôi, người tình
già/ Về thôi/ Làm gì có trăm năm mà đợi/Làm gì có kiếp sau mà chờ…”. >> Ca sĩ Đức Tuấn: "Nhạc ông không hề già, không hề cũ"
Nhưng giờ đây, người tình già đã về nơi xứ khác, để lại sau lưng nỗi tiếc thương của gia đình, bè bạn, người yêu thích những ca khúc của ông. Hai hôm nay, chỉ có hai người con trai đang ở Việt Nam là Duy Cường và Duy Đức chạy tới chạy lui lo hậu sự cho bố, những người anh chị em còn lại sẽ về vào thứ tư. “Về để đưa bố đi” - Duy Cường nói vậy, trong sự điềm tĩnh cố hữu nhưng đôi mắt ánh lên nỗi buồn vô hạn. Và khi tiếng loa nhạc phát lên giọng hát của Duy Quang, anh đã quay mặt đi nơi khác một vài giây, nói: “Nhớ anh Quang quá” rồi quay lại, tiếp tục câu chuyện với khách.
Con hẻm nhỏ lặng lẽ đón khách đến viếng. Nhiều vòng hoa của bạn bè, người hâm mộ, của các ca sĩ, nhạc sĩ, đạo diễn. Có những người có danh phận, tên tuổi, cũng có những người hâm mộ tự nhận mình là “vô danh”, họ không ghi tên mình vào danh sách người đến viếng để sau này gia đình cảm ơn mà chỉ xin phép được cúi đầu rồi đi ngay. Có người đeo kính ra dáng trí thức, cũng có người chân đất lam lũ, trong túi còn lấp ló xấp vé số…
ội Nhạc sĩ Minh Châu, vừa từ Hà Nvào, đã đến viếng bố của người bạn quá cố của mình. Anh ngậm ngùi: “Mỗi khi đi ngang cư xá Chu Mạnh Trinh, tôi vẫn hình dung cảnh anh Duy Quang, chị Thái Hiền và những người chị em khác đứng trước nhà, nhoẻn miệng cười”.
Bác sĩ Phạm Văn Căn, đại diện dòng họ Phạm ở Việt Nam, là người đầu tiên ghi trong sổ tang những dòng thương tiếc người con ưu tú của dòng họ mình. Những người bạn cũ chỉ ghi vỏn vẹn hai dòng: “Bạn bè thương tiếc anh. Từ nay, mãi mãi”. Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 viết những dòng xót xa nghẹn đắng: “Năm em 20 tuổi, anh đã tin tưởng giao cho em đệm đàn bài Con đường cái quan. Em một đời ghi nhớ sự tin tưởng và tình thương của anh với em”. Có một vị khách đặc biệt đến viếng nhạc sĩ: Kyo York - một ca sĩ nghiệp dư người Mỹ hát tiếng Việt: “Kyo là một người nước ngoài. Những tác phẩm của nhạc sĩ Phạm Duy đã lay động lòng tôi. Lần đầu tiên tôi nghe bài Cây đàn bỏ quên, tôi đã rất rung động. Tôi đã hiểu nhiều điều về văn hóa và con người Việt Nam qua các ca khúc của nhạc sĩ Phạm Duy”. Còn nhà thơ Phạm Thiên Thư, tác giả phần lời của nhiều ca khúc mà nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ thơ, để lại dòng lục bát: “Anh Phạm Duy ơi/ Buồn buồn tôi hỏi cái tôi/Cái vừa đến, cái đi rồi, lạ nhau”… Thì thôi, đã có đến ắt có đi, người đã về trên con đường cái quan và người ở lại ngậm ngùi tiễn đưa! Xin được tạ từ mãi mãi…
Người nhạc sỹ lớn của nền tân nhạc Việt Nam, Phạm Duy, vừa qua đời tại TP ************ ở tuổi 93, các nguồn thân thiết với gia đình ông cho biết. Nhà thơ Đỗ Trung Quân cho BBC hay ông được tin nhạc sỹ qua đời vào buổi trưa Chủ nhật 27/1. Có nguồn tin nói ông ra đi trong bệnh viện. Nhạc sỹ Phạm Duy có tiền sử bệnh tim và từng qua hai lần giải phẫu tim. Ông Đỗ Trung Quân không giấu nổi nghẹn ngào: "Tôi thực sự rất xúc động khi nghe tin ông [Phạm Duy] qua đời". "Ông là một trong những nhạc sỹ đã tạo nên diện mạo nền âm nhạc Việt Nam." Các tác phẩm âm nhạc của Phạm Duy đã kết hợp được những nét của âm nhạc cổ truyền, dân ca, với các trào lưu phong cách hiện đại. Ông từng nói trong một cuộc phỏng vấn với BBC: "Tôi nghĩ rằng tôi là người Việt Nam, nếu tôi muốn được gọi là một nhạc sỹ Việt Nam, thì tôi phải làm nhạc dân ca. Đó là chuyện rất giản dị". "Tôi phải khởi sự sáng tác của tôi bằng những bản nhạc mang tinh thần Việt Nam và với chất liệu của Việt Nam nữa." Mới tháng trước, con trai lớn của nhạc sỹ Phạm Duy, ca sỹ Duy Quang, cũng qua đời tại Mỹ. Vợ của ông là ca sỹ Thái Hằng, bà qua đời năm 1999. Tài năng lớn Nhạc sỹ Phạm Duy sinh ngày 5/10/1921. Tên thật của ông là Phạm Duy Cẩn. Không chỉ là tác giả của một khối lượng đồ sộ các sáng tác, ông còn là nhà nghiên cứu âm nhạc lớn, với công trình khảo cứu về âm nhạc có giá trị. Phạm Duy bắt đầu con đường âm nhạc trong vai trò ca sỹ. Ông từng tham gia kháng chiến chống Pháp, nhưng sau di cư vào Nam. Sau sự kiện 30/4/1975, khi ông vượt biên sang Hoa Kỳ. Các ca khúc của ông bị cấm ở trong nước một thời gian dài. Việc ông trở về Việt Nam định cư năm 2005 đã gây ra nhiều tranh cãi. Kể từ đó, một số ca khúc của ông mới bắt đầu được phép phổ biến ở Việt Nam. Tuy nhiên cho tới nay, mới khoảng 1/10 số bài hát của ông được biểu diễn ở trong nước. Trong cuộc trao đổi với BBC, nhạc sỹ kỳ cựu thừa nhận ông từng có giai đoạn sáng tác tuyên truyền trong các giai đoạn chiến tranh, nhưng cho rằng ông chỉ làm như vậy vì yêu nước. "Lẽ tất nhiên bổn phận của chúng tôi là thế. Bổn phận của người nhạc sỹ khi đi theo kháng chiến, thì phải dùng cái đàn của mình để xưng tụng cuộc kháng chiến." "Ngoài những bản nhạc về tình ái, hay về những chuyện khác, thì những bản nhạc có tính chất gọi là tuyên truyền đó thực ra cũng là những bản nhạc yêu nước thôi. Đừng nói là tuyên truyền hay không tuyên truyền." Nhạc sỹ cho rằng âm nhạc của ông đa dạng và luôn biến đổi vì thân phận và tâm trạng của ông luôn "vui buồn" và "trôi nổi" theo vận nước. (BBC: 27 Jan 2013) Mới đây Bác có viết mail sau cùng thăm hỏi và cậy nhờ NNS làm pps "Trường Ca Con Đường Cái Quan" từng đoạn có lời thuyết minh của Bác. Giờ pps đã xong, thì chợt nghe tin Bác đã ra đi. NNS và Thân hữu xin thắp cho Bác một nén Tâm nhang. Mong Bác siêu thoát nơi cõi Vĩnh Hằng. Một vài lá thư của Bạn bè NNS gởi đến Bác:
Dẫu gì, Xin Tạ Ơn Người
Quẳng đi hèn mọn kiếp người Quẳng đi lời trách tiếng cười thế gian Thị phi một thuở tiêu tàn Ngàn năm còn lại điệu đàn lời ca Ơn tằm rút ruột tài hoa Phun châu nhã ngọc chan hòa nước non Tiếng lòng réo rắc thon von Chín mươi dư vẫn chưa mòn hiến dâng Nhạc hùng trổi khúc bao lần Giục người vì nước nhẹ phần tử sinh Quê nghèo đau đáu bên mình Chiến chinh khói lửa điêu linh xót lòng Vút vi Tục,Đạo tơ đồng Ngông nghênh một cõi đục trong mặc đời Phạm Duy_ Xin tạ ơn Người Bóng râm cổ thụ vợi vời giai âm
(Hà Nguyên Lãng)
Kính nhờ chuyển đến Gia Đình NS Phạm Duy và Tang Quyến. Nghìn trùng xa cách, người đã đi rồi Còn gì đâu nữa mà khóc với cười PD
KHÚC PHẠM DUY
Tưởng nhớ Người Nhạc Sĩ đã đóng góp cho nền Âm Nhạc VN
*** Trăm năm trong cõi đi về Trần gian cõi tạm bến mê cuộc đời Ta về từ bỏ cuộc chơi Ôm trăng đánh giấc bên đồi dạ lan*
Ta đi từ Ải Nam Quan Làm người lữ khách xuôi ngàn ra khơi Lạng Sơn mây phủ lưng đồi Núi Nàng Tô Thị ngậm ngùi đứng trông
Mẹ Ta tấm áo nâu sồng Bên Cầu Biên Giới đợi mong con về Ngưa hồng thả vó đường quê Bên Kia Sông Đuống Người Về Đầu Non
Chắp Tay Hoa tiếng vọng buồn Đường Chiều Lá Rụng, Phố Buồn, Tìm Nhau Mẹ Quê tóc trắng bạc mầu Lời ru của mẹ như câu kinh chiều
Tình Ca trong tiếng mẹ yêu Quê Nghèo vọng tiếng sáo diều ngân vang Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng* Cỏ Hồng lấm gót, Cây Đàn Bỏ Quên
Ngày Xưa Hoàng Thị là em Rồi Đây Anh Sẽ Đưa Em Về nhà Yêu là chết ở lòng ta Giọt Mưa Trên Lá, Thu Ca Điệu Buồn
Mùa Thu Chết nắng hoàng hôn Thiên Thai Tiếng Sáo gọi hồn Trương Chi Cô Hái Mơ mộng xuân thì Hẹn Hò, Bên Nớ Bên Ni luống cà
Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà Vợ anh chửa có mẹ già chưa khâu** Em Thà Như Giọt Mưa ngâu Tóc mai nghìn sợi yêu nhau mấy trùng
Sông Lô Tiếng Hát Sông Hồng Nghìn Trùng Xa Cách cho lòng vấn vương Tiễn Em, tóc Dạ Lai Hương Giọt Sương Cam Lộ, Con Đường Cái Quan
Trường Ca Khúc Mẹ Việt Nam Bầy Chim Bỏ Xứ chiều vàng trên sông Kinh buồn Mộ Khúc biển Đông Con Thuyền Viễn Xứ ngược dòng ra khơi
Mênh mông góc bể chân trời Tình Hoài Hương thẫm hồn người ly hương Mộng Du, Ngày Tháng Hạ buồn Thương Tình Ca gọi quê hương vào lòng
Hương Ca mơ khúc tương phùng Đạo Ca vể với cội lòng cưu mang Trăm Năm Bến Cũ xuân tràn Người vế ngắm mảnh trăng tan cuối trời.
Mẹ Việt Nam ơi! Mẹ Việt Nam ơi!
(Xuân Mai)
* Thơ Phạm Thiên Thư (Phạm Duy phổ nhạc) ** Thơ Hữu Loan ( Phạm Duy phổ nhạc) Những chữ viết hoa trong bài là tên những sáng tác của NS Phạm Duy
Trại tị nạn năm 1975, gia đình nhạc sĩ Phạm Duy và Khánh Ly có đến Indiantown Gap trình diễn văn nghệ giúp vui cho người tị nạn. Khi nghe bài "Tình hoài hương" của nhạc sĩ Phạm Duy, N đã không cầm được nước mắt. Lần đầu tiên, N đã khóc nức nở vì thương nhớ quê hương. Nếu không nghe được một bản nhạc tuyệt vời như thế thì làm sao tình yêu quê hương được khơi mở nơi N., 1 cô bé mới lớn, chỉ sống quanh quẩn ở Sàigòn. N đã cảm thấy được giải tỏa, không còn ấm ức, N đã khóc ngon lành. Tình yêu quê hương ngọt ngào, những bài trường ca Mẹ Việt Nam, Mẹ Trùng Dương. Ôi tuyệt vời quá! Với N, nhạc sĩ Phạm Duy là một trong những người tài giỏi nhất! Hãy gác lại những tị hiềm , bỏ đi hết những chê bai, ganh ghét, bỏ đi hết chính chị, chính em đi. Nhạc sĩ Phạm Duy đã ra đi và nhạc của ông sẽ sống mãi trong lòng của rất nhiều người Viêt. N đã lớn lên trong nhạc của Phạm Duy, nào là Ngày xưa Hoàng thị, nào là Tóc mai sợi ngắn sợi dài, Phượng Yêu, Ngày trở về, Nghìn trùng xa cách.... N đã cảm thấy yêu thương quê hương hơn nhờ những bản nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy. *Thành
thật cảm ơn và biết ơn bác Phạm Duy. Cầu chúc nhạc sĩ Phạm Duy mãi mãi
bình an trong cõi vĩnh hằng. Bác ra đi để lại nhiều tiếc
thương cho rất nhiều người ngưỡng mộ, kính phục và ưu ái Bác, một thiên
tài của đất nước Việt Nam.
Nhạc sĩ Phạm Duy qua đời. Ông là một trong những nhạc sĩ "cổ thụ" trong làng âm nhạc Việt Nam. Giờ nầy ông đã ra đi vĩnh viễn. Cá nhân huynh có mấy dòng thơ tiễn ông - bởi huynh trân trọng thiên tài về Âm nhạc của ông ấy. Nếu chú cùng cảm nhận như huynh thì quan tâm. Huynh chúc chú sức khỏe! Đón một mùa xuân! Huynh (Trang Y Hạ)
Bến Thế Gian
Mấy dòng thơ - tiễn đưa NS Phạm Duy
Tin ông về đất - than ôi. gia tài để lại: nghìn lời... chứa chan vẫn còn ai đó thở than hòa theo hơi gió: lên ngàn, lên mây vẫn còn ai đó so dây trách chi - khi một cái thây lạnh rồi! khen che chuyện thế gian thôi ngụy chân là tự lòng người mà ra hương thơm nhân cách bay xa? chữ tài, chữ đức - biết là ngang nhau... cỏ cây mãi mãi xanh màu sóng xô lớp lớp trước sau rì rào một vì sao gác cao cao rong chơi lạc bước rơi vào đêm hoang tiếc tài viết vội mấy hàng tiễn hồn rời bến thế gian lên trời.
Đài khí tượng nói đúng: Tuần Lễ này trời mưa. Nhiều năm như hề chưa tháng Giêng nào buồn vậy! Mưa từ tối Thứ Bảy. Sáng Chúa Nhật lê thê. Thêm cái tin Phạm Duy vừa từ trần trong nước…(*) Mưa lê thê lướt thướt. Mưa buồn như
nhạc mưa…Mưa buồn như bài thơ tôi mở đầu nghèn nghẹn! Buồn không chân mà đuổi được mưa gió lê thê! Tiếc…trên đường-trở-về chỉ một người lủi thủi! Phạm Duy ngừng tiếng nói nhưng nhạc ông mở ra. Buồn. Nỗi buồn xót xa…Bà-Mẹ-Quê nức nỡ! Người trở về gậy gõ…lác đác nhịp quân hành. Lũy tre nửa còn xanh, nửa thì bom đạn xém… Nhà tôi trong ngõ hẻm. Hẻm buồn…mưa đang mưa… Trần Vấn Lệ (*) Nhạc Sĩ Phạm Duy, vĩnh viễn ở tuổi 93, vĩnh biệt những người yêu / ghét mình kể từ 2 giờ 30 chiều Chúa Nhật 27 tháng Giêng năm 2013 tại Sài Gòn, Việt Nam.
1945 Nhưng vì lực-lượng của các đảng phái Quốc gia, lúc bấy giờ đông hơn nhiều ở Hà-nội, lại án binh bất động nên phần chủ-động lại về tay Việt-minh – và cuộc cách mạng mấy ngoe kia chẳng mấy lúc cướp được trí tưởng của người dân. Lúc đầu còn sợ sệt nhưng rồi một đồn mười, mười đồn trăm, lời đồn đại lan như lửa rừng rằng Việt Nam đã ĐỘC-LẬP, rằng “ta” đã có chính-quyền, rằng chính-quyền đó ghê gớm lắm, đi ở trong rừng ra, do một người rất bí-mật cầm đầu, thậm chí đến cái tên của ông ta người dân cũng chưa nghe thấy bao giờ – ************.(1) Trong cái say sưa, mà có người gọi là cái “say men chiến-thắng” (tưởng tượng) của lúc bấy giờ, không lạ là một không-khí mới, một khí-thế mới phát sinh ra, và trong văn nghệ tự-nhiên như có một sự bùng nổ tài-năng.(2) Hoàng Cầm trong thơ, Phạm Duy trong nhạc tìm ra hướng đi thực-sự là vào thời-gian này. Vì ta nên nhớ, Phạm Duy cho đến 45 chủ-yếu còn là một ca-sĩ đi đó đi đây với ban nhạc của Charlie Miều. Cũng vì ông ưa hành-động và lang bạt, ông cũng như Nguyễn Bính đã lựa chọn đi vào Nam một đất nước vô cùng xa lạ với người Bắc thời bấy giờ – trong phong trào gọi là “Nam-tiến” để tranh đấu trực-diện với quân thù (=Pháp). Nhưng cũng nhờ sự lựa chọn này mà Phạm Duy đã sớm ý-thức được nhu-cầu có nhạc đấu tranh, nhạc kháng-chiến, và cũng bởi ông đã đi đây đó trên khắp các miền đất nước (lại một kinh-nghiệm khá hiếm vào thời-điểm ấy) ông làm quen được với nhiều điệu dân-ca, dân-nhạc. Hai yếu-tố này (nhạc đấu tranh + làn điệu dân-ca) được Phạm Duy đan lại để thành “nhạc kháng-chiến” mà có lúc ông gọi là “tân-dân-ca.” Do tìm ra được hướng đi đúng, hợp với tâm-khảm của lòng dân vào lúc đó nên dễ hiểu là nhạc kháng-chiến của Phạm Duy – khác với nhạc “cách mạng” của Văn Cao hay Nguyễn Đình Thi – chẳng mấy lúc đã lên ngôi để trở thành tiếng nói của dân-tộc trong một thời-đoạn ít nhất cũng kéo dài 3-4 năm (1945-48). Những bài như “Xuất Quân” (Bà-rịa, 1945), “Chiến Sĩ Vô Danh” (chiến-khu Nam-bộ, 1945), “Nợ xương máu” (Huế, 1946), “Nhạc Tuổi Xanh” (1946), “Về Đồng Hoang” (Phú-thọ, 1947), “Đường Về Quê” (Bắc-giang, 1947), “Khởi Hành” (Tuyên-quang, 1947), “Đường Lạng-sơn” (1947)… trong nháy mắt trở thành những bài hát ở trên môi cửa miệng của mọi người (kể cả không ít những người ở trong các thành phố lúc bấy giờ do Pháp chiếm vì chính những bài hát này lại do những người “dinh tê” mang vào). Bên cạnh những bài nhạc hùng loại này, Phạm Duy lại còn viết một số tân-dân-ca mềm mại, thiết tha hơn, những bài ru, bài thương nhớ có nhiều nữ-tính hơn nhưng lại bị những ông cai văn nghệ (kiểu Tố Hữu) cho là ủy mị, tiểu-tư-sản (“tạch tạch sè”), đó là những bài như “Nhớ Người Thương Binh” (Vĩnh-yên, 1947), “Dặn Dò” (Bắc-giang, 1947), “Ru Con,” “Mùa Đông Chiến Sĩ,” “Nhớ Người Ra Đi” (ba bài sau này làm tại Thái-nguyên, 1947), “Tiếng Hát Trên Sông Lô” (Tuyên-quang, 1947), “Nương Chiều” (Lạng-sơn, 1947), rồi đến loạt bài làm trong chiến-dịch Bình-Trị-Thiên (“Bao giờ anh lấy được đồn Tây” mà sau vào vùng Quốc gia đổi thành “Quê Nghèo,” “Bà mẹ Gio Linh,” “Về Miền Trung” và “Gánh Lúa” tất cả làm trong năm 1948). Song cũng vì Phạm Duy là một Phạm Duy lãng mạn, “nòi tình” dùng theo chữ của Trần Văn Ấn, nên trong cùng thời-gian ông cũng không bao giờ quên làm nhạc tình, từ “Cây Đàn Bỏ Quên” (Bờ biển Phan-rang trong Kháng-chiến Nam-bộ, 1945), “Khối tình Trương Chi” (Huế, 1945), “Tình Kỹ Nữ” (Hà-nội, 1946), đến “Bên Cầu Biên Giới” (Lào-cai, 1947), “Tiếng Đàn Tôi” (Cống-thần, 1947), “Đêm Xuân” (Thanh-hóa, 1948), “Chú Cuội” (Chợ Neo, 1948), “Cành Hoa Trắng” (Chợ Neo, Thanh-hóa, 1950). Chỉ cần ngần ấy bài, Phạm Duy cũng đủ để thành bất tử trong âm-nhạc Việt Nam rồi. Vô vọng, vô vọng thay, những con người muốn xóa nhòa thành-tích và biểu-tượng số 1 của nhạc kháng-chiến chống Pháp của Việt Nam! Ta hãy giở những tập nhạc kháng-chiến của Hà-nội in ra sau này, tự-nhiên ta thấy mất hẳn khúc đầu xuống đến phần tim phổi, chỉ còn có từ rốn trở xuống, nghĩa là từ khoảng 1948 trở đi với những “Trường Ca Sông Lô” của Văn Cao hay “Hồng Hà” của Đỗ Nhuận, những bài còn hay, để rồi dần dà suy đồi xuống thành những bài hát lai căng, hoặc ảnh-hưởng nhạc Tầu Trung-Cộng (tỷ-dụ, bài “Hò Kéo Pháo,” 1953) hoặc khá thì cũng ảnh-hưởng nhạc Thái (như bài “Giải Phóng Điện Biên,” 1954). 1965 Dịp tôi gặp ông là dịp ông được Mỹ mời qua đi một vòng trình diễn ở các đại-học và cộng-đồng lớn ở Mỹ. Trước đó, tên tuổi của ông tuy chưa được người ta biết đến nhiều ở Hoa-kỳ song những người để ý đến âm-nhạc Á-đông cũng đã có dịp nghe đến tên ông qua những cuộc đi nói chuyện về âm-nhạc Việt Nam của G.S. Trần Văn Khê, qua một số bài báo và qua một hai đĩa hát như hãng Folkways Records cũng đã thu thanh một đôi bài của ông. Steve Addiss, một nhạc-sĩ dân-ca Mỹ và giờ đây là một giáo-sư về mỹ-thuật Nhật-bản, cũng đã sang Việt Nam mặc bà ba đen đi một vòng thu thập dân-nhạc Việt Nam với ông.(4) Rồi ban đồng-ca lớn trên TV, trong chương-trình “Sing Along With Mitch Miller,” cũng có dịp trình bầy bài “Rain on the Leaves,” tức “Giọt Mưa Trên Lá,” cho cả hàng triệu người nghe. Ông đến New York, tôi lúc bấy giờ còn là một sinh-viên loại “ABD”(5) nên có khá nhiều thời giờ đi lang thang với ông. Đi cùng với ông lần đó cũng có Steve Addiss, để giới-thiệu và để giúp ông giải-thích nhạc hay lời của ông khi ông vấp váp. Chứ phần lớn thì sau khi Steve giới-thiệu, Phạm Duy tìm cách nói thẳng ngay bằng tiếng Anh. Tuy-nhiên, vì tiếng Anh của ông lúc bấy giờ chưa được như bây giờ nên thỉnh thoảng, như ở New York University, cũng có màn cười vỡ bụng được vì “ắc-xăng” Tây của ông hay ông hiểu lầm cách phát âm của một vài từ ngữ tiếng Anh. Nhưng cười thì cười chứ một khi ông biểu-diễn, ta lại thấy ngay một Phạm Duy trong đầy đủ cái đam mê, cái tự-chủ, cái khống-chế sân khấu của ông. Mọi mắt, mọi tai đều dồn về ông dù là ông hát dân-ca hay nhạc mới nhất của ông lúc bấy giờ: những bài “tâm-ca” về thân-phận của người Việt Nam trong chiến-tranh, từ những “Để lại cho em này nước non mình / Để lại cho em một nước đẹp xinh / Một miền oai linh hiển hách…” (Tâm Ca số 5) vậy mà bây giờ rách nát, hoang tàn, “Nhưng em thương anh, thương anh đến những “Giọt Mưa Trên Lá” (Tâm Ca số 4) và “Tôi Sẽ Hát To” (Tâm Ca số 2): “Tôi sẽ hát to hơn súng nổ bên bờ
