Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Âm nhạc
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Âm nhạc
Message Icon Chủ đề: Ông giáo sư dạy Sử Gởi trả lời Gởi bài mới
Người gởi Nội dung
Huy-Tưởng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 15/Aug/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 164
Quote Huy-Tưởng Replybullet Chủ đề: Ông giáo sư dạy Sử
    Gởi ngày: 26/Apr/2012 lúc 7:46am

Ông giáo sư dạy Sử

                                                         Vương Mộng Long


- Cựu học sinh Trung-Học Trần Quý Cáp, Hội-An.
- Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 20 Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam.
- Chức vụ sau cùng: Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân.
- Từ 1975 tới 1988 tù “cải tạo” (13 năm) từ Nam ra Bắc.
- Từ 1993 định cư tại Thành Phố Seattle, Tiểu Bang Washington, USA.
- Năm 2003 tốt nghiệp University of Washington, cấp bằng B.A SocialSciences and Communication.
- Gia cảnh hiện nay: Một vợ, 4 con, 1 cháu nội, 3 cháu ngoại.

 

 

                     Một chiều cuối năm 1998 tôi vào Trường University of Washington (UW) để đón đứa con gái áp út tan giờ học. Tình cờ tôi nhìn thấy một ông già đứng chờ xe bên bến Bus. Có lẽ ông cụ lớn tuổi hơn tôi nhiều. Hỏi chuyện, tôi mới hay, ông cụ đã qua tuổi bảy mươi, ăn tiền hưu, và đang học môn Truyền Thông (Communication) năm Senior. Tôi chợt nghĩ, thời gian này mình cũng không bận lắm, tại sao không trở lại trường? Ít ra cũng học thêm được vài điều hay. Thế là, hôm sau tôi nộp đơn xin trắc nghiệm trình độ Toán và Anh Văn để xếp lớp tại Shoreline Community College (Shoreline C. C.).

          So với các trường đại học cộng đồng quanh vùng, thì học phí của Shoreline C. C. tương đối nhẹ.Thật là, không có gì diễn tả nổi niềm vui sướng tột cùng của tôi buổi đầu được cắp cặp trở lại trường làm học trò. Ba mươi lăm năm sau khi rời ghế nhà trường (1963) để tình nguyện vào quân ngũ, tôi đâu ngờ còn có ngày được ngồi dưới lớp nghe lời thầy giáo giảng? Xung quanh tôi là những người trẻ tuổi vừa qua bậc trung học.Tôi làm việc mười tiếng đồng hồ một ngày, bốn ngày một tuần lễ. Ngày, ngày, vừa tan sở, tôi lại vội lái xe tới lớp. Từ ấy, tôi làm việc full-time, đi học full-time, bận bịu vô cùng. Học kỳ (quater) đầu tiên, tôi ghi danh một lớp Toán, và hai lớp Anh Văn, mỗi lớp 5 tín chỉ (credit). Tôi miệt mài trong công việc suốt ngày, và chuyên cần trong học tập mỗi đêm. Vào mùa thi, tôi thức trắng hai, ba đêm là thường. Tôi ghi danh full-time để thúc đít thằng con út. Thằng nhỏ sợ ông bố theo kịp, nên phải gắng chạy có cờ để thoát lên đại học bốn năm.

Một niên khóa trôi qua. Con đường học hành của tôi đang có vẻ rộng mở thênh thang, thì bỗng dưng lại quẹo vào một khúc quanh, chỉ vì mùa Fall 2000 tôi đã ghi danh lớp History 274 “U.S. and Vietnam”.
Tôi “lấy” lớp Sử Ký này với mục đích tìm hiểu xem cuộc chiến tranh vừa qua đã được các sử gia Mỹ ghi chép lại như thế nào? Từ đó, hy vọng biết được phần nào, nguyên nhân vì sao, giữa đường, Mỹ đã bỏ rơi Việt-Nam, vì sao chúng ta đã thua trận.

Người từ lâu độc quyền phụ trách lớp Sử 274 là thầy Dan. Trong thời gian dài cả chục năm qua, ông giáo kỳ cựu này đã đào tạo hàng ngàn môn sinh. Những học trò của ông sau khi chuyển tiếp lên trường đại học bốn năm, đã trở thành những Thạc Sĩ, Tiến Sĩ. Lâu lâu họ lại ghé về trường xưa, thăm ông thầy cũ.

Lớp “U.S. and Vietnam” mùa Fall 2000 có chừng hơn hai chục học viên, trong đó da trắng chiếm đa số. Có bốn học trò gốc Châu Á, gồm hai anh Tàu lục địa, một cậu bé H’Mong và tôi. Bạn đồng lớp với tôi còn nhỏ lắm. Họ trẻ hơn mấy đứa con tôi nhiều.

              Tôi cứ tưởng rằng những tài liệu lịch sử mà các thầy giáo đem truyền bá, phải nằm trong chương trình đã kiểm duyệt và cho phép của Bộ Giáo-Dục Hoa-Kỳ. Nhưng thực tế không phải vậy. Nền giáo dục của Mỹ đã đi vào tự trị từ lâu. Thầy giáo có toàn quyền lèo lái, hướng dẫn con thuyền học vấn chở học trò mình tới bất kỳ bến bờ nào mà thày đã chọn. Thầy giáo chỉ định sách giáo khoa nào thầy sẽ dạy để chúng tôi mua. Thầy phổ biến những tài liệu nào mà thầy ưng ý.Trong hai phần ba thời gian đầu của học kỳ Fall 2000, mỗi khi nói tới phong trào Việt-Minh, ông giáo sư dạy Sử không ngớt ca tụng HCM như một lãnh tụ tài ba, và vô cùng sáng suốt đã khôn khéo hướng dẫn dân tộc Việt -Nam tới chiến thắng thoát ách đô hộ của Đế-Quốc Pháp.

             Thầy khẳng định rằng, chính phủ Hoa-Kỳ là nguyên nhân cuộc chiến tranh Đông-Dưong lần thứ hai (1954-1975). Vì theo lời thầy, thì HCM đã năm lần gửi mật thư cho Tổng Thống Harry Truman để xin thần phục và hợp tác, nhưng Tổng Thống Harry Truman đã từ chối. Thầy cho rằng người Mỹ đã lầm lẫn trợ giúp quân Pháp trở lại tái chiếm Đông-Dương trong khi cao trào dân chủ, đấu tranh giành độc lập đang lan tràn trên toàn thế giới, và chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời.

             Chúng tôi đã được cho xem những đoạn phim cũ về trận Điện-Biên Phủ, về Hiệp- Định Geneve, và về cuộc di cư năm 1954. Với những trận có âm vang quốc tế như Plei-Me, Khe- Sanh, Kontum, Bình-Long, Long-Khánh vân vân... chúng tôi chỉ được thấy những cảnh thương vong của quân đội Đồng-Minh và Việt-Nam-Cộng-Hòa. Trận Mậu-Thân, chỉ là cảnh ...nhà cháy, dân chạy loạn. Tất cả những “tư liệu” này đều có thực, nhưng thầy Dan chỉ trưng bày những phần có lợi cho Việt-Cộng. Tôi chưa nghe được từ miệng thầy một lời nói tốt nào cho phía Việt-Nam Cộng-Hòa. Thầy mô tả Quân- Lực Việt-Nam Cộng-Hòa như một đội quân kém cỏi về cả tổ chức lẫn khả năng tác chiến. Với thầy Dan, chiến tranh Việt-Nam chỉ là một gánh nặng cho ngân sách Quốc- Phòng Hoa-Kỳ, một sự phí phạm công quỹ. Đã có đôi lần tôi dơ tay nêu ý kiến bênh vực quân đội ta, chính quyền ta, thì ông chỉ cười, chỉ tay vào quyển Sử dày cộm,

                   “Book said!”

             Cứ cái điệp khúc “Sách dạy!” đó, ông thầy phản chiến đã lịch sự gián tiếp nhắc nhở cho tôi hay rằng, tôi là một học trò, còn ông là một vị giáo sư nói có sách, mách có chứng.

            Thầy hùng hồn thuật lại những lần thầy tham gia biểu tình chống chiến tranh thời 1960s và nặng lời đả kích lệnh động viên ngày đó, đã đưa hàng trăm ngàn thanh niên Hoa-Kỳ vào chỗ chết.

             Kết quả hai lần khảo hạch giữa học kỳ (Mid-Term) tôi đều lãnh điểm (F) bởi vì tôi chỉ làm trót lọt phần A, B, C khoanh, còn về bài tiểu luận (essay) thì tôi bị loại thẳng tay.

             Cả hai bài đều lãnh điểm KHÔNG (0) chỉ vì tôi đã viết không hợp ý ông thày. Ngặt một điều là, lớp History 274 này bị tính điểm đem lên trường đại học bốn năm. Bị đánh rớt lớp này thì giấc mơ chuyển tiếp lên University of Washington của tôi sẽ thành mây khói.

            Tôi theo học lớp này đúng vào lúc nhà trường đang sôi sục với cuộc vận động bầu cử Tổng Thống. Ông thầy dạy Sử không phải là người độc nhất có ác cảm với chiến tranh, mà Tiểu-Bang Washington tôi đang cư ngụ cũng là thành trì của Đảng Dân-Chủ. Tâm sự này kiếm cả trường chắc cũng chẳng có ai thông cảm!

            Thời gian này lòng tôi thật muộn phiền. Tôi tự trách rằng, mùa Fall 2000 có thiếu gì lớp tương đương với History 274 mà sao tôi lại nộp mạng vào cái lớp chết tiệt này? Đúng là bỏ tiền ra ghi danh để ngồi nghe người ta chửi mình, chửi quân đội mình. Càng nghĩ tôi càng thấy tức! Thằng con trai thấy ông bố rầu rầu bèn lân la hỏi chuyện. Khi hiểu nguồn cơn nỗi buồn của tôi, nó mới cho tôi hay, năm ngoái nó cũng ghi danh học lớp này, và đã bị một “vố” đau. Để thoát thân, từ bài thi thứ nhì nó phải viết theo ý ông giáo. Vất vả lắm nó mới kiếm được đủ điểm.

             Sau ngày có kết quả khảo hạch kỳ thứ nhì, tôi bỏ công xuống thư viện nghiên cứu, sao chép những tài liệu sử liên quan tới chiến tranh Việt-Nam. Tôi không màng đến vấn đề chuyển tiếp lên University of Washington nữa. Tôi chờ, nếu có cơ hội là tôi sẽ “choảng nhau” với ông giáo phản chiến này một trận, rồi muốn ra sao thì ra.Tôi lục lạo kệ sách loại chọn lọc (preference) và tìm được một quyển Sử-Ký, trong đó, chứa đựng nhiều tài liệu ghi chép rõ ràng những thành quả mà Việt-Nam Cộng-Hòa đã thực hiện được. Trong số những tài liệu quý giá đó, có cả một bài đề cập tới đơn vị tôi, Liên Đoàn 2 Biệt-Động-Quân. Tôi vui mừng và cẩn thận photo copy những c thu nhận được để dùng làm bằng chứng khi cãi lý với ông giáo sư dạy Sử. Tôi cũng tận dụng thời gian rảnh cuối tuần để sắp xếp cho có thứ tự những điều cần tranh luận. Tôi ghi sẵn những câu phê bình, những câu chất vấn thẳng thắn với thầy Dan về cung cách giáo dục học trò của ông, và về những tài liệu mà ông đã dùng để trợ huấn.Buổi học áp chót của mùa Fall chúng tôi có một giờ đầu thi A, B, C khoanh. Sau đó thày giáo phát đề bài làm ở nhà. Thời gian còn lại, thày sẽ giảng gợi ý cho bài tiểu luận. Bài tiểu luận sẽ phải giao nộp vào đầu giờ buổi học cuối cùng.Vừa nghe chuông giải lao, tôi tiến tới bàn ông giáo Sử. Dù trong bụng đã chuẩn bị sẵn một mớ ngôn từ đao to búa lớn cho một cuộc đấu khẩu sống mái, nhưng tôi vẫn dằn lòng, nhỏ nhẹ,

- Thưa giáo sư. Xin giáo sư vui lòng cho phép tôi được trình bày với ông đôi điều liên quan tới sự giảng dạy của ông trong thời gian vừa qua. Tôi có thể làm phiền ông vài phút được không?

Thầy Dan niềm nở,
- Dĩ nhiên là được. Ông có điều gì cần cứ nói.

Thấy câu chuyện đã mở đầu trót lọt, tôi mạnh miệng,
- Thưa giáo sư, tôi là một người Việt-Nam tị nạn. Tôi là một cựu sĩ quan của Quân-Đội Việt-Nam Cộng-Hòa. Tôi còn nhớ trong bài giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi, nhắc lại rằng, phi vụ đầu tiên của pháo đài bay B 52 trên Cao Nguyên Việt-Nam là vụ oanh tạc Thung Lũng Ia-Drang.Thầy có biết không? Cũng vào ngày hôm đó, tôi đang tập dượt lễ mãn khóa sĩ quan Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam. Và mười năm sau, trước khi tàn cuộc chiến, vùng đất mà tôi chịu trách nhiệm trấn giữ cũng bao gổm cả cái Thung Lũng Ia-Drang đó.

            Thầy chỉ biết tới những trận đụng độ đẫm máu trong thung lũng Ia-Drang qua báo chí, truyền thanh, và truyền hình.Còn tôi là người đã lặn lội mười năm ở đó, đã nhiều lần bị thương đổ máu ở đó, đã rơi lệ vuốt mắt cho nhiều đồng đội nằm xuống ở đó. Trong số những người nằm xuống ấy, không thiếu những thanh niên Mỹ đồng trang lứa với thầy. Nơi đó chúng tôi chiến đấu quên mình từng ngày, vì nền độc lập của đất nước tôi, và vì quyền lợi của nước Mỹ.Thầy chưa từng khoác áo nhà binh, chưa một lần có mặt trên chiến trường. Suốt đời thầy không hiểu nổi thế nào là niềm kiêu hãnh của một người lính chiến, thế nào là lòng khát khao chiến thắng, thế nào là tình huynh đệ chi binh.

             Suốt đời thầy không hiểu được vì sao hơn hai chục thương binh què quặt của một đơn vị Biệt Động Quân Việt-Nam Cộng- Hòa phải mở đường máu rút lui mà vẫn cưu mang theo ba người lính Mỹ, trong đó có hai người bị trọng thương; và vì sao một đại tá Hoa-Kỳ đã đưa thân che chở cho một thương binh Việt-Nam để rồi ông bị mảnh đạn vỡ đầu.Mạng lưới truyền thông thiên Cộng khổng lồ của Hoa-Kỳ đã tiếp tay với bộ máy tuyên truyền của Cộng-Sản Quốc-Tế cố tình xuyên tạc, bóp méo tất cả những c liên quan tới nguyên nhân, diễn tiến, và hậu quả của cuộc Chiến-Tranh Việt-Nam. Từ đó, tên Việt-Cộng khát máu HCM đã được tô vẽ, đánh bóng thành một vị lãnh tụ đức độ anh minh.

              Chính tên sát nhân này và đảng Cộng-Sản Việt-Nam đã giết oan không biết bao nhiêu đồng bào vô tội của tôi trong suốt thời gian ba mươi năm chiến tranh. Nằm trong số hàng trăm ngàn nạn nhân bị giết, tù đầy, thủ tiêu, cha tôi và chú tôi cũng bị chặt đầu trôi sông trong thời gian đó. Nếu chế độ Cộng-Sản là tốt đẹp, thì đã không có một triệu dân miền Bắc di cư vào Nam sau Hiệp-Định Geneve năm 1954, và sẽ chẳng có những cuộc vượt biên bi thảm của hàng triệu thuyền nhân trên biển bỏ quê hương sau khi Miền Nam rơi vào tay Cộng-Sản năm 1975. Thầy chỉ mới thấy hình bé gái Kim Phúc trần truồng, vừa khóc vừa chạy, thân mình phỏng cháy vì bom Napalm của quân Đồng-Minh đánh lầm vào nhà dân, mà thầy đã thấy xót xa, cho rằng quân Đồng-Minh tàn ác.

              Nếu thầy ở vào vị trí của tôi, không hiểu thầy sẽ nghĩ sao? Ngày 18 tháng Tư năm 1974, sau khi tái chiếm Căn Cứ Hỏa-Lực 711, Pleiku, tôi đã tận mắt chứng kiến một cảnh dã man chưa từng thấy. Trong một căn hầm trú ẩn đầy ruồi nhặng, trên chiếc giường tre là cái xác trần truồng của một người vợ lính. Chị bị Việt-Cộng lột hết quần áo, bị hãm hiếp, rồi bị đâm chết bởi nhiều nhát lưỡi lê, ruột gan lòi lòng thòng. Trên nền đất, máu đọng thành vũng. Trong góc hầm là xác đứa con trai hai tuổi của nạn nhân. Cháu bé bị trói hai tay, hai chân bằng dây dù và cũng bị hàng chục nhát lưỡi lê đâm vào bụng, vào ngực. Hai người này vừa theo chuyến xe tiếp tế của đơn vị lên thăm chồng và cha của họ được vài ngày. Họ đã không kịp chạy khi Việt-Cộng tràn ngập căn cứ trưa 15 tháng Tư năm 1974.

                Câu chuyện vừa tới đây thì hết giờ giải lao, học trò trở lại lớp. Ông giáo vỗ vai tôi,
- Ông cứ ngồi đây, ta sẽ tiếp tục.

                 Rồi ông lớn tiếng cho phép lớp nghỉ sớm, để học trò có thời gian chuẩn bị bài thi viết. Chờ cho người học trò sau cùng ra khỏi cửa, thầy Dan nói nhỏ với tôi,

            - Ông hãy tiếp tục câu chuyện của một nhân chứng sống. Tôi mong được nghe thêm. Tôi không ngần ngại, tiếp lời,

            - Cám ơn giáo sư. Tôi chỉ nói những gì thấy tận mắt, nghe tận tai, và những gì xảy ra cho chính bản thân và gia đình tôi để thầy có một nhận định chính xác về cuộc chiến tranh Việt-Nam đã ảnh hưởng như thế nào đối với người dân Việt. Tôi tâm sự với thầy Dan rằng, tôi là một học trò tốt nghiệp trung học vào đúng thời điểm đất nước lâm nguy nên tôi đã tình nguyện vào quân ngũ để cứu nước. Tôi tóm lược cuộc đời chinh chiến của mình cho ông giáo nghe. Tôi thấy thầy Dan đặc biệt lưu tâm tới những chiến dịch xảy ra trên Tây-Nguyên, và ông có vẻ rất quen thuộc với những địa danh Ban-Mê-Thuột, Pleiku, Plei-Me, Đức-Cơ, Kontum. Nghe tôi nói ở Tây-Nguyên chiến trận, chết chóc xảy ra hàng ngày, ông vội hỏi,

              “Mỗi lần ra trận, ông có sợ không?”
Tôi cứ tình thực trả lời,


               Sợ chứ! Vào chỗ chết, ai mà không sợ? Nhưng tinh thần trách nhiệm đã làm cho tôi quên cái sợ.Thấy ông giáo sư có vẻ muốn nghe truyện chiến trường, muốn hiểu tâm tư người đi trận ra sao, tôi đã không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của tôi trong trận Dak-Tô năm 1969. Cuối trận này tôi đã phải mở khói đỏ yêu cầu máy bay đánh ngay trên đầu mình để cùng chết với quân thù. Vào giờ phút tuyệt vọng nhứt của trận đánh đó, tôi đã nghĩ gì, tôi cũng thổ lộ cho ông giáo biết.

