Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Lịch Sử - Nhân Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Lịch Sử - Nhân Văn
Message Icon Chủ đề: Góc Nhỏ Về Khoa Học Huyền Bí Gởi trả lời Gởi bài mới
Trang  of 4 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Hoa Hạ
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 19/Jan/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 968
Quote Hoa Hạ Replybullet Chủ đề: Góc Nhỏ Về Khoa Học Huyền Bí
    Gởi ngày: 03/Feb/2012 lúc 3:36am

THIÊN VĂN HỌC PHƯƠNG ĐÔNG

 

Tác giả: Bùi Dương Hải

 

 Tựa

Tôi viết loạt bài này, trước hết để gửi các bạn ở Câu lạc bộ Thiên Văn Học Trẻ Việt Nam, phần nào thể hiện cho những gì tôi mong muốn mà chưa làm được. Sau nữa là vì những người bạn của tôi trên Diễn đàn Trí tuệ Việt Nam online, mà sau này gọi là Trái Tim Việt Nam online, những người mà tôi luôn yêu quý.

 Những điều viết trong bài này là những kiến thức từ nhiều nguồn, được tập hợp lại và viết theo cách hiểu của tôi, dưới góc độ của một người không chuyên, tự nhận thức tìm hiểu hơn là được học và nghiên cứu. Vì vậy rất có thể có những chố không đúng gốc như nguyên bản, hay không giống với suy nghĩ của một số người. Rất mong nhân được sự đóng góp để hoàn thiện hơn.

 

Bùi Dương Hải

Khoa Toán Kinh tế - Đại học Kinh tế Quốc dân.

Tháng 3 – 2005

Nickname: Chitto – Email: Chitto7x@yahoo.com

 

MỞ ĐẦU



Thiên Văn không phải là một môn khoa học mới mẻ. Từ thuở bình minh nhân loại, khi biết tìm ra lửa, chắc hẳn loài người cũng đã nhìn ngắm bầu trời đêm với các vì sao, dù là để gửi gắm tâm linh, tìm tòi tri thức hay đơn giản là mơ mộng.

Cho đến ngày nay, nhờ những kiến thức Vật lý, Toán học hiện đại, con người đã tiến những bước rất dài trong việc tìm hiểu khoảng không bao la bên ngoài cái trái đất hỗn độn và nhỏ bé này. Trong những thành tựu đó, có không ít công sức của những những người đi trước từ thời thượng cổ, cả phương Tây cũng như phương Đông. Những kiến thức của khoa học hiện đại mang nhiều dấu ấn phương Tây, và toàn bộ thuật ngữ đều là các từ Latin, nhưng không phải vì thế mà người phương Đông không có những thành tựu của riêng mình, thậm chí những thành tựu đó – trong những thời kì nhất định – còn vượt xa tri thức phương Tây.

Những cái tên quen thuộc: dải Ngân Hà, chòm sao Thần Nông, sao Thương, Tua  Rua,…, rất gần gũi với cuộc sống người dân Việt, một quốc gia cư dân lúa nước phương Đông. Việc tìm hiểu thành quả quan sát thiên văn cũng như tư tưởng về Vũ trụ của tiền nhân là điều không thể thiếu với những người yêu thiên văn.

Văn minh phương Đông đại diện bởi Trung Hoa và Ấn Độ, mà trong đó nền văn minh Trung Hoa đã tiếp nhận khá nhiều tư tưởng của Ấn Độ để tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh. Vì vậy trong bài này chủ yếu đề cập đến thành quả của người Trung Hoa

Trong bài viết này, tôi phân chia thành 2 phần lớn, là Quan sát thiên văn và Vũ trụ quan. Phần đầu là những quan sát của các nhà thiên văn cổ, sự phân chia bầu trời và các thiên thể, những hiện tượng quan sát được. Phần hai là sự khái quát tư tưởng, hình thành những yếu tố triết học, tìm hiều quy luật của Vũ trụ, mà trong đó con người là một bộ phận quan trọng.

 

Bài viết được chia như sau

 

Phần I.

Quan sát Thiên Văn

 

Phần II.

Vũ trụ quan Phương Đông

 

Phần III.

Những Ứng dụng

1. Các tài liệu vô giá

2. Những nhà thiên văn cổ đại

3. Ngũ hành - Can Chi

4. Cửu Diệu

5. Tam Viên

6. Nhị thập bát Tú

7. Thiên cương Địa sát

 

8. Những truyền thuyết

9. Âm Dương Bát quái

10. Lão giáo

11. Ấn Độ

12. Phật giáo

13. So sánh với phương Tây

 

14. Lịch pháp

15. Y học

16. Bói toán

17. Tử Vi

18. Phong Thủy

19. Thiết chế xã hội

20. Các lĩnh vực văn hóa khác

 


Phần I.

Quan sát Thiên Văn          QUAN SÁT THIÊN VĂN

Tác giả: Bùi Dương Hải

1. NHỮNG TÀI LIỆU VÔ GIÁ

Năm 2004, Bảo tàng Anh quốc công bố tấm bản đồ sao cổ hoàn chỉnh nhất thế giới, tìm thấy ở Đôn Hoàng, Trung Quốc năm 1907, được làm vào đời Đường, khoảng năm 600(1). Tấm bản đồ là một cuộn giấy rộng 25cm, dài 2,1m vẽ và chú thích tên chi tiết bằng tiếng Hán 1345 ngôi sao, phân thành 257 chòm. Cho đến tận thời Phục Hưng ở châu Âu, trước khi có kính thiên văn, chưa bao giờ có một bản đồ sao chính xác và chi tiết đến thế. Trong đó có nhiều ngôi sao gần như không thể thấy được bằng mắt thường.

Đây là sự kiện thú vị với những nhà khảo cổ, nhưng thực ra không lạ đối với các nhà thiên văn học, bởi từ thời thượng cổ, những người phương Đông, mà cụ thể là người Trung Hoa đã hình thành và phát triển khoa học thiên văn với trình độ rất cao mà những thành tựu đã được ghi nhận cho đến ngày nay.

Với đặc trưng nền nông nghiệp lúa nước, có thể nói mọi người nông dân đồng bằng Hoàng Hà đều đã là những người quan sát tự nguyện để phục vụ việc canh tác. Khi các hình thức nhà nước được thiết lập, vì mê tín và muốn củng cố địa vị “con trời”, nên một trong những việc đầu tiên của các vị Thiên tử là tập hợp những người có kiến thức thiên văn phù trợ cho mình trong việc mong muốn tìm hiểu ý trời. Ngay từ khoảng năm 2000 trước Công nguyên (TCN), các đài quan sát thiên tượng đã được dựng ở kinh đô các quốc gia sơ khai. Lúc Tần Thủy Hoàng lên ngôi (221 TCN), đã ra lệnh đốt sách Nho giáo và các tư tưởng. Tuy sách thiên văn thuộc về bói toán, nằm ngòai danh sách phải hủy, nhưng cũng rất nhiều quyển đã chịu chung số phận, nên những gì còn lại về thời trước đời Tần chỉ rất rời rạc và hạn chế. Sau đó chính Tần Thủy Hoàng cũng trọng dụng ngay 300 người làm nghề xem sao. Dù lúc đầu chỉ là xem sao, tính lịch và bói toán, nhưng dần dần với thiên hướng ghi chép lại mọi sự vật hiện tượng diễn ra, các chiêm tinh gia đã chuyển thành nhà thiên văn học, đứng đầu là các quan Thái sử, đảm nhiệm chép sử, xem thiên tượng, làm lịch, tính ngày, xem địa lý và cả khí tượng.

Các ý kiến về quan sát thiên văn sớm nhất ở Trung Hoa không thống nhất. Có người đẩy về tận năm 6000 TCN, mà dấu tích còn lại trên một vài vách đá, hoặc một số bài thơ truyền miệng. Đa số cho rằng nó vào khoảng thế kỷ 24 TCN, với dấu tích là các giáp cốt văn (ghi trên xương thú, mai rùa). Các ghi chép bắt đầu rõ ràng vào khoảng đời nhà Thương - 1500 TCN. Thời điểm này có có ý kiến là do có sự giao lưu với văn hóa Babylon, tuy nhiên trong khi nền văn hóa Babylon gần như không còn để lại dấu tích nào về thiên văn, thì người Trung Hoa lại gìn giữ những ghi chép liên tục cho đến tận ngày nay.

Trước sự hốn độn, không thống nhất, không đối xứng của các vì sao, người Trung Hoa gọi bầu trời nói chung là Hỗn Thiên. Từ Thiên Văn mà ta dùng ngày nay, mang nghĩa “Hình tượng trên bầu trời”.

Trước khi có phát hiện về bản đồ sao Đôn Hoàng, bản đồ sao hoàn chỉnh sớm nhất của loài người được ghi nhận là bản đồ sao đời Bắc Tống, vẽ vào thời Nguyên Phong (1078 - 85), được khắc lên bia đá năm 1247, đặt trong khu đền Khổng Tử, đến nay vẫn còn nguyên vẹn. Trên tấm bia Thiên Văn đồ đó chia rõ phương vị, cung độ, gồm 1434 vì sao được chia thành các chòm, có đủ Hoàng đạo, Thiên xích đạo, Ngân hà. Bên dưới là bài văn bia 209 chữ chép rõ về các kiến thức thiên văn.

Cho đến triều Thanh, người Trung Hoa đã quan sát và ghi lại khoảng 3000 ngôi sao có cấp độ sáng từ 6 trở lên, phân thành 283 chòm sao. Khác với các chòm sao của Hy Lạp đặt tên theo các vị thần hoặc anh hùng thần thoại, các chòm sao ở phương Đông mang tên tất cả những gì thuộc về cuộc sống; từ tên các chức tước trong triều đình, tên các vùng đất, các nghề nghiệp, cho đến con vật như trâu bò, đồ vật như cái cày, cái đấu. Họ không giải thích các hiện tượng, mà chỉ đơn giản là quan sát và ghi nhận chúng, coi đó là khách quan của “Trời”.

Trong khoảng thời gian từ 12 tháng 12 năm 146 TCN cho đến 3 tháng 2 năm 1761 các quan sát thiên văn liên tục của Trung Hoa đã ghi lại thời gian, đặc điểm 173 hiện tượng rất đặc biệt trên bầu trời, gồm 66 lần Nhật thực, 83 hiện tượng bùng nổ của các ngôi sao, 24 hiện tượng khác. Tất cả các quan sát đó đã được thiên văn học hiện đại kiểm chứng, và không có trường hợp nào sai lệch.


Hiện tượng Nhật thực lần đầu tiên được ghi lại là vào năm 2136 TCN:

Năm thứ 5 đời Trọng Khang nhà Hạ, mùa thu, hạ tuần tháng 9, ngày Canh Tuất, có hiện tượng Nhật thực(2)

Khi có Nhật thực, người Trung Hoa tin rằng đó là do mặt trời bị ăn mất (thực - ăn), nên làm lễ cầu nguyện, cúng bái, dùng âm thanh để “xua đuổi quái vật ăn mặt trời”. Hiện tượng Nguyệt thực thường xảy ra hơn, nên cũng ít được chú ý hơn. Lần ghi chép về nguyệt thực đầu tiên là năm 1065 TCN. Sau đó họ ghi lại khoảng 1000 lần nguyệt thực nữa cho đến cuối triều Thanh.

Một tài liệu đời Tây Hán (TK 2 TCN) tìm được năm 1973 ghi rõ chu kỳ của Sao Kim là 584,4 ngày, Sao Mộc là 377 ngày, Sao Thổ là 594,4 ngày, chỉ sai lệch so với kết quả tính toán hiện đại chưa đến 0,3 ngày. Đời Hán Cao Tổ, hiện tượng 5 hành tinh của Hệ mặt trời ở vị trí thẳng hàng đã được gọi là “Chuỗi ngọc 5 sao”. Vào khoảng năm 484 TCN, các tính toán cũng xác định độ dài chính xác của một năm là 365,25 ngày, là cơ sở cho việc đặt hệ thống Âm-dương lịch khá hoàn chỉnh. Hệ thống lịch này được điều chỉnh một số lần, càng về sau càng chính xác.

Tuệ tinh (Sao chổi) được quan sát sớm nhất thế giới, từ năm 613 TCN. Trong một lăng mộ cổ từ thế kỷ 5 TCN được khai quật năm 1973 có cuộn lụa vẽ lại 29 ngôi sao chổi, thành quả quan sát hơn 300 năm. Trong đó có ngôi có 2 đuôi, ngôi có đuôi thẳng và dài, có ngôi lại có đuôi móc câu. Họ cũng nhận xét là hầu hết các sao chổi có đuôi bay ngược chiều mặt trời, và cho rằng đó là Thiên khí từ mặt trời thổi ra.

Ngôi sao chổi Halley xuất hiện năm 240 TCN (năm thứ 7 đời Tần Thủy Hoàng) đã quay lại vào năm 164 TCN, rồi lại được nhìn thấy vào những năm sau đó, đã giúp các nhà thiên văn Trung Hoa tìm ra chu kỳ 76 năm của nó. Thực ra quan sát thấy sao chổi đầu tiên năm 613 TCN (ghi trong Kinh Xuân thu) chính là Halley, nhưng bị gián đoạn. Quĩ đạo của hơn 40 sao chổi đã từng xuất hiện cũng được ghi lại cẩn thận trong các bản đồ cổ, đặc biệt năm 600, một sao chổi được ghi lại là “sáng như mặt trăng”. Trong toàn bộ thời phong kiến, từ thời Ân đến 1911, có 360 văn bản ghi lại sự xuất hiện của sao chổi, trong đó sao chổi Halley là 31 lần.

Một quan sát đặc biệt quan trọng của người Trung Hoa đó là sao Khách – những vì sao sáng rực lên trong một thời gian ngắn rồi tối đi, giống như người khách qua đường. Ngày nay ta gọi đó là các Siêu tân tinh. Quan sát đầu tiên trên thế giới của họ được ghi lại là năm 14 TCN.

Hiện tượng nổi tiếng nhất là vào đời nhà Tống. Ngày 4 tháng 6 năm 1054, một ngôi sao bống rực sáng trên bầu trời phía đông, thậm chí thấy rõ trong ánh sáng ban ngày suốt 23 ngày khiến người Trung Hoa kinh hoàng. Các quan khâm thiên quan sát suốt ngày đêm không nghỉ, cho đến khi nó tối hẳn vào cuối tháng 4 năm 1056, sau 643 ngày bùng nổ. Vị trí của nó ở gần Hoàng đạo và sao Tất (Zeta Taurius), ngày nay Siêu tân tinh đó được biết đến dưới cái tên Crab Nebula, và đến năm 1968 vẫn còn tiếp tục phun vật chất vào vũ trụ.

Năm 2001, các nhà thiên văn NASA đã có bằng chứng về một sao pulsar trong chòm Sagittaurius, tại đúng vị trí mà năm 386 người Trung Quốc đã ghi nhận là có hiện tượng bùng nổ của một siêu tân tinh rất lớn. Đây là ngôi sao pulsar thứ hai được tính chính xác tuổi là 1615 năm cho đến thời điểm được phát hiện.

Ngoài ra, Trung Hoa cũng là nơi đầu tiên phát hiện về Vết mặt trời và ghi chép mưa thiên thạch. Quan sát đầu tiên là vào thế kỷ 4 TCN, tiếp theo là vào năm 165 TCN, vết đen được ghi lại là có hình chữ Vương, và cho đến năm 1638, họ ghi lại 112 lần hiện tượng này. Khi đó họ đoán là có ngôi sao nào đó xuất hiện trên mặt trời. Những quan sát tương tự ở châu Âu đến năm 807 mới có. Hiện tượng quầng lửa trên mặt trời cũng được quan sát thấy, họ mô tả mặt trời căng phồng lên, những đốm lửa bùng lên.

Tuy vậy, trong các văn bản cổ, cũng có những sai lệch. Đặc biệt là có khoảng 10 chỗ phi lý đến đáng ngờ. Cuối cùng các nhà khoa học cũng tìm ra được nguyên nhân. Đó là sự sai lệch có chủ ý của các quan thiên văn. Khi biết vua chúa thường tin vào các điềm báo của bầu trời, họ đã cố tình sửa các quan sát của mình để trục lợi. Chẳng hạn, đời Hán Thành đế, quan khâm thiên được đút lót đã thay sao Thương vào vị trí Hỏa Tinh, và tuyên bố sắp có kẻ mưu sát vua, khiến ông vua mê tín đã xuống tay hạ sát mấy vị đại thần. Tương tự như vậy, sao Thiên Lang – vốn được coi là nơi thể hiện điềm báo – thường được gán cho các màu sắc đặc biệt để báo trước tai họa hay phúc lành, dù rằng ngôi sao sáng nhất bầu trời này không bao giờ thay đổi màu sắc. Những sai lệch này có nguyên nhân chính trị và mê tín hơn là do quan sát.

Việc sử dụng Thiên tượng như là điềm báo trước rất phổ biến, đặc biệt cho triều đình phong kiến, nên nó được lợi dụng không ít lần. Các hiện tượng sao Chổi, Nhật thực, sao Khách đều gây xáo trộn nhất định. Nhưng cũng vì thế mà nó được ghi chép lại rất tỉ mỉ, để lại cho đời sau những tài liệu vô giá.

Cùng với các quan sát tỉ mỉ, các hệ thống công trình cũng được triều đình cho xây dựng. Đầu công nguyên, nhà Hán đã xây dựng một loạt đài thiên văn dọc theo Trường thành để đo thời gian và chuyển động của các thiên thể. Theo một số học giả thì hệ thống các đài định vị này còn mở rộng khắp đất Trung quốc, xuống tận miền nam đến Việt Nam, thậm chí cột đồng Mã Viện cũng chỉ là cột định vị của hệ thống này (Trần Đai Sĩ, 2001). Thậm chí có tài liệu viết rằng vào khoảng năm 721-725, dưới thời Đường, một hệ thống cột định vị (gnomon) được dựng theo hướng Bắc - Nam, cận nam từ tận miền Trung Việt Nam, cực bắc lên đến sát Trường Thành. Cột đồng lớn nhất được dựng năm 1276 đời Tống, cao đến 12 m.