ruộng già Tâm Ca số 7, “Kẻ Thù Ta,” khẳng-định: “Kẻ thù ta đâu có phải là người Mười bài tâm-ca của Phạm Duy là những bài có thể nói được là “chống chiến-tranh” đầu tiên của Việt Nam, có trước cả Những Ca Khúc Da Vàng của Trịnh Công Sơn. Ông chống trước hết là vì bị ảnh-hưởng của Phật-giáo, một đạo hòa-bình từ giáo-lý trở đi, song ông cũng chống vì ông linh-cảm là, với sự tham-gia ồ ạt của người Mỹ, chiến-tranh sẽ còn leo thang, mở rộng ra không biết đến đâu nữa. Ông đã quá biết người Cộng-sản (châm-ngôn thời Việt-minh: “Thà giết lầm 9 người còn hơn bỏ sót 1 người!”), giờ đây lại gặp cái thuyết “body count” (“tính xác chết”) của McNamara thì chiến-tranh sẽ còn đưa đất nước ta đến chỗ điêu linh bằng chừng nào nữa! Mặc dầu vậy, đến khi ông về tới Việt Nam, lập-tức một phong trào nổi lên – do CS giựt dây – cho ông là tay sai của Mỹ, là bàn tay nối dài của CIA, cho những người như ông và Thích Nhất Hạnh là “ngụy-hòa.” Tập thơ Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện của thầy Nhất Hạnh bị báo chí miền Bắc gọi là “rắn độc” vì một bài thơ trong đó được Phạm Duy phổ thành Tâm Ca số 1, “Tôi ước mơ”: “Sáng nay vừa thức dậy / Nghe tin em gục ngã nơi chiến trường! / Nhưng trong vườn tôi / Vô tình khóm tường vi / Vẫn nở thêm một đóa… / Tôi vẫn sống! / Tôi vẫn ăn! / Và tôi vẫn thở… Nhưng biết bao giờ / Tôi mới được nói thẳng / Những điều tôi ước mơ?” Sau này, Nguyễn Trọng Văn còn gom những loại suy nghĩ độc ác đó thành một cuốn sách, Phạm Duy đã chết như thế nào? (Sài Gòn, Văn Mới, 1971) Dù như Tạ Tỵ, bạn ông, đã có cuốn sách rất hay vì công bằng hơn gấp bội, Phạm Duy còn đó nỗi buồn, Phạm Duy cũng không khỏi nổi sùng và quay ra làm Tục Ca và Vỉa Hè Ca để có dịp chửi thề và xả hơi một chút (“Sức mấy mà buồn! Buồn ơi! Bỏ đi Tám!”). 1973 Khoảng cuối năm 72 hay đầu năm 73, tôi không còn nhớ rõ, nhạc-sĩ dân-ca James Durst được Phòng Thông tin Mỹ bảo trợ sang Việt Nam trong chương-trình trao đổi nghệ-sĩ với VNCH. Chỉ nhớ là khoảng ấy, tôi cũng vừa tiếp tay Phạm Duy xong trong việc dịch tập Hoan Ca (“Songs of Joy”) của ông, dịch lấy ý thôi chứ không nhắm làm thành những lời hát được (English singing versions). Tập đó, in đầu năm 1973 ở Sài Gòn, gồm 10 bài “Bình Ca” (nói về hòa-bình giả hay hòa-bình mong manh sau Hiệp-định Paris), 4 bài “Nữ Ca” tuyệt diệu (“Tuổi Mộng Mơ,” “Tuổi Ngọc,” “Tuổi Hồng” và “Tuổi Thần Tiên”) và 2 bài “Đồng Dao” xuất sắc (“Chú bé bắt được con công” và “Ông trăng xuống chơi”). James Durst dựa vào những bản dịch ý của tôi để biến một số bài thành những bài hát được, rất tự-nhiên trong tiếng Anh. Những bài này sau đó được đưa vào một tập nhạc chung, nửa của James Durst, lời Việt do Phạm Duy, và nửa của Phạm Duy, lời Anh do James Durst, do Hội Việt-Mỹ in ra ở Sài Gòn. Trong số này, có mấy bài mà giờ đây ta có thể coi được là những bài hát của Việt Nam mà hát được trong tiếng Anh, qua những lời Anh tuyệt diệu (như bài “Trả Lại Em Yêu” hay “Em Bé Bắt Dế”). Cũng khoảng này, tôi viết một số bài giới-thiệu nhạc Phạm Duy trong bản tin tiếng Anh hàng tháng của Hiệp-hội Bang-giao Quốc-tế của Việt Nam. Bài ưng ý nhất của tôi có lẽ là bài tôi viết để giới-thiệu tập Đạo Ca của Phạm Duy phổ nhạc thơ Phật của Phạm Thiên Thư, bài “The Holeless Flute” (dịch ý câu “Sáo thần không cần lỗ / Vi vu trong lòng người”). Cũng thời-gian này, qua sự vận-động của Phạm Duy, chính-phủ miền Nam bằng lòng để cho G.S. Trần Văn Khê về thăm Việt Nam và diễn-thuyết một số buổi ở Viện Quốc Gia Ấm Nhạc, ở Hội Việt-Mỹ v.v. Ông Khê, dù như có tiếng là thân Cộng, vẫn thu hút được một số khán-thính-giả đáng kể nhờ sự hiểu biết chuyên-môn thượng thừa của ông. (Thật đáng tiếc là ngay trong chiến-tranh, ông Khê về Sài Gòn được đón tiếp rất nồng nàn vì người ta quý một tài-năng của VN, trong khi đó mười mấy năm sau, ông sang Montréal thì lại có người dọa đốt tiệm ăn nơi ông được mời đến nói chuyện.) Nhân dịp này, tôi được mời đến nhà ông Phạm Duy ở Phú-nhuận, và đây là lần đầu tiên tôi được gặp bà Phạm Duy (ca-sĩ Thái Hằng, lúc đó đã giải nghệ) và các con ông, tuy chỉ là thoáng qua. 1975 Đến Guam, ông sục sạo đi tìm con, cho réo tên trên radio, cho đăng mục tìm người trên báo Chân Trời Mới, báo của trại Orote Point, nhưng vô vọng. Chúng tôi gặp lại ông ở trại Eglin Air Force Base, Florida, ông nói, ông như một người điên, quay ra trách móc ngay người bạn Mỹ đã bốc gia-đình ông – làm như họ đã dụng tâm chia rẽ ông bà và các con trai của họ. Trong sâu thẳm của tuyệt vọng đó, Phạm Duy nghĩ, ông vẫn phải sống vì chỉ có thế ông mới còn hy-vọng, dù mong manh, tìm lại được con. Từ vực thẳm của những ngày xa xứ đó, ông đứng dậy. Ông xua đuổi ý-tưởng tìm cách trở về để được đoàn-tụ với các con, dù phải sống với Cộng-sản. Ông nhận ra trại với một người bạn Mỹ đứng tên xì-pông-xo cho gia-đình ông. Và ông nhất quyết dựng lại cuộc đời ở tuổi 50 hơn. Ông nhìn lại: từ một gia-đình quây quần hạnh phúc, trai gái đầy đủ, ông chỉ còn lại có Thái Hằng và mấy người con gái còn ở tuổi choai choai. Mặc dầu vậy, ngay từ đầu ông không muốn phải dựa lâu vào người xì-pông-xo Mỹ, ngay từ những ngày sớm sủa đó ông đã nhất quyết tự-lập – bằng mọi giá. Ông đứng dậy bằng con đường cầm ca, cái nghiệp của ông, với sự tiếp tay của Thái Hằng, người vợ hiền từ dù như đã giải nghệ từ lâu, và của cô con gái lớn trong gia-đình, Thái Hiền, lúc bấy giờ mới chừng 15-16 tuổi, còn đang học trung-học. Phải mấy năm sau, ban nhạc “Gia Đình Phạm Duy” mới có thêm Thái Thảo. Thế là từ một Phạm Duy sáng-tác, ông trở lại một Phạm Duy ca-sĩ – một nghề ông đã bỏ từ lâu. Thái Hằng cũng vậy. Người ta có thể tưởng về một đôi ca-sĩ về già, kiểu La Strada, tiếng hát tiếng đàn rệu rạo, lạc điệu. Nhưng không! Phạm Duy đứng thẳng dậy, với sự yểm-trợ tinh-thần của người vợ thân quý(6) và sự cộng-tác hết mình của con gái, một bông hoa mới nở nhụy, Thái Hiền mà giọng hát trẻ, khỏe chả mấy lúc được báo chí Mỹ so sánh với giọng Karen Carpenter. Phải mất ba năm, người ta mới thấy Phạm Duy sáng-tác trở lại, lúc đầu còn dùng một tên giả, Đỗ Quyên. Năm 1977-78, tôi và một số bạn ở Virginia có thuê nguyên một cái trường tiểu-học ở Arlington dùng làm Trung-tâm Cộng-đồng. Nhân dịp này, chúng tôi có mời “Gia Đình Phạm Duy” về hát cho đồng-bào nghe – một hình ảnh mà ta sẽ còn thấy được nhân lên cả chục, cả trăm lần trong những năm sau đó, ở Hoa-kỳ đã đành nhưng còn ở khắp thế-giới, nơi nào có đông người Việt Nam tề tựu. Ông và gia-đình ông không chỉ đem tiếng hát đến cho mọi người, ông còn đem lại cả niềm tin nữa. Đó là những năm “thuyền-nhân” ồ ạt ra đi, rời bỏ Việt Nam, rời bỏ “thiên-đường CS, thiên-đường xã-hội-chủ-nghĩa” ra đi hàng hàng lớp lớp (“Một là chết nuôi cá, hai là sống nuôi má, ba là má nuôi con” nếu con phải bị bắt bỏ tù trên đường vượt biên). Lúc đầu còn nhỏ, phong trào này chẳng mấy lúc lên đến hàng vạn, hàng trăm nghìn người ra đi trong một năm làm cho cả thế-giới sửng sốt.(7) 1985 Trước đó, cuối năm 1982, Phạm Duy đã có dịp phổ nhạc thơ Nguyễn Chí Thiện, Nguyễn Hữu Hiệu in ra một tập 10 bài “Ngục Ca” rồi đến Hội Văn-hóa VN tại Bắc-Mỹ của tôi in ra thành tập 20 bài “Ngục Ca” với lời Anh hát được theo nhạc của Phạm Duy, xong Quê Mẹ của Võ Văn Ái ở Pháp in ra thành một tập ba thứ tiếng (Việt-Pháp-Anh) với bản dịch nghĩa sang tiếng Anh của Ỷ Lan Penelope Faulkner. Cuốn “Ngục Ca” của tôi in ra, về sau tới năm 1996 khi tôi có dịp sang Úc đi một vòng với nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, tôi mới hay là ở Úc trước đó đã có bản in lậu lại tập của Hội Văn-hóa. Cũng năm 96, vì bản in lậu kia cũng đã tuyệt bản nên các anh em sinh-viên VN ở Victoria (tức Melbourne) đã xin phép tôi in lại một edition chớp nhoáng nữa (dù vẫn rất xinh). Đủ tỏ sự thành công dai dẳng của tập nhạc này. Tôi hơi tiếc là “tập nhạc đẹp nhất trong đời” Phạm Duy, tuy bán hết sau một thời-gian, đã không được người ta biết đến nhiều như một số nhạc-phẩm khác của ông. Có thể là vì hoàn-cảnh đất nước và lòng người đổi thay nhanh chóng nên dù tập nhạc, theo tôi, có không ít những bài sâu sắc nhất trong toàn-bộ sự-nghiệp sáng-tác của Phạm Duy, những bài mà chắc chắn rồi đây sẽ được coi là những đỉnh cao của âm-nhạc VN một thời, nó vẫn không được người ta biết đến một cách đầy đủ. Trong sa-mạc sáng-tác âm-nhạc VN của những năm ấy (giai-đoạn 1975-85), 20 bài Ngục Ca và gần 50 bài của tập Thấm Thoắt Mười Năm phải kể là những hòn ngọc báu trân quý của tâm-thức VN thời bấy giờ. Rồi đây, ai có thể viết nổi lịch-sử âm-nhạc VN của 10 năm ấy – cả trong lẫn ngoài nước – mà không nhắc đến những bài như “1954 Cha Bỏ Quê – 1975 Con Bỏ Nước,” “Hát Trên Đường Tạm Dung,” “Ở Bên Nhà Em Không Còn Đứng Đợi Chờ Anh,” “Người Con Gái Việt Rời Xa Tổ Quốc,” hay “Nguyên Vẹn Hình Hài” – Không nhắc đến những bài tranh đấu cho nhân-quyền lừng danh một thời như “Tháng Tư Đen” hay “Người Việt Cao Quý” – Không nhắc đến những bài hát tâm-khảm như “Thư Em Đến” hay “Mai Mốt Ông Về” (phổ nhạc thơ Cao Tần) – Không nhắc đến những bài phổ nhạc thơ Hoàng Cầm như “Qua Vườn Ồi,” “Cỗ Bài Tam Cúc,” “Hoàng Cầm Ca” và nhất là bài “Lá Diêu Bông” – Tất cả, tất cả đều nằm trong Thấm Thoắt Mười Năm. Nhưng rồi, vật đổi sao dời. 1985, Gorbachev đưa ra chính-sách Glasnost và Perestroika ở Nga, dẫn đến sự sụp đổ của Đông-Ấu Cộng-sản, rồi đến ngay cả sự đổ vỡ của Liên-bang Xô-viết. Người CS Việt Nam xem đó là “tội” không thể tha thứ được của Gorbi nhưng thực ra, đó chẳng qua là một tiến-trình không thể kìm hãm được của thế-giới CS và Gorbi đã có công trông ra để làm cho sự chuyển đổi căn-bản của cả một xã-hội, hơn thế nữa, của cả một thế-giới xã-hội-chủ-nghĩa không xảy ra trong chiến-tranh tan hoang, đổ vỡ, tắm máu. 1986, cực chẳng đã, VNCS theo chân với chính-sách Đổi Mới. 1989, Hà-nội rút quân khỏi Cao-miên, dẫn đến sự làm hòa với các nước ASEAN và Trung-Cộng. 1994, Mỹ bãi bỏ cấm vận, 1995 Mỹ nối lại bang-giao và Hà-nội vào ASEAN. Một sự chuyển mình căn-bản không kém ở Liên-Xô nên ngày nay, người ta nói không sai, không còn gì và ai là Cộng-sản ở VN nữa mà chỉ còn những tên mafia đỏ. 2000 Trong mỗi bước đường đi của ông trong 27 năm qua, tôi hãnh-diện là một người nghe, người thụ hưởng, người đã tiếp tay – trong phần nhỏ bé của mình – đem tiếng nhạc lời ca của ông đến với một số đồng-bào ở miền Đông Hoa-kỳ và, qua những tác-phẩm in, đưa được thông-điệp của một nhạc-sĩ thiên-tài đến khắp năm châu và với thế-giới (qua những bản dịch, bài giới-thiệu và nhất là những bài hát được bằng lời tiếng Anh – “English singing versions”). Phạm Duy chưa được xem là một nhạc-sĩ lớn của thế-giới chỉ vì ông hãy còn thiếu người trình diễn nhạc của ông trong các tiếng, nhất là tiếng Anh. Tuy-nhiên, chỉ với một số ít nhạc-bản của ông đã được những tiếng hát như Steve Addiss trình bầy ở Mỹ, James Durst và Ferne Bork sang cả tận bên Nga để trình diễn, không kể ban đồng-ca lớn Mitch Miller, và nhạc của ông ngày càng nhiều nhà nhạc-học trên thế-giới nghiên cứu, tôi đoán là một ngày sẽ không xa khi nhạc và tài-năng của ông cũng sẽ được công-nhận rộng rãi. Tạ Tỵ đã có lần viết: “Phạm Duy, hai chữ đó là tên gọi, kỳ lạ thay, cũng là huyền thoại ngay trong thời gian có Duy góp mặt.” Anh Phạm Duy, chào anh ở tuổi 80, em rất vui đã được học, hát, đi và chia xẻ với một huyền-thoại sống là anh! Nguyễn Ngọc Bích Chú thích: 1. Trong cái hồ hởi của giờ phút ấy, người ta quên khuấy đi mất là Nhật đã đầu hàng nên đâu còn lòng dạ nào mà đi dẹp phường múa rối kia, rằng chính vua Bảo Đại đã tuyên-bố độc-lập sáu tháng trước đó, và rằng chính-phủ Trần Trọng Kim là chính-phủ đầu tiên của một nước Việt Nam độc-lập với một thành-phần nội-các gồm nhiều trí-thức có đầu óc và nắm vững chuyên-môn. Ông Hoàng Xuân Hãn, chẳng hạn, là bộ-trưởng Giáo-dục đầu tiên của Việt Nam và chương-trình cải cách giáo-dục của ông đưa ra là khi ông còn trong nội-các Trần Trọng Kim. 2. Trong lúc nhạc-bản còn thiếu, người ta chuyển ngay những cái sẵn có trong tay thành nhạc mới: đó là trường-hợp bài “Appel aux étudiants” của Lưu Hữu Phước, lời Pháp dùng để hát cho tất cả các sinh-viên của ba nước Đông-dương Việt-Miên-Lào, đã gần như trong nháy mắt được các sinh-viên ở Đại-học-xá Hà-nội đổi lời để biến thành bài “Tiếng gọi Thanh-niên” rồi về sau, bài này năm 1948 lại được sửa lời một lần nữa thành bài “Tiếng gọi Công-dân” và biến thành quốc-ca của Quốc-gia Việt Nam rồi của miền Nam sau năm 54. 3. Điều này làm tôi suy nghĩ, một người nào đó sẽ có công lớn lắm nếu bây giờ có thể thu thập được lại toàn-bộ những bài do ban Hợp-ca Thăng Long trình bầy, vì đó là một điểm cao vòi vọi của nghệ-thuật trình bầy âm-nhạc Việt Nam. Nhóm AVT nguyên-thủy cũng vậy. 4. Chuyến đi này có được ghi lại trong một cuốn phim tài-liệu mang tên “Rain on the Leaves,” phim đen trắng, 17 phút, 1966, có được giới-thiệu trong Emb***y of Viet-Nam 1970-71 Film List, Washington DC, 1971, trang 28. Steve Addiss, nếu tôi không nhầm, sẽ là người đầu tiên chuyển một số bài hát của Phạm Duy thành những lời hát được trong tiếng Anh, đôi khi rất thành công như bài “Gánh Lúa” hay bài “Giọt Mưa Trên Lá.” Mấy bài này về sau được đưa vào tuyển-tập nhạc thế-giới của sinh-viên Mỹ ở UCLA. Ông cũng còn làm chung với Phạm Duy một cuốn sách nhỏ, cuốn Dân Ca, in ra ở Sài Gòn năm 1968, trong đó ông hoặc làm lời Anh hoặc dịch ý những bài hát trong sách. 5. Nghĩa là sinh-viên cao-học đã học xong hết các tín-chỉ ban Tiến-sĩ ở Columbia University, đã thi xong “prelims” tức “preliminary examinations,” thi viết, và “oral exams,” thi vấn đáp trước một ban giám-khảo sáu người, đã được học-bổng sang Nhật gần 2 năm tìm tài-liệu viết luận-án, và chỉ còn chờ hoàn-tất luận-án, “all but the dissertation.” 6. Đặng Trần Vận, người nghệ-sĩ đa tài, người đã dựng ra Phòng trà Thiên Thai ở Hà-nội năm 45-46, trước khi chết đã nói với tôi ở Paris một câu chí lý: “Thằng PD được con vợ, chị ta biết hết nhưng để cho anh ta tự do, nhờ vậy dân-tộc có được một nhạc-sĩ lớn!” Một bài học rất lớn cho những chế-độ nào còn thua cả một người như Thái Hằng, tìm cách “cầm chân” hay nói đúng hơn là “cầm tù” các văn-nghệ-sĩ của dân-tộc và đất nước. 7. Số người “nuôi cá” không trong những năm này cũng lên đến gần nửa triệu, theo sự ước-tính của Cao-ủy Tỵ nạn Liên-hiệp-quốc.
1. Nhạc: |
||||||||||||||||||||||||||||||||
mk
|
||||||||||||||||||||||||||||||||
IP Logged | ||||||||||||||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 29/Jan/2013 lúc 11:04pm | |||||||||||||||||||||||||||||||
5 nhạc phẩm bất hủ của nhạc sỹ Phạm DuyThứ hai 28/01/2013 06:11 (GDVN)
- Nhạc sỹ Phạm Duy qua đời đã để lại lượng ca khúc đồ sộ với nhiều tác
phẩm nổi tiếng, trong đó có 5 nhạc phẩm nổi tiếng không thể nào quên. Nói
về cố nhạc sỹ tài
hoa Phạm Duy, ca sỹ Cẩm Vân đã chia sẻ: “Chỉ cần nhìn vào gia tài hàng
nghìn sáng tác của ông, mà phần lớn đều hay, đều đi vào lòng người nhờ
vào sự hòa quyện giữa nét hiện đại và truyền thống, mới thấy được sức
làm việc đáng nể cũng như sự đóng góp rất lớn của ông cho âm nhạc Việt.” 1. Tình ca “Tình
ca” là ca khúc được nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác năm 1952. Bài hát mang
đậm nét dân ca từng được các giọng ca Thái Thanh, Kim Tước, Mai Hương
thể hiện thành
công. Nhạc phẩm "Tình ca” nói lên tình quê hương đất nước của một người
con đất Việt. Bài hát được yêu thích vì ca từ giản dị chân thành, tha
thiết: "Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi, mẹ hiền ru
những câu xa vời, à à ơi! tiếng ru muôn đời". 2. Bà mẹ Gio Linh Bà
mẹ Gio Linh được Phạm Duy sáng tác năm 1948. Bà mẹ Gio Linh trong bài
hát
của ông nói về những người mẹ có thật ở làng Mai Xá, xã Gio Mai, huyện
Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Theo hồi ký của Phạm Duy, trong một lần công
tác về vùng đó, ông được nghe kể chuyện bà mẹ có người con trai đi lính,
bị giặc bắt chém đầu bêu ra ở chợ, không ai dám lại gần duy chỉ có
người mẹ mang thúng tới lấy đầu con đem về mai táng. Nghe xong câu
chuyện, ông ghi lại thành ca khúc. 3. Áo anh sứt chỉ đường tà Ca
khúc “Áo anh sứt chỉ đường tà” được Phạm Duy phổ
nhạc từ bài thơ nổi tiếng “Màu tím hoa sim” của nhà thơ Hữu Loan. Với
tiết tấu mang đầy chất kĩ thuật, rất uyển chuyển phong phú...bài hát đã
phác thảo lại một cách sống động bức tranh Việt chân thực về tình yêu
người chiến sĩ, tình cảm người hậu phương trong cuộc kháng chiến chống
thực dân xâm lược. 4. Đưa em tìm động hoa vàng “Đưa
em tìm động hoa vàng” là bài hát được nhạc sỹ
Phạm Duy phổ nhạc từ bài thơ “Động hoa vàng” của Phạm Thiên Thư. Bài
hát nói lên tình yêu không nhuốm chút tục lụy nào mà đầy vẻ thanh khiết,
và “tâm linh”. “Nhớ xưa em rũ tóc thề/Nhìn trăng sao nỡ để lời thề
bay/Đợi nhau tàn cuộc hoa này/Đành như cánh bướm đồi Tây hững hờ”… “Nghìn
trùng xa cách” là một trong những tình khúc hay nhất của nhạc sĩ Phạm
Duy. Tác giả từng chia sẻ về ca khúc “Mình viết bài này là để tặng cho
một người tình trước khi cô ấy lên xe hoa, cô trẻ hơn mình đến hơn
10 tuổi, lúc mình 28 tuổi cô ấy mới 16 tuổi”. Trong bài hát còn nhắc
tới những kỷ vật mà nàng đã tặng ông: “Đứng tiễn người vào dĩ vãng nhạt
màu, có lũ kỷ niệm trước sau: Vài cánh xương hoa, nằm ép trong thư, rồi
cũng tan như bụi mờ. Vạt tóc nâu khô, còn chút thơm tho, thả gió bay đi
mịt mù…”. Thùy Linh |
||||||||||||||||||||||||||||||||
mk
|
||||||||||||||||||||||||||||||||
IP Logged | ||||||||||||||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 03/Feb/2013 lúc 10:21pm | |||||||||||||||||||||||||||||||
Phạm Duy, những cuộc hạnh ngộMột trong những ghi chép cuối đời của cố nhạc sỹ Phạm Duy là về một số cuộc gặp gỡ đáng kể trên đường đời của ông. Ghi chép mang tên ‘Những Cuộc Hạnh Ngộ’ được một người bạn thân của nhạc sỹ chia sẻ với BBC và đây là bản đã được rút ngắn. Ảnh trong bài do chính nhạc sỹ sưu tầm trong khi một số tựa đề phụ do BBC đặt. Bài viết có hai phần gồm phần một dưới đây và quý vị có thể nhắp chuột vào tựa đề ‘Gặp cựu TT Võ Văn Kiệt và những người khác’ ở phía bên tay phải của phần một để đọc phần hai. Phạm Duy qua đời tại Bệnh viện 115 ở thành phố ************ hôm 27/1, hưởng thọ 92 tuổi và được an táng tại nghĩa trang Công viên Bình Dương hôm 3/2/2013. Gặp Vua Bảo Đại và các cuộc gặp trước năm 75 Khi đi hát ở Phan Rang vào năm 1944, có một hôm bỗng có xe hơi của ông tỉnh trưởng Phan Rang là Nguyễn Duy Quang tới rạp hát để đón tôi vào Dinh, giữa sự ngạc nhiên của nhân viên đoàn hát. Vào trong dinh tôi mới biết là có ông Bảo Đại đang ngồi ở đó. Ông thường trị vì tại Đà Lạt và đi bắn ở trong rừng nhiều hơn là ngồi trên ngai vàng tại Huế. Hôm nay ông từ một vùng săn bắn nào đó xuống chơi thành phố Phan Rang và nghỉ ngơi trong Dinh Tỉnh Trưởng. Tôi đã biết tới sự yêu nhạc của ông vua khi thấy ông đem người con trai của Thượng Thư Phạm Quỳnh là Phạm Bích vào làm bí thư riêng chỉ vì anh này đánh đàn guitare rất giỏi. Đã không còn coi đối tượng là quan trọng nữa, đã chủ trương khi cất lên tiếng hát là hát cho mình nhiều hơn là hát cho người, nên tôi chẳng có một mặc cảm nào khi ngồi ôm đàn hát cho ông vua nghe. Ông Bảo Đại, rất lịch sự, rất nhã nhặn, sau khi nghe hát xong, ngồi mời tôi ăn bánh ngọt và nói chuyện với tôi bằng tiếng Pháp. Hỏi tôi học nhạc ở đâu ? Từ bao giờ ? Hơi ngạc nhiên khi thấy tôi trả lời là chẳng học ai cả ! Hỏi thăm về ông Khiêm, về gia đình tôi. Một ông vua yêu nghệ thuật như vậy chắc chắn là đằng sau cặp kính đen mà ông thường đeo, có ẩn nấp một đôi mắt nhân từ. Ừ, đúng như vậy, trải qua bao nhiêu biến thiên của lịch sử, có nhiều kẻ quai mồm ra phê bình Bảo Đại là thế này thế nọ, nhưng tôi chưa thấy ai dám nói ông ta đã bỏ tù hay đã giết một người Việt Nam. Trong khi qua vài ba cuộc Cách Mạng trên thế giới, có biết bao nhiêu người đã bị thủ tiêu hay bị cầm tù bởi những nhà lãnh đạo mệnh danh là yêu nước thương nòi… Xong buổi hát ”vo” (theo tiếng nhà nghề là : hát không lấy tiền) khi tôi ra về, tỉnh trưởng Nguyễn Duy Quang tiễn tôi ra cửa, rất tế nhị, tay cầm sẵn một gói quà là 5 thước vải phin rất tốt để tặng anh ca sĩ trẻ tuổi. Với số vải này, tôi may được hai cái áo sơ-mi, một cái mặc cho tới khi rách, một cái sẽ tặng anh bạn thi sĩ Nguyễn Bính khi gặp anh ở Saigon một vài tháng sau để anh bán lấy tiền vào nằm tiệm hút. Về tới rạp và khoe là vừa hát cho vua nghe, cả gánh hát lắc đầu lè lưỡi thán phục… Với một nghệ sĩ hát rong mới 20 tuổi, được gặp một vị hoàng đế, thật là một hạnh ngộ. Các chính trị gia Việt Nam Cộng hòa Tôi được gặp ông Diệm và chỉ nói chuyện gia đình vì anh Khiêm của tôi lúc đó là Bộ Trưởng, sau đó là Đại Sứ trong chính phủ của ông, Tới khi có chính quyền Nguyễn Văn Thiệu vì tôi là Phó Giám Đốc Đài Truyền Hình nên thỉnh thoảng tôi có tiếp đón ông mỗi khi ông tới thu hình. Riêng Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ thì luôn luôn gặp tôi tại tư gia tướng Lansdale để sinh hoạt văn nghệ tiêu khiển. Các văn nghệ sỹ Mỹ Cũng tại tư gia tướng Lansdale, tôi được gặp văn hào John Steinbeck khi ông qua VN để thăm người con đang là đệ tử của ông Đạo Dừa. John Ernst Steinbeck III (1902– 1968) là một tiểu thuyết gia người Mỹ được biết đến như là ngòi bút đã miêu tả sự đấu tranh không ngừng nghỉ của những người phải bám trên mảnh đất của mình để sinh tồn. Tác phẩm đầu tiên gây tiếng vang của John Steinbeck là cuốn Of Mice and Men (1937), dựng nên một câu chuyện bi thảm về hai nông dân ít học thức hằng mong mỏi một mảnh đất cho riêng mình để canh tác. Tác phẩm được đánh giá cao nhất là The Grapes of Wrath (1939; đoạt giải Pulitzer năm1940), dựng nên câu chuyện của gia đình Joad, bị nghèo khó ở vùng hoang hóa Dust Bowl của bangOklahoma, phải chuyển đến California trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930. Quyển tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi, được xem không những là truyện hư cấu nhưng có tính hiện thực mà còn là lời phản kháng xã hội đầy cảm động, đã trở nên một tác phẩm kinh điển trong nền văn học Mỹ. Là một trong những “tượng đài” văn học từ thập kỷ 1930, Steinbeck lấy chủ đề trung tâm là phẩm giá trầm lặng của những người cùng khổ, những người bị áp bức. Dù những nhân vật của ông thường bị vây bọc trong thế giới thiếu công bằng, họ vẫn giữ mình như là những con người đầy cảm thông và có anh hùng tính, tuy có thể bị khuất phục. John Steinbeck nhận Giải Nobel Văn học năm 1962. Trong những đêm họp mặt để “hát với nhau” như thế, Đại Sứ Cabot Lodge cũng cởi áo veste ra để hát. Tôi cũng có dịp gặp các nghệ sĩ nổi danh như Pete Seeger, ông vua dân ca Hoa Kỳ : Peter Seeger (sinh ngày 3 tháng 5 năm 1919), còn được biết đến với tên Pete Seeger, là một nhạc sĩ, ca sĩ nhạc đồng quê và là nhà hoạt động chính trị. Ông cũng là thành viên của the Weavers, tuy nhiên cũng đã sáng tác nhiều bài hát, trong đó có một bản thu âm “Goodnight Irene” đã đứng đầu bảng xếp hạng trong vòng 13 tuần vào năm 1950. Ông cũng là cựu thành viên của Đảng Cộng sản Mỹ và là người có công lao đóng góp chính cho nền âm nhạc dân gian và là người tiên phong trong phong trào âm nhạc phản chiến trong những năm của thập kỷ 50 và 60. Ông là tác giả bài hát phản chiến nổi tiếng Where Have All the Flowers Gone? Ông cũng là tác giả bài hát Teacher Uncle Ho (Bác Hồ – Thày giáo). Hội ngộ với nghệ sĩ Việt Nam