 

           Ông giáo sư đã từng nghe nói tới cái tên “Đường Mòn HCM” nhưng chưa bao giờ ông ngờ rằng đó là cả một hệ thống đường giao thông chằng chịt che dấu dưới rừng già dọc Trường-Sơn. Tôi đã chia sẻ với ông những cảm giác hồi hộp, căng thẳng của người có cái kinh nghiệm đi toán Viễn-Thám săn tin dọc biên giới Việt-Miên-Lào từ Khâm-Đức tới Bu-Prang vào những năm 1972-1973.

            Ông cũng rất hứng thú khi nghe tôi thuyết trình về kỹ thuật bắn xe tank mà Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã áp dụng trong trận Xuân-Lộc tháng Tư năm 1975. Trận Xuân-Lộc này ông có nghe qua, nhưng ông không ngờ, một trong những cấp chỉ huy trực tiếp của trận đánh lừng lẫy ấy đang ngồi trước mặt ông. Tôi không quên nói tới những lần dừng quân bên xóm làng quê nghèo nàn, nhận những bát nước chè xanh, những củ khoai luộc của đồng bào tôi đem ra mời mọc. Tình quân dân cá nước ấy đã là những liều thuốc bổ giúp tinh thần chúng tôi mạnh mẽ hơn khi đối mặt với quân thù.Tôi thuật lại cho thầy nghe, trong tình thế hoàn toàn tuyệt vọng, chúng tôi đã chiến đấu kiên cường như thế nào.

            Và sau khi biết rằng chỉ trong vòng một tháng cuối cùng, chín mươi phần trăm của quân số hơn năm trăm người thuộc Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã chết vì tổ quốc, thì ông giáo đã giơ hai tay lên trời, lắc đầu thốt ra hai tiếng,

                    “Trời ơi!”

           Thầy Dan cũng muốn tìm hiểu xem, sau khi mất nước thì số phận của tôi và gần một triệu quân nhân, công chức chính quyền Việt-Nam Cộng-Hòa ra sao. Ông đã trố mắt ngạc nhiên khi biết ra rằng, từ sau tháng Tư năm 1975, khắp đất nước tôi, “Trại Cải Tạo” đã mọc lên như nấm. Cái tên “Re-Education Camp” mà ông đã nghe qua, trên thực tế chỉ là những trại tù khổ sai. Những “học viên” trong các trại đó sống không khác gì những con vật, quằn quại với cái đói. Họ bị ép buộc làm việc tới kiệt lực. Tinh thần bị khủng bố, căng thẳng liên miên bởi những buổi ngồi đồng học tập, phê bình, bầu bán. Tôi thú thật với ông giáo rằng, trong thời gian đó, tôi chỉ nghĩ tới tự do; làm sao để tìm lại được tự do, dù có chết cũng cam lòng. Ông giáo đã tỏ ra say mê theo dõi truyện hai lần tôi trốn trại thất bại, cùng những cực hình mà tôi phải gánh chịu. Tôi cũng không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của vợ tôi ngày đó, một nách bốn đứa con thơ dại, vất vả, tảo tần nuôi con, chờ chồng trong 13 năm tôi bị giam giữ, tù đầy.

             Tôi cho ông giáo biết tôi là người sinh ra tại Miền Bắc Việt-Nam. Tháng 7 năm 1954 gia đình tôi đã cùng gần một triệu người khác di cư vào Nam để trốn lánh Cộng-Sản. Tôi cặn kẽ phân tích cho thầy rõ, sau Hiệp-Định Geneve năm đó, hai miền Nam, Bắc Việt-Nam đã thành hai quốc gia, độc lập và có chủ quyền, có biên giới. Chính HCM và đảng Cộng-Sản Việt-Nam đã chủ trương, phát động và điên rồ theo đuổi một cuộc chiến tranh tiến chiếm Miền Nam . Quân đội và nhân dân Việt-Nam Cộng-Hòa chỉ làm nhiệm vụ tự vệ. Quân Mỹ và Đồng-Minh vào Việt - Nam là để phụ giúp chúng tôi chống lại một cuộc xâm lược từ phương Bắc.

             Chúng tôi thất trận không phải vì chúng tôi kém khả năng, thiếu tinh thần chiến đấu, mà vì người Mỹ đã phản bội, nửa đường rút quân, cắt viện trợ. Từ khi người Mỹ rút lui, chúng tôi bị bó chân bó tay, bụng đói mà vẫn phải chiến đấu. Trong khi đó, Miền Bắc lại tràn ngập lương thực, quân dụng, quân nhu, và vũ khí viện trợ từ khối Cộng. Thời gian khởi đầu chương trình Việt-Nam- Hóa chiến tranh, còn được cung ứng vũ khí, lương thực dồi dào, chúng tôi đã chứng tỏ khả năng có thể cáng đáng bất cứ nhiệm vụ nào của quân đội Đồng-Minh bàn giao lại.Để chứng minh điều này, tôi mở tờ copy từ quyển History của thư viện, trong đó có sơ đồ các cánh quân Việt-Nam Cộng-Hòa vượt biên tiến chiếm miền Bắc Cam-Bốt trong chiến dịch Bình Tây 1, 2, 3 cuối năm 1970 của Quân Đoàn II. Tôi chỉ cho ông cái dấu hiệu quân sự hình tam giác có chữ R ở giữa, cạnh trên có ba cọng râu, bên trái là con số 2,

             - Đây! Thưa thầy, cuối năm 1970, tại vùng 2 Chiến Thuật, chúng tôi đã đánh đuổi quân Bắc Việt tới bờ đông của sông Mê-Kông trên đất Miên. Ngày đó tôi là người chỉ huy một đơn vị trực thuộc Liên-Đoàn 2 Biệt-Động-Quân. Tôi đã đánh chiếm thành phố Ba-Kev, và đóng quân tại nơi này một thời gian. Chúng tôi đã chứng tỏ rằng khả năng chiến đấu của chúng tôi đã hơn hẳn quân đội Bắc Việt. Nhưng những năm sau, viện trợ cắt giảm dần. Mặc dầu tinh thần của chúng tôi không suy giảm, nhưng chiến đấu trong cảnh thiếu thốn thường xuyên, chúng tôi vất vả lắm. Tôi xin đan cử ra đây một so sánh để thầy thấy rõ sự khác biệt.

            Trước khi Mỹ rút, tháng 6 năm 1968, có một lần tôi đang dàn quân tiến chiếm một ngọn đồi thì Bộ Chỉ Huy Task Force South của Mỹ ở Đà -Lạt đã bắt tôi ngừng lại để chờ pháo binh và không quân yểm trợ. Tôi đã nhận được một phi tuần hai phi xuất F4C và sau đó là một hỏa tập tám trăm quả đạn đại bác 105 ly trên mục tiêu trước khi xung phong. Mục tiêu đó chỉ rộng bằng diện tích khuôn viên trường Shoreline C. C. này. Chỉ hơn một năm sau khi Mỹ rút, tháng 8 năm 1974, tiền đồn Plei-Me do tôi trấn giữ đã bị một lực lượng địch đông gấp chín lần vây hãm 34 ngày đêm. Plei-Me cũng chỉ rộng bằng trường Shoreline C.C. thôi. Vậy mà mỗi ngày chúng tôi đã hứng chịu từ một ngàn tới hai ngàn viên đạn pháo cối của địch. Để chống lại, ngoài hai khẩu 155 ly của quân bạn yểm trợ từ xa, tôi chỉ có hai khẩu đại bác 105 ly. Vì tình trạng khan hiếm, tôi chỉ được phép bắn theo cấp số đạn giới hạn là bốn viên cho mỗi khẩu súng một ngày. Chiến đấu trong tình trạng thiếu thốn như thế, chúng tôi vẫn chiến thắng. Thầy nghĩ sao về chuyện này?

            Chúng tôi đã chiến đấu cho chính nghĩa như thế đấy, chúng tôi đã hy sinh như thế đấy, và chúng tôi đã bị bỏ rơi như thế đấy. Tôi cũng không hiểu vì sao người Mỹ phản chiến, trong đó có thầy, lại xuống đường tranh đấu, cổ vũ cho kẻ thù của chúng tôi, và ngược đãi chiến binh của chính nước Hoa-Kỳ? Thầy ơi! Sao thầy lại nỡ nhẫn tâm như thế! Thầy đã tiếp tay với kẻ thù, đâm sau lưng thân nhân và bạn bè đồng minh của thầy. Nhân dịp này, tôi cũng chuyển lại cho thầy nghe tâm sự của anh Bill, một bạn cựu quân nhân Mỹ trở về từ Việt-Nam năm 1973. Anh Bill hiện nay (2000) là Supervisor của hãng mà tôi đang làm việc. Đây là lời của anh ấy,

           “Bạn có cảm thông nỗi đau đớn của chúng tôi ngày đó không? Hôm chúng tôi cặp bờ Everett , Washington, dân chúng Mỹ, kể cả những người thân, tiếp đón chúng tôi bằng cách dơ cao ngoắc ngoắc ngón tay giữa! Đi đâu chúng tôi cũng bị nhìn với đôi mắt khinh khi. Bao nhiêu ê chề nhục nhã đổ lên đầu người thua trận. Thua trận đâu phải lỗi của chúng tôi? Có bạn tôi đã buồn mà tự tử. Rồi tôi bị giải ngũ. Thời gian ấy kiếm được một việc làm là điều khó khăn trần ai. Hãng xưởng nào cũng không mặn mà với những hồ sơ xin việc của những cựu chiến binh. Cũng may, có người bạn học thời Mẫu Giáo đã giới thiệu tôi vào làm việc cho hãng này. Lương hướng thời ấy chỉ có 3 USD một giờ cũng đã khiến tôi mừng quá lắm rồi.”

           Sau câu chuyện này, tôi chuyển sang phê bình cách giảng dạy của ông thầy, tôi nói thẳng với ông giáo sư rằng, bao năm nay ông đã bóp méo lịch sử của cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt-Nam, làm như thế ông đã phạm tội đối với lịch sử. Cách giảng dạy của ông đã gieo vào trí óc học trò những thành kiến sai lầm đối với Việt-Nam Cộng-Hòa, làm giảm giá trị sự trợ giúp của chính phủ và nhân dân Hoa-Kỳ đối với nước tôi.Cuối cùng, tôi hỏi ông giáo,

-Thầy còn nhớ, năm ngoái, có một cậu bé Việt-Nam, mặt mày sáng sủa, lông mày rậm, tóc hớt kiểu nhà binh theo học lớp Sử 274 này không?

- Nhớ chứ! Mỗi lớp chỉ có vài học trò Á Châu, dĩ nhiên là tôi nhớ!

- Cậu bé Việt-Nam đó chính là thằng con út của tôi! Năm ngoái, bài tiểu luận đầu của nó bị điểm KHÔNG (0) vì nó viết theo quan điểm của một người dân Miền Nam. Những bài sau nó phải đổi cách viết, để thầy cho điểm khá hơn. Tôi là cha nó; tôi là một trong những người chứng kiến, tham gia và trực tiếp gánh chịu hậu quả của cuộc chiến tranh vừa qua;tôi không thể làm như con tôi được. Tôi đã nói hết những đều cần nói với giáo sư, và tôi sẵn sàng chấp nhận hậu quả.

Ông thầy dạy Sử như bừng tỉnh cơn mơ,

- Tôi tin lời ông, vì chẳng có lý do gì để ông nói dối. Có điều là, từ đó tới nay, hơn hai mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình Việt-Nam đầu tiên tới định cư ở Hoa-Kỳ, chưa ai nói cho tôi nghe những điều này. Có thể, người ta muốn quên đi quá khứ, hoặc là người ta không có can đảm nói ra. Tôi đã hiểu, và tôi phải cám ơn ông. Ông quả là một chiến binh thực thụ.

           Nghe được những lời nói chân tình từ miệng ông giáo sư, lòng tôi cảm thấy ấm áp lạ lùng. Trước mắt tôi, ông đã thành một người bạn đồng minh, ông đưa bàn tay hộ pháp ra cho tôi bắt,

“Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”

          Đêm ấy trên đường về nhà, lòng tôi rộn ràng như thuở nào giữa sân vận động Pleiku, sau chiến thắng Plei-Me, tôi đã đứng trước một đoàn hùng binh, quần áo hoa rừng, nhận những vòng hoa rực rỡ, tai nghe bản nhạc “Bài Ca Chiến Thắng” do ban quân nhạc Quân-Đoàn II hòa tấu.

             Ngày chấm dứt mùa Fall năm 2000 ông thầy dạy Sử tươi cười trao cho tôi bản tổng kết cuối khóa, trên đó điểm trung bình (GPA) lớp History 274 của tôi ghi 4 chấm (4.00).

             Cuối mùa Spring 2001 tôi dự lễ cấp văn bằng tốt nghiệp A. A. nơi vận động trường có mái che của Shoreline Community College. Khán đài đông nghẹt thân nhân. Vợ tôi và bốn đứa con tôi cũng có mặt ngày hôm ấy. Khi người điều hành gọi tên tôi lên bục để nhận văn bằng, cả hội trường đều ngạc nhiên vì thấy nơi hàng ghế giữa của khu giáo sư có tiếng ai gào lên như tiếng sấm,
              “Long! I’m proud of you!”

             Đến lúc bà Hiệu Trưởng bắt tay tôi thì ông giáo Dan đứng dậy, bắc loa tay hướng về sân khấu,
             “My soldier! I’m loving you!”

         Ông là một người cao lớn. Trong chiếc áo thụng đen, trông ông dềnh dàng như nhân vật chính trong phim “Người Dơi”.

         Những người có mặt trong hội trường buổi ấy đều quay mặt nhìn về hướng ông giáo, ai cũng ngạc nhiên vì hành động phá lệ của một ông thầy xưa nay nổi tiếng là mô phạm. Thấy ông giáo Dan réo tên tôi ầm ầm, vợ con tôi và những khán giả ngồi trên khán đài cũng vỗ tay, reo hò, la hét theo. Hai năm sau, khi tốt nghiệp B.A. từ University of Washington, tôi về thăm và báo cho ông biết, ông vui lắm.

          Từ đó cho tới khi tôi ngồi viết lại những giòng này (2011) hàng chục ngàn học trò đã tới, rồi giã từ Shoreline Community College. Và chắc chắn, hàng trăm lượt người trẻ tuổi đã đi qua lớp History 274. Mười một năm qua, tôi vẫn nhớ buổi tối năm nào, tôi với ông giáo sư dạy Sử đã ngồi tâm sự với nhau. Lời khen của ông, mà tôi quý như một tấm huy chương, vẫn còn văng vẳng,

                “Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”

                                                          Seattle tháng 7 năm 2011
                                                            Vương Mộng Long-K20

 

mhth
IP IP Logged
hoangngochung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 27/Nov/2010
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 513
Quote hoangngochung Replybullet Gởi ngày: 27/Apr/2012 lúc 1:45am

Vương Mộng Long: Đường lên Hiên, lên Giàng


(Hồi ký của Vương mộng Long k20, Viết để nhớ về bạn bè của tôi ở trung học Trần Quý Cáp Hội-An, và nhớ về những thuộc cấp của tôi trong binh chủng Biệt Động Quân/QLVNCH)