Do nhận ra chu kỳ quay tròn của bầu trời, người Trung Hoa cũng chia vòng tròn thiên cầu thành các độ, tuy nhiên độ này ứng với các ngày trong năm, nên một vòng tròn có 365 và ¼ độ. Vào đầu công nguyên họ cũng tính ra độ dài của 1 cung kinh độ là khoảng 155 km, đến đời Đường (TK 7) họ tính lại là 123.7 km (thực tế khoảng 111 km)

Cũng như nhiều kiến thức khoa học, Thiên văn học cũng chịu sự tác động qua lại của các nền văn minh khác. Sự tác động sớm nhất là thiên văn Babylon, thông qua con đường tơ lụa (khoảng thế kỷ 1, 2 TCN), sau đó chịu ảnh hưởng rất mạnh của Ấn Độ, thông qua Phật giáo (đầu CN). Đến cuối TK 13 thì tư tưởng thiên văn Hồi giáo truyền vào cùng với sự bành trướng của đế quốc Nguyên Mông, và thế kỷ 16 là thiên văn phương Tây, theo chân các nhà truyền giáo. Những công trình thiên văn cổ của Trung Quốc tại Bắc Kinh còn lại ngày nay được xây dựng trong triều Minh và Thanh. Đến triều Thanh thì lịch pháp đã dựa rất nhiều vào kiến thức phương Tây, và các đài thiên văn đều có bàn tay của giáo sĩ nước ngoài.

Những công trình cổ còn lại

Công trình cổ sớm nhất còn lại hiện nay là đài thiên văn ở Nam Kinh, được thiết kế và xây dựng vào những năm 1231-1314 đời Tống. Cùng thời đó nhà Tống còn cho xây thêm 4 đài thiên văn nữa rải rác khắp đất nước. Thiên Văn đồ cũng được vẽ và khắc vào giai đoạn này. Sau này một số thiết bị quan trắc được dựng tại đài Nam Kinh theo bản vẽ cổ.


Năm 1442, triều đình nhà Minh cho xây tại Bắc Kinh đài thiên văn bằng đá cao 14 m, trên đó có các thiết bị bằng đồng dành cho quan sát thiên tượng, gồm các vòng tròn dựng trên giá gồm những con rồng, một cột đồng đo bóng mặt trời để tính thời gian, và một thiên cầu. Trong những năm sau đó, các thiết bị dùng để vẽ lại vị trí các thiên thể được thêm vào.   

Đến triều nhà Thanh (1673), những thiết bị dùng để đo góc giữa các vì sao làm bằng đồng chạm khắc cầu kỳ được dựng thêm lên. Khung hỗn thiên gồm thiên xích đạo, hoàng đạo, và một thiên cầu đường kính hơn 1 m chạm nổi các chòm sao, dùng để mô tả chuyển động của các hành tinh, tính toán thời gian.

Những thiết bị này đều có giá đỡ là những con rồng, con vật huyền thoại thống lĩnh bầu trời. Công trình này có sự góp sức rất lớn của nhà truyền giáo Ferdinand Verbiest. Ngày nay đây là điểm tham quan hấp dẫn khách du lịch.

Cùng với các phát minh quan trọng như La bàn, thuốc nổ, giấy và nghề in, những thành tựu nghiên cứu về thiên văn vũ trụ, lịch pháp, dù với mục đích nào, cũng đã để lại cho hậu thế những kho tri thức vô giá. Những kiến thức đó là chung cho nhân loại chứ không riêng quốc gia, dân tộc nào.

­­­­­

(1) Theo tin Vnexpress: http://www.vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2004/05/3B9D2329/

(2) Tư liệu trên là do đời sau ghi lại, một số nhà nghiên cứu cho rằng không đáng tin cậy, và cho rằng lần ghi Nhật thực đầu tiên mãi đến năm 1300 TCN mới được thực hiện. Thông thường người Trung Hoa thường coi những ghi chép trên xương, mai rùa là văn bản chính thức, trong khi đó giới học giả phương Tây không phải lúc nào cũng đồng ý. Chẳng hạn có giáp cốt văn năm 1400 TCN ghi “Ngày thứ 7 trong tháng, có sao mới xuất hiện gần sao Tâm”, nhưng không được công nhận là ghi chép về Siêu tân tinh.

Phần một         QUAN .



Chỉnh sửa lại bởi Hoa Hạ - 05/Feb/2012 lúc 8:26am

Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.

Hoa Hạ

IP IP Logged
Hoa Hạ
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 19/Jan/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 968
Quote Hoa Hạ Replybullet Gởi ngày: 03/Feb/2012 lúc 3:38am

2. NHỮNG NHÀ THIÊN VĂN CỔ ĐẠI

 

Mỗi người nông dân đều là một nhà thiên văn nghiệp dư” – nhận xét đó không hẳn là quá đáng đối với những kiến thức thiên văn của cư dân Hoàng Hà. Tuy nhiên, để đạt đến trình độ mà thế giới phải ghi nhận, không thể không nhắc đến công lao của những nhà thiên văn chuyên nghiệp thực thụ, mà tác phẩm của họ còn đến ngày nay. Dưới đây giới thiệu một số người có nhiều thành quả nhất.

 

Thạch Thị (350 TCN)

 

Những nhà thiên văn học chuyên sâu đầu tiên được thực sự ghi nhận trong lịch sử Trung Hoa là từ thời Chiến quốc (400 - 200 TCN), trong đó nổi tiếng nhất là Thạch Thân. Trong Sử Ký rằng: Thạch Thân (khoảng 350 TCN) là nhà thiên văn lịch pháp của nước Vệ, đã viết các tác phẩm gồm: Thiên văn (8 chương), Thiên Văn Chiêm (8 quyển), Thạch thị Hỗn Thiên đồ (1 quyển), Thạch thị Kinh bạc Tinh chiêm (thường gọi là Thạch thị Tinh kinh bạc chiêm - 1 quyển). Tập bản đồ vẽ khoảng 800 ngôi sao chia theo 122 chòm, theo truyền thuyết thì 28 chòm đã được Vu Hàm đời nhà Thương phân định.

 

Tuy nhiên, theo một số thuyết về sau, Thạch Thị là tên gọi chung cho một nhóm học giả thời đó chứ không phải chỉ 1 người. Thạch thị Tinh kinh bạc chiêm bị thất lạc trong những thế kỷ sau, chỉ còn một số đồ hình các vì sao của nó được sao chép lại trong các thư tịch khác, mà còn giữ đến nay là Khai nguyên Chiêm kinh (thời đại Khai Nguyên nhà Đường – 729). Một bản sao khác của cuốn sách hiện được dòng họ Wakasugi ở Tokyo – Nhật Bản gìn giữ.

 

Cách giải thích các hiện tượng của Thạch thị không tránh khỏi những hạn chế, do chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, chẳng hạn như đoạn sau: “Khi thiên tử sáng suốt, mặt trăng sẽ đi theo đúng hướng, khi thiên tử không minh, đại thần chiếm quyền, mặt trăng sẽ đi chệch đường”.

 

Cùng thời với Thạch Thân là Cam Đức cũng là nhà thiên văn học, đã quan sát rất kỹ về các hiện tượng trên mặt trời, từ vết đen, vết trắng. Ông mô tả vết đen như đồng xu trên mặt trời, và giải thích Nhật thực chính là do vết đen ăn từ một phía ra, chiếm hết mặt trời. 

 

 

Tư Mã Thiên    (145 – 87 TCN)

Text%20Box:%20%20

%20%20%20%20%20%20Tư%20Mã%20Thiên

%20%20%20%20Vẽ%20đời%20Nguyên



Trong tác phẩm Sử Ký đồ sộ, Tư Mã Thiên - sử gia vĩ đại, đồng thời là một nhà thiên văn, địa lý kì tài thời thời Hán Vũ đế - đã dành hẳn một quyển là Thiên Quan thư để ghi chép về thiên văn, tập hợp kiến thức từ tiền nhân cũng như của bản thân ông. Tư Mã Thiên đã liệt kê hơn 1000 ngôi sao, cũng như ghi lại các hiện tượng đặc biệt của bầu trời. Thiên quan thư của ông là tác phẩm hoàn chỉnh sớm nhất còn đến nay, hầu như kết quả thiên văn trước đó đều được hệ thống lại, thêm vào đó là các kiến thức của bản thân ông. Những quan sát đó cho thấy những gì đã xảy ra hơn 2000 năm trước. Có thể ông đã tham khảo các bản của Thạch thị, nhưng những nhận xét đánh giá riêng của ông về Thiên tượng cũng có giá trị rất lớn, chẳng hạn trong việc phân chia màu sắc các sao .

 

 

Kế tục Tư Mã Thiên, thái sử Ban Cố, tác giả  bộ Hán Sử, cũng là một nhà thiên văn. Chính ông là người đã tìm ra chu kỳ 76 năm của sao chổi Halley, cũng như viết về quĩ đạo của các hành tinh. Tiếp theo ông, Đổng Trọng Thư cũng để lại dấu ấn của mình qua việc đoán được hiện tượng Nguyệt thực, thông qua việc tính toán từ các văn bản giáp cốt. Cho đến cuối thời Tam Quốc (200), các nhà thiên văn đã hệ thống lại các tài liệu, ghi lại tổng cộng 1464 sao trong 283 chòm.

 

 

Trương Hoành (78 – 139)

Đỉnh cao nhân loại về Thiên văn học cổ đại là Trương Hoành, đồng thời cũng là nhà địa lý, toán học, làm việc tại kinh đô Lạc Dương của nhà Hán. Sau nhiều năm dành cho nghiên cứu Text%20Box:%20%20%20%20%20%20%20%20%20%20%20%20%20%20%20

%20%20%20

%20%20%20Trương%20Hoành

%20%20%20%20%20%20%28Phóng%20tác%29



thiên văn, ông đã tìm ra quĩ đạo chính xác của 5 hành tinh trong Hệ mặt trời, ghi lại vị trí các sao được nhìn thấy bằng mắt thường. Những nhận định chính xác của ông về Hệ mặt trời khiến người thời đó không thể hiểu được. Ông cho rằng trái đất phải có hình tròn chứ không phải phẳng dẹt, bầu trời bao bọc bên ngoài, ánh trăng là phản chiếu của mặt trời, Nguyệt thực là do mặt trăng đi vào bóng của trái đất, và hình dáng tròn khuyết của mặt trăng là do góc độ nhìn khác nhau từ mặt đất.

.

Trương Hoành viết hơn 20 tác phẩm, trong quyển Hỗn Thiên chú ông viết:

 

Trời tròn giống như quả trứng, mà Đất giống như lòng đỏ, nằm lơ lửng ở chính giữa, bầu trời lớn hơn bao bọc xung quanh

 

Còn trong tác phẩm thiên văn Linh Hiến, ông đã vẽ vị trí các chòm sao và viết:

 

Trong bầu trời từ Bắc đến Nam có 124 chòm sao, gồm 2500 ngôi sao tỏa sáng, trong đó 320 ngôi đã được đặt tên; đó là chưa kể những sao mà những người đi biển nhìn thấy. Kể cả những sao rất bé thì tổng số là 11.520 ngôi”.

 

Đặc biệt nhất là ông đã chế tạo một dụng cụ quan trắc thiên văn là Hỗn Thiên Nghi. Theo Hán Sử, Hỗn thiên nghi gồm những vòng đồng có chia khoảng, một Thiên cầu bằng đồng. Đường Hoàng đạo của Thiên cầu lệch với xích đạo một góc 24 độ ( chỉ sai 0,5 độ so với thực tế). Một chiếc ống thẳng để nhìn giúp ông xác định vị trí các sao theo hướng không sai lệch và không bị ánh sáng khác ảnh hưởng. Nhờ đó, các ngôi sao được đo đạc vị trí chính xác, điều mà chưa ai làm được trước đó. Sau đó, ông còn dùng sức nước đẩy quả cầu quay, mô tả chuyển động các sao, hiện tượng tròn khuyết của mặt trăng và Nguyệt thực được giải thích chính xác.

 

 

Một phần ra ngoài đề một chút, là các phát minh của Trương Hoành. Cũng giống như các nhà Thiên Văn học phương Tây thông thường là nhà Vật lý – Toán học, Trương Hoành còn có các phát minh trong nhiều lĩnh vực khác.

Text%20Box:%20%20%20%20%20%20%20%20



%20%20%20%20%20%20%20%20%20Dụng%20cụ%20đo%20Địa%20chấn%20của%20%20

%20%20%20%20%20%20%20%20%20%20%20%20%20%20%20Trương%20Hoành

Một sáng chế đáng chú ý của ông là thiết bị đo động đất. Nó gồm một bình đồng, có những cơ cấu nhậy với độ rung ở trong, bên ngoài là 8 con rồng ngậm hờ một quả cầu ở miệng, bên dưới là 8 con cóc quay về 8 hướng. Nếu có chấn động, quả cầu sẽ rơi xuống, và tùy tiếng động to hay nhỏ mà đoán động đất mạnh hay yếu.

Hậu Hán thư viết lại rằng: năm 138, khi thấy quả cầu ở phía tây rơi xuống, Trương Hoành đã vội yến kiến và trình với vua rằng có động đất ở phía tây Lạc Dương. Vào ngày hôm đó không có gì xảy ra ở kinh đô, khiến ông bị những quan lại khác chỉ trích. Nhưng 2 ngày sau thì có tin báo là có động đất mạnh ở 1000 dặm phía tây Lạc Dương. Sự kiện này gây xôn xao triều đình.

 

Ông cũng là người đã nêu ra cách tính tỉ số pi (p) bằng căn bậc 2 của 10, sai số với thực tế là khoảng 0.02. Đáng tiếc là do nhiều nguyên nhân, chỉ còn rất ít trong số các công trình của ông còn lại đến nay.

 

 

Tổ Xung Chi (429 – 501)

Tổ Xung Chi là nhà toán học và Thiên văn – Lịch pháp thời Nam Bắc triều.

Text%20Box:%20%20



%20%20Tổ%20Xung%20Chi

%20%20%20%28Phóng%20tác%29

Ông là người đã tính toán chính xác các ngày Hạ chí, Đông chí hàng năm thông qua việc đo độ dài bóng của một cây gậy cắm thẳng đứng trên mặt đất. Từ đó hình thành cơ sở cho việc tính một loại lịch mới chính xác hơn Âm-dương lịch mà các vị vua đang dùng. Năm 462, ông đưa ra loại lịch mới, tính được độ dài năm giữa hai lần Xuân phân kế tiếp là 365,24281481 ngày (sai lệch 50 giây so với tính toán hiện đại), và độ dài của tháng mặt trăng là 27,21233 ngày (lệch 9 giây). Ông phát hiện thấy sự tiến động của ngày Xuân phân khiến cho năm nhiệt đới ngắn hơn so với năm mặt trời thực 21 phút, cũng như thấy rằng sau 7 chu kỳ 12 năm, Sao Mộc lại dôi ra khoảng 1/20 quỹ đạo của nó.

 

Phát hiện đặc biệt quan trọng của ông trong Toán học là cách tính p bằng phân số 355/113, chính xác đến 6 số thập phân, và khá giản tiện. Sau một đo đạc chính xác khác, ông tuyên bố một vòng tròn có đường kính 10 triệu trượng thì có chu vi lớn hơn 31.415.926 và nhỏ hơn 31.415.927 trượng (tức là 3,1412516 < p < 3,1415927). Tên của ông được đặt cho một ngọn núi trên Mặt trăng.

 

Trong thời Đường, Nhất Hành là một hòa thượng, cũng được ghi nhận với kết quả tính toán độ dài một cung 1 độ trên kinh tuyến là 351,27 dặm (tương đương 123,7 km) Ông cũng dựng một thiên cầu ở Trường An, mô tả chuyển động các sao, và vẽ đường biểu kiến chuyển động các hành tinh và các ngôi sao rất xa một cách chính xác.

 

 

Tô Tống

 

Một nhà lịch pháp và thiên văn đời Tống là Tô Tống đã quan sát mặt trời, mặt trăng và các vì sao, tạo ra một chiếc đồng hồ thiên văn chạy Text%20Box:%20%20%20%20%20%20

%20%20

%20%20%20%20%20%20%20%20%20%20%20Tranh%20cổ%20mô%20tả%20đồng%20hồ%20Tô%20Tống

bằng nước rất tinh xảo. Trong Tống sử, sau khi đi sứ sang phía Tây và nhận ra sự khác biệt giữa cách tính ngày rằm giữa Trung hoa và một nước khác, ông về kinh năm 1090 và chế tạo chiếc đồng hồ thiên văn ở kinh đô Biện Lương. Chiếc đồng hồ thiên văn này cao gần 10m, ở tầng trên cùng có khung Hỗn thiên nghi và thiên cầu chạy bằng sức nước, dựa trên một hệ thống cơ khí rất phức tạp bên trong, cứ mỗi giờ lại có các tượng đồng gõ chuông, thiên cầu quay theo sự vận động của mặt trời mặt trăng. Theo ghi chép thì có đến hàng chục tượng đồng, vận hành hoàn toàn bằng sức nước.

 

Tiếc rằng khi triều đại sau nối tiếp, ông vua mới đã không hiểu được ý nghĩa của phát minh trên, chiếc đồng hồ bị phá dỡ để lấy đồng.

 

Ngày nay, ở Đài Loan vẫn còn trưng bày một phiên bản nhỏ hơn của chiếc đồng hồ Tô Tống.