1944, tôi đang là anh nghệ sĩ Tân Nhạc của gánh Đức Huy. Gánh hát tới Tourane (Đà Nẵng). Đà Nẵng là một thành phố tuyệt đẹp bên sông Hàn, bên bờ biển Đông với những nét quyến rũ chưa từng có ở các đô thị biển khác… Tôi đi thămBảo tàng Chămđể chiêm ngưỡng một nền văn hoá Chăm rực rỡ, những pho tượng cổ, những linh vật thờ, những biểu trưng của một dân tộc phồn thịnh giờ chỉ còn trong quá vãng. Đây là bảo tàng duy nhất về nền văn hoá Chăm trên thế giới và giá trị của nó đã vượt ra khỏi biên giới nước Việt Nam. Thú vị nhất là tôi gặp chàng thi sĩ mà mình yêu qúy vô cùng là Lưu Trọng Lư. Lúc đó anh Lư đang dạy học tại trường Phan Bội Châu (hay Phan Chu Trinh?), sau khi nghe tôi trình diễn tại rạp hát, ngày hôm sau anh đã nằng nặc lôi tôi lên xe kéo, đưa tôi tới trường học để hát cho học trò của anh nghe. Từ trước tới giờ, tôi chưa gặp ai nên thơ như con người Lưu Trọng Lư. Chưa gặp anh đã nghe nói anh là người rất lơ đãng. Gặp anh rồi thì nhìn bề ngoài của anh cũng đã thấy anh là một con nai vàng ngơ ngác. Đã có ai kể cho tôi nghe chuyện anh cầm tiền đi chợ mua đồ cúng nhân ngày giỗ vợ nhưng anh ghé vào tiệm hút rồi quên phứt chuyện đó! Theo lời kể của Hoài Thanh, đã có lần Lưu Trọng Lư nằm đọc tập thơ TIẾNG THU của mình rồi ngồi dậy cười to : – A ha ! thế mà mấy bữa ni cứ tưởng (…) hai câu : ”Giật mình ta thấy mồ hôi lạnh, mộng đẹp bên chăn đã biến rồi…” là của Thế Lữ… Hai câu thơ ấy là của Lưu Trọng Lư. Sau khi tôi hát cho lũ học trò xanh xao và gầy gò nghe bài Buồn Tàn Thu rồi thì nhà giáo Lưu Trọng Lư đầu bù tóc rối, quần áo lôi thôi lếch thếch và nát nhầu, móc ở trong túi ra những mẩu thơ để tặng tôi ngay trong lớp học. Tôi nhớ rất kỹ đó là những đoạn thơ của bài Giang Hồ mà khi in ra thì anh Lư đề tặng Nguyễn Tuân và Vũ Hoàng Chương : Mời anh cạn hết chén này Trăng vàng ở cuối non tây ngậm buồn Tiếng gà đã rộn trong thôn Nửa đời phiêu lãng chỉ còn đêm nay… Tôi sẽ có nhiều lần phổ nhạc những bài thơ tuyệt vời của anh Lư để trả ơn sự hạnh ngộ nửa đường phiêu lãng này. Từ bài Tiếng Thu qua Vần Thơ Sầu Rụng tới Thú Đau Thương và Còn Chi Nữa (bài này tôi mạn phép đổi tên là Hoa Rụng Ven Sông). Lê Thương, Trần Văn Trạch và Đức Quỳnh Vào năm 1951, khi tôi vào sinh sống tại Saigon, tôi có ba người bạn là Lê Thương, Trần Văn Trạch và Đức Quỳnh. Lê Thương rời Bến Tre, anh về Saigon làm nghề thầy giáo. Căn nhà nhỏ của anh đường Võ Tánh là nơi tôi đến chơi hàng ngày, hoặc rủ anh đi mua báo Pháp như PARIS MATCH, CANARD ENCHAINÉ ở hiệu sách PORTAIL đường Catinat… hoặc rủ anh đi ăn, đi chơi. Lê Thương làm thơ, làm nhạc rất bay bướm nhưng anh có cuộc sống rất giản dị. Trước đây, tôi chỉ biết Lê Thương qua những bài hát tình yêu rất hay như Bản Đàn Xuân, Thu Trên Đảo Kinh Châu, Một Ngày Xanh, Nàng Hà Tiên… và Phần I của truyện ca bất hủ Hòn Vọng Phu. Bây giờ, tôi được biết thêm những bài Bà Tư Bán Hàng, Bài Hoà Bình 48, Liên Hiệp Quốc, Làng Báo Sài Thành, Đốt Hay Không Đốt Téléphone, Cái Đồng Hồ, Chuyến Xe Lửa Mùng Năm… * Trần Văn Trạch là một ca sĩ chanteur de charme, hát những bài ca “mùi mẫn”, chưa có những tiết mục bắn súng, phi cơ bay và dội bom bằng mồm, hoặc những bài ca hài hước như sau này. Tại dancing Théophile, Trạch thường hát nhiều bài Tây và một vài bài ta. * Đức Quỳnh, có giọng hát ồ ồ, có mái tóc bồng bềnh và hàm răng thô. Nhưng lúc nào cũng ăn mặc chải chuốt, lúc nào cũng mặc veston, đeo nơ… dù trời Saigon rất là nóng bức. Đức Quỳnh có soạn ra một bài hát nhan đề Ba Giờ Khuya mà Trạch hát tại Dancing Théophile. Rồi còn viết ra Thoi Tơ (thơ Nguyễn Bính) Người Kỹ Nữ Với Cung Đàn, Hỏi Em, Hò Khoan, Trả Lại Anh… Anh còn soạn hai bài hát cho tuổi thơ là Chim Chích Chòe và Rước Đèn Tháng Tám. * Rồi tôi tới Saigon thì hạnh ngộ là được gặp hai nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh, Lê Văn Trương… Tại đàm trường Viễn Kiến, Nguyễn Đức Quỳnh dạy tôi làm người hiền. Trong tiệm hút, Lê Văn Trương dạy tôi làm người hùng. Mời quý vị bấm vào ‘Gặp cựu TT Võ Văn Kiệt và những người khác’ ở phía bên phải trên đầu trang để đọc phần 2. Gặp cựu TT Võ Văn Kiệt và những người khác
Còn hạnh ngộ nào lớn lao hơn là sự gặp gỡ giữa tôi và hai thi sĩ Hữu Loan, Hoàng Cầm khi trở lại Việt Nam. Để tôi sáng tác được những bài Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà, Tình Cầm… * Biết bao nhiêu hạnh ngộ khi tôi gặp Bùi Công Kỳ, Cung Trầm Tưởng. Gặp Bùi Công Kỳ thì tôi học được lối sống bất cần đời của anh. Gặp Cung Trầm Tưởng thì tôi phổ thơ của anh thành những tình ca Mùa Thu Paris, Tiễn Em, Bên Ni Bên Nớ v.v… * Quen biết các nhạc sĩ Hoàng Trọng, Hoàng Thi Thơ là những hạnh ngộ chắc chắn. *
Bây giờ là người bạn chí thân nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý. Quen nhau từ 1947, tới khi tôi trở về VN vào năm 2005, chúng tôi lại được bắt tay nhau trên sân khấu hay ngoài đời. Nguyễn Văn Tý (5 tháng 3 năm 1935 – ) là một nhạc sĩ nổi tiếng của Việt Nam, ông có nhiều đóng góp sáng tác từ dòng nhạc tiền chiến như Dư âm đến những ca khúc như Dáng đứng Bến Tre, Mẹ yêu con, Người đi xây hồ Kẻ Gỗ… Nguyễn Văn Tý là một nhạc sĩ thành công với chất liệu dân ca. Những sáng tác của ông được chắt chiu và nghiền ngẫm qua những chuyến đi thực tế trong thời gian dài, nhiều sáng tác đã sử dụng khéo léo chất liệu dân ca của nhiều vùng miền (Một khúc tâm tình người Hà Tĩnh, Dáng đứng Bến Tre, Mẹ yêu con…). Một đề tài quen thuộc trong nhiều sáng tác của ông là phụ nữ với những ca khúc như Bài ca phụ nữ Việt Nam, Mẹ yêu con, Tấm áo chiến sỹ mẹ vá năm xưa… Nguyễn Văn Tý cũng là một nhạc sĩ có nhiều sáng tác “ngành ca”: Em đi làm tín dụng, Anh đi tìm tôm trên biển cả, Chim hót trên cánh đồng đay, Cô đi nuôi dạy trẻ, Bài ca năm tấn. * Cũng như với Nguyễn Văn Tý, tôi quen nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương từ 1944. Thật là hạnh phúc cho tôi khi gặp lại Nguyễn Văn Thương. Nguyễn Văn Thương là một nhạc sĩ Việt Nam nổi tiếng, thuộc thế hệ đầu tiên của tân nhạc Việt Nam. Anh là tác giả của những ca khúc tiền chiến bất hủ như Đêm đông, Trên sông Hương và những ca khúc kháng chiến như Bình Trị Thiên khói lửa. Anh còn có nhiều tác phẩm khí nhạc khác. * Tôi gặp Ái Vân tại Paris khi nàng vừa vượt biên qua Đức. Rồi nàng qua sống tại San Jose. Chúng tôi có rất nhiều hoạt động âm nhạc trên sân khấu cũng như trên địa hạt DVD. Ái Vân được nhiều hãng phát hành DVD như Thúy Nga Paris, Thế Giới Nghệ Thuật… những nhạc cảnh của tôi như Người Ðẹp Trong Tranh, Thị Mầu Lên Chùa, Trên Ðồi Xuân, Chum Vàng, Mài Dao Dạy Vợ, Mối Tình Sơn Nữ… * Tôi và Nguyễn Đình Thi quen nhau từ ngày Cách Mạng Tháng 8. Anh là người có nhiều tài và là một cán bộ cao cấp của Nhà Nước. Anh sinh năm 1924 ở Luông Phabăng (Lào). Cha là viên chức Sở bưu điện Đông Dương có sang làm việc ở Lào. Anh thuộc thế hệ các nghệ sỹ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Anh viết sách khảo luận triết học, viết văn, làm thơ, soạn nhạc, soạn kịch, viết lý luận phê bình. Anh được nhà nước phong tặng Giải thưởng ************ về văn học nghệ thuật đợt I năm 1996. Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Đình Thi làm Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc. Từ năm 1958 đến năm 1989 làm Tổng thư ký Hội nhà văn Việt Nam. Từ năm 1995, Anh là Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật. Anh mất năm 2003 tại Hà Nội. * Lại có thêm một hội ngộ tốt đẹp. Vừa trở về VN, tôi được mời tới gặp ông Chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam. Ông Phạm Thế Duyệt (sinh ngày10 tháng 8 năm1936) là một nhà chính trị Việt Nam. Ông từng là ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa VII và VIII, từng là Bí thư thành ủy Hà Nội, Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam (nay là Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam) khóa V, chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Namkhóa V, đại biểu Quốc hội từ khóa đến khóa XI. * Tôi quen anh Tố Hữu từ ngày Cách Mạng thành công và có nhiều dịp công tác với anh tại Huế và tại Việt Bắc trong ngày Đại Hội Văn Hóa. Trở về quê hương năm 2001, tôi đã tới thăm một “đồng chí” xưa. Hai người đều vui vì có được môt hội ngộ không ngờ… Chúng tôi không đả động gì tới chuyện “chính chị, chính em”, tới chuyện “đấu tranh, đánh trâu” chỉ nói chuyện “trời mưa, trời nắng, con cắng đánh nhau, bồ câu đi chữa, chốc nữa lại tạnh”. Rồi anh Tố Hữu tự tay mở gói bánh đậu xanh Hải Dương ra mời tôi ăn… Chia tay ra về, tôi không ngờ chỉ một năm sau, anh Tố Hữu qua đời. Trong buổi gặp gỡ này, có mặt Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông Tin Trần Hoàn. Anh Tố Hữu, tên thật là Nguyễn Kim Thành (1920–2002) là một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách mạng Việt Nam. Nghệ thuật thơ Tố Hữu giàu tính dân tộc. Phối hợp tài tình ca dao, các thể thơ dân tộc và thơ mới. Vận dụng biến hoá cách nói, cách cảm, cách so sánh ví von rất gần gũi với tâm hồn người. Phong phú vần điệu, câu thơ mượt mà, dễ thuộc dễ ngâm. Những bài “Việt Bắc”, “Nước non ngàn dặm”, “Theo chân Bác”… là những bài thơ tuyệt bút của Tố Hữu. * Bác sĩ Nguyễn Ngọc Hà mà tôi quen từ ngày gặp nhau tại Paris năm 1973 lúc đó đang là trưởng Ban Việt Kiều TP HCM, đưa tôi tới thăm ông Trần Bạch Đằng. Tuy trước đây ông tuyên bố : “Phạm Duy hãy tự sát đi, chúng tôi sẽ cho phổ biến nhạc của ông ta”, nhưng tôi đã về VN mà chưa chết. Vậy thì tôi phải tới thăm ông ta chứ ! Ông Trần Bạch Đằng (15 tháng 7 năm 1926—16 tháng 4 năm 2007) là một nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà báo Việt Nam. Ông còn là một nhà chính trị lão thành của Việt Nam đã tham gia hoạt động cách mạng từ trước năm 1945. Ông cũng là tác giả của quyển tiểu thuyết viết về một nhân vật tình báo bí ẩn trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam: Đại tá Phạm Ngọc Thảo, với bút danh Nguyễn Trương Thiên Lý. * Có lẽ người mà tôi gặp gỡ nhiều nhất là cựu Thủ Tướng Võ Văn Kiệt và chúng tôi đã có nhiều điều để nói với nhau. Tiếc thay, ông đã nghỉ hưu và đã qua đời trước khi công cuộc Đổi mới và cải cách chính sách ở Việt Nam được hoàn toàn thực hiện. Ông Võ Văn Kiệt (23 tháng 11 năm1922 –11 tháng 6 năm 2008) tên thật là Phan Văn Hòa, bí danh Sáu Dân, là mộtnhà chính trị Việt Nam, nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và sau đó là Thủ tướng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam từ ngày 8 tháng 8 năm 1991 cho đến ngày 25 tháng 9 năm 1997. Ông được nhiều báo chí đánh giá là người đã đẩy mạnh công cuộc Đổi mới và cải cách chính sách ở Việt Nam kể từ năm 1986, là “tổng công trình sư” nhiều dự án táo bạo của thời kỳ Đổi mới. * Thế là trong suốt một đời người, tôi vô tình được quen biết khá nhiều người. Vào lúc tuổi già, sau khi hoàn tất MINH HỌA TRUYỆN KIỀU giữa năm 2009, tôi không còn hứng thú sáng tác nữa nhưng có thời giờ để ngồi viết bút ký, tùy bút và bài NHỮNG CUỘC HẠNH NGỘ này là một tùy bút có tính chất hồi tưởng. Tôi không có ý định làm công việc khoe khoang, “thấy người sang bắt quàng làm họ” mà chỉ tâm sự với độc giả rằng : quen biết những nhân vật có nhiều chính kiến khác nhau như thế, nhưng tôi vẫn là một nghệ sĩ độc lập, không bao giờ lợi dụng phục vụ ai cả. Nghĩ mà thương cho cậu em Đỗ Ngọc Yến ở khu Bolsa, chỉ vì với tư cách của một chủ báo, chót chụp ảnh chung với ông Nguyễn Tấn Dũng ở San Francico mà bị ..... đào mả và nguyền rủa. Tôi rất hân hạnh là người quen của các nhân vật chính trị, văn nghệ sĩ thế giới và không hề có một chút mặc cảm nào cả. Chỉ vì tôi là một nghệ sĩ rất muốn là bạn của tất cả mọi người, là vua quan hay là người dân bình thường. |
||||||||||||||||||||||||||||||||
mk
|
||||||||||||||||||||||||||||||||
IP Logged | ||||||||||||||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 04/Feb/2013 lúc 4:23pm | |||||||||||||||||||||||||||||||
Hàng ngàn người tiễn đưa cố nhạc sĩ Phạm Duy 03/02/2013 Sáng nay 3.2, tại tư gia trên đường Lê Đại Hành, phường 3, quận 11, TP.HCM, lễ an táng nhạc sĩ Phạm Duy đã được diễn ra với sự có mặt của những người thân trong gia đình và đông đảo bạn bè thân thiết cùng người hâm mộ.nguoiphattu.com Khoảng hơn 6h sáng, lễ cầu siêu cho linh cửu nhạc sĩ Phạm Duy được bắt đầu Chiều qua, MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên cũng người yêu và ca sĩ Đoan Trang, Hồng Nhung đã đến viếng đám tang nhạc sĩ Phạm Duy.nguoiphattu.com Thế nên tại lễ di quang sáng nay chỉ có ca sĩ Đức Tuấn và một vài gương mặt nghệ sĩ có mặt để trực tiếp tiễn đưa lần cuối. Nam ca sĩ Quang Dũng đã diện trang phục màu đen khi đến tư gia nhạc sĩ khá sớm. Nghệ sĩ Kim Cương cũng tranh thủ có mặt trong giây phút tiễn đưa nhạc sĩ họ Phạm Giáo sư Trần Văn Khê, dù tuổi cao và sức khỏe đã yếu nhưng vẫn đích thân đến tiễn đưa nhạc sĩ Phạm Duy Sau khi làm lễ cầu siêu lần cuối, nghi thức bắt đầu lễ di quang được bắt đầu Bạn bè cùng thắp nén nhang lần cuối cho nhạc sĩ Phạm Duy Khoảng 7 giờ sáng, lễ di quan được chính thức bắt đầu Linh cữu nhạc sĩ được đưa ra khỏi tư gia trên đường Lê Đại Hành. Lễ tang nhạc sĩ Phạm Duy thu hút sự quan tâm của báo chí và truyền thông Trước đó, vào chiều 27.1 khán giả cả nước bàng hoàng và nuối tiếc vị nhạc sĩ tài hoa ra đi ở tuổi 92 tại bệnh viện 115, TP.HCM. Sự ra đi của nhạc sĩ họ Phạm để lại rất nhiều nuối tiếc cho bạn bè, đồng nghiệp và người hâm mộ Nỗi buồn của những người thân trong gia đình hiện rõ trên nét mặt. Dòng người lặng lẽ đi sau linh cữu của vị nhạc sĩ tài hoa Linh cữu nhạc sĩ được đưa lên xe tang Người thân trong gia đình không ngừng được những dòng nước mắt thương nhớ. Trong số những người thân lặng lẽ theo sau, có lẽ hình ảnh nam ca sĩ Tuấn Ngọc được nhiều người chú ý nhất. Sáng nay, Tuấn Ngọc mang theo chiếc ba lô trên vai trong lúc đang đội khăn và mặc áo tang tiễn bố vợ Phạm Duy. Đối với Tuấn Ngọc, nhạc sĩ Phạm Duy không chỉ là cha vợ mà còn là người thầy, người nhạc sĩ tài hoa mà ông hằng ngưỡng mộ Gia
đình Phạm Duy có nhiều người nổi tiếng trong lĩnh vực nghệ thuật, ngoài
người cha và anh trai là Phạm Duy Khiêm là những nhà văn có tiếng, anh
thứ Phạm Duy Nhượng cũng là một nhạc sĩ, tác giả ca khúc Tà áo Văn Quân. Vợ
ông là ca sĩ Thái Hằng, em vợ là danh ca Thái Thanh, các con ông được
ông hướng dẫn theo nghiệp ca hát, đều có thành công trong lĩnh vực của
mình: con trai cả là ca sĩ Duy Quang, rồi đến nhạc sĩ hòa âm Duy Cường,
con gái là các ca sĩ Thái Hiền, Thái Thảo. Ngoài ra có thể kể đến các ca
sĩ Tuấn Ngọc chồng của Thái Thảo, con rể Phạm Duy, cô cháu gái Ý Lan.nguoiphattu.com Nữ
ca sĩ Ý Lan đã về Mỹ, nên trong lễ trang sáng nay công chúng chỉ được
thấy hình ảnh nam ca sĩ Tuấn Ngọc là nghệ sĩ quen thuộc trong gia đình
nhạc sĩ họ Phạm. Gương mặt Tuấn Ngọc hốc hác vì đau buồn và thương tiếc Ông lặng lẽ theo sau linh cữu của nhạc sĩ Phạm Duy, thành kính và trầm tư Ca sĩ Quang Dũng tiễn đưa vị nhạc sĩ tài hoa lần cuối Sau khi đi bộ một đoạn, đoàn tang lễ mới bắt đầu lên xe để tiếp tục hành trình đưa linh cữu nhạc sĩ về cõi thiên thu. Gia
đình chấp tay cảm tạ dòng người đưa tiễn trước khi lên xe tang đưa nhạc
sĩ Phạm Duy về nơi yên nghỉ tại Hoa viên Nghĩa trang Bình Dương. Hà Nhuận Nam - Theo: (Xzone/TTTĐ) Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 04/Feb/2013 lúc 4:32pm |
||||||||||||||||||||||||||||||||
mk
|
||||||||||||||||||||||||||||||||
IP Logged | ||||||||||||||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 06/Feb/2013 lúc 6:22pm | |||||||||||||||||||||||||||||||
Saturday, 2 February 2013Trần Văn Khê viết về Phạm Duy
*
Viết về Phạm Duy, bao người đã viết, lời đẹp
vô cùng, tình đầy bất tận... Nói về Phạm Duy, giờ sẽ nói gì? Nói gì đây cho
mình không đi quẩn quanh trong các lối đường xưa cũ tràn ngập hỷ, nộ, ái, ố...
mà Duy từng thấy, từng nghe?
Hai thế kỷ cho một kiếp người, quá đủ thăng trầm, quá nhiều rộn ràng,
biết bao nghi ngại... Vậy mà kẻ lữ hành trên nhạc lộ Phạm Duy vẫn cứ thong dong
đi hết miền trần thăm thẳm của riêng mình, yêu đời này, sống trọn vẹn đời này.
Nhìn Duy mãi là Duy, dẫu cho Duy là Duy của ngày cũ, Duy của ngày nay hay Duy
của ngày sau xa xôi đi nữa, tình thương đối với Duy ngày càng sâu đậm trong
tôi, tình bạn của hai anh em vĩnh viễn bền chặt trong nhau.
Đã quá 90 năm rồi, Phạm Duy và Trần Văn Khê vẫn cứ thân thiết đi cùng
nhau trên chuyến xe đời, vẫn ôm nhau khóc cười bao trận giữa nhân sinh. Để rồi
với những hạnh phúc, khổ đau từng nếm đó, tôi tìm ra trong cuộc đời hai anh em
những tương đồng kỳ lạ mà ít tình bạn thâm giao nào có thể có được. Hy hữu
chăng? Hay do ông Trời sắp xếp? Thôi thì để các bạn tự mình ngẫm nghĩ vậy...
1. Thời thơ ấu hồn nhiên
Chúng tôi chào đời trên dải đất
Việt Nam cùng trong năm Tân Dậu (1921) và cách nhau 3 tháng. Tôi sanh tại Tiền
Giang (miền Nam nước Việt) trong một gia đình bốn đời nhạc sĩ truyền thống, còn
Phạm Duy thì sanh tại Hà Nội (miền Bắc nước Việt) trong một gia đình văn nhân,
nghệ sĩ (có cha là cụ Phạm Duy Tốn - một nhà văn). Tôi tự hỏi không rõ số phận
đã sắp đặt như thế nào để hai anh em chúng tôi, tuy cách xa nhau về địa lý mà
lại có nhiều sự gần gũi trong cuộc sống đến như thế?
Thuở nhỏ, tôi đã được cậu Năm tôi
là ông Nguyễn Tri Khương đặc biệt thai giáo từ lúc còn trong bào thai. Đều đặn
mỗi ngày, cậu Năm đến thổi sáo cho thai nhi nghe. Lúc chào đời, tôi vừa được
nghe tiếng sáo của cậu Năm vừa được nghe thêm tiếng tỳ bà của ông nội. Cả một
thời thơ ấu của tôi được tắm nhuần trong âm nhạc truyền thống Việt Nam, giữa
một vùng đất đậm chất đờn ca tài tử. Chẳng biết Duy đã được thai giáo như thế
nào, nhưng nhìn thấy tánh cách của Duy, từ phong thái, tính tình đến lối sống,
tôi cảm thấy Duy đã được sống trong một không gian thật tự do, chan chứa niềm
mê say với thế giới tuổi thơ đầy thơ mộng của mình.