Gia đình tôi dọn về khu chùa Âm-Bổn, Hội-An khi tôi học xong Đệ Lục trung học Trần Quý Cáp. Tôi có bốn người bạn thân, Trần ngọc Lợi, Lê văn Bảy, Ngô Rân, và Lê hữu Mục. Năm đứa chúng tôi chơi với nhau từ Đệ Thất. Tối tối chúng tôi tụ họp trên lề xi măng sát bờ sông Thu-Bồn, trên đường Bạch-Đằng, đối diện với nhà bác Trần ngọc Mai, thân sinh của anh Trần ngọc Lợi. Chúng tôi tâm sự, chuyện vãn, học bài dưới ánh điện đường. Đôi khi cao hứng, chúng tôi ngâm nga những bài thơ vừa học trong giờ giảng văn, thơ Nguyễn Khuyến, thơ Tản Đà, thơ Xuân Diệu… vân vân. Thời cụ Diệm, đất nước thanh bình. Nhà, phố, ban đêm không cần khóa cửa. Tuổi trẻ hồn nhiên. Tâm hồn tôi thơ thới. Đời tôi chưa vướng chút âu lo gì về hòa bình hay chiến tranh. Có khi, Thứ Bảy, tôi và bạn quây quần bên nhau cho tới nửa đêm mới chia tay, ai về nhà nấy. Trừ những ngày nước lũ, mùa dông, dòng Thu-Bồn lúc nào cũng mờ mờ hơi khói sương, đầy nét mơ màng. Dòng sông ấy là một trong những dòng sông tôi yêu quý nhứt. Lớn lên, tôi sống xa Hội-An, nhưng mỗi khi có dịp ghé về, tôi thường lang thang nhiều giờ, bên bờ sông, nhìn những con đò ngang, đò dọc, nhìn bèo trôi, mây bay…
Lên tới Đệ Ngũ, bạn bè tôi phần nhiều, đã biết yêu. Thư qua, thư lại giữa các cặp tình nhân trao đổi ngay trước mắt tôi, hằng ngày, trong lớp. Những mối tình đầu ở thành phố Fai-Foo cổ lỗ, nhỏ bé này cũng thường bị nhiều kẻ xâm lăng đe dọa. Trước khi có lệnh động viên vì tình hình đất nước lâm nguy, thầy giáo là địch thủ đáng gờm nhất của những chàng học trò đang yêu. Lớp tôi có chị Tô thị Vân, Bắc-Kỳ, tóc dài. Nhà chị Vân ở gần giếng Bá-Lễ. Ngõ vào giếng, có cây hoa mộc lan; đêm đêm, mộc lan tỏa hương, thơm ngát một vùng. Tết Trung-Thu hàng năm, chị Vân và em gái chị là Tô thị Lan được chọn đóng vai Hai Bà Trưng, ngồi trên xe hoa diễn hành. Năm chúng tôi lên Đệ Tứ thì thầy Huy dạy Quốc-Văn làm giáo sư hướng dẫn. Thầy Huy mê chị Tô thị Vân ra mặt. Dù chị Vân không ưa gì thầy Huy, nhưng những người đang theo đuổi chị Vân như anh Bảy, anh Rân, đều ghét thầy cay đắng. Những lúc thầy ấp cái hình Hai Bà Trưng (Vân, Lan) vào ngực, đôi mắt hiu hiu, thì bọn bạn tôi ức lắm, họ chỉ muốn thoi cho thầy vài thoi.
Nhưng, xem chừng như nhiều cô nữ sinh trường tôi cũng thích nâng khăn sửa túi cho các giáo sư. Con đường Hoàng-Diệu chỉ dài khoảng hai trăm thước, mà cũng có cả tá nam sinh ôm hận, bỏ ăn, bỏ học, ngẩn ngơ khi cô nữ sinh xinh đẹp con gái quan phó tỉnh lên xe hoa về nhà… thầy.
Bạn tôi, có đứa đã trải qua vài trận thất tình. Người thất tình thường hay làm thơ buồn day, buồn dứt. Hình như người thất tình dễ trở thành thi sĩ lắm! Thi sĩ nào cũng biết hút thuốc lá. Khói thuốc làm cho thi nhân có hứng để viết. Thuốc Cotab thơm ngon hơn Ruby nhiều, nhưng đắt lắm, chỉ có thầy giáo mới hút Cotab. Còn học sinh chỉ dám rít Ruby, hợp với túi tiền. Ba đồng, bốn điếu Ruby. Buổi đó chưa có Ruby Quân-Tiếp-Vụ loại bao in hình anh Chiến Sĩ Cộng-Hoà chân co, chân duỗi. Mới chỉ có Ruby loại bao màu hồng, có hình những đồng tiền vàng dính nhau. Khói Ruby vào phổi làm cho tâm hồn ta dạt dào, lâng lâng, ngẩn ngơ. Trong sân trường tôi, thi sĩ lềnh bềnh, phiêu dạt đầy sân… Những tập thơ bằng giấy “pơ lua pho” với chữ viết bằng ngòi bút “rông” được chuyền tay, nâng niu như trứng. Trong số những công tử mới tập tành phun châu, nhả ngọc thời ấy, có vài vị sau này trở thành thi sĩ thực thụ như (Huỳnh) Hoàng Quy, Thái tú Hạp, Phùng Tiến… Tôi chưa biết thất tình là gì nhưng cũng cố theo kịp bạn bè, bắt đầu tập tành hút thuốc lá. Dù bị mẹ tôi cấm đoán, đôi lúc, tôi vẫn lén mua vài điếu Ruby lẻ, kiếm nơi thanh tịnh, ngồi hút một mình. Tôi không biết cách ém khói, rồi để khói phì ra đàng mũi, hay nhả khói thành vòng tròn, như những tay lão luyện. Tôi hớp từng ngụm khói vào mồm, rồi thở ra bằng mồm. Tuổi tôi lúc đó làm gì có nhiều kinh nghiệm sống để mà viết lên cho thành truyện? Tôi đành tưởng tượng. Cứ ngồi một mình, cho trí tưởng tượng phiêu du theo khói thuốc, thế là có bao nhiêu đề tài để viết. Mỗi khi làm được bài thơ nào ưng ý, tôi thường lấy phấn đủ màu mè ngũ sắc “yết” nó lên cái bảng đen giữa lớp để chia sẻ công trình của mình với bạn bè. Vài tháng một lần, tôi và mấy người bạn cùng lớp, “xuất bản” một tập thơ viết tay trên giấy “pơ lua”, chỉ để tặng, không bán (vì có ai mà thèm mua!) Chúng tôi sưu tầm những bài thơ hay trên các nguyệt san, đặc san, rồi sao chép lại thành tuyển tập chuyền tay nhau.

Một hôm, tôi vớ được “Paris Có Gì Lạ Không Em” của Nguyên Sa, tôi viết nó lên bảng cho bạn bè thưởng lãm, ai cũng khen thơ ông này có cái phong thái mới lạ, dễ thương…
Thường thì, khi mê thơ của ai, tôi hay tò mò tìm hiểu xem người thơ ấy sống cuộc đời thường ra sao? Ngày đó tôi mê thơ Thái Can. Vì thế, lúc rảnh rang, tôi hay đạp xe qua phố Nguyễn thái Học. Đường Nguyễn thái Học có nhà của Bác sĩ Thái Can. Bác sĩ Thái Can chính là tác giả bài thơ bất hủ “Anh Biết Em Đi Chẳng Trở Về” Bác Can cũng là thân sinh của chị Thái thị Mai và anh Thái Thanh, bạn học (Đệ Tứ 1) ngang lớp với tôi trong trường Trần Quý Cáp. Xe đi ngang nhà Bác sĩ Thái Can thế nào tôi cũng nghển cổ nhìn vào, quan sát. Đã nhiều lần bác Can bắt quả tang đôi mắt láo liên, dớn dác của tôi, khiến tôi đỏ mặt. Tôi phải ra sức gò lưng, đạp cho xe lướt nhanh. Chắc bác tưởng tôi bắng nhắng lạng xe trước nhà bác chỉ vì nhan sắc của cô con gái cưng của bác? Thực tình, tôi không nghển cổ kiếm hình bóng chị Mai đâu, mà tôi dòm xem bác Thái Can vui hay buồn? Tôi cứ thắc mắc rằng, bị một trận tình, thua thất điên bát đảo như thế, chắc tim bác phải ê ẩm, rầu rĩ, lâu lắm? Lời thơ của bác buồn ghê…
“Anh biết em đi chẳng trở về!
Dặm ngàn liễu rũ với sương che.
Thôi đừng quay lại nhìn anh nữa.
Anh biết em đi chẳng trở về!”
(Thơ Thái Can)

Bạn cùng lớp tôi ai cũng rõ tôi là “Công-Tử Nhất-Bộ” vì mỗi năm, tôi chỉ có một bộ đồng phục. Tôi may bộ đồng phục đó sau khi lãnh học bổng mỗi cuối niên khóa. Một cái sơ-mi trắng và một cái quần xanh. Tôi mặc đồng phục đi học. Về tới nhà, tôi thay quần áo ra, đem giặt. Khi ở nhà hoặc đi kèm trẻ, tôi mặc quần áo nhà binh, vừa rẻ, vừa bền. Mờ sáng, đi gánh nước, tôi cởi trần, mặc quần dài xăn tới đầu gối. Đoạn đường từ nhà tôi tới giếng nước nhà cô Cư, đèn đường mờ mờ. Lịch tập thể dục hàng tuần của trường Trần Quý Cáp chia ra, học trò con trai tập thể dục vào những ngày chẵn, Thứ Hai, Tư, Sáu. Học trò con gái tập thể dục vào những ngày lẻ, Thứ Ba, Năm, Bảy. Bạn gái cùng lớp tôi, đi tập thể dục, thường xuyên đụng đầu một “thi nhân” đang hùng hục leo dốc với hai thùng nước đầy, đung đưa bên hông. Bọn nữ tặc túm năm, tụm ba, chặn đường tôi, réo gọi om xòm, “Anh Vọi ơi! Anh Vọi ơi! Dừng chân cho chúng em tỏ một đôi lời đi!… Anh Vọi ơi!”
Tiếng chúng nó the thé vang vang trong phố. Cường độ âm thanh tiếng réo của bọn yêu tinh ấy chắc cũng cao cỡ vài trăm decibels, làm cho những trái sung trên cây, trong vườn, sau chùa Âm-Bổn rơi lộp độp. Bạn bè trong lớp thường gọi tôi là anh Vọi. Số là, trong chương trình Quốc-Văn lớp Đệ-Lục do cô Bạch Vân dạy, mỗi đứa trong lớp tôi phải chọn thuyết trình một tác phẩm của Tự-Lực Văn-Đoàn. Tôi đã chọn tiểu thuyết “Trống Mái” của Khái Hưng. Vọi là tên một anh dân chài khù khờ, nhân vật chính trong “Trống Mái”. Vì tôi cũng có vẻ khù khờ như Vọi, nên sau buổi thuyết trình, tôi mang thêm một cái tên nữa là anh Vọi. Gặp nhau, thay vì kêu tên tôi, bạn tôi cứ, “Anh Vọi ơi!… Anh Vọi ơi!” Thét rồi, cái tên “Anh Vọi” thành quen.
Ngày tháng thoi đưa, chúng tôi lớn lên lúc nào không nhớ rõ… Trong lớp tôi, cũng có đôi người thầm thương anh Vọi. Mãi sau này tôi mới biết.
Một hôm, Đệ Tứ, gần vào hè, giờ ra chơi, tôi và vài anh bạn ra khu tập thể dục quay xà ngang. Áo tôi bị quấn vào xà, xẻ dọc. Mấy cô bạn gái xúm vào vá víu áo tôi. Vá giùm áo tôi xong, bạn đã tan hàng, riêng một nàng chần chờ không chịu rời gót. Cô ấy tên Thu-Cúc. Phạm thị Thu-Cúc tuổi Mùi, người Vĩnh-Điện, trọ học ở nhà bà con, gần Chùa Cầu. Thu-Cúc tóc thề ngang vai, trắng trẻo, dễ thương, nhưng hơi đẫy đà. Tôi hỏi Cúc, “Ủa! mọi người đi hết rồi, Cúc còn đứng đây làm gì?”
Cúc đỏ mặt lí nhí hỏi lại, “Áo Long bị rách, về nhà có bị mẹ la rầy không?”
Tôi cảm động, “Chắc không đâu! Cũng gần hè rồi, mặc cái áo này vài tuần nữa, nghỉ học, lãnh học bổng xong là Long có áo mới liền!”
Thấy xung quanh không có ai, Cúc bạo dạn hỏi tôi, “Cúc có chuyện riêng muốn nói, Long có nghe không?”
Tôi ngạc nhiên nhưng trả lời ngay, “Ừ! Cúc muốn gì cứ nói đi!”
Cúc tuôn ra một tràng mà tôi không ngờ, “Cúc thương Long, Long có thương Cúc không? Có người đi dạm hỏi Cúc đấy! Nếu Long không thương Cúc thì Cúc về quê lấy chồng!”
Tôi điếng người. Người ta nói con gái Quảng thật thà, bạo dạn, nồng nàn, quả đúng! Tôi nhìn bạn, “Thực ra, cho tới giờ này Long cũng chưa rõ mình đã yêu ai hay chưa! Long coi Cúc là bạn thôi. Nếu có người thương Cúc, hỏi cưới Cúc, thì Cúc về lấy chồng đi!”
Tôi thấy đôi mi Thu Cúc sụp xuống, vài giây sau đôi mắt ấy ngước lên nhìn tôi u uẩn, “Dù sao Cúc cũng phải nói cho bạn rõ rằng, gần ba năm nay có một người con gái đã yêu bạn vô cùng… thôi nhé ngày mai… Cúc sẽ về quê…”
Bạn tôi nhanh chân trở gót vào lớp. Tôi thấy tay nàng đưa lên quệt nước mắt. Đôi chân nàng như díu vào nhau… Hôm sau Thu Cúc không tới trường. Mọi người không rõ nguyên do vì sao cái máy thuộc bài ấy lại vắng mặt ngày thi Vạn-Vật đệ nhị lục cá nguyệt. Cuối niên khóa, bạn bè trong lớp Đệ Tứ 3 kháo nhau chuyện Thu Cúc về quê, lấy chồng…
Sắp lên đệ nhị cấp, lòng tôi cảm thấy lo lắng bâng khuâng. Chúng tôi đã chuẩn bị kỹ và đã chọn lựa xong con đường khoa bảng tương lai. Những người bạn thân chia tay nhau nơi ngã ba phân ban (A,B,C) của hệ thống giáo dục đương thời. Ba con đường dẫn tới ba cái bệ phóng vào đời khác nhau. Tôi sẽ lên Đệ Tam ban Toán (B). Những người quen trong lớp, như chị Tô thị Vân, theo ban Vạn-Vật (A), anh Phùng Tiến theo ban Văn-Chương (C). Bốn anh bạn thân của tôi không có ai chịu dấn thêm bước nữa. Anh Bảy thi đậu vào trường Sư-Phạm Tiểu Học. Anh Rân và anh Mục đứng lại nơi ngã ba, học Đệ Tứ thêm năm nữa. Riêng anh Lợi thì nghỉ học để lấy vợ. Không biết anh Trần ngọc Lợi và chị Ngô thị Xuân Lan tí toáy làm sao mà chị Xuân Lan có bầu. Chị Lan đi sanh trước ngày chúng tôi đi thi Trung Học Đệ Nhứt Cấp vài tuần.
Tôi có hẹn với Nguyễn Nhị (anh bạn quê quán ở Nông-Sơn) rằng, sau khi thi trung học, tôi sẽ lên nhà anh, cùng anh mượn cái trường tiểu học của xã để dạy hè, kiếm chút tiền còm. Trong hành trang, ngoài sách vở, quần áo, tôi còn mang theo những tập thơ chép tay của tôi và những bạn đồng học khác. Nông-Sơn trùng điệp núi đồi. Mặt đất khu nhà máy và mỏ than thì màu đen. Những ngọn đồi khác vây quanh toàn là rừng thưa và cỏ tranh chen lẫn nhau. Dưới thung lũng là những khe ruộng lúa mùa và những cánh đồng mía. Mía đang lên cờ. Gió lượn quanh khe, làm rạp những ngọn cờ mía. Gió vô hình, vậy mà tôi có cảm tưởng rằng mình đã nhìn thấy gió đang “đi” trong thung lũng. Gió đi từ ruộng mía, lên đồi tranh, rồi gió trốn vào rừng. Ngôi trường làng bé tí teo. Học trò tới trường, có em chỉ bận trên mình cái quần xà-lỏn. Mỗi em hình như chỉ có một tập vở bẩn thỉu, góc tập bị cuốn cong veo. Tôi bùi ngùi tự nhủ thầm rằng, tuổi thơ của tôi, về phần vật chất, còn sáng sủa hơn tuổi thơ của những em bé này. Buổi chiều không có lớp; học trò mắc đi kiếm củi, giữ trâu, mò cua, trong lạch. Hoàng hôn, tôi thường tản bộ ra ngồi bên ghềnh đá. Đây là đầu nguồn của sông Thu-Bồn. Dòng nước uốn khúc quanh chân núi Chúa. Dưới thung lũng, trong ruộng bùn, những con trâu đang thoải mái nằm dầm mình nghỉ ngơi. Chiều hè, sương trắng rơi từ từ trên rừng xanh. Gió nhè nhẹ đưa những sợi mây mỏng như tơ bay về cuối trời. Tôi lần dở những tập thơ viết tay trên giấy pơ-lua và trên tập vở, lòng chợt buồn vô cớ. Tuổi thanh niên, mà sao có những lúc tôi thấy lòng trống vắng quá? Tôi bâng khuâng nghĩ về tương lai, mà không biết tương lai mình sẽ ra sao…
Ở Nông-Sơn được một tuần lễ, thì chị Quá và chị Thảo (bị ở lại Đệ Tứ) nhắn tôi về gấp để kèm toán cho họ luyện thi trung học, tiền công hai chị hứa trả cho tôi cao hơn nhiều so với số tiền sẽ nhận được do dạy học ở Nông-Sơn. Thực tình, tôi không muốn rời Nông-Sơn. Nơi đây xa hẳn phố phường phồn hoa, tục lụy. Cảnh ở đây như cảnh tiên. Người ở đây tuy nghèo nhưng rất hiền hoà, hiếu khách. Tôi không muốn chia tay những đứa học trò nhỏ của tôi, những bé quê chăn bò, mót củi, thực thà, dễ thương. Nhưng tôi chợt nghĩ tới niên học sắp đến. Chính phủ sẽ không trợ cấp học bổng cho học sinh đệ nhị cấp. Tôi rất cần tiền để mua sách vở, áo quần, giày vớ. Tôi buồn rầu lên xe đạp rời núi Chúa.