 

Nhất Hành (683 – 722)

 

Nhất Hành là pháp hiệu của một hòa thượng đời Đường. Tại kinh đô Trường An khi đó ông cùng các đồ đệ đã dựng lên một Thiên cầu lớn được vận hành và chuyển động cùng với các thiên thể ban đêm trên bầu trời. Ông đã vẽ đường chuyển động của các hành tinh so với các vì sao khác một cách chính xác. Cho đến trước công trình của Halley năm 1718, đây là quỹ đạo chính xác nhất mà con người tìm ra

 

 

Còn nhiều nhà Thiên văn – Lịch pháp nữa trong các triều đại sau, mà mỗi người đều để lại dấu ấn nhất định cho nền công việc nghiên cứu Vũ trụ, thiên nhiên. Những đóng góp của họ trong thời gian dài đã đem lại những kết quả lớn, đặc biệt trong việc tính lịch pháp.

 

 

 

Thạch Thân:                Shi Shen

Thạch thị:                    Shi shi

Tư Mã Thiên:               Sima Qian

Trương Hoành:           Zhang Heng

Tổ Xung Chi:               Zu Chongzhi

Tô Tống:                      Su Song

 


Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.

Hoa Hạ

IP IP Logged
Hoa Hạ
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 19/Jan/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 968
Quote Hoa Hạ Replybullet Gởi ngày: 03/Feb/2012 lúc 3:40am

 

3. NGŨ HÀNH VÀ CAN CHI

 

Thiên văn thời cổ thường gắn liền với thần thánh. Tuy nhiên người Trung Hoa đã khái quát cao hơn, khi gắn thiên văn với những tư tưởng mang tính triết học, mà Ngũ hành là một minh chứng.

 

Tư tưởng cấu tạo vật chất của thế giới từ 5 yếu tố không phải là chỉ của riêng người Trung Hoa. Thần thoại Hy Lạp kể rằng thế giới được sinh ra từ Vực thẳm Khaox (Chaos - Hỗn mang) thể hiện thành 5 nguyên lý: Đất Gaia, Tối tăm Vĩnh cửu Erèbe, Đêm tối Nix, Địa ngục Tartar, và Tình yêu Erox. Triêt gia Aristole cho rằng 5 nguyên tố cơ bản của thế giới là Nước, Lửa, Đất, Không khí, Ánh sáng,... Nhưng có lẽ không bộ 5 yếu tố nào lại có tính triết lý cao như Ngũ hành: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ của Trung Hoa. Bộ 5 này được hình thành có lẽ từ 5 ngón tay của con người, cũng tựa như cơ số 10 trong hệ đếm.

 

Thuyết này xuất hiện từ đời nhà Tần (200 TCN), được củng cố phát triển trong thời Tây Hán. Lúc đầu 5 yếu tố là cấu tạo cụ thể, với các tính chất cụ thể:

 

Kim: kim loại, cứng rắn, lạnh, cương mãnh, bền chắc

Mộc: gỗ, cây, sống, tăng trưởng, dẻo dai, chịu đựng

Thủy: nước, mềm mại, nhu thuận, sâu hiểm

Hỏa: lửa, nóng, sáng, linh hoạt, sáng tạo

Thổ: đất, đầy đặn, chịu đựng, nguồn của sinh sôi

 

Nhưng rồi chúng được Triết lý hóa, trở thành Ngũ hành – 5 nguyên lý cơ bản của vật chất, gắn kết với mọi trạng thái triết lý từ Vật chất đến tinh thần

 

Hành Kim:       màu Trắng     phương Tây                            mùa thu           Mũi       Phế (phổi)

Hành Mộc:       màu Xanh       phương Đông                         mùa xuân        Mắt      Can (gan)

Hành Thủy:      màu Đen         phương Bắc                            mùa đông        Tai       Thận

Hành Hỏa:       màu Đỏ           phương Nam                          mùa hạ            Lưỡi    Tâm (tim)

Hành Thổ:       màu Vàng       phương Trung ương               (không)            Miệng   Tỳ

 

Việc gắn phương hướng với các mùa và với Ngũ hành liên quan nhiều đến Thiên Văn. Người Trung hoa nhận thấy vào mùa Xuân thì đuôi của chòm sao Bắc Đẩu chỉ về phía Đông, mùa Thu chỉ về phía Tây, nên tương ứng mùa và phương. Như vậy chòm Bắc Đẩu thất tinh không phải chỉ là xác định phía Bắc, mà còn là sao chỉ phương và mùa trong văn hóa Trung Hoa. 

 

Hai quy luật tương tác biến dịch quan trọng là tương sinh và tương khắc trở thành nền tư duy cho nhiều học thuyết (tuy nhiên sẽ không xét kỹ ở đây, mà chỉ đi vào khía cạnh Thiên văn)

 

Tương Sinh: Mộc sinh Hỏa - Hỏa sinh Thổ - Thổ sinh Kim - Kim sinh Thủy - Thủy sinh Mộc.

Tương Khắc: Mộc khắc Thổ - Thổ khắc Thủy - Thủy khắc Hỏa - Hỏa khắc Kim - Kim khắc Mộc

 

Về sau tư tưởng Ngũ hành được gán cho rất nhiều ý nghĩa, đi rất xa với tư tưởng gốc ban đầu. Cứ bộ 5 nào cũng thành Ngũ hành hết, chẳng hạn lý thuyết: Cái sinh Ta, cái Khắc Ta, Ta, cái Ta sinh, cái Ta khắc,…

 

Dựa trên tư tưởng Ngũ hành, năm sắc độ sáng của các ngôi sao được phân chia (từ nguội đến nóng) là  ĐenĐỏ - VàngTrắngXanh.

 

Trên thực tế, các ngôi sao có màu sắc gần đúng như cách phân chia này:

Nhiệt độ bề mặt dưới 2000 độ C, sao màu đỏ tối, chỉ phát bức xạ, gần như không nhìn thấy

Nhiệt độ bề mặt 2000-5000 độ C, sao màu đỏ

Nhiệt độ bề mặt 6000-9000 độ C, sao màu vàng

Nhiệt độ bề mặt 10,000-15,000 độ C, sao màu trắng

Nhiệt độ cao hơn nữa, hơn 20,000 độ C, màu xanh

Mặt trời của chúng ta là ngôi sao trung bình màu vàng, nhiệt độ bề mặt khoảng 6500 độ, ứng với màu của hành Thổ

 

Trong Thiên Quan thư, Tư Mã Thiên viết:

 

Muốn xem sắc trắng của tinh tú, hãy nhìn sao Thiên Lang; muốn xem sắc đỏ, hãy nhìn sao Tâm, muốn xem sắc vàng, hãy nhìn sao Sâm Tả, xem sắc xanh hãy nhìn sao Sâm Hữu, sắc đen thì nhìn sao Khuê

 

Cách phân chia đó khá đúng về màu sắc:

Sao Thiên Lang (sao Sirius - chòm Canis Major), là ngôi sao đôi sáng chói nhất bầu trời

Sao Tâm hay sao Thương (sao Antares – chòm Scorpius) có quang phổ M0, màu đỏ rất rõ

Sao bên phải sao sao Sâm (sao Rigel - b chòm Orion), ngôi sao sáng thứ 7 bầu trời, quang phổ B2 màu xanh.

Sao Khuê (sao d - chòm Andromeda) quang phổ M0 đỏ tối, trong con mắt Tư Mã Thiên là đen.

 

       

 

    

 

 

 Sao Antares chòm Scorpius (sao Tâm Tú trong chòm Tâm, khu vực Thần Nông), ngôi sao có ánh sáng đỏ rực không kém gì Sao Hỏa.

 

 

Chỉ có Sao bên trái sao Sâm (sao Betelgeusea chòm Orion), ngôi sao sáng thứ 10 trên bầu trời, và là một trong thiên thể lớn nhất bầu trời quan sát thấy, mà dưới thời Tư Mã Thiên là màu vàng, thì ngày nay là ngôi sao rất lớn màu đỏ. Nghĩa là sau 2000 năm, ngôi sao đó đã nguội đi. Đó là hiện tượng nguội sao duy nhất mà loài người quan sát được trong lịch sử.

 

Và người Trung Hoa dùng Ngũ hành để đặt tên cho các hành tinh mà họ quan sát được, theo thứ tự từ mặt trời ra ngoài là Thủy tinh, Kim tinh, Hỏa tinh, Mộc tinh, Thổ tinh. Chính các hành tinh này và chu kì chuyển động của chúng là cơ sở tạo nên hệ đếm Can Chi.

 

 

Thiên Can Địa Chi

 

Can Chi chủ yếu dùng trong Lịch pháp, nhưng cũng có cơ sở từ quan sát Thiên Văn. Có lẽ do nằm ở vĩ độ cao, ngày Hạ chí mặt trời không thẳng đứng trên đỉnh đầu, cùng với việc canh tác nông nghiệp ít liên quan đến mặt trời hơn, nên Lịch pháp Trung hoa dựa vào Mặt trăng là chính. Việc dùng Can Chi tính ngày tháng đã xuất hiện vào cuối đời Thương (TK 12 TCN), việc gán tên con vật vào thì phải đến đầu công nguyên mới thực hiện.

 

Khi quan sát quĩ đạo các hành tinh, họ lấy Bắc thiên cực làm gốc, rồi dựa theo 8 cung Bát quái (1) để xác định tọa độ. Sau rất nhiều năm quan sát và ghi chép lại, họ đưa ra các nhận xét của mình. Một số nhận xét về chu kỳ (trở về vị trí cũ trên bầu trời) của các Hành tinh như sau:


Sao Thủy: khoảng ¼ năm

Sao Kim khoảng 0,6 năm

Sao Hỏa khoảng 2 năm

Sao Mộc khoảng 12 năm

Sao Thổ khoảng 30 năm.

 

Các nhà làm lịch đã dùng 3 hành tinh là Hỏa, Mộc, Thổ làm chuẩn, bội số chung nhỏ nhất là 60, hay phải sau khoảng 60 năm, các hành tinh trên mới có được vị trí (tương đối với nhau) gần giống như cũ. Sao Hỏa sau 1 năm lại chuyển sang vị trí đối diện, rồi 1 năm sau lại về vị trí cũ, trở thành sao làm chuẩn cho chu kì 1 năm Âm 1 năm Dương. Sao Mộc có chu kỳ 12 năm được lấy làm chuẩn để tính năm, nên gọi là Tuế Tinh. Sao Thổ lâu nhất, gọi là Thiên Can.

 

Sau khi kết hợp cả thuyết Ngũ hành và Âm Dương, thì con số 5 được chia 2, thành 10 Can, ứng với Ngũ hành, mỗi hành 1 Âm 1 Dương, còn 12 năm của Tuế Tinh thành Chi. Can Chi ra đời còn muộn hơn Ngũ hành, và càng muộn hơn thuyết Âm Dương, mãi khoảng đầu công nguyên mới có.

 

Can (cán – thân cây) gồm: Giáp – Ất – Bính – Đinh – Mậu – Kỷ - Canh – Tân – Nhâm – Quý

Chi (cành cây), gồm: Tí – Sửu – Dần – Mão – Thìn – Tỵ – Ngọ - Mùi – Thân – Dậu – Tuất – Hợi

 

Trong đó: Giáp + Ất là là hành Mộc, Bính + Đinh là Hỏa, Mậu + Kỷ là Thổ, Canh + Tân là Kim, Nhâm + Quý là Thủy, cứ 1 âm 1 dương đổi nhau.

 

Bản thân các từ của Can và Chi đều là quá trình sinh trưởng và phát triển của Cây cối:

 


(I).  Giáp : nẩy mầm

(II). Ất : nhú lên mặt đất

(III). Bính : đón ánh mặt trời

(IV).Đinh : trưởng thành khỏe mạnh

(V). Mậu : rậm rạp

(VI). Kỉ : dấu hiệu hoa trái

(VII). Canh : thay đổi

(VIII). Tân : hoa quả mới

(IX). Nhâm : thai nghén cho mùa sau

(X). Quý :  mầm đang chuyển hóa

 

(1). Tý : mầm hút nước

(2). Sửu : nẩy mầm trong đất

(3). Dần : đội đất lên

(4). Mão : rậm tốt

(5). Thìn : tăng trưởng

(6). Tỵ : phát triển

(7). Ngọ : sung mãn hoàn toàn

(8). Mùi : có quả chín

(9). Thân : thân thể bắt đầu suy

(10). Dậu : co lại

(11).Tuất : khô úa héo tàn

(12). Hợi : chết đi.

 

Như vậy nguyên thủy các chi không phải là các con vật như mọi người vẫn nghĩ.

 

Đến khoảng đầu Công nguyên, người Trung Hoa gán các chi với các con vật. Nguồn gốc của việc gán con vật không hoàn toàn rõ ràng. Có thuyết cho rằng nó gắn với truyền thuyết Phật giáo, thứ tự của 12 con vật là những loài đã đến từ biệt khi Phật Thích ca nhập Niết Bàn, và mới gọi là các con giáp, lần lượt là:

 

Tí:                    Thử:                Chuột

Sửu:                Ngưu:              Trâu    

Dần:                Hổ:                   Cọp    

Mão:                Thố:                 Thỏ*   

Thìn:                Long:               Rồng  

Tỵ:                   Xà:                   Rắn    

Ngọ:                 Mã:                  Ngựa  

Mùi:                  Dương                 

Thân:               Hầu                  Khỉ      

Dậu:                                          

Tuất:                Khuyển            Chó    

Hợi:                 Trư                  Lợn     

*Riêng chi Mão thì ở Việt Nam là mèo chứ không phải thỏ

 

Chi Ngọ đứng ở vị trí giữa, trong lịch pháp ứng với thời điểm giữa trưa. Ngọ môn mang hàm nghĩa là Sung mãn, trọn vẹn. Tại sao lại là 12 con vật này với 12 cung giờ trong ngày, có thuyết gắn với thời điểm loài vật hoạt động mạnh nhất. Có nhận xét cũng thú vị dựa vào số móng của các con vật, cứ một chắn đi kèm với một lẻ.

 

Khi đó Can gọi là Hoa, Chi gọi là Giáp, nên Can Chi còn gọi là Hoa Giáp. Từ điểm bắt đầu là Giáp Tí (I.1) cho đến hết vòng là Quý Hợi (X.12), chỉ có số chẵn đi với chẵn, lẻ đi với lẻ, nên không thể có Giáp Sửu hay Quý Tuất.

Trong thiên văn, khu vực của 12 cung còn ứng với 12 nước thời Xuân thu chiến quốc:

Tí : Tề - Sửu: Ngô Việt -  Dần: Yên – Mão: Tống – Thìn: Trịnh – Tỵ: Sở - Ngọ: Chu – Mùi: Tần – Thân: Vệ - Dậu: Triệu – Tuất: Tấn – Hợi

12 Chi có ý nghĩa rất quan trọng trong tính Lịch pháp (thực chất là Âm-dương lịch) và thời tiết. Trong 1 năm chia ra 12 tháng, có 24 ngày tiết khí, cứ 1 tháng 2 ngày.

Cùng với Ngũ hành, Can chi hay Hoa Giáp đã tạo thành một tư tưởng khép kín về chu kỳ vận động của Vũ trụ, với chu kỳ 60. Các thước đo thời gian đều được gắn với Can chi. Một ngày chia làm 12 giờ, một năm 12 tháng; 12 năm là một chu kỳ ngắn, 60 năm là một vòng “Lục thập Hoa giáp”, 3600 năm là một chu kỳ lớn của Vũ trụ. Khi viết năm, họ chỉ dùng can chi, nên phải thêm triều đại cai trị tương ứng mới đủ. Không chỉ thế, phương vị trên bầu trời cũng được chia ra 12 cung, khi xác định vị trí ngôi sao thì nói nó nằm trong cung nào.

Sau khi hoàn chỉnh hệ Can Chi với chu kỳ 60 năm, người Trung Hoa gán cách tính lịch pháp này cho Hoàng Đế - vị vua thái cổ huyền thoại, người đặt ra các quy tắc cho con người, và lấy năm 2636 TCN làm năm đầu của chu kỳ này, gọi là Đại Nguyên niên, cho đến nay đã được 78 chu kỳ, hơn một Chu kỳ lớn (60 chu kỳ nhỏ).

 

(1) Thuyết Âm Dương Bát quái là thuyết chủ đạo cổ nhất, trước Ngũ hành và Can Chi đến hàng nghìn năm, là thuyết chủ đạo quan trọng nhất, sẽ được trình bày ở phần sau. Cung Bát quái chia làm 8 cung, mỗi cung 45 độ.



Chỉnh sửa lại bởi Hoa Hạ - 05/Feb/2012 lúc 8:37am

Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.

Hoa Hạ

IP IP Logged
Hoa Hạ
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 19/Jan/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 968
Quote Hoa Hạ Replybullet Gởi ngày: 03/Feb/2012 lúc 3:42am

 

4. CỬU DIỆU

 

Trên bầu trời, bầu trời hầu hết là những vì sao luôn đứng yên tương đối với nhau – gọi là Định tinh hay Hằng tinh (sao - viết thường- star), và một số thiên thể chuyển động trong khoảng trời ấy – gọi là hành tinh (Sao – viết hoa - planet), rõ ràng nhất là mặt trăng và mặt trời. Trong Hệ mặt trời, cho đến nay các nhà thiên văn đã phát hiện có 9 hành tinh bao gồm cả trái đất. Tuy nhiên, bằng mắt thường chỉ có thể thấy 5 hành tinh mà thôi. Người Trung Hoa cũng đã nghiên cứu riêng những thiên thể chuyển động, và gọi chúng là Cửu Diệu.

Cửu Diệu bao gồm: Thái Dương tinh, Thái Âm tinh, Kim tinh, Mộc tinh, Thủy tinh, Hỏa tinh, Thổ tinh, La Hầu tinh, Kế Đô tinh; trong đó 7 thiên thể đầu tỏa sáng, được gọi là Thất Chính.