Môi trường sống nơi “thôn ổ”
(theo cách Duy nói) đã tạo cho bạn có được những trải nghiệm tuyệt vời khi còn
là một đứa trẻ. Duy là đứa trẻ ngây thơ, hồn nhiên, mà cũng có những lúc tinh
nghịch, hiếu kỳ đối với muôn chuyện lý thú xung quanh. Nhãn quan trẻ con của
Duy lúc bấy giờ có nhận thức khá rõ rệt về những gì xảy ra trong đời sống của
mình. Duy lại có trí nhớ rất tốt để ghi lại bao nhiêu câu chuyện ngày xưa, mà
khi tôi đọc lại hồi ký của bạn, có thể tưởng tượng thấy những hình ảnh ấy hiện
rõ mồn một trước mắt, như mình đang đi vào trong ký ức của Duy để viếng thăm
một thời đã qua của bạn, với những dòng chữ do tự tay Duy phác thảo và đánh
máy. Trí nhớ về tất cả quãng đời mà bạn đi qua đã ghi lại rất nhiều điều độc
đáo về chân dung của những con người bạn đã gặp, những thăng trầm của một xã
hội, những biến thiên của một giai đoạn lịch sử... Tuy không được thai giáo như
tôi, nhưng Duy đã được sống giữa phong khí văn chương, âm nhạc. Cha mẹ không
phải là nhạc sĩ, nhưng Duy có người dì chuyên hát ca trù và bản thân Duy đã sớm
tiếp cận với môn nghệ thuật tế nhị, sâu sắc của âm nhạc truyền thống Việt Nam.
Duy cũng có dịp nghe và thích ca nhạc Huế ngang qua tiếng đàn tranh của bà thầy
dạy hai người chị. Nhờ sống nơi làng quê, gặp gỡ với người nông dân nên Duy
cũng quen thuộc với dân ca từ nhỏ... Có gì thích thú cho bằng đứa trẻ được sống
thật vui tươi, nồng nàn tuổi xanh giữa thiên nhiên tự tại, ngấm vào máu xương
nét đẹp văn hóa dân tộc tự lúc nào mà không hay!
Tôi mồ côi cả cha và mẹ, nhưng có
người cô đã thay mặt cha mẹ dạy dỗ tôi từ bé, và tập cho tôi biết sống tự lực
cánh sinh. Tôi được nên người như hôm nay cũng do phần lớn ở công lao săn sóc,
dưỡng dục của cô Ba tôi – một người phụ nữ tài đức vẹn toàn. Sống trong cảnh
nghèo, người cô vẫn sớm hôm tảo tần nuôi dạy cho anh em tôi ăn học.
Phạm Duy tuy mồ côi cha nhưng còn
có mẹ. Mẹ của Duy cũng giống như hầu hết các bà mẹ Việt Nam trong xã hội Hà Nội
trí thức tiểu tư sản, đã khéo xoay xở để nuôi anh em Phạm Duy khôn lớn.
Trong gia đình tôi không có ai
theo đạo Phật, nhưng cạnh nhà tôi có ông thầy cúng. Mỗi lần ông dạy học trò là
tôi đứng ngoài học lóm. Chính vì vậy mà tôi thích tụng niệm kinh Phật. 5 tuổi
mà tôi đã đọc Chú Vãng Sanh rất làu. Đến nỗi cả xóm mỗi khi ai có phận sự cắt
cổ gà để đãi khách thì đều phải nhờ cậu bé Khê đến đọc Chú Vãng Sanh để cho con
gà được đầu thai. Tôi cũng thuộc kinh A Di Đà và sau thì thuộc tới Bát Nhã Ba
La Mật Đa tâm kinh. Ngoài ra, tôi còn bắt chước thầy cúng tán “ly bà ly bà đế...” mà không hiểu lời
chi cả.
Thật là một sự trùng hợp hy hữu!
Duy lại được mẹ dạy tụng những câu kinh Phật như: ”…Lư hương xạ nhiệt, pháp giới mông vân, chư Phật hải hội...”.
Duy cũng thuộc kinh rất nhiều. Duy thuộc cả kinh Dược Sư, đọc vanh vách cũng
như tôi đọc “ly bà ly bà đế...”, mà
không hiểu chữ nào! Duy chỉ đọc thuộc theo bản tánh tự nhiên của con trẻ do có
được sự ảnh hưởng Phật giáo ngay lúc nhỏ từ người mẹ của mình. Trong hồi ký,
Duy đã kể lại, tuy không giàu có để có thể luôn luôn mua đồ chơi hay may quần
áo mới cho các con, nhưng mẹ Duy đã biểu lộ tình yêu thương bằng cách luôn cho
Duy đi theo mẹ trong bất cứ một cuộc lễ xa gần nào. Nhờ đi lễ ở nhiều đền chùa
nổi danh miền Bắc, nhìn thấy cảnh đẹp của những ngôi chùa cổ làm cho Duy muốn
trở thành một con người hiếu đạo.
Tôi và Duy đều là những đứa trẻ
có sự ham thích âm nhạc, văn chương một cách đặc biệt. Vốn sanh ra trong một
gia đình âm nhạc tài tử truyền thống, tôi đã có được một năng khiếu về nhạc
ngay từ nhỏ. Nghe người lớn đờn mà tôi có thể tự mò trên cây đờn kìm nhiều bản
dễ như Lưu Thủy, Bình Bán, Kim Tiền... Tôi không được học chánh thức với một
người thầy nào hết, nhưng may mắn được nhiều người chỉ giáo. Chỉ riêng cậu Năm
Khương đã dạy tôi đờn bài Ngũ Đối Hạ trên cây đờn cò lúc 8 tuổi và cô Ba tôi
dạy tôi bản đờn tranh Nam Xuân nhịp tư lúc tôi lên 12. Anh Ba Thuận - con cậu
Năm là người gần gũi tôi nhứt và hay hòa đờn với tôi. Chính anh là người đầu
tiên dạy tôi đờn bản Vọng cổ nhịp 8 trên cây đờn kìm.
Riêng Duy, do được sanh ra trong
một gia đình có bố là văn sĩ, các anh em ruột cũng như anh em họ đều có máu văn
chương, đến khi bố mất lại được các bạn văn chương của bố chăm sóc việc học
tập, cho nên ngay từ nhỏ, Duy đã có một sự nhạy bén với văn chương và thi ca.
Tôi không ngờ rằng Duy lại có một người anh họ rất nổi tiếng là Ôn Như Nguyễn
Văn Ngọc, tác giả 2 cuốn “Tục ngữ phong dao” và “Cổ học tinh hoa” là cuốn sách gối đầu giường của tôi hồi học
tiểu học.
Ngay khi còn nhỏ, Duy đã bộc lộ
tánh cách rất “bạt mạng” và ưa phiêu lưu đây đó, như đám mây “Mộng Vân” thuở
nhỏ mẹ Duy nằm mơ thấy. Phạm Duy đã từng bỏ nhà theo một anh làm trò “quỷ
thuật” sau khi bị mê hoặc bởi cuốn tiểu thuyết Vô gia đình (Sans Famille) của nhà văn Pháp Hector Malot. Cũng thật
trùng hợp với tuổi thơ “bỏ nhà đi giang hồ” của Duy, tôi cũng có lần
“quên về nhà” vì đi coi những trò ảo thuật của gánh hát Mai Thành Cát, đặc biệt
rất say mê tiếng ngâm sa mạc của một người nghệ sĩ trẻ tuổi tên Sáu. Tôi vốn
sanh trong gia đình âm nhạc, lại ưa nghệ thuật, nên khi nghe anh Sáu ngâm thì
cảm thấy rất xúc động. Vãn hát đêm đó, tôi không về nhà mà ở lại ghe hát gặp
anh Sáu. Hai anh em trò chuyện với nhau tới sáng, không muốn rời nhau. Ông Mai
Thành Cát nhân thấy sự thân thiết của chúng tôi nên muốn xin cô tôi cho tôi đi
theo gánh hát của ông để ông truyền nghề. Cô tôi không đồng ý, lại còn rầy tôi
về tội đi coi hát mà không nhớ giờ về nhà.
Cuộc sống tuổi thơ của Duy gắn
liền mật thiết với Hồ Gươm đầy thi vị. Trong tâm tưởng của Phạm Duy, Hồ Gươm là
một nơi thơ mộng, như “con mắt buồn bã của người tình”, như một “hồn ma người
đẹp” trong truyện Liêu Trai với mỗi buổi chiều mùa lạnh sương mù tỏa xuống mặt
hồ. Duy thấy được những hoàn cảnh thực tế của nước hồ xanh đục lặng lẽ, những
xác người treo cổ trên cây đa bên bờ hay trầm mình xuống nước hồ... qua đôi mắt
trẻ con lúc nào cũng hừng hực nỗi... hiếu kỳ! Và Duy cũng đã chứng kiến những
môi hôn ngọt từ các cặp tình nhân trên cầu Thê Húc dẫn lối vào đền Ngọc Sơn.
Ngay cả con sông Hồng, nơi mà Duy hay chạy chơi trên bãi cát rộng vào mùa nước
cạn, hoặc đứng coi mọi người trong khu phố phấp phỏng ngồi canh mực nước đề
phòng lũ lụt vào mùa nước lũ, đã gắn bó không biết bao nhiêu cái tình thơ dại
của Duy với cảnh vật nơi đây.
Tôi không có được Hồ Gươm đầy thi
vị và sông Hồng rộn ràng khi nước cạn, lúc nước lũ như Duy, nhưng tôi được sống
trong nông trại của cậu Năm tôi, mắt luôn nhìn những thửa ruộng xanh cò bay
thẳng cánh, vào mùa cấy thì được nghe những câu hò điệu lý của những đoàn công
cấy. Tôi cũng rất thương con sông Sầm Giang chảy qua trước nhà tôi tại Chợ
Giữa, thích chèo đò ngang và tắm lội trong dòng sông Sầm Giang “rì rào dừa nước hai bên” (trong một câu
thơ mà Xuân Diệu viết tặng tôi nhân dịp nghe đờn ca tài tử trên sông). Đêm đêm,
vang tiếng hò đối đáp trên sông! Nơi này đã gắn liền với tôi rất nhiều kỷ niệm
thân yêu, mộc mạc. Sầm Giang là con sông nối liền hai làng Vĩnh Kim Đông và
Vĩnh Kim Tây, mà Chợ Giữa thuộc Vĩnh Kim Đông, cho nên những người ở Vĩnh Kim
Tây mỗi sáng đều đi đò ngang sang Vĩnh Kim Đông để họp chợ. Vì thế mà tôi rất
thích thay anh lái đò để chèo những chuyến đò ngang chở người lại qua. Trên
những chuyến đò đó, tôi từng nhiều lần được thấy hình ảnh người mẹ đi chợ về,
trên bờ đứa con ngồi chờ mẹ, rồi khi người mẹ đưa chiếc bánh phồng cho đứa con
thì đứa nhỏ chạy lại ôm mẹ thật chặt, trong ánh mắt hiện lên niềm quấn quýt
thương yêu rất xúc động và đậm đà tình mẫu tử. Qua những chuyến đò ngang ngày
ấy, tôi đã làm một sợi dây nối kết đưa người mẹ về với con, và có lần tôi có
dịp cứu 2 đứa trẻ sắp chết đuối.
Tôi cũng đã có dịp ghi lại những
cảm xúc đó trong bài thơ “Vịnh cây chèo”, một bài tập trong lớp dạy văn và chữ
Hán cho cấp tiểu học ở Trường Tam Bình (Vĩnh Long) của thầy Thượng Tân Thị -
một thi nhân đã sáng tác 10 bài “Khuê phụ thán”, lúc tôi 13 tuổi:
“Một mình làm chúa giữa dòng sông
Bát cạy ngược xuôi tiếng đập đùng Quyết chí đưa người qua bể khổ Hết lòng cứu kẻ thoát trầm luân”
Duy cũng biết làm thơ từ lúc nhỏ,
lại được những nhà văn lớn như Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh chăm lo từ bé,
nên chất văn chương bén rễ dần trong Duy là lẽ tự nhiên. Bài thơ đầu tiên của
Duy phóng khoáng, nghịch ngợm mang đầy dấu ấn của tuổi thơ:
“Nhà tôi ở phố hàng Dầu
Số nhà 54, đứng đầu du côn”
Từ nhỏ đã có phong cách phóng
túng, không chịu gò bó, thơ văn tự do nghịch ngợm, nhưng chất thơ trong người
Duy rất dồi dào, về sau trong những bài hát do Duy sáng tác luôn luôn đầy thi
vị.
Trong gia đình bên ngoại Phạm Duy
có người họ Lưu, dòng dõi Lưu Vĩnh Phúc, bị Pháp gọi là “giặc”. Trong hồi ký,
Duy viết: “Thế ra trong tôi có dòng máu
nổi loạn à? Người Pháp gọi Lưu Vĩnh
Phúc là giặc - Giặc Cờ Đen - nhưng đối với tôi, ông là người làm Cách Mạng”... Duy đã sớm nhận ra được những nỗi thống khổ
của dân mình do thực dân Pháp gây nên, và tự nhận thức được những gì mà
ông Duy làm không phải là việc làm của một kẻ “nổi loạn” chống lại luật pháp
của kẻ mang quân đi đánh chiếm quê hương mình. Cái “nổi loạn” của người ông bên
ngoại Duy là nổi loạn để làm cách mạng, để thoát khỏi cái ách gông xiềng, thuộc
địa. Và cũng thật ngẫu nhiên, Duy cũng tình cờ được tiếp xúc với những nhà cách
mạng yêu nước qua những bài hát tuyên truyền thời đó. Duy cảm thấy thích những
bài hát này và những hành động cách mạng của các vị tiền bối đã khiến Duy xúc
động, vì Duy tận mắt mục kích được hành động của những người anh hùng bằng
xương bằng thịt ngay chính trên đất nước này chớ không phải nơi nào xa vời.
Và thật lạ, tôi cũng có cơ hội
sớm tiếp xúc với những nhà cách mạng bằng xương bằng thịt ngay trên quê hương
như Duy, nhưng không phải do tình cờ mà do họ là những người cùng tổ chức với
mẹ tôi. Mẹ tôi là một người sớm gia nhập “Thanh Niên Cách mạng đồng chí hội”,
tiền thân của Đảng Cộng sản và trong lúc tôi còn nhỏ đã giới thiệu với tôi
những người bạn đồng hành, toàn là những người xả thân vì nước.
Tôi được những người cách mạng cùng
tổ chức với mẹ cho nghe những bài hát như “Ơi hỡi đồng bào”, mà lạ thay Phạm Duy cũng tình cờ biết được
bản đó. Tôi cũng được tiếp cận với một số bài do những nhà cách mạng
phỏng theo làn điệu dân ca Pháp mà đặt lời Việt để nhắc nhở dân tộc Việt Nam là
một dân tộc bị mất nước, bị trị. Thuở đó, tôi thường hát đi hát lại:
“Ơi hỡi đồng bào, ơi hỡi đồng bào!
Mau tỉnh dậy! Mau tỉnh dậy! Nước mất! Nước đã mất rồi! Dân lầm than! Dân lầm than!”
Bài ca lời Việt phỏng theo bài
dân ca Pháp “Frère Jacques” (Thầy dòng
tên Jacques) thì tại Hà Nội, Phạm Duy cũng đã nghe bài ấy:
“Hỡi hỡi đồng bào! Hỡi hỡi đồng bào!
Tỉnh dậy mau! Tỉnh dậy mau! Nước ta đã mất rồi Mau tỉnh mau, mau tỉnh mau!”
Ngày còn thơ ấu, tôi học trường
tiểu học tại Tam Bình - Vĩnh Long. Tôi rất thích môn Récitation (trả bài học
thuộc lòng bằng tiếng Pháp) và được thầy dạy cho cách đọc ngụ ngôn của La
Fontaine (Le Loup et L’agneau), vừa đọc vừa ra bộ, diễn xuất làm con chó sói và
con trừu (cừu). Cách học đó thật thích hợp với tánh ưa biểu diễn của tôi.
Còn Duy học trường tiểu học tại
Hàng Vôi - Hà Nội. Duy cũng rất thích Récitation, được thầy dạy đọc, dạy diễn
xuất người sĩ quan và người lính bị thương trong bài “Après la bataille” (Sau
trận đánh) của Victor Hugo.
Trong thời kỳ tiểu học, tôi rất
thích những bài học về sử ký hay luân lý mà hát lên theo điệu đờn ca tài tử, có
khi bằng cả tiếng Pháp: “Mes chers enfants” theo điệu Hành Vân. Phạm Duy cũng
thích y một bài đó bằng tiếng Pháp.
Cùng một bài Bình Bán Vắn mà tôi
học 2 bài tiếng Việt:
“Liu tồn liu xáng u
Xáng trên đầu ba bốn cục u…”
Và tiếng Pháp:
“Il était une fois…
Une jeune fille appelée Jeanne d’Arc Son père était Jacques d’Arc Sa mère Isabelle Rosner”
(Ngày xửa, ngày xưa,
Có người thiếu nữ tên là Jeanne d’Arc Cha tên là Jacques d’Arc Mẹ là Isabelle Rosner)
Cũng giai điệu bài Bình Bán, Phạm
Duy học lời ca khác:
“Tôi chờ cô tối qua
Đến bây giờ chẳng thấy cô qua…”
Mặc dầu không được học hết trung
học vì bị người anh bắt chuyển sang học nghề, nhưng Duy vẫn rất ham học hỏi,
rất thích tiếng Pháp và đặc biệt rất thích đọc sách. Nhờ trong nhà có người anh
là Phạm Duy Khiêm rất giỏi về Pháp văn (ông là Thạc sĩ văn chương Pháp), lại có
một tủ sách nên Duy thường hay lén đọc và đã làm quen với những nhân vật trong
nhiều bộ tiểu thuyết bằng tiếng Pháp của các tác gia nổi tiếng.
Ở trong Nam, tại làng tôi có một
người tự học tiếng Pháp và có một tủ sách riêng, tên là Trần Năng Thận, tôi hay
gọi là bác Sáu Thận. Bác không cho ai mượn sách cả vì sợ bị người khác làm hư.
Nhưng khi thấy tôi cẩn thận lúc đọc sách nên bác cho tôi thong thả muốn đọc bao
nhiêu cũng được. Do đó, tôi cũng đã biết đến nhiều nhân vật trong các cuốn tiểu
thuyết của những tác gia lớn giống như Phạm Duy. Đọc sách rồi, tôi thuật lại
cho cô và mấy em tôi nghe nội dung sách bằng tiếng Việt. Cô tôi không đọc được
tiếng Pháp mà vẫn biết rõ cốt truyện của tiểu thuyết Notre Dame de Paris của
Victor Hugo, trong đó, anh chàng gù lưng Quasimodo yêu nàng vũ nữ Esmeralda...
Ngoài ra, anh em chúng tôi còn ưa
thích cái việc đóng tuồng theo những nhân vật anh hùng hiệp sĩ, kiếm khách. Duy
thì ưa đóng tuồng theo phong cách kiếm hiệp, còn tôi thì thích đóng tuồng cải
lương. Tôi đã có thời kỳ mê đóng vai Tarzan - người hùng của rừng xanh, từng
cởi trần đánh đu trên cây da, hú lên những tiếng hú vang dội như Tarzan ở rừng
sâu. Còn Duy thì lại trở thành hiệp sĩ Zorro đeo mặt nạ, mang gươm đòi công lý.
Tôi thích xem bóng đá và cũng
từng tổ chức nhiều cuộc đấu bóng đá cho Hội Thể thao Trường Pétrus Ký, ra Hà
Nội luôn ủng hộ đội bóng đá của trường đại học bằng những hành khúc của Lưu Hữu
Phước. Chúng tôi hát bản “Marche des Étudiants” (Sinh viên hành khúc) mỗi khi quả bóng lọt vào lưới đối phương.
Duy cũng mê đá bóng kinh khủng,
luôn luôn theo dõi thành tích của Hội ÉCLAIR (Tia Sáng) vốn là hội bóng nhà,
trụ sở ở ngay phố Hàng Tre. Mê đến độ nhớ tên các cầu thủ theo thứ tự ra quân,
như nhớ một bài thơ không có vận:
Ty, (thủ môn) Tâm, Biềng (hậu vệ)
Mao, Tâm, Thịnh (trung phong) Phao, Mai, Hựu, Trọng, Tín (tiền đạo)
Hồi còn nhỏ, tôi rất ưa xem
xi-nê, thích nhất là cô đào Danielle Darieux. Duy cũng ưa xem xi-nê, mà thích
nhất là cô đào Anabella. Té ra hai em chúng tôi cũng có sở thích giống nhau: cả
hai nàng diễn viên mà hai anh em thích đều có đôi mắt xanh và mái tóc vàng.
Thật là mơ mộng!
Trong những trò giải trí của con
nít thời bấy giờ, tôi thích xem hát xiệc nhưng đồng thời cũng thích luôn trò ảo
thuật, thôi miên và rất mê gánh hát của Mai Thành Cát. Duy cũng ưa hát xiệc,
nhưng thích nhất những trò điều khiển thú dữ và mê gánh hát của Tạ Duy Hiển.
Và thêm nữa, hai tâm hồn lãng mạn
cũng từng thả hồn vào những con sóng xanh ngoài đại dương. Chúng tôi rất yêu
biển!
Hai anh em Duy và Khê đều mang
thân phận trẻ mồ côi. Người thì mồ côi cha, kẻ thì mồ côi mẹ, và sau này là mồ
côi luôn cả cha lẫn mẹ. Tuy nhiên, có cái may là hai đứa nhỏ vẫn được người
thân chăm sóc, dạy dỗ đàng hoàng, cho nên không có mặc cảm của một đứa trẻ mồ
côi, không bị hoàn cảnh hẩm hiu làm cho cảm thấy nhiều đau khổ, mà cả hai đều
tự tạo cho mình một cuộc đời của riêng mình, không chờ đợi sự che chở, dạy dỗ
của cha mẹ một cách tuyệt đối giống như bao bạn bè cùng trang lứa.
2. Bước chân thanh niên vào đời
Thuở đó, ca sĩ Tino Rossi được
người Việt tôn sùng. Những người nào thích ca sĩ này thì vào nhóm mang tên là
“Ái Tino”, nếu ai không thích thì vào nhóm “Ố Tino”. Trong Nam, tôi đứng về
những người “Ái Tino”, chẳng những thích nghe Tino Rossi biểu diễn mà chính tôi
cũng học thuộc và biểu diễn những bài do Tino giới thiệu qua dĩa hát, còn bắt
chước sắm luôn những trang phục y hệt như thần tượng. Tại Hà Nội, cũng có sự
kiện 2 phe như thế, Phạm Duy cũng ở trong nhóm Ái Tino nhưng Phạm Duy không chỉ
ưa Tino Rossi mà còn thích Albert Préjean và ca sĩ trào phúng Georges Milton.
Khi tôi chỉ huy dàn nhạc Schola
Club, bài đầu tiên dàn nhạc giới thiệu là bài “C’est à Capri” (Tại thành phố
Capri, nơi tôi đã gặp nàng). Trong
những bài Phạm Duy thích, Duy vẫn còn nhắc lại bài đó.
Lúc ở Pháp, tôi rất thích nữ ca
sĩ Juliette Greco, chuyên hát những bài theo chủ nghĩa hiện sinh với chất giọng
khàn khàn rất đẹp. Đồng thời, cũng có một nữ ca sĩ rất trẻ tên Nicole Louvier
mới xuất hiện, phong cách của Nicole là tự hát và tự đệm guitar. Cô lại biết
sáng tác những bài hát có giai điệu ngọt ngào, mang hơi hướng âm nhạc phương
Đông. Tôi hết sức thích phong cách của cô này, nên đã từng đề nghị sử dụng đờn
tranh để đệm đờn cho cô hát. Louvier rất thích nên đã có mời đài phát thanh
(Radio France) tới ghi âm lại những bài cô hát mà tôi đàn tranh để làm kỷ niệm,
nhưng cô nổi tiếng không bao lâu rồi giây phút huy hoàng ấy cũng thoáng qua.
Tôi không ngờ rằng Phạm Duy cũng
đã gặp ca sĩ đó và sáng tác lời Việt Nam cho những bài ca của cô. Lúc Phạm Duy
sang Pháp, Duy cũng thích 2 người ca sĩ đó nhứt: Juliette và Nicole. Nhưng Phạm
Duy có lẽ tiếp xúc với họ gần gũi hơn tôi, nên nhớ đến một điều rất thực là “cô
bé Nicole dễ thương mà hôi nách”! Phạm Duy lại còn đặt lời Việt cho bản “Qui me délivra” (Duy để tựa là “Ai sẽ giải thoát tôi?”) mà Nicole
tự sáng tác và hát.
Trong lãnh vực điện ảnh cũng vậy,
chúng tôi đều làm những việc giống nhau: viết phụ đề phim, lồng tiếng phim (từ
tiếng Pháp, Anh sang tiếng Việt) và cả việc đóng phim. Nhưng rồi sau khi có
được tiền thù lao rất hậu, tôi lại trở về soạn Luận án Tiến sĩ tại Đại học
Sorbonne. Mỗi ngày, tôi vẫn xếp hàng để ăn cơm tại quán ăn sinh viên cho đỡ
tốn. Đối với tôi, tham gia vào điện ảnh là để có một số tiền sanh sống mà làm
luận án Tiến sĩ, mặc dầu được nhiều hãng phim bên Anh mời sang đóng nhiều phim
khác, nhưng tôi từ chối. Phong cách đó cũng rất tài tử.
Ngược lại, Phạm Duy khi bước chân
vào điện ảnh cũng làm tất cả những công việc như tôi đã làm, nhưng với tư cách
là một nhân viên chuyên nghiệp của Trung tâm Điện ảnh Việt Nam. Phạm Duy đã có
lần làm cả đạo diễn cho nhiều phim. Trong thời gian 10 năm làm việc ở Trung tâm
Điện ảnh, với khởi đầu là việc viết truyện phim cho tới khi trở thành phó giám
đốc trung tâm, Phạm Duy đã thực hiện nhiều bộ phim giá trị về âm nhạc, kịch
nghệ Việt Nam, như phim về hát bội, các điệu hò và một thiên nghiên cứu về nhạc
Chăm.
Duy đã trải qua cuộc sống tại
nông thôn rất lâu, sống chan hòa với những người nông dân và cảnh vật miền quê,
lại hưởng được những mối tình thôn dã. Chính cuộc sống như thế đã giúp cho Duy
có thêm kinh nghiệm ở đời, vừa làm giàu thêm chất liệu cho sự sáng tác của Phạm
Duy sau này.
Tôi từ Sài Gòn ra Hà Nội từ năm
1941, sống cuộc đời sinh viên trường thuốc, không có cơ hội vui sống cảnh thiên
nhiên thôn dã, gặp gỡ những người nông dân như Phạm Duy. Những người tôi gặp gỡ
hầu hết là sinh viên trường đại học, nữ sinh Trường Đồng Khánh thuộc giới tiểu
tư sản, lại bắt đầu sống giữa những người thanh niên lúc đó đang theo một phong
trào mang tên là “vui vẻ, trẻ trung”, chỉ biết ăn mặc đẹp, tán gái thị thành,
khiêu vũ những đêm cuối tuần trong các vũ trường. Tôi cũng đã gặp nhiều thiếu
nữ Hà thành, nhiều cô rất đẹp và giỏi. Các cô đó quyết định rằng “phi đại học
bất thành phu phụ”, phải là người lên tới đại học thì các cô mới ưng. Nhưng tôi
không bao giờ bị các cô cám dỗ mà quên đi nhiệm vụ chính là học hành.
Cuối
năm 1944 - đầu 1945, sinh viên Hà Nội đã chứng kiến được những nạn nhân chết
đói bên lề đường nên khi trở về Nam sau phong trào xếp bút nghiên, tôi lập ra
một nhóm diễn hài kịch của Huỳnh Văn Tiểng và hát những bài tân nhạc của Lưu
Hữu Phước, đi khắp Hậu Giang tổ chức những đêm văn nghệ bán vé lấy tiền mua gạo
cứu đói. Chúng tôi rất được trí thức ở các tỉnh ủng hộ bằng cách bán vé, có
người lại mua vé cho các trường để học sinh đi xe miễn phí, cùng đi khắp nơi và
khi trở về Sài Gòn, chúng tôi có dịp diễn tại rạp hát Aristo, lúc đó nổi tiếng
là một rạp hát giới thiệu tân nhạc nhiều nhứt.