Vào năm Đệ Tam, vì không còn học bổng, trong niên khoá, tôi phải đi dạy kèm buổi tối. Học trò của tôi là hai bé trai tiểu học, em của chị Thảo. Cuộc sống của gia đình tôi khá hơn, vì mỗi tháng tôi kiếm thêm được ba trăm đồng, nhưng công việc học hành của tôi lại bận bịu hơn. Tôi phải học hành chăm chỉ hơn, vì lệnh động viên đã bắt đầu. Chậm chân rớt lại đàng sau, có thể bị gọi đi lớp hạ sĩ quan. Đối với vấn đề văn nghệ, văn gừng, thơ phú, tôi cũng thờ ơ. Thời gian này tôi không có bạn gái, vì không có nữ sinh nào theo phân ban Toán (B). Nhiều lần áo tôi rách bươm, không người vá giùm.
Suốt mùa hè cuối năm Đệ Tam tôi kèm Toán, Lý, Hóa cho hai chị em con nhà giàu ở đường Cường-Để. Cô chị tên là Tuyết Huệ đã có bồ là anh Tung, con trai ông trưởng ty Thú Y. Anh Tung học ngang lớp với tôi. Cô em tên là Thục Anh. Hai chị em nhà này tính tình trái ngược hẳn nhau. Tuyết Huệ lúc nào dáng dấp cũng đượm buồn. Thục Anh thì vui tươi, nói cười như con sáo suốt ngày. Thục Anh học nhanh hơn Tuyết Huệ. Bạn bè tôi thấy tôi có hai cô học trò xinh đẹp, lại con nhà giàu, họ thường nói bóng gió để ghẹo tôi, “Mi đúng là chuột sa hũ nếp!”
Thuở đó, ở Hội-An, chuyện gia sư thương học trò, học trò thương gia sư, không có gì là lạ. Đôi lần cuối giờ học, khi Thục Anh tiễn tôi ra cửa, tôi thấy có những cặp mắt tò mò của xóm giềng theo dõi. Tôi cũng thấy những cái nguýt dài, đuôi mắt đắng cay, của chị em nhà kia bên đường đối diện. Tôi thì cứ ngơ ngơ chẳng có ý thương ai. Anh Vọi chỉ mong dạy cho xong bài, chiều về rủ anh Sếu Vườn hàng xóm là Doãn thiện Niệm, phóng xe đạp xuống đập Phước-Trạch câu cá. Gần năm mươi năm sau (2006), cô học trò ngày xưa, từ Oakland (CA) gọi điện thoại cho anh gia sư đang ở Seattle (WA), giọng Thục Anh vẫn liến thoắng, trách móc, “Ngày đó anh bỏ Hội-An, anh lên Pleiku. Anh mê ‘em Pleiku má đỏ môi hồng’ anh quên Hội-An” Tôi chợt chạnh lòng, bâng khuâng…
Rồi ba năm vất vả, bù đầu, bù cổ cũng qua. Xong cái bằng Tú Tài 2, tôi nhờ anh bạn Hồ Hùng giới thiệu với người anh của anh ta là hiệu trưởng một trường bán công ở Điện-Bàn, ông ta thuê tôi dạy giờ môn Toán những lớp nhỏ đệ nhứt cấp. Người ta nói rằng, nếu làm thầy giáo, có thể xin hoãn dịch. Thời gian này chiến tranh đã bắt đầu nhen nhúm ở đâu đó, xa xa…
Tôi mới mở hàng nghề gõ đầu trẻ được một tuần lễ thì bọn bạn cùng lớp tôi ùn ùn kéo nhau ra Huế thi vào Đại-Học Y-Khoa. Học nghành này cũng được hoãn dịch. Tôi bỏ dạy học, theo chân tụi bạn đâm đơn xin học nghề thầy thuốc. Tôi được chấm đủ điểm theo học lớp Dự-Bị Y-Khoa năm ấy. Trước khi vào trường để học cái nghề bác sĩ “hái ra tiền”, tôi phải lo cho cái dạ dày trước đã. Thế là, suốt một tháng mùa hè nắng cháy, tôi lang thang trong đường phố Cố Đô, thăm dò những nhà cần người kèm trẻ, dạy giờ. Mỏi chân, tôi dừng bên dòng An-Cựu, vớt nước sông ấp lên mặt cho mát. Người ta thường hát, “An-Cựu nắng đục mưa trong” Thực tế hình như không đúng như vậy?
Hè đó, tôi đã ngồi trên bực thang bên bờ, soi bóng mình trong nước An-Cựu biết bao lần. Tôi thấy nước trong veo, nhìn rõ tận đáy. Dưới đáy nước, những con cá bống thệ to bằng ngón chân cái, bò từ từ trên nền cát. Con bống quẫy đuôi. Cái quẫy đuôi tạo nên những quầng cát cuộn, lập lờ, lấp lánh. Trên mặt sông, từng cụm lục bình hoa tím lững thững trôi. Trong lòng sông, in hình một bầu trời xanh, mây trắng dật dờ. Nhãn hai bên đường đã có lồng. Phượng nở hoa, ve sầu hát, chim hót, bướm bay. Mùa hè, dưới nắng, nước An-Cựu trong vắt.
Tôi ở trọ tại số 1 đường Báo-Quốc. Chùa Báo-Quốc nằm trên đỉnh đồi. Nhà tôi trọ ở dưới chân đồi, bên kia đường. Đêm đêm nghe kinh kệ, chuông chùa; đôi lúc tôi đã có ý giã từ cuộc đời ô trọc, đi tu, để tìm đường cứu nhân độ thế…
Tháng 9 năm 1963, một người bạn tôi đi khám sức khoẻ ở Quân Y Viện Duy-Tân, Đà-Nẵng. Anh ta lo hoàn tất hồ sơ sức khoẻ để theo học khóa Sĩ Quan Hải-Quân. Tôi theo bạn vào thăm Quân Y Viện. Khi tôi đang lang thang quanh khu nhận bệnh thì một chiếc xe Jeep tải thương ào tới. Bên hông xe có treo cái bánh sơ-cua vẽ hình đầu cọp nhe nanh. Xe đậu trước cửa phòng nhận bệnh. Trên băng-ca, một thương binh, đầu, mình băng kín. Chiếc Jeep thứ hai, có cần câu máy truyền tin, bám đuôi sau xe thứ nhứt. Một sĩ quan nhảy xuống. Anh ta ôm xốc người thương binh, chạy ào vào phòng nhận bệnh. Anh trung úy Biệt Động Quân hối hả, “Cấp cứu! Xin quý vị cứu giùm người lính này cho tôi! Thủ tục nhập viện sẽ làm sau! Mau lên! Quý vị làm ơn!” Cả phòng nhận bệnh nhốn nháo. Bác sĩ, y tá, nhân viên cứu cấp, vội vã chuyển người thương binh sang xe đẩy, đưa anh vào phòng mổ. Anh trung úy không được phép vào phòng giải phẫu. Anh bồn chồn, đi loanh quanh bên cái xe Jeep. Miệng anh bập bập điếu thuốc lá, khói phà liên hồi. Một sĩ quan khác, một thiếu úy, trên ngực có huy hiệu hình con rắn leo trên cây kiếm chúi đầu xuống (quân y) ngồi chờ trước vô-lăng xe tải thương, dáng băn khoăn. Tôi mon men làm quen,
- “Thiếu úy! Đánh nhau ở đâu vậy, thiếu úy?”
- “Trên Giàng! Cậu có nghe Hiên, Giàng không? Trên núi, sát biên giới Lào.”
- “Đánh lớn lắm hả thiếu úy?” Tôi tò mò hỏi thêm.
- “Cũng không lớn lắm. Đại đội chạm đại đội. Có điều là đụng địch trong rừng già, tản thương chậm trễ, khó khăn…”
- “Bên mình bị thiệt hại có nặng không thiếu úy?”
- “Thường thôi! Một chết, năm bị thương. Chỉ một ca này là nặng.”
- “Ông trung úy kia làm chức vụ gì vậy hả thiếu úy? Sao ổng có vẻ lo lắng cho anh lính bị thương quá vậy?”
- “Trung úy đại đội trưởng đó! Chúng tôi sống chết có nhau. Anh binh nhì bị thương, ông trung úy lo lắng cũng là chuyện thường ngày ở đây thôi! Khi nào cậu vào lính, có dịp ra chiến trường, cậu sẽ thấm cái tình huynh đệ chi binh…”
Suốt mấy ngày sau, trong đầu tôi cứ ám ảnh với khúc phim tản thương đầy xúc cảm trong quân y viện. Không bút nào tả nổi vẻ đẹp vừa oai dũng, vừa cảm động của một sĩ quan hai tay ẵm một thuộc cấp bị thương ào vào phòng nhận bệnh. Câu “Xin quý vị cứu giùm… Quý vị làm ơn!” cứ văng vẳng bên tai tôi. Tiếng cầu xin của người chỉ huy ấy thống thiết như tiếng của một người mẹ. Hoạt cảnh ngắn ngủi hôm đó đã khiến đời tôi thay đổi.
Tuần sau tôi ra Đà-Nẵng, hướng về cầu Trịnh minh Thế, tìm phòng Tuyển-Mộ Nhập- Ngũ Quân-Đoàn 1. Tôi xin cái đơn gia nhập Khóa 20 /Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam. Từ đấy, tôi vẫn mê thơ Nguyễn Bính, Thái Can, Nguyên Sa, nhưng tôi hút thuốc lá Lucky và bắt đầu đọc “L’Art De Commander” và “Tôn Ngô Binh Pháp”. Cũng từ đấy, tuổi thanh niên của tôi không còn những lúc thấy lòng mình trống vắng nữa. Có cả trăm con đường trước mặt dẫn vào tương lai, nhưng tôi đã quyết định chọn con đường lên Hiên, lên Giàng để phục vụ quê hương.
Đầu năm 1966 tôi về lại Hội-An. Thành phố đã đổi thay nhiều. Dinh cơ của Ty Cảnh-Sát Tỉnh và Quận Hiếu-Nhơn đã được xây dựng trên ngõ vào giếng, sau nhà cô Cư. Biết tìm đâu dấu tích con đường mòn ngày xưa anh Vọi đi gánh nước sớm mai? Tìm đâu những tiếng réo lanh lảnh của bọn nữ yêu tinh đi tập thể dục mỗi sáng tinh mơ ngày lẻ? Có chăng, không đổi, là dòng Thu-Bồn, chiều chiều sương giăng, buồn muốn chết, “Yên ba sầu sát nhân” – (Bạch cư Dị)
Đi ngang qua trường Trần Quý Cáp, tôi chợt nhớ, năm nào, trong một giờ giảng văn, thầy Huy có nói “Thầy đoán rằng, sau này em Vương mộng Long và em Phùng Tiến sẽ thành công trong nghề viết văn…”
Thầy ơi! Không phải vậy đâu! Thực tế đã không diễn ra như thầy từng tiên đoán! Dòng đời không lững lờ như mặt nước Thu-Bồn lúc xuân về. Bằng cớ là, thầy đã cưới một cô không phải chị Tô thị Vân. Bạn bè tôi, mỗi đứa đã đi mỗi phương. Anh Lê hữu Mục đã lên tới cấp trung sĩ nhứt, đồn trú mãi trong vùng 3. Anh trung sĩ Trần ngọc Lợi đã có thêm hai đứa con. Anh giáo viên Lê văn Bảy qua đời vì bạo bệnh. Anh Ngô Rân vừa nối nghiệp ông cụ thân sinh, thành ông Cảnh-Sát. Tôi, anh Vọi Fai-Foo của trường trung học Trần Quý Cáp, đã trở thành một thiếu úy đại đội trưởng của Tiểu đoàn 11/ Biệt Động Quân.
Sau những lần chạm địch ở Tháp Bằng-An, Ải-Vân, Trà-Đình, Bà-Rén, Hương-An, tôi theo xe tải thương tới Quân Y Viện Duy-Tân, gởi gấm những thuộc cấp bị thương của mình cho nhân viên phòng nhận bệnh. Lâu dần, tôi thành người quen của phòng nhận bệnh. Trong thời gian gần nửa năm, tôi đã hành quân qua nhiều thôn làng hẻo lánh triền sơn Trà-Kiệu, Thăng- Bình. Tuy tôi chưa có dịp lên Hiên, lên Giàng, nhưng tôi đã biết thế nào là, “cái tình huynh đệ chi binh”. Tôi đã hiểu lý do tại sao ngày đó, ông trung úy lo lắng bồn chồn, khi anh binh nhì thân mình đầy máu được đưa vào phòng mổ. Cái tình huynh đệ chi binh ấy không bút giấy nào mô tả rõ ràng được. Chỉ biết rằng, thiếu nó, chúng tôi không sống được. Cái tình ấy nặng và sâu không có gì so sánh nổi. Nó là sợi giây vô hình cột buộc chúng tôi khắng khít với nhau, thượng cấp và thuộc cấp, thầy và trò, anh và em. Cái tình ấy không thể dùng tiền mà mua. Không có nó, chúng tôi không còn là quân nhân…
Vương mộng Long.


Seattle, tháng 11 năm 2006

hung0989077120@ahoo.com
IP IP Logged
hoangngochung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 27/Nov/2010
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 513
Quote hoangngochung Replybullet Gởi ngày: 27/Apr/2012 lúc 1:49am

Trường trung học Trần Quý Cáp - Hội An
 

Thiếu tá Vương Mộng Long và phu nhân



Chỉnh sửa lại bởi hoangngochung - 27/Apr/2012 lúc 9:43pm
hung0989077120@ahoo.com
IP IP Logged
hoangngochung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 27/Nov/2010
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 513
Quote hoangngochung Replybullet Gởi ngày: 27/Apr/2012 lúc 11:12pm

THÁNG MƯỜI, NHỚ LẠI

Vương mộng Long



        ....

       Tháng Mười lại tới rồi!  Nếu ở Huế, thời tiết đã bắt đầu chuyển mùa vào Đông.  Huế tháng Mười, trời mờ sương. Gió nhẹ và se lạnh.  Những hàng cây sấu, cây bông sứ, cây phượng, dọc hai bên đường Lê-Lợi, từ chân cầu Tràng-Tiền tới Ga đã trụi lá.  Liễu vẫn rũ bên sông, đò vẫn đưa, nước vẫn xuôi dòng, nhưng người qua lại đông hẳn lên vì trên con đường này có Viện Đại-Học, có Quốc-Học, có Đồng-Khánh. 

 
 
Bướm vàng đã hiếm bay, nhưng áo len màu, choàng ngoài áo dài trắng, thì nhiều lắm.
 
       Mấy hôm rày, (tháng Mười 2006) bạn bè tôi đưa tin Huế đang bị lụt, tôi nhớ lại chuyện xưa; nhớ lại một ngày trong đời mình. 
 
 
Ngày 1 tháng Mười, cách nay đúng 40 năm (1966) có một người lính, áo hoa rừng, bước thấp, bước cao, đi qua, rồi đi lại, nhiều lần, đoạn đường từ Ga Huế, về tới chân cầu.  Người lính tửng tửng đó là tôi, Biệt Động Quân Vương mộng Long.  Trên đường, tôi đã gặp vài người quen ngày xưa, hồi còn ở Hội-An.  Nói chuyện đôi lời, bạn vào trường, tôi tiếp tục bách bộ.  Chẳng nhớ tôi đã đánh mấy vòng qua đoạn đường này trong thời gian từ trưa tới chiều.  Tôi đã làm cái màn bách bộ tửng tửng này để giã từ Huế.  Hôm ấy, trong túi tôi có cái sự vụ lệnh về trình diện Chiến đoàn 1 Biệt Động Quân đóng tại bãi cát Phú-Lộc, Hoà-Khánh, Đà-Nẵng.  Tôi vừa được phóng thích từ Quân-Lao Mang-Cá. 
 
 
Tôi bị giam ở đây 30 ngày vì tội tham gia vào vụ "Phản Loạn Miền Trung".  Sáng hôm sau, tôi rời Huế, rồi từ đấy tôi chưa một lần về lại nơi đây.

       Chiều ngày 2 tháng Mười năm 1966, tại hậu cứ Phú- Lộc (Đà-Nẵng) của Chiến đoàn 1/BĐQ, một người to lớn, ngồi trên bàn, hai tay chống trên mặt bàn, đôi chân đánh đung đưa, hai vai nhún nhún, đàng trước, đàng sau.  Người đó đang nhìn ra cửa.  Ông ta đeo kiếng đen, mặc quân phục đen, giầy sault đen.  Trung tá Sơn Thương, chiến đoàn trưởng, bắt tay tôi, rồi rất ôn tồn, "Trước ngày đi tù, cậu đã làm đại đội trưởng ở TĐ11 BĐQ phải không?"  "Thưa trung tá, tôi coi đại đội 3/11."  Ông bỏ cặp kiếng đen ra, nghiêng đầu ngó tôi một lúc, rồi ra lệnh cho ban 1, "Làm sự vụ lệnh cho Thiếu úy Vương mộng Long về TĐ 39 thay thế Trung úy Phan thọ Hạnh thuyên chuyển."  Hôm sau, tôi vào lấy sự vụ lệnh.  Sự vụ lệnh không ghi cho tôi đi Miếu-Bông, Đà-Nẵng để thay thế Trung úy Phan thọ Hạnh.  Nơi tôi sẽ tới ghi trên cái sự vụ lệnh này xa xôi lắm, vùng 2! 

Quyết định của Tư lệnh quân khu 1 thật rõ ràng: Hoàn trả sĩ quan đương sự về TĐ11/BĐQ (đang ở Biển-Hồ, Pleiku).  Lý do: Sĩ quan đương sự không được phép phục vụ tại vùng 1 Chiến Thuật.

       Tôi đành lếch thếch balô mang vai, "tìm đường lên núi".

       Ngày ấy ở Pleiku, Tiểu đoàn trưởng 11/BĐQ là Đại úy Biên, TĐT/TĐ22 BĐQ là Đại úy Luận, và TĐT /TĐ23 BĐQ là Đại úy Chữ.  Vì hồ sơ quân bạ của tôi lạc đi xứ nào không ai biết.  Nếu cho tôi ra trận, rủi tôi đền nợ nước, thì không biết báo cáo ra làm sao?  Báo cáo cho ai? nên chẳng ông tiểu đoàn trưởng nào nhận tôi về đơn vị.  Trung tá Nguyễn đức Ninh, Chiến đoàn trưởng, Chiến đoàn 2/ BĐQ đành gửi tôi cho Thiếu tá Phạm văn Toán, Chiến đoàn Phó, để ông già Toán, "canh chừng cái Anh Chàng Thiếu úy Phản Loạn Miền Trung này." (nguyên văn).  Ban quân lương chiến đoàn, Thượng sĩ Phong và Thượng sĩ Đăng, cảm thông hoàn cảnh của tôi.  Hai ông trình với Đại úy Kính, ĐĐT/ĐĐ/YTCV ứng bừa cho tôi cái lương trung sĩ, "cứ làm sổ lương trung sĩ, cho ông có tiền ăn, hồi sau phân giải."

       Tôi được chỉ định tạm phụ tá ban 3 Chiến đoàn 2/BĐQ ở Biển-Hồ, Pleiku (nằm sát với hàng rào TĐ11/BĐQ).  Hàng ngày tôi vào trại, giúp đỡ Đại úy Huân, ban 3, vẽ "nửa" cái phóng đồ, thảo "nửa" cái công điện, rồi leo lên xe Lamb ra phố. 

 
Bạn BĐQ vùng 2 cùng khóa 20 VB của tôi lúc đó chưa có ai leo lên tới chức chỉ huy đại đội.  Chưa chàng nào có Jeep.  Về phố, rủ tôi đi chơi, các bạn tôi phải dựa hơi các ông già đại đội trưởng, để mượn Jeep.  Có Jeep thì mai vàng mới oai.  Chúng tôi lang thang đầu con dốc này, tới cuối con dốc khác, phiêu du từ quán này, tới quán khác.  Lúc nào đói bụng, chúng tôi chui vào Quán cơm Bình-Dân Ba Cò nơi bến xe cũ.  Bà chủ quán cơm Ba Cò biết tên tôi từ dạo đó.

       Lúc này Hội-Quán Phượng-Hoàng vui nhộn vô cùng.  Khi mới đặt chân tới Pleiku, tôi cũng thường tới đây.  Nhưng nhớ lời mẹ dặn,"xướng ca..." tôi dang xa dần nơi này. Nhứt là, khi thấy cô Trang ca-ve đập bầu, rồi cột cổ anh bạn Thiếu úy Hữu của tôi, bắt làm cha khai sinh đứa bé mới ra đời, tôi không dám bén mảng tới đây nữa.  Ông Tướng vùng hào hoa và bình dị Vĩnh-Lộc không có vẻ gì là ghét bỏ BĐQ. 