 

 

I. Thái Dương (Nhật Tinh - Sun)

 

Mặt trời, vầng Chân hỏa Thái dương ngày ngày soi sáng cũng gọi là Thái Dương Tinh. Theo quẻ của Dịch thì Thái Dương là một trong Tứ tượng, ứng vào hỏa nhiệt cực thịnh. Từ Nhật là mặt trời còn có nghĩa là Ngày. Quỹ đạo của Thái Dương trên bầu trời mà ta nhìn thấy gọi là Hoàng đạo. Lịch dựa trên mặt trời do đó gọi là Dương lịch.

 

Thái Dương còn được gọi là vầng Kim Ô – con quạ vàng. Theo truyện cổ, xưa ở giữa Đông Hải có cây Phù Tang (1), trên có bầy 10 con quạ vàng, mỗi ngày 1 con bay từ phương Đông sang phương Tây, soi sáng thế giới. Ngày kia Đông hải bão tố, cây Phù tang bị đổ, bầy quạ bay đậu khắp trời gây nên thảm cảnh. Hậu Nghệ là thần tiễn đã bắn rơi 9 con, chỉ để lại một, chính là vầng Thái Dương ngày nay.

 

Thái Dương tượng trưng cho sức mạnh, nam giới, luôn tràn đầy, cương mãnh, cho nóng, sáng, cực thịnh. Trên Thái Dương có cung Quang Minh, Tinh chủ là Thái Dương Tinh quân Thiên vương Đế quân, một trong những vị thần tối cao trên trời.

 

 

II. Thái Âm (Nguyệt Tinh – Moon)

 

Mặt trăng, tòa Quảng Hàn Thái Âm soi sáng ban đêm là Thái Âm Tinh, cũng là một trong tứ tượng. Trên Thái Âm có cung Quảng Hàn, Tinh chủ là Thái Âm Tinh quân Thiên vương, là một người đàn bà (tuy vậy vẫn có trường hợp là đàn ông). Lịch dựa trên mặt trăng do đó gọi là Âm lịch

 

Mặt trăng còn gọi là Ngọc Thố - con thỏ ngọc, do những bóng đen trên đó trông giống con thỏ. Xưa kia, Hậu Nghệ sau khi bắn rơi mặt trời, đã lên làm vua và lấy Hằng Nga. Sau ông tìm được thuốc trường sinh, nhưng Hằng Nga đã lén uống hết, nên biến thành Tiên bay lên cung Quảng Hàn. Thái Âm tượng trưng cho nhu thuận, nữ giới, lúc tròn lúc khuyết, biết tiến thoái.

 

Ngày trăng non gọi là Sóc, nghĩa là mới, khởi đầu; ngày trăng tròn gọi là Vọng, nghĩa là nhìn. Hai ngày này là thời điểm quan trọng trong lịch mặt trăng. Đường mô tả quỹ đạo Mặt trăng trên bầu trời đêm gọi là Bạch đạo.

 

 

III. Thủy Tinh (Mercury)

 

Sao Thuỷ gần Mặt trời nhất, có sắc xanh tối nhưng rất khó nhìn thấy đặc biệt trong điều kiện thành phố hiện nay. Sao Thuỷ được gọi là Thuỷ Diệu, trông coi bởi Thuỷ Đức tinh quân và cho rằng Thuỷ hội tụ bởi 5 khí. Trong truyện cổ tích, Thủy đức Tinh quân là Cung Công, người đã đập đầu vào núi Bất Chu làm sụt vòm trời, khíên Nữ Oa phải đội đá vá lại. Vì Thủy ứng với phương Bắc nên gọi đầy đủ là Bắc thần Ngũ khí Thủy Diệu.

 

 

IV. Kim Tinh (Venus)

 

Sao Kim là hành tinh sáng nhất bầu trời vào lúc sáng sớm và trước khi trời tối. Sao Kim mang sắc Trắng được gọi là Thái Bạch. Sắc trắng của Kim ứng với phương Tây, phương của quẻ Đoài trong Bát quái, nên gọi là Tây Đoài Thất khí Thái Bạch, còn gọi là Hàm Trì Kim tinh, trông coi bởi Thái Bạch Kim Tinh là ông già họ Lý. Sao Kim còn được gọi bằng hai tên khác là Khởi Minh tinh (Sao báo trời sáng) và Trường Canh tinh (Sao báo đêm dài tới - vì vậy Thái Bạch Kim Tinh còn được gọi là Lý Trường Canh). Thái Bạch kim tinh được coi là sứ giả của trời, vì luôn xuất hiện sớm nhất, trước tất cả các tinh tú cũng như trước cả Mặt trời.

 

 

V. Hỏa Tinh (Mars)

 

Sao Hoả mang màu đỏ, là hành tinh mà thiên văn hiện đại quan tâm nhiều nhất. Màu đỏ là của phương Nam, phương của quẻ Ly là lửa trong Bát quái, và được coi là hội tụ từ ba khí, nên có tên gọi là Nam Ly Tam khí Vân Hán. Lửa Tam muội thì không gì dập nổi. Sao Hỏa chuyển động với chu kỳ chỉ gần 2 năm, chênh lệch so với trái đất không nhiều, gây nên hiện tượng là khi nhìn từ trái đất, nó lúc thì đi sang đông, lúc lại sang tây chứ không theo một chiều nhất định. Vì sự đổi thay đổi huyễn hoặc không thống nhất và khó hiểu đó, nên còn được gọi là sao Huỳnh Hoặc.

 

Tinh chủ của Hỏa Tinh là Nam phương Tam khí Hỏa đức tinh quân chính thần, trong truyện cổ tích là Chúc Dung, người đã từng đánh bại Cung Công, lại cũng có thuyết gán La Tuyên.

 

Trong việc xem tượng trời đoán vận mệnh, Sao Hỏa thường gắn liền với tai ương, vận hạn, có lẽ do màu đỏ của nó trên màu trời đen. Trong lịch sử Trung Hoa, việc “Sao Hỏa lâm vào địa phận sao Tâm” để mô tả điềm tai họa, đặc biệt cho vua, bởi sao Tâm tú cũng có màu đỏ. Sự kiện thời Hán Thành đế (đã viết) tin vào điềm báo Sao Hỏa lâm vào Tâm tú đã lấy đi mạng sống của một số người.

 

 

VI. Mộc Tinh (Jupiter)

 

Sao Mộc, to nhất hệ Mặt trời, mang màu xanh, ứng với phương Đông, phương Chấn theo Hậu thiên Bát quái, nên được gọi là Đông Chấn Cửu khí Mộc Đức, vì được cho rằng Mộc do 9 khí hợp lại mà thành. Sao Mộc được dùng làm chuẩn cho việc tính lịch, thông qua chu kỳ quay xấp xỉ 12 năm , vì thế còn được gọi là Tuế Tinh hay Sao Thái Tuế.

 

Trong tiếng Hán, Nhật có nghĩa là ngày, Nguyệt có nghĩa tháng, còn Tinh có nghĩa là năm.

 

 

VII. Thổ Tinh (Saturn)

 

Sao Thổ có màu hơi vàng, được gọi là Trung Ương Nhất khí Thổ Tú. Trên thực tế, Sao Thổ cách trái đất khá xa, nên việc quan sát nó rất khó khăn. Cũng theo quan niệm ngũ hành, Thổ thuộc về trung ương, mang tính bền vững, nền tảng. Chu kỳ của Sao Thổ lại rất dài, vì thế nó được coi là chỉ được tạo nên từ 1 khí, không nhiều biến đổi. Thổ Tinh cũng còn gọi là Thiên Can tinh, với ngụ ý nắm giữ quy luật vận động của bầu trời.

 

 

VIII & IX. La Hầu Tinh & Kế Đô Tinh

 

Text%20Box:%20%20



“Sao%20La%20Hầu”%20đang%20che%20lấp%20mặt%20trời%20-%20theo%20quan%20niệm%20cổ.

Đây là hai thiên thể không có thực. Trước kia, khi thấy mặt trời, mặt trăng bị che lấp tối đen, người Trung Hoa cho rằng do một giống quái vật khổng lồ ăn mất, tạo ra Nhật thựcNguyệt thực (quái vật gấu ăn mặt trời, quái vật chó sói ăn trăng – có lẽ do hiện tượng chó sói tru đêm trăng tròn, mà nguyệt thực chỉ xảy ra vào đêm trăng tròn).

 

Thế kỷ I, Phật giáo từ Ấn Độ vào Trung Hoa, cùng với Phạn lịch, trong đó hai thiên thể che lấp mặt trời, mặt trăng được gọi là RahuKethu. Người Trung Hoa phiên âm là La HầuKế Đô. Hai “Sao” này tối đen, rất lớn và chỉ che lấp mặt trời mặt trăng chứ không che bất cứ thiên thể nào khác. Dù giả thuyết của Trương Hoành (78 – 139) về trái đất hình tròn và bóng của trái đất che lấp mặt trăng đã tíến đến chân lý, nhưng đã không được chấp nhận ngay khi đó.

 

Các tên tiếng Phạn tương ứng: Sao Thủy - Bhuda ; Sao Kim - Sukra ; Sao Hỏa - Angaraka ; Sao Mộc - Brhaspati ; Sao Thổ - Sanaiscara (hay Sani).



Các tầng trời

 

Người Trung Hoa nhận thấy rằng các hành tinh chuyển động giữa các thiên thể khác, nhưng không “va chạm” gì với nhau, nên cho rằng chúng ở trên các vòng cầu khác nhau, từ thấp đến cao tức là các tầng trời. Có 9 tầng trời – Cửu trùng thiên:

 

Tên tầng trời

Mô tả

Chu kỳ

1. Thái Âm

Chứa Mặt trăng

1 tháng

(vì thấp)

2. Thìn Tinh

Chứa Thủy Tinh

3 tháng

3. Thái Bạch

Chứa Kim Tinh

7 tháng

4. Thái Dương

Chứa Mặt trời

1 năm

5. Huỳnh Hoặc

Chứa Hỏa Tinh

2 năm

6. Tuế Tinh     

Chứa Mộc Tinh

12 năm

7. Điền Tinh

Chứa Thổ Tinh

30 năm

8. Liệt Túc

Chứa các định tinh không chuyển động (các vì sao)

x

9. Tông Động

Vỏ ngoài cùng của của Trời, bao bọc tất thẩy

x

 

                                               

Về La Hầu, Kế Đô, một khi đã che được Mặt trăng và Mặt trời, thì phải nằm thấp hơn nữa. Thế nhưng chúng lại không che bất kỳ một thiên thể nào khác, vì vậy người Trung Hoa cho đó là thiên thể kì lạ, là khắc tinh của riêng Mặt trời, mặt trăng. Và vì vậy La Hầu và Kế Đô vẫn có một vị trí nhất định trong hệ thống thiên thể, đặc biệt trong việc xem bói Tử vi.

 

 

 

(1). Phù là nổi, Tang là cây dâu, Nhật Bản – ở phía đông, hay bị động đất nên cũng gọi là xứ Phù Tang

Chỉnh sửa lại bởi Hoa Hạ - 05/Feb/2012 lúc 9:26am

Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.

Hoa Hạ

IP IP Logged
Hoa Hạ
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 19/Jan/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 968
Quote Hoa Hạ Replybullet Gởi ngày: 03/Feb/2012 lúc 4:14am

 5. TAM VIÊN

 

Ngoại trừ Thất Chính – Cửu Diệu và Tuệ tinh, các ngôi sao khác đều đứng yên tương đối trên bầu trời, và hằng đêm cả “tầng trời Liệt Túc” đó đều từ từ xoay quanh một điểm cố định, mỗi ngày lại dịch đi một chút, và sau một năm thì quay trọn một vòng. Điểm đó gọi là Thiên Cực, và vì ở phía Bắc nên gọi là Bắc Thiên Cực. Thiên Cực, do đó được gọi là Trung Thiên – trung tâm của bầu trời.

 

Ngày nay, dưới mặt đất cũng có thể hình dung tương tự rằng nếu đi về hướng Bắc đến tận Bắc Cực, thì không còn các phương nữa, mọi hướng đều là phương Nam. Do đó Bắc Cực cũng là trung tâm phương vị trên mặt đất.

 

Các vua Trung Hoa cho mình là ở giữa mặt Đất, nên tự nhận miền đất mình đang cai trị là Thiên hạ, Trung quốc, Trung nguyên, còn mình là Thiên tử. Khi đó Kinh đô là Trung tâm mặt đất, ứng với Bắc Thiên Cực là trung tâm bầu trời. Giữa hai điểm đó là Trục trời đất. Tư tưởng coi mình ở Trung tâm trái đất không xa lạ gì với các nền Văn minh khác. Trong suốt mười mấy thế kỷ, người phương Tây vẫn cho rằng thành thánh Jerusalem là trung tâm thế giới, 3 châu Âu, Á, Phi xòe ra như 3 cái lá; người Hồi giáo cũng coi Mecca là tâm thế giới. Trước đó, người Hy Lạp cho núi Olymper là nơi Thiên đình ở, cũng như người Ấn Độ cho núi Meru (Tu Di) huyền thoại là Trục Vũ trụ, xuyên xuống bên ở bờ sông Hằng.

 

Trong khi người Hy Lạp quan tâm đến các chòm sao nằm trong Hoàng đới thì người Trung Hoa lại quan tâm nhiều hơn đến Thiên Cực. Dưới mặt đất chia ra Cửu châu(1) Ngũ phục, thì trên trời cũng chia làm Cửu trùng các khu vực tinh tú. Chỉ có điều Trời thì quay quanh Thiên Cực còn Đất thì cố định. Một điều lưu ý nữa là phương vị trên trời ngược với dưới mặt đất, tức phía Đông ở bên trái, Tây bên phải, Nam ở trên còn Bắc ở dưới.

 

Ngũ phục là 5 vùng tính từ Trung tâm (kinh đô) ra với khoảng cách 500 dặm: Điện phục là vòng trong cùng nơi vua ở, Hầu phục là vòng tiếp theo, cho các quan và chư hầu, Tuy phục cho dân cư và quân sự, Yêu phục và Hoang phục là các vùng ngoài. Tương tự, trên bầu trời cũng được chia thành các khu vực. Ba khu vực ở giữa là Tam Viên, gồm Tử Vi, Thái Vi, Thiên Thị, tiếp đó là vòng của Nhị thập bát Tú, các chỗ trống còn lại là Thiên Cương Địa sát.

 

Viên nghĩa là bức tường vây, Tử Vi, Thái Vi và Thiên Thị đều có các chòm sao vây lại. Tú là tòa nhà lớn. Như vậy nói đến Tú là chỉ nói đến 28 chòm mà thôi.

 

Các chòm sao trong tiếng Hán gọi là Tiểu tinh quan hoặc Tinh tọa. Nhưng có một số ngôi sao đứng riêng mà không được xếp vào chòm nào cả.

 

I. Tử Vi

 

Tử Vi là khu vực trung ương có hình tròn, vây quanh Thiên Cực, cách một góc khoảng 40 độ, là tượng trưng cho Thiên Cung. Tử là màu tía, màu của huyền bí, kỳ diệu, Vi là cây hoa, Viên là khu tường vây. Đây là nơi ở của Thiên Hoàng Thượng đế, hoặc Trung thiên Bắc Cực Tử Vi đại đế (ông Bắc đẩu), chuyên về Sinh mạng con người. Có lẽ vì thế mà cung cấm các vị Hoàng đế đều gọi là Tử cấm thành, dù nó không có màu tím.

 

Trong Tử Vi viên có trên 160 sao, chia thành gần 30 chòm và một số sao độc lập. Hình ảnh của cả một Hoàng cung hiện ra, với đủ các thành tố: Hoàng tộc (Đế, Thái tử, Hậu cung), người hầu hạ (Ngự nữ, Thượng tể), quan lại (Thượng thư, Tam công, Tướng quốc(2)), lực lượng bảo vệ (Thượng vệ, thiếu vệ), các cơ quan phục vụ Triều đình (Đại lý - Tòa án, Nội trù - bếp, Nhà lao, nhà Khách, giường…).

Dưới đây là danh sách các chòm sao và sao riêng trong vòng Tử Vi, theo thư tịch đời Thanh, 1744, con số trong ngoặc là số sao của chòm. Bốn chòm quan trọng nhất thì các ngôi sao đều có tên riêng, các chòm khác thì sao chỉ đánh số thứ tự (nhất, nhị, tam…) Một số ngôi tuy ở gần các chòm nhưng không thuộc về chòm đó, được đánh thứ tự riêng.