Cùng trong lúc đó, Phạm Duy không
còn tham gia gánh Đức Huy đang hát cho đài Pháp Á những bản tân nhạc 3 lần
trong một tuần. Nhưng khi biết được có nạn đói do người Pháp và người Nhựt
tranh chấp nhau, không cho chở gạo thừa thãi miền Nam ra miền Bắc đang thiếu
thốn nên gây ra một nạn đói rất khủng khiếp, Phạm Duy cũng lấy tiếng hát của
mình tham gia một nhóm thanh niên giới thiệu tân nhạc, có lần biểu diễn tại rạp
Aristo để lấy tiền mua gạo cứu đói. Chúng tôi không gặp nhau mà cùng có những
cách làm giống nhau ở chỗ đem tài nghệ của mình để phục vụ đồng bào trong lúc
khó khăn.
Năm 1947, tôi bị bắt nhốt vào
khám Catinat vì bị nghi là Việt Minh tại thành. Nhưng sau 3 tuần lễ, nhờ sự can
thiệp của một vài người quen, đồng thời Ban kháng chiến tại thành đã lo lót cho
một số mật thám, nên tôi được thả ra.
Trong khám, tôi được 3 phe ủng
hộ: phe kháng chiến cùng tôi chia sẻ những viên đường từ bên ngoài tiếp tế vào;
phe nhóm những người Quảng Đông (bị nhốt vì làm giấy thông hành giả cho Việt
Minh) thích tôi vì đã thuật lại những chuyện vui cho nhóm này nghe, và phía du
côn chiếm cả khu cầu tiêu là khu rộng rãi nhất do mùi hôi thúi cho nên không ai
chịu nằm gần đó. Trong số những người tù nhân du côn đó, có một anh trước kia
giúp việc cho người bà con của tôi, mà là “sếp sòng” đám này, gọi tôi bằng “cậu
Hai” nên không ai dám làm gì tôi hết. Tại đó, các anh em tù nhân lại đục một
ống nước để cho nước nhỏ giọt, lấy nước đó rửa mặt hoặc hứng vào lon để dành
xối vào người khi nóng bức.
Năm 1951, Phạm Duy cũng bị bắt và
nhốt vào khám Catinat cùng một lúc với Lê Thương và Trần Văn Trạch, nhưng bốn
tháng sau mới được thả ra. Trong khám, Duy gặp một người từng có tiền sự vào tù
ra khám, hiện đang bị nhốt vào Catinat để chờ ngày bị đưa ra Côn Đảo nên được
tù nhân gọi là “ngục vương”. Ông này có cảm tình với Duy nên cho Duy dựa lưng
vào một bức tường gần cầu tiêu để ngủ. Ở tù mà hai anh em chúng tôi cũng được
người ta thương mến, thật là khó có trường hợp nào giống nhau đến vậy!
Tôi thích làm văn nghệ hơn làm
chánh trị. Với tánh cách của tôi, tôi thấy trong chánh trị phần nhiều phải nói
tiếng nói của lý trí. Một khi tiếng nói của lý trí đã lấn át rồi thì tiêu diệt
cả tình cảm. Còn lý trí của tôi thì phải có đường cho tình cảm thoát ra, lý trí
chỉ được sử dụng như một phương tiện để kiểm tra tình cảm đừng đi quá đà mà
thôi.
Đời tôi không muốn cầm súng bắn
ai, mà cũng không muốn ai cầm súng bắn mình, cho nên khi trình bày với cấp lãnh
đạo kháng chiến, tôi đã xin phép để được làm những công việc hậu phương như làm
công việc cứu thương trong bệnh viện, hay làm trong dàn nhạc... Khi nghe những
lời trình bày của tôi, những người có trách nhiệm trong Ủy ban kháng chiến với
một tinh thần cởi mở đã chấp nhận quan điểm của tôi, bổ nhiệm tôi làm Nhạc
trưởng quân đội Nam bộ, với cấp Đại đội trưởng, được quyền lưu thông khắp Nam
bộ và sung công những nhạc cụ, nhạc khí, kể cả nhạc sĩ nào cần thiết. Tôi đi
kháng chiến với lý tưởng của một người thanh niên yêu nước và làm việc theo khả
năng có thể của mình để giúp cho đất nước.
Phạm Duy cũng vậy, càng đi sâu,
càng biết nhiều chuyện trong chánh trường, Duy càng thấy những mâu thuẫn giữa
các đảng phái, đến nỗi Duy cho rằng đó không là những gì lạ lẫm nữa. Bản thân
Duy cũng cảm thấy rằng mình không phù hợp với việc làm chánh trị. Nói như vậy,
nhưng không phải lúc đất nước lâm cảnh khốn cùng mà Duy bỏ mặc làm ngơ. Duy
cũng đi kháng chiến cứu nước, dấn thân không kém những người chiến sĩ khác.
Trên con đường dấn thân kháng chiến đó, Duy đã nhiều lần nhìn thấy những cảnh
thực xảy ra trước mắt mình chứ không phải chỉ là những điều do chính Duy tưởng
tượng. Duy đã trải nghiệm, đã kinh qua những xúc cảm theo thời cuộc trên con
đường chiến đấu vì lòng yêu nước của mình. Trong những bài hát của mình, Duy đã
đem những hình ảnh thực tế đó vào mà bày tỏ tinh thần yêu nước, yêu dân tộc và
đặc biệt là tinh thần hòa giải. Duy chẳng những thông cảm với người chiến sĩ vì
nước xả thân trên mặt trận mà còn ca ngợi những chiến công của họ trên chiến
trường, chẳng những hát về những người lính ngoài tiền tuyến, ca ngợi tính
chiến đấu mà vẫn không quên những người nơi hậu phương đã âm thầm giúp đỡ tinh
thần, vật chất cho người chiến sĩ yên tâm cầm súng ra trận, không quên những
nỗi đau khổ, nhớ thương của người vợ ngày ngày ngóng tin chồng, người con đợi
cha về, người mẹ lo lắng cho đứa con đang đi đánh giặc ngoài xa...
Cũng như tôi, Duy là người yêu
văn nghệ. Duy sống cho con đường nghệ thuật của mình hoàn toàn, đặt cả tâm
huyết ở đó. Cả đời này, vì nghệ thuật mà Duy đã cống hiến trọn vẹn cả tình cảm
lẫn tài hoa.
3) Phạm Duy trong mắt tôi
Đối với tôi, Phạm Duy là một
người nhạc sĩ toàn diện về mọi mặt (toàn diện theo nghĩa đầy đủ nhất của hai từ
“nhạc sĩ”). Duy có những khả năng rất đặc biệt trong âm nhạc mà không phải bất
kỳ người nhạc sĩ nào cũng có thể hội tụ đầy đủ, và sự cảm thụ âm nhạc nghệ
thuật của Duy cũng mang tánh cách rất riêng, rất “Phạm Duy”, nhưng cái riêng đó
không hề lạc ra khỏi cái gốc rễ tình cảm chung của người Việt Nam.
Duy đã làm những cuộc phiêu lưu
“chiêu hồn nhạc” hết sức đậm đà, huyền diệu, đầy thơ mộng mà cũng đa dạng và
phong phú vô cùng! Duy “chiêu” được “hồn” ông thần Nhạc và thành công trong
nhiều thể loại, có lẽ bản thân ông thần Âm nhạc cũng “mê” lối “chiêu hồn” của
Duy rồi chăng? Thành công - đối với Duy mà nói - không phải chỉ sớm nở tối tàn,
mà phải nói rằng những nhạc phẩm đó đã và vẫn mang nhiều giá trị về ngôn ngữ âm
nhạc lẫn ca từ, không lẫn với bất cứ ai, đặc biệt là những nhạc phẩm ấy sống
mãi trong lòng người Việt say mê âm nhạc, nghệ thuật. Có những thể loại nhạc
đối với người nhạc sĩ này là sở trường, nhưng với người khác nó lại không phải
là thế mạnh. Còn Duy có thể làm cho những thể loại âm nhạc khác nhau “chịu” đi
theo mình, nghe lời mình uốn nắn và đưa vào tâm hồn tình cảm của Duy. Duy viết
tình ca đi vào lòng người bao thế hệ, viết hành khúc sôi nổi một thời cũng làm
cho thính giả khó quên, hay viết trường ca, tổ khúc... cũng làm lay động con
tim âm nhạc của bao người. Những thể loại Duy làm ra đều được sự tán thưởng của
giới mộ điệu âm nhạc, lấy được nhiều tình cảm từ công chúng. Điều đó không hề
dễ có đối với một tác giả. Nó tồn tại cho tới bây giờ cũng đủ để thấy giá trị
âm nhạc Phạm Duy mang một dấu ấn khó phai trong dòng chảy âm nhạc Việt, và hạnh
phúc hiếm có nhất: vẫn vững chãi trước ba đào thời gian.
Duy không chỉ sáng tác được nét
nhạc hay bằng khả năng cảm nhạc thiên bẩm, mà còn có thể tự mình đặt lời nhạc
rất đẹp, rất thi vị, mang đậm tâm hồn, tư tưởng của người Việt Nam. Đó không
phải là khả năng tự có một sớm một chiều, mà do sự quan sát, học hỏi, rèn luyện
của Duy, cộng thêm cái khiếu cảm nhận tinh tế trong đời sống hằng ngày, trong
những cuộc “phiêu lưu” đó đây, rong ruổi khắp bốn phương trời từ Đông sang Tây,
để góp nhặt từng câu chuyện từ chính mình, góp nhặt những câu chuyện của quê
hương, dân tộc, phận người... mà dệt nên những lời tình tự xứng đáng được lưu
vào trang nhạc sử Việt.
Bên cạnh một con người Phạm Duy -
nhạc sĩ sáng tác, bản thân Duy còn là sự hóa thân của rất nhiều những con người
khác mang những khía cạnh khác mà không phải ai cũng có thể nhìn nhận thấy rõ
ràng, đầy đủ. Thuở còn trai trẻ, cậu thanh niên Phạm Duy (hay ta phải gọi bằng
cái tên Mộng Vân - áng mây mộng ước - do chính cậu tự đặt ra cho mình?) đã từng
là một kẻ du ca rong chơi năm tháng trên nhạc lộ thênh thang cùng với sức trẻ
yêu đời, lao vào đời bằng quả tim rực cháy tuổi thanh xuân. Và dẫu cho có bao
nhiêu năm qua đi nữa, Duy vẫn là một người ca sĩ tài hoa thực thụ, một ca sĩ chuyên
nghiệp rất danh tiếng thuở trước tại Đài Pháp Á, một ca sĩ tiên phong trong
phong trào đưa nhạc mới lên hát giữa các màn chuyển cảnh trên sân khấu gánh hát
cải lương Đức Huy - Charlot Miều... Trong những chương trình âm nhạc, những
buổi biểu diễn văn nghệ trong nước hay tại nước ngoài, “ca sĩ” Phạm Duy luôn
làm cho người khác thấy được cái tài biểu diễn ca hát thiên bẩm, khi tự mình
hát lên những sáng tác của mình một cách sống động nhứt. Một người nhạc sĩ có
đầy nội lực hút hồn người khi ôm đàn say sưa hát những bài ca với chất giọng
truyền cảm của một ca sĩ. Chính Duy đã làm được điều lạ thường đó và cho tới
ngày nay, Duy vẫn là kẻ du ca hát lên những lời ca đẹp và thơ, được nhiều thế
hệ thuộc lòng mỗi khi Duy đem tác phẩm âm nhạc của mình giới thiệu trên sân
khấu cả nước.
Ngoài tài sáng tác không thể phủ
nhận, tài ca hát thu hút, Duy khiến cho người khác không khỏi say mê lạc bước
vào giọng nói trầm ấm, duyên dáng, thi vị của chất giọng Hà Nội thanh lịch khi
Duy dẫn dắt câu chuyện âm nhạc của chính mình. Trời phú cho Duy sự đa năng
trong nghề nghiệp, trong dòng máu nghệ sĩ vốn đã tài tình. Nếu nép sau tấm màn
sân khấu là người nhạc sĩ, đứng trên sân khấu biểu diễn với phong cách một ca
sĩ, thì Duy cũng đầy phong thái duyên dáng khi thực hiện vai trò người dẫn
chương trình. Thật là một kỳ tài! Duyên ăn nói của Duy không thua kém những nhà
văn thuyết trình trước công chúng, đôi khi lại có phần hấp dẫn hơn vì trong
chất văn chương còn thấm nhuần hơi nhạc. Nghe Duy kể từng kỷ niệm, trải từng
cung bậc cảm xúc trong lúc giới thiệu âm nhạc có khi còn thích thú hơn là đọc
một tập khảo cứu về những nhạc phẩm này.
Trước khi sang Pháp để tiếp cận
với Âm nhạc học (học tại lớp dạy Âm nhạc học của thầy Jacques Chailley năm
1954) thì Phạm Duy đã là một nhà “Dân tộc Âm nhạc học” hẳn hòi rồi! Ở Việt Nam,
Duy đã tự mình ghi âm, ghi hình, sắp loại các bài Dân ca và các bài Lý, những
câu Hò ở nông thôn Việt Nam... và tự ký âm các bài nhạc đó. Duy đã có cách nhìn
rất khoa học trong việc phân loại, sắp xếp và ghi chép những vấn đề liên quan
trong khi tìm hiểu về Dân ca, Dân nhạc Việt Nam. Việc làm của Phạm Duy lúc đó
cho ta thấy rằng Phạm Duy có phong cách của một người nghiên cứu Dân tộc Nhạc
học, có đầu óc tìm tòi và làm việc chuyên nghiệp không thua kém gì những nhà
nghiên cứu thực thụ.
Ngoài việc sưu tầm và nghiên cứu
Dân ca lúc đầu, sau này trong những chuyến đi xuyên Việt, Phạm Duy lại có dịp
tiếp cận với nhiều bộ môn âm nhạc khác như: Ca Huế, Đờn Ca Tài Tử, các điệu Hát
Lý, điệu Hò của Trung, Nam bộ, và đặc biệt hơn nữa là thể loại Âm nhạc Dân tộc
thiểu số ít ai chú ý tới... Mỗi lần tiếp cận là mỗi lần Duy ghi chép rất kỹ
lưỡng, sâu sắc để sau này có dịp cho ra đời cuốn “Đặc khảo về Dân ca Việt
Nam” mà khi được đọc, tôi đã rất
ngạc nhiên; đồng thời, cũng thán phục tinh thần nghiên cứu của bạn mình.
Duy theo dõi nhiều và đi sát phong trào nhạc mới từ lúc khởi thủy cho đến những
giai đoạn phát triển ra nhiều trào lưu. Duy cũng có được những điều kiện thuận
lợi khi quen biết với những bạn bè, các bậc tiền bối văn nghệ sĩ, nhất là giới
nhạc sĩ và từng nhiều lần trao đổi, trò chuyện với họ, biết được từng thời điểm
ai làm gì, sáng tác như thế nào... Đó là một lợi thế của người nhạc sĩ có óc
nghiên cứu và phân tách tài tình từ trong máu như Duy. Từ những lợi thế như
vậy, mỗi nhạc phẩm của Duy đưa ra đều mang tánh cách thời sự, gắn liền với từng
sự kiện xảy ra trong đất nước: thời bình, thời chiến, thắng trận, thất bại, thế
thời đổi thay... và không thiếu những hình ảnh rất chân thật, sống động ở những
nơi mà dấu chân Duy đã đi qua, in lại trong ký ức một cách sâu sắc rồi trở
thành những hình tượng nghệ thuật đặc biệt trong âm nhạc. Tôi cho rằng trong
con người Duy, không những có sức khám phá của một nhà khoa học mà còn hội đủ
các yếu tố cần có nơi một nhà nghiên cứu, một sử gia, một nhà xã hội học, một
văn nhân biết ghi lại quá trình làm việc và suy tư của mình.
Bên cạnh những Phạm Duy nghệ sĩ
và Phạm Duy tài tình trong nghiên cứu, cũng ít ai để ý tới một Phạm Duy - nhà
kinh doanh, nhà sản xuất âm nhạc cực kỳ nhạy bén, mát tay. Duy tự mở studio
riêng cho mình, đi tiên phong trong việc dùng kỹ thuật hiện đại để phục vụ cho
công việc sáng tạo nghệ thuật. Xem có vẻ như Duy luôn muốn thử thách mình ở mọi
lãnh vực, hệt như cái bản tánh hiếu kỳ ưa thích tìm hiểu mà ông Trời ban cho.
Mà thật lạ, lãnh vực nào Duy cũng làm rất tốt và thành công. Óc khám phá không
bao giờ để Duy ngồi yên. Duy tự tay thâu âm băng dĩa nhạc, sử dụng tài tình máy
vi tính, tự thiết kế và phát hành sản phẩm âm nhạc của mình, theo rất sát công
nghệ hiện đại không thua kém chi việc theo sát phong trào âm nhạc khắp nơi.
Đồng thời, có thể coi Duy giống như người làm quảng cáo tài năng khi chính bản
thân Duy tự đi giới thiệu sản phẩm của mình đến với công chúng... Với bấy nhiêu
công việc làm đó cũng đủ thấy Duy là một người đa tài, bản lãnh.
Duy mặc dầu Trời sanh có tánh
ngang tàng, nhưng cũng là người hiểu tôn ti trật tự khi vẫn biết nghe lời người
anh của mình là Phạm Duy Khiêm. Trong lúc đang ưa thích học về văn hóa và học
rất giỏi mà phải bỏ để vào một trường học nghề (bá nghệ) theo sự quyết định của
người anh, dầu có đắn đo hay không thỏa mãn, nhưng Duy vẫn nghe theo lời anh
của mình. Suốt cuộc đời, đứa con Phạm Duy lúc nào cũng nghe theo lời của mẹ,
vâng theo sự chỉ dạy, săn sóc, đảm nhiệm trông coi việc học tập từ những người
bạn của cha mình (các ông Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh). Duy cũng là người
con thương cha thương mẹ, thương anh em trong gia đình (nhắc về người anh Phạm
Duy Nhượng); nói rộng ra, trong xã hội thì Phạm Duy có cả tinh thần yêu thương
đất nước một cách sâu sắc đậm đà và không lay chuyển. Cho nên, trong mỗi trường
hợp, nhiều khi có những hành động mà người thường khó hiểu, cho rằng Phạm Duy
là người ham danh ham lợi, nhưng riêng tôi thì lại thấy rằng không có lúc nào
mà Phạm Duy không yêu nước Việt Nam. Phải thực sự yêu quê, yêu nước mới có thể
sáng tác ra những bài ca tuyệt đẹp cả nhạc lẫn lời và những bài hát đi sâu vào
tim của mỗi người Việt Nam ở các tầng lớp và mọi thế hệ trong xã hội.
Về cuộc sống của Duy, trong mắt
tôi, Duy là một người trọng gia đình, luôn nhớ đến vợ con của mình, luôn muốn
vợ chồng, con cái đều cùng chung sống dưới một mái nhà, dẫu cho trong đời Duy
đã từng là một kẻ “giang hồ phiêu bạt”. Khi tôi đến thăm vợ chồng Phạm Duy, thì
luôn thấy cảnh sum họp gia đình rất đầm ấm. Điều đó khiến cho tôi thêm phần quý
trọng người bạn thân của mình, và cho rằng nhờ cách ứng xử khéo léo trong,
ngoài của Duy mà có thể giữ được nếp nhà một cách thuần tuý Việt Nam như vậy.
Với các con, mặc dầu mỗi người đều có cá tánh riêng, đều ưa thích tự do phóng
túng như Duy, nhưng người cha chưa hề bó buộc con cái. Đối với bố, các cháu đều
có sự kính phục yêu thương.
Tại Mỹ, Duy còn lập phòng thu
riêng tại nhà và tự mình sản xuất băng đĩa, mọi việc đều do các con của Duy
đứng ra giúp bố thực hiện. Kể cả việc mua nhà cũng vậy. Khi tính đến việc mua
nhà thì cũng ít khi nghĩ phải ở xa nhau. Ít có gia đình nào tại Mỹ lại có cha
mẹ, con cái sống chung như gia đình Duy. Các con thì mỗi tháng mời cha mẹ và
anh em cùng ăn cơm chung với nhau tại những nhà hàng có thức ăn ngon, do mỗi
người đãi một lần. Dẫu Duy là người phóng túng nhưng vẫn giữ những nề nếp
truyền thống của người Việt Nam, giữ lại được những nét sinh hoạt của người
miền Bắc trên xứ sở tự do này. Duy khéo léo sắp xếp, ứng xử để gia đình có cuộc
sống như cuộc sống của những gia đình truyền thống Việt Nam. Ở nước Mỹ - nơi mà
người ta coi trọng quyền lợi và cuộc sống cá nhân, gia đình Phạm Duy là một gia
đình khó kiếm.
Có những lúc thăng trầm, Duy nhận
tiếng khen cũng nhiều mà lời lẽ chê bai cũng không phải ít. Nhưng Duy là người
biết phục thiện, biết nghe lời khen lẫn những tiếng chê, không bao giờ để trong
bụng sự hận thù. Tinh thần ấy thể hiện trong nhạc phẩm Mẹ Việt Nam:
“Mẹ Việt Nam không đòi xương máu
Mẹ Việt Nam kêu gọi thương nhau”
Vì những lẽ kể trên mà tôi đã gọi
Duy là một người nhạc sĩ toàn diện với tất cả ý nghĩa của danh từ đó. Suốt
chiều dài thời gian của dân tộc, Duy đã “khóc
cười theo mệnh nước nổi trôi”. Từng sự kiện xảy ra với quê hương, Duy đều
đi sát bên, đều cảm nhận bằng thứ tình cảm của một người con của dân
tộc, người cháu, người anh, người em của thế hệ mình.
Phạm Duy là con người muốn sống
tự do, không muốn sống theo quy luật, lề lối một cách áp đặt, bó buộc. Trên
đường chánh trị thì không có đảng phái. Về mặt tín ngưỡng thì không nghiêng về
phía tôn giáo nào. Duy sống theo con người của Duy, một con người tự do tự tại,
phóng túng và ngang tàng, nhưng cũng “thẳng” và “thật” đối với chính cuộc sống
của mình.
Một số người cho rằng Duy không
có lập trường chánh trị, nhưng họ chưa, hoặc không chịu nhìn vào cái tình yêu
nước thương nòi luôn sôi sục trong con người Duy. Duy là một người con có hiếu
với cha mẹ và có một lòng yêu nước theo quan điểm của mình. Từ trong những tác
phẩm âm nhạc, người ta đã thấy rõ tình yêu Việt Nam mà Duy hằng gieo vào lòng
bao người yêu nhạc qua những “tiếng nước
tôi”, qua những hình ảnh gần gũi quen thuộc gợi lên bao nhiêu kỷ niệm về
dân tộc và con người Việt Nam. Không chỉ hiện diện trên từng bản nhạc, lời ca,
phải có tình yêu thực sự bắt nguồn từ chính con tim nồng nàn yêu thương thực sự
mới khiến cho tình yêu đó vĩnh hằng cùng năm tháng. Duy luôn luôn yêu quê hương
mình, đó là sự thực, bất cứ khi nào và bất cứ ở đâu. Đối với Duy, lúc nào và ở
đâu cũng một lòng quý trọng tự do của đất nước, không bao giờ chấp nhận sự đô
hộ của ngoại bang. Nhưng Duy luôn tôn trọng lập trường của những người khác như
có lần Duy đã nói với tôi. Và mục đích cuộc đời của Duy chỉ là làm cách nào để
cho đất nước giàu mạnh hơn trong mọi mặt. Chính Duy đã hết lòng tham gia vào
văn hóa văn nghệ để làm giàu thêm cho lãnh vực này của dân tộc.
Trong cách ứng xử ở đời, Duy luôn
có một thái độ hòa giải và luôn mong rằng dân tộc Việt, dầu ở miền nào, đều coi
nhau như anh em ruột thịt “nhìn Trung Nam
Bắc xếp hàng mến nhau” (Tình ca) với tấm lòng rộng rãi bao la, yêu
thương và tha thứ (Mẹ Việt Nam - trong chương “Biển Mẹ”), chẳng bao giờ
muốn “đòi xương máu” mà chỉ “kêu gọi thương nhau” (Mẹ Việt Nam -
đoạn chót).
Thỉnh thoảng, trong những trường
hợp bất khả kháng về chánh trị, hoặc là những sự hấp dẫn nhứt thời về đời sống
vật chất, Duy có những sáng tác không phù hợp với bản chất của chính mình,
nhưng đó chỉ là vài trường hợp rất ít trong những giai đoạn rất ngắn so với
cuộc đời và gia tài sáng tác đồ sộ của Duy. Theo tôi, tuy Duy không phải là một
con người toàn thiện toàn mỹ, nhưng là một người đối với mình trước sau như
một, và phải nhìn nhận rằng, bạn của tôi là một người yêu quê hương đất nước!
Ước mong rằng Duy luôn có được
cuộc sống an nhiên tự tại, an bình với đời, với người và với mình, làm được
những việc Duy yêu thích mà thấy rằng cuộc đời vẫn đẹp, để “... khi đêm chết chưa về” thì “nắng
chiều hồng tươi hơn nắng trưa”.
Duy thương mến!
Khê vẫn còn nhớ lần đầu tiên nghe
Duy trình bày CD-ROM “Con đường cái quan”
do chính tay Duy tự làm trên đất Mỹ, không những với lời và nhạc đầy cảm xúc mà
còn nhìn thấy được những phong cảnh đẹp của quê hương Việt Nam, Khê đã ôm Duy
và khóc. Chúng ta có chung những tình cảm, những đồng điệu mà không phải ai
cũng có thể hiểu được tất cả. Duy ơi, chúng ta đã đến, đã đi và đã về, đã làm
và đã sống, đã yêu và đã mơ, đã thăng và đã trầm, đã cười và đã khóc... suốt
hai thế kỷ này. Mong rằng tình thân của chúng ta mãi vĩnh hằng, mãi đẹp như
những lời Khê từng chúc Duy, cũng như chúc cho anh em mình khi tròn cửu thập:
“Biết nhau quá tuổi đôi mươi
Hôm nay mừng bạn chín mươi tuổi rồi Mặc cho vật đổi sao dời Đến khi trăm tuổi còn ngồi bên nhau Đến khi trăm tuổi đẹp lời chúc nhau”
Sẽ “còn ngồi bên nhau”, phải
không Duy?
Bình
Thạnh, Sài Gòn,
mùa Đông Nhâm Thìn 2012 Trần Văn Khê (Theo Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay số báo 808 & 809 - http://kienthucngaynay.info , 31-01-2013) |
||||||||||||||||||||||||||||||||
mk
|
||||||||||||||||||||||||||||||||
IP Logged | ||||||||||||||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 06/Feb/2013 lúc 6:28pm | |||||||||||||||||||||||||||||||
Saturday, 2 February 2013Trần Văn Khê viết về Phạm Duy
*
Viết về Phạm Duy, bao người đã viết, lời đẹp
vô cùng, tình đầy bất tận... Nói về Phạm Duy, giờ sẽ nói gì? Nói gì đây cho
mình không đi quẩn quanh trong các lối đường xưa cũ tràn ngập hỷ, nộ, ái, ố...
mà Duy từng thấy, từng nghe?