Đã có lần, chúng tôi 4 đứa, Bửu, Long, Hùng, Ngọ, súng xệ ngang hông, giăng một hàng ngang, đi bộ từ từ trước cái xe Falcon đen của ông Tư lệnh đang tới, trên đường Phan bội Châu, Pleiku.  Quân Cảnh bóp còi inh ỏi.  Bốn chàng BĐQ rút súng bắn chỉ thiên tám phát lên trời.  Đạn nổ đoàng, đoàng, cành phượng gãy, hoa phượng rơi. 
 
 
 
Bắn xong, bốn đứa chúng tôi quay súng một vòng trên ngón trỏ (như cao bồi thứ thiệt), rồi đút súng vào bao, chia đôi hai bên đường, trái, phải quay, miệng hô "hai! ba!" dơ tay chào, thế đứng nghiêm.  Xe Tư lệnh ngừng, kiếng cửa xe hạ xuống.  "Mấy thằng nhỏ điên hả?" Rồi kiếng xe lại nâng lên.  Xe tiếp tục lăn bánh.  Xe Tư lệnh quân đoàn rẽ phải, lên Hội Trường nằm sát ban Biệt Cảnh.  Tư lệnh đi tham dự ngày lễ gì đó.  Ông Tướng không thèm trách cứ cái hành vi ngông nghênh càn quấy vừa qua của "mấy thằng nhỏ".  Chính cái "phong cách Ngô-Khởi" của ông đã khiến những sĩ quan trẻ BĐQ chúng tôi xả thân quên mình nơi tuyến đầu.

       Một ngày, khi tôi đang đọc "cọp" tờ nhựt trình ở sạp báo bé Hạnh, trước tiệm phở Kim-Phượng, thì một giọng nói Bình-Định đàn ông sau lưng hỏi, "Ông thiếu úy có biết tên Dương ở Tiểu đoàn 23/BĐQ không?"   Một vị đứng tuổi, có lẽ trên 50, đang đứng sau lưng.  "Dạ không!  Thưa bác, tôi không quen ai tên Dương ở TĐ23 cả bác ạ." " Tôi là chú của thằng Dương.  Nó ở Tiểu đoàn 23/ Biệt Động Quân, tôi tưởng thiếu úy quen nó.  Nhà tôi gần đây, mời thiếu úy ghé chơi" "Cám ơn bác!  Thôi! Để khi khác, lúc nào rảnh, tôi ghé nhà bác chơi."

Tác%20Giả,%20Trung%20Úy%20Vương%20mộng%20Long,%201967        Tuần sau, "khi khác", tôi tình cờ gặp bác Ba trên Chợ-Mới, gần nhà thờ Tin-Lành, tôi vào nhà bác chơi.  Bác dạy côn, dạy quyền Bình-Định cho tôi.  Nhiều thế côn Bình- Định đã giúp tôi thoát chết trong những cú sáp-lá-cà năm 1969.  Tối, tối, tôi học võ ở sân nhà bác, ăn cơm nhà bác, rồi cuốc bộ về cái nhà tranh ở thuê của vợ chồng anh bạn Lê đình Vụ (k20), ngủ nhờ qua đêm.

       Bác Ba có cô cháu gái mười tám tuổi, tên Dung.  Cô Dung mặt như trăng rằm.  Cô Dung má lúm đồng tiền, da ngăm ngăm đen.  Cô làm nghề khuân vác gạo ngoài bến xe.  Cô rất giỏi võ.  Cô đánh roi, đi quờn vèo, vèo.  Cô túm bao gạo trăm ký từ sàn xe, kê vai, vác đi nhẹ nhàng.  Tới sạp, cô nghiêng vai, ném bao gạo trăm ký xuống đất, nhẹ nhàng.  Từng hàng gạo xếp ngay ngắn, thẳng hàng.  Thuở đó, bao gạo nặng bằng hai trọng lượng của tôi.  Láng giềng nhà cô Dung có một người cùng xứ Phú-Phong với bác Ba là anh Nhơn.  Anh Nhơn lái xe Lamb ba bánh.  Anh là học trò ruột của bác Ba.  Anh rất có cảm tình với tôi.  Anh thường chỉ vẽ cho tôi những ngón nghề khi thực tập côn, quyền.  Hình như anh Nhơn thương cô Dung.

       Một ngày không hành quân, chú Dương, Binh nhứt thuộc TĐ23/ BĐQ gặp tôi ở nhà bác Ba.  Bác mổ gà đãi chúng tôi một bữa nhậu.  Cuối tiệc, Dương kề vai tôi nói nhỏ, "Em Dung nó nói với tôi rằng, nó thương thiếu úy."  Tôi cười cười lắc đầu.  Tôi mến cô Dung lắm, nhưng không dám có ý nghĩ sẽ nhờ vị nữ hào kiệt này nâng khăn sửa túi.  Chẳng rõ anh Nhơn có biết "ý riêng" của cô Dung đối với tôi không, mà từ đó, mỗi khi thực tập, anh Nhơn ra đòn không nương tay, tôi chống đỡ trối chết, anh vẫn truy kích không tha.  Cũng hên là, dịp này, tôi có lệnh đòi của Toà, phải rời Pleiku.  Nhờ thế, tôi thoát được những cú đá chết người của anh Nhơn.  Tôi ra đi trong danh dự.  Hú hồn!  Ngày tôi trở lại Pleiku, thì cô Dung đã thành bà Nhơn, bà chủ xe Lamb chạy đường Lệ-Trung, Trà-Bá.

       Sau gần ba tháng ở Pleiku, không có quân sĩ dưới quyền, không hồ sơ quân bạ, không chức vụ rõ rệt, tôi được lệnh gọi ra Toà án Quân Sự Nha-Trang vì "tội phản loạn".  Tới Nha-Trang, tôi không bị ra tòa án, mà ra Hội Đồng Kỷ-Luật của Đại tá Cách.  Kết quả tôi bị nhốt thêm 60 ngày trong quân lao.  Rồi tôi bị giáng xuống trung sĩ.  Tôi về Đơn Vị 2 Quản-Trị Địa-Phương; doanh trại đặt ở đầu đường đi Thành, dưới chân núi. 

 
 
Trên đỉnh núi có tượng Phật Bà màu trắng.  Ngày ngày, Phật Bà cúi nhìn tôi với con mắt rầu rầu, xót thương.  Ngày ngày, tôi lủi thủi trong sân trại, cô đơn.

       Trong gần 4 tháng đầu năm 1967, tôi làm việc dưới quyền một ông chuẩn úy mới ra trường.  Vị chuẩn úy này lại là cựu trung sĩ BĐQ, thuộc cấp cũ của tôi.  Tháng 2/1966, khi tôi vừa lên làm đại đội trưởng đại đội 3/11/BĐQ ở Điện-Bàn, Quảng-Nam, tôi đã ký giấy cho phép 2 hạ sĩ quan dưới quyền là Trung sĩ Thành và Trung sĩ 1 Khê theo học khóa Sĩ-Quan Đặc-Biệt Thủ-Đức.

       Mỗi tối, tôi theo Chuẩn úy Thành đi kiểm soát vài yếu điểm trong quân trấn Nha-Trang.  Công việc của tôi khỏe re.  Tôi chỉ ngồi bên ông chuẩn úy, theo xe đi kiểm soát một số yếu điểm.  Ông chuẩn úy làm hết mọi việc, từ ghi chép tình hình, kiểm điểm quân số, đến ký sổ bàn giao.  Mỗi khi tôi nhấp nhổm định xuống các trạm để làm công việc của mình, thì ông ta cản tôi lại, "Ông thày ngồi chơi.  Để em lo!"

       Một hôm, có chiếc xe tang chạy ngang doanh trại tôi ở.  Tới cổng Trường Bồ-Đề Nha-Trang, xe ngừng lại để bốc thân nhân.  Thân nhân người chết đầu quấn khăn tang, nước mắt dầm dề.  Hỏi ra, người vừa tử trận lại là bạn tôi.  Người tử trận là Thiếu úy BĐQ Lê văn Hai khóa 20 Đà-Lạt.  Nước mắt tuôn rơi.  Tôi cảm thương bạn tôi.  Tôi xa chiến trường đã mấy tháng rồi...

       Tháng Năm 1967 có toán tuyển mộ Biệt Động Quân tới Đơn Vị 2/ QTĐP tuyển quân nhân về bổ sung cho binh chủng.  Tôi tình nguyện về lại Biệt Động Quân.  Ông Thượng sĩ trưởng toán không dám ghi tên tôi vào danh sách.  Ông ta nói trường hợp tôi, phải chờ quyết định của Đại tá CHT/BĐQ/QLVNCH.  Tôi viết một cái thư riêng, đưa cho ông thượng sĩ, để trình cho Đại tá Trần văn Hai, trong đó có câu,  "Tháng Năm năm ngoái, tôi là đại đội trưởng ĐĐ3/TĐ11/BĐQ, trấn giữ chùa Phổ- Đà, Đà-Nẵng. 

 
Chính tôi đã ra lệnh bắn 2 quả SKZ 57 ly chận đầu xe của Trung Tá Trần văn Hai, CHT/BĐQ/QLVNCH, ngăn không cho đoàn xe của ông tiến vào khu TĐ11 BĐQ kiểm soát.  Một đơn vị Thiết giáp Hoa-Kỳ cũng bị chúng tôi bắn chặn khi xâm nhập vùng này.  Sau khi tình hình yên ổn trở lại, tôi đã bị thi hành kỷ luật nặng nề.  Từ một Thiếu úy tốt nghiệp khóa 20 TVBQGVN, tôi đã bị giáng cấp xuống trung sĩ.  Tôi không khiếu nại, không than van.  Tôi lúc nào cũng tự hào mình là một sĩ quan có kỷ luật trong vụ chính biến đó.  Tôi chỉ là một sĩ quan thuộc cấp, tôi thi hành nghiêm chỉnh tất cả mệnh lệnh cấp trên giao phó.  Nay, dù chỉ là một trung sĩ, tôi vẫn vui vẻ tình nguyện về phục vụ binh chủng mà tôi đã chọn lúc ra trường.  Tôi nghĩ rằng Đại tá không nỡ từ chối ý nguyện của tôi." 

       Tuần sau, toán tuyển mộ lại xuất hiện, ông Thượng sĩ trưởng toán cười nói với tôi, "Đại tá nhận Trung sĩ về lại BĐQ rồi đó!"  Tôi được chỉ định làm trưởng toán 4 người, gồm có tôi và 3 anh trung sĩ mới từ quân lao được tha.  Bốn anh trung sĩ trẻ măng, có tên trong một sự vụ lệnh do tôi làm trưởng toán: TS Vương mộng Long, TS Huỳnh văn Nghệ, TS Trần văn Sơn, và TS Nguyễn mạnh Hà.  Chúng tôi được nghỉ ba ngày để chuẩn bị.  Sau ba ngày lang thang tắm biển, uống bia, nhậu rượu, giã từ bạn bè "đồng cảnh", chúng tôi vào lấy sự vụ lệnh và chứng chỉ ngưng lương để lên đường.  Cái sự vụ lệnh đã đổi lại, lạ lùng!  Trên đó, Thiếu úy HD Vương mộng Long làm trưởng toán, dẫn 3 Trung sĩ Nghệ, Sơn, Hà về trình diện TTHL/BĐQ/Dục Mỹ để hoàn tất thủ tục đáo nhậm đơn vị.

       Sau này, tôi nhận được một bản thông báo của Nha Quân Pháp về Quyết Định phục hồi cấp bậc thiếu úy của tôi, trong đó có bản sao phiếu góp ý của Đại tá Trần văn Hai, CHT/BĐQ/QLVNCH, tôi mới rõ nguyên ủy sự việc.  Thì ra, khi nhận thư của tôi, Đại tá CHT/BĐQ/QLVNCH đã đọc lại hồ sơ quân bạ của tôi.  Đại tá đã gửi gấp cho Nha Quân Pháp một phiếu đề nghị xét lại trường hợp của Vương mộng Long.  Ông viết, "Thiếu úy Vương mộng Long là một sĩ quan đại đội trưởng có kỷ luật.  Mọi chuyện sĩ quan này làm, hoàn toàn là thi hành lệnh trên."  Ông Đại tá CHT BĐQ QLVNCH yêu cầu Hội đồng Kỷ Luật trả lại lon Thiếu úy cho tôi vì, "Trường VBQGVN đã gắn lon này cho nó!  Tướng Thi không gắn lon này cho nó!"

       Ngày tôi đi, Chuẩn úy Thành theo chân tôi tới tận phòng ngủ của Thiếu úy Ngô văn Niếu, trong trung tâm huấn luyện BĐQ/Dục-Mỹ.  Thiếu úy Niếu và 9 người nữa, bạn cùng khoá VB của tôi, đã tình nguyện ở lại Dục-Mỹ làm huấn luyện viên từ ngày học xong khóa 23 Rừng Núi Sình Lầy, sau khi mãn khóa 20 VB.  Trước lúc lên xe về lại Nha-Trang, Thành còn đưa cho tôi 500 đồng, chú nghẹn ngào, "Suốt đời em không quên ông thày đâu!"  Tôi với Chuẩn úy Thành bịn rịn mãi mới rời tay nhau.

       Tháng 12/1969 tôi có dịp tháp tùng Trung Tá Bùi văn Sâm, LĐT LĐ2 BĐQ ghé TTHL BĐQ Dục-Mỹ. 

 
Tôi mượn xe của Trung tá Phú, CHT TTHL BĐQ Dục-Mỹ chạy về Trung Tâm 2/QTĐP kiếm chú Thành.  Bà chủ quán cơm đầu ngõ, nơi tôi và Thành ăn cơm tháng, cho tôi hay rằng, sau khi tôi đi, Chuẩn úy Thành được lệnh lên đường bổ sung quân số cho Sư đoàn 22/BB.  Ông chuẩn úy đã chết trận ngoài Bồng-Sơn.  Bốn thày trò tôi, Long, Hà, Sơn, Nghệ, sau khi trình diện Trung tá Hồ hữu Dõng, Liên đoàn trưởng, đã chia tay nhau đi các đơn vị trực thuộc liên đoàn, nhập trận.  Trung sĩ Nguyễn mạnh Hà (TĐ23/BĐQ) đứt ruột sáng Mồng Một Tết Mậu Thân, giải ngũ.  Trung sĩ Trần văn Sơn (Đại đội 1/11BĐQ) gãy tay trận Chư-Pa tháng 1/1969, giải ngũ.  Chiến tranh chấm dứt, còn lại Thiếu tá Vương mộng Long (TĐ82/BĐQ/BP) và Thượng sĩ Huỳnh văn Nghệ (TĐ23/BĐQ).

       Tháng Mười 2006.  Mây trời Bắc-Mỹ âm u.  Gió hiu hiu.  Lá rụng đầy mặt lộ. 

 
       Một người Biệt Động già, tửng tửng đi qua, đi lại, trên một đoạn đường Highway 99 trước Home Depot thành phố Everett, WA, USA,  lòng ngậm ngùi nhớ lại chuyện đời mình, ngày xưa...

Seattle, ngày 07 tháng Mười năm 2006

hung0989077120@ahoo.com
IP IP Logged
hoangngochung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 27/Nov/2010
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 513
Quote hoangngochung Replybullet Gởi ngày: 28/Apr/2012 lúc 4:40am
.

Những đứa con

Trường Trung học Trần Quý Cáp  - Hội An

 

 

Tác giả: Vương Mộng Long

 

Tôi mồ côi cha từ nhỏ. Trường Trần Quý Cáp đã làm cái thiên chức của bố tôi, dạy dỗ, uốn nắn, và bao dung che chở cho tôi suốt thời niên thiếu. Tôi đã được trui rèn nhân cách, trau dồi kiến thức, để trở thành một người tốt; biết tự trọng, kiên nhẫn và nhún nhường; biết tự hào là công dân của một nước độc lập, sẵn sàng hi sinh vì lý tưởng tự do. Từ nơi đó, tôi đã lớn khôn. Từ nơi đó, tôi đã thành người.

 


Vương Mộng Long, tác giả - 1958

Vương Mộng Long, tác giả - 1958

 
 

Giữa thập niên 50 của thế kỷ 20, đậu vào Đệ Thất Trung-Học Công Lập Trần Quý Cáp Hội-An là một thành tích xuất sắc đáng hãnh diện của một cậu học trò Quảng-Nam mới qua cấp tiểu học;.. vì Trần Quý Cáp là trường trung học lớn nhất và danh tiếng nhất của tỉnh. Năm đó, ước lượng, có gần hai ngàn thí sinh tranh nhau 170 chỗ, kể cả dự bị, dành cho bốn lớp Đệ Thất Trần Quý Cáp. Tôi được ghi danh vào lớp Đệ Thất 3 cùng với hơn 40 nam nữ sinh khác. Trong bộ đồng phục quần xanh áo trắng, tôi cảm thấy mình lớn hẳn lên, và chững chạc hẳn ra. Đời học trò, lên Đệ Thất là bước vào một thế giới mới. Chân trời trước mặt rực rỡ, đầy hoa thơm cỏ lạ ngát hương, và thánh thót tiếng chim.

 

Thời gian này, trường đang mở rộng cơ ngơi, hàng rào bê tông được dựng lên, cùng với cái cổng xi măng hoành tráng, sơn phết đàng hoàng. Tiếp đó là cái trụ cờ, và những sân bóng chuyền, bóng rổ nhanh chóng hình thành. Những hàng phượng vĩ đã bắt đầu cho bóng mát. Hai năm Đệ Thất, Đệ Lục chỉ là thời gian làm quen với nếp giáo dục mới, với chế độ học giờ, học với nhiều thày giáo, thay vì chỉ có một thày giáo. Chúng tôi biết học nhóm, và biết thế nào là hình phạt cấm túc. Trong hai năm này, thày hiệu trưởng Tăng Dục, thường ghé lớp, kể cho chúng tôi nghe những thành tích vẻ vang của các đàn anh lớp trước. Thày nói rằng nước nhà mới độc lập, đang cần bàn tay xây dựng của các công dân trẻ. Thày mong muốn chúng tôi luôn luôn chăm chỉ học hành, để sau khi thành đạt, ra giúp nước, làm rạng danh cho trường.

 

Với tôi, trường Trung-Học Trần Quý Cáp là ngọn đèn soi lối cho tôi ngày mới lớn. Tôi cảm thấy vô cùng yên tâm dưới sự che chở của những bàn tay trìu mến bao dung, đang dẫn dắt tôi. Làm sao tôi có thể quên những người suốt đời tận tụy vun xới cho tương lai của đất nước như cô Luyện, cô Nguyên, cô Huỳnh Tân, thày Kiệm, thày Nhâm, thày Tước, thày Phan Khôi, thày Tống Khuyến, thày Hoàng Trung, thày Dương Đức Nhự….