 

Các Tiểu quan tinh trong Cung Tử Vi



 

1. Bắc Cực                 (5 sao Thuộc chòm Ursa Minor – Tiểu Hùng)

             i. Thái tử              sao g  

             ii. Đế                    sao z 

             iii. Thứ tử             sao e

             iv. Hậu cung         sao d  - Yildun

             v. Thiên cực        sao a - Polaris

2. Tứ phụ                   (4 sao)

3. Câu Trần                (6 sao) 

      a. Thiên Hoàng Đại đế

4. Thiên Trụ               (5 sao)

5. Ngự Nữ                  (4 sao)

      b. Nữ sử

      c. Trụ sử

6. Thượng Thư         (5 sao)

7. Thiên Sàng            (6 sao)

8. Đại Lý                      (2 sao)

9. Âm Đức                   (2 sao)

10. Lục Giáp               (6 sao)

11. Ngũ Đế Nội Tọa (5 sao)

12. Hoa Cái                 (7 sao)

13. Cống                     (9 sao)

14. Tử Vi Tả viên       (8 sao), gồm

             i. Tả Xu

             ii. Thượng tể

             iii. Thiếu tể

             iv. Thượng bật

             v. Thiếu bật

             vi. Thượng vệ

             vii. Thiếu vệ

             viii. Thiếu thừa       

 

15. Tử Vi Hữu viên   (7 sao)

             i. Hữu xu

             ii. Thiếu úy

             iii. Thượng phụ

             iv. Thiếu phụ

             v. Thượng vệ

             vi. Thiếu vệ

             vii. Thượng thừa

     d. Thiên Ất           

     e. Thái Ất

 

16. Nội Trù                 (2 sao)

17. Bắc Đẩu  (7 sao -  thuộc chòm Ursa Major – Đại Hùng)

       i. Thiên xu            sao a - Dubh 

             ii. Thiên toàn        sao b   -Merak            

             iii.Thiên cơ           sao g   - Phecda

             iv. Thiên quyền    sao d - Megrez 

             v. Ngọc hoành     sao e - Alioth

             vi. Khai dương     sao z   - Mizar 

             vii. Dao quang      sao h - Alkaid

      f. Phụ tinh: cạnh Khai Dương - Alcor

18. Thiên Thương    (3 sao)

      h. Huyền qua

19. Tam Công            (3 sao)

     k. Tướng quốc

20. Thiên Lý               (4 sao)

     m. Thái Dương thủ    

     n. Thái tôn           

21. Thiên Lao             (6 sao)

22. Thế                       (4 sao)

23. Văn Xương          (6 sao)

24. Nội Cấp                (6 sao)

25. Tam Sư                 (3 sao)

26. Bát Cốc                (8 sao)

27. Phó Xá                  (9 sao)

28. Thiên Trù             (6 sao)

29. Thiên bồi              (5 sao)

 

(Về vị trí chính xác của các vì sao trong vòng Tử Vi, có thể xem phụ lục)


Nhìn tổng thể Cung Tử Vi, có thể thấy đó giống như một khu vực Thiên cung của Thượng đế. Hai bên trái phải là hai bức tường vòng Tả hữu Tử Vi viên, do các vị thiên quan tối cao như Tể, Phụ,  những thiên thần Vệ, Thừa, Úy. Cửa phía trước được bảo vệ bởi Bắc Đẩu Thất tinh, phía sau là khu để báu vật. Giữa Tòa cung đó là Thiên Cực có 4 ngôi sao canh gác, liền trước là ngôi bản mệnh Hoàng gia: Vua ở giữa hai con là Thái tử và Thứ tử, tiếp đến là Hậu cung. Thiên Hoàng Thượng đế ngự ở giữa các lớp màn trướng, trước có Ngự nữ, Nữ sử đứng hầu, phía sau là 6 vị thần tướng bảo vệ, một bên là chỗ của Ngũ Đế (3), bên kia là 5 vị Thượng thư chầu. Trong cung đó có Âm đức, có Thiên lý tượng trưng có Uy đức và Quy luật của trời.

 

Bên ngoài hai bức tường là các khu hỗ trợ: nơi xử án (Thiên lý), nơi học tập (Văn Xương), nhà bếp (Thiên trù), kho lương thực (Bát cốc), nhà giam (Thiên lao), nhà khách (Phó xá), phù trợ (Thiên bồi),…, sát ngoài vòng cung là nơi các Đại thần và Tướng quốc chầu, bên kia là Thái thủ và Thái tôn canh giữ.

 

Chòm Bắc Đẩu Thất tinh (17) là nơi rất quan trọng với con người, án ngữ đường vào Thiên Cung. Không nên dùng chữ Đại Hùng tinh cho Bắc đẩu, bởi chòm Đại hùng (Great Bear - Ursa Major) không chỉ có 7 ngôi mà còn nhiều ngôi nữa. Trong 7 ngôi của Bắc Đẩu, thì sao Thiên quyền ở chính giữa là đại diện cho Bản mệnh con người. Vì thế khi cúng sao xin mệnh thì ngọn đèn ở vị trí sao Thiên quyền tượng trưng cho mạng sống. Ngôi sao sát cạnh sao Khai Dương không thuộc Bắc Đẩu, nên gọi là Phụ tinh.

Trên thực tế, ngay các nhà thiên văn cổ đại cũng không hoàn toàn thống nhất với nhau về các chòm sao. Bản đồ Đôn Hoàng từ rất sớm nên có khác bản đồ sau này; chẳng hạn chòm Thiên Hoàng là 4 ngôi, trong khi bản đồ sau Thiên Hoàng là 1 ngôi nằm giữa chòm Câu Trần; không có Ngự Nữ, hoặc Tả Đàn chỉ có 7 ngôi….
 

II. Thái Vi


Vì Mặt trăng chuyển động theo quỹ đạo tròn (gọi là Bạch đạo) nhưng không có tâm là Thiên Cực, nên khi xác định 28 Tinh tú nằm giữa Bạch đạo và Hoàng đạo thì tạo thành hai khoảng trống phía đông và phía nam của vòng Tử Vi. Khu phía đông tạo thành một vòng là Thái Vi. Nếu Tử Vi là Cung của Huyền ảo, linh thiêng, thì Thái Vi viên với chữ Thái mang nghĩa Cao quý. Trong khu vực này các sao ứng với các quan lại trong triều đình, là bộ máy hành chính của nhà nước phong kiến.

 

Thái Vi 75 sao, 16 chòm và một số sao độc lập, một vài sao nằm về phía dưới của Hoàng đạo.

 

1. Ngũ Đế Tọa           (5 sao)

a. Thái Tử

            b. Tòng quan

            c. Hạnh thần

2. Ngũ Chư hầu         (5 sao)

3. Cửu Khanh            (3 sao)

4. Tam Công              (3 sao)

5. Nội Bình                 (4 sao)

6. Thái Vi Tả viên      (5 sao)

            i. Tả chấp pháp

            ii. Đông thượng tướng quốc

            iii. Đông thứ tướng quốc

            iv. Đông thứ tướng quân

            v. Đông thượng tướng quân

7. Thái Vi Hữu Viên   (5 sao)

            i. Hữu chấp pháp

            ii. Tây thượng tướng quân

            iii. Tây thứ tướng quân

            iv. Tây thứ tướng quốc

            v. Tây thượng tướng quốc

            d. Lang tướng

8. Lang Vị                   (15 sao)

9. Thường Trần        (7 sao)

Tam Đài: gồm

10. Hạ Đài                   (2 sao)

11. Trung Đài             (2 sao)

12. Thượng Đài         (2 sao)

            e. Hổ Bôn

13. Thiếu Vi                (4 sao)

14. Trường Viên       (4 sao)

15. Linh Đài                (3 sao)

16. Minh Đường        (3 sao)

            f. Yết Giả.


 

Nhìn tổng thể, Thái Vi giống như nơi làm việc của Triều đình. Khi Ngũ đế từ Nội tọa trong Tử Vi ra làm việc thì ngồi ở giữa, bên cạnh là các vua chư hầu. Thái tử ở đằng sau, có Hạnh thần và Tòng quan hầu hai bên. Tả Hữu Thái vi viên, bắt đầu từ Chấp pháp cho đến Tướng quốc, tướng quân, thượng thừa là vòng ngăn cách trong và ngoài. Các quan Tam công, Cửu khanh ở vị trí phía trước, bên cạnh Nội bình. Đằng sau thì một bên là Lang tướng và quân sĩ, một bên là Tam đài với quân Hổ bôn. Bên ngoài là các công trình: Minh đường, Tường dài, gác cao, có Yết giả là quan coi việc thông báo, sứ giả.

 

III. Thiên Thị


Nếu Thái Vi nằm đông thì Thiên thị khu vực phía nam của Tử Vi, nơi chư hầu ở. Vì vậy ở Thiên Thị có các vì sao mang tên các nước thời Chiến Quốc. Cung này có 83 sao, chia làm16 chòm và 2 sao độc lập, gồm:

 

a. Đế Tọa

b. Hầu

1. Hoạn Giả                (4 sao)

2. Đẩu                         (5 sao)

3. Hộc                         (4 sao)

4. Liệt Xứ                   (2 sao)

5. Xa Tứ                     (6 sao)

6. Tông Chính           (2 sao)

7. Tông Nhân             (4 sao)

8. Tông                       (2 sao)

9. Bạch Độ                 (2 sao)

10. Đồ Tứ                   (2 sao)

11. Tả Viên                 (11 sao)

            i. Vệ

            ii. Triệu

            iii. Cửu Hà

            iv. Trung sơn

            v. Tề

            vi. Ngô việt

            vii. Từ

            viii. Đông hải

            ix. Yên

            x. Nam hải

            xi. Tống

12. Hữu Viên              (11 sao)

            i. Hà trung

            ii. Hà gian

            iii. Tấn

            iv. Trịnh

            v. Chu

            vi. Tần

            vii. Thục

            viii. Ba

            ix. Lương

            x. Sở

            xi. Hàn

13. Thiên Kỷ              (9 sao)

14. Nữ Sàng               (3 sao)

15. Quan Tác             (9 sao)

16. Thất Công                        (7 sao)

Đây là khu vực xa hơn Triều đình, gồm chợ và các nước chư hầu. Chính giữa vẫn là khu vực cho Vua (khi xuống thăm dân), bên cạnh là chỗ cho chư hầu, phía trước có các cơ quan như Tông, Tông Chính, Tông nhân, là nơi kiểm soát các hoạt động về hành chính, con người, đề ra các quy tắc. Trong Thiên thị có chợ bán kim hoàn, bán bánh, vải lụa, có đấu có hộc để đong đếm, rồi ra đến bến sông, đến núi. Các nước chính của thời Xuân Thu Chiến quốc đều có tên trong vùng này, xa nhất là đến biển Đông hải, Nam hải

 

Chính việc “quy hoạch” bầu trời theo các chức danh quan lại, cũng như các vùng đất, đã nảy sinh truyền thống xem tượng trời để đoán vận mệnh quốc gia, địa phương, đoán “Thánh nhân ra đời” “ứng vào địa phận…” như trong truyền thuyết dã sử, thậm chí chính sử.

 

Trên bản đồ tổng quát, Tam Viên là ba khu vực trên bầu trời phía gần Bắc Cực, nằm giữa Nhị thập bát tú, lệch về hướng Nam và Đông. Trục trái đất lệch với mặt phẳng Thiên xích đạo một góc 23,5 độ, cũng như mặt phẳng Thiên xích đạo lại lệch so với mặt phẳng quỹ đạo mặt trăng, gây nên việc quan sát phải có những điều chỉnh theo, và tượng trời cũng không có tính đối xứng hoàn toàn.


Đặc biệt là việc chia hướng trên bầu trời, khái niệm về Đông Tây Nam Bắc nếu như lấy Thiên Cực Bắc làm gốc tọa độ, tương ứng với bốn mùa, là cơ sở cho Thiên văn và Vũ trụ quan của người Trung Hoa.

(1) 9 Châu cổ đại là Ký, Duyện, Thanh, Từ, Dương, Kinh, Dự, Lương, Ung

(2) Trong tiếng Hán, có 2 chứ cùng đọc là Tướng, viết khác nhau, với 2 nghĩa tướng quốc (chính trị - hành chính, có người đọc là Tương) và tướng quân (quân sự). Ở đây để không nhầm lẫn, dù tên sao chỉ có 1 chữ, nhưng tôi phải chuyển sang là Tướng quốc hoặc Tướng quân để phân biệt.

(3) Ngũ Đế, cũng có nhiều thuyết về Ngũ đế: [1]. Phục Hi, Thần Nông, Hoàng đế, Nghiêu, Thuấn – lúc này Ngũ đế có Tam hoàng, ngôi vị không thua kém Thiên Hoàng Thượng đế. [2] Thái Hiệu, Hoàng đế, Thần Nông, Thiếu Hiệu, Chuyên Húc [3] Phục Hi, Thần Nông, Hoàng Đế, Thiếu Hiệu, Chuyên Húc,… Ở đây có thể coi Ngũ đế là tượng trưng cho Vua nói chung.

(…) Thượng thư là đứng đầu các bộ. Triều đình dưới đất có 6 bộ là Lễ, Binh, Hình, Lại, Công, Hộ, thì trên Thiên đình có bộ Ôn, Đẩu, Hỏa, Vũ, Lôi …

(…) Tam Công: Thái sư, Thái phó, Thái bảo, có vai trò cố vấn cho vua. Cửu khanh: 9 chức quan từ thời Chu: Chủng tế, Tư đồ, Tăng bá, Tư mã, Tư không, Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo, coi hết các công việc trong triều.

 

 

Thiên Cực       Polaris

Bắc Cực         North Polaris

Tam Viên:        Three Enclosures

Tử Vi:              Purple Forbidden Enclosure

Thái Vi:            Supreme Palace Enclosure

Thiên Thị:        Heavenly Market Enclosure.

Chỉnh sửa lại bởi Hoa Hạ - 05/Feb/2012 lúc 8:52am

Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.

Hoa Hạ

IP IP Logged
Hoa Hạ
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 19/Jan/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 968
Quote Hoa Hạ Replybullet Gởi ngày: 03/Feb/2012 lúc 4:17am

6. NHỊ THẬP BÁT TÚ

 

Tam Viên nằm ở khu vực giữa của bầu trời – Bắc Thiên Cực. Khu vực dải nằm giữa con đường mà mặt trăng đi qua ban đêm và mặt trời đi qua ban ngày được phân chia theo 28 chòm – 28 Tòa nhà của sao, tức Nhị thập bát Tú. Trong mỗi chòm có một Ngôi sao là chủ tinh, là ngôi nằm gần nhất Bạch đạo, dù ngôi sao đó có thể không phải là sáng nhất.

 

Có tài liệu nói rằng ghi chép về Nhị thập bát tú đã được tìm thấy có từ thời Chiến quốc, 400 TCN ở Hồ Bắc, và khẳng định nó có sớm nhất là vào thế kỷ 5 TCN, trong Sử Ký cũng viết về các chòm. Nhưng việc phân chia thành các cung theo Ngũ hành thì phải đến đời Tần mới có, và việc gán tên các con vật thì còn muộn hơn, có thể là chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, giống như gán các con giáp vào các chi vậy. Điều đáng lưu ý là trong kinh điển Ấn Độ cổ cũng đề cập đến các chòm sao quanh Bạch đạo, và cũng nêu con số 27 hoặc 28. Tuy các chòm không trùng nhau, nhưng trong mối quan hệ giao lưu văn hóa thông qua Phật giáo, chúng cũng được gọi chung là Nhị thập bát Tú.

 

Quanh Thiên Cực được quy ước chia làm 4 phương Đông Tây Nam Bắc, 28 Tú cũng được chia là 4  cung, mỗi cung 7 chòm, đó là:


Thanh LongRồng xanh - phương Đông - hành Mộc, mùa xuân, gồm:

Giác – Cang – Đê – Phòng – Tâm – Cơ.

 

Bạch Hổ - Hổ trắng - phương Tây - hành Kim, mùa thu, gồm:

Khuê – Lâu – Vị  - Mão – Tất – Chủy – Sâm.

 

Chu Tước Chim đỏ - phương Nam - hành Hỏa, mùa hạ, gồm:

Tỉnh – Quỷ - Liễu – Tinh – Trương – Dực – Chẩn.

 

Huyền VũRùa, rắn đen (1) – phương Bắc, hành Thủy, mùa đông, gồm:

Đẩu – Ngưu – Nữ - Hư – Ngụy – Thất – Bích.

 

Nếu xếp theo vòng Đông – Tây – Nam – Bắc thì như vậy.

Có thể theo Xuân – Hạ – Thu – Đông thì xuôi chiều kim đồng hồ là Thanh LongChu Tước Bạch Hổ - Huyền Vũ.

 

Tuy nhiên thường 28 Tinh tú được xếp theo vòng vận động trời đất là Đông – Bắc – Tây – Nam, ngược chiều kim đồng hồ, tức Thanh Long – Huyền Vũ – Bạch Hổ - Chu Tước, vì vậy thứ tự các Tinh tú là : Giác – Cang – Đê – Phòng – Tâm – Vĩ – CơĐẩu – Ngưu – Nữ - Hư – Nguy – Thất – BíchKhuê – Lâu – Vị - Mão – Tất – Chủy – SâmTỉnh – Quỷ - Liễu – Tinh – Trương – Dực – Chẩn.

 

Việc đặt tên các Tinh tú cũng đặc biệt. Mỗi tên gồm 3 chữ, chữ đầu là tên gọi tắt như trên, không thống nhất. Trong đó có bộ phận cơ thể (sừng, cổ, tim,…), có đồ vật (đấu, giỏ, lưới, xe), có con người (nữ), con vật (trâu), có kiến trúc (phòng, tường, giếng,…,), có cả các khái niệm (gốc, hư,…). Dường như không có quy tắc. Việc này có lẽ phản ánh tư duy phóng khoáng không gò bó cổ đại.

 

Chữ thứ 2 là một trong Thất chính lần lượt theo thứ tự: Mộc - Kim - Thổ - Nhật - Nguyệt - Hỏa - Thủy, tinh tú nào có chữ tương ứng sẽ là phù trợ cho Hành tinh ấy. Thuyết Ngũ hành đời Tần đã đem một khuôn khổ quy luật vào đây.

 

Chữ cuối cùng là tên 1 con vật, gồm cả vật nuôi, vật hoang, và thần thoại.

 

Con số 7 cũng là một cơ số quan trọng đối với người Trung Hoa. Có học giả cho rằng thời cổ đại người Trung Hoa chưa dùng cơ số 10, mà mới dùng cơ số 7, nên để lại một số dấu vết như tục cúng bảy bảy bốn chín ngày. Con số 7 được dùng trong Đạo giáo nhiều hơn.

 

Các chòm này có số sao không giống nhau, ít nhất là 2 và nhiều nhất là 22, nằm trong phạm vi những chòm sao khác nhau của Thiên văn phương Tây. Bản dưới đây là tên đầy đủ, số sao, và thống kê đối chiếu với các chòm phương Tây.