Hai thế kỷ cho một kiếp người, quá đủ thăng trầm, quá nhiều rộn ràng,
biết bao nghi ngại... Vậy mà kẻ lữ hành trên nhạc lộ Phạm Duy vẫn cứ thong dong
đi hết miền trần thăm thẳm của riêng mình, yêu đời này, sống trọn vẹn đời này.
Nhìn Duy mãi là Duy, dẫu cho Duy là Duy của ngày cũ, Duy của ngày nay hay Duy
của ngày sau xa xôi đi nữa, tình thương đối với Duy ngày càng sâu đậm trong
tôi, tình bạn của hai anh em vĩnh viễn bền chặt trong nhau.
Đã quá 90 năm rồi, Phạm Duy và Trần Văn Khê vẫn cứ thân thiết đi cùng
nhau trên chuyến xe đời, vẫn ôm nhau khóc cười bao trận giữa nhân sinh. Để rồi
với những hạnh phúc, khổ đau từng nếm đó, tôi tìm ra trong cuộc đời hai anh em
những tương đồng kỳ lạ mà ít tình bạn thâm giao nào có thể có được. Hy hữu
chăng? Hay do ông Trời sắp xếp? Thôi thì để các bạn tự mình ngẫm nghĩ vậy...
1. Thời thơ ấu hồn nhiên
Chúng tôi chào đời trên dải đất
Việt Nam cùng trong năm Tân Dậu (1921) và cách nhau 3 tháng. Tôi sanh tại Tiền
Giang (miền Nam nước Việt) trong một gia đình bốn đời nhạc sĩ truyền thống, còn
Phạm Duy thì sanh tại Hà Nội (miền Bắc nước Việt) trong một gia đình văn nhân,
nghệ sĩ (có cha là cụ Phạm Duy Tốn - một nhà văn). Tôi tự hỏi không rõ số phận
đã sắp đặt như thế nào để hai anh em chúng tôi, tuy cách xa nhau về địa lý mà
lại có nhiều sự gần gũi trong cuộc sống đến như thế?
Thuở nhỏ, tôi đã được cậu Năm tôi
là ông Nguyễn Tri Khương đặc biệt thai giáo từ lúc còn trong bào thai. Đều đặn
mỗi ngày, cậu Năm đến thổi sáo cho thai nhi nghe. Lúc chào đời, tôi vừa được
nghe tiếng sáo của cậu Năm vừa được nghe thêm tiếng tỳ bà của ông nội. Cả một
thời thơ ấu của tôi được tắm nhuần trong âm nhạc truyền thống Việt Nam, giữa
một vùng đất đậm chất đờn ca tài tử. Chẳng biết Duy đã được thai giáo như thế
nào, nhưng nhìn thấy tánh cách của Duy, từ phong thái, tính tình đến lối sống,
tôi cảm thấy Duy đã được sống trong một không gian thật tự do, chan chứa niềm
mê say với thế giới tuổi thơ đầy thơ mộng của mình.
Môi trường sống nơi “thôn ổ”
(theo cách Duy nói) đã tạo cho bạn có được những trải nghiệm tuyệt vời khi còn
là một đứa trẻ. Duy là đứa trẻ ngây thơ, hồn nhiên, mà cũng có những lúc tinh
nghịch, hiếu kỳ đối với muôn chuyện lý thú xung quanh. Nhãn quan trẻ con của
Duy lúc bấy giờ có nhận thức khá rõ rệt về những gì xảy ra trong đời sống của
mình. Duy lại có trí nhớ rất tốt để ghi lại bao nhiêu câu chuyện ngày xưa, mà
khi tôi đọc lại hồi ký của bạn, có thể tưởng tượng thấy những hình ảnh ấy hiện
rõ mồn một trước mắt, như mình đang đi vào trong ký ức của Duy để viếng thăm
một thời đã qua của bạn, với những dòng chữ do tự tay Duy phác thảo và đánh
máy. Trí nhớ về tất cả quãng đời mà bạn đi qua đã ghi lại rất nhiều điều độc
đáo về chân dung của những con người bạn đã gặp, những thăng trầm của một xã
hội, những biến thiên của một giai đoạn lịch sử... Tuy không được thai giáo như
tôi, nhưng Duy đã được sống giữa phong khí văn chương, âm nhạc. Cha mẹ không
phải là nhạc sĩ, nhưng Duy có người dì chuyên hát ca trù và bản thân Duy đã sớm
tiếp cận với môn nghệ thuật tế nhị, sâu sắc của âm nhạc truyền thống Việt Nam.
Duy cũng có dịp nghe và thích ca nhạc Huế ngang qua tiếng đàn tranh của bà thầy
dạy hai người chị. Nhờ sống nơi làng quê, gặp gỡ với người nông dân nên Duy
cũng quen thuộc với dân ca từ nhỏ... Có gì thích thú cho bằng đứa trẻ được sống
thật vui tươi, nồng nàn tuổi xanh giữa thiên nhiên tự tại, ngấm vào máu xương
nét đẹp văn hóa dân tộc tự lúc nào mà không hay!
Tôi mồ côi cả cha và mẹ, nhưng có
người cô đã thay mặt cha mẹ dạy dỗ tôi từ bé, và tập cho tôi biết sống tự lực
cánh sinh. Tôi được nên người như hôm nay cũng do phần lớn ở công lao săn sóc,
dưỡng dục của cô Ba tôi – một người phụ nữ tài đức vẹn toàn. Sống trong cảnh
nghèo, người cô vẫn sớm hôm tảo tần nuôi dạy cho anh em tôi ăn học.
Phạm Duy tuy mồ côi cha nhưng còn
có mẹ. Mẹ của Duy cũng giống như hầu hết các bà mẹ Việt Nam trong xã hội Hà Nội
trí thức tiểu tư sản, đã khéo xoay xở để nuôi anh em Phạm Duy khôn lớn.
Trong gia đình tôi không có ai
theo đạo Phật, nhưng cạnh nhà tôi có ông thầy cúng. Mỗi lần ông dạy học trò là
tôi đứng ngoài học lóm. Chính vì vậy mà tôi thích tụng niệm kinh Phật. 5 tuổi
mà tôi đã đọc Chú Vãng Sanh rất làu. Đến nỗi cả xóm mỗi khi ai có phận sự cắt
cổ gà để đãi khách thì đều phải nhờ cậu bé Khê đến đọc Chú Vãng Sanh để cho con
gà được đầu thai. Tôi cũng thuộc kinh A Di Đà và sau thì thuộc tới Bát Nhã Ba
La Mật Đa tâm kinh. Ngoài ra, tôi còn bắt chước thầy cúng tán “ly bà ly bà đế...” mà không hiểu lời
chi cả.
Thật là một sự trùng hợp hy hữu!
Duy lại được mẹ dạy tụng những câu kinh Phật như: ”…Lư hương xạ nhiệt, pháp giới mông vân, chư Phật hải hội...”.
Duy cũng thuộc kinh rất nhiều. Duy thuộc cả kinh Dược Sư, đọc vanh vách cũng
như tôi đọc “ly bà ly bà đế...”, mà
không hiểu chữ nào! Duy chỉ đọc thuộc theo bản tánh tự nhiên của con trẻ do có
được sự ảnh hưởng Phật giáo ngay lúc nhỏ từ người mẹ của mình. Trong hồi ký,
Duy đã kể lại, tuy không giàu có để có thể luôn luôn mua đồ chơi hay may quần
áo mới cho các con, nhưng mẹ Duy đã biểu lộ tình yêu thương bằng cách luôn cho
Duy đi theo mẹ trong bất cứ một cuộc lễ xa gần nào. Nhờ đi lễ ở nhiều đền chùa
nổi danh miền Bắc, nhìn thấy cảnh đẹp của những ngôi chùa cổ làm cho Duy muốn
trở thành một con người hiếu đạo.
Tôi và Duy đều là những đứa trẻ
có sự ham thích âm nhạc, văn chương một cách đặc biệt. Vốn sanh ra trong một
gia đình âm nhạc tài tử truyền thống, tôi đã có được một năng khiếu về nhạc
ngay từ nhỏ. Nghe người lớn đờn mà tôi có thể tự mò trên cây đờn kìm nhiều bản
dễ như Lưu Thủy, Bình Bán, Kim Tiền... Tôi không được học chánh thức với một
người thầy nào hết, nhưng may mắn được nhiều người chỉ giáo. Chỉ riêng cậu Năm
Khương đã dạy tôi đờn bài Ngũ Đối Hạ trên cây đờn cò lúc 8 tuổi và cô Ba tôi
dạy tôi bản đờn tranh Nam Xuân nhịp tư lúc tôi lên 12. Anh Ba Thuận - con cậu
Năm là người gần gũi tôi nhứt và hay hòa đờn với tôi. Chính anh là người đầu
tiên dạy tôi đờn bản Vọng cổ nhịp 8 trên cây đờn kìm.
Riêng Duy, do được sanh ra trong
một gia đình có bố là văn sĩ, các anh em ruột cũng như anh em họ đều có máu văn
chương, đến khi bố mất lại được các bạn văn chương của bố chăm sóc việc học
tập, cho nên ngay từ nhỏ, Duy đã có một sự nhạy bén với văn chương và thi ca.
Tôi không ngờ rằng Duy lại có một người anh họ rất nổi tiếng là Ôn Như Nguyễn
Văn Ngọc, tác giả 2 cuốn “Tục ngữ phong dao” và “Cổ học tinh hoa” là cuốn sách gối đầu giường của tôi hồi học
tiểu học.
Ngay khi còn nhỏ, Duy đã bộc lộ
tánh cách rất “bạt mạng” và ưa phiêu lưu đây đó, như đám mây “Mộng Vân” thuở
nhỏ mẹ Duy nằm mơ thấy. Phạm Duy đã từng bỏ nhà theo một anh làm trò “quỷ
thuật” sau khi bị mê hoặc bởi cuốn tiểu thuyết Vô gia đình (Sans Famille) của nhà văn Pháp Hector Malot. Cũng thật
trùng hợp với tuổi thơ “bỏ nhà đi giang hồ” của Duy, tôi cũng có lần
“quên về nhà” vì đi coi những trò ảo thuật của gánh hát Mai Thành Cát, đặc biệt
rất say mê tiếng ngâm sa mạc của một người nghệ sĩ trẻ tuổi tên Sáu. Tôi vốn
sanh trong gia đình âm nhạc, lại ưa nghệ thuật, nên khi nghe anh Sáu ngâm thì
cảm thấy rất xúc động. Vãn hát đêm đó, tôi không về nhà mà ở lại ghe hát gặp
anh Sáu. Hai anh em trò chuyện với nhau tới sáng, không muốn rời nhau. Ông Mai
Thành Cát nhân thấy sự thân thiết của chúng tôi nên muốn xin cô tôi cho tôi đi
theo gánh hát của ông để ông truyền nghề. Cô tôi không đồng ý, lại còn rầy tôi
về tội đi coi hát mà không nhớ giờ về nhà.
Cuộc sống tuổi thơ của Duy gắn
liền mật thiết với Hồ Gươm đầy thi vị. Trong tâm tưởng của Phạm Duy, Hồ Gươm là
một nơi thơ mộng, như “con mắt buồn bã của người tình”, như một “hồn ma người
đẹp” trong truyện Liêu Trai với mỗi buổi chiều mùa lạnh sương mù tỏa xuống mặt
hồ. Duy thấy được những hoàn cảnh thực tế của nước hồ xanh đục lặng lẽ, những
xác người treo cổ trên cây đa bên bờ hay trầm mình xuống nước hồ... qua đôi mắt
trẻ con lúc nào cũng hừng hực nỗi... hiếu kỳ! Và Duy cũng đã chứng kiến những
môi hôn ngọt từ các cặp tình nhân trên cầu Thê Húc dẫn lối vào đền Ngọc Sơn.
Ngay cả con sông Hồng, nơi mà Duy hay chạy chơi trên bãi cát rộng vào mùa nước
cạn, hoặc đứng coi mọi người trong khu phố phấp phỏng ngồi canh mực nước đề
phòng lũ lụt vào mùa nước lũ, đã gắn bó không biết bao nhiêu cái tình thơ dại
của Duy với cảnh vật nơi đây.
Tôi không có được Hồ Gươm đầy thi
vị và sông Hồng rộn ràng khi nước cạn, lúc nước lũ như Duy, nhưng tôi được sống
trong nông trại của cậu Năm tôi, mắt luôn nhìn những thửa ruộng xanh cò bay
thẳng cánh, vào mùa cấy thì được nghe những câu hò điệu lý của những đoàn công
cấy. Tôi cũng rất thương con sông Sầm Giang chảy qua trước nhà tôi tại Chợ
Giữa, thích chèo đò ngang và tắm lội trong dòng sông Sầm Giang “rì rào dừa nước hai bên” (trong một câu
thơ mà Xuân Diệu viết tặng tôi nhân dịp nghe đờn ca tài tử trên sông). Đêm đêm,
vang tiếng hò đối đáp trên sông! Nơi này đã gắn liền với tôi rất nhiều kỷ niệm
thân yêu, mộc mạc. Sầm Giang là con sông nối liền hai làng Vĩnh Kim Đông và
Vĩnh Kim Tây, mà Chợ Giữa thuộc Vĩnh Kim Đông, cho nên những người ở Vĩnh Kim
Tây mỗi sáng đều đi đò ngang sang Vĩnh Kim Đông để họp chợ. Vì thế mà tôi rất
thích thay anh lái đò để chèo những chuyến đò ngang chở người lại qua. Trên
những chuyến đò đó, tôi từng nhiều lần được thấy hình ảnh người mẹ đi chợ về,
trên bờ đứa con ngồi chờ mẹ, rồi khi người mẹ đưa chiếc bánh phồng cho đứa con
thì đứa nhỏ chạy lại ôm mẹ thật chặt, trong ánh mắt hiện lên niềm quấn quýt
thương yêu rất xúc động và đậm đà tình mẫu tử. Qua những chuyến đò ngang ngày
ấy, tôi đã làm một sợi dây nối kết đưa người mẹ về với con, và có lần tôi có
dịp cứu 2 đứa trẻ sắp chết đuối.
Tôi cũng đã có dịp ghi lại những
cảm xúc đó trong bài thơ “Vịnh cây chèo”, một bài tập trong lớp dạy văn và chữ
Hán cho cấp tiểu học ở Trường Tam Bình (Vĩnh Long) của thầy Thượng Tân Thị -
một thi nhân đã sáng tác 10 bài “Khuê phụ thán”, lúc tôi 13 tuổi:
“Một mình làm chúa giữa dòng sông
Bát cạy ngược xuôi tiếng đập đùng Quyết chí đưa người qua bể khổ Hết lòng cứu kẻ thoát trầm luân”
Duy cũng biết làm thơ từ lúc nhỏ,
lại được những nhà văn lớn như Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh chăm lo từ bé,
nên chất văn chương bén rễ dần trong Duy là lẽ tự nhiên. Bài thơ đầu tiên của
Duy phóng khoáng, nghịch ngợm mang đầy dấu ấn của tuổi thơ:
“Nhà tôi ở phố hàng Dầu
Số nhà 54, đứng đầu du côn”
Từ nhỏ đã có phong cách phóng
túng, không chịu gò bó, thơ văn tự do nghịch ngợm, nhưng chất thơ trong người
Duy rất dồi dào, về sau trong những bài hát do Duy sáng tác luôn luôn đầy thi
vị.
Trong gia đình bên ngoại Phạm Duy
có người họ Lưu, dòng dõi Lưu Vĩnh Phúc, bị Pháp gọi là “giặc”. Trong hồi ký,
Duy viết: “Thế ra trong tôi có dòng máu
nổi loạn à? Người Pháp gọi Lưu Vĩnh
Phúc là giặc - Giặc Cờ Đen - nhưng đối với tôi, ông là người làm Cách Mạng”... Duy đã sớm nhận ra được những nỗi thống khổ
của dân mình do thực dân Pháp gây nên, và tự nhận thức được những gì mà
ông Duy làm không phải là việc làm của một kẻ “nổi loạn” chống lại luật pháp
của kẻ mang quân đi đánh chiếm quê hương mình. Cái “nổi loạn” của người ông bên
ngoại Duy là nổi loạn để làm cách mạng, để thoát khỏi cái ách gông xiềng, thuộc
địa. Và cũng thật ngẫu nhiên, Duy cũng tình cờ được tiếp xúc với những nhà cách
mạng yêu nước qua những bài hát tuyên truyền thời đó. Duy cảm thấy thích những
bài hát này và những hành động cách mạng của các vị tiền bối đã khiến Duy xúc
động, vì Duy tận mắt mục kích được hành động của những người anh hùng bằng
xương bằng thịt ngay chính trên đất nước này chớ không phải nơi nào xa vời.
Và thật lạ, tôi cũng có cơ hội
sớm tiếp xúc với những nhà cách mạng bằng xương bằng thịt ngay trên quê hương
như Duy, nhưng không phải do tình cờ mà do họ là những người cùng tổ chức với
mẹ tôi. Mẹ tôi là một người sớm gia nhập “Thanh Niên Cách mạng đồng chí hội”,
tiền thân của Đảng Cộng sản và trong lúc tôi còn nhỏ đã giới thiệu với tôi
những người bạn đồng hành, toàn là những người xả thân vì nước.
Tôi được những người cách mạng cùng
tổ chức với mẹ cho nghe những bài hát như “Ơi hỡi đồng bào”, mà lạ thay Phạm Duy cũng tình cờ biết được
bản đó. Tôi cũng được tiếp cận với một số bài do những nhà cách mạng
phỏng theo làn điệu dân ca Pháp mà đặt lời Việt để nhắc nhở dân tộc Việt Nam là
một dân tộc bị mất nước, bị trị. Thuở đó, tôi thường hát đi hát lại:
“Ơi hỡi đồng bào, ơi hỡi đồng bào!
Mau tỉnh dậy! Mau tỉnh dậy! Nước mất! Nước đã mất rồi! Dân lầm than! Dân lầm than!”
Bài ca lời Việt phỏng theo bài
dân ca Pháp “Frère Jacques” (Thầy dòng
tên Jacques) thì tại Hà Nội, Phạm Duy cũng đã nghe bài ấy:
“Hỡi hỡi đồng bào! Hỡi hỡi đồng bào!
Tỉnh dậy mau! Tỉnh dậy mau! Nước ta đã mất rồi Mau tỉnh mau, mau tỉnh mau!”
Ngày còn thơ ấu, tôi học trường
tiểu học tại Tam Bình - Vĩnh Long. Tôi rất thích môn Récitation (trả bài học
thuộc lòng bằng tiếng Pháp) và được thầy dạy cho cách đọc ngụ ngôn của La
Fontaine (Le Loup et L’agneau), vừa đọc vừa ra bộ, diễn xuất làm con chó sói và
con trừu (cừu). Cách học đó thật thích hợp với tánh ưa biểu diễn của tôi.
Còn Duy học trường tiểu học tại
Hàng Vôi - Hà Nội. Duy cũng rất thích Récitation, được thầy dạy đọc, dạy diễn
xuất người sĩ quan và người lính bị thương trong bài “Après la bataille” (Sau
trận đánh) của Victor Hugo.
Trong thời kỳ tiểu học, tôi rất
thích những bài học về sử ký hay luân lý mà hát lên theo điệu đờn ca tài tử, có
khi bằng cả tiếng Pháp: “Mes chers enfants” theo điệu Hành Vân. Phạm Duy cũng
thích y một bài đó bằng tiếng Pháp.
Cùng một bài Bình Bán Vắn mà tôi
học 2 bài tiếng Việt:
“Liu tồn liu xáng u
Xáng trên đầu ba bốn cục u…”
Và tiếng Pháp:
“Il était une fois…
Une jeune fille appelée Jeanne d’Arc Son père était Jacques d’Arc Sa mère Isabelle Rosner”
(Ngày xửa, ngày xưa,
Có người thiếu nữ tên là Jeanne d’Arc Cha tên là Jacques d’Arc Mẹ là Isabelle Rosner)
Cũng giai điệu bài Bình Bán, Phạm
Duy học lời ca khác:
“Tôi chờ cô tối qua
Đến bây giờ chẳng thấy cô qua…”
Mặc dầu không được học hết trung
học vì bị người anh bắt chuyển sang học nghề, nhưng Duy vẫn rất ham học hỏi,
rất thích tiếng Pháp và đặc biệt rất thích đọc sách. Nhờ trong nhà có người anh
là Phạm Duy Khiêm rất giỏi về Pháp văn (ông là Thạc sĩ văn chương Pháp), lại có
một tủ sách nên Duy thường hay lén đọc và đã làm quen với những nhân vật trong
nhiều bộ tiểu thuyết bằng tiếng Pháp của các tác gia nổi tiếng.
Ở trong Nam, tại làng tôi có một
người tự học tiếng Pháp và có một tủ sách riêng, tên là Trần Năng Thận, tôi hay
gọi là bác Sáu Thận. Bác không cho ai mượn sách cả vì sợ bị người khác làm hư.
Nhưng khi thấy tôi cẩn thận lúc đọc sách nên bác cho tôi thong thả muốn đọc bao
nhiêu cũng được. Do đó, tôi cũng đã biết đến nhiều nhân vật trong các cuốn tiểu
thuyết của những tác gia lớn giống như Phạm Duy. Đọc sách rồi, tôi thuật lại
cho cô và mấy em tôi nghe nội dung sách bằng tiếng Việt. Cô tôi không đọc được
tiếng Pháp mà vẫn biết rõ cốt truyện của tiểu thuyết Notre Dame de Paris của
Victor Hugo, trong đó, anh chàng gù lưng Quasimodo yêu nàng vũ nữ Esmeralda...
Ngoài ra, anh em chúng tôi còn ưa
thích cái việc đóng tuồng theo những nhân vật anh hùng hiệp sĩ, kiếm khách. Duy
thì ưa đóng tuồng theo phong cách kiếm hiệp, còn tôi thì thích đóng tuồng cải
lương. Tôi đã có thời kỳ mê đóng vai Tarzan - người hùng của rừng xanh, từng
cởi trần đánh đu trên cây da, hú lên những tiếng hú vang dội như Tarzan ở rừng
sâu. Còn Duy thì lại trở thành hiệp sĩ Zorro đeo mặt nạ, mang gươm đòi công lý.
Tôi thích xem bóng đá và cũng
từng tổ chức nhiều cuộc đấu bóng đá cho Hội Thể thao Trường Pétrus Ký, ra Hà
Nội luôn ủng hộ đội bóng đá của trường đại học bằng những hành khúc của Lưu Hữu
Phước. Chúng tôi hát bản “Marche des Étudiants” (Sinh viên hành khúc) mỗi khi quả bóng lọt vào lưới đối phương.
Duy cũng mê đá bóng kinh khủng,
luôn luôn theo dõi thành tích của Hội ÉCLAIR (Tia Sáng) vốn là hội bóng nhà,
trụ sở ở ngay phố Hàng Tre. Mê đến độ nhớ tên các cầu thủ theo thứ tự ra quân,
như nhớ một bài thơ không có vận:
Ty, (thủ môn) Tâm, Biềng (hậu vệ)
Mao, Tâm, Thịnh (trung phong) Phao, Mai, Hựu, Trọng, Tín (tiền đạo)
Hồi còn nhỏ, tôi rất ưa xem
xi-nê, thích nhất là cô đào Danielle Darieux. Duy cũng ưa xem xi-nê, mà thích
nhất là cô đào Anabella. Té ra hai em chúng tôi cũng có sở thích giống nhau: cả
hai nàng diễn viên mà hai anh em thích đều có đôi mắt xanh và mái tóc vàng.
Thật là mơ mộng!
Trong những trò giải trí của con
nít thời bấy giờ, tôi thích xem hát xiệc nhưng đồng thời cũng thích luôn trò ảo
thuật, thôi miên và rất mê gánh hát của Mai Thành Cát. Duy cũng ưa hát xiệc,
nhưng thích nhất những trò điều khiển thú dữ và mê gánh hát của Tạ Duy Hiển.
Và thêm nữa, hai tâm hồn lãng mạn
cũng từng thả hồn vào những con sóng xanh ngoài đại dương. Chúng tôi rất yêu
biển!
Hai anh em Duy và Khê đều mang
thân phận trẻ mồ côi. Người thì mồ côi cha, kẻ thì mồ côi mẹ, và sau này là mồ
côi luôn cả cha lẫn mẹ. Tuy nhiên, có cái may là hai đứa nhỏ vẫn được người
thân chăm sóc, dạy dỗ đàng hoàng, cho nên không có mặc cảm của một đứa trẻ mồ
côi, không bị hoàn cảnh hẩm hiu làm cho cảm thấy nhiều đau khổ, mà cả hai đều
tự tạo cho mình một cuộc đời của riêng mình, không chờ đợi sự che chở, dạy dỗ
của cha mẹ một cách tuyệt đối giống như bao bạn bè cùng trang lứa.
2. Bước chân thanh niên vào đời
Thuở đó, ca sĩ Tino Rossi được
người Việt tôn sùng. Những người nào thích ca sĩ này thì vào nhóm mang tên là
“Ái Tino”, nếu ai không thích thì vào nhóm “Ố Tino”. Trong Nam, tôi đứng về
những người “Ái Tino”, chẳng những thích nghe Tino Rossi biểu diễn mà chính tôi
cũng học thuộc và biểu diễn những bài do Tino giới thiệu qua dĩa hát, còn bắt
chước sắm luôn những trang phục y hệt như thần tượng. Tại Hà Nội, cũng có sự
kiện 2 phe như thế, Phạm Duy cũng ở trong nhóm Ái Tino nhưng Phạm Duy không chỉ
ưa Tino Rossi mà còn thích Albert Préjean và ca sĩ trào phúng Georges Milton.
Khi tôi chỉ huy dàn nhạc Schola
Club, bài đầu tiên dàn nhạc giới thiệu là bài “C’est à Capri” (Tại thành phố
Capri, nơi tôi đã gặp nàng). Trong
những bài Phạm Duy thích, Duy vẫn còn nhắc lại bài đó.
Lúc ở Pháp, tôi rất thích nữ ca
sĩ Juliette Greco, chuyên hát những bài theo chủ nghĩa hiện sinh với chất giọng
khàn khàn rất đẹp. Đồng thời, cũng có một nữ ca sĩ rất trẻ tên Nicole Louvier
mới xuất hiện, phong cách của Nicole là tự hát và tự đệm guitar. Cô lại biết
sáng tác những bài hát có giai điệu ngọt ngào, mang hơi hướng âm nhạc phương
Đông. Tôi hết sức thích phong cách của cô này, nên đã từng đề nghị sử dụng đờn
tranh để đệm đờn cho cô hát. Louvier rất thích nên đã có mời đài phát thanh
(Radio France) tới ghi âm lại những bài cô hát mà tôi đàn tranh để làm kỷ niệm,
nhưng cô nổi tiếng không bao lâu rồi giây phút huy hoàng ấy cũng thoáng qua.
Tôi không ngờ rằng Phạm Duy cũng
đã gặp ca sĩ đó và sáng tác lời Việt Nam cho những bài ca của cô. Lúc Phạm Duy
sang Pháp, Duy cũng thích 2 người ca sĩ đó nhứt: Juliette và Nicole. Nhưng Phạm
Duy có lẽ tiếp xúc với họ gần gũi hơn tôi, nên nhớ đến một điều rất thực là “cô
bé Nicole dễ thương mà hôi nách”! Phạm Duy lại còn đặt lời Việt cho bản “Qui me délivra” (Duy để tựa là “Ai sẽ giải thoát tôi?”) mà Nicole
tự sáng tác và hát.