 

Qua giờ học đầu tiên với cô Luyện, tôi mới hiểu phải tốn bao nhiêu công sức bỏ ra từ khi hạt mạ gieo xuống, cho tới lúc chúng ta có bát cơm ăn mỗi ngày. Vào giờ Pháp Văn, tôi cứ tưởng tượng như được thày Tống Khuyến dẫn đi thăm công viên Luxembourg ngắm lá đổ chiều Thu, leo lên tầng gác chót của tháp thép Eiffel soi bóng nước sông Seine giữa Paris, hay lênh đênh trên giòng Danube vào những đêm lung linh trăng sáng. Mặt khác, với những hiểu biết sâu xa về lịch sử Việt-Nam và thế giới qua mọi thời đại, thày Phan Khôi đã nhóm ngọn lửa yêu nước trong lòng tôi cùng với giấc mộng làm người Quang Trung xua quân chinh phạt giặc Tầu. Tôi từng mơ có ngày hạ trại, đóng quân trên những pháo đài dọc dải Vạn Lý Trường Thành. Tôi cũng ước ao một cuộc ra khơi vượt Địa-Trung-Hải tới thành Trois, tìm vết tích con ngựa gỗ và viếng ngôi mộ của người anh hùng Hector. Cô giáo Huỳnh Tân đã bắt chúng tôi tập đi tập lại nhuyễn nhừ bài “Au Claire de La Lune”. Đồng thời thày Tước cũng dạy chúng tôi bài “Red on The Sunset” khi lớp tôi vừa học xong cách phát âm hai mươi bốn chữ cái trong Anh Ngữ. Chỉ với hai bài hát ngắn tiếng Pháp, tiếng Anh này, cũng khiến mặt tôi vênh lên “lấy le” với đám con nít xóm Hồ-Sen, đa phần là các gia đình Bảo An Đoàn Bắc-Kỳ Di Cư. Năm mươi năm sau, hai bài hát này tôi vẫn còn nhớ.

 

Lên tới Đệ Ngũ chúng tôi thành ma cũ. Vào năm này, chúng tôi sang tuổi trổ mã, áo quần cứ ngắn và chật hẳn đi. Phong trào rèn luyện thể chất của lực sĩ đẹp Nguyễn Công Án đang lên. Những bộ ngực kiến càng của anh Cẩn, Bảo An Đoàn và anh Bính, Ty Thanh Niên trở thành những bộ ngực lý tưởng của lớp nam sinh. Chiều nào tôi và bạn bè cũng tới tập tạ trong trụ sở Thanh Niên Cộng Hòa đối diện Trường Trung Học Diên-Hồng. Những võ sĩ tên tuổi như Văn Đại, Minh Cảnh, Đặng Bốn, Võ Long Châu thỉnh thoảng lại về Hội-An giao đấu biểu diễn. Nhiều lò Thiếu Lâm, Võ Ta, Nhu Đạo, Quyền Anh, mọc lên dưới Sơn-Phong, trên Chùa Cầu, ngoài Nhà Thờ.

 

Chúng tôi bắt đầu được chấm chọn vào đội túc cầu của trường để đem chuông đi đánh xứ người, trong Tam-Kỳ hay ngoài Đà-Nẵng. Lớp Đệ Ngũ 3 có anh Thành và anh Tâm là hai tiền đạo xuất sắc của đội túc cầu học sinh Hội-An. Đội văn nghệ của trường tôi cũng xôm tụ lắm. Những giọng ca sáng giá thời đó phải kể là, Minh Thu, Ngô Rân, Khưu Vỹ Hoàng. Chị Giang người Bắc Di Cư, nhà ở trên Vĩnh-Điện, được nhìn nhận như là kịch sĩ Kim-Cương của ngày mai. Thầy Nhâm vừa là ông bầu vừa là đạo diễn của ban nhạc Trần Quý Cáp.

 

Đệ Ngũ cũng là năm nhiều bạn hữu của tôi chập chững bước vào con đường tình. Vào lứa tuổi mười bốn, mười lăm, tình yêu là cái bệnh hay lây. Người mắc bệnh này thường ưu tư muộn phiền vô cớ. Từ đó, một ánh mắt, một nụ cười, một tiếng nói, cũng có thể trở thành kỷ niệm một đời. Mắc bệnh này cũng nguy hiểm lắm, bị đánh sưng mặt như chơi. Những kỷ niệm buồn vui thời trung học, nửa thế kỷ qua rồi, tôi vẫn chưa quên.

 

Năm đó mùa Đông về sớm, gió Bắc lạnh tái tê. Một tối, trước thềm chùa Âm-Bổn, tôi và Trần Ngọc Lợi, ngồi bên nhau, hút thuốc lá, chuyện gẫu chờ thằng Phùng Tiến và thằng Ngô Rân. Hai đứa bạn hút hết bốn điếu Ruby rồi mà hai thằng kia chưa tới. Bỗng đâu, từ hướng phố, trên đầu dốc, xuất hiện hai chiếc xe đạp. Xe lạng một cái vèo, đậu ngay giữa sân. Một trong hai kỵ sĩ áo đen, chống nạnh hất hàm,

 

– Ê! Sẵn sàng chưa? Thằng Tiến đâu?

 

Tôi chưa hiểu chuyện gì, thì Lợi đã mau mắn trả lời,

 

– Lúc nào cũng sẵn sàng! Thằng Tiến chưa tới.

 

Nhờ ánh điện đầu đường mờ mờ, tôi nhận ra hai người bận đồ đen này là Lưu Lương Cơ và Nguyễn Đức Tâm, hai anh này học trên chúng tôi hai lớp. Họ là hai tay Huyền Đai Nhu Đạo có hạng của Hội-An.

 

Anh Tâm nhanh nhẩu,

 

– Để khi khác tụi này hỏi tội thằng Tiến. Bây giờ thì hai chọi hai. “Moi” với “Toi” chơi trước.

 

Lợi quay qua tôi căn dặn, trước khi bước ra sân,

 

– Mi lược trận cho tau, nếu thằng Cơ can thiệp, thì chận nó lại.

 

Bước ra giữa sân, võ sĩ Nguyễn Đức Tâm xuống tấn, chân trái trước, chân phải sau, hai tay xoè song song giơ ra phía trước trong một thế Judo căn bản. Anh Tâm đang chờ địch thủ xông vào để ném địch thủ xuống nền đá dưới chân.

 

Võ sĩ Trần Ngọc Lợi, học trò ruột của thày Năm Sửu thì tạ mình xuống thấp, chân duỗi chân co, sẵn sàng một đường Thiếu-Lâm. Dáng dấp của Lợi như một chàng Sơn-Đông mãi võ sắp đi quyền.

 

Thoáng một cái, Trần Ngọc Lợi xoay người, đá dứ chân trái, trước mặt Tâm. Đôi tay của Nguyễn Đức Tâm chưa kịp tóm bàn chân đối thủ, thì nhanh như chớp Trần Ngọc Lợi đã xoay người quạt một cú đá tạt bằng gót phải trúng vai Tâm.

 

Bị cú đá bất ngờ khá mạnh trúng sau vai trái, Tâm chưa kịp lấy lại thế quân bình thì Lợi tiếp một ngọn cước cũng bằng chân phải móc ngược lên, nhắm cằm của Tâm. Cú đá này nhanh và sắc như một nhát cuốc chỉ thiên. Phải là tay Judo bản lãnh lắm, Tâm mới kịp ưỡn người ra sau để tránh. Cằm anh chỉ cách lưỡi cuốc vài phân.

 

Sau đó, nhanh không kém, lợi dụng lúc Trần Ngọc Lợi chỉ còn trụ trên một chân, Nguyễn Đức Tâm xoay người lòn ra sau lưng Lợi. Tâm nhập nội, hai tay túm được vai áo của đối thủ. Anh nghiêng người, kê hông phải làm đòn bẩy, nâng Lợi lên sau vai…

 

Tôi thót tim. Chắc phen này thằng bạn chí cốt của tôi sẽ bị quật dãy “đành… đạch!…” trên nền đá sân chùa, như con cá lóc bị người ta đập đầu làm thịt!

 

Ai dè, Tâm chưa kịp quật Lợi xuống đất thì cái cùi trái của Lợi đã vèo tới cằm anh. Để tránh bị vỡ hàm, Tâm đành buông Lợi ra. Sức nặng của Lợi lơi ra làm cho Tâm mất thăng bằng.

 

Đúng là bên tám lạng, bên nửa cân! Cặp này biểu din còn hấp dẫn hơn cặp võ sĩ nhà nghề Đặng Bốn “Đầu Tầu Xe Lửa Phan-Rang” và Minh Cảnh “Đôi Găng Vàng Thủ-Đô” vừa diễn ra trước đây một tháng tại sân quần vợt tỉnh, nhân dịp Linh Mục Nguyễn Văn Vàng du thuyết đề tài “Tuổi Trẻ và Quê Hương”.

 

Đứng ngoài, tôi và Lưu Lương Cơ hứng chí vỗ tay “đồm độp!” tán thưởng.

 

Chưa xong! Trong lúc Nguyễn Đức Tâm bị trượt chân, còn đang chao đảo, thì ngọn cước chân trái của Trần Ngọc Lợi lại tới. Dân Thiếu-Lâm có những cú đá vô cùng lợi hại,

 

“Bốp!”

 

Ngọn cước trúng hạ bộ của địch thủ. Người bị đòn vào “chỗ đó”, đau quá, nhảy tưng tưng, hai tay ôm ngã ba, mặt nhăn nhó, miệng rên “ư… ư… ư…”

 

– Ngưng ngay! Ngưng ngay! Đề nghị ngưng ngay!

 

Lưu Lương Cơ thấy bạn trúng thương khá nặng, bèn đề nghị ngừng trận đấu.

 

Tôi hỏi anh Cơ,

 

– Thế nào? Tôi và anh sao đây?

 

Anh Cơ xua tay,

 

– Hẹn dịp khác!

 

Lợi gật đầu,

 

– Chờ kỳ tới, có thằng Tiến.

 

Thì ra, hôm ấy hai anh Tâm-Cơ đã bỏ công đạp xe khắp nơi để truy lùng thằng Phùng Tiến, để cho nó một trận đòn, chỉ vì nó đã mắc tội “dám yêu” nàng Minh Nguyệt. Cô bé Nguyễn Thị Minh Nguyệt là em gái anh Nguyễn Đức Tâm. Minh Nguyệt học dưới chúng tôi một lớp, có dáng người thanh thanh như liễu rũ, có màu mắt đẹp như nước hồ thu. Tôi chẳng rõ Minh Nguyệt có nhỏ chút xót thương nào cho cái cây si đang héo hon sau ngõ nhà nàng không? Nhưng chỉ vì cái bịnh yêu của thằng Tiến mà bạn bè của nó bị vạ lây. Thực ra tôi và thằng Lợi chẳng có ân oán, nợ nần gì với anh Tâm cả.

 

Hai cặp Lợi-Long, Tâm-Cơ bắt tay nhau, lòng không chút hận thù.

 

Nhị vị đàn anh Trần Quý Cáp phóc lên xe. Đêm yên tĩnh lại trở về.

 

– Cậu Long ơi! Từ lần sau, các cậu có dợt võ thì vào sân sau chùa. Dợt ngoài này, lỡ gặp mấy ông Cảnh Sát đi tuần mấy ổng rầy la đó!

 

Tiếng nói phát ra từ một bóng người trong đêm tối, nơi cửa hông. Đó là tiếng ông từ giữ chùa. Ông từ vừa có ý kiến với “Cậu Long”.

 

Trong xóm này “Cậu Long” cũng có uy tín lắm, vì tôi được tiếng là chăm học, chăm làm. Tôi là học trò duy nhứt có học bổng trong số rất đông học trò cư ngụ từ khu Trường Diên-Hồng tới Đế-Võng, Sơn-Phong. Trừ ba tháng nghỉ Hè, mỗi tháng trong niên khóa, tôi được chính phủ trợ cấp 200 đồng. Thời này anh tân binh quân dịch lãnh lương tháng vỏn vẹn có 120 đồng thôi.

 

Phụ huynh học sinh Bắc Kỳ Di Cư xóm chùa Âm-Bổn thường đem tôi ra làm cái gương tốt cho con em của họ.

 

—o—

 

Trong trường Trần Quý Cáp và lớp Pháp Văn của ông Quận Đĩnh, tôi có nhiều nhóm bạn riêng. Ngay trong lớp Đệ Ngũ 3 này, bạn trai của tôi có hai, ba nhóm. Nhóm bạn văn nghệ, văn gừng là Trần Ngọc Lợi, Ngô Rân, Lê Hữu Mục, Lê Văn Bảy, Phùng Tiến. Nhóm bạn áo rách, nhà nghèo là Nguyễn Đình Liếu, Phan Minh Đông, Nguyễn Văn Đang, Nguyễn Đác. Nhóm Bắc Kỳ Di Cư có Vũ Văn Bằng, Nguyễn Hữu Hạnh, Trần Quế Chính…

 

Bạn gái của tôi cũng có hai phe, mức độ thân thiết và xưng hô khác nhau. Phe thứ nhứt gồm chị Lê Thị Kim Tư, Trần Thị Diệu Hồng, Ngô Thị Xuân Lan, Võ Thị Quý, thêm một bạn trai là Vũ Đức Phụng. Ngoài chị Lê Thị Kim Tư, chúng tôi kêu bằng “chị” và xưng tên, số còn lại chúng tôi gọi nhau là “mi” và xưng “tau”. Sau này, lên đệ nhị cấp, chúng tôi tan đàn, xẻ nghé, nhưng mỗi lần gặp nhau, kể cả khi đã có vợ có chồng, chúng tôi vẫn “mi… mi… tau… tau…”

 

Nhóm bạn gái thứ nhì của tôi gồm hai cô ở sát nhà nhau là Tô Thị Vân và Nguyễn Thị Nguyệt Thu. Có một thời gian bạn bè trong lớp tưởng rằng người đẹp sắc nước hương trời Nguyễn Thị Nguyệt Thu có tình ý với tôi. Vì mỗi khi làm xong một bài thơ mới, Nguyệt Thu đều đưa cho tôi xem để tôi cho ý kiến. Và đôi lần, Nguyệt Thu đi học, đem theo vài bông hồng mới cắt sau nhà tặng cho Anh Vọi. Cho tới một hôm, tôi tới nhà thăm Nguyệt Thu, tôi gặp bác Hàm, thân phụ của Nguyệt Thu. Khi tiếp chuyện với bác, tôi thấy ý bác không muốn chúng tôi thân thiết nhau. Từ đó, tôi không ghé nhà Nguyệt Thu nữa. Năm sau, gia đình bác Hàm chuyển nhà ra Huế. Chúng tôi không còn liên lạc với nhau.

 

Nhà họ Tô có ba cô con gái. Cô nào cũng đẹp và duyên dáng. Chị Tô Thị Hồng ít khi xuất hiện. Tô Thị Vân học chung lớp với tôi. Tô Thị Lan học thua tôi một lớp. Chị Vân cũng là một thùng thư. Nhiều anh trong lớp trao thư cho chị lắm.

 

Năm Đệ Ngũ tôi còn một lô bạn gái học chung trường Pháp Văn nhà lá của ông Quận Đĩnh ở Hồ Sen. Tôi được Bác Đĩnh cho học không phải đóng tiền. Đáp lại, tôi đã rủ rê, chiêu dụ được khá nhiều bạn bè tới học Pháp Văn ở ngôi trường nhà lá này. Trong nhóm bạn này có ái nữ của nhà chụp rửa ảnh Huỳnh Sỏ, nàng Huỳnh Thị Tuyết Trinh. Các bạn tôi, và kể cả Bác Đĩnh, hay cặp đôi tôi với cô bé con ông tư bản chủ tiệm ảnh.

 

Một hôm, tan lớp tối, Tuyết Trinh và một đoàn nữ binh kéo nhau tới cổng nhà tôi. Mẹ tôi gọi,

 

– Long ơi! Có khách.

 

Tôi ra tiếp khách. Khách chẳng chịu vào nhà. Khách líu lo dưới gốc cây đu đủ. Ba bốn cô đang tìm cách đẩy cô bé cận thị về phía tôi,

 

– Trinh có gì nói với Anh Vọi thì nói đi! Mắc cỡ chi nữa?

 

Đứng trước một đám nữ sinh, tôi cũng mắc cỡ lắm, nhưng cũng làm bộ tỉnh,

 

– Chi rứa Trinh? Có gì thì nói đi?

 

– Không có chi mô Long! Tan học, còn sớm, mấy người rủ Trinh ghé thăm Long đó thôi!

 

Có tiếng Tô Thị Lan,

 

– Trinh nhớ Anh Vọi, Trinh rủ tụi này qua đây để có dịp cho Trinh thăm Anh Vọi đó!

 

Tuyết Trinh nhoẻn miệng cười, lắc lắc cái đầu. Dưới cặp kính cận, đôi mắt Trinh long lanh…

 

Bọn khách phá làng phá xóm này vớ vẩn đôi lời hỏi thăm chủ nhà, rồi ào ào kéo nhau sang quán chè Bà Chỉ.

 

Chị Hảo, người hàng xóm, chọc quê,

 

– Được nhiều người đẹp ghé thăm, Cậu Long đào hoa lắm nhe!

 

Ba thằng nhỏ trong xóm, một đứa là con Trung Sĩ Tranh, Bảo An Đoàn cũng phụ hoạ,

 

– Anh Long có bồ! Anh Long có bồ! Lêu!… Lêu!.. Anh Long!… Lêu!… Lêu!…

 

Rồi một tối sáng trăng, tôi lại vướng vào một vụ rắc rối khác.

 

Chúng tôi ba đứa Long, Rân, Mục đang tản bộ nơi ngã ba Ty Thông Tin thì đụng đầu toán yêng hùng Lò Heo… Bốn tay hảo hán chặn đường ba đứa chúng tôi lại,

 

– Thằng Rân có ngon thì bước ra đi!

 

Ông nội Ngô Rân lui ra phía sau, xô tôi tới trước,

 

– Hôm nay tau nhức đầu, mày thay thế tau một trận.

 

Người gọi tên Ngô Rân thách đấu là anh Mãnh, một dân chơi xóm Lò Heo. Tôi và anh Mãnh đã có dịp đọ sức một lần, lâu rồi, ở sân sau Trường Nam. Nguyên nhân cũng chỉ vì anh Ngô Rân cứ đảo qua đảo lại trước nhà một cô đẹp đẹp nào đó gần nhà anh Mãnh. Anh Mãnh thấy ghét cái bộ dạng của Ngô Rân, nên thách Ngô Rân đấu tay đôi sau sân trường Nam Tiểu Học. Tới hẹn, Rân bị nhức đầu, nhờ tôi đánh thay. Lần đó, tôi đang lấn điểm thì ông phu trường xuất hiện. Ông cầm cây, rượt tụi tôi chạy vắt giò lên cổ. Anh Mãnh có nhắn rằng, sẽ gặp lại Ngô Rân, mặc dầu sau đó Ngô Rân không dám bén mảng tới khu phố có nhà chị Quế.