 

TT

Khu

vực

Tên

Hán

Tên đầy đủ

Ý Nghĩa

Thất Chính

Con

vật

Số sao

Tương ứng

Chủ  tinh

1

 

Đông

 

Thanh Long

 

 

Mùa Xuân

Giác

Giác Mộc Giảo

Sừng

Sao Mộc

Cá sấu

2

Virgo

a 

Spica

2

Cang

Cang Kim Long

Cổ

Sao Kim

Rồng

4

t

3

Đê

Đê

Thổ

Lạc

Gốc

rễ

Sao Thổ

Nhím

4

Libra

a2

4

Phòng

Phòng Nhật Thố

Phòng

Mặt Trời

Thỏ

4

Scor-pius

d

5

Tâm

Tâm Nguyệt Hồ

Tim

Mặt Trăng

Cáo

3

a

Antares

6

 Hoả

Hổ

Đuôi

Sao Hỏa

Hổ

8

m

7

Cơ Thuỷ Báo

Giỏ

Sao Thủy

Báo

4

Sagitta-

   rius

g2

8

 

Bắc

 

Huyền Vũ

 

 

Mùa Đông

Đẩu

Đẩu Mộc Giải

Đấu

Sao Mộc

Giải

6

f

9

Ngưu

Ngưu Kim Ngưu

Trâu

Sao Kim

Trâu

6

Capri-

conus

b

10

Nữ

Nữ

 Thổ Bức

Nữ

Sao Thổ

Dơi

3

Aquarius

e

11

Hư Nhật Thử

Hư không

Mặt Trời

Chuột

2

b

12

Ngụy

Nguỵ Nguyệt Yến

Mái

Mặt Trăng

Én

3

Aquarius/
Pegasus

a

13

Thất

Thất

Hoả

 Trư

Nhà

Sao Hỏa

Lợn

2

Pegasus

a

14

Bích

Bích Thuỷ Dư

Tường

Sao Thủy

Cừu

2

g

15

 

Tây

 

Bạch

Hổ

 

Mùa

Thu

Khuê

Khuê Mộc Lang

Chân

Bước

Sao Mộc

Sói

16

Andro-meda

d

16

Lâu

Lâu

 Kim Cẩu

Đai

Sao Kim

Chó

3

Aries

b

17

Vị

Vị

 Thổ

 Trệ

Bụng

Sao Thổ

Trĩ

3

41

18

Mão

Mão Nhật

 

Lông

Mặt Trời

7

Taurus

h

Pleiades 

19

Tất

Tất Nguyệt Ô

Lưới

Mặt Trăng

Quạ

8

q

20

Chủy

Chuỷ Hoả Hầu

Mỏ

rùa

Sao Hỏa

Khỉ

3

Orion

j

21

Sâm

Sâm Thuỷ Viên

3 Vì sao

Sao Thủy

Vượn

7

d

22

 

Nam

 

Chu Tước

 

Mùa

Hạ

Tỉnh

Tỉnh Mộc Hãn

Giếng

Sao Mộc

8

Gemini

h

23

Quỷ

Quỷ Kim Dương

Quỷ

Sao Kim

5

Cancer

d

24

Liễu

Liễu Thổ Chương

Cây liễu

Sao Thổ

Cheo

8

Hydra

s

25

Tinh

Tinh Nhật Mã

Sao

Mặt Trời

Ngựa

7

a

26

Trương

Trương Nguyệt Lộc

Giăng lưới

Mặt Trăng

Hươu

6

n1

27

Dực

Dực Hoả

Cánh

Sao Hỏa

Rắn

22

Crater

a

28

Chẩn

Chẩn Thuỷ Dẫn

Xe

Sao Thủy

Giun

6

Corvus

g

 

Trong đồ hình trên bầu trời, Thanh Long phương Đông nằm ở bên trái, Chòm Giác Đông Nam ở góc dưới bên trái, theo đúng Hậu Thiên bát quái là Trời bắt đầu mở ở Đông Nam, vòng dần lên trên vòng dần lên trên tức là theo phương Nam mà xoay vòng (trên bầu trời phương vị ngược với mặt đất).

 

Vị trí cụ thể các chòm Nhị thập bát tú trong các bản đồ sau, trong đó ngôi màu trắng là chủ tinh. Đường màu đỏ ở giữa là Thiên xích đạo, đường cong màu xanh là Hoàng đạo.

Chòm Thanh Long – phía Đông, mùa Xuân


Chòm Huyền Vũ – phía Bắc, mùa Đông


Chòm Bạch Hổ - phía Tây, mùa Thu 
Chùm Chu Tước phía Nam mùa Hạ

 

Việc phân chia 28 chòm sao này có từ thời cổ đại, và người Trung Hoa không muốn thay đổi những kiến thức của người đi trước, nên họ chấp nhận nó đến hàng ngàn năm sau. Trên thực tế việc dùng 28 chòm có một cái tiện lợi là xác định đường đi của mặt trăng, nhưng có nhiều bất tiện. Trước hết là các chòm không chiếm những cung bằng nhau; có cung như Tỉnh góc lớn hơn 30 độ, trong khi cung Chủy chưa đến 3 độ. Điều này là do độ lớn các chòm chênh lệch quá nhiều, có chòm chỉ có 2 sao, trong khi chòm khác 22 sao. Độ sáng biểu kiến cũng rất khác nhau, rồi có chòm như Chủy gần như nằm lọt vào giữa chòm Sâm, nên không mang tính khoa học.

 

Trong văn hóa Ấn Độ cũng có 27 hoặc 28 chòm sao nằm trong khu vực mặt trời và mặt trăng đi qua, nhưng không trùng với nhị thập bát tú. Các chòm sao của Ấn Độ mang tính khái quát nhiều hơn, tượng trưng cho tất cả các vì sao trên bầu trời. Vì vậy trong kinh Phật giáo cũng nói đến các chòm sao, và khi sang Trung Quốc, được các hòa thượng biên dịch là Nhị thập bát tú luôn, để thống nhất với quan sát, khoa học và truyền thống bản địa.

 

Nhị thập bát tú đã đi vào Văn hóa của Trung Quốc và các nước Hán hóa, mang nhiều ý nghĩa Văn hóa. Chẳng hạn chòm sao Khuê tượng trưng cho Văn học, và ở Văn miếu Hà Nội có Khuê Văn Các (gác sao Khuê) tượng trưng cho vẻ đẹp, cao quý của văn học, trong chòm Khuê có 2 ngôi sáng nữa là Đông và Bích (không phải chòm Bích), nên Đông Bích cũng để chỉ văn học. Nhà Đường lập thư viện hoàng cung đặt tên là Đông Bích phủ. Lê Thánh Tông lập ra Tao đàn nhị thập bát tú gồm 28 người cũng mang tên các chòm sao. Hoặc như Mão cũng tượng trưng cho ánh sáng, vì gà báo trời sáng. Trong hình tượng truyền thống Trung hoa, Tinh chủ của các Tú là các vị thần mang đặc tính của các con vật, hay đúng hơn là con vật mang hình người, khi cần họ có thể biến thành các con vật tương ứng dễ dàng. Các Tú trở thành tín ngưỡng dân gian. Nhị thập bát tú không chỉ phát triển trong đời sống văn hóa, mà còn đi vào tôn giáo.

 

Hơn thế nữa, nhị thập bát tú đi vào đời sống, đến mức khi nói đến vật cứng rắn thì ví với sừng của Cang Kim Long, nói đến chỗ rộng mà trống thì ví với Hư Nhật Thử. Mỗi tú còn gắn với Ngũ hành, kết hợp tạo nên những phạm trù đặc biệt.

 

Trong cuốn sách Y thuật cổ “Hoàng Đế nội kinh”, Nhị thập bát tú ứng với 28 mạch trong cơ thể, trời xoay một vòng qua hết 28 Tú thì cúng tương ứng với mạch vận động 1 chu trình trong cơ thể con người.

 

(1) Hình tượng Huyền Vũ có liên quan mật thiết đến một vị thần có vị trí rất cao trong Đạo giáo là Huyền Thiên Trấn Vũ đại đế (Còn các danh xưng khác là Thượng đế Tổ sư, Đãng ma thiên tôn, Hỗn nguyên Giáo chủ, Bắc Cực Huyền linh đại đế) có hai con vật thiêng là Linh Quy, Thần Xà, tượng trưng cho Trường tồn và Trí tuệ. Vì vậy chữ Vũ trong Huyền Vũ ở đây với nghĩa Sức manh là gồm cả Rùa và Rắn, tiếng Anh còn dịch là Warrior.

 

                    hsiu (mansion)

Thạch Thân:      Shi Shen

Cam Đức:         Gande

Vu Hàm:           Wu Xian

Tư Mã Thiên:     Sima Qian

Sử Ký:             Shiji

Trương Hoành   Zhang Heng

Tổ Xung Chi:      Zu Chongzhi, Tsu Ch'ung Chi, Cui Zhongji

Tô Tống:            Susong

Nhất Hành:        Yi Xing

Hỗn Thiên:         Hu tian

Tam Viên:         Three Enclosures

Tử Vi:               Purple Forbidden Enclosure

Thái Vi:             Supreme Palace Enclosure

Thiên Thị:          Heavenly Market Enclosure.

Nhị thập bát tú: 28 Mansions

Bắc Đẩu:           Big dipper

Thanh Long:      Green Dragon – Azure Dragon

Bạch Hổ:           White Tiger

Chu Tước:        Red Bird, Red Sparrow, Vermilion Bird,

Huyền Vũ:         Black Warrior, Black Tortoise, Murky Tortoise

Bát Quái:          Ba Gua, Eight Trigrams,

Tiên thiên:         Earlier Heaven, Primal Arrangement –

Hậu thiên:         Ater Heaven, Inner World Arrangement

 



Chỉnh sửa lại bởi Hoa Hạ - 05/Feb/2012 lúc 10:10am

Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.

Hoa Hạ

IP IP Logged
Hoa Hạ
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 19/Jan/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 968
Quote Hoa Hạ Replybullet Gởi ngày: 03/Feb/2012 lúc 4:19am

 

7. THIÊN CƯƠNG ĐỊA SÁT

 

Tam Viên 60 chòm hơn 220 sao, Nhị thập bát Tú hơn 160 sao, còn lại hàng ngàn vì sao khác được nhóm thành các chòm và một số sao độc lập. Các chòm này được gọi chung là các chòm Thiên Cương tinh và Địa Sát tinh. Để cho đẹp đẽ con số và phù hợp với cơ số 9 vốn được coi là cơ số hoàn thiện của trời đất, người ta thường nói là 36 Thiên cương và 72 Địa sát. Thực tế số lượng các chòm sao lớn hơn thế, và cũng không phải chỉ đặt tên với chữ Thiên hoặc Địa.

 

Chẳng hạn trong cung ứng với Giác có các chòm Bình tinh, Nam môn; trong cung Cang có các chòm sao Trụ, Thiên điền; trong cung Đê có Dương môn,…, rồi các sao Văn nhân, Lão nhân, các chòm Cửu đài, Nhị sư, Bắc khách sư môn,…, khắp trời.

 

Tuy nhiên các chòm sao dù có sáng đến đâu nhưng không nằm ở vị trí có ý nghĩa hình học hoặc dùng để phân định vị trí, các cung,…, thì cũng không được dùng nhiều. Chẳng hạn sao Thiên Lang sáng nhất bầu trời, Ngưu Lang và Chức Nữ cũng rất sáng, nhưng không nằm trong khu vực đặc biệt nào, nên cũng không được vẽ trong các bản đồ. Những sao đó có vị trí đặc biệt trong chiêm tinh hơn là trong ghi nhận thiên văn khoa học. Như sao Thiên Lang  được ghi lại trong Lịch sử Trung Hoa có rất nhiều lần biến đổi màu sắc, khi thì xanh, khi thì vàng, khi lại đỏ, rồi có sừng, có tia,…, nhưng sự thực là nó không bao giờ đổi màu. Đó chẳng qua là sử sách gán cho nó vai trò điềm báo trước, nên trong những thời kỳ biến động của lịch sử, nó được viết cho phù hợp, cũng giống như việc khi có vua thánh ra đời thì rồng vàng xuất hiện vậy.

 

 

 

 


 

 

 

 

Nhị thập bát tú: 28 Mansions

Bắc Đẩu:         Big dipper

Thanh Long:    Green Dragon – Azure Dragon

Bạch Hổ:         White Tiger

Chu Tước:      Red Bird, Red Sparrow, Vermilion Bird,

Huyền Vũ:        Black Warrior, Black Tortoise, Murky Tortoise

 


Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.

Hoa Hạ

IP IP Logged
Hoa Hạ
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 19/Jan/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 968
Quote Hoa Hạ Replybullet Gởi ngày: 03/Feb/2012 lúc 4:23am

Phần II.

Vũ trụ quan Phương Đông

 

 

Có lẽ từ Vũ Trụ đã quen thuộc với mọi người, được dịch ra là Universal, là khái niệm Toàn thể. Đây là từ Hán, xuất hiện trong Đạo Đức Kinh: “Cái có thực mà không xác định được nơi chốn thì gọi là Vũ, cái lâu dài mà không truy được nguồn gốc thì gọi là Trụ”. Như vậy Vũ là Không gian vô tận, Trụ là thời gian Vô tận. Những từ Càn Khôn, Thiên Địa, Trời Đất chỉ thể hiện phần nào khái niệm của Vũ trụ mà thôi.

 

8. NHỮNG TRUYỀN THUYẾT

Thần thoại về Khai thiên Lập địa của Trung Hoa có nhiều, và không thống nhất. Tại đây chỉ nêu tư tưởng qua một số truyện mà thôi.

Khởi thủy Thế giới

Hãy nghe huyền thoại Bàn Cổ mở mang

Giữa khoảng mênh mông hỗn độn, mờ mịt chưa phân, như lòng trắng lòng đỏ trứng gà, có một người là Bàn Cổ, lấy cái khí trong mà nhẹ bên trên tạo thành trời, cái đục mà nặng bên dưới tạo thành đất. Bàn Cổ mỗi ngày biến đổi chín lần, mỗi ngày cao thêm một trượng, trời cao thêm chừng ấy và đất dầy thêm chừng ấy. Ông sống một vạn tám ngàn năm, thì trời cao lắm và đất dày lắm. Khi ông chết, hai mắt thành mặt trời mặt trăng, nước mắt thành sông, mỡ thành biển cả, thân thể thành núi non, râu tóc thành cây cối…

Và những dòng đầu tiên của câu truyện nổi tiếng Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân:

Từng nghe số của trời đất, gồm một trăm hai mươi chín nghìn sáu trăm năm (129,600) gọi là một Nguyên, chia làm 12 Hội là: Tí Sửu Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi; mỗi Hội là một vạn tám trăm năm (10,800).

Khi đó vào cuối hội Tuất là lúc tất cả tối tăm mờ mịt.

Sang đến hội Hợi tất cả còn hỗn độn, chưa phân chia.

Trải năm nghìn bốn trăm năm (5400), hội Hợi sắp hết quay lại từ đầu, chuyển sang hội Tý, mới dần dần tách biệt.

Sang hội Tý, trời đất bắt đầu có rễ, Âm Dương giao hoà thành gốc của vạn vật.

Trải 5400 năm, đúng giữa hội Tý, những thứ nhẹ trong bay lên thành Trời, tạo ra Nhật Nguyệt Tinh Thần tức là Tứ Tượng. Cho nên nói Trời mở ở Tý.

Trải qua 5400 năm, hội Tý sắp hết, dần sang hội Sửu, đất dần dần ngưng kết.

Lại trải qua 5400 năm, đúng giữa hội Sửu, những thứ nặng đục ngưng xuống tạo ra Nước, Lửa, Núi, Đá, Đất gọi là Ngũ hình, cho nên nói Đất (Khôn) mở ở Sửu.

Lúc này giao hoà Âm Dương mà sinh ra Bát quái: Càn Khảm Cấn Chấn Tốn Ly Khôn Đoài.

Lại qua 5400 năm, đúng vào hội Dần, sinh Người, sinh Thú, sinh Chim, gọi là Tam Tài. Cho nên nói Người sinh ra ở Dần.

Khi đó thế gian có 4 châu lớn là Đông Thắng Thần châu, Tây Ngưu Hạ châu, Nam Thiệm Bộ châu, Bắc Câu Lư châu.”

Truyện Bàn Cổ hoàn toàn hoang đường, nên chỉ được coi như truyện cổ tích. Còn quan niệm như trong Tây Du Ký mô tả mới được coi là chủ đạo về tạo lập thế giới của người Trung Hoa. Theo đó Quan niệm về sự hình thành của vũ trụ rất rõ ràng: Tự nhiên vận động mà thành, không có một Đấng sáng thế nào tạo ra. Tự nhiên hay còn gọi là Trời, Tạo hóa, là hằng tồn, bất biến, nhưng không phải là người. Chính vì thế đã có ông vua đời Thương mang cung tên ra bắn Trời, hoặc dân chúng oán trách trời.

Điều đặc biệt là trước khi có Nguyên hiện tại (sinh ra Trời Đất) thì trong thuyết đó đã đề cập đến một Nguyên trước đó rồi, mà dòng đầu tiên, “cuối hội Tuất”, tức Hội Tuất của Nguyên trước đó. Như vậy trước khi hình thành thế giới này, đã từng có “một cái gì đó”, nhưng rồi hỗn độn, để phân chia trở lại, thành Trời Đất hiện tại.

Vào thời kỳ nhà Thương, người Trung Hoa đã không coi có một Đấng Thượng đế tối cao Sáng tạo là người hữu hình, nguyên thủy nữa. Đời sau đặt Vua cho Trời, đó là Ngọc Hoàng Đại đế, hay Thiên hoàng Thượng đế. Nhưng Ngọc Hoàng vốn chỉ là Người, đã tu hành tới 1550 kiếp, nắm giữ được quy luật của thiên nhiên, mà lên Thiên đình làm vua. Tất cả các thần thánh đều từ con người, hoặc sinh vật chuyển hóa. Không ai trong số đó có khả năng tạo ra thế giới như trong Kinh thánh Kitô giáo. Thậm chí một con khỉ như Tôn Ngộ Không cũng đòi cướp cái ngôi vị ấy, làm vua bầu trời. Con khỉ đó là sản phẩm của tự nhiên, khi có khả năng nhất định là có quyền đòi làm vua, chứ không có quyền đòi sáng thế. Ngọc Hoàng Thượng đế có khả năng chi phối, điều khiển một số hiện tượng tự nhiên, nhưng không thể tiêu diệt tự nhiên được như ngày Tận thế do Thiên Chúa giáng xuống trong Kitô giáo được.