Trong lãnh vực điện ảnh cũng vậy,
chúng tôi đều làm những việc giống nhau: viết phụ đề phim, lồng tiếng phim (từ
tiếng Pháp, Anh sang tiếng Việt) và cả việc đóng phim. Nhưng rồi sau khi có
được tiền thù lao rất hậu, tôi lại trở về soạn Luận án Tiến sĩ tại Đại học
Sorbonne. Mỗi ngày, tôi vẫn xếp hàng để ăn cơm tại quán ăn sinh viên cho đỡ
tốn. Đối với tôi, tham gia vào điện ảnh là để có một số tiền sanh sống mà làm
luận án Tiến sĩ, mặc dầu được nhiều hãng phim bên Anh mời sang đóng nhiều phim
khác, nhưng tôi từ chối. Phong cách đó cũng rất tài tử.
Ngược lại, Phạm Duy khi bước chân
vào điện ảnh cũng làm tất cả những công việc như tôi đã làm, nhưng với tư cách
là một nhân viên chuyên nghiệp của Trung tâm Điện ảnh Việt Nam. Phạm Duy đã có
lần làm cả đạo diễn cho nhiều phim. Trong thời gian 10 năm làm việc ở Trung tâm
Điện ảnh, với khởi đầu là việc viết truyện phim cho tới khi trở thành phó giám
đốc trung tâm, Phạm Duy đã thực hiện nhiều bộ phim giá trị về âm nhạc, kịch
nghệ Việt Nam, như phim về hát bội, các điệu hò và một thiên nghiên cứu về nhạc
Chăm.
Duy đã trải qua cuộc sống tại
nông thôn rất lâu, sống chan hòa với những người nông dân và cảnh vật miền quê,
lại hưởng được những mối tình thôn dã. Chính cuộc sống như thế đã giúp cho Duy
có thêm kinh nghiệm ở đời, vừa làm giàu thêm chất liệu cho sự sáng tác của Phạm
Duy sau này.
Tôi từ Sài Gòn ra Hà Nội từ năm
1941, sống cuộc đời sinh viên trường thuốc, không có cơ hội vui sống cảnh thiên
nhiên thôn dã, gặp gỡ những người nông dân như Phạm Duy. Những người tôi gặp gỡ
hầu hết là sinh viên trường đại học, nữ sinh Trường Đồng Khánh thuộc giới tiểu
tư sản, lại bắt đầu sống giữa những người thanh niên lúc đó đang theo một phong
trào mang tên là “vui vẻ, trẻ trung”, chỉ biết ăn mặc đẹp, tán gái thị thành,
khiêu vũ những đêm cuối tuần trong các vũ trường. Tôi cũng đã gặp nhiều thiếu
nữ Hà thành, nhiều cô rất đẹp và giỏi. Các cô đó quyết định rằng “phi đại học
bất thành phu phụ”, phải là người lên tới đại học thì các cô mới ưng. Nhưng tôi
không bao giờ bị các cô cám dỗ mà quên đi nhiệm vụ chính là học hành.
Cuối
năm 1944 - đầu 1945, sinh viên Hà Nội đã chứng kiến được những nạn nhân chết
đói bên lề đường nên khi trở về Nam sau phong trào xếp bút nghiên, tôi lập ra
một nhóm diễn hài kịch của Huỳnh Văn Tiểng và hát những bài tân nhạc của Lưu
Hữu Phước, đi khắp Hậu Giang tổ chức những đêm văn nghệ bán vé lấy tiền mua gạo
cứu đói. Chúng tôi rất được trí thức ở các tỉnh ủng hộ bằng cách bán vé, có
người lại mua vé cho các trường để học sinh đi xe miễn phí, cùng đi khắp nơi và
khi trở về Sài Gòn, chúng tôi có dịp diễn tại rạp hát Aristo, lúc đó nổi tiếng
là một rạp hát giới thiệu tân nhạc nhiều nhứt.
Cùng trong lúc đó, Phạm Duy không
còn tham gia gánh Đức Huy đang hát cho đài Pháp Á những bản tân nhạc 3 lần
trong một tuần. Nhưng khi biết được có nạn đói do người Pháp và người Nhựt
tranh chấp nhau, không cho chở gạo thừa thãi miền Nam ra miền Bắc đang thiếu
thốn nên gây ra một nạn đói rất khủng khiếp, Phạm Duy cũng lấy tiếng hát của
mình tham gia một nhóm thanh niên giới thiệu tân nhạc, có lần biểu diễn tại rạp
Aristo để lấy tiền mua gạo cứu đói. Chúng tôi không gặp nhau mà cùng có những
cách làm giống nhau ở chỗ đem tài nghệ của mình để phục vụ đồng bào trong lúc
khó khăn.
Năm 1947, tôi bị bắt nhốt vào
khám Catinat vì bị nghi là Việt Minh tại thành. Nhưng sau 3 tuần lễ, nhờ sự can
thiệp của một vài người quen, đồng thời Ban kháng chiến tại thành đã lo lót cho
một số mật thám, nên tôi được thả ra.
Trong khám, tôi được 3 phe ủng
hộ: phe kháng chiến cùng tôi chia sẻ những viên đường từ bên ngoài tiếp tế vào;
phe nhóm những người Quảng Đông (bị nhốt vì làm giấy thông hành giả cho Việt
Minh) thích tôi vì đã thuật lại những chuyện vui cho nhóm này nghe, và phía du
côn chiếm cả khu cầu tiêu là khu rộng rãi nhất do mùi hôi thúi cho nên không ai
chịu nằm gần đó. Trong số những người tù nhân du côn đó, có một anh trước kia
giúp việc cho người bà con của tôi, mà là “sếp sòng” đám này, gọi tôi bằng “cậu
Hai” nên không ai dám làm gì tôi hết. Tại đó, các anh em tù nhân lại đục một
ống nước để cho nước nhỏ giọt, lấy nước đó rửa mặt hoặc hứng vào lon để dành
xối vào người khi nóng bức.
Năm 1951, Phạm Duy cũng bị bắt và
nhốt vào khám Catinat cùng một lúc với Lê Thương và Trần Văn Trạch, nhưng bốn
tháng sau mới được thả ra. Trong khám, Duy gặp một người từng có tiền sự vào tù
ra khám, hiện đang bị nhốt vào Catinat để chờ ngày bị đưa ra Côn Đảo nên được
tù nhân gọi là “ngục vương”. Ông này có cảm tình với Duy nên cho Duy dựa lưng
vào một bức tường gần cầu tiêu để ngủ. Ở tù mà hai anh em chúng tôi cũng được
người ta thương mến, thật là khó có trường hợp nào giống nhau đến vậy!
Tôi thích làm văn nghệ hơn làm
chánh trị. Với tánh cách của tôi, tôi thấy trong chánh trị phần nhiều phải nói
tiếng nói của lý trí. Một khi tiếng nói của lý trí đã lấn át rồi thì tiêu diệt
cả tình cảm. Còn lý trí của tôi thì phải có đường cho tình cảm thoát ra, lý trí
chỉ được sử dụng như một phương tiện để kiểm tra tình cảm đừng đi quá đà mà
thôi.
Đời tôi không muốn cầm súng bắn
ai, mà cũng không muốn ai cầm súng bắn mình, cho nên khi trình bày với cấp lãnh
đạo kháng chiến, tôi đã xin phép để được làm những công việc hậu phương như làm
công việc cứu thương trong bệnh viện, hay làm trong dàn nhạc... Khi nghe những
lời trình bày của tôi, những người có trách nhiệm trong Ủy ban kháng chiến với
một tinh thần cởi mở đã chấp nhận quan điểm của tôi, bổ nhiệm tôi làm Nhạc
trưởng quân đội Nam bộ, với cấp Đại đội trưởng, được quyền lưu thông khắp Nam
bộ và sung công những nhạc cụ, nhạc khí, kể cả nhạc sĩ nào cần thiết. Tôi đi
kháng chiến với lý tưởng của một người thanh niên yêu nước và làm việc theo khả
năng có thể của mình để giúp cho đất nước.
Phạm Duy cũng vậy, càng đi sâu,
càng biết nhiều chuyện trong chánh trường, Duy càng thấy những mâu thuẫn giữa
các đảng phái, đến nỗi Duy cho rằng đó không là những gì lạ lẫm nữa. Bản thân
Duy cũng cảm thấy rằng mình không phù hợp với việc làm chánh trị. Nói như vậy,
nhưng không phải lúc đất nước lâm cảnh khốn cùng mà Duy bỏ mặc làm ngơ. Duy
cũng đi kháng chiến cứu nước, dấn thân không kém những người chiến sĩ khác.
Trên con đường dấn thân kháng chiến đó, Duy đã nhiều lần nhìn thấy những cảnh
thực xảy ra trước mắt mình chứ không phải chỉ là những điều do chính Duy tưởng
tượng. Duy đã trải nghiệm, đã kinh qua những xúc cảm theo thời cuộc trên con
đường chiến đấu vì lòng yêu nước của mình. Trong những bài hát của mình, Duy đã
đem những hình ảnh thực tế đó vào mà bày tỏ tinh thần yêu nước, yêu dân tộc và
đặc biệt là tinh thần hòa giải. Duy chẳng những thông cảm với người chiến sĩ vì
nước xả thân trên mặt trận mà còn ca ngợi những chiến công của họ trên chiến
trường, chẳng những hát về những người lính ngoài tiền tuyến, ca ngợi tính
chiến đấu mà vẫn không quên những người nơi hậu phương đã âm thầm giúp đỡ tinh
thần, vật chất cho người chiến sĩ yên tâm cầm súng ra trận, không quên những
nỗi đau khổ, nhớ thương của người vợ ngày ngày ngóng tin chồng, người con đợi
cha về, người mẹ lo lắng cho đứa con đang đi đánh giặc ngoài xa...
Cũng như tôi, Duy là người yêu
văn nghệ. Duy sống cho con đường nghệ thuật của mình hoàn toàn, đặt cả tâm
huyết ở đó. Cả đời này, vì nghệ thuật mà Duy đã cống hiến trọn vẹn cả tình cảm
lẫn tài hoa.
3) Phạm Duy trong mắt tôi
Đối với tôi, Phạm Duy là một
người nhạc sĩ toàn diện về mọi mặt (toàn diện theo nghĩa đầy đủ nhất của hai từ
“nhạc sĩ”). Duy có những khả năng rất đặc biệt trong âm nhạc mà không phải bất
kỳ người nhạc sĩ nào cũng có thể hội tụ đầy đủ, và sự cảm thụ âm nhạc nghệ
thuật của Duy cũng mang tánh cách rất riêng, rất “Phạm Duy”, nhưng cái riêng đó
không hề lạc ra khỏi cái gốc rễ tình cảm chung của người Việt Nam.
Duy đã làm những cuộc phiêu lưu
“chiêu hồn nhạc” hết sức đậm đà, huyền diệu, đầy thơ mộng mà cũng đa dạng và
phong phú vô cùng! Duy “chiêu” được “hồn” ông thần Nhạc và thành công trong
nhiều thể loại, có lẽ bản thân ông thần Âm nhạc cũng “mê” lối “chiêu hồn” của
Duy rồi chăng? Thành công - đối với Duy mà nói - không phải chỉ sớm nở tối tàn,
mà phải nói rằng những nhạc phẩm đó đã và vẫn mang nhiều giá trị về ngôn ngữ âm
nhạc lẫn ca từ, không lẫn với bất cứ ai, đặc biệt là những nhạc phẩm ấy sống
mãi trong lòng người Việt say mê âm nhạc, nghệ thuật. Có những thể loại nhạc
đối với người nhạc sĩ này là sở trường, nhưng với người khác nó lại không phải
là thế mạnh. Còn Duy có thể làm cho những thể loại âm nhạc khác nhau “chịu” đi
theo mình, nghe lời mình uốn nắn và đưa vào tâm hồn tình cảm của Duy. Duy viết
tình ca đi vào lòng người bao thế hệ, viết hành khúc sôi nổi một thời cũng làm
cho thính giả khó quên, hay viết trường ca, tổ khúc... cũng làm lay động con
tim âm nhạc của bao người. Những thể loại Duy làm ra đều được sự tán thưởng của
giới mộ điệu âm nhạc, lấy được nhiều tình cảm từ công chúng. Điều đó không hề
dễ có đối với một tác giả. Nó tồn tại cho tới bây giờ cũng đủ để thấy giá trị
âm nhạc Phạm Duy mang một dấu ấn khó phai trong dòng chảy âm nhạc Việt, và hạnh
phúc hiếm có nhất: vẫn vững chãi trước ba đào thời gian.
Duy không chỉ sáng tác được nét
nhạc hay bằng khả năng cảm nhạc thiên bẩm, mà còn có thể tự mình đặt lời nhạc
rất đẹp, rất thi vị, mang đậm tâm hồn, tư tưởng của người Việt Nam. Đó không
phải là khả năng tự có một sớm một chiều, mà do sự quan sát, học hỏi, rèn luyện
của Duy, cộng thêm cái khiếu cảm nhận tinh tế trong đời sống hằng ngày, trong
những cuộc “phiêu lưu” đó đây, rong ruổi khắp bốn phương trời từ Đông sang Tây,
để góp nhặt từng câu chuyện từ chính mình, góp nhặt những câu chuyện của quê
hương, dân tộc, phận người... mà dệt nên những lời tình tự xứng đáng được lưu
vào trang nhạc sử Việt.
Bên cạnh một con người Phạm Duy -
nhạc sĩ sáng tác, bản thân Duy còn là sự hóa thân của rất nhiều những con người
khác mang những khía cạnh khác mà không phải ai cũng có thể nhìn nhận thấy rõ
ràng, đầy đủ. Thuở còn trai trẻ, cậu thanh niên Phạm Duy (hay ta phải gọi bằng
cái tên Mộng Vân - áng mây mộng ước - do chính cậu tự đặt ra cho mình?) đã từng
là một kẻ du ca rong chơi năm tháng trên nhạc lộ thênh thang cùng với sức trẻ
yêu đời, lao vào đời bằng quả tim rực cháy tuổi thanh xuân. Và dẫu cho có bao
nhiêu năm qua đi nữa, Duy vẫn là một người ca sĩ tài hoa thực thụ, một ca sĩ chuyên
nghiệp rất danh tiếng thuở trước tại Đài Pháp Á, một ca sĩ tiên phong trong
phong trào đưa nhạc mới lên hát giữa các màn chuyển cảnh trên sân khấu gánh hát
cải lương Đức Huy - Charlot Miều... Trong những chương trình âm nhạc, những
buổi biểu diễn văn nghệ trong nước hay tại nước ngoài, “ca sĩ” Phạm Duy luôn
làm cho người khác thấy được cái tài biểu diễn ca hát thiên bẩm, khi tự mình
hát lên những sáng tác của mình một cách sống động nhứt. Một người nhạc sĩ có
đầy nội lực hút hồn người khi ôm đàn say sưa hát những bài ca với chất giọng
truyền cảm của một ca sĩ. Chính Duy đã làm được điều lạ thường đó và cho tới
ngày nay, Duy vẫn là kẻ du ca hát lên những lời ca đẹp và thơ, được nhiều thế
hệ thuộc lòng mỗi khi Duy đem tác phẩm âm nhạc của mình giới thiệu trên sân
khấu cả nước.
Ngoài tài sáng tác không thể phủ
nhận, tài ca hát thu hút, Duy khiến cho người khác không khỏi say mê lạc bước
vào giọng nói trầm ấm, duyên dáng, thi vị của chất giọng Hà Nội thanh lịch khi
Duy dẫn dắt câu chuyện âm nhạc của chính mình. Trời phú cho Duy sự đa năng
trong nghề nghiệp, trong dòng máu nghệ sĩ vốn đã tài tình. Nếu nép sau tấm màn
sân khấu là người nhạc sĩ, đứng trên sân khấu biểu diễn với phong cách một ca
sĩ, thì Duy cũng đầy phong thái duyên dáng khi thực hiện vai trò người dẫn
chương trình. Thật là một kỳ tài! Duyên ăn nói của Duy không thua kém những nhà
văn thuyết trình trước công chúng, đôi khi lại có phần hấp dẫn hơn vì trong
chất văn chương còn thấm nhuần hơi nhạc. Nghe Duy kể từng kỷ niệm, trải từng
cung bậc cảm xúc trong lúc giới thiệu âm nhạc có khi còn thích thú hơn là đọc
một tập khảo cứu về những nhạc phẩm này.
Trước khi sang Pháp để tiếp cận
với Âm nhạc học (học tại lớp dạy Âm nhạc học của thầy Jacques Chailley năm
1954) thì Phạm Duy đã là một nhà “Dân tộc Âm nhạc học” hẳn hòi rồi! Ở Việt Nam,
Duy đã tự mình ghi âm, ghi hình, sắp loại các bài Dân ca và các bài Lý, những
câu Hò ở nông thôn Việt Nam... và tự ký âm các bài nhạc đó. Duy đã có cách nhìn
rất khoa học trong việc phân loại, sắp xếp và ghi chép những vấn đề liên quan
trong khi tìm hiểu về Dân ca, Dân nhạc Việt Nam. Việc làm của Phạm Duy lúc đó
cho ta thấy rằng Phạm Duy có phong cách của một người nghiên cứu Dân tộc Nhạc
học, có đầu óc tìm tòi và làm việc chuyên nghiệp không thua kém gì những nhà
nghiên cứu thực thụ.
Ngoài việc sưu tầm và nghiên cứu
Dân ca lúc đầu, sau này trong những chuyến đi xuyên Việt, Phạm Duy lại có dịp
tiếp cận với nhiều bộ môn âm nhạc khác như: Ca Huế, Đờn Ca Tài Tử, các điệu Hát
Lý, điệu Hò của Trung, Nam bộ, và đặc biệt hơn nữa là thể loại Âm nhạc Dân tộc
thiểu số ít ai chú ý tới... Mỗi lần tiếp cận là mỗi lần Duy ghi chép rất kỹ
lưỡng, sâu sắc để sau này có dịp cho ra đời cuốn “Đặc khảo về Dân ca Việt
Nam” mà khi được đọc, tôi đã rất
ngạc nhiên; đồng thời, cũng thán phục tinh thần nghiên cứu của bạn mình.
Duy theo dõi nhiều và đi sát phong trào nhạc mới từ lúc khởi thủy cho đến những
giai đoạn phát triển ra nhiều trào lưu. Duy cũng có được những điều kiện thuận
lợi khi quen biết với những bạn bè, các bậc tiền bối văn nghệ sĩ, nhất là giới
nhạc sĩ và từng nhiều lần trao đổi, trò chuyện với họ, biết được từng thời điểm
ai làm gì, sáng tác như thế nào... Đó là một lợi thế của người nhạc sĩ có óc
nghiên cứu và phân tách tài tình từ trong máu như Duy. Từ những lợi thế như
vậy, mỗi nhạc phẩm của Duy đưa ra đều mang tánh cách thời sự, gắn liền với từng
sự kiện xảy ra trong đất nước: thời bình, thời chiến, thắng trận, thất bại, thế
thời đổi thay... và không thiếu những hình ảnh rất chân thật, sống động ở những
nơi mà dấu chân Duy đã đi qua, in lại trong ký ức một cách sâu sắc rồi trở
thành những hình tượng nghệ thuật đặc biệt trong âm nhạc. Tôi cho rằng trong
con người Duy, không những có sức khám phá của một nhà khoa học mà còn hội đủ
các yếu tố cần có nơi một nhà nghiên cứu, một sử gia, một nhà xã hội học, một
văn nhân biết ghi lại quá trình làm việc và suy tư của mình.
Bên cạnh những Phạm Duy nghệ sĩ
và Phạm Duy tài tình trong nghiên cứu, cũng ít ai để ý tới một Phạm Duy - nhà
kinh doanh, nhà sản xuất âm nhạc cực kỳ nhạy bén, mát tay. Duy tự mở studio
riêng cho mình, đi tiên phong trong việc dùng kỹ thuật hiện đại để phục vụ cho
công việc sáng tạo nghệ thuật. Xem có vẻ như Duy luôn muốn thử thách mình ở mọi
lãnh vực, hệt như cái bản tánh hiếu kỳ ưa thích tìm hiểu mà ông Trời ban cho.
Mà thật lạ, lãnh vực nào Duy cũng làm rất tốt và thành công. Óc khám phá không
bao giờ để Duy ngồi yên. Duy tự tay thâu âm băng dĩa nhạc, sử dụng tài tình máy
vi tính, tự thiết kế và phát hành sản phẩm âm nhạc của mình, theo rất sát công
nghệ hiện đại không thua kém chi việc theo sát phong trào âm nhạc khắp nơi.
Đồng thời, có thể coi Duy giống như người làm quảng cáo tài năng khi chính bản
thân Duy tự đi giới thiệu sản phẩm của mình đến với công chúng... Với bấy nhiêu
công việc làm đó cũng đủ thấy Duy là một người đa tài, bản lãnh.
Duy mặc dầu Trời sanh có tánh
ngang tàng, nhưng cũng là người hiểu tôn ti trật tự khi vẫn biết nghe lời người
anh của mình là Phạm Duy Khiêm. Trong lúc đang ưa thích học về văn hóa và học
rất giỏi mà phải bỏ để vào một trường học nghề (bá nghệ) theo sự quyết định của
người anh, dầu có đắn đo hay không thỏa mãn, nhưng Duy vẫn nghe theo lời anh
của mình. Suốt cuộc đời, đứa con Phạm Duy lúc nào cũng nghe theo lời của mẹ,
vâng theo sự chỉ dạy, săn sóc, đảm nhiệm trông coi việc học tập từ những người
bạn của cha mình (các ông Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh). Duy cũng là người
con thương cha thương mẹ, thương anh em trong gia đình (nhắc về người anh Phạm
Duy Nhượng); nói rộng ra, trong xã hội thì Phạm Duy có cả tinh thần yêu thương
đất nước một cách sâu sắc đậm đà và không lay chuyển. Cho nên, trong mỗi trường
hợp, nhiều khi có những hành động mà người thường khó hiểu, cho rằng Phạm Duy
là người ham danh ham lợi, nhưng riêng tôi thì lại thấy rằng không có lúc nào
mà Phạm Duy không yêu nước Việt Nam. Phải thực sự yêu quê, yêu nước mới có thể
sáng tác ra những bài ca tuyệt đẹp cả nhạc lẫn lời và những bài hát đi sâu vào
tim của mỗi người Việt Nam ở các tầng lớp và mọi thế hệ trong xã hội.
Về cuộc sống của Duy, trong mắt
tôi, Duy là một người trọng gia đình, luôn nhớ đến vợ con của mình, luôn muốn
vợ chồng, con cái đều cùng chung sống dưới một mái nhà, dẫu cho trong đời Duy
đã từng là một kẻ “giang hồ phiêu bạt”. Khi tôi đến thăm vợ chồng Phạm Duy, thì
luôn thấy cảnh sum họp gia đình rất đầm ấm. Điều đó khiến cho tôi thêm phần quý
trọng người bạn thân của mình, và cho rằng nhờ cách ứng xử khéo léo trong,
ngoài của Duy mà có thể giữ được nếp nhà một cách thuần tuý Việt Nam như vậy.
Với các con, mặc dầu mỗi người đều có cá tánh riêng, đều ưa thích tự do phóng
túng như Duy, nhưng người cha chưa hề bó buộc con cái. Đối với bố, các cháu đều
có sự kính phục yêu thương.
Tại Mỹ, Duy còn lập phòng thu
riêng tại nhà và tự mình sản xuất băng đĩa, mọi việc đều do các con của Duy
đứng ra giúp bố thực hiện. Kể cả việc mua nhà cũng vậy. Khi tính đến việc mua
nhà thì cũng ít khi nghĩ phải ở xa nhau. Ít có gia đình nào tại Mỹ lại có cha
mẹ, con cái sống chung như gia đình Duy. Các con thì mỗi tháng mời cha mẹ và
anh em cùng ăn cơm chung với nhau tại những nhà hàng có thức ăn ngon, do mỗi
người đãi một lần. Dẫu Duy là người phóng túng nhưng vẫn giữ những nề nếp
truyền thống của người Việt Nam, giữ lại được những nét sinh hoạt của người
miền Bắc trên xứ sở tự do này. Duy khéo léo sắp xếp, ứng xử để gia đình có cuộc
sống như cuộc sống của những gia đình truyền thống Việt Nam. Ở nước Mỹ - nơi mà
người ta coi trọng quyền lợi và cuộc sống cá nhân, gia đình Phạm Duy là một gia
đình khó kiếm.
Có những lúc thăng trầm, Duy nhận
tiếng khen cũng nhiều mà lời lẽ chê bai cũng không phải ít. Nhưng Duy là người
biết phục thiện, biết nghe lời khen lẫn những tiếng chê, không bao giờ để trong
bụng sự hận thù. Tinh thần ấy thể hiện trong nhạc phẩm Mẹ Việt Nam:
“Mẹ Việt Nam không đòi xương máu
Mẹ Việt Nam kêu gọi thương nhau”
Vì những lẽ kể trên mà tôi đã gọi
Duy là một người nhạc sĩ toàn diện với tất cả ý nghĩa của danh từ đó. Suốt
chiều dài thời gian của dân tộc, Duy đã “khóc
cười theo mệnh nước nổi trôi”. Từng sự kiện xảy ra với quê hương, Duy đều
đi sát bên, đều cảm nhận bằng thứ tình cảm của một người con của dân
tộc, người cháu, người anh, người em của thế hệ mình.
Phạm Duy là con người muốn sống
tự do, không muốn sống theo quy luật, lề lối một cách áp đặt, bó buộc. Trên
đường chánh trị thì không có đảng phái. Về mặt tín ngưỡng thì không nghiêng về
phía tôn giáo nào. Duy sống theo con người của Duy, một con người tự do tự tại,
phóng túng và ngang tàng, nhưng cũng “thẳng” và “thật” đối với chính cuộc sống
của mình.
Một số người cho rằng Duy không
có lập trường chánh trị, nhưng họ chưa, hoặc không chịu nhìn vào cái tình yêu
nước thương nòi luôn sôi sục trong con người Duy. Duy là một người con có hiếu
với cha mẹ và có một lòng yêu nước theo quan điểm của mình. Từ trong những tác
phẩm âm nhạc, người ta đã thấy rõ tình yêu Việt Nam mà Duy hằng gieo vào lòng
bao người yêu nhạc qua những “tiếng nước
tôi”, qua những hình ảnh gần gũi quen thuộc gợi lên bao nhiêu kỷ niệm về
dân tộc và con người Việt Nam. Không chỉ hiện diện trên từng bản nhạc, lời ca,
phải có tình yêu thực sự bắt nguồn từ chính con tim nồng nàn yêu thương thực sự
mới khiến cho tình yêu đó vĩnh hằng cùng năm tháng. Duy luôn luôn yêu quê hương
mình, đó là sự thực, bất cứ khi nào và bất cứ ở đâu. Đối với Duy, lúc nào và ở
đâu cũng một lòng quý trọng tự do của đất nước, không bao giờ chấp nhận sự đô
hộ của ngoại bang. Nhưng Duy luôn tôn trọng lập trường của những người khác như
có lần Duy đã nói với tôi. Và mục đích cuộc đời của Duy chỉ là làm cách nào để
cho đất nước giàu mạnh hơn trong mọi mặt. Chính Duy đã hết lòng tham gia vào
văn hóa văn nghệ để làm giàu thêm cho lãnh vực này của dân tộc.