 

Tự dưng bị bạn đưa ra làm lá chắn, nhưng tôi vẫn thản nhiên,

 

– Tôi đại diện cho thằng Rân tiếp anh.

 

Anh Mãnh nhanh nhảu,

 

– Thôi thì tiện đây mình giải quyết món nợ cũ cho xong.

 

Tay chân vung lên, hai đứa đánh toàn là đòn độc. Cuộc chiến diễn ra giữa phố. Anh Mãnh cao hơn tôi một cái đầu, vì thế tôi cố tiến sát địch, đánh cận chiến. Tôi gồng mình chịu ba bốn cú thôi sơn vào ngực, vào hông. Nhưng rồi tôi đã thành công với hai phát chém bằng sống tay trúng ngay mặt địch thủ. Chắc mũi địch thủ của tôi phải xẹp lép vì hai cú chém này. Tôi nhấn thêm một bước cho gần địch thủ hơn. Tôi vung chân phải lên, ngáng cẳng sau của địch, đồng thời bàn tay phải tận lực đẩy ngay cằm anh ta. Nếu trúng đòn này, một con bò cũng phải té bật ngửa. Nhưng anh Mãnh quả là tay bản lãnh rất cao. Anh ta xoay nhanh theo chiều kim đồng hồ, tay trái đấm một phát chí tử trúng ngay cằm tôi.

 

“Bốp!”

 

Lãnh cú đòn này, hai mắt tôi nổ đom đóm, hai tai kêu lùng bùng. Tôi nghiến răng, liều mạng, dùng đầu làm vũ khí, húc ngược lên.

 

“Cốp!”

 

Đỉnh đầu tôi chạm cằm của anh Mãnh rất mạnh. Anh ta lảo đảo. Tôi nhào vào kẻ địch, vật nó xuống. Hai đứa quấn vào nhau, lên gối lia lịa… ‘Hự!… Hự!…”. Hai đấu thủ lăn lộn giữa đường phố. Một lúc sau, thì bốn cánh tay khóa chặt, chân mỏi nhừ, chẳng đứa nào đánh thêm được cú nào nữa, đành nằm ôm nhau thở phì phò…

 

Lúc tôi đang nằm dưới, Mãnh đè phía trên thì nghe tiếng con gái la rối rít,

 

“Cảnh Sát! Cảnh Sát tới!”

 

Một ông cò cầm dùi cui xuất hiện,

 

– Ê! Hai thằng kia, ngừng lại!

 

Nghe tiếng ông cò nạt, Mãnh buông tôi ra. Tôi vội nhoài người, đứng dậy.

 

Ông Cảnh Sát quất cho mỗi đứa một dùi cui vào mông đít,

 

– Đi về! Lớn rồi còn đánh lộn hả?

 

Một đám học trò con gái bu lại. Có mấy đứa cùng lớp tôi, đang chí choé với nhau. Có đứa lấy dầu cù là bôi lên cằm tôi, chỗ vừa bị đấm. Tôi nghe tiếng Võ Thị Quý,

 

Trung úy Long và ĐĐ1/11 BĐQ tại Liên Khương trước giờ trực thăng vận, 08-1968

“Cứa thèng Lang quỷ sứ nài cứ đi đắn lộộn hùa!” (Cái thằng Long quỷ sứ này cứ đi đánh lộn hoài!)

 

Hôm sau, vào lớp, chị Kim Tư cằn nhằn,

 

– Long! Lớn rồi, đừng đánh lộn nữa nhé!

 

Tôi bẽn lẽn, trả lời chị,

 

– Vâng, từ nay Long không đánh lộn nữa. À mà ai mách cho chị chuyện này vậy?

 

– Quý chứ ai! Quý, Xuân Lan, Diệu Hồng, đi học Pháp Văn về. Thấy Long đang đánh nhau, tụi nó dừng lại coi. Xuân Lan nó bôi dầu lên chỗ đau cho Long, không nhớ sao?

 

Tôi có nhớ gì đâu? Tôi chỉ ậm ừ.

 

Võ Thị Quý chõ miệng vào,

 

– Mắc cỡ! Đánh lộn bị thua, nằm dưới. Nếu không có ba của Ngô Rân tới can thì bị một bữa ăn đòn đau rồi.

 

Nghe Quý nói, tôi mới nhớ ra. Cái ông Cảnh Sát lùn tịt đó, thấy sao mà quen quá! Thì ra ông ấy là bố thằng Rân. Đêm tối nhập nhoè, tôi không nhìn ra ông. Chắc ông già nhận ra tôi, nên chỉ phết cho một dùi cui rồi đuổi đi. Chứ nếu không, ổng túm về ty, giam cho một đêm, chắc là bị muỗi đốt cho khờ khạo.

 

Nhìn cái miệng Võ Thị Quý cứ xoen xoét hài tội, tôi ức lắm, nhưng không làm gì được nó. Tôi đành rủa thầm,

 

“Cái con khỉ này sao mà lắm mồm thế!”

 

Tôi quay đi không thèm đôi co thêm với các cô này. Cũng từ đó, tôi chấm dứt các cuộc tỉ thí võ nghệ tay đôi. Và chuyện tình của thằng Tiến, thằng Rân chẳng còn dính dáng gì tới tôi nữa.

 

Năm đó, cứ vào giờ thày Tống Khuyến dạy Pháp Văn lớp Đệ Ngũ 3, thì lớp Đệ Tam được nghỉ. Những đàn anh “đứng đắn” thì túa ra sân bóng rổ luyện thể lực, hay lang thang trong sân trường tìm ý thơ. Những tay “ba nhe” thì cứ liệng qua liệng lại trước hiên các lớp dưới có con gái đẹp. Hai chữ “ba nhe” có nghĩa gì, tôi cũng chẳng biết. Thấy chúng bạn dùng danh từ này để chỉ những kẻ xấu, tôi cũng dùng theo.

 

Chúng tôi thường xuyên bị những tay “ba nhe” lớp trên quấy rầy, chỉ vì lớp tôi cũng có vài cô dung nhan khá dễ thương. Bọn phá phách này cứ đi qua, đi lại ngoài hàng hiên, miệng oang oang như những cái loa Ty Thông Tin,

 

“Lune d’automne!”… “Lune d’automne!” (Nguyệt Thu!… Nguyệt Thu!)

 

“Nuage!”… “Nuage!” (Vân!… Vân!)

 

Chúng tôi ngồi trong lớp mà cứ nhấp nhổm, muốn nhảy ra túm cổ bọn nhí nhô đấm vài phát cho bõ ghét. Chúng tôi gọi những tay quậy phá này là bọn “quái vật”.

 

Một hôm, thày Khuyến cất giọng, sai tôi,

 

– Long! Nước cam cho thày!

 

Tôi biết là phải ra ngoài nhà ông phu trường mua dùm thày chai nước cam. Thày mà khô cổ, không có nước cam, thày giảng bài không được.

 

Vừa bước ra khỏi cửa, tôi đụng đầu ngay một đàn anh. Anh ta đang gân cổ gáy,

 

“Lune d’au…”

 

Tôi hét lên,

 

– Con quái vật này! Ông đấm… (bể mõm bây giờ!)

 

Tôi chưa la hết câu, thày Khuyến đã thò đầu ra.

 

Thày cũng quát lớn,

 

– Con quái vật kia, mi làm cái chi mà ồn ào rứa?

 

Nghe tiếng thày Khuyến hù, những cái loa Ty Thông Tin tắt ngấm. Đám đàn anh của tôi chạy có cờ.

 

Hôm đó các chị trong lớp ca tụng thày Khuyến hết lời. Còn bọn con trai chúng tôi cũng gân cổ đổ đủ thứ tội lên đầu bọn nam sinh Đệ Tam.

 

Cái uy của thày Tống Khuyến cũng hiệu lực được vài hôm, rồi đâu lại hoàn đấy. Cứ tới giờ Pháp Văn, chúng tôi lại nghe tiếng ma kêu, quỷ rú, từ gần ra xa, từ xa về gần “Lune d’automne!… Nuage!…”

 

—o—

 

Đầu thập niên 60, đất nước lâm nguy, đám nam sinh Trần Quý Cáp hăng hái, “đứng lên đáp lời sông núi…” (Quốc Ca)

 

Trước ngày quân đội đồng minh đổ bộ lên bãi biển Sơn-Trà, Đà-Nẵng, Trường Sĩ Quan Hải Quân đã mời gọi được những người trai yêu biển cả như Lưu Lương Cơ, Trần Văn Căn, Trần Quế Chính..

 

Trường Sĩ Quan Không Quân cũng tuyển Nguyễn Hữu Hạnh và Vũ Văn Bằng ngay từ khi hai bạn này vừa xong Tú Tài I.

 

Nghe đâu anh Mãnh xóm Tây Hồ cũng cùng vài người bạn, đã tòng quân, theo khóa Hạ Sĩ Quan, Nha-Trang.

 

Tôi quen biết nhiều anh trong số những chàng trai đã cất cao khúc hát “Biệt Kinh Kỳ” thời đó, như Võ Văn Sung, Hoàng Công Thưởng, Trương Đình Bảy, Khưu Vỹ Hoàng, Lê Hữu Mục, Lê Trung Bòng, Hồ Hùng, Đỗ Bá, …

 

Một ngày, khi đứng trong đám tân binh của Quân Đoàn I chuẩn bị lên xe lửa vào Đà-Lạt nhập Khóa 20 Võ-Bị, tôi thấy anh Nguyễn Đức Tâm đeo lon thiếu úy, ưỡn ngực đi qua, đi lại, dưới hàng hiên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn. Hôm đó, tân Thiếu úy Nguyễn Đức Tâm Khóa 18 Võ-Bị, vừa ra trường, đang nghỉ phép thăm nhà. Thấy tôi, anh Tâm giơ tay vẫy. Ngày đó tôi lên đường,

 

Hát khúc Xuất Quân
Giỡn mặt Tử Thần
Viết những thiên anh hùng ca bằng máu
Từ những chiến trường Tây-Nguyên, Bến-Hải, Cà-Mau”

 

(Thơ VMLong)

 

Giữa thập niên 60, đám nữ sinh bạn tôi lần lượt lên xe hoa, về làm dâu… nhà người ta.

 

Thời gian này tôi đang học trong Trường Võ-Bị Đà-Lạt nên không có dịp tiễn chân bạn mình sang sông. Huỳnh Thị Tuyết Trinh lấy một ông thày dạy Anh Văn trường Trần Quý Cáp. Chị Lê Thị Kim Tư lấy một Y Sĩ Trung úy.

 

Vài năm sau, Võ Thị Quý kết hôn với một ông sĩ quan trưởng kho đạn đồn trú ngoài bãi biển Sơn-Trà. Có một lần tôi về thăm nhà, tới thăm bạn, bạn tôi vừa nựng con, vừa cười với tôi,

 

– Nếu mi tìm không ra vợ. Về lại Hội-An tau giới thiệu cho một mớ. Tha hồ mà lựa. Muốn đứa nào, tau nói cho một tiếng là xong. Mà cũng lạ hí? Tụi mình chơi với nhau thân như rứa, mà sao chẳng nghĩ tới chuyện lấy nhau? Lạ hí?

 

Tôi chỉ cười trừ. Chứ biết trả lời sao với bạn tôi đây?

 

Càng ngày, chiến tranh càng leo thang. Tôi tham gia hết chiến dịch này qua chiến dịch khác dọc Trường-Sơn, ít khi có dịp về thăm chốn cũ.

 

Ngày xưa nghe Minh Thu hát,

 

Rừng ơi! Ta nhớ những đêm trăng buồn.
Ngồi bên khe vắng nghe suối xa tuôn…”

 

 

(Hùng Lân)

 

tôi đã thương núi, yêu rừng.

 

Tới khi quanh năm trong rừng, tôi lại thèm được một ngày trở về Hội-An, để nghe Minh Thu hát.

 

Sau Tết Mậu-Thân, đơn vị tôi hành quân trên Đà-Lạt. Tiểu đoàn 11 Biệt Động Quân chạm trận nặng trong rừng Cam-Ly. Đại đội tôi bị máy bay đánh lầm, phải chạy bán sống, bán chết. Đại úy Hồ Khắc Đàm, tiểu đoàn trưởng bị thương. Đài BBC thổi phồng sự thiệt hại của đôi bên, làm cho dân chúng thành phố xôn xao. Ngay hôm tôi rút quân về, một người bạn báo cho tôi biết Nguyệt Thu đang ở đây, và đã tới Bộ Chỉ Huy tiểu đoàn tìm tôi nhưng không gặp. Hôm sau tôi và tài xế cùng một người bạn gốc Hội-An tới nhà Thu ở trọ để thăm Thu. Lúc đầu, tôi không thể nhận ra Thu. Thu đang có bầu, mặt đầy tàn nhang, chỉ có đôi mắt to đen, mở lớn là còn nét quen thuộc. Nguyễn Thị Nguyệt Thu đã lập gia đình lâu rồi. Và Thu đang làm cô giáo, dạy tiểu học ở Trại Hầm. Tôi cám ơn Nguyệt Thu đã tới tìm thăm tôi, khi nghe tin đơn vị tôi vừa chạm trận, thiệt hại nặng.

 

Nguyệt Thu ngắm cái phù hiệu Biệt Động Quân trên vai áo tôi, giọng bùi ngùi,

 

– Ngày đó Thu tưởng, sau này lớn lên, Long sẽ thành một nhà văn. Không ngờ Long lại chọn nghề võ.

 

Nghe Nguyệt Thu nhắc lại kỷ niệm thời Đệ Ngũ, lòng tôi cũng cảm thấy bâng khuâng.

 

Cả một khung trời êm đềm của tuổi học trò như vừa hiện về. Tôi chợt thấy an ủi trong lòng, khi nhận ra rằng, dù không gian cách trở, thời gian có trôi qua, nhưng tình nghĩa bạn bè tuổi ấu thơ vẫn còn bền chặt thân thiết như thuở xưa.

 

Mới đó mà, từ sau năm Đệ Tứ, chúng tôi đã xa nhau tám năm. Trong tám năm dài đằng đẵng ấy, đã xảy ra bao nhiêu là thay đổi…

 

Tháng 9 năm 1970 tôi phải về Sài-Gòn chờ đi học một khóa ngắn ngày bên Singapore. Tôi tìm địa chỉ của Phùng Tiến để ngủ nhờ. Tôi không nói ngoa, chứ ở cái nơi cùng kiệt của con hẻm 164 Yên Đổ ấy, vào ban đêm, khách lạ phải gồng mình lấy sức, để xông qua bức màn muỗi đói dày đặc như nêm cối chắn lối, mới tìm ra cái cửa căn phòng nhà Phùng Minh Tiến. Thằng Tiến thuê căn phòng này để ở trong những năm chuẩn bị cái bằng Cao Học Hành Chánh. Đây là chốn tụ tập của những bạn đồng môn Trần Quý Cáp năm xưa. Tại đây tôi gặp mặt Mạc Phi Hoàng, Đặng Xuân Nghĩa, Nguyễn Tăng Kỷ và Nguyễn Lợi. Nguyễn Lợi vừa là bạn cùng lớp, vừa là bạn cùng xóm Chùa Âm-Bổn của tôi. Nó có hai đứa em gái đẹp lắm. Cô lớn tên là Nguyễn Thị Nhiều, cô nhỏ tên là Nguyễn Thị Chuyện. Ngày nào tôi cũng gặp hai nàng yểu điệu thục nữ cùng xóm này, nhưng chưa bao giờ dám mở miệng làm quen.

 

Ngày đó tôi ngu quá. Nghe lời thằng Ngô Rân giảng “mo ran” rằng,

 

“Chỉ những thằng khốn kiếp, mặt dày mới đi cù em gái của bạn!”

 

nên tôi cứ phải đóng vai lạnh lùng, đạo mạo với mấy cô em gái của tụi bạn tôi.

 

Ai dè đâu, chỉ vài năm sau, thằng “mặt dày” Ngô Rân cưới được Quế Hương, em gái thằng Trần Ngọc Lợi. Lúc tôi thấy mình ngu, thì tôi đã vào Pleiku mất rồi.

 

Tôi còn nhớ, lần đó bọn thằng Lợi, thằng Nghĩa nài nỉ tôi kể chuyện đời lính Cao-Nguyên cho chúng nó nghe… Đang vui câu chuyện, ông vua phản chiến Nguyễn Tăng Kỷ vụt đứng dậy bĩu môi,

 

– Chỉ vì những thằng hiếu chiến như tụi mi nên mới có chiến tranh!

 

Hôm đó bùng nổ một cuộc đấu lý kịch liệt, một bên là Nguyễn Lợi và Đặng Xuân Nghĩa, bên kia là Nguyễn Tăng Kỷ. Tôi hầm thằng Kỷ lắm, nhưng không quen đánh nhau bằng mồm. Chờ lúc tụi nó thở ra, nghỉ mệt, tôi hét vào mặt thằng Kỷ,

 

– Nếu không có mấy thằng hiếu chiến như tụi tao, thì làm sao mày có thể sống nhơn nhơn ở Sài-Gòn bao nhiêu năm nay được? Cái đồ vô ơn!

 

Thấy tôi đổ quạu, các bạn tôi ngừng cãi nhau.

 

Từ Singapore về, tôi lại tới hẻm 164 Yên Đổ ngủ nhờ, chờ phương tiện về Pleiku. Ngày hai bữa, chúng tôi hẹn nhau về cái chòi căng bằng vải nhựa của một bà bán cơm dĩa trong con hẻm đối diện. Tội nghiệp bà chủ quán. Vào giờ đông khách, trông bà cứ như con vụ, xoay mòng mòng, tả xung, hữu đột, đối phó với bọn khách đang đói bụng. Ít năm sau, bọn khách bình dân này thành Đốc-Sự, Thanh-Tra, Phó Quận, Phó Tỉnh. Chẳng đứa nào ghé thăm bà chủ quán cơm. Có lẽ chỉ vì bà không có con gái, nên khi thành đạt rồi, chúng nó quên bà ngay.

 

Vài hàn sĩ thư sinh bạn tôi đã thoát xác để thành một Phó Ty Cảnh Sát Tỉnh, một Ủy Viên Giám-Sát-Viện, một Chánh-Văn-Phòng sau cùng của Thủ-Tướng Trần Thiện Khiêm. Và từ năm 1973, mỗi khi nhắc tới tiểu sử Trung-Học Trần Quý Cáp Hội-An, người ta lại thấy tên Trần Huỳnh Mính trong danh sách hiệu trưởng trường, sau tên quý vị tiền nhiệm Lưu Chí Kiên, Hoàng Trung, Tăng Dục…

 

Thế sự cứ xoay vần, vận nước cứ đổi thay. Làm sao chúng ta đoán biết được tương lai? Nhưng suy cho cùng, “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả” (Phan Bội Châu) thì ai cũng thành thạc sĩ, tiến sĩ, bác sĩ, có ai dại dột đi làm binh… sĩ như tôi?

 

Nhưng có một lần tôi nghiệm ra rằng trăm nẻo đường đời, nẻo nào cũng có chông gai riêng của nó. Đi lính đã trên chục năm, bất ngờ một hôm tôi thấy dưới quyền mình có một người quen. Anh Chuẩn úy Nguyễn Hồng Khanh, Sĩ Quan Trợ Y Tiểu Đoàn 82 BĐQ, là bạn cùng lớp của tôi suốt ba năm Tú Tài.

 

Anh Khanh bị loại năm cuối cùng tại Đại Học Dược Khoa Sài-Gòn, bị gọi đi Sĩ Quan Trừ Bị, rồi bị đưa vào Pleime. Đơn xin học lại năm chót Dược Khoa Quân Y của Khanh đã được chấp thuận, nhưng anh phải chờ người thay thế mới được rời đơn vị.

 

Tôi thấy ở Pleime, Tử Thần rình rập từng giờ, từng ngày. Bạn tôi lên đường càng sớm càng hay. Tôi vội ký sự vụ lệnh cho Chuẩn úy Nguyễn Hồng Khanh ra đi. Mãi một năm sau (tháng 1/1975) tôi mới được bổ sung ông Sĩ Quan Trợ Y mới.

 

Dược sĩ Nguyễn Hồng Khanh hiện nay vẫn còn hành nghề thày thuốc ở Hội-An. Không biết người cựu chiến binh Biệt Động này có nhớ gì Pleime không?

 

—o—

 

Ba chú bé trong xóm Hồ Sen, từng có lần trêu chọc tôi, “Anh Long có bồ! Lêu!… Lêu!…”, đã nghe lời cha mẹ dặn, lớn lên noi gương “Cậu Long” cố gắng học hành.

 

Ngày tôi ra trường Võ-Bị, đầu đội cái mũ nâu, về thăm nhà, chúng nó đã trở thành học sinh Trung-học Trần Quý Cáp. Ba thằng em bu quanh tôi, miệng hát,

 

“Biệt Động Quân… chết trên rừng,”

 

Nghe thế, mẹ tôi trừng mắt,

 

– Các cháu đừng nói gở…

 

Cả ba đứa toét miệng ra cười,

 

– Anh Long ngon quá! Mai này lớn lên tụi em sẽ đi theo anh…

 

Đầu năm 1974, có một chuẩn úy mới ra trường đáo nhậm đơn vị. Khi nghe anh nói chuyện giọng trăm phần trăm Quảng-Nam, tôi tò mò,

 

– Chú nói tiếng Quảng không pha một chút nào. Vậy chứ chú em quê ở đâu?

 

– Em quê Hội-An.

 

– Em có học Trần Quý Cáp không?

 

– Em tốt nghiệp Trần Quý Cáp sau Thiếu Tá chín năm.

 

– Vậy ra em có biết anh?

 

– Em ở trong khu Hồ Sen, Chùa Âm-Bổn. Nhà em gần nhà Thiếu Tá.

 

– Em tên là gì?

 

– Em tên Trương Trọng Tài. Nhưng em thích được gọi là Trương Thiên Tài.

 

– Ừ thì anh sẽ gọi em là Trương Thiên Tài. Nhà em ở chỗ nào khu Hồ Sen?

 

– Nhà em cách nhà bác Thạnh hai căn, đâu lưng với nhà bác Nhuận, tài xế.

 

– Anh nhớ ra rồi, nhóm em có ba đứa. Hai đứa kia giờ này ở đâu?

 

Đôi mắt người sĩ quan trẻ chợt buồn,

 

– Thiếu Tá ơi! Chúng nó bỏ học ngang xương, tình nguyện đi lớp Hạ Sĩ Quan. Hai đứa đều về Tiểu đoàn 39 Biệt Động Quân. Trận Hạ Lào, chúng nó không về. Lớp tuổi của em, trong xóm mình, còn có mình em thôi.

 

Như thế là, hai đứa em trong xóm, đã theo chân “Anh Long” thành Biệt Động Quân, và đã… chết trên rừng. Nghe Tài kể chuyện, tôi chợt cảm như có cái gì đó làm tôi nghẹn hơi. Có cái gì đó làm tôi khó thở. Ngực tôi đột nhiên nặng như chì.

 

Năm ấy, chiến dịch mùa mưa Cao-Nguyên khởi đầu sớm hơn mọi năm.

 

Một hôm, bình minh lên cùng với tiếng súng. Mưa pháo ào ào cày xới Căn Cứ Hỏa-Lực 711, Pleiku. Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân QLVNCH bị hai trung đoàn Cộng Quân tấn công.

 

Chín giờ sáng ngày 14 tháng Tư năm 1974, Chuẩn úy Trương Thiên Tài bị thương vào tay trái. Băng bó vừa xong, người trung đội trưởng lại vội vã lao ra chiến hào. Trận đánh càng lúc, càng thêm ác liệt, và kéo dài suốt đêm. Lực lượng trừ bị sau cùng của tiểu đoàn đã được tôi tung vào trận địa để chống đỡ những đợt biển người liên tiếp của Sư Đoàn 320 Cộng-Sản Bắc-Việt.

 

Tám giờ sáng ngày 15 tháng Tư năm 1974, trung đội trưởng trung đội 3 đại đội 3/ 82 gục trên chiến hào, cách tôi và Thiếu úy Phiến đại đội trưởng đại đội 3/82 vài thước. Chuẩn úy Trương Thiên Tài vỡ ngực vì một băng AK 47 trong đợt tấn công biển người lần thứ sáu của Cộng Quân trong hai ngày kịch chiến.

 

Hôm đó, nơi tiền đồn biên giới, trong màn lửa đạn mịt mù, một đàn anh Trần Quý Cáp vuốt mắt cho một đàn em Trần Quý Cáp.

 

Em gục xuống rồi. Từ nay trong xóm mình, lớp tuổi của em, không còn ai nữa!

 

Biệt Động Quân chết trên rừng,
…cầu mong cho hậu phương bình yên.”

 

 

Như giòng Thu-Bồn chảy mãi không ngừng. Từ nơi đó ra đi, những thế hệ học sinh đã theo chân nhau đóng góp tuổi trẻ, mồ hôi, và xương máu, cho quê hương Việt-Nam, làm rạng danh Trung-Học Trần Quý Cáp.

 

Thời chiến tranh, biết bao thanh niên đã lên đường ra mặt trận. Mỗi năm, bạn bè tôi cứ hao hụt dần. Các anh Trần Ngọc Lợi, Lưu Lương Cơ, Hoàng Công Thưởng, Trương Đình Bảy, Khưu Vỹ Hoàng, Trần Quế Chính, Hồ Hùng, Đỗ Bá, đã đền nợ nước.

 

Cho tới đầu tháng Năm năm 1975, vào một ngày rất buồn, tôi gặp lại Niên Trưởng Nguyễn Đức Tâm trong Khu Đăng Ký Sĩ Quan Cấp Tá của Ủy Ban Quân Quản, đường Trần Hoàng Quân, Sài-Gòn. Thiếu tá Nguyễn Đức Tâm là vị tiểu đoàn trưởng sau cùng của Tiểu đoàn 14 Nhảy Dù.

 

Hai anh em nhìn nhau, mắt lệ rưng rưng. Chúng tôi đã không làm tròn sứ mệnh quê hương giao phó. Chúng tôi đã đánh mất quê hương.

 

“Quê hương tôi
Bao người bỏ chạy vì đâu?
Bao oan khiên chìm đáy biển sâu
Từ ngày ba mươi tháng tư năm ấy
Quê hương tôi là tất cả thương đau… ”

 

 

(Thơ VMLong)

 

Rồi chúng tôi bị đưa vào các trại tập trung cải tạo. Từ đó, tôi bắt đầu cuộc đời tăm tối không ngày mai. Nhiều đồng ngũ của tôi bị xử tử vì tội vượt ngục.Vượt ngục không thành, nếu may mắn không bị xử bắn, thì cũng bị cách ly, kiên giam, bỏ đói, nhốt trong hầm tối một thời gian. Hai lần trốn trại bất thành của tôi ngoài Hoàng-Liên-Sơn cũng làm cho tôi mất một cái răng, và gãy một cái xương sườn, sau những trận đòn thù của bộ đội Đoàn 776 Quân-Đội Nhân-Dân Việt- Nam.

 

Truyện kể về cuộc đời sau chiến tranh của những người thất trận là một truyện trường thiên đầy nước mắt, không bút giấy nào ghi cho hết.

 

—o—

 

Sau mười ba năm tù cải tạo, tôi về. Một hôm, trên đại lộ Trần Hưng Đạo, Sài-Gòn tôi gặp Nguyễn Tăng Kỷ đạp xe lọc cọc ngược chiều. Thấy tôi, hắn dơ tay vẫy, miệng cười thân thiện. Tôi nghếch mặt lên trời ngắm cánh én bay, không đáp lại cái vẫy tay của người bạn bảy năm Trần Quý Cáp này.

 

Rồi sau đó tôi được nghe bạn bè nói lại rằng, chỉ vài năm sau ngày Miền Nam sụp đổ, Nguyễn Tăng Kỷ đã mở mắt ra. Giấc mơ thiên đường Xã-Hội Chủ-Nghĩa của nó thành mây khói. Vợ nó chết rồi. Con gái nó đã ra khơi làm thuyền nhân, đang định cư ở Úc. Biết điều này, tôi mới hiểu vì sao, hôm đó cái vẫy tay của nó lại có vẻ thiết tha như thế. Khi nghe tin thằng Kỷ đã sang Úc sum họp với gia đình con gái nó, tôi cũng mừng cho nó.

 

Năm 1993, gia đình tôi lên đường đi Mỹ theo diện HO.

 

Tháng 9 năm 2007, nơi quê người, tình cờ tôi gặp lại Nguyễn Lợi nhân một chuyến về chơi Wesminster, Nam Cali.

 

Hơn 40 năm sau, học sinh Trần Quý Cáp gặp lại nhau năm 2007. Bên trái là Vương Mộng Long - tác giả và vợ.

 

Quả đúng như nhận xét của Thục Anh, cô học trò của tôi,

 

“Anh Nguyễn Lợi trông già không ra già, trẻ không ra trẻ, vừa gặp là nhận ra ngay…”

 

Bao năm qua, mà “dung nhan” của Nguyễn Lợi chỉ thay đổi tí ti thôi. Bởi thế, nơi sân khách sạn Little Saigon, khi nghe tiếng người xứ Quảng,

 

“Ê! Lang! Có phửa Giương Mộng Lang đó khô… ong?” (Ê! Long! Có phải Vương Mộng Long đó không?) quay lại, tôi nhìn ra “con ma xó” này ngay. Tôi lén đặt cho nó cái hỗn danh “con ma xó” là vì, chuyện trên trời dưới bể, cái gì nó cũng biết, cái gì nó cũng rành. Nguyễn Lợi giúp tôi tìm được Mạc Phi Hoàng và nhà thơ Phùng Minh Tiến. Mấy thằng này vẫn còn tươi rói, mặc dù mái tóc thằng nào cũng có vẻ nhạt màu và thưa đi nhiều, không còn bồng bềnh đen nhánh như thời chúng nó mới vào Đại Học Chính-Trị Kinh- Doanh, Đà-Lạt.

 

Cho tới bây giờ tôi mới biết rằng Mạc Phi Hoàng cũng là tay yêu văn thơ. Có lẽ vì thế mà nó kỳ khu, miệt mài lấy cho được mảnh bằng Cử-Nhân Văn-Khoa trường Đại Học Đà-Lạt. Cậu học trò Mạc Phi Hoàng nhút nhát lắm. Trong bảy năm, nó âm thầm ôm ấp hình bóng một giai nhân lớp dưới mà không ai hay. Trong tập thơ mới xuất bản gần đây, nó đã thú nhận cái nhút nhát ngày xưa của mình, nơi bài “Hoa Tuyết Phi”

 

Chàng yêu tha thiết cả con tim
Cay đắng thương đau với nỗi niềm
Câm nín ngàn lần không dám nói
Bảy năm mòn mỏi gục bên thềm…”

 

 

(Thơ Phan Huy Mạc Phi Hoàng)

 

May thay, nó đã chọn đúng người. Khi thương nó rồi, người cựu nữ sinh hương sắc Trần Quý Cáp đó đã thủy chung tần tảo nuôi con, mỏi mòn đợi chờ nó. Nó đi tù cải tạo gần mười năm. Giờ đây, nơi đất khách, anh thi sĩ Phan-Huy Mạc Phi Hoàng, bạn tôi chỉ còn bên mình tập thơ “Phố Cũ Tình Xưa” và nàng Tuyết-Phi, cùng hai cậu quý tử mà nó và cô ta đã vất vả chung lưng “sáng tác”.

 

Năm 2009, nhân ngày “Kỷ Niệm 46 Năm Nhập Khóa 20 TVBQGVN” vợ chồng tôi lại về Nam Cali.. Dịp này tôi mời ba ông khách quý tới dự đêm dạ tiệc với bạn bè đồng khóa của tôi. Ông Mạc Phi Hoàng, cựu Phó Ty Cảnh-Sát Tỉnh, đang bị bịnh dời leo vật té ngửa, không tới được. Chỉ có ông Nguyễn Lợi, cựu Chánh-Văn-Phòng Phủ Thủ-Tướng và ông Phùng Minh Tiến, cựu Uỷ-Viên Giám-Sát-Viện hiện diện đêm tiếp tân. Hai đứa này có dịp tha hồ tâm sự cùng bọn đồng môn Trần Quý Cáp đã đi K20 Võ-Bị còn sống sót. Những đứa con Trung-Học Trần Quý Cáp gặp lại nhau nơi đất khách, mừng mừng tủi tủi.

 

Hôm đó, những kỷ niệm của đoạn đời thơ mộng ngày nào chợt sống lại. Một con lộ cắt ngang ruộng rau muống, đêm đêm ếch nhái kêu vang, trước Khổng Miếu tối om; một đoạn phố ven sông, có ánh đèn điện mờ mờ, từ Chùa Cầu tới rạp Hòa-Bình; một khúc đường quê bốn mùa hoa nở từ Chùa Sư Nữ xuống Phước-Trạch; hay cái lối mòn hun hút, ngoằn ngoèo trên cồn cát cháy nắng sau Chùa Long-Tuyền; những con đường in dấu chân thời mới lớn, những mối tình học trò, đã là những đề tài nói mãi không thôi.

 

Hết chuyện thế giới, chuyện quê nhà, tới chuyện gia đình vợ con, chúng tôi hàn huyên suốt buổi. Đêm sao ngắn quá! Mà tâm sự thì chưa thổ lộ hết cho nhau.

 

Tôi cứ thắc mắc trong lòng, thằng Nguyễn Lợi ly dị vợ, sống một mình đã đành; chuyện thằng Phùng Tiến đang đơn côi mới là điều đáng ngạc nhiên. Bộ thằng khờ này không biết Việt kiều đang rủ nhau về quê cưới vợ rần rần hay sao? Tôi nhắc Tiến,

 

– Người xưa đâu?

 

Nó chỉ lắc đầu cười, rồi đưa tặng tôi một tập thơ nhiều tác giả, xuất bản cách đây khá lâu. Trong “Tuyển Tập Thơ Quốc Gia Hành Chánh” này, tác giả Phùng Minh Tiến có mười bài. Nơi đây, tôi vẫn nhận ra dáng dấp thơ của cậu học trò Đệ Ngũ, Trần Quý Cáp ngày nào,

 

Tôi về thăm bóng trăng xưa
Còn đâu bến cũ mà đưa tiễn người
Sông Thu nay lở mai bồi
Bèo tan cửa Đại, mây trôi phương nào.
Nửa đời chưa hết lao đao
Bốn mươi năm lẻ làm sao quên người.
Trời ơi! Thoáng một nụ cười
Theo nhau chi để lụy người núi sông?”

 

 

(Thơ Phùng Minh Tiến)

 

Đời người đâu có dài cho lắm? Vậy mà, hơn bốn mươi năm sau, nụ cười của một người Hội-An vẫn chưa nhạt phai trong tim một người.

 

Bây giờ là thế kỷ 21. Một trang sử đã lật qua. Tất cả chỉ còn là kỷ niệm. Mỗi người con Trung-Học Trần Quý Cáp có những nỗi niềm tâm sự riêng khi nhớ về nơi ấy. Nhưng cứ mỗi lần nghe ai nhắc tới tên ngôi trường này, lòng tôi lại cảm thấy dạt dào thương nhớ.

 

Tôi mồ côi cha từ nhỏ. Trường Trần Quý Cáp đã làm cái thiên chức của bố tôi, dạy dỗ, uốn nắn, và bao dung che chở cho tôi suốt thời niên thiếu. Tôi đã được trui rèn nhân cách, trau dồi kiến thức, để trở thành một người tốt; biết tự trọng, kiên nhẫn và nhún nhường; biết tự hào là công dân của một nước độc lập, sẵn sàng hi sinh vì lý tưởng tự do. Từ nơi đó, tôi đã lớn khôn. Từ nơi đó, tôi đã thành người.

 

Tôi đã cống hiến cả cuộc đời mình cho quê hương xứ sở. Tôi đã làm tất cả những gì có thể làm được để phục vụ đồng bào tôi và đất nước tôi, như bố tôi đã hằng mong. Và trên xứ Thiên-Đàng, chắc bố tôi cũng đã mỉm cười hài lòng vì đứa con mình.

 

Bây giờ tôi ở cách xa Hội-An cả một đại dương, nhưng trong tâm tưởng, tôi vẫn có thể mường tượng ra rất rõ, hình ảnh của ngôi trường xưa, cùng nét mặt thân yêu của những người đã một thời dạy dỗ tôi.

 

Seattle tháng 10 năm 2009

 

Vương Mộng Long

 

 



Chỉnh sửa lại bởi hoangngochung - 28/Apr/2012 lúc 4:46am
hung0989077120@ahoo.com
IP IP Logged
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.160 seconds.