Trong quan niệm cổ, người Trung Hoa chia Thế giới làm 3: Thượng nguyên là Trời, Trung nguyên là Đất, Hạ nguyên là Biển. Đất nước của họ nằm giữa Thế giới nên cũng chính là Trung nguyên, chia ra ngũ phục, ra bốn phía là chốn hoang vu và bao quanh là Biển, gồm 4 Đại hải Đông tây nam bắc. Thực ra họ không bao giờ gặp được biển phía Tây, vì đi mãi là gặp sa mạc.

Nhưng rồi cái thế giới quan đó bị lung lay khi có sự giao thoa với các nền văn hóa phía Tây như Babylon và Ấn Độ. Họ dần nhận ra miền đất giữa hai con sông Hoàng Hà và Dương Tử (Trường giang) không hoàn toàn là trung tâm thế giới. Đến khi có Phật giáo du nhập từ Ấn Độ, quan niệm được mở rộng hơn, Thế giới có 4 Đại bộ châu, Trung Quốc chỉ ở Đông Thắng Thần châu mà thôi, và bên dưới đất còn có Địa ngục là cõi để luân hồi.

 

Con người trong Vũ trụ

Những Người đầu tiên là ai. Có nhiều thuyết.

(1). Bàn Cổ

Thuyết phổ biến nhất là Bàn Cổ, như đoạn đầu đã viết.

Theo thuyết này, Bàn Cổ là Thiên hoàng, rồi đến Địa hoàng, Nhân hoàng. Sau đó mới có các họ Hữu Sào, Toại Nhân, rồi đến Ngũ đế.

Hữu Sào có nghĩa là Có tổ, tức làm tổ trên cây, con người thoát khỏi thuở hồng hoang. Toại Nhân là giống người biết làm ra lửa. Lửa chính là phát minh đại nhất thời tiền sử của con người. Lửa là công cụ, vũ khí, là biểu tượng văn minh của loài người

Nhưng Tam hoàng cũng có thể là Phục Hi, Thần Nông, Hoàng Đế, còn Ngũ Long, Hữu Sào, Toại Nhân là tam Vương. (Tam vương Thái cổ khác với Tam vương Thượng cổ là Thành Thang, Văn vương, Vũ vương đời Thương Chu).

 

(2). Phục Hi và Nữ Oa.

Phục Hi và Nữ Oa vừa là anh em vừa là vợ chồng hoặc là hai nửa của một bản thể, là Vô thượng Nhân tổ phụ và Nhân tổ mẫu. Tự họ sinh ra trên thế gian, không có ai trước họ. Phục Hi khởi thủy mang hình rồng, Nữ Oa khởi thủy mang hình rùa, hoặc cả 2 có chung 1 thân con rắn. Từ đó sinh ra nhân loại. Tiếp theo sau họ Phục Hi (Phục Hi thị) là họ Thần Nông (Thần Nông thị) rồi đến Hoàng đế là Tam hoàng. Sau nữa mới đến Ngũ đế (*)

Text%20Box:%20%20



Phục%20Hi-Nữ%20Oa%20giữa%20các%20chòm%20sao.%20Tranh%20đời%20Đường,%20TK%207-8

(3). Bàn Cổ và Nữ Oa.

Thuyết nói rằng Nữ Oa được sinh ra từ Bàn Cổ, và rồi lại cùng Bàn Cổ sinh ra nhân loại.

Các thuyết đều chỉ là truyền thuyết, không quan trọng bằng tư tưởng không có đấng sáng thế, chỉ có tự nhiên vận động mà thành là cốt yếu, khác hẳn với khái niệm Đấng sáng thế phương Tây. Khái niệm Thượng đế do đó cũng chỉ mang ý nghĩa một vị vua trên trời cao, chứ không phải là đấng Toàn năng, toàn quyền, Sáng thế (Creator, Almighty). Vũ trụ không có Đấng ngự trị nào cả.

Dù ai là thủy tổ, thì người Trung Hoa cũng vẫn coi trọng nhất 3 vị Phục Hi, Thần Nông, Hoàng Đế.

Ba vị được tôn là Khai thiên Tịch địa Thái hạo hoàng Thượng đế, tức các vị vua tối cao mở trời định đất, là khởi thủy của văn minh con người. Như vậy vai trò của họ còn cao hơn Ngọc Hoàng Thượng đế là vị vua trời xuất hiện về sau.

Phục Hi – ngửa đầu nhìn tượng trời, cúi đầu xem thế đất, soi lấy cái thần minh của tạo hóa mà định ra Bát quái, làm cơ sở cho thế giới quan Trung hoa, dạy con người săn bắt, hái lượm; đại diện cho giai đoạn con người tìm hiểu nhận thức và khái thác tự nhiên. Phục Hi còn gọi là Thái Hạo, tức rất sáng suốt, chói lọi.

Thần Nông – dậy cho dân biết nuôi trồng, cầy cấy, đi nếm từng loại lá cây để làm thuốc, đại diện cho giai đoạn con người chinh phục tự nhiên, sản xuất nông nghiệp, cùng với việc dùng thuốc từ thiên nhiên.

Hoàng Đế - còn gọi là Hiên Viên, làm ra trang phục (Phục Hi, Thần Nông chỉ dùng lá cây che thân), định ra các luân lý, pháp luật, nghiên cứu cơ thể để trở thành Y thuật, với cuốn Hoàng đế Nội kinh làm căn bản. Hoàng đế đại diện thời đại này xã hội đã hình thành chặt chẽ, các giá trị văn hóa được xác lập, các mối quan hệ xã hội dần được chuẩn hóa. Hoàng đế được coi là tổ của người Hán.

Ba vị vua thượng cổ thuộc về truyền thuyết, nên việc gán thời đại Phục Hi 2852 TCN, Thần Nông 2737 TCN, Hoàng Đế 2697 TCN không mang nhiều ý nghĩa. Quan trọng hơn là việc hình tượng hóa sự xây dựng nền văn minh, mà về nhận thức tự nhiên thì Phục Hi đóng vai trò quan trọng nhất, là ông tổ của thế giới quan phương Đông.

 

Hình dạng Vũ trụ

Nữ Oa là Cửu Thiên Huyền Nữ, một vị nữ thần tổ mẫu trong quan niệm cổ. Khi Cung Công và Chúc Dung (thần nước và lửa) đánh nhau, Cung Công thua đã đập đầu vào núi Bất Chu là cột chống trời làm núi đổ, trời rách góc đông bắc, đất sụt góc tây nam, thế gian nguy khốn. Nữ Oa đã luyện đá vá trời liền lại, không cần dùng đến cột chống nữa mà trời vẫn yên, đất vẫn lành.

Quan niệm cho trời giống như một tấm vỏ bọc trùm lên trên mặt đất giống như một mái nhà, với cột chống kèo đỡ. Khí trong mà nhẹ bay lên, cứng rắn lại thành trời, khi đục mà nặng ngưng xuống, đọng lại thành đất. Người Trung Hoa không giải thích là bên trên trời còn gì nữa, và đất sâu đến bao nhiêu. Lúc này mới chỉ có khái niệm dưới đất là cõi của người chết, chứ chưa hẳn là khái niệm Địa ngục nơi trừng trị người chết, vốn là sản phẩm truyền từ Ấn Độ.

Cũng vì mong muốn giải thích về điều này mà hình thành 3 trường phái

  • Phái thứ nhất cho rằng trời trùm lên mặt đất, đất phẳng dẹt, trời tròn đất vuông. Nhưng về sau thấy không khớp nhau nên cũng cho rằng đất tròn nốt. Đất được vây quanh bởi biển cả. Quan niệm này giống châu Âu trung cổ.
  • Phái Hỗn thiên: Khởi đầu từ Trương Hoành, cho rằng trời đất giống như quả trứng, mà Đất nằm lơ lửng bên trong như lòng đỏ, gần nhất với sự thực. Tuy nhiên do cảm thấy khó giải thích tiếp nên phái này không dám đi xa cho rằng “phía bên kia” cũng là mặt đất như phía bên này.
  • Phái thứ ba cho rằng trời cao vô cùng, đất sâu vô cùng, giống như biển. Các thiên thể trôi trên trời giống như sóng biển và thủy triều. Và tất cả trải đến vô cùng vô tận theo chiều ngang, không có được hình dạng xác định.

 

Thần thánh

Tín ngưỡng phương Đông là đa thần chứ không phải độc thần như phương Tây. Tự nhiên vốn là chính nó, chỉ có những con người (hoặc thậm chí con vật, cây cối) có khả năng nhất định thì chi phối điều khiển được nó, bắt nó phục vụ theo ý của mình, chứ không thể sáng tạo ra nó cũng như tiêu diệt nó. Do đó không chỉ một mà nhiều người cùng có khả năng điều khiển một yếu tố tự nhiên.

Số lượng các vị thần thánh là nhiều vô cùng. Hầu như không có vị thần nào cai quản được tất cả những gì thuộc về mình. Thủy đức tinh quân cai quản về nước, nhưng khi nước do thần này đổ ra chảy xuống rồi thì cũng không thể thu lại, mà nước lại phải lấy từ sông hồ, do các Long vương cai quản. Hỏa đức tinh quân cai quản về lửa, có các vật dụng phóng hỏa, nhưng không có quyền với lửa trong lò bát quái, lửa tam muội nhà phật.

Các vị thần thánh trên trời chi phối những yếu tố thuộc về tự nhiên. Do sự du nhập của Phật giáo, rất nhiều thần thánh Trung hoa có gốc từ Ấn Độ, cũng định ra 33 tầng trời, mà vị vua là Ngọc Hoàng thượng đế, có vị trí là Thiên chủ giống như Đế Thiên Đế Thích (Indra) chứ không phải Đấng sáng tạo. Trên trời, một cơ cấu xã hội được định ra giống như dưới mặt đất. Có các thứ bậc cao thấp, có tranh chấp, chiếm đoạt, giết chóc, cũng lấy nhau sinh con đẻ cái. Có vị thần nhỏ bé hạ tiện phải hầu hạ vị thần cao cấp hơn, thưởng phạt, thăng quan tiến chức. Chư Thần hoàn toàn là một xã hội, một xã hội tưởng tượng mà người trần mơ ước, nơi họ làm những công việc theo quyền hạn và nghĩa vụ, và không.phải lo cuộc sống vật chất.

Bên cạnh thần thánh còn có bậc tiên. Đó là những người tu luyện đạt đến mức độ hòa nhập với thiên nhiên, trường sinh bất lão. Tiên không có chức vụ, tự do hơn thần nhưng cũng ít quyền lực hơn thần.

Các thiên thể trên trời đều có thần thánh cai quản. Nhưng họ cũng chỉ có vai trò là người đại diện. Sự chuyển động của các thiên thể không phải do họ quyết định, mà là tự thân thiên thể đó vận hành. Đường đi của Mặt trời, Mặt trăng không phải do Thái dương, Thái âm Tinh quân thay đổi được. Khi các vị này có việc rời khỏi “mảnh đất” của mình (do Ngọc Hoàng sai bảo chẳng hạn) thì các thiên thể vẫn di chuyển bình thường.

Trong cuốn truyện “Phong thần”, có thể thấy việc gán những con người vào với các thiên thể như thế nào. Vai trò các thần chỉ giới hạn ở việc cai quản sự vật với con người dưới mặt đất mà thôi.

Thần thánh tiên dù là bậc trường sinh bất lão và có thể bất tử, nhưng vẫn có một khái niệm bao trùm lớn hơn là Số Mệnh. Thậm chí có thể gọi đó là Thiên Mệnh, là Trời. Đó là quy luật khách quan, cái đã vận hành sinh ra vũ trụ, mà thần thánh cũng chỉ là một bộ phận nhỏ của tự nhiên, không thể nằm ngoài quy luật đấy.

Nếu Số Mệnh đã đến, thì Tôn Ngộ Không cũng có thể làm Thượng đế được.

(Khi có Phật giáo truyền vào, thì mới hình thành tư tưởng vượt ngoài vòng Số Mệnh đó).

Khi mới đến Trung hoa, các giáo sĩ phương Tây đã phải dùng danh xưng Thượng đế để gọi Đấng sáng tạo, sau đó mới đổi thành Thiên Chúa, để khác biệt với các vị Thượng đế vốn chỉ là các thần.

 

Một số thần thánh quan trọng

 

  • Ngọc Hoàng thượng đế: hiệu đầy đủ là Cao Thiên thượng thánh Đại từ Nhân giả Ngọc hoàng Đại thiên tôn Huyền khung Cao Thượng đế.
  • Trung thiên Bắc Cực Tử vi Đại đế (có người đồng nhất với Ngọc Hoàng)
  • Thác Tháp Lý thiên vương (Lý Tĩnh): đứng đầu về đánh trận
  • Tứ đại thiên vương gồm: Tăng Trường, Quảng Mục, Đa Văn, Trì Quốc, coi giữ 4 cửa trời Đông Tây Nam Bắc (4 vị này lấy từ Ấn Độ)
  • Cửu Diệu tinh quân: gồm Thái Âm, Thái Dương tinh chủ thiên vương đế quân và Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ tinh quân
  • Nhị thập bát Tú
  • Tam thập lục Lôi thần
  • Tứ trực Công tào: Thời (giờ), Nhật (ngày), Nguyệt (tháng), Tinh (năm)
  • Ngũ nhạc Thiên tề Đại đế
  • Tam thanh, Tứ đế, Ngũ lão, Lục ty, Thất nguyên, Bát Cực, Cửu diệu, Thập đô

 

 

(*) Thời Thái cổ, ngôi vị Hoàng và Đế chỉ dành cho các vị vua huyền thoại. Hai chữ này vốn có nghĩa là người được tôn quý ở bên trên (như mặt trời) và được mọi người nghe theo. Các vị Vua thời Thượng cổ Hạ Thương Chu xưng là Vương, Chữ Vương gồm 3 vạch ngang và 1 vạch dọc nối lại, với ngụ ý vua là người liên kết cả Trời ở trên, Đất ở dưới, và Người ở giữa. Khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, coi mình công vượt Tam hoàng, đức hơn Ngũ đế, nên mới ghép lại thành ngôi vị Hoàng đế.  Ngoài ra trong nghĩa cổ, Hậu cũng có nghĩa là vua, sau mới dành riêng để gọi phụ nữ.


Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.

Hoa Hạ

IP IP Logged
Hoa Hạ
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 19/Jan/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 968
Quote Hoa Hạ Replybullet Gởi ngày: 03/Feb/2012 lúc 8:57am

Cách cúng Giải Hạn Tam Tai năm 2012 – Nhâm Thìn


Theo phong tục và chiêm nghiệm của các nhà Chiêm Tinh xưa. Ngoài việc cúng Sao giải Hạn hằng năm, những tuổi gặp năm Tam Tai cũng nên cúng giải hạn, cụ thể như năm Nhâm Thìn (2012) thì có 3 tuổi như sau bị hạn Tam tai: Tuổi Thân, tuổi, tuổi Thìn.

Khi vào vận tam tai thì hay khốn đốn, trắc trở, vất vả. Đặc biệt là khi cả vợ chồng cùng nằm trong tam hợp tuổi nói trên vì đôi bên đều phải mệt mỏi cùng lúc.

Mức độ cộng hưởng sẽ làm ảnh hưởng nặng đến gia đình. Đó cũng là thiệt thòi của các tuổi hợp. Nếu vợ chồng không cùng tam hợp thì hạn rải rác sẽ đỡ áp lực hơn.

- Một số việc xấu thường xảy đến cho người bị Tam tai:

+ Tính tình nóng nảy bất thường.
+ Có tang trong thân tộc.
+ Dễ bị tai nạn xe cộ.
+ Bị thương tích.
+ Bị kiện thưa hay dính đến pháp luật.
+ Thất thoát tiền bạc.
+ Mang tiếng thị phi.
+ Tránh cưới gả, hùn vốn, mua nhà và kỵ đi sông đi biển.

Ba tuổi Thân, Tí, Thìn phạm Tam Tai vào ba năm Dần (đầu Tam Tai), Mão (giữa Tam Tai), Thìn (cuối Tam Tai). Ảnh hưởng xấu như sau:

+ Vào năm Dần (2010) thì gặp Thiên Linh Tinh Quân, hao vật tổn người, lây nhiễm bệnh nặng, bị người lường gạt.

+ Vào năm Mão (2011) phùng Thiên Hình Tinh Quân, bị pháp luật hình phạt hoặc tai nạn đâm chém, bị mỗ xẻ.

+ Vào năm Thìn (2012) ngộ Thiên Kiếp Tinh Quân, bị trộm cướp mất tài sản, tiền bạc, hoặc bị người áp chế, cưỡng bách làm việc phi nghĩa,thất đức.

CÁCH CÚNG GIẢI HẠN NĂM TAM TAI :

Ngoài cúng Sao giải Hạn hàng năm, những tuổi gặp năm Tam Tai cũng nên cúng giải hạn như sau:

Cúng Thần Tam Tai: Cổ nhân thường căn cứ Tam Tai rơi vào năm nào, ứng với năm đó có một ông Thần, và vào ngày nhất định hàng tháng, hướng nhất định tiến hành lễ dâng hương để giải trừ Tam Tai.

Xem bảng Tam tai của 3 tuổi: Thân, Tý, Thìn sau đây:

Năm Dần (2010): Ông Thiên Hình, cúng ngày 15, lạy về hướng Đông Bắc.
Năm Mão (2011): Ông Thiên Hình, cúng ngày 14, lạy hướng Đông
Năm Thìn (2012): Ông Thiên Cướp, cúng ngày 13, lạy hướng Đông Nam.

- Lễ cúng tại ngã ba, ngã tư đường, nhưng thời nay việc cúng tại ngã ba, ngã tư đường là việc khó coi, vì vậy đa số người ta cúng tại sân, chủ yếu là do tâm thành.

- Cúng vào ngày 13 âm lịch hàng tháng (hoặc ít nhất là tháng giêng và tháng bảy âm lịch).

+ LỄ VẬT CÚNG GỒM CÓ:

- Photo tấm bài vị theo mẫu của năm Nhâm Thìn (Photo trên bìa giấy đỏ, chữ màu đen).

- Bài vị này dán trên một chiếc que, cắm vào ly gạo, mặt có chữ của Bài vị đối diện với người đứng cúng, đặt ở giửa bàn phía trong cùng bàn lễ.

- Sau đây là Bài vị cúng giải hạn Tam tai năm Nhâm Thìn (2012):

bai%20vi%20tam%20tai%20nham%20thin%202012%20Cách%20cúng%20Giải%20Hạn%20Tam%20Tai%20năm%202012%20%20%20Nhâm%20Thìn

[*Phiên âm bài vị:- ( Đọc từ phải sang trái,trên xuống dưới)
- Bốn góc: Cung - Thỉnh - Hạ giáng - Chứng Minh
- Ở giữa: Mông Long Đại Tướng Thiên Kiếp Tam tai Thổ Ách Thần Quan
. ]

  ***********

- Gở ít tóc rối hoặc cắt chút tóc, cắt chút móng tay, móng chân của người mắc Tam Tai , gói lại với ít bạc lẻ, để trên 1 dĩa riêng trên bàn lễ.

- 1 bộ tam sanh (tam sênh) gồm có: miếng thịt luộc , con tôm luộc (hoặc tôm khô), trứng vịt luộc. Cúng lối chiều tối (18—19 giờ) cúng tại trước sân (hay ngã ba đường thì tốt hơn)

- 3 cây nhang -3 ly rượu nhỏ -3 đèn cầy nhỏ -3 điếu thuốc -3 miếng trầu cau -3 xấp giấy tiền vàng bạc -1 dĩa trái cây

-1 bình bông -1 dĩa gạo muối, hai bộ đồ thế (nam hoặc nữ).

+ SẮP XẾP BÀN CÚNG:

- Bình bông để bên phải (ngoài nhìn vô) , trái cây bên trái. Tiếp theo ở giữa , phía trước là lư hương, trong kế theo là 3 đèn, tiếp trong là 3 ly rượu, hàng kế là 3 ly trà, trong nữa là bài vị (cắm vào ly gạo, bề mặt có chữ quay về phía người cúng).

- Người cúng sắp đặt bàn sao cho mặt mình nhìn về hướng Đông nam , tức bài vị ở phía Đông nam , người cúng ở phía Tây bắc). Kế là một mâm sắp bộ tam sênh ở giữa, trầu cau, gạo muối, thuốc hút, giấy tiền vàng bạc để xung quanh .

- Cúng vị Thần nầy cho đến khi tàn nhang và đèn, xong rồi người cúng không được nói chuyện với bất cứ ai, đem gói tóc móng tay ra ngã ba đường mà bỏ, nhớ đừng ngoái lại xem, ít bạc lẻ nhớ để vào gói tóc , bỏ luôn Tóc và móng tay ( Phải là của người bị tam tai mới được ), khi vái cúng cho mình hoặc cho con cháu cũng phải nói rõ Họ tên của người mắc tam tai .

KHẤN VÁI:

Người cúng đứng đối diện với bài vị (tức là nhìn về hướng Đông )

Thắp nhang, đốt đèn, châm trà rượu, cầm nhang xá ba xá, quì xuống , đưa nhang lên trán, khấn :

“Nam-mô Mông Long Đại Tướng THIÊN KIẾP Tam Tai THỔ Ách Thần Quan , hạ giáng chứng minh.
Hôm nay là ngày 13 tháng …. năm Nhâm Thìn, con tên là ………………. tuổi:………….., hiện cư ngụ tại ……………………………………………………………………………………………………………………………….
Nay con thành tâm thiết bày phẩm vật, cầu xin “MÔNG LONG ĐẠI TƯỚNG THIÊN KIẾP TAM TAI THỔ ÁCH THẦN QUAN” phù hộ độ trì cho con và toàn thể gia đình được bình an mạnh khỏe, tai qua nạn khỏi, phiền não đoạn diệt, nghiệp chướng tiêu trừ, thường hoạch kiết tường, vĩnh ly khổ ách.
Thứ nguyện:- Âm siêu dương thới, hải yến hà thanh, pháp giới chúng sanh, tề thành Phật Đạo.
Phục duy cẩn cáo!”

- Xá ba xá, cắm nhang vào lư hương, lạy 12 lạy (cầu cho 12 tháng bình yên).
- Châm trà, rượu đủ ba lần. Đốt thuốc cúng. Thời gian chờ nhang tàn, giữ yên lặng, vái nguyện thêm âm thầm trong tâm…

* Chờ đến tàn hết nhang đèn, âm thầm lặng thinh , không nói chuyện với bất cứ ai, Xong, đem gói nhỏ ( tóc ,móng tay ,móng chân ) đốt chung với 3 xấp giấy tiền vàng bạc, vừa đốt vừa van vái cho tiêu trừ hết tai nạn. Tiền lẻ và gạo muối vãi ra đường. Chỉ mang bàn và đồ dùng (ly tách mâm …về) .Về đến nhà phải thay quần áo mới. Đồ cúng ai ăn cũng được (hoặc bỏ lại ngoài đường, không mang vào nhà) ,tuổi mình cúng không nên ăn.

- Ngoài việc cúng giải hạn Tam tai như trên, nếu ai thường xuyên làm việc thiện, hoặc thường xuyên phóng sanh cá, ốc… còn sống xuống sông, ao, bàu… thì việc hóa giải Tam tai càng hiệu quả nhanh và lại được hưởng âm phước vô lượng…


HH sưu tầm


Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.

Hoa Hạ

IP IP Logged
Hoa Hạ
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 19/Jan/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 968
Quote Hoa Hạ Replybullet Gởi ngày: 03/Feb/2012 lúc 9:13am
Hạn Cửu Diệu

Về tên sao, có tên gọi của sao và tước hiệu của người trụ trì ngôi sao đó. Tên gọi gồm La Hầu, Kế Đô, Thái Âm, Thái Dương, Kim Tinh, Mộc Tinh, Thủy Tinh, Hỏa Tinh, Thổ Tinh. Trong cổ thư cũng như Hán thư đều gọi như vậy. Tuy nhiên, hiện nay một số sách dịch (chủ yếu ở phía Nam) đã gọi tước hiệu của vị trụ trì thay vì tên sao.
Ví dụ: Tên sao là Kim Tinh, thì tên vị trụ trì là Kim Đức Thái Bạch Tinh Quân tên đầy đủ khi ghi trên bài vị là Tây Phương Canh Tân Kim Đức Thái Bạch Tinh Quân. Đây cũng chính là lý do người ta hay gọi là hạn Kim Đức hay hạn Thái Bạch.
 
Trong phần chú giải của hạn cửu diệu trong Lịch Phù Đổng 3.x có ghi rất rõ ràng về tên gọi, bài vị và cách khấn giải hạn sao. Nhân đây tôi cũng xin giới thiệu lại:

Lưu ý khi làm giải hạn sao:
  • Phải làm lễ ở ngoài trời,  thời gian vào buổi tối hàng tháng ứng với mỗi ngày của từng vì sao theo quan niệm là vị chủ trì của vị sao đó sẽ đi tuần.
  • Phải đặt ban thờ đúng hướng theo chỉ dẫn
  • Phải dùng giấy ghi bài vị đúng màu theo chỉ dẫn và viết đúng tước hiệu của vị chủ trì cần khấn cầu.
  • Phải dùng đèn hoặc nến xếp đúng theo đồ hình của vì sao cần khấn cầu
Dưới đây là sao, đặc tính và cách làm lễ:1. Thái Dương

Đồ hình

Hình%20ảnh

Đặc điểm năm hạn:


● Là sao chủ về hưng vượng tài lộc, tăng thêm nhân khẩu (hôn nhân hoặc sinh con). Có lợi cho nam, không hợp với nữ.
● Sao này là một Phúc tinh thường chiếu mệnh cho bên nam giới. Những năm gặp sao Thái dương chiếu mệnh thì làm ăn được phát đạt, thăng quan, tiến chức, gặp may mắn trong việc buôn bán, nhứt là vào tháng 6 và tháng 10 là hai tháng Đại cát.
● Bên nữ giới gặp sao này chiếu mệnh thì có nhiều sự hân hoan, có bạn hữu giúp đở về tiền bạc hay làm ăn được nhiều thuận lợi, người đàn bà có thai cũng được bình an, đứa trẻ được khỏe mạnh, mỹ miều và duyên dáng
● Các cô gái chưa chồng gặp sao này chiếu mệnh có thể có chồng năm đó
● Người già cả trên 6, 7 mươi gặp sao này chiếu mệnh đau ốm nhẹ cũng khó qua khỏi
● Đàn ông đi làm ăn đặng sáng suốt, đi xa có tài lợi đặng an khang
● Đàn bà làm ăn hay tối tăm, tháng 6, tháng 10 tốt, có tài lợi.

Cách làm lễ:

● Vào tối 27 hàng tháng, đặt ban thờ về hướng chính Đông. Trên ban thờ đặt 12 ngọn đèn (nến) bố trí theo các vị trí ngôi sao như hình vẽ.
● Bài vị: Giấy màu đỏ, viết tên Nhật Cung Thái Dương Tiên Tử Tinh Quân Vị Tiền
● Cách khấn: Cung thỉnh thiên đình Uất Ly Cung Đại Thanh Đan Nguyên Hải Cung Thái Dương Tinh Quân Vị Tiền.

2. Thái Âm:

Đồ hình

Hình%20ảnh

Đặc điểm năm hạn:

● Sao chủ về sự toại nguyện về danh lợi. Phụ nữ cần đề phòng về thai sản.
● Sao này thường đem lại cho nữ giới sự điều hòa, vui vẻ, hạnh phúc, tiền tài, làm cho được toại nguyện những ước mơ của mình
● Người đàn bà gặp sao Thái âm chiếu mệnh mà có thai nghén, nếu sinh con gái thì nết na thùy mỹ, duyên dáng, nghiêm trang, sau này sẽ trở thành một thiếu nữ diễm kiều, có thể là một trang quốc sắc thiên hương
● Còn sinh con trai thì lại có tánh tình nguội lạnh, bi quan, hiền hậu, đa cảm, ít nói, thích nghiên cứu những môn học khó khăn, có thể trở thành nhà toán học, triết học hay tu sĩ
● Còn bên nam giới gặp sao này chiếu mệnh thì được bạn bè phái nữ giúp đở nhứt là về tiền bạc vì sao này còn gọi là tài tinh
● Người chưa lập gia đình sẽ gặp những cuộc tình duyên kỳ ngộ hay sẽ có vợ vào năm này
● Đàn ông làm việc chi cũng đặng vừa ý, cầu danh tốt, cầu tài có tài lợi
● Tháng 9 làm ăn phát tài, tháng 11 kỵ


Cách làm lễ:

● Vào tối 26 âm lịch hàng tháng đặt ban thờ về hướng chính Tây, trên ban thờ đặt 7 ngọn đèn (nến) bố trí theo các vị trí ngôi sao như hình vẽ.
● Bài vị: Dùng giấy màu vàng, viết: Nguyệt Cung Thái Âm Hoàng Hậu Tinh Quân Vị Tiền
● Cách khấn: Cung thỉnh thiên đình Kết Lâm Cung Đại Thánh Đô Diệu Nguyệt Phủ Thái Âm Tinh Quân Vị Tiền.

3. Mộc Tinh:

Đồ hình

Hình%20ảnh

Đặc điểm năm hạn:

● Sao chủ về sự yên vui hòa hợp
● Sao này cũng là một Phúc tinh cho cả nam và nữ
● Người được sao Mộc tinh chiếu mệnh làm ăn gặp nhiều may mắn, có bạn mới, được thăng quan tiến chức, gặp quý nhơn giúp đở, đi thi cũng đậu, làm nhà cũng tốt, mở bày việc làm ăn không bị trở ngại
● Đàn bà có thai gặp sao Mộc tinh chiếu mệnh thì đứa trẻ sanh ra dầu trai hay gái tánh tình cũng cương nghị, quả quyết, nhẫn nại, điềm tỉnh, đứa trẻ sẽ được nổi danh sau này
● Nếu người thuộc mệnh Kim hay mệnh Mộc gặp sao này chiếu mệnh thì có phần trở ngại nhưng sao này là một Phúc tinh nên không hại gì
● Đàn ông hay bị đau con mắt, cưới gả tốt, ăn nói bình an, có tài lợi
● Đàn bà tháng chạp làm ăn phát tài lợi khá

Cách làm lễ:

● Vào tối 25 âm lịch hàng tháng đặt ban thờ về hướng chính Đông, trên ban thờ đặt 20 ngọn đèn (nến) bố trí theo các vị trí ngôi sao như hình vẽ.
● Bài vị: Dùng giấy màu xanh, viết: Đông Phương Giáp Ất Mộc Đức Tinh Quân Vị Tiền.
● Cách khấn: Cung thỉnh thiên đình Thanh Văn Cung Đại Thánh Trung Quang Triều Nguyên Mộc Tinh Quân Vị Tiền.

4. Hỏa tinh

Đồ hình

Hình%20ảnh

Đặc điểm năm hạn:

● Sao chủ về sự thủ cựu. Cần đề phòng thương tật, thai sản, nóng nảy, nói năng cẩn thận, tránh kiện tụng.
● Sao này vẫn hiền lành, đàn ông hay đàn bà gặp sao này chiếu mạng, mọi việc làm ăn đều được trung bình, chỉ có kỵ về khẩu thiệt vào tháng 2 và tháng 8
● Đàn ông phòng quan sự, ăn nói nên lựa lời, nuôi thú vật bất lợi.
● Kỵ tháng 2, tháng 8

Cách làm lễ:

● Vào tối 29 âm lịch hàng tháng, đặt ban thờ về hướng chính Nam, trên ban thờ đặt 15 ngọn đèn (nến) bố trí theo các vị trí ngôi sao như hình vẽ.
● Bài vị: Giấy màu đỏ, viết: Nam Phương Bính Đinh Hỏa Đức Tinh Quân Vị Tiền
● Cách khấn: Cung thỉnh thiên đình Minh Ly Cung Đại Thánh Hỏa Đức Vân Hán Tinh Quân Vị Tiền.

5. Thổ tinh

Đồ hình:

Hình%20ảnh

Đặc điểm năm hạn:

● Sao chủ về lòng trắc ẩn, đề phòng tiểu nhân, xuất nhập không thuận tiện.
● Rất hợp cho cả đàn ông và đàn bà thuộc mạng Thổ, nhưng năm gặp sao này chiếu mệnh thì trong tâm của người đó cảm thấy nổi buồn man mác, không có chủ định vững vàng, thường hay hoài nghi công việc làm ăn, không có hăng hái, song không gặp tai họa gì
● Người già cả năm gặp sao này mà bị bệnh thì lâu khỏi.
● Vì sao này là hung tinh, đi đâu cũng không thuận ý, đề phòng kẻ tiểu nhân, gia đạo không an, hay có chiêm bao mị mộng, kỵ nuôi thú, kỵ tháng 4, tháng 8, có việc lo buồn.

Cách làm lễ:

● Vào tối 19 âm lịch hàng tháng, đặt ban thờ về hướng chính Tây, trên ban thờ đặt 5 ngọn đèn (nến) bố trí theo các vị trí ngôi sao như hình vẽ.
● Bài vị: Giấy màu vàng, viết tên Trung Ương Mậu Kỷ Thổ Tú Tinh Quân Vị Tiền
● Cách khấn: Cung thỉnh thiên đình Hoàng Đại Thanh Thổ Địa, Địa La, Thổ Tú Tinh Quân Vị Tiền.

6. Kim tinh:

Đồ hình:

Hình%20ảnh

Đặc điểm năm hạn:

● Sao chủ về hao tài tốn của, không xứng ý toại lòng, đề phòng tai nạn bệnh tật.
● Sao này rất hung tợn hơn sao La Hầu, những người thuộc mạng Kim, mạng Mộc và mạng Hỏa đều Đại kỵ
● Chẳng biết bao nhiêu người bị tai nạn, tù tội, mất chức hoặc chết trong những năm có sao Thái bạch chiếu mệnh
● Cho đến việc làm nhà trong năm gặp sao Thái bạch chiếu mệnh cũng không tốt
● Nếu ai ăn ở mất âm đức, khi gặp sao này chiếu mệnh thì sẽ bị hoạn họa chẳng sai
● Vì sao này có kiết, có hung
● Đàn ông hay lo rầu rồi đặng khá, có quí nhân giúp đỡ
● Đàn bà hay đau ốm, vợ chồng hay tranh cải, ngừa tiểu nhân
● Kỵ tháng 5 và màu trắng, đàn bà nặng hơn

Cách làm lễ:

● Vào tối 15 âm lịch hàng tháng, đặt ban thờ về hướng chính Tây, trên ban thờ đặt 8 ngọn đèn (nến) bố trí theo các vị trí ngôi sao như hình vẽ.
● Bài vị: Giấy màu trắng, viết: Tây Phương Canh Tân Kim Đức Thái Bạch Tinh Quân Vị Tiền
● Cách khấn: Cung thỉnh thiên đình Hao Linh Cung Đại Thánh Kim Đức Thái Bạch Tinh Quân Vị Tiền.






Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.

Hoa Hạ

IP IP Logged
Trang  of 4 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.269 seconds.