Trong cách ứng xử ở đời, Duy luôn
có một thái độ hòa giải và luôn mong rằng dân tộc Việt, dầu ở miền nào, đều coi
nhau như anh em ruột thịt “nhìn Trung Nam
Bắc xếp hàng mến nhau” (Tình ca) với tấm lòng rộng rãi bao la, yêu
thương và tha thứ (Mẹ Việt Nam - trong chương “Biển Mẹ”), chẳng bao giờ
muốn “đòi xương máu” mà chỉ “kêu gọi thương nhau” (Mẹ Việt Nam -
đoạn chót).
Thỉnh thoảng, trong những trường
hợp bất khả kháng về chánh trị, hoặc là những sự hấp dẫn nhứt thời về đời sống
vật chất, Duy có những sáng tác không phù hợp với bản chất của chính mình,
nhưng đó chỉ là vài trường hợp rất ít trong những giai đoạn rất ngắn so với
cuộc đời và gia tài sáng tác đồ sộ của Duy. Theo tôi, tuy Duy không phải là một
con người toàn thiện toàn mỹ, nhưng là một người đối với mình trước sau như
một, và phải nhìn nhận rằng, bạn của tôi là một người yêu quê hương đất nước!
Ước mong rằng Duy luôn có được
cuộc sống an nhiên tự tại, an bình với đời, với người và với mình, làm được
những việc Duy yêu thích mà thấy rằng cuộc đời vẫn đẹp, để “... khi đêm chết chưa về” thì “nắng
chiều hồng tươi hơn nắng trưa”.
Duy thương mến!
Khê vẫn còn nhớ lần đầu tiên nghe
Duy trình bày CD-ROM “Con đường cái quan”
do chính tay Duy tự làm trên đất Mỹ, không những với lời và nhạc đầy cảm xúc mà
còn nhìn thấy được những phong cảnh đẹp của quê hương Việt Nam, Khê đã ôm Duy
và khóc. Chúng ta có chung những tình cảm, những đồng điệu mà không phải ai
cũng có thể hiểu được tất cả. Duy ơi, chúng ta đã đến, đã đi và đã về, đã làm
và đã sống, đã yêu và đã mơ, đã thăng và đã trầm, đã cười và đã khóc... suốt
hai thế kỷ này. Mong rằng tình thân của chúng ta mãi vĩnh hằng, mãi đẹp như
những lời Khê từng chúc Duy, cũng như chúc cho anh em mình khi tròn cửu thập:
“Biết nhau quá tuổi đôi mươi
Hôm nay mừng bạn chín mươi tuổi rồi Mặc cho vật đổi sao dời Đến khi trăm tuổi còn ngồi bên nhau Đến khi trăm tuổi đẹp lời chúc nhau”
Sẽ “còn ngồi bên nhau”, phải
không Duy?
Bình
Thạnh, Sài Gòn,
mùa Đông Nhâm Thìn 2012 Trần Văn Khê (Theo Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay số báo 808 & 809 - http://kienthucngaynay.info , 31-01-2013) |
||||||||||||||||||||||||||||||||
mk
|
||||||||||||||||||||||||||||||||
IP Logged | ||||||||||||||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 11/Feb/2013 lúc 9:06pm | |||||||||||||||||||||||||||||||
Chuyện Phạm Duy và chuyện Tết ở Việt Nam
- Văn Quang
Viết thì thừa, không viết thì thiếu. Đó là chuyện nhạc sĩ Phạm Duy vừa ra đi và chuyện Tết nhất ở Việt Nam. Bởi cả hai thứ chuyện này đã có nhiều người tường thuật rồi. Bài nào cũng dài thoòng. Đọc trên net và được bạn bè “năm châu bốn biển” gửi cho, mệt nghỉ. Ấy thế nhưng mấy ông viết chuyện hằng ngày hằng tuần, cộng tác thường xuyên với các báo đều... tự ý thức được phải “mùa nào thức nấy”. Những chuyện “đại sự” không thể bỏ qua. Thế nên tôi cũng có bổn phận phải hầu chuyện với bạn đọc về hai cái thứ chuyện “đại sự” này, chưa nói đến việc các ông chủ bút mấy tờ báo nhắc khéo: “Chắc kỳ sau anh viết bài về Tết Việt Nam nhỉ? Có ông còn hỏi khéo hơn: “Ông Phạm Duy từ trần ở Việt Nam, trong tòa soạn, anh là người gần nhất, chắc anh biết nhiều”. Ông nào cũng đúng cả. Tôi phân vân vì kỳ trước tôi đã hứa với độc giả sau bài “văn hóa hòa cả làng” sẽ bàn tiếp về các thứ văn hóa khác đang khiến dư luận nổi sóng. Nhưng có đến hai ông chủ bút nhắc khéo tôi về đề tài Tết và Phạm Duy, nên tôi đành tạm ngưng chuyện văn hóa lại, ra giêng ngày rộng tháng dài tha hồ bàn chuyện văn hóa linh tinh. Xin nói “chuyện xưa” về anh Phạm Duy trước.
Phạm Duy – Thái Hằng hàng xóm của tôi Thưa bạn đọc, đó là tiêu đề trong một bài tôi viết trong tờ đặc san “Văn” xuất bản tại Cali vào năm 2002. Năm đó, anh Nguyễn Xuân Hoàng phụ trách tờ báo này. Anh ra số đặc biệt về Phạm Duy, hồi đó nhạc sĩ Phạm Duy còn ở Mỹ, chưa về “định cư” tại Việt Nam. Anh Nguyễn Xuân Hoàng gửi mail giục tôi viết bài về Phạm Duy. Lần thứ nhất, tôi trả lời là: “Có gì để viết về ông ấy đâu, nhiều người viết quá rồi, tôi không chen chân vào lãnh vực âm nhạc. Cái gì biết thì thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe”. Nhưng hai lần sau, anh Hoàng nói là viết về bất cứ mặt nào cũng được, anh Hoàng “gáy” tôi: anh là hàng xóm của anh Phạm Duy mà. Tôi tóm được cái ý chính, một anh hàng xóm viết về anh hàng xóm, cũng được đấy chứ. Tôi bèn viết rất sơ lược về anh Phạm Duy, dồn tâm ý viết về chị Thái Hằng (chắc độc giả thừa biết đó là phu nhân Phạm Duy). Gia đình chúng tôi ở rất gần nhau trong cái cư xá gọi là Chu Mạnh Trinh, gần ngã tư Phú Nhuận. Thật ra, cái ngõ đó không có tên, nó nằm ở số 215 đường Chi Lăng (nay là Phan Đăng Lưu). Bởi ngõ nằm ngay sau trường học Chu Mạnh Trinh nên lâu ngày nó thành tên chứ có ai đặt tên cho cái ngõ đó đâu. Và một sự thật nữa là cái cư xá đó do ngân hàng xây dựng nên thoạt tiên người ta gọi là “Cư xá nhà băng”, mãi sau này nhiều gia đình thuộc giới văn nghệ Sài Gòn đến mua nhà ở, nên người ta mới thay tên là Cư xá Chu Mạnh Trinh cho khỏi lẫn với mấy cư xá nhà băng khác trong thành phố. Sơ lược tôi còn nhớ những gia đình đã từng ở đó, sau này có thể đã dọn đi nơi khác. Từ ngoài đường lớn vào là nhà các ông Nguyễn Mạnh Côn, Năm Châu, Dương Thiệu Tước - Minh Trang - Quỳnh Giao, Phạm Duy, Đỗ Tiến Đức, Hoàng Anh Tuấn, Anh Ngọc, Mộc Lan, Hoàng Nguyên, Hồ Anh, Duyên Anh, Thẩm Thúy Hằng, Trịnh Viết Thành, Linh Lan... Nhà tôi ở ngay mặt đường ngõ vào, cách nhà anh Phạm Duy không quá 50 mét. Nhưng rất ít khi sang nhà nhau. Lý do giản dị, tôi và Thanh Nam, Mai Thảo là bạn khá thân của anh Phạm Đình Chương. Sau “vụ Khánh Ngọc”, chúng tôi rất ít tiếp xúc với anh Phạm Duy. Suốt thời gian tôi làm ở Đài Phát Thanh Quân Đội, anh Phạm Duy có một chương trình nhạc trong Đài này, hằng tuần gặp nhau ở Đài, chúng tôi không có thì giờ nói chuyện nhiều. Ở đây tôi nhắc lại một đoạn trong bài tôi đã viết 10 năm trước:
Lần duy nhất sang nhà Phạm Duy “Tôi chỉ sang nhà anh duy nhất một lần vào cuối năm 1974, anh mua được mảnh đất khá rộng, bán căn nhà cũ cho ông Nguyễn Mạnh Côn. Anh dọn vào ở cuối ngõ, xây căn nhà mới khá lớn. Chị Thái Hằng đi qua nhà tôi, nhắc: “Anh rủ bạn bè qua nhà tôi chơi. Nhà tôi đang làm một chỗ cho các anh chơi ở ngoài vườn, thơ mộng lắm”. Tôi sang nhà anh Phạm Duy khi khu vườn vừa được trang trí rầt hữu tình. Những hòn giả sơn, những hàng cây, bể nước lớn, những hòn đá tảng rải rác đây đó... Đúng là nơi dưỡng già thật tuyệt. Nhưng “cảnh quan” đó chưa hoàn chỉnh thì ngày 30-4-75 tới, anh phải rời xa. (Xin chú thích thêm là sau này khi anh về Việt Nam sống cũng không “đòi” lại được. Một lần tôi hỏi, anh chỉ nói “quên chuyện đó đi, ông ơi”. Coi như huề cả làng).
Tính cách của nữ danh ca Thái Hằng “Tôi có nhận xét rất thành thật là nếu ở con người anh Phạm Duy luôn luôn hiện diện hai chữ nghệ sĩ lớn như cây đại thụ thì ở chị Thái Hằng trong xóm tôi, chị là người rất bình dị. Chưa bao giờ chị chứng tỏ mình là “một cái gì”, ít ra cũng là vợ một nhạc sĩ có tên tuổi. Nói khác đi, chị không phải là bà Phạm Duy nổi tiếng và cũng chẳng phải là một nữ danh ca thượng thặng trong ban hợp ca Thăng Long. Gia đình chị là một gia đình nghệ sĩ danh tiếng với Phạm Đình Chương, Thái Thanh, Hoài Trung và những anh em như Phạm Đình Sĩ, Kiều Hạnh, Mai Hương... Chị sống chan hòa như một người chị mẫu mực, hiền hậu. Đối với mọi người trong xóm, chị hết sức bình dị, không se sua, không làm dáng. Mỗi buổi sáng, quần ta, áo cánh xách giỏ đi chợ như mọi bà nội trợ bình thường khác. Chị thân thiện chân thành chứ không phải sự “nhún mình” để che giấu một thứ hào quang sau gáy. Suốt hơn 10 năm, sống gần gia đình chị, từ khi Duy Quang, Duy Cường, Duy Minh còn rất nhỏ cho tới khi các cháu lớn lên, tôi chưa hề thấy chị to tiếng với bất cứ cháu nào và chị cũng chưa từng làm mất lòng ai trong xóm. Sự khoan hòa dung dị của chị có thể là một tấm gương lớn cho nữ giới. Trong những ngày sau này, có vụ tai tiếng ở nước Mỹ giữa ông Clinton và cô thư ký nhà trắng, thái độ khôn ngoan của bà Hillary Rodham Clinton khiến nhiếu người nể phục. Khi có chuyện tình lỉnh kỉnh của anh Phạm Duy, các báo ở Sài Gòn khai thác tối đa. Thái độ điềm đạm của chị Thái Hằng còn đáng khâm phục hơn. Các phóng viên cố khai thác ở chị một vài chi tiết nhưng chị chỉ có một câu trả lời: “Tôi rất tin tưởng ở chồng tôi”. Thế là hết, chẳng anh nào khai thác được gì ở chị, nhờ vậy dư luận cũng xẹp dần. Sau này chị cũng không xuất hiện cùng chồng con ở những cuộc vui, những đại hội. Cái bóng cực kỳ thầm lặng đó làm nên tính cách lớn của chị Thái Hằng. Từ trong đáy sâu tâm tư tôi, chị mãi mãi là một nữ nghệ sĩ rất xứng đáng được kính trọng”.
Phạm Duy trên đường đến đoàn tụ cùng Thái Hằng Thưa bạn đọc, đó là những gì tôi đã viết 10 năm trước. Và bây giờ, năm 2013, anh Phạm Duy từ trần, tôi cũng được một ông chủ báo nhắc: “Viết bài về Phạm Duy đi ông”. Tôi cũng trả lời như 10 năm trước: “Chẳng có gì để viết về ông ấy cả. Nhiều người viết quá rồi. Tôi chỉ xin nhắc đến chị Thái Hằng. Tôi nghĩ đó là một lẽ công bằng và ít người viết”. Sau một ngày anh mất, sáng 28-1-2013 tôi và anh Nguyễn Quốc Thái cùng Quốc Anh, phóng viên báo Tuổi Trẻ, mang một trong những vòng hoa đầu tiên đến tiễn đưa anh. Một mái che như cái rạp dựng ngay trên ngõ trước cửa ngôi nhà nhỏ của anh. Lúc đó tôi chỉ thấy vài người quen mặt như ông Nguyễn Ánh Chín, Phạm Thiên Thư, Lưu Trọng Văn, Nguyễn Thiện Cơ, Nguyễn Khắc Nhân, vợ chồng nữ ca sĩ Ánh Tuyết... Sau lễ nhập quan vào 9g sáng, chúng tôi chia buồn cùng tang quyến, đứng trước bàn thờ thắp nén nhang vĩnh biệt anh. Riêng tôi, chỉ cầu xin anh trên đường đi gặp chị Thái Hằng mang tấm lòng kính trọng của người cùng xóm đến với chị, anh chị mãi mãi bên nhau như những ngày còn ở cư xá Chu Mạnh Trinh.
Những ngày cận Tết Sang đến chuyện Tết đang đến gần, trong những ngày này, bất cứ một gia đình nào ở Việt Nam cũng nói đến cái Tết đang gần kề, từ ông nhà giàu đến anh rách tả tơi cũng nói chuyện Tết. Mỗi anh nói theo cách của mình. Anh nghèo càng nghèo, càng lo chạy tiền ăn Tết, thậm chí sợ Tết. Anh giàu lại vẫn đi tậu những “đặc sản” tô điểm cho cái vẻ “đại gia” của mình. Tuy thế năm may nhiều đại gia vỡ mặt vì suy thoái, nhưng dù “vỡ mặt cũng còn cái mũi”, vẫn phải làm ra vẻ “đẳng cấp” để che cái túi rỗng. Ngoại trừ những ông “sụm bà chè” không đứng dậy nổi nữa vì bị con nợ đến tận nhà bao vây, có ông trốn luôn ngay từ đầu tháng Chạp. Nhưng nổi bật nhất là rất nhiều công nhân bị nợ lương từ 1 tháng đến vài tháng, suốt ngày long đong đi kiếm chủ công ty. Họ khổ hơn là những anh chị làm ở ngân hàng, ở những công ty xí nghiệp to đùng không được thưởng Tết hoặc không có lương tháng 13. Những khoản tiền này không có trong hợp đồng lao động và cũng không có trong luật, nên các ông chủ toàn quyền quyết định. Cho nên có những công ty thưởng Tết “không giống ai”. Như công ty sản xuất hương, tặng công nhân mỗi người vài bó hương (nhang) với lý luận nhà nào chẳng cần hương ngày Tết. Một công ty may ở Hà Nội tặng nhân viên mỗi người 70 cái quần đùi (quần lót đàn ông) là thứ hàng bán ế. Thậm chí có công ty còn thưởng Tết cho nhân viên bằng... gạch xây dựng... Đúng là kiểu thưởng chỉ có ở Việt Nam.
Những cảnh chờ tàu xe từ “muôn năm cũ” vẫn tái diễn Vế quê ăn Tết luôn là mối lo của những anh chị công nhân từ miền Bắc, miền Trung vào miền Nam làm ăn. Dường như chẳng có mối bận tâm nào của người miền Nam ra Bắc kiếm ăn, con số này quá ít, hầu như chỉ có vài ông công chức, vài ông giám đốc gặp thời đang phất mới ra Bắc “lãnh nhiệm vụ” mà thôi. Còn hầu hết là những ông công chức bự từ miền Bắc vào miền Nam lãnh nhiệm vụ quan trọng. Những ông này ở đây lâu năm, có nhà cửa vợ con xe pháo đề huề nên đôi khi cũng chẳng cần “về quê ăn Tết” nữa. Mà có về thì máy bay đi cái vèo là tới. Lo gì cái vặt. Với người lao động, tình trạng vẫn như cũ bao năm rồi. Nhà tàu nói “cải tiến”, khách kêu “cải lùi”! Trong khi hai bên liên quan chính năm nào cũng như dàn trận đấu với nhau, “cò vé” ở giữa hưởng lợi lớn từ nguồn vô biên là túi tiền của khách. Vài năm nay công nghệ thông tin lên ngôi nên vé tàu được đặt qua mạng internet. Nhưng khách chờ dài người từ chập tối đến đêm, có người chờ 3 ngày liền mạch vẫn nghẽn đến “sập mạng”, không thể chen vào ghi tên được. Cái nền văn minh ấy coi như tắc tịt. Lại nhào đến nhà ga mua vé. Lại ngày đêm nằm vạ nằm vật chờ đợi mua được tấm vé. Nhưng ra chợ đen thì bao nhiêu cũng có, đi Đà Nẵng hay Hà Nội đều đầy đủ. Có hàng ngàn lời kêu ca gửi đến các báo. Bạn chỉ cần đọc vài ý kiến của người đi mua vé tàu cũng đủ biết họ bị hành như thế nào: - Bạn Thế: thepearltb@gmail.com muốn gào lên: “Tức muốn chết! Ngồi đặt vé cả sáng không được, chạy ra ga Sài Gòn đã thấy 1 đám người kêu ơi ới: “Em ơi, vé về Tết không”. Sau đó là tiến hành giao dịch: 200k 1 vé hẹn vài hôm sẽ có vé. Và tổng thiệt hại cho 1 vé là 1 triệu + 200k nữa @@. Chả hiểu bao giờ mới được như các hãng hàng không nữa? Chung quy vẫn khổ dân!”
- Bạn Mai Thùy Giang có địa chỉ giangthuy@gmail.com viết: “Không thể chấp nhận được cách làm việc của ngành Đường Sắt Việt Nam (ĐSVN). Đừng đổ lỗi cho nghẽn mạng mà hãy xem lại nội bộ ngành đường sắt như thế nào. Tôi nghĩ, mỗi một mùa Tết chắc mỗi nhân viên liên quan cũng kiếm được chiếc xe hơi nhờ ôm vé đẩy ra chợ đen và các đại lý... Vậy thì lấy đâu ra vé cho người dân mua nữa?... Thật buồn!”
- Bạn Hùng: vu.dinh.hung.234@gmail.com than thở: “Vậy mà năm nào các ông nhà tàu cũng kêu ầm lên: Chúng tôi đã cải thiện tốc độ đường truyền, mọi người có thể yên tâm... Năm nào cũng cải thiện, năm nào cũng nghẽn, vậy mà chả rút được tí kinh nghiệm nào thì chả hiểu các ông lập kế hoạch, vạch hướng đi thế nào nữa? Mà năm nào cũng tái diễn, sao không thấy mấy ông quản lý cấp trên nữa nói gì nhỉ? Hay cũng lại nói đã vạch kế hoạch rồi và phải làm từng bước một?”
Quá nhiều lời thở than với bao giọt nước mắt ngắn dài, những giọt mồ hôi cay xé mắt... ẩn chứa trong đó. Vậy mà hình như chưa bao giờ động được tới con tim, khối óc của những ai có khả năng và cả trách nhiệm phải thay đổi tình thế?
Những người nông dân cần cù lo đói ngày Tết Những năm gần đây, nền kinh tế suy thoái, đồng tiền trở nên mất giá, đồ ăn thức uống cái gì cũng cao nên việc bỏ tiền ra thuê người dọn nhà hay giúp việc những ngày cuối năm cũng không còn nhiều như trước. Nhiều khi người ta tự tay làm, chỉ những việc quá khó nhọc hay cần thiết phải thuê thì người ta mới thuê. Gần Tết là lúc công việc đồng áng cũng khép lại, lao động tự do từ các huyện kéo lên thành phố càng đông, người thì đông mà việc thì ít, kéo theo mức giá trả cho nhân công cũng bèo bọt. Mỗi ngày chỉ khoảng 70-80.000đ VN, may mắn lắm cũng chỉ 100.000đ/ngày. Nếu như những năm trước, gần Tết là dịp để người lao động tự do kiếm được “đồng ra đồng vào” hơn, công việc cũng nhiều hơn thì năm nay việc cũng ít mà giá trả cũng thấp, thành ra “nghề đứng đường đợi Tết” những ngày cuối năm lại càng trở nên ảm đạm. Trên những góc đường không khó để bắt gặp từng nhóm “cửu vạn” vật vờ, co ro chờ việc. Anh Hải, một người lao động bốc vác tâm sự: “Vào thời điểm này các năm về trước, ngày nào tôi cũng có vài mối, không đi dọn nhà thì cũng bốc vác gì đó. Từ năm ngoái đến nay thì ít hẳn, chẳng có việc. Giờ đây kinh tế suy thoái, giá cả leo thang nên có sửa sang nhỏ hay dọn dẹp gì thì họ toàn làm lấy, cái gì vất vả lắm thì họ mới thuê. Ban ngày tôi cứ ra đây ngồi chán chê, rồi lại lang thang ra các ngã tư tìm việc mà cũng chẳng ai thuê, Tết nhất đến nơi rồi, ngồi không thế này như ngồi trên đống lửa. Cuối năm mà công việc còn không có thì ra giêng chỉ có mà đói”. Chứng kiến những cảnh vật vờ, co ro trong giá lạnh của những người nông dân cần cù vào những ngày tháng cuối năm mới thấu hiểu phần nào sự khốn khổ của họ. Tết đang tới gần và cũng như hết thảy những người “tìm Tết” nơi đô thị vẫn đứng co ro tìm cái Tết đạm bạc nhất cũng không xong!
Dân nhà giàu vẫn chơi sang Thế nhưng có một thành phần ngược hẳn. Thời kỳ bão giá có thể khiến bạn nghĩ rằng các đại gia sẽ “ngại” mở ví tiền sắm những món đồ chơi Tết đắt đỏ. Tuy nhiên, đến làng đào Nhật Tân, chợ hoa Quảng Bá của Hà Nội những ngày này, chứng kiến nhịp mua bán đào, lan giá “khủng” vô cùng sôi động, chắc chắn bạn sẽ hết hồn. Vườn đào của ông Lê Hàm có khoảng 60-70 gốc đào Thất Thốn. Năm nay, mặc dù kinh tế khó khăn, nhưng giá đào Thất Thốn dường như vẫn chẳng hề bị ảnh hưởng. Những cây Thất Thốn nhỏ nhất cũng có giá trên dưới chục triệu đồng. Cây đào Thất Thốn đẹp nhất trong vườn nhà ông Lê Hàm đã được khách đặt giá 70 triệu đồng, chờ đến ngày Táo Quân tới chở về. Theo chân một vài đại gia đi sắm đào ở Nhật Tân, có thể thấy giá của những gốc đào bích đẹp có thể được “hét” từ 18-30 triệu đồng một cây. Giá thuê và mua chỉ chênh nhau khoảng 3 triệu đồng. Trong khi đó, giá của cành đào rừng “quý” nhất chợ Quảng Bá đang được ghi nhận ở mức 20 triệu đồng. Bên cạnh đó, lan hồ điệp cũng rất bền, có thể chơi lâu tới hơn 2 tháng. Giá các loại lan hồ điệp từ 600 đến 800 ngàn đồng một cành, cao nhất có thể cán mốc 1,5 triệu đồng/cành. Các cửa hàng hoa, siêu thị hoa ở Quảng An bày bán không ít những chậu lan hồ điệp có giá lên tới 20 triệu đồng, 28 triệu đồng, 35 triệu đồng, thậm chí là 65 triệu đồng! Giá đắt như vậy nhưng có khách mua không? Một người bán lan ở chợ Quảng An cho biết đắt mấy cũng có khách mua, giá càng đắt, dân chơi càng chứng tỏ mình là loại người nào nên thị trường hoa Tết sẽ càng sôi động trong một vài ngày tới. Bên cạnh lan hồ điệp, rất nhiều đại gia Hà Nội đã liên lạc tới hỏi và đặt cọc tiền mua các loại địa lan cao cấp như giống vàng Nhật, xanh Newzealand... Giá cả của mỗi chậu lan này cũng không thể dưới chục triệu đồng.
Thú chơi sang như Mỹ Lì xì, mừng tuổi đã trở thành việc “không thể thiếu” vào dịp Tết. Cho nên không nhiều thì ít, cứ Tết đến, hầu hết các ông các bà lại nhờ một số người quen “đổi” ít tiền mới để lì xì. Gần đây ở Việt Nam nhiều người, kể cả dân tiểu thương, có cái thú chơi tiền lì xì là 2 đô-la Mỹ. Ông Tứ, nhân viên của trang web liên quan đến đổi tiền, cho biết tờ 1-2 USD được người dân dùng nhiều để lì xì trong dịp Tết nên có mức phí khá cao. Thậm chí để có được tờ tiền loại 2 USD in năm 1976, khách hàng phải mua với giá 160.000 đồng/tờ, hay phải mua với giá trên 450.000 đồng cho tờ in năm 1953. Tờ 2 USD in năm 1917 có giá 2 triệu đồng. Khách hàng mua số lượng nhiều mới có giá đó, còn mua ít giá còn cao hơn nữa.
Đợi cái hài kịch ông Táo để xả hơi Ở đây tôi chỉ nêu vài hoàn cảnh trái ngược để bạn đọc có thể hình dung thấy những cảnh đời trái ngược tại Việt Nam hiện nay ra sao. Khoảng cách giữa giàu nghèo ngày càng lớn càng sâu, không thể nào san lấp được. Và tại sao lại có những người giàu khủng khiếp nhanh chóng đến thế và tầng lớp lao động, nông dân lại khốn khổ đến như vậy? Câu hỏi tưởng như rất khó trả lời mà thật ra rất dễ. Tại tham nhũng, quan liêu, xa xỉ công quỹ, pháp luật chưa nghiêm minh. Khi tôi viết bài này, sắp đến ngày 23 tháng Chạp, theo tập tục Việt Nam là ngày ông Táo lên chầu trời để báo cáo về công việc dưới trần thế. Báo chí Việt Nam đang quảng bá rầm rộ cho vở “đại hài kịch táo quân” với những “danh hài” sẽ ra mắt khán giả, nhưng đối với tôi, chẳng có gì lạ, bởi đây chỉ là dịp quả bóng được xì hơi. Dù sao, cười được một tí cũng đỡ buồn! Viết từ Sài Gòn, 01/2/2013
|
||||||||||||||||||||||||||||||||
mk
|
||||||||||||||||||||||||||||||||
IP Logged | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Trang of 2 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |