Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn
Message Icon Chủ đề: Truyện ngắn -Tùy bút chọn lọc Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 14 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Hoàng Dũng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 08/Nov/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 592
Quote Hoàng Dũng Replybullet Gởi ngày: 05/Dec/2011 lúc 9:27pm
BẪY TÌNH


Thủy bỏ tờ báo xuống, gỡ cặp kính để lên bàn, đôi mắt từ từ khép lại. Nàng vừa đọc một cái tin trên tờ San Jose Mercury News, số ra Sunday, Nov. 6, 2011:
-
TEMPTATIONS AWAIT

Checklist for a trip to Vietnam: Visa, p***port, wife’s OK.
-
“Sài Gòn City, Vietnam -- The trouble for Henry Liem begins every time he prepares to return to his homeland.

Getting the required visa from the Vietnamese government is a breeze. It's the "second visa" -- from his wife worried that he will stray over there -- that requires diplomatic skills.

"My wife is always cranky every time I go," said Liem, a philosophy instructor at San Jose City College who visits Vietnam twice a year to teach at a university. "So I rarely disclose my upcoming trip until the last minute. It's pain minimization. The longer she knows, the longer I have to bear the pain."

Bài báo mở đầu bằng câu chuyện của ông Henry Liem nào đó. Ông này về Việt Nam mỗi năm hai lần để dạy triết cho một trường đại học. Không biết ông dạy triết loại gì mà khi xin visa, ông được xã hội chủ nghĩa cho nhập cảnh một cách thật dễ dàng. Tuy nhiên, ngoài cái visa do tòa lãnh sự việt cộng cấp để nhập cảnh, ông còn phải xin thêm một visa nữa để xuất cảnh: đó là cái visa chấp thuận để đi của bà vợ đầu ấp tay gối mỗi ngày.

Một điều nghịch lý là mỗi khi xuất ngoại, hầu hết mọi người đều lo xin visa sớm, để nếu có gì trục trặc, thì còn nhiều thời gian xoay trở. Trong khi cái visa thứ nhì của ông Henry Liem thì ngược lại: phải đợi đến giờ phút cuối ông mới nộp đơn, và không đợi bà vợ có đủ thời gian suy tính cản trở, ông cuốn gói dông cho lẹ!
-
Cả bài báo đại ý nói về tình trạng đàn ông Việt Nam ở ngoại quốc, khi trở về thăm quê hương, thường bị (hay được!) những cô gái tuổi còn rất trẻ tống tình một cách mãnh liệt. Cho dù là người đàn ông thuộc loại “quá đát, mỏi gối chồn chân,” cũng được các nường nhỏ bằng con cháu của mình chiếu cố một cách tận tình, lý do: tất cả chỉ vì tiền chứ không phải vì tình! Có tiền là các nường sẽ chiều chuộng tới bến. Chính vì cái đề tài “Fun for men, pain for women” nên ông ký giả người Mỹ John Boudreau bỏ công để viết và bài được đăng trên trang nhất ngày Chủ Nhật của tờ báo…

-----

Khoảng năm phút sau, để tâm tư lắng đọng, Thủy mở mắt nhìn lên trần, bài báo đã khơi lại tâm tư đau đớn của nàng…

Liếc nhanh về phòng ngủ của Xuân, người chồng của nàng gần bốn mươi năm, có lẽ ông ta còn ngủ, cũng có thể đã thức mà chưa ngồi dậy. Đã hai năm nay vợ chồng nàng ngủ riêng, mỗi người mỗi phòng, giờ giấc tùy hỉ chẳng ai để ý đến ai. Cứ tưởng sau bao năm làm lụng vất vả trên xứ người, vợ chồng nàng sẽ tận hưởng những gì do công lao hai người cực khổ xây dựng, được sống hạnh phúc bên nhau từng phút từng giây vào lúc cuối đời, nào dè…

-----

Năm 1954, nhờ thấy được sự tàn ác của cộng sản, gia đình Thủy nhanh chân lên máy bay đi thẳng vào Sài Gòn và định cư tại đó. Hơn nữa Bố nàng là một người khoa bảng cho nên được chính quyền miền nam nhanh chóng chọn để nắm một chức vụ quan trọng, lúc đó nàng chỉ là một “Cô bé Bắc Kỳ nho nhỏ.” Cuộc đời niên thiếu của nàng êm ả trôi qua tại miền nam nắng ấm. Nàng là nữ sinh TV, đọc dí dỏm là Trứng Vịt thay vì Trưng Vương.
-
Năm lên đệ nhị cấp, do sự giới thiệu của bạn bè, nàng quen biết Xuân, cũng là người bắc di cư, lúc đó Xuân đang học Chu Văn An, hơn nàng hai lớp. Bố của Xuân là một thương gia tương đối thành công tại Sài Thành. Cuộc tình học trò Chu Văn An Trưng Vương (CVATV) chớm nở từ đó.
-
Sau đó Thủy và Xuân đều học luật. Năm 1972, Xuân được bổ nhiệm làm Thẩm Phán của một tỉnh lỵ nhỏ ở miền Tây. Sáu tháng sau, đám cưới của Xuân và nàng được tổ chức linh đình tại Sài Gòn để kết thúc cuộc tình năm chữ : “CVATV” (Chết Vì Ăn Trứng Vịt.)

-----

Nàng theo Xuân về sống tại một tỉnh lẻ của đồng bằng miền nam. Với bằng cử nhân luật, nàng xin đi dạy tại một trường trung học để cho đỡ buồn, đồng thời có thêm lợi tức. Cũng nhờ khoảng thời gian sống gần gũi người miền nam và đám học trò thật thà chất phác, nàng cảm thấy thoải mái khi tiếp xúc với mọi người. Theo nàng nghĩ, người miền nam không có chiều sâu, cho nên không cần phải “đề phòng” như người miền bắc. Chỉ cần nói chuyện một lát, là có thể đoán được người đó nghĩ gì, nàng tự hào như vậy.

Nhờ vào chức vụ, Xuân được cấp cho một ngôi nhà xinh xắn bên cạnh một nhánh của sông Cửu Long. Cuộc sống êm ả mỗi ngày của Thủy như giòng nước trôi qua lại khi thủy triều thay đổi. Đứa con gái đầu lòng của nàng cũng sinh ra tại đây. Nhiều khi nàng ngồi im lặng hàng giờ để nhìn nước trôi mà trong đầu chẳng nghĩ ngợi gì hết. Cũng có lúc nàng cảm thấy nhàm chán vì cuộc sống quá êm đềm, nhưng bây giờ, sau bốn mươi năm cuộc đời, nàng thấy nhớ giòng sông năm xưa và thèm có lại những giây phút vô tư lự quý giá đó.
-
Cứ tưởng cuộc đời êm ả trôi qua, đầu Tháng Tư năm 1975, Bố nàng bất thần gọi điện thoại bảo vợ chồng nàng về Sài Gòn gấp, lý do theo Bố nghĩ: miền nam sẽ mất. Với kinh nghiệm hiểu biết về cộng sản, Bố hoảng hốt hối thúc mọi người chuẩn bị đi tỵ nạn thêm một lần nữa. Vợ chồng nàng không tin lắm vì lúc đó vùng đồng bằng vẫn an toàn không một thị trấn nào bị việt cộng chiếm đóng. Bố nàng phải nhiều lần thúc dục, nàng mới chịu ẵm con cùng chồng trở về Sài Gòn khi Quốc Lộ 4 được khai thông trở lại.
-
Cuộc đời đến với nàng một cách thật dễ dàng, trong khi quân dân miền nam vất vả ngăn chặn kẻ thù vào những giờ phút hấp hối, thì gia đình nàng đã tới Subic Bay ở Philippine, có thể nói là những người tỵ nạn đầu tiên đến căn cứ này. Tài sản của cả hai bên nhà nàng và chồng, coi như mang đi hết, ngoại trừ bất động sản. Sau hai lần tỵ nạn: từ bắc vô nam và từ miền nam sang Mỹ, Thủy không có cảm giác đau khổ của một người vì bất đắc dĩ phải lìa bỏ quê hương, đôi lúc nàng còn có cảm tưởng như là đi du lịch, chỉ sau khi rời khỏi trại tỵ nạn Camp Pendleton để định cư tại Orange County, thì nàng mới phải vật lộn với đời sống vật chất của xứ này. Trong những năm đầu, gia đình nàng được nhận trợ cấp của chính phủ, đứa con trai thứ nhì cũng chào đời lúc đó.

Lợi dụng thời gian được hưởng trợ cấp, vợ chồng nàng đã đi học lại. Năm 1980 Xuân ra trường với bằng kỹ sư điện và gia đình nàng dời lên San Jose vì Xuân nhận được việc làm với lương khá cao. Sau đó Thủy cũng nhận được một việc làm về accounting đúng với ngành nàng chọn học.

Thời gian trôi qua, nơi Thung Lũng Hoa Vàng, cặp vợ chồng Xuân Thủy không mấy chốc trở nên khá giả. Có lúc vợ chồng nàng làm chủ đến năm căn nhà vì biết đầu tư đúng lúc vào thị trường địa ốc.
-
Đến năm 2000, Thủy về hưu vì tài chánh không còn cần thiết để nàng phải lặn lội ra đi từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều nữa. Vả lại, với số bất động sản đã có, nàng đủ việc để ở nhà quán xuyến. Chỉ có chồng nàng là vẫn còn phải tiếp tục đi làm vì lợi tức cao nhờ lương hậu, cộng với bonus và stock hãng cho. Hơn nữa Xuân phải đi làm để có bảo hiểm sức khỏe cho cả gia đình.

Sau khi về hưu, Thủy được hưởng những giây phút thoải mái sau bao năm làm việc vất vả. Xuân, chồng nàng là một người đàn ông tốt, có trách nhiệm, yêu thương nàng và con cái một cách tuyệt đối. Cả thời gian lấy Xuân, nàng chưa bao giờ thấy chồng mình dối gạt hay làm những chuyện gì có lỗi với nàng. Đôi lúc nàng còn tự hào: nhờ “chăm sóc kỹ lưỡng,” nên Xuân không “thoát” được bàn tay phù thủy của nàng, con gái “Bắc Kỳ” mà…
-
Gia đình nàng và Xuân rất sùng đạo Phật. Sẵn có nhiều thời gian rảnh rỗi, nàng đi chùa để tô đắp niềm tin Phật pháp. Cả nàng và Xuân thường hay bỏ thời gian làm công quả cho chùa và dĩ nhiên cũng là người giúp đỡ tận tình nếu chùa bị kẹt về tài chánh. Cũng chính vì như vậy, vợ chồng Thủy là những người được kính nể đối với ban trị sự của chùa, tiếng nói của hai người rất được mọi người chú ý. Ban đầu, trong những cuộc tổ chức làm từ thiện, chùa đều mời vợ chồng nàng tham gia, sau đó với sự nhiệt tình, chùa nhờ vợ chồng nàng đảm trách tất cả.
-
Năm 2002, chùa đón tiếp một vị sư từ Việt Nam qua chơi. Sau nhiều lần tiếp xúc với vị sư này, vợ chồng nàng quyết định về Việt Nam lần đầu, hầu để nhìn tận mắt cảnh khốn khổ của những người nghèo, nhất là những trẻ mồ côi. Lần đó vợ chồng nàng quả thật động tâm khi thấy những nỗi khổ đau của người nghèo sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Sau khi trở về Mỹ, Thủy và chồng thành lập một hội từ thiện, kêu gọi lòng hảo tâm của mọi người để giúp những kẻ khốn khổ bên nhà. Nhiều lần tổ chức quyên tiền, văn nghệ gây quỹ và cả hai đã nhiều lần trở về mang lại bao nhiêu niềm hy vọng cho những người khốn cùng. Thủy và Xuân hăng say làm từ thiện vì nghĩ rằng sẽ để phước lại cho con cái.
-
Có một lần, trong một chuyến về Việt Nam, Xuân gặp lại một người bạn học cũ ở trung học. Tay bắt mặt mừng, cả hai đều thích thú kể chuyện ngày xưa lúc còn học ở Chu Văn An. Sau đó người bạn của Xuân mời vợ chồng nàng đi uống nước ở một quán, gần khách sạn nơi vợ chồng nàng đang trú ngụ. Quán nước này trông khá lịch sự, mặc dù các cô chiêu đãi ăn mặc cũng hơi… mát mẻ.

Lúc mới bước vào quán, Thủy để ý xem cảnh vật chung quanh, cảnh giác mọi hành động lẫn lời nói của mấy cô chiêu đãi. Mặc dù Xuân đáng tuổi bác của mấy cô này, nhưng Thủy không muốn cô nào có hành động lố lăng đối với ông chồng của mình. Nàng đã từng nghe rất nhiều lời bàn của mấy bà đã từng về trước… Có một bà bạn của Thủy kể lại rằng: khi vợ chồng bà vào một quán ăn, một cô chiêu đãi viên đáng tuổi cháu, gọi ông chồng đầu tóc bạc phơ của bà là anh và xưng em ngọt sớt. Bà bạn của Thủy nóng mặt lên lớp cô ta rằng: “Ông ấy đáng tuổi bác của cô mà dám gọi bằng anh xưng em?” Bà này nhận được câu trả lời của cô chiêu đãi: “Ở Việt Nam, chỉ có cha và những người già tới một trăm tuổi, mới được gọi Ba và Bác, xưng con, còn dưới một trăm tuổi thì chỉ đáng làm anh thôi.” Bà bạn của Thủy giận run lên mà chẳng nói được gì, chỉ còn biết hối chồng mình đi về!

Khi người bạn của Xuân gọi thức uống, một cô chiêu đãi buột miệng xưng em làm Thủy giật mình. Nàng trừng mắt nhìn cô ta làm cô này khựng lại, lí nhí thêm vài tiếng rồi bỏ vào bên trong.

Vài phút sau, một cô chiêu đãi khác mang thức uống ra. Cô này có gương mặt hiền lành, dáng điệu hết sức khúm núm. Cô ta mời mọi người dùng nước và gọi vợ chồng nàng bằng bác, xưng con. Thủy nghe cách xưng hô, lấy làm hả dạ và có cảm tình với cô này ngay. Dưới mắt nàng cô gái gợi lại hình ảnh những đứa học trò thật thà chất phát của nàng ngày xưa, lúc nàng đi dạy ở trung học.
-
Trong khi Xuân và người bạn đang kể lại những kỷ niệm năm xưa, thì thình lình có tiếng ồn ào chửi bới làm náo động cả quán, cùng lúc đó, một tên thanh niên hùng hổ bước vào gọi tên Mẫn. Hắn ta chửi bới đòi Mẫn phải đưa tiền cho hắn. Người con gái mặt hiền lành mang nước cho nàng lúc nãy sợ hãi bước ra, thì ra cô ta tên Mẫn.

Tên thanh niên vừa trông thấy Mẫn là tiến tới nắm áo, tát vào mặt nàng một cái nẩy lửa. Mẫn chới với không biết phải làm sao. Tên này bèn giật cái ví từ tay của Mẫn, lục soát lấy hết tiền rồi ném trả cái ví vào mặt nàng, xong xuôi hắn bỏ đi. Trước khi rời quán, hắn không quên hăm dọa là sẽ trở lại lấy thêm…
-
Cảnh tượng xảy ra làm Thủy thật bất mãn, nàng chưa bao giờ thấy một người đàn ông vũ phu đánh một người con gái yếu đuối như tên này. Nhìn vào góc nhà, Thủy thấy Mẫn đang ôm mặt khóc nức nở. Động lòng trắc ẩn, nàng đến hỏi thăm và vỗ về, đồng thời hỏi xem sự tình. Mẫn kể lể, người đàn ông đó là chồng của cô. Hai người lấy nhau bốn năm, có một đứa con gái. Vì chồng cô bị nghiện ngập lại mắc thêm tật cờ bạc, nên cả gia đình bị tan nát. Hắn ta còn lén lút đem cầm miếng đất hương hỏa trong đó có cái nhà của cha mẹ nàng ở dưới quê. Vì muốn chuộc lại miếng đất đó, nàng phải giao con cho mẹ giữ để lên Sài Gòn tìm việc làm. Đã vậy mà Mẫn cũng không được yên, thỉnh thoảng hắn tới đòi đưa tiền cho hắn. Mẫn đã nhiều lần thay đổi chỗ làm, nhưng rồi hắn vẫn tìm thấy. Nói xong Mẫn khóc sướt mướt làm Thủy cảm thấy đứt ruột, lòng xót xa thương hại cho một người con gái thật vô phước.

Sau khi biết rõ sự tình, Thủy sanh lòng hảo tâm, rút trong túi quần ra tờ một trăm đô la dúi vào tay Mẫn, coi như là làm một việc từ thiện. Khi nhìn thấy một trăm đô la Mỹ, Mẫn hoảng hốt đưa lại cho Thủy, nói là không dám nhận sự giúp đỡ của nàng. Cho dù Thủy nói cách nào Mẫn vẫn một mực từ chối và nói: con không dám nhận tiền của bác.

Vì tính thật thà của Mẫn, Thủy càng thấy mến người con gái đáng thương này nhiều hơn. Sau đó Thủy hỏi Mẫn là bây giờ cháu tính làm sao. Mẫn trả lời là không biết phải tính sao nữa, vì chồng nàng đã biết chỗ này rồi, thì nàng phải đi tìm chỗ khác để làm. Hơn nữa chỗ ở của Mẫn cũng bị người chồng vũ phu tìm thấy, cho nên cô ta cũng phải tìm nơi khác trú ngụ.

Đã lỡ mở lòng hảo tâm, Thủy không nỡ bỏ rơi Mẫn. Một ý nghĩ thoáng qua đầu, nàng chực nhớ trong chùa, nơi nàng hợp tác làm từ thiện có một phòng trống. Họ vẫn thường mời vợ chồng nàng đến ở mỗi khi về Việt Nam. Nàng hỏi Mẫn: “Nếu cháu không ngại, bác sẽ gửi cháu vào một chùa để tránh chồng của cháu?” Sau một hồi phân vân, Mẫn đồng ý theo Thủy về chùa.

Sau đó, mỗi lần vợ chồng Thủy về Việt Nam làm từ thiện, Mẫn là một trợ tá đắc lực trong mọi công tác. Cô ta hiền lành giữ đạo làm con nên vợ chồng Thủy càng tin tưởng và thương Mẫn nhiều hơn.
-
Sự việc bắt đầu xảy ra là có một lần, trước ba ngày khởi hành về Việt Nam, Thủy bị đưa vào nhà thương cấp cứu vì bị đau ruột dư. Sau hai ngày nằm bệnh viện nàng được về nhà, sức khỏe không có gì nguy hiểm, chỉ cần thời gian bình phục. Vì công việc từ thiện dính líu đến nhiều người, không thể hoãn lại được, nên Thủy bảo chồng đi một mình. Lần đó đáng lẽ chồng nàng chỉ phải ở lại có một tuần, nhưng Xuân đã ở lại đến ba tuần mới về, với lý do: chậm trễ giấy phép của chính quyền. Sau khi Xuân trở về Mỹ, Thủy thấy cử chỉ và hành động của chồng rất khác thường: Xuân như bị mất hồn, tâm trí như ở đâu đâu và dáng dấp trông thật mỏi mệt. Nàng tưởng là Xuân quá vất vả vì công việc, nên lo săn sóc chồng một cách chu đáo… Thật sự Thủy có ngờ đâu, lần vắng mặt của nàng đó, là lần người con gái hiền lành mà nàng thương mến giúp đỡ, đã ngã vào lòng người “bác” kính yêu và âu yếm xưng “em” với chồng của nàng một cách nũng nịu!

Thật ra, lần về làm từ thiện này của Xuân chỉ cần có một tuần, nhưng chỉ ba ngày sau Xuân đã ôm trọn người con gái tuổi còn nhỏ hơn con mình trong vòng tay mà chính chàng cũng không ngờ! Sự việc xảy ra quá bất ngờ nên Xuân không biết phải xử trí ra sao. Sau đó Mẫn đòi ra ở riêng, vì nếu còn ở lại chùa thì thế nào chuyện cũng đổ bễ. Hai tuần về trễ cũng vì Xuân phải ở lại sắp xếp chỗ ở cho Mẫn.
-
Sau lần đó, người chồng thân yêu của Thủy có những cử chỉ khác thường. Đôi lúc Xuân tỏ vẻ yêu thương nàng một cách nồng nàn, đôi lúc thì xa vắng như hồn về cõi khác. Xuân thường hăng say nhắc đến việc về Việt Nam làm từ thiện, chàng còn tỏ vẻ quán xuyến tất cả mọi việc để Thủy không phải lo. Hơn thế nữa, Xuân thường hay ỡm ờ là nếu Thủy không khỏe thì cứ để chàng lo cho cũng được.

Cũng vì hoạch định một chương trình từ thiện quy mô, nên hai tháng sau Xuân trở về Việt Nam, xui một điều là Thủy lại để chồng đi một mình! Lần này theo chương trình, chồng nàng sẽ ở đến ba tuần. Khi ra đi Thủy thấy mặt chồng hớn hở thì nghĩ rằng: đó là cái phúc hậu của người làm từ thiện!

Sau khi Xuân về Việt Nam được hai tuần, vào một đêm, Thủy nhận được một cú điện thoại, người gọi nàng là vị sư cô quản trị của chùa…
-
Để có yếu tố bất ngờ, Thủy tức tốc về Sài Gòn mà không báo cho chồng biết. Sau khi rời phi trường Tân Sơn Nhất, Thủy đến ngay khách sạn nàng thường hay ở để tìm Xuân. Không thấy chồng mình ở đó, Thủy bèn đến chùa ngay, cũng không gặp Xuân, đồng thời nàng mới biết là Mẫn đã dọn ra từ hai tháng trước. Đến bấy giờ nàng mới gọi điện thoại tìm Xuân, điện thoại không trả lời. Cùng đường, nàng đành trở về khách sạn nghĩ cách tìm chồng, tâm can như bị thiêu đốt.

Một ngày sau, có lẽ có người thông báo cho Xuân, chồng nàng hớt hải xách vali hành lý đến khách sạn tìm nàng. Gặp mặt chồng Thủy giận quá muốn xỉu, miệng mấp máy nói không ra lời. Sau cùng nàng cũng ráng hỏi Xuân đi đâu, Xuân ấp úng trả lời là đi phân phát quà từ thiện ở Bình Tuy. Nhìn mặt Xuân, nàng biết ngay đó là lời nói dối, bởi vì người chồng bao nhiêu năm nàng ôm ấp không có cái khuôn mặt trơ trẽn như vậy! Thủy òa lên khóc nức nở…
-
Biết là không thể dối vợ được nữa, Xuân bèn nói thật. Chàng nói là cũng không ngờ tại sao Mẫn nằm trong vòng tay của chàng mà chàng không có cách nào chống cự, để rồi chuyện nó đến và tiếp tục tiến tới. Với số tuổi sáu mươi, Xuân biết mình không còn bao nhiêu sức lực để theo kịp Mẫn, nhưng không hiểu tại sao mỗi lần gần Mẫn, cô ta không bao giờ làm cho chàng có cảm tưởng là một ông già và lúc nào cũng tỏ vẻ chân thành cảm kích Xuân đã cho cô ta những giây phút sung sướng tuyệt vời…Mặc dù là vậy, lần này trở về, Xuân có thủ sẵn một hộp Viagra để giúp chàng có đủ sự tự tin của người đàn ông khỏe mạnh. Hộp thuốc này chàng đã bí mật nhờ một người bạn làm dược sĩ mua dùm, Thủy hoàn toàn không biết…
-
Xuân rón rén mở cửa rào để Thủy bước vào nhà, ngôi nhà nho nhỏ xinh xinh nằm trong một cái hẻm không sâu lắm. Đó là cái tổ uyên ương mà Xuân vừa mới tậu cho Mẫn được một tuần. Chàng gõ nhẹ cửa, cánh cửa mở ra, vợ chồng Thủy hết sức ngạc nhiên vì người mở cửa là tên chồng vũ phu đã đánh Mẫn tại quán nước. Hắn ta tỏ vẻ là chủ nhân mời vợ chồng nàng vào nhà. Sau khi vợ chồng Thủy ngồi xuống, hắn ta chọn một cái ghế ngồi đối diện, dáng điệu trông rất xấc xược. Lúc đó Mẫn đứng phía sau của hắn, gương mặt có vẻ ngại ngùng nhưng không còn nét hiền hậu như những lần gặp trước. Trên môi cô ta, điểm nhẹ một nụ cười khó hiểu. Thủy nhìn giáp vòng rồi nhìn Mẫn hỏi:

“Mẫn, bác thương con như con ruột, sao con có thể làm nên chuyện như vậy?”

Mẫn tránh né không trả lời, tên chồng của cô ta bèn lên tiếng:

“Sẵn đây tui giới thiệu cho hai bác biết, con nhỏ này tên Mận, chứ không phải Mẫn, nó là bồ của tui đó.”

Thủy đi từ ngạc nhiên này, đến ngạc nhiên khác. Nhưng lúc đó nàng mới khám phá ra rằng, đây là một âm mưu có tính toán từ đầu. Hắn ta tiếp lời:

“Nhân dịp này tui cám ơn hai bác đã cho tui gửi con Mận, bây giờ tui lấy nó lại.”

Thủy cứng họng, biết chẳng còn gì để nói, trong khi Xuân chồng nàng mặt mày thay đổi từ xanh qua tím, quả là một điều sỉ nhục. Thủy hậm hực đứng lên ra về, chồng nàng tiu nghỉu, tay chân run rẩy riu ríu theo sau…

-----

Kể từ lần sau cùng về làm từ thiện, Thủy đau khổ tột cùng vì sự phản bội của người chồng yêu quý. Tình cảm hai người hầu như không còn có thể hàn gắn lại. Còn Xuân thì mang một mặc cảm tội lỗi tày trời mà chàng tự nghĩ không thể nào tha thứ cho mình được. Đã nhiều lần chàng quỳ gối trước mặt Thủy khóc lóc van xin tha thứ. Đối với Thủy, người đàn ông mà nàng kính yêu trước kia, bây giờ trông sao hèn hạ quá! Nhục nhã quá!
-
Xuân đã xin nghỉ việc sau khi trở về. Chàng như một kẻ tàn phế từ thể xác đến linh hồn, không còn tâm tư để làm việc được nữa. Việc chùa chiền, làm từ thiện, vợ chồng nàng đều hoàn toàn chấm dứt.

Hai đứa con nàng thấy Bố quá tội nghiệp đều năn nỉ xin nàng tha thứ cho Bố. Vì thương con, hơn nữa chuyện xảy ra Thủy cũng có một phần trách nhiệm, nên lần lần Thủy cũng dịu lại. Xuân vì muốn chuộc lỗi lầm của mình nên lúc nào cũng chiều chuộng vợ một cách quá đáng, nhiều lúc làm Thủy bực mình, nhưng sau cùng nàng lại thấy tội nghiệp… Rồi thì vào một ngày đẹp trời, Thủy đã xiêu lòng và chuyện tình vợ chồng nàng bắt đầu nối lại. Số thuốc Viagra mà Xuân đã dùng vào việc “bất chánh” trước kia, phần còn lại, bây giờ lại có… chánh nghĩa.

-----

Đầu óc Xuân mơ hồ, tai nghe văng vẳng những tiếng xôn xao xa vắng. Đôi mắt chàng từ từ hé mở, nhưng phải nhắm lại ngay vì ánh sáng quá chói chang. Chàng không biết mình ở đâu, cũng không biết chuyện gì xảy ra. Định thần vài giây, chàng lại từ từ mở mắt, chưa kịp nhìn thấy gì thì đã nghe tiếng nói quen thuộc của vợ. Phải thêm chừng ba mươi giây nữa thì Xuân mới biết là mình đang nằm trong bệnh viện…Trong vòng hai tháng, đây là lần thứ nhì chàng bị xỉu và phải đưa vào cấp cứu.

Đã nửa năm nay, sức khỏe của Xuân không tốt. Chàng không nghĩ là mình có bệnh gì nguy hiểm, nhưng không hiểu tại sao cứ thấy mỏi mệt, nhức đầu, đau nhức, tay chân rã rời, con người không có sinh lực…

Vì thấy cái sân cỏ mọc quá cao, Xuân miễn cưỡng đi lấy máy ra cắt. Có lẽ vì nắng hơi gắt, cộng với trong người không được khỏe, nên khi làm nửa chừng chàng bị xỉu. Cũng may là Thủy đang ở gần đó, nên vội vàng gọi xe cứu cấp đưa chồng vào nhà thương. Thủy hoảng hốt sợ chồng mình bị stroke mặc dù lần trước đã không phải. Sau khi nằm ở phòng cấp cứu được năm giờ, Xuân được cho về vì không thấy gì nguy hiểm. Tuy nhiên vì đây là lần thứ nhì, nên bác sĩ cấp cứu khuyên chàng nên gặp bác sĩ riêng của mình để được theo dõi kỹ hơn…
-----
Xuân bước vô nhà, buông người ngồi phịch xuống sofa, tay ôm mặt khóc, chàng thấy cả thế giới chung quanh mình sụp đổ. Xuân tự hỏi: tại sao ông Trời lại có thể tàn nhẫn với chàng như thế được? Sau nhiều cuộc thử nghiệm, kết quả sau cùng bác sĩ có câu trả lời: chàng bị nhiễm trùng HIV, tình trạng trên đà bộc phát! Thêm một hậu quả tai hại do lỗi lầm của chàng gây ra hơn năm năm về trước! Dù có hối hận, tìm cách chuộc lỗi, nhưng đã muộn rồi! Thủy có thể tha thứ cho chàng, nhưng với cái bệnh nan y thời đại, cái giá mà Xuân phải trả thật là quá đắt!

-----

Thủy nhìn lên bàn thờ Phật, tâm tư thật hỗn loạn. Nàng không biết là mình nên cầu cứu với đấng Bồ Tát, hay là trách cứ Ngài. Cả gia đình nàng hoàn toàn bị sụp đổ khi khám phá ra rằng: nàng cũng bị nhiễm trùng HIV do chồng truyền sang! Còn gì tệ hại hơn nữa không? Chắc là không, theo nàng nghĩ!

Kể từ thời niên thiếu, cuộc đời của Thủy êm ả trôi qua, chỉ phải chịu cực đôi chút vì cuộc sống vật chất trên đất Mỹ, nhưng nói chung nàng luôn nhìn đời là màu hồng.

Cứ tưởng rằng với thành quả đạt được sau bao năm vất vả, về hưu, nàng sẽ sống phần đời còn lại một cách thoải mái trong tình yêu gắn bó của gia đình. Nào ngờ tất cả đều sụp đổ kể từ khi vợ chồng nàng bắt đầu… làm từ thiện!

Trách ai đây? Bồ Tát chăng?

Nhiều khi quẩn trí nàng có ý đó, nhưng rồi lại sợ xúc phạm tới đấng thiêng liêng mà bao năm gia đình nàng đặt hết niềm tin.

Trách con Mận và thằng bồ của nó chăng?

Đúng, nếu không có con Mận và thằng bồ của nó bày mưu lập kế, thì người chồng đi ngay về thẳng của nàng đâu có phạm phải một lỗi lầm tày trời như vậy!

Trách Xuân, chồng nàng chăng?

Cũng đúng nữa. Tại sao người chồng của nàng lại dám phản bội nàng đi ngoại tình với một đứa con gái tuổi còn nhỏ hơn con mình? Nàng không bao giờ tin chuyện đó có thể xảy ra được! Vậy mà nó xảy ra!

Trách nàng chăng?

Chuyện xảy ra quá đau khổ, nghĩ tới cái gì, nàng trách cái đó, nghĩ tới người nào nàng trách người đó, trong đó có cả nàng:

Nàng trách mình tại sao về hưu sớm, để có quá nhiều thời gian đi chùa, từ đó mới bày đặt đi làm từ thiện!

Mà muốn làm từ thiện cũng không sao, nhưng tại sao phải về Việt Nam? Xứ Mỹ này cũng lắm người cần giúp đỡ kia mà?

Nàng trách nàng quá dại dột đã để người chồng hiền lành không kinh nghiệm tình trường đi một mình! Chỉ cần một chút mánh khóe của con Mận là đã hồn bay phách tán, quên mất đường về!

Nàng trách nàng quá khờ dại tin người. Trách mình quá tự tin: nhìn bề ngoài của một người miền nam, mà tin là đoán được những gì họ nghĩ trong đầu, như nàng đã từng tự hào khi còn theo chồng dạy học ở miền tây tỉnh lẻ. Nàng không ngờ sau ba mươi năm xa quê hương, vật đổi sao dời, xã hội Việt Nam đã bị nhiễm độc nặng, trong đó, những đứa con gái thật thà miền nam cũng cùng số phận!

Nàng trách, nàng trách tất cả, trách để trút bỏ cái tức, xả bỏ cái hận, trách cho vơi nỗi niềm, trách để đổ lỗi tại cái này, vì người kia, nhưng rốt cục, càng trách nàng càng thấy đau khổ.

-----

Tiếng chuông thanh thoát chấm dứt phần đọc kinh buổi sáng, Thủy nhẹ nhàng để cây chày xuống bàn, ngước mắt nhìn lên bức hình Phật Tổ Như Lai, hai tay chắp trước ngực, nàng lâm râm khấn vái thêm vài phút trước khi đứng dậy. Ngày hai buổi thành tâm tụng niệm, rốt cục Thủy dần dần tìm thấy sự an bình cho tâm hồn. Một điều Thủy khám phá ra rằng: không phải cứ đi chùa thường xuyên là tu. Cũng không phải cho người ta nhiều tiền là làm từ thiện, có nhiều phước. Càng không phải đọc kinh cho hay, lạy cho nhiều là trở thành một người tu hành có cấp bậc cao, để được người khác kính trọng...

Tất cả là duyên, là nghiệp hay nói nôm na là cái số. Phật ở trong tâm của ta. Phật ở trong tất cả hành động sinh hoạt hàng ngày. Phật ở tất cả mọi nơi. Điều quan trọng nhất là tâm hồn phải vị tha, luôn thành tâm hướng thiện. Mọi việc đã có tạo hóa an bài…

Nàng đã ngộ.
-----

CHÚ THÍCH:
Vì một cái duyên, tôi biết được câu chuyện. Bài báo của ký giả John Boudreau là động lực thúc đẩy tôi kể lại. Hy vọng nó sẽ đóng góp vào kho tàng vô tận“Chuyện Dài XHCN.”
Vì là chuyện dài xhcn, nên còn rất nhiều mánh khóe hấp dẫn mình chưa thấy hết. Theo tôi nghĩ: nếu còn “Khúc Ruột Ngàn Dặm,”thì mình sẽ còn được thưởng thức những câu chuyện cười ra nước mắt! Xin chúc tất cả may mắn!

2011
Lạc Long Huỳnh Quốc Phú
Đầy ly cạn , ru đời biệt xứ
Cạn ly đầy , quên kiếp lưu vong
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 12/Dec/2011 lúc 1:51pm

Truyện ngắn hay, viết về Dalat, Thành Phố Sương Mù
*****


Bay Cao Lên, Những Thiên Thần Bằng Sành

Người viết : Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh



Trước 1975, Cam Li  từng viết nhiều truyện ngắn trên bán nguyệt san Tuổi Hoa,  và các truyện dài xuất bản bởi Tủ Sách Tuổi Hoạ - hiện có trên trang mạng: http//tuoihoahatnang.com. Sau 30/4/1975, Cam Li không viết nữa, chỉ chuyên làm công việc nghiên cứu khoa học. Định cư tại San Jose từ 2003, sáu năm sau cô  góp cho giải thưởng Việt Báo nhiều  bài viết giá trị và nhận giải  vinh danh Tác Phẩm Xuất Sắc, Viết Về Nước Mỹ 2010,


1
Bé Thơ trở về khi mùa đông gần tàn lụi. 
“Bé Thơ” vẫn được gọi là “Bé” khi về đến mái gia đình. Bởi “Bé” xa nhà đã ba mươi năm, khi còn là một cô nhóc đang học những năm đầu bậc trung học. Mà không riêng gì Bé Thơ, hầu như mỗi cô cậu nhóc trong khu xóm này đều có một cái tên để gọi ở nhà. Tên Bé Thơ là còn đẹp đấy, vì Thơ là tên đi học. Có một số đứa tên Xí, tên Tèo, tên Tí, tên Cu… nghe thì tức cười và không ai muốn được gọi bằng những cái tên đó khi lớn lên vì mắc cỡ. Bé Thơ, tên gọi ở nhà, đã thành một chữ kép. Và cái tên đó nghe không mắc cỡ.
Anh chị Danh đón Bé Thơ về nhà ngay bằng chiếc xe Simca cà tàng, loại thịnh hành từ trước năm 75. Không có máy điều hòa, chỉ có chiếc quạt máy nhỏ xíu gắn ngay bên hông tài xế làm mát cho cả xe. Nhưng không cần mở chiếc quạt này, vì trời đang là cuối đông, và không khí lúc càng lên cao càng mát lạnh. Bé Thơ đang về lại nhà xưa.
Sương mù! Sương mù đầy cả! Bé Thơ reo lên như đứa con nít. Đã lâu không được hưởng cái cảm giác đi trong sương mù. Bé Thơ nhớ có những khi anh Danh gò lưng đạp xe đạp chở Bé đi học, lên con dốc cao, bỗng anh phải dừng lại vì sương mù từ đâu ập tới làm anh không thấy đường. Sương mù những ngày mùa đông như đám bông gòn xốp, vây lấy hai anh em. Thế là Bé Thơ tha hồ tóm lấy, mà tóm có được đâu! Sương mù lại bay đi nơi khác rất nhanh.
Nhà xưa đây rồi! Căn nhà nhỏ ở giữa một con dốc rất đẹp. Căn nhà thuở ấu thơ của anh em mình đây, không thay đổi bao nhiêu. Chỉ có một điều mới, đó là phía trước có thêm một lò gốm. Anh Danh bảo gọi là “lò gốm” cho oai chứ đó chỉ là một cái lò gốm mi-ni, lò gốm tí hon, anh chị chỉ sản xuất những món đồ trang trí chứ không có sức để làm ra những hũ bình lu khạp to lớn. Bé Thơ reo lên khi trông thấy những bức tượng búp bê, những con thú, những đồ chơi đủ loại dành cho con nít. Anh Danh hẳn đã có một cách sinh sống khá an nhàn. Nhưng hay hơn hết, là anh đang sống với cái thế giới trẻ thơ do anh tự tạo ra.
Và đây rồi! Những thiên thần bằng sành!
Bé Thơ òa khóc. Những thiên thần nhỏ nhắn xếp tăm tắp bên nhau, anh Danh sắp đầy trong một cái tủ. Không phải là hai mươi, mà dễ có đến mấy trăm. Bé Thơ thương anh Danh quá! Ngày xưa, ngày Bé Thơ còn là đứa bé con sắp “tốt nghiệp mẫu giáo”, anh Danh đã làm cho Bé những thiên thần bằng sành. Hai mươi thiên thần. Đúng số tuổi hai mươi của anh. Số tuổi quá đẹp của đời người. Anh đã vội vàng bỏ Bé mà đi trong một buổi sớm mùa đông. Bé thức dậy reo vui khi thấy những thiên thần mơ ước của mình. Một mảnh giấy đặt bên cạnh những thiên thần đó với nét chữ của anh Danh: “Anh là Ông Già Nô-en, đêm nay đến tặng cho bé Thơ món quà này. Ông Già Nô-en hết tiền, nên chỉ cho bé hai mươi thiên thần bằng sành. Cho bé ngoan mãi”. Anh đã đi thật sớm. Đã đến ngày anh đi rồi! Tượng thiên thần thứ hai mươi chưa hoàn thành. Có một cái cánh gắn chưa kỹ vào vai. Dù thế, Bé vẫn cho nó nhập bọn với những tượng kia. Bé sắp cho các thiên thần đứng chung với nhau thành một dãy dài trên bàn học. Bé ngắm những đồ chơi đó và mỉm cười một mình. Tự nhiên Bé thấy nhớ anh Danh kỳ lạ. Khi đó anh đang đi ở một nơi nào. Anh không có mặt ở nhà để thấy Bé vui với những thiên thần nhỏ. Anh đi xa rồi! Bé phải đi học với chị Thi. Và những hôm chị Thi bận, Bé phải đi học một mình. Bé leo về con dốc cao, đường có nhiều hoa Cúc, dừng lại một chốc ở trước lò gốm. Người ta đang tiếp tục làm những chén đĩa hũ bình, phơi đầy sân và chờ đem bán. Lúc đó Bé muốn reo lên cho người ta biết rằng chưa có ai nghĩ ra việc làm những thiên thần bằng sành cho trẻ nhỏ. Chỉ có anh của Bé mới làm được mà thôi. Người ta sẽ hỏi rằng anh của Bé là thợ trong lò gốm, là họa sĩ hay là nhà điêu khắc? Bé sẽ đáp rằng anh của Bé chỉ là một người biết đạp xe đạp chở em đi học và biết mua kẹo cho em ăn. Kỷ niệm của anh Danh và Bé là đó!..
- Bé Thơ! Nín đi! Bây giờ Bé không cần ao ước nữa nhưng cũng có đến mấy trăm thiên thần. Bao nhiêu năm qua, cứ đến Nô-en thì anh lại ra sức làm những thiên thần bằng sành cho Bé, nghĩ đến một ngày Bé trở lại, Bé sẽ được vui với món quà này.
- Anh Danh, Bé cám ơn anh.
-Anh em mình mà!
-Anh Danh, ngày xưa mỗi năm nhận được quà Nô-en, Bé chỉ nói cám ơn Ông Già Nô-en mà không cám ơn anh. Bây giờ Bé phải nói cám ơn anh mấy chục lần. Nhiều thiên thần quá, Bé chắc phải đóng đến năm bảy thùng để đem đi đó!
Hai anh em ôn lại những kỷ niệm xưa tưởng chừng vô tận.

2
Anh Danh dẫn Bé Thơ đi thăm “lò gốm” của anh, cái lò gốm chỉ làm toàn những đồ chơi và hàng trang trí. Anh nói như mơ màng trở về kỷ niệm:
- Bé Thơ biết không, ngày xưa anh nặn tượng thiên thần tặng Bé, vì là thợ gốm “tay ngang” nên không để ý rằng đồ sành sứ phải được nung lên thì nó mới bền chắc, nếu không thì sẽ nứt gãy. Cái lò gốm này, tuy “mi-ni” nhưng anh theo rất đúng quy trình của một nơi sản xuất gốm nhà nghề. Anh học một ông thầy tốt, truyền hết kinh nghiệm cho anh, và cũng là người giúp anh xây dựng cơ ngơi này, nhờ đó anh chị không đến nỗi chết đói. Hai vợ chồng làm lụng nuôi nhau, thế là vui.
- Bé cũng vui vì anh chọn ở lại và… không bị đói.
- Trời thương anh, Bé ạ! Ngày đó khi ba má dẫn các em đi, anh chọn ở lại vì không muốn mình trở thành gánh nặng cho gia đình trên bước đường trốn chạy và cả lúc về sau. Anh biết mình sẽ gặp khó khăn rất nhiều vì ở lại anh không được ai giúp đỡ hết. May mắn anh đã gặp chị, người con gái mồ côi trong chiến tranh, anh chị sống nương cậy nhau và lập nên cái lò gốm nhỏ này. Chị giúp anh rất nhiều đó! Trong những năm tháng đầu tiên, chị lái xe gắn máy đi chở đất về cho anh làm. Bây giờ anh chị sắm được chiếc Simca cà tàng của một gia đình đi định cư bán rẻ lại nên… anh lái. Mất một chân thì không được lái xe gắn máy nhưng được lái xe hơi, Bé thấy vui không?
Bé Thơ nghẹn ngào nhìn chân anh Danh, cái chân đã mất. Anh Danh mất chân trên chiến trường sau ngày ký Hiệp định Paris năm 73. Cánh Dù đã rơi. Thiên thần Mũ Đỏ trở thành phế binh sau ngày “hòa bình” vì chiến tranh vẫn còn tiếp diễn. Cái ngày anh Danh trở về với cái chân đã mất, anh nói rằng anh không thể đạp xe chở Bé Thơ đi học được nữa. Bé đã khóc ròng vì thấy thiên thần phải chịu đớn đau. Chiếc xe đạp ngày xưa anh còn giữ trong cái kho sau nhà. Sườn xe, dây xích, “ghi-đông” đã rỉ sét hết. Hai bánh xe xẹp lép. Chỉ còn giữ lại những tiếng quay đều như reo vui khi Bé Thơ quay chiếc bàn đạp ngược chiều. Hai anh em theo tiếng quay đều ấy ngược về kỷ niệm.
Và họ cùng bắt tay vào nặn tượng những thiên thần. Ngày xưa anh Danh đạp xe đi xin đất ở lò gốm, về nắn tượng, tô mầu, và thế là xong. Ngày nay đã trở thành thợ “nhà nghề”, anh Danh chọn mua đất sét thật tốt, khi muốn làm thì phải đập đất nhỏ ra, phun nước vào đất sét, nhào trộn rồi ủ qua một đêm, hôm sau mới đem ra, trộn đất với cát mịn rồi nhào cho nhuyễn trước khi nắn tượng. Nắn tượng thành hình dáng xong anh lại mang phơi dưới nắng một buổi cho khô bớt, rồi nhúng men, để khô, vẽ trang trí, rồi lại phơi nữa cho khô hẳn rồi mang đi nung. Bé Thơ biết làm giống như anh rồi! Bây giờ những sản phẩm đủ loại của anh, từ con heo “tiết kiệm”, cái tráp đựng nữ trang, cái hũ đựng tiêu hay muối cho đến những cái lọ đựng bút, những chiếc bình cắm hoa trang nhã… sẽ trở thành quà để các Ông Bà Già Nô-en mua về cho trẻ con. Những hang đá Giáng Sinh sẽ vui lên với các thiên thần nhỏ. Bé Thơ sẽ hưởng một mùa Giáng Sinh đầy yêu thương nơi này.

3
Mấy anh chị em đi mua đất sét, tiện thể anh Danh thăm một người bạn đồng ngũ lâu ngày không gặp, sống ở khu vực gần đó. Anh và chị thay nhau lái xe, còn Bé Thơ thì không, chẳng là anh Danh đã bảo Bé Thơ “về đây là phải treo cái bằng lái lên giàn bếp”.
Đi ra khỏi thành phố sương mù, mới thấy cả một vùng đất bao la. Thuở nhỏ Bé Thơ nào biết quê hương rộng như vậy. Những con đường dốc đầy đất đỏ trơn trợt, những hàng rào hoa quỳ nở vàng rực trong ngày đông, những buổi trời mưa giăng kín, những sáng sương mù mờ ảo, đó là “quê hương” trong tầm mắt của cô bé. Trở về quê hương sau nhiều năm xa cách, Bé Thơ tự hứa sẽ tìm thấy lại một quê hương to tát hơn, thoáng đạt hơn. Bé Thơ sẽ viết một ký sự về vùng đất này.
Đến nhà người bạn ở huyện Bảo Lâm, anh Danh thất vọng. Người bạn đã dọn đi. Anh đứng lại hỏi thăm. Những nhà hàng xóm cũng đang rục rịch dọn đi. Đi đâu? Họ tỏa ra nhiều phương hướng, nhường vùng đất này cho một dự án lớn. Ở đây làm sao sống?! Hoa màu do họ trồng trọt làm ra, cà phê và chè, đã bị nhiễm độc. Họ lắc đầu ngao ngán. Mấy anh chị em lên xe đi về hướng dự án đang thực hiện. Và chỉ được đứng ngó từ xa. Đây rồi, quê hương to tát của Bé Thơ! Một thung lũng hiện ra đỏ rực. Dưới đó, những chiếc xe lu, những chiếc máy gạt, máy xúc, xe chạy đất… hoạt động rì rầm, trông xa nhỏ như những chiếc hộp diêm. Chúng đang làm những công việc cuối cùng trong việc xây dựng hồ bùn đỏ!
Mấy anh chị em đứng chết sững. Một quê hương bị tàn phá. Đất thịt đang bị cày xới để bán đi. Màu đỏ của những con đường thơ mộng cũng là màu đỏ của “tài nguyên” đang bị bán. Bauxite!!! Mai đây bùn đỏ sẽ theo những vết rò rỉ tràn ra đầy cả vùng đất dân cư đang sinh sống. Cây cối sẽ chết. Con người sẽ phải bỏ chạy. Những điều Bé Thơ chỉ nghe, bây giờ hiện ra rất rõ trước mắt. Những tiếng động cơ từ xa vẫn vang vọng thấu óc. Đất đỏ màu máu nhức nhối như chảy ra từ tim.

4
Mùa đông sẽ tàn lụi, Bé Thơ biết như thế. Cả những cơn gió lạnh rồi cũng sẽ không còn. Còn một thứ vui thích của Bé ngày xưa là được nhận những món quà của “Ông Già Nô-en” cũng không còn nữa. Bé Thơ đã lớn, đã làm Ông Già Nô-en cho những đứa con của mình. Nhưng ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh bao giờ cũng trọn vẹn. Vì Bé biết trong những ngày chuẩn bị cho Giáng Sinh, những thiên thần nhỏ từ bàn tay anh Danh và Bé làm ra sẽ đến với các hang đá của thành phố này, trong những căn nhà nhỏ xinh xắn ở phố chợ, nơi ven đồi, hay bên bờ suối. Cho dù là ven đồi loang lổ vì bị cạo gọt cày xới, hay bờ suối nhem nhuốc uế nhiễm vì con người vô tâm, những người dân của xứ sở mù sương này vẫn là những con người thuần hậu. Cho dù những con đường sạch sẽ trong thành phố một thời thanh lịch đã được thay bằng những con phố rộng lớn nhưng lề đường bình an cho khách bộ hành lại chỉ còn dành cho xe cộ quán sá, người dân cũng biết co lại để tự bảo vệ lấy những gì tốt đẹp xưa của mình. Cho dù những ngôn từ lạ lẫm dùng tiếng lóng làm nền có tràn ngập trong sinh hoạt, người dân hiền lành cũng biết dạy cho con em mình những ngôn ngữ hiền hòa một thời làm nên phong cách của họ. Nhưng tội nghiệp lắm, mỏng manh lắm, cái sức đề kháng âm thầm đó!
Bé Thơ dành nhiều thời gian để đi thu nhặt hình ảnh về “quê hương to tát” của mình. Bé vẫn sẽ viết một ký sự. Nhưng chắc là ký sự này sẽ không thơ mộng một chút nào. Ký sự sẽ nói thật rõ về những vùng-đất-thịt bị cày xới bán rẻ cho ngoại bang, về những người dân hiền lành bỗng chốc thấy mình xa lạ trên chính quê hương của mình.
Anh Danh thì lại có thêm một suy nghĩ mới: anh đang nghiên cứu làm ra những đất sét màu, không độc hại, dành cho các học trò mẫu giáo và tiểu học. Anh nói người ngoại quốc qua mua đất sét của nước mình về làm ra đất sét màu rồi bán lại cho mình để dùng trong trường học. Một thời tuổi thơ của anh đã trôi qua, anh muốn làm chút gì để đền lại cho người khác.
Những ngày đông đã tàn lụi. Lễ Giáng Sinh trôi qua êm đềm. Ông Già Nô-en được Bé Thơ cám ơn đến một trăm lần. Tượng thiên thần gãy cánh năm xưa anh Danh làm vội trước khi ra lại vùng hành quân đã được hàn gắn kỹ chiếc cánh gãy vào vai và được phủ thêm một lớp men sáng bóng. Bé Thơ phải đi.

5
Bé Thơ đứng trong phi trường San Francisco. Bé đã dặn người nhà đừng đón, vì Bé sẽ đến ngay tòa báo. Bé muốn làm việc ngay trước khi trời tối rồi sẽ về nhà. Bao nhiêu năm nay vẫn vậy. Cô bé có cái số di chuyển đã không ngừng nghỉ dù ở trong hoàn cảnh, trong công việc nào, đến đâu là bắt tay làm việc ngay nơi đó.
Bé Thơ vào taxi. Chiếc xe chở Bé đi lên phố, rồi qua cầu Golden Gate. Bé hít một hơi dài như tìm chút thoải mái. Bé ngoẹo đầu định lim dim mắt nghỉ một chút. Nhưng kìa! Trên phần đường nhỏ sát thành cầu dành cho xe đạp và khách bộ hành, có hai anh em chở nhau trên chiếc xe đạp. Bé Thơ nhỏm dậy nhìn. Xem chừng lúc này trời đang gió khá mạnh. Đứa anh gò lưng đạp, trông hơi khó khăn giống như người ta đang đạp xe lên dốc. Đàng sau, đứa em gái nhỏ nhắn ôm chặt lấy anh.
Rồi bỗng đâu một đám sương mù cuồn cuộn bay tới. Đám sương mù vây lấy hai anh em. Và không thấy rõ họ nữa…
Thảng thốt, Bé Thơ lấy điện thoại ra, gọi về anh Danh. Đầu bên kia anh Danh hỏi:
- Bé Thơ?
- Dạ, anh Danh…
- Bé đã đến nơi?
- Dạ.
- An toàn hả Bé?
- Dạ…Anh Danh ơi!
- Sao Bé?
- Anh Danh ơi, Bé nhớ anh lắm!
Rồi Bé Thơ bật khóc. Sương mù vẫn che kín hai anh em đang đạp xe trên cầu. Bên kia, anh Danh hẳn đang nghe Bé sụt sùi. Giọng anh nhẹ nhàng, ấm áp:
-    Bé Thơ, đừng khóc. Những thiên thần Bé đem theo về đó, chúng có những đôi cánh vững vàng, hãy cho chúng bay cao, bay cao lên mãi, Bé nhớ nhé!
-    Dạ, Bé sẽ nhớ. Anh Danh ơi! Bé nhớ nhà của mình. Bé nhớ quê của mình.
- Nhớ quê của mình, Bé nhớ câu gì anh em mình nói với nhau không?
- Bé nhớ. “Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperriem, Give Pleasure to Some and Freshness to Others”, câu của ông Yersin lấy làm tên cho Đà Lạt của mình.
- Phải rồi, Bé. “Cho người này niềm vui, cho người kia sự mát lành”.(*)

Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh


mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 13/Dec/2011 lúc 5:22pm


Mai chiếu thủy

Phan

alt
Anh giáo sau buổi tan trường ở ngã tư Bảy Hiền, lật đật chạy về tận Long An để chở cây mai học trò cho. Hy vọng trở về Sài Gòn kịp tối mấy cũng được, chứ ở lại qua đêm nhà học trò cũng ngại cho gia đình người ta... Lòng lành của anh giáo được toại nguyện. Ràng buộc cây mai chắc chắn vào chiếc xe hai bánh, cảm ơn, từ giã ông bà ngoại của cô học trò còn nhỏ tuổi hơn con gái anh giáo. Nhưng cô học trò nhỏ luôn khắc khoải trong sâu kín lòng thầy về một bóng hình dĩ vãng đã xa. Anh giáo cứ nghĩ thầm những khi thoáng hiện gương mặt miệt vườn xa lắc xa lơ qua gương mặt học trò... Nếu ngày đó đừng quá tự ái, đừng thế này thế nọ thì bây giờ có thể đứa con gái đặc trưng miệt vườn kia là con ruột chứ không phải học trò. Anh giáo dành cho cô học trò những cảm tình mặc cảm riêng tư, từng ngày thấy cô ấy hiểu một tình thương trong sáng là đủ, lòng anh không vẩn đục là đủ, một góc riêng trong khuất vừa đủ - chứa đựng sự mặc cảm tội lỗi trong hôn phối hay tội lỗi làm người từ lúc sinh ra còn lấn cấn trong anh giáo từ khi nhận thấy cô học trò đúng là bản sao một người. Mong Tết này có dịp, anh giới thiệu cô học trò yêu quý với con gái anh. Chúng thành chị em kết nghĩa thì anh cũng hưởng lợi còn thấy lại những gì đã mất qua năm tháng không quên...
Trời tháng Chạp mau tối hơn thường, nhưng giao thông những ngày giáp Tết giữa Sài Gòn và miền Tây thì thức trắng hay sao với xe nườm nượp. Mỗi chiếc xe vận tải, xe đò nhanh ga cho kịp hàng Tết, kịp khách về quê vượt qua hay ngược chiều đều làm anh giáo phải trân mình kềm tay lái xe mình. Ít khi anh giáo đi xa hơn đường từ nhà đến trường dạy học, con đường quen thứ hai của anh trong thành phố này là đường đến nhà ngoại của mấy đứa con. Thuộc loại người hiền lành, không bon chen quyền chức hay dòm ngó bổng lộc nên anh giáo không có nhiều giao tiếp trong xã hội không ngừng thay đổi muôn chiều cả tốt lẫn xấu của Sài Gòn sinh đẻ ra anh, qua thời khôn lớn cũng trong thành phố này, một mai yên nghỉ cũng xa lắm là ra ngoại thành... một người gắn bó trọn đời với những cơn mưa bất chợt, những vạt nắng long lanh áo học trò của Sài Gòn vĩnh cửu. Những đổi thay thời thế chỉ làm cho Sài Gòn như người phụ nữ mới thức dậy hay sau trang điểm... đẹp-xấu nhất thời của Sài Gòn không làm thay đổi tình cảm gắn bó của anh giáo với Sài Gòn. Những ý nghĩ thường gặp lại trong lòng anh giáo, trong không gian hanh hao của những ngày giáp Tết làm lòng người vừa bâng khuâng, vừa ngậm ngùi, hối tiếc ngày qua trong háo hức bước vào năm mới... những cảm xúc làm ngắn bớt đường xa, đường vào thành phố đã đăng đèn, một chút gió heo heo không làm lạnh nhưng trống vắng mênh mông dâng tràn khi hồi tưởng lại những ngày giáp Tết thời chiến tranh, thời hòa bình bưng bít, thời mở cửa, thời sụp hầm mọi mặt đang băng hoại từng ngày thành phố dấu yêu...
Tánh tình thầm lặng nhưng mơ mộng của anh giáo bị công an giao thông đánh thức. "Chở quá cao, gây nguy hiểm". Anh giáo biết cây mai kiểng- trồng chậu như bonsai, chỉ cao hơn đầu anh ngồi lái xe vài đọt mai chưa tỉa. Nghĩa là công an muốn anh biết điều. Thì anh biết điều. Chỉ túi tiền giáo viên không biết điều; lời giải thích không đúng đối tượng, "Cây mai này của học trò tặng cho. Tôi cũng chỉ chở về để làm quà cho cha tôi vui xuân. Tôi là giáo viên, tôi không phải con buôn. Các anh thông cảm...".
Nếu được thông cảm thì anh giáo không phải về trụ sở công an, ngồi chờ vợ đem tiền đến đóng phạt. Không phải ngồi tủi thân trong gian tối tù mù với những thành phần xã hội rẻ khinh. - Ngồi thương người cha bất hạnh, sinh được mỗi thằng con trai thì nó lại đi làm thầy giáo; thương người vợ chắt chiu từ khi lập gia đình vì lấy chồng thầy giáo; thương con thầy giáo - ước mơ không cao hơn được ăn no, mặc lành... thương mình mà người ta gọi là thương thân, đã muộn. Anh giáo ngồi nghe tâm tư trong tiếng chửi thề, cãi nhau của những người bị bắt. Điện thoại anh reo - tưởng vợ đến, nhưng mừng hụt. Người bạn cũ như cây mục, xa xôi như thế giới bên kia gọi về, "Đang làm gì đó thầy giáo? Tết nhất gì chưa?"
"Sáng nay không đi làm sao? Gọi tao sớm vậy?"
"Ngoài đường tuyết không, tivi thông báo hãng xưởng đóng cửa thì làm gì? Ngồi search internet, tao đọc được mấy câu sến chảy nước, loại sến biết lây nên tao cũng sến nhập tơi bời... thằng 'nguoiditanbuon' mắc dịch nào đó thầy giáo, nó nhắc tới mai chiếu thủy làm tao cũng sụt sùi cho mày, nó viết:
Hồi còn trẻ ở VN, sân nhà bạn gái tôi có cây mai chiếu thủy, mỗi lần tôi ra về sau khi đến chơi, hương hoa thơm thoảng giấc mơ đầy đến hôm sau vào lớp. Tôi còn giữ mãi câu định bụng nhưng chưa hề nói từ đó đến nay. Mỗi khi xuân về trên những hè phố tỵ nạn của người Việt - trong đó có tôi. Tôi đi giữa phố phường ngập hoa mai, hoa đào thật-giả. Nhưng lòng chỉ thương tiếc một bóng hình trong mùi hương mai chiếu thủy đã xa xôi. Tôi nói câu định bụng với những bông tuyết bay rợp trời. Ở một nơi nào đó ngoài quê hương như tôi. Tôi biết chắc có người lắng nghe câu người ta chưa nói nên nhớ nhau suốt đời...
... Ê, giáo. Nếu thằng mắc dịch này không lấy bút danh: Người di tản buồn thì tao tin chắc là mày viết chứ không ai! Còn ai nhớ kỹ hương thơm thanh khiết, thoang thoảng, dáng vẻ khiêm nhường-miệt vườn của mai chiếu thủy hơn mày ha giáo.
Mày bị câm hồi nào mà nín thinh vậy giáo?"
"Nói tiếp đi, tao nghe...".
"Cám ơn nha, sáng nay tuyết rơi trắng trời, có người xúc tuyết cho tao... để tao nói những điều mày rành hơn tao cho mày nghe. Từ đó, linh hồn dị thảo của mày cũng nghe trong gió lòng thành của người muôn năm cũ còn ở quê xa... Đừng có khóc nha giáo.
... Mai chiếu thủy hay mai chấn thủy có tên khoa học là Wrightia religiosa, (không phải Monalisa đâu nghe giáo), thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae). Cây thân gỗ, nhánh dài mảnh, mình lông nhung. Lá hai mặt hai màu. (Không phải trở mặt nghe giáo, tại chờ hoài một thằng câm không biết tỏ tình nên ôm hận vượt biên...)'
"Mày ra nước ngoài lâu rồi,... sao không đi trị bệnh cà chớn của mày đi!"
"Ủa, mày biết nói rồi hả. Chắc không bị điếc phải không giáo? Nghe tới mai chiếu thủy là bấn xúc xích lên liền..".
"Nói chuyện đàng hoàng nghe, tao cúp điện thoại đó!"
"Dạ giáo, nghe đây!
... Mai chiếu thủy có màu trắng, mùi thơm, mọc trên cọng dài kết thành chùm. Hoa có 5 cánh giống hoa mai... nên gọi là mốt! Sorry...
Mai chiếu thủy nở luôn nhìn xuống đất, nên gọi là chiếu thổ, chiếu thủy. Có nguồn gốc Đông Dương, thuộc loài cây cảnh, ra hoa quanh năm, nhưng hoa vào mùa khô rộ hơn và nở lai rai làm nhiều đợt...".
'Sáng giờ search được nhiêu đó thôi sao?"
"Tao nghĩ tới giáo mà search, định nổ cho mày vui vì thể nào mày không gọi chúc Tết tao. Tao còn biết bát ngát hơn giáo tưởng, giáo ơi! Người ta gọi loài mai yêu dấu của anh giáo là mai chiếu thổ vì úp mặt xuống đất. Tao nghe thô tục quá nêm bưng chậu nước đặt xuống gốc mai. Từ đó người ta gọi là mai chiếu thủy. Nghe thơ mộng hơn nhiều... lì xì tao đi giáo!
Tao còn biết, đa số hoa màu trắng đều mang hương thơm. Riêng mai chiếu thủy thơm nhẹ nhàng và rất dai, kể cả ngày và đêm. Cách trồng lại dễ như trồng khoai mì, cắm nọc là ra bông!
"Sao không nói là thả nọc cho vừa tiếng Việt hải ngoại!"
"Nói chơi thôi mà, cắm cành là lên cây chịu chưa? Thân mộc nên dẻo dai, dễ uốn bonsai.
Tao cũng vừa đọc được cách ép mai chiếu thủy ra hoa ngày Tết. Dù bao năm không gặp vẫn tin là anh giáo về già thì sân nhà không thể thiếu mai chiếu thủy nên sưu tầm cho anh giáo... chơi hoa. Cách Tết khoảng 45 ngày, bón cây mai một đợt phân đạm, lân, kali tương đối đồng đều là tốt nhất. Hòa loãng trong nước tưới tốt hơn bón trực tiếp. Sau 5 ngày, ngắt ngọn, vặt hết lá, tiếp tục tưới nước giữ ẩm và thỉnh thoảng lại tưới phân kali, lân thêm cho cây. Sau khi bón phân một thời gian thì cây mai ra đọt non, lá và nụ hoa. Cách Tết khoảng 10-15 ngày, hoa bắt đầu nở và đến Tết thì nở bông trắng xóa.
(Lặt lá mai phải cẩn thận. Không được làm biếng như cua gái hồi nhỏ. Bức lông bức lá cho xong. Lá cao, phải nhắc ghế chứ không nên vói vì làm cây xước da theo mắt lá, sẽ ít nụ hoa. Trời lạnh thì lặt lá sớm, trời ấm lặt muộn đi vài ngày để vừa xuân mai nở...".
"Cảm ơn nha, lúc này mày có kiến thức cấp một rồi đó, ráng học và bớt nhậu đi nha. Tao về, vợ tao tới rồi. Sẽ liên lạc mày sau".
"Ủa, nãy giờ mày ở đâu vậy giáo?"
"Ở tù".
Phan

Một%20cây%20mai%20chiếu%20thủy%20được%20trồng%20dưới%20dạng%20bonsai.
Một cây mai chiếu thủy được trồng dưới dạng bonsai.
photo(wiki)
 
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 29/Dec/2011 lúc 6:36pm

Tình đầu và tình cuối...


- Tình đầu khi đang yêu, hẹn hò thề thốt đủ thứ... nói chung đẹp!

Mà quả thật là đẹp, lãng mạn, trong sáng và nghèo, cái này phải thẳng thắn và nhỏ nhẹ thừa nhận. Giờ chẳng còn hơi đâu mà gò lưng đèo người yêu lên cái dốc cầu dưới ánh trăng như ban ngày hay dưới mưa giông tầm tã cả, chỉ việc tăng ga là xong...
Ngày ấy, sang lắm thì cà phê loại 3 ngàn đồng/tách. Làm vài điếu thuốc, đĩa hạt dưa.... Hoặc ít tiền hay không có tiền thì rủ nhau đi lang thang, làm lấy thanh "Ngọt ngào như vòng tay âu yếm" loại 2 ngàn rồi cả hai cùng lang thang mà không nhớ những con phố đó đã đi bao lần trong một buổi tối, chuyện trên trời dưới bể thế nên chẳng đâu vào đâu...

Tình đầu, chưa thấy những gì nó qua khỏi tầm nhìn khi ngồi trên xe đạp nên chẳng vẽ được gì thực tế cả, toàn tranh ... siêu thực!

Tình đầu, sinh nhật em, chẳng có gì..... Thôi thì đã dân dã thì cho dân dã luôn, và cũng chỉ mong đủ tiền ra chợ mua bông hồng Hà Lan cuống mập và dài mét rưỡi, dựng đến gầm giường tầng hai của sinh viên...
Tình đầu ngày xưa sao thật bỡ ngỡ và vụng về....

Tình đầu thỏ thẻ, thề thốt, bàn tính rằng sau này công việc của anh ổn định rồi thì mình cưới nhau nhé? Thật đẹp, hạnh phúc và có hậu. Thế nên phải cố gắng với lời thề đó.....

Và khi mình công việc tạm ổn định thì cũng là ngày cưới của tình đầu.


- Tình thứ...đáng lẽ ra phải là thứ "n" thì mới lấy vợ chứ nhỉ?

- Có người nào đó nói, hay ở đâu đó có câu: Tình đầu là tình đẹp nhất nhưng tình cuối mới là bất diệt...

Mình lấy vợ khi chỉ qua được tình đầu, không đủ thời gian cho trái tim nếm mùi tình thứ "n"..., xong cái "đẹp" là đến cái "bất diệt" luôn! Ba năm sau tình đầu "về bên ấy" thì đến lượt mình "về bên này". Trái tim lại một lần thơ dại/Cuống quýt đợi chờ, cuống quýt yêu...

Và rồi, khi đưa nhóc con đi học, dù cách nửa chiều dài dải đất hình chữ S, khi thấy mùi hoa sữa vẫn nao nao nhớ về những con đường quen thuộc, nơi ngày xưa tình đầu có lần nói "nếu anh không còn yêu em nữa thì xin anh đừng đưa người yêu anh đi trên những con đường mà ta đã đi...", nhưng tình đầu ơi, anh có trực thăng đâu chứ ?

Một ngày như mọi ngày, bất ngờ thấy vợ a cái lô giọng lạ lạ gọi về có bạn đến chơi nhà...và cũng bất ngờ không kém khi tình đầu đang nói chuyện cùng vợ con... Bao năm không gặp lại, chẳng còn dáng eo thon ngày xưa của riêng mình đâu cả....

Tình đầu làm cho 'tình bất diệt' điên đảo, bỏ cả ăn uống, bỏ cả nói chuyện với chồng khi nói rằng "đừng nghĩ anh là của riêng cô ấy!" chỉ sau khi hai bên gặp nhau vài tháng.....

Và, mình thì có thể điên không khi không "say nắng"? Hoàn toàn muốn tình đầu hoàn toàn "đẹp, trong sáng và lãng mạn " thôi. Không có gì hơn.

Lạ lùng, đến bây giờ vẫn chỉ cầu mong cho bên ấy hạnh phúc...

Và mình thì thực sự có hai mối tình cho đến giờ, một trong và một ngoài.....

Chúc chúng ta hạnh phúc nhé.............



(Internet)







mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 03/Jan/2012 lúc 8:24am
   

Anh Trương

(antrinh)


Bố Mẹ có 8 người con, 3 trai 5 gái.  Quỳnh là út ít trong gia đình.
 
Anh Cả có địa vị cũng khá, nhà xây 2 lầu, cổng ra cổng vào ngay trên con đường yên tịnh, hai bên bóng cây rợp mát giữa đô thành Saigon.  Chị Cả ăn trắng mặc trơn, tướng tá thanh nhàn, ra vẻ phu nhân.
 
Anh Hai đóng quân mãi tận Cần Thơ.  Một năm mới đem vợ con về thăm bố mẹ một lần.  Chị lận đận vất vả với đàn con 4 đứa lóc nhóc chỉ hơn kém nhau 1 tuổi.
 
Anh thứ ba tên Trương, đi lính Hải Quân, rày đây mai đó, bồng bềnh biển khơi.  Lâu lâu được phép về thăm nhà, thường đem theo hai người bạn cặp kè là anh Tuất và anh Khôi. Cha mẹ hai anh đều còn ngoài Bắc, không có gia đình bên này nên coi gia đình Quỳnh như gia đình của mình và có lẽ rất muốn sát nhập chính thức hẳn hòi vì lần nào về chơi cũng mang theo quà cáp để dụ khị chị Xuân chị Hạ là hai bà chị lớn của Quỳnh.
 
Những dịp đó, mấy chị em gái xôn xao nói cười. Tươi nhất phải kể là chị Xuân, chị đúng như một bông hoa đào mùa xuân, hàm răng đều đặn cứ khoe ra hoài, đành rằng cũng có lúc mắc cở, chị cố mím môi nhưng má chị lại hồng lên, Quỳnh nhìn chị còn muốn yêu huống hồ là anh Tuất.
 
Chị Hạ thua chị Xuân 2 tuổi, hai chị đều trong ca đoàn nhà thờ, với trình độ thưởng thức của Quỳnh hồi bấy giờ thì chẳng ai hát hay bằng hai chị.  Nếu không có anh Trương và các bạn anh về, chị Xuân tối ngày theo “phụ tá” bố  xuôi ngược buôn bán lo sinh kế.  Chị phải nghỉ học rất sớm vì gia đình di cư vào Nam với hai bàn tay trắng lúc Quỳnh - mẹ còn bế ngửa, khóc oe oe trên tầu há mồm - đồ ăn thức uống chắc không được dư dả bổ béo nên út Quỳnh của Mẹ hơi nhỏ con và yếu ớt.
 
Anh Cả đời sống dư dả nhưng chỉ lo cho tổ ấm của anh thôi.  Mà bố mẹ thật sự cũng chẳng muốn xè tay ra nhận sự giúp đỡ nếu anh chị không tha thiết năn nỉ, dù sao thì anh cũng lo cho chị Thu - chị thứ ba của Quỳnh ở trọ ăn học trên ấy.  Với sự xoay sở của Bố, chỉ cần một cô con gái hy sinh là đủ, thành ra chị Hạ may mắn không phải búi tó một cục tròn như củ hành tây ở đằng sau như chị Xuân, mà tóc để dài quá eo, được làm cho gọn gàng bằng chiếc cặp ba lá trông rất ẻo lả dễ thương.
 
Chả thế mà mỗi lần anh Khôi theo anh Trương về nghỉ phép, việc đầu tiên là anh đưa cả bịch quà trao tận tay chị Hạ ân cần nói chị chia cho các em, dĩ nhiên món gì ngon nhất, đẹp nhất là phần của chị, ai chả biết nhưng tất cả đều vui vẻ nghĩ rằng, thà có còn hơn không.  Sau đó, đợi đến nhá nhem tối, anh đem đàn ra dụ chị hát.  Bố Mẹ không thích chuyện hát hỏng, nhất là con gái con đứa nghêu ngao sẽ bị mẹ mắng ngay.  Nhưng nể các anh, chiều cậu con trai út, Bố Mẹ làm ngơ cho một bữa. Gặp cơ hội được thả lỏng, như cá gặp nước, mấy chị em Quỳnh hớn hở cơm nước dọn dẹp xong cho sớm để có dài thì giờ khoe giọng ca vàng của mình.
 
Lần ấy, bố mẹ tự động đi ngủ sớm cho lũ trẻ tự do hát hò đàn địch.  Khoảng sân sau, ghế dài ghế ngắn được lôi ra kê ngang kê dọc chiếm cả lối đi.  Anh Khôi chơi guitare liên tục, dĩ nhiên là chị Hạ hát thoải mái, sau đến chị Xuân.  Anh Tuất còn bày đặt hát bè với chị Xuân nữa chứ, dù không ăn khớp cho lắm nhưng cũng tình tứ hết cỡ.  Anh Trương dù được yêu cầu nhưng chần chừ hoài, mắt anh cứ nhìn ra ngoài cửa như ngóng trông ai.  Ai thì tất cả đều biết rồi, nhưng chẳng làm gì được, chỉ biết ái ngại và cùng mong đợi với anh thôi. 
 
Ngay hồi chiều, vừa về học, Quỳnh đã được anh Trương ôm vai rất ư là trìu mến, rủ ngồi trên bậc thềm trông ra sân sau thương lượng:
 
     -  Em làm sao đưa lá thư này tận tay chị Hằng hộ anh.  Đây anh thưởng  em hai chục.
 
Thấy Quỳnh ngần ngừ, anh tăng:
     -  Hai mươi lăm đồng.
 
Quỳnh chưa biết trả lời sao, anh lại tăng:
     -  Ba chục cho chẵn nhé.
 
Trước vẻ bồn chồn vội vã của anh, Quỳnh toét cái miệng vì buồn cườì.  Anh lo lắng như sợ bị từ chối, giọng thêm khẩn khoản:
     -  Kỳ tới anh về cho Quỳnh nữa, Quỳnh đừng làm giá với anh chứ!
 
Trời ơi, đời nào Quỳnh làm giá với anh, chắc anh cũng biết rằng vào được nhà chị Hằng là gian truân lắm, đợi chị ra ngoài để trao thư lại càng nguy hiểm hơn vì lúc nào cũng có "bà chị già" của chị đeo sát chị như bóng với hình.
Nhưng Quỳnh tội cho ông anh đang si tình, thôi thì cứ liều mạng xông pha. Hơn nữa ba chục đồng là món tiền rất lớn, nếu  vòi mẹ may áo dài không được, Quỳnh sẽ phải dùng tới món tiền này:
 
     -  Anh đừng nghĩ em tệ như vậy, vì thương anh em sẽ cố gắng.
     -  Xin lỗi, anh đùa mà.  Với lại thấy Quỳnh không trả lời ngay.
 
Quỳnh thông cảm anh đang bồi hồi, ruột rối như tơ vò vì yêu, vì nhớ.  Nên thủng thỉnh gấp những tờ giấy bạc đã đếm cẩn thận, leo lên gác cất vào cái hộp sắt nhỏ dấu kỹ vào ngăn tủ cho thật bảo đảm an toàn.  Và cơm nước xong, liền hiên ngang lên đường.
 
Nhà chị Hằng mãi tận cuối xóm, tuy cùng một giáo xứ, nhưng đi bộ cũng tốn ít nhất 10 phút đường trường, đất đá lởm chởm vì thuộc vùng ngoại ô, chính phủ chưa tráng nhựa ra tới đây.  Đó là lý do Quỳnh phải đợi ăn no mới dám đi, không thì kiến bò bụng sẽ bước thấp bước cao rồi đuối sức.  Dù sao cũng phải cám ơn Bề Trên đã xui khiến cách riêng, tuần trước theo mẹ đi chợ, trong lúc mẹ tìm mua thứa ăn, thì Quỳnh lân la đến sạp hàng của chị Nga, chị của chị Hằng, tính chọn vải nào ưng ý vòi mẹ may chiếc áo dài.  Quỳnh hẹn với chị hôm nào đến xem lại rồi quyết định.  Được quá, Quỳnh sẽ đến hỏi chị Nga mua vải, không ai có thể ngờ Quỳnh là một cô bé "giao liên" thập phần nguy hiểm, cần phải đề phòng.
 
Vậy mà khi gần đến nơi, thấy cụ Giáo, bố chị Hằng, đứng ngoài hiên, ngắm mấy trái non dính chùm buông thõng trên cây mít rậm lá xanh tươi, ngả bóng dài dưới những tia nắng quái của một buổi chiều muộn. Quỳnh bỗng thấy run run vì sợ, nhưng đã mang "cái nợ" vào thân thì quyết phải trả cho xong. Thở một hơi thật mạnh lấy hết can đảm, Quỳnh đến bên cạnh, cúi đầu và rất nhỏ nhẹ để không làm người nghe giật mình, có thể sẽ bị hỏng chuyện:
 
     -  Lạy Cụ ạ.
 
Cụ Giáo quay qua ngạc nhiên hỏi xẵng bằng cái giọng khàn khàn:
     -  Chuyện gì vậy?
     -  Thưa cụ, chị Nga đem hàng về chưa ạ?
     -  Đem rồi, vào nhà hỏi.
 
Chỉ đợi có thế, Quỳnh bước ngay vào cửa.
     -  Gì thế em?
 
Tiếng chị Nga làm Quỳnh khựng lại, vì trong nhà hơi tối nên chị thấy Quỳnh trước.  Chị đang cuốn xấp vải, đã bị rỡ tung tràn trên mặt chiếc phản, vào cái bìa cứng cho gọn gàng lớp lang.  Hoàn cảnh đã thuận tiện như tiên liệu, Quỳnh vội bước tới cầm lên mân mê:
 
     -  Vải này đẹp quá nhưng em mặc chưa được phải không chị?
     -  Sao lại không được, em thích thì cứ may.
     -  Em sợ của mấy chị lớn, mẹ em không cho, nó mỏng quá.
 
Chị Nga tưởng trúng mối, đem cả năm bẩy xấp hàng cho Quỳnh chọn lựa.  Cuối cùng thấy cô khách hàng bé tí mà rắc rối khó tính không kém gì mấy bà già, chị thất vọng thu hết vào, đứng lên, gọi vọng xuống bếp:
 
     -  Hằng ơi, chuông nhất rồi.  Hôm nay thứ năm đầu tháng, có chầu thánh thể, sửa soạn ra nhà thờ là vừa.
 
Quỳnh không bỏ lỡ cơ hội, mau mắn:
     -  Để em gọi chị ấy cho.
 
Thế là cô chạy bay qua cái sân dài và hẹp.  Chị Hằng đang đứng rửa tay.  Thấy Quỳnh chị mở to đôi mắt nhung đen ướt ướt, dịu dàng:
 
     -  Quỳnh qua hồi nào, có chuyện gì không?
 
Rồi chị chỉ kịp chớp chớp hàng mi cong vài cái, lá thư đã được Quỳnh dúi tọt vào túi áo cánh mầu hoa cà của chị.
Quỳnh quay lên đúng lúc chị Nga đang đi xuống với chiếc áo dài mới xỏ một tay, miệng hối bai bải:
 
     -  Mau lên, còn chần chờ gì nữa, hết chầu bây giờ.
 
Hoàn thành nhiệm vụ, Quỳnh nhảy như chim sáo về nhà.  Bố Mẹ và các chị đã đi nhà thờ hết, kể cả anh Tuất anh Khôi.  Chỉ một mình anh Trương, đứng tựa cửa hút thuốc lá.  Sợ Quỳnh ho, anh vội vứt điếu thuốc xuống chân di di:
 
     -  Đưa rồi hở Quỳnh.  Chị Hằng có nói gì không?
 
Gật đầu chiến thắng, Quỳnh với giọng tự tin:
     -  Cần gì chị Hằng phải nói gì.  Em biết chắc chắn tối nay chị sẽ sang nhà mình.
 
Anh vui ra mặt:
     -  Cám ơn Quỳnh.  Bây giờ Quỳnh đi chầu còn kịp đó.
     -  Thôi em ở nhà vì... anh!
 
Nghe cái giọng cải lương của Quỳnh, anh phì cười
     -  Ừ, em ở nhà vì anh chứ không phải vì em lười.
 
Quỳnh cãi:
     -  Chứ anh không thấy em hết lòng với anh đó sao?  Cụ Giáo với chị Nga dữ như gì ấy. 
     -  Anh biết mà.  Quỳnh làm anh cảm động lắm.  Mai mốt anh sẽ lấy vợ.  Anh ở nhà không đi tầu nữa.  Anh sẽ cho Quỳnh tiền mỗi ngày ăn quà tha hồ.  Thích nhé.
 
Và bây giờ, chầu đã tan lâu rồi, chị Xuân hội Con Cái Đức Mẹ có họp tối nay cũng đã về hát hò từ nãy tới giờ.  Nhà thờ, ông Từ chắc đã tắt đèn đóng cửa về nghỉ khỏe.  Mà bóng dáng chị Hằng vẫn chẳng thấy tăm hơi.  Tiếng hát chị Hạ không lọt vào tai Quỳnh nữa, cô bắt đầu âm thầm cầu nguyện, chẳng phải cô sợ không nuốt trôi ba chục của anh Trương, mà cô thương anh quá sức, cô thương cả chị Hằng, cô ước gì chị Hằng qua bên đây làm dâu mẹ, mẹ dễ quá chừng, không khó khăn như chị Nga, y hệt viên cai tù.
 
Quỳnh lên nhà xem lại cánh cửa ngoài có mở hé như trong thư anh Trương nắn nót từng nét chữ trên tờ pelure mầu xanh dặn dò chị Hằng không.  Anh rất lịch sự không dán phong bì, chắc anh tin tưởng cô em út cũng lịch sự không kém.  Nhưng vì Quỳnh nghĩ mình cần phải biết sơ qua thư anh viết thế nào để còn lo liệu phụ với anh chứ.  Nên khi đi được nửa đường, cô đã vào ngôi nhà thờ còn vắng người, núp kín đáo chỗ kẹt cửa đọc ngấu nghiến lá thư tình vô cùng lâm ly bi thiết ấy.  Anh còn viết cả một bài thơ dài nhằng, ý tứ nhớ nhung lai láng.  Quỳnh đọc còn thấy mủi lòng nói chi đến chị Hằng, hiền hòa nhân ái như vậy -  Quỳnh biết được chị nhân ái là vì có hôm Quỳnh thấy chị dốc cả ống bơ gạo vào bị của ông già mù quen thuộc hay chống gậy lòm khòm quanh quanh trong xóm xin tiền.
Quỳnh vừa thương vừa phục anh sát đất.  Đã đàn giỏi, hát hay lại còn biết làm thơ. Thêm dáng dấp hào hùng, mặt mũi đẹp trai, chị Hằng yêu anh cũng phải, chỉ mỗi tội anh là thủy thủ, chẳng có lon lá gì trên vai.  Bố mẹ thỉnh thoảng vẫn than phiền vì anh không chịu học hành đến nơi đến chốn, ham đi lính sớm quá.  Có bận bố bực lên gắt với mẹ:
 
     -  Cái thằng lêu lổng, nhắc nhớ tới nó làm gì.
 
Làm mẹ tiu nghỉu mặt buồn rười rượi.
 
Quỳnh khẽ mở cửa để không đánh thức bố mẹ, ra sân trước đứng nhìn về phía cuối xóm.  Ai như chị Hằng, dáng người gầy gầy thon thon, đầu cúi xuống, đi từng bước chầm chậm.  Đúng rồi, Quỳnh vội vàng chạy vào đứng ngay một bên cửa đợi chờ.
Dưới sân vọng lên tiếng hát anh Trương với bản “Cô Láng Giềng” của nhạc sĩ Hoàng Quí:
 
- "Cô láng giềng ơi
    Không biết cô còn nhớ đến tôi
   Giây phút êm đềm ngày xưa khi còn ngây thơ
   Cô láng giềng ơi
   Tuy cách xa phương trời tôi không hề, quên bóng ai..."
 
May mà chị Hằng đang trên đường đi tới.  Nếu chưa nhìn thấy chị, chắc Quỳnh bật khóc.  Mẹ có bảo:
 
     -  Sao thương ngay cô Hằng, hiền lành ngoan ngoãn nhưng gia đình người ta chuộng chức phận tiền tài, đời nào họ chịu gả cho thằng Trương nhà mình.
 
Anh Trương thì vẫn hy vọng, với tình yêu chị Hằng dành cho anh, không ai có thể cản trở.  Vả lại anh lỡ yêu chị mất rồi, yêu từ hai năm trước, ngay buổi đầu tiên gặp gỡ khi chị rụt rè qua đây chơi với chị Hạ, hai chị cùng học một lớp.  Khi Cụ Giáo thấy con gái mình ưa qua học bài chung với chị Hạ và khám phá ra bên này lại có thêm thằng con trai lính trơn, không địa vị thì cụ cấm cách triệt để.  Nghe nói bên gia đình anh Quí, chồng chị Mỹ ngấm ghé chị Hằng cho cậu con trai trung úy, em của anh ấỵ  Dĩ nhiên có con gái ruột làm mai mối, Cụ Giáo yên tâm vững bụng gả liền, chỉ còn đợi ông sĩ quan chọn ngày nghỉ phép là đem trầu cau tới.
Tiếng hát anh Trương vẫn da diết:
 
-  "Đành lòng nay tôi bước chân ra đi. 
     Giơ tay buồn hái bông hồng tường vi.
     Ghi chút tình em nói chờ đợi tôi.
     Đừng nói tới phân ly..."
 
Chị Hằng vừa len vào, nghe được tiếng hát, nắm chặt tay Quỳnh đứng lặng người.
Tiếng anh Trương bây giờ là những tiếng thở dài não nuột:
 
-  "Cô láng giềng ơi
     Nay mối duyên thơ đành đã lỡ rồi
    Chân bước xa xa dần miền quê
    Ai biết cho bao giờ tôi về..."
 
Anh vừa dứt tiếng, chị Hằng theo Quỳnh ra sân.  Trời ơi, bốn mắt gặp nhau.  Quỳnh không biết diễn tả thế nào cho đúng, cho hết ánh mắt anh Trương chị Hằng giao nhau lúc ấy.  Chỉ biết rằng, ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm và thấy hạnh phúc chan hòa, tràn ngập lan rộng khắp không gian.  Sau giây phút bàng hoàng, anh Trương mặt tươi vui rạng rỡ, hân hoan hát lại khúc đầu:
 
-  "Hôm nay trời xuân bao tươi thắm
    Dừng gót phiêu linh về thăm nhà
    Chân bước trên con đường đầy hoa
    Tôi đã hình dung nét ai đang cười..."
 
Nhìn chị Hằng cúi đầu, tóc xõa che gần nửa khuôn mặt trái soan, đỏ hồng hai má vì e thẹn.  Anh tiếp thật ngọt ngào:
 
-  "Tôi mơ trời xuân bao tươi thắm
     Đôi mắt trong đen mầu hạt huyền
    Làn tóc mây chiều cùng gió ngàn dâng sóng
    Xao xuyến nỗi niềm yêu..."
 
Chị Xuân chị Hạ vỗ tay khe khẽ.  Còn Quỳnh bắt anh hát bản “Khối Tình Trương Chi” của nhạc sĩ Phạm Duy xong rồi mới chịu đi ngủ.   Tất cả đồng thanh hưởng ứng vì biết anh hát bài này hay tuyệt.  Giọng anh vang và ấm.  Anh hăng hái hát liền để mau mau được một mình thủ thỉ bên người yêu.  Ôm cây đàn trong tay, anh nhịp nhàng từng cung trầm bổng:
 
-  "Đêm năm xưa khi cung đàn lên tơ
    Hoa lá quên giờ tàn, mây trắng bay tìm đàn
    Hồn người thổn thức trong phòng loan..."
 
Quỳnh nghĩ anh lái đò Trương Chi hát hay như vậy là cùng.  Anh Trương ngày nay của Quỳnh, không như anh Trương Chi ngày xưa chỉ làm nàng Mỵ Nương mê say tiếng hát, mà anh còn làm chị Hằng mê mẩn vì nét đẹp trai khỏe mạnh, với mái tóc bồng bềnh vương trên vầng trán thông minh tuấn tú.  Mặc cho chị Hằng cứ nhìn anh rồi lại cúi xuống vân vê chéo áo.  Mặt anh ngẩng cao, đắm đuối nhìn “chị Hằng” tròn xoe giữa bầu trời đầy sao lấp lánh.  Đêm đã khuya, nên ánh trăng chiếu giãi mông mênh ngập ngụa đổ trên khuôn mặt rạng rỡ của anh với sóng mũi cao và thẳng.  Đôi mắt tình hết biết.  Quỳnh thấy anh giống như một vị hoàng tử trong truyện cổ tích, sinh ra lầm thế kỷ, bị chui ngay vào nhà bố mẹ, làm anh của Quỳnh.  Anh hát đến đoạn cuối từ hồi nào mà cô không hay:
 
-  "Ôi duyên kia ai đã trả cho ai
    Cho mắt rơi lệ rồi 
    Cho chén tan thành lời
    Để thành bài hát ru lòng tôi..."
 
Hai người nếu đừng có chuyện quan quyền chức tước thì thật là xứng đôi vừa lứa.  Nhưng khổ nỗi danh vọng địa vị, thường thường vẫn được người ta coi trọng hàng đầu.  Hồi trước, nghe mẹ nói mẹ buồn về con đường học vấn của anh chẳng đâu vào với đâu .  Anh hay cãi bướng:
 
     -  Mẹ buồn cho cái gì?  Mẹ nghĩ tương lai con phải thế nào?  Mẹ muốn con vui, con sướng.  Thì con vui, con sướng đó thôi.  Sao mẹ lại buồn?
 
Nhưng có lẽ từ ngày biết yêu và được chị Hằng đáp lại, anh không còn thấy vui thấy sướng theo kiểu ấy nữa.  Anh bắt đầu ân hận vì đã ham bạn bè rong chơi, không vâng lời ba mẹ "dùi mài kinh sử", thi trung học rớt một cái là anh xung phong đi lính liền.  Bây giờ tàng tàng làm anh thủy thủ, lại đi yêu cô con gái rượu của cụ Giáo thì kể cũng éo le, vượt qua bức tường thành phân biệt không phải dễ.
 
Cụ Giáo khó trần ai, năm nay cụ đã gần sáu chục, tóc muối nhiều hơn tiêu, nhìn khuôn mặt khắc khổ của cụ là ớn liền.  Đã phải lấy tới 2 đời vợ mà cụ vẫn quạnh quẽ gà trống nuôi con rất sớm.  Thiên hạ nói cụ có số "sát thê".  Người vợ đầu là mẹ chị Nga và chị Mỹ, một đêm quân Pháp về làng càn quét Việt Minh, bà bị lạc đạn qua đời, để lại chị Nga 6 tuổi và chị Mỹ mới lên 4.  Cụ Giáo buồn quá; bỏ dạy học, bỏ cả vườn tược nhà cửa, bỏ luôn hai đứa con cho người em gái đi lưu linh mất mấy năm.  Thời gian đó chị Nga phải trông coi việc nhà, bế em con bà cô mệt nghỉ.  Khi cụ Giáo trở về, vội vã dạy cho con biết đọc biết viết vì chị chưa hề được cắp sách đến trường như những đứa trẻ khác.  Khi chị 15,  cụ Giáo tục huyền với một cô gái xinh đẹp nhưng không hiểu sao lại bị lỡ thời, người vợ này sanh thêm cho cụ một mụn con gái nữa, đặt tên là Nguyễn Thị Lệ Hằng rồi mất vì bạo bệnh.  Ngày bà còn sống, mọi chuyện trong nhà cũng một tay chị Nga quán xuyến nên khi lớn lên, chị Hằng coi chị Nga như người mẹ thứ hai, hết lòng kính yêu và vâng lời.
 
Chị Nga thì ôi thôi, chằng chịu không nổi, chẳng hiểu vì vậy mà chị không chịu lấy chồng hay vì không có chồng nên chị trở thành như thế.  Ngày chị đôi tám, đôi chín cũng có người đến ngấm nghé nhưng cụ Giáo chê bủng chê beo:
 
     -  Có thằng rể như vậy chẳng thà để nó ở nhà hầu cơm nấu nước cho mình tốt hơn.
 
Sau này, khi chị đã quá lứa quá thì; có chàng kia góa vợ, nhờ mai mối ướm hỏi, mong được rước chị về lo cho đứa con mới chập chững tập đi.  Chị khăng khăng không chịu dù cụ hết lời khuyên bảo:
 
     -  Anh ấy hiền lành chăm chỉ.  Tội nghiệp hoàn cảnh giống thầy ngày trước.  Vả lại tuổi con đã lớn, chả lẽ ở vậy mãi.
 
Chị Nga tủi thân oà lên nức nở:
     -  Chẳng thà con ế...! Chứ thầy bảo người ta giống thầy làm sao được.  Con người chỉ biết tới cái cầy cái cuốc, một chữ cũng không thông...!
 
Chị đưa tay áo lên chùi nước mắt rồi xuống bếp thút thít tiếp.  Cụ Giáo hít một hơi thuốc lào, thả khói trầm ngâm nhớ tới hai người vợ đã vội vàng bỏ cụ mà đi không khác gì chạy nơ.  Vào năm ấy cũng có người đến xin chị Mỹ về nâng khăn sửa túi.  Đã có kinh nghiệm từ chị Nga, cụ Giáo gả liền không "già kén kẹn hom" nữa  Thế rồi miền Bắc bị mất vào tay Cộng Sản, cụ và hai cô con gái cùng với vợ chồng chị Mỹ theo làn sóng người di cư vào Nam.  Hình ảnh gia đình cụ Giáo đưa Quỳnh vào giấc ngủ muộn màng và chị Hằng chắc bị anh Trưong cầm chân khuya lắm mới được về.
 
Hôm sau đi chầu với Mẹ, về nhà không thấy bóng dáng anh Trương đâu là Quỳnh biết liền. Thấy chị Hạ, chị Hoa lên gác học bài, Quỳnh cũng lên theo.  Chị Xuân anh Tuất đứng xớ rớ phòng khách, chờ xem bố mẹ không nói gì là đưa nhau ra sân sau rủ rỉ vì coi như bố mẹ đã cho phép anh chị tìm hiểu nhau.  Anh Khôi có lẽ bỏ đi lang thang vì chị Hạ xem chừng chỉ coi anh như người anh thuần túy, không có cảm tình đặc biệt như anh mong mỏi.  Còn anh Trương, giờ này hẳn đang đứng nơi điểm hẹn đợi chị Hằng, khói thuốc chắc lại bay mù mịt.  Mong sao chị Hằng đừng vì bất cứ lẽ gì để anh phải làm con khỉ leo cây.
 
Trong lúc chị Hạ chúi mũi vào cuốn sách trước mặt và chị Hoa đang căn ke từ trong sách, bản đồ thế giới để ngày mai nộp thầy Sử Địa thì Quỳnh lẩn thẩn ra ban công, ngồi ngó thiên hạ qua lại dưới đường.  Bài vở cô đã làm xong, mà dù chưa xong cô cũng không còn tâm trí để học bài.  Cô hết sức lo âu, cô chỉ sợ anh Trương chị Hằng không lấy được nhau.  Cô thương cả hai người, nhất là từ hôm qua, cô được anh Trương tin cậy, trao cho trọng trách làm cánh chim bay qua bay lại cho hai trái tim yêu thương tìm đến với nhau.  Hình như trăng đã lên cao ở phía sau nhà.  Miệng cô lẩm bẩm lần hạt nhưng trong đầu đầy những ý tưởng vẩn vơ nên thỉnh thoảng cô lại khoác tay một cái như muốn gạt những gì làm cô chia trí, sợ không đem hết tâm hồn vào câu kinh lời nguyện, Chúa sẽ không nhận lời.
 
     -  Ô chị Nga!
 
Quỳnh mở mắt to hơn để nhìn cho kỹ:
     -  Đúng rồi, chị Nga!
 
Chị Nga đi ngoài đường nhưng mắt nhìn vào nhà Quỳnh chầm chập.  Chị đi một đoạn xa xa rồi từ từ trở lại...!!!  Quỳnh vội gọi chị Hạ, hai chị em đứng sừng sững nhìn xuống, chắc chị Nga nhìn lên thấy vậy nên đi luôn.  Quỳnh định chạy xuống nhà cho mẹ hay nhưng chị Hạ gạt đi bảo Quỳnh đừng lắm chuyện.  Quỳnh tức:
 
     -  Sao chị Nga lại nhìn vào nhà mình?
     -  Thì kệ chị ấy.
     -  Biết đâu chị ấy nghĩ mình dấu chị Hằng trong nhà.
     -  Mình không dấu thì thôi.
 
Nói chuyện với chị Hạ chán ngắt.  Quỳnh chui vào màn ngủ cho tới lúc văng vẳng tiếng huýt sáo của anh Trương trong bản nhạc vui - "Bánh Xe Lãng Tử" dưới sân nhà:
 
-  "Hahaha... Suối in hình chiếc xe tàng
     Đêm nao đập vỡ cây đàn dâng người kìa ai mắt xanh.
     Vó câu bấp bênh, trên đường gian nan..."
 
Quỳnh vội trườn người qua mình chị Hoa xuống dưới nhà đón, mách cho anh biết chuyện chị Nga.  Anh Trương đang vui như tết, chẳng mảy may sợ hãi:
 
     -  Đừng lo, chị Hằng sẽ chỉ lấy anh thôi.  Chị Hằng nhịn cơm vài bữa là chị Nga cuống lên liền, không dám bắt chị ấy lấy cái ông trung úy kia đâu.
 
Anh sung sướng ôm Quỳnh nhấc bổng:
     -  Cám ơn... Cám ơn...  Rồi anh sẽ bỏ lính, sẽ học lại, sẽ thi trung học, sẽ thi tú tài... Ôi dễ lắm chẳng khó khăn gì, hihihi...  Giờ thì đi ngủ.  Mai anh bao ăn phở.
 
Một buổi sáng hứa hẹn rất nhiều niềm vui chợt tắt ngúm khi chị Nga gõ cửa thật sớm và mẹ chạy ra cười chào:
 
     -  Cô Nga qua chơi
 
Chị Nga mặt cứng như tảng đá:.
     -  Cháu muốn nói chuyện với cậu Trương.
 
Mẹ mời vào trong nhà nhưng chị nhất định đứng ngoài sân.  Anh Trương hiên ngang:
     -  Mẹ để con ra.
 
Trong này mấy chị em lấp ló, băn khoăn nhìn chị Nga nói nhiều thật nhiều, còn anh Trương mặt mũi cứ tái dần tái dần.  Cho tới lúc chị quay vào cao giọng như biết cả nhà đang nghe ngóng:
 
     -  Tôi nói thế đủ rồi, chắc cậu hiểu không để tôi phải thưa với ông bà nữa.
 
Tim Quỳnh tan nát.  Thôi thế là thôi.  Tội cho anh Trương quá.
 
Anh Trương rời nhà ngay hôm ấy, bố mẹ giữ lại nhưng anh cứ lầm lì xách gói xin phép ra đi.  Bố đưa tách trà lên môi không uống.  Mẹ với ánh mắt xót xa buồn bã.  Lũ em gái đứng tiễn anh ủ dột u sầu.  Anh Tuất muốn ở lại cũng phải đi theo, ngó chị Xuân luyến lưu ngơ ngẩn.
 
Nguyên cả tuần sau, chị Hạ ngày nào về học cũng loan tin:
     -  Hằng không đi học!
 
Rồi một hôm chị cho biết:
     -  Hằng trông xanh xao như người ốm.
 
Rồi một hôm nữa:
     -  Tụi nó bảo Hằng nghỉ học luôn để lấy chồng.
 
Thời gian sau đó, chỉ có anh Tuất là về thường xuyên để lo làm đám cưới đưa chị Xuân về dinh.  Thật ra anh chả có dinh cơ biệt thự gì.  Bố cho anh chị một gian trong khu phố ngoài chợ, đã xây khang trang và đang chờ ai mua thì bán.  Anh Tuất bây giờ ở nhà mỗi tuần lo cất hàng từ chợ Bến Thành về cho chị suốt ngày mời mọc các cô đang tuổi dậy thì hay trước khi lên xe bông về nhà chồng sắm sửa quần áo phấn son.
Chị Hạ lâu nay không thông tin về chị Hằng nữa vì chị Hằng đã bỏ học thật rồi.  Thay vào đó, chị hay nói về ông thầy dạy toán của chị, ông thường chừa ít phút sau giờ học để kể chuyện ma và dĩ nhiên theo chị, ông kể rất có duyên.  Chị mong mau tới giờ của ông để nghe tiếp những câu chuyện ly kỳ rùng rợn ấy chứ không phải vì thích chứng minh hình học hay giải phương trình đại số.
 
Rồi một buổi tối,  Quỳnh đang lớ ngớ giữa sân, nghe ngóng xem tiếng rao "lục tầu xá" ở ngõ nào để gọi cho mấy chị em làm một bữa quà vặt thì chị Hằng từ ngoài đường đi tới, kéo Quỳnh vào trong nhà.  Chị khóc như mưa.  Mẹ hỏi mãi chị mới chịu nói là cụ Giáo nhiếc mắng và doạ sẽ gọt đầu chị bôi vôi vì cái tội anh Quí, em chồng chị Mỹ biết chị yêu anh Trương nên từ hôn..  Mẹ cầm tay chị ôn tồn:
 
     -  Sao cậu ấy biết cháu yêu thằng Trương nhà bác.
 
Chị Hằng rấm rức:
     -  Cháu bảo anh ấy.
 
Mẹ thở hắt ra.  Cả nhà xúm quanh chị, chẳng ai biết an ủi chị thế nào cho phải, chỉ còn nước đứng nghe chị khóc mà thương cảm.  Khóc khô nước mắt, chị lủi thủi ra về.  Chị Hạ muốn viết thư cho anh Trương, để anh về năn nỉ cụ Giáo cho phép lấy chị, nhưng mẹ rầu rĩ ngăn lại:
 
     -  Không được đâu, họ không chịu gả cho tên lính quèn đâu.  Cầu xin Chúa cho cô ấy nguôi ngoai rồi có người khác đến hỏi.  Xinh đẹp thùy mị như cô ấy thiếu gì quan quyền chức tước rước về làm vợ.
 
Cuối mùa hè năm ấy, chị Hạ thi rớt, ông thầy dạy toán của chị đến xin chị về để kể chuyện ma cho chị nghe cả đời luôn.  Chị bày đặt lí nhí e lệ trả lời “bằng lòng” khi được bố hỏi ý kiến.  Hôm đám hỏi chị Hạ, không ngờ cũng là ngày đám cưới chị Hằng.  Quỳnh lu bu chuyện nhà nên không có cơ hội nhòm ngó xem cô dâu dung nhan diễm lệ ra sao.  Nhưng khi thấy xe hơi cứ chạy ngang nườm nưọp và biết đó là khách khứa nhà trai về rước cô dâu Lệ Hằng, Quỳnh vừa tiếc cho anh Trương, vừa mừng cho chị Hằng được yên bề gia thất và nhất là được lọt vào gia đình giầu có, tuy xa xôi mãi tận miền Trung, nhưng hề gì, cứ quyền cao chức trọng và nhiều tiền là ung dung sung sướng rồi.
 
Lúc này thì Mẹ nhớ cậu con trai út chịu hết nổi.  Mẹ bảo tụi con gái đứa nào viết thư báo tin cho anh Trương biết để anh về chơi vì anh không còn lý do lánh mặt để chị Hằng quên anh, lấy người khác cho tương lai sáng lạn hay sợ người ta buộc tội dụ dỗ con gái người ta nữa.  Nhưng hình như được tin này, anh còn muốn đi... xa hơn, bóng anh vẫn biền biệt, chỉ thỉnh thoảng một lá thư thăm hỏi sinh hoạt gia đình và khuyên các em chịu khó học đừng như anh, làm bố mẹ phải buồn phiền.
 
Bẵng đi một thời gian, đúng dịp đầu năm, xác pháo hồng còn giăng giãi chào mời bước chân họ hàng thân quen đến chúc tuổi ngoài sân.  Những chậu cúc, chậu thược dược trước cửa đang đến hồi nở toang, tròn đầy sung mãn và cành mai lớn trưng bày ở một góc đẹp nhất trong nhà, nhiều nụ hoa nở sớm đã từ từ buông những cánh mong manh, nằm rải rác trên nền gạch đã được lau sạch bóng loáng.  Cảnh tưng bừng nhộn nhịp đón tết không còn, nhưng không khí Xuân rộn rã vẫn  lan tỏa khắp bầu trời và trong lòng người.  Gia đình Quỳnh, các anh chị cho các cháu lưu lại thêm vài ngày nữa với ông bà và các dì các cô.  Mẹ bận tíu tít, chưa nựng nịu xong đứa cháu ngoại, đã đuổi theo ôm lấy thằng cháu nội đang chơi đuổi bắt nhao người quá đà sắp té.  Vui thì vẫn vui, nhưng trong mắt mẹ, ai cũng nhìn thấy những áng mây sầu vương vương, dù mẹ cố cười cố nói.   Tết này anh Trương  không về đoàn tụ.  Tối hôm qua, chị Cả thấy mẹ ngồi thừ người, vội đến bên nhẹ nhàng hỏi:
 
     -  Mẹ mệt? Các cháu phá quá làm bà mệt rồi!
 
Mẹ không dấu được tiếng thở dài nhưng nói tránh:
     -  Không, mẹ chẳng mệt.  Mấy cháu của bà bỏ bà chay đâu hết rồi.  Lại đây với bà nào.
 
Quỳnh buột miệng:
     -  Con biết mẹ nhớ anh Trương.
 
Mẹ chớp đôi mắt buồn:
     -  Thì anh con không về mẹ nhớ nó một tí ấy mà.  Tội nghiệp, tết nhất thế này cô đơn lạc lõng.  Không biết lưu lạc nơi đâu!
 
Chị Cả an ủi:
     - Chú ấy đẹp trai như vậy các cô gái không để chú ấy cô đơn đâu.  Con nghĩ chú ấy đang ăn tết với gia đình cô nào vui quá, quên cả  mẹ con mình rồi đó.  Để Mẹ coi, ra giêng chú ấy sẽ dẫn cô ấy về ra mắt mẹ.
 
Biết chị đùa cho mẹ vui, mẹ đùa lại
     - Chắc lại bế về cho mẹ thêm thằng cháu nội nữa nhỉ?
 
Vài ngày sau, khi Mẹ cùng mấy chị em Quỳnh đang đứng ngoài sân, bịn rịn chia tay các anh chị và các cháu lên xe trở về tiếp tục cuộc sống thường nhật, thì người hàng xóm cho biết tin sét đánh:
 
     -  Cô Lệ Hằng con cụ Giáo chết rồi.  Gia đình cụ Giáo đang hớt ha hớt hải thuê nguyên một chuyến xe đò ra Nha Trang lo đám tang.
 
Ai cũng ngỡ ngàng, mấy chị em Quỳnh đứng ngây người nhìn nhau.  Trái tim se thắt, chỉ mong tin đó là tin tầm bậy.  Nhưng rồi, tin đó đã đúng sự thật .  Mẹ cho Quỳnh tới nhà hỏi thăm xem thế nào, cửa ngõ vắng hoe, vườn tược quạnh quẽ.  Gia đình Quỳnh tự nhiên cũng hốt hoảng.  Hoa hoè trong nhà ngoài sân bỗng dưng như héo úa, lụn tàn.  Độ một tuần sau đó, vết tích của những ngày vui đầu năm chỉ còn là những chậu hoa bị cắt ngắn để trơ lại cái gốc khô khan cứng ngắc, chị Nga đến gõ cửa.  Lần này chị không lạnh tanh hỏi mẹ cho gặp anh Trương, mà khóc sướt mướt, thiếu điều muốn gục vào lòng mẹ:
 
     -  Bác ơi, em Hằng chết rồi, chết tức tưởi, chết một mình...!
 
Mẹ thắc mắc không hiểu:
     -  Chết một mình là chết làm sao hở cô?
 
Chị Nga kể bà mẹ chồng của chị Hằng giầu có nhưng khắc nghiệt, nhà đông người chỉ một tay chị hầu hạ đủ thứ.  Chồng chị Hằng làm lớn nhưng ham ăn chơi la cà phòng trà tửu điếm, cả tháng không kề cận vợ được một ngày.  Họ đem chị về như để khỏi mướn con sen đầy tớ, làm việc không ngơi tay.  Rồi với bụng mang dạ chửa, mệt nhọc kiệt sức chẳng ai đoái hoài hỏi han.  Một đêm chị ngã ngay trong phòng riêng, mãi sáng hôm sau mới có người biết, đưa vào nhà thương thì chị với bào thai trong bụng đã chết.  Chị Nga sụt sùi đưa mẹ một xấp thư:
 
     -  Khi em Hằng bằng lòng cho làm đám cưới, em đòi cháu phải hứa đưa mấy lá thư của cậu Trương viết cho em ngay sau lúc em rời nhà, nhưng cháu lần lữa, định từ từ em về thăm sẽ khuyên em bỏ đi, chẳng đưa làm gì.  Nhưng bây giờ thì em bỏ, em đi luôn, đi mãi mãi...
 
Chị nấc lên:
     -  Đây cháu xin trả lại cậu Trương.  Cho cháu có lời xin lỗi. Huhuhu...  Hằng ơi, sao em nỡ bỏ chị?  Trời ơi là trời...!!!
 
Mẹ thương quá, ôm lấy chị và nước mắt mẹ cũng trào ra dàn dụa.
Quỳnh đón lấy xấp thư trong tay mẹ, ngạc nhiên hỏi chị Hoa:
 
     -  Sao có tới bẩy lá thư?  Em đưa có một lần thôi mà.
 
Chị Hoa gật gật cái đầu:
     -  Thì sáu lần kia, tao đưa...
     -  Sao chị không đưa luôn lá thứ bẩy?
     -  Tại tao biết mày đang vòi mẹ may áo dài.  Với lại lần thứ sáu tao bị cụ Giáo dọa nếu đến nữa là chết với cụ.
 
Còn mẹ tiễn chị Nga ra cửa rồi trở vào bảo:
 
     -  Hoa viết thư cho anh Trương, biết chuyện này, thế nào anh cũng về thăm nhà.

 
antrinh




Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 03/Jan/2012 lúc 8:27am
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 14/Jan/2012 lúc 9:07am

Những Điều Mơ Ước 

(Phạm Tín An Ninh)

Posted on 07/10/2011

Có một dạo, đi đâu tôi cũng nghe thiên hạ hát bài Con Chim Đa Đa, “sao không lấy chồng gần mà đi lấy chồng xa..” rồi đến bài Chị Tôi, “thế là chị ơi rụng bông hoa gạo”. Đúng như người ta nói, Thơ và Nhạc có ngôn ngữ riêng của nó. Một người không có nhiều chữ nghĩa như tôi, nhiều khi say mê hát một bài hát mà sau đó suy nghĩ mãi vẫn không hiểu rõ ngọn ngành, ý nghĩa một vài câu. Trong bài Chị Tôi, tôi cũng rất ư là lờ mờ cái sự kiện.. rụng bông hoa gạo..và trời cho làm thơ.. này lắm. Dù vậy tôi vẫn thấy bản nhạc phổ từ một bài thơ chỉ vỏn vẹn mấy câu này, khá hay. Mà ngay đến cái sự hay này tôi cũng mơ hồ, không biết có đúng là tôi biết thưởng thức thơ nhạc không, hay là chỉ vì có sự đồng cảm mà tôi thấy lòng mình xúc động. Bởi vì mỗi lần nghe ai đó hát bản nhạc Chị Tôi, tôi lại da diết nhớ đến bà Cô Út của tôi.

Từ lúc chưa tròn hai tuổi, tôi lớn lên trong cái bất hạnh của một người chưa hề có “bông hồng cài áo”. Mẹ tôi mất quá sớm, đến nổi tôi không bao giờ hình dung được khuôn mặt hiền từ phúc hậu của bà như lời cha tôi kể lại. Nỗi bất hạnh đó lại càng lớn hơn, khi tôi không có một bà chị nào để được dịp nhìn dung nhan Chị mà mơ tưởng đến bóng hình của Mẹ. Ba tôi đang dạy học ở trường Pháp Việt thì bị Việt Minh đưa ra liên khu năm làm công tác “xóa nạn mù chữ”. Khi lớn lên một chút, bắt đầu nhận hiểu được đôi ba điều quanh mình, tôi chỉ biết là hai anh em tôi lớn lên ở nhà ông bà nội, và trong vòng tay yêu thương cùng giọng hát ru hời của bà Cô Út.

Cô út tôi lớn hơn tôi hơn một con giáp. Ở nhà quê nhưng bà có cái tên nghe rất lạ: Phạm Thị Mẫu Đơn. Cho mãi đến lúc đi học tôi mới biết được cái tên này, vì mọi người đều gọi cô là con Út hay cô Út. Sau này tôi hỏi ba tôi về cái tên trong giấy tờ của Cô, được ông giải thích: Sự thực thì tên trong acte de naissance (khai sanh hồi thời Pháp thuộc) của Cô út là Pham Thi Mau Dan (Phạm thị Mậu Dần), nhưng khi Cô tôi lớn lên và có chút nhan sắc, thì ông bà nội lại lo cho cái tuổi Dần cao số của Cô, nên khi có lệnh làm bản thế vì khai sanh tiếng Việt, ông bảo ba tôi xuống Huyện, nhờ ông anh họ làm chánh lục sự, sửa tên cô tôi thành Mẫu Đơn. Mang tên một loài hoa mà suốt cả một đời cô tôi không biết đó là loại hoa gì, chỉ nghe thiên hạ bảo loài hoa này đẹp lắm, thế thôi.

Có một điều chắc chắn là khi cô sinh ra Trời đã không “cho làm thơ”, vậy mà suốt cả một đời Cô vẫn bị “vấn vương với sợi tơ trời, tình riêng bỏ chợ tình người đa đoan”. Mà khổ thay, thằng cháu của Cô cũng dốt nát, chứ phải có tài năng một chút thì hôm nay nó cũng viết một bản nhạc hay chí ít cũng làm được mấy câu thơ để ca ngợi Cô. Vì so với người chị trong mấy bản nhạc Chị Tôi, bà Cô của tôi coi bộ còn thánh thiện và tội nghiệp hơn nhiều lắm.

Cô lo lắng chăm sóc hai anh em tôi không thua bất cứ một bà mẹ mẫu mực nào trên thế gian này. Lòng Cô lúc nào cũng ” bao la như biển Thái Bình rạt rào”, lời của cô lúc nào cũng “tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào” mà ông nhạc sĩ Y Vân đã từng ngợi ca, vinh danh người mẹ. Cô cũng là cô giáo vỡ lòng, dạy tôi hai tiếng i tờ, những câu tục ngữ ca dao. Lớn lên một chút, tôi được Cô ngồi bên cạnh dạy đọc truyện Chàng Nhái Kiển Tiên, Thạch Sanh Lý Thông, Phạm Công Cúc Hoa cho bà Nội tôi nghe mỗi tối. Mùa hè, tôi mê đá dế, Cô dẫn tôi ra trước hồ sen tìm bắt những con dế mun mà mỗi trưa Cô không ngủ, ngồi rình để nghe nó gáy từ chỗ nào. Thấy bọn trẻ hàng xóm thả diều, Cô cũng mò mẫm cả một ngày làm cho tôi cái diều to nhất. Tôi mê nuôi chim, Cô đi khắp nơi tìm mua cho tôi hai con chim keo màu xanh mướt và năn nỉ ông chú tôi làm cho tôi cái lồng thật đẹp. Những lần bị “ấm đầu”, tôi tha hồ nũng nịu, làm tình làm tội Cô tôi. Cô ngồi suốt bên cạnh, đắp lên trán tôi một cái khăn ướt, nấu cháo cá bỏ nhiều tiêu cho tôi ăn để “tháo mồ hôi”. Nghe nói Cô cũng ham học lắm, định xin ông bà nội cho học xong cái bằng primaire thì theo ông chú tôi đi dạy học mấy lớp nhỏ trường làng, Nhưng rồi mẹ tôi bất ngờ qua đời, bỏ lại hai anh em tôi. Cô đành phải nghỉ học ở nhà để chăm sóc hai thằng cháu dại, một đứa bốn tuổi và một đứa vừa mới lên hai. Năm tháng cô quanh quẩn trong nhà, làm công việc gia đình và lo lắng cho hai anh em tôi. Khi nào rảnh rỗi Cô nhờ ông chú của tôi chỉ cô học thêm mấy chữ tiếng Tây.

Cô chỉ có một người bạn thân, đó là bà cô họ của tôi. Hai người cùng tuổi và học chung một lớp. Khi Cô Út nghỉ học, thì bà cô họ này vẫn tiếp tục đi học mấy năm nữa, sau này làm y tá và lấy một ông chồng Tây, làm trong viện Pasteur của bác sĩ Yersin ở Nhatrang. Bà đi đó đi đây, lâu lâu trở về thăm quê vài bữa. Lần nào về cũng ghé lại thăm Cô Út tôi và trò chuyện cả đêm. Trông bà thật sang trọng. Cô Út thì trầm trồ những món nữ trang đắt tiền, nhất là sợi dây chuyền vàng có mặt ngọc thạch, thời ấy rất hiếm hoi. Còn tôi thì say mê chuyện đi đó đi đây mà bà cô họ thường kể cho cô cháu tôi nghe.

Dường như từ ngày bà cô họ đi theo chồng, Cô Út không còn ai tâm sự, nên Cô thường tâm tình với anh em tôi về chuyện tình duyên của mình. Có một ông thầy giáo dạy cùng trường với chú tôi, gốc Bình Định, khá bảnh trai, lớn hơn Cô hai tuổi, rất thương Cô và có nhờ người đến mai mối, nhưng Cô Út phần vì thương cảnh mồ côi của anh em tôi, một phần bị ám ảnh bởi những lời đồn đãi của thiên hạ: “tuổi Dần cao số, chỉ hạp với tuổi Dần”, nên Cô từ chối cuộc hôn nhân. Ông thầy giáo Bình Định buồn tình nên xin đổi đi xa, làm lòng Cô cũng xốn xang một dạo.

Năm tôi lên bảy, quê tôi có một trận lụt lớn, trận lụt tháng mười. Tôi nhớ loáng thoáng lời Cô tôi giải thích, vì “ông tha mà bà không tha, bà cho cây lụt hăm ba tháng mười“. Nước từ đâu không biết tràn qua, kéo theo nhiều nhà cửa cây cối và cả trâu bò. Nhà ông nội tôi rộng lắm, mấy cây cột lớn có chạm trổ nhiều hình cầm thú, có mái ngói âm dương và nằm trên một nền gạch khá cao, được bao bọc bởi đủ thứ cây ăn trái, vậy mà bây giờ chung quanh tôi chỉ thấy toàn nước và nước. Ông Nội ra lệnh cho Cô phải giữ kỹ anh em tôi trên bộ phản trong nhà. Hai ngày sau mưa gió đã tạnh, nhìn qua khe cửa, anh em tôi thấy nước ngập cả sân nhà (nhà ông bà nội tôi có cái sân vuông khá rộng bằng xi măng, có bờ thành thấp chung quanh), nên năn nỉ Cô Út ra bịt mấy cái lổ lù, không cho nước rút, và đứng trên thềm nhà canh chừng cho anh em tôi cởi truồng xuống sân bơi lội. Bất ngờ tôi phát hiện trong sân có mấy con cá, anh em tôi tha hồ hò hét rượt bắt cá. Ông Nội tôi nghe ồn ào, chạy ra nhìn thấy hai thằng cháu nội đang bì bõm trong cái sân ngập tràn nước lụt, ông không la chúng tôi mà rầy Cô Út tôi một trận, rồi cấm cung cô cháu tôi ở trên căn nhà thờ, lúc nào cũng đóng kín cửa, mà trước đây rất ít khi tôi dám tới đây, vì rất sợ mấy cái bàn thờ có treo những tấm hình và nhiều bài vị viết chữ nho, nhất là hai cỗ quan tài sơn đỏ, có hình con rồng con phượng hai bên. Cô tôi bảo đó là hai chiếc quan tài bằng gỗ quí để dành cho ông bà nội đến lúc qui tiên..

Thấy anh em tôi sợ, Cô Út trấn an bọn tôi bằng cách kể chuyện linh thiêng của những ông bà, tổ tiên đã khuất. Vong linh ông bà lúc nào cũng ở bên cạnh để phù hộ cho con cho cháu. Cô còn bảo nếu có ước mơ điều gì, thắp hương thành tâm khấn nguyện, ông bà sẽ ban cho những điều ước muốn đó.

Cô hỏi tôi, nếu bây giờ khấn nguyện xin ông bà, thì tôi sẽ mơ ước được điều gì. Nhớ tới chuyện đi đó đi đây mà tôi rất say mê mỗi lần bà cô họ có chồng Tây kể lại, tôi nhanh nhẩu:

- Con mơ ước mai mốt lớn lên con được đi đó đi đây như bà cô họ vậy.

Rồi tôi hỏi ngược lại Cô Út, Cô nhìn tôi cười:

- Còn Cô thì chỉ mơ ước được một sợi dây chuyền mặt cẩm thạch màu xanh như của cô ấy, và có khắc hai chữ MĐ chính giữa.

Tôi tin lời Cô, kéo tay Cô đến trước bàn thờ thắp hương để hai cô cháu vái lạy xin Ông bà ứng nghiệm cho những điều mơ ước. Cô chìu tôi, hai cô cháu quì trước bàn thờ. Cô thì im lặng, còn tôi thì nói thật to lời ước của mình. Tôi sợ ông bà già quá, lảng tai, không nghe rõ lời cầu xin của mình.

Mấy năm sau, tôi đành phải rời quê, chia tay Cô Út vào Nha Trang đi học. Cô may cho tôi mấy bộ đồ mới, bao nhiêu tiền dành dụm được cô sắm cho tôi một chiếc xe đạp có ghi đông hình chữ U mà tôi rất thích. Những năm học ở Nha Trang, dù tuổi đã lớn, nhưng lúc nào tôi cũng thấy thiếu vắng vòng tay và những lời trìu mến của Cô tôi. Mỗi lần nghỉ hè về quê, tôi vẫn quanh quẩn ở bên Cô, như thuở mới lên ba, lên năm ngày trước. Lúc này Cô tôi đang làm nghề thợ may, nhưng chỉ làm việc tại nhà, để tiện việc săn sóc ông bà nội tôi, đã đến lúc tuổi già sức yếu. Cô tự tay may cho anh em tôi mấy bộ đồng phục học trò. Mùa hè trời nóng, tối nào cô cháu cũng mang chiếu ra trải bên cạnh hồ sen trước nhà. Trong gió nội hương đồng, cô cháu nằm tâm sự thâu đêm.

Khi biết tôi đi lính, Cô Út buồn ghê lắm. Hết ngăn cản rồi năn nỉ tôi. Cô bảo tôi không thương Cô, nên bỏ Cô mà đi lính, biết bao giờ Cô cháu mới được bên nhau như những ngày xưa, rồi Cô biết còn ai để mà tâm sự.

Nhớ tới trận lụt tháng mười năm nào, Cô dạy cho tôi thắp hương khấn nguyện ông bà, tôi thủ thỉ với Cô:

- Con đi lính là nhờ Ông Bà trên bàn thờ đã ứng nghiệm cho con điều ước, được đi đó đi đây, đúng như Cô bày cho con đó.

Cô vừa cười vừa lau nước mắt.

Khi vào quân trường, hai người đầu tiên tôi viết thơ là Ba tôi và Cô. Tôi kèm theo tặng Cô tấm ảnh mặc quân phục, tóc vừa cắt ngắn ba phân. Cô viết thư khen “chú lính sữa của cô trông oai phong ghê lắm”.

Mấy tuần sau khi tôi được gắn alpha, Cô theo Ba tôi vào tận quân trường thăm tôi, mang theo cho tôi cả chục xoài tượng và mấy cái bánh rán (bánh cam) mà lúc nhỏ tôi rất thèm ăn.

Ra trường, trước khi trình diện đơn vị, tôi dành trọn mười lăm ngày phép quanh quẩn bên Ba tôi và Cô. Lúc này ông bà nội tôi đã qua đời và cô vẫn ở vậy chăm sóc ngôi nhà từ đường và lo việc cúng kỵ ông bà. Đêm nào Cô cũng niệm hương khấn vái thì thầm trước bàn thờ ông bà nội và má tôi, rồi bảo tôi cùng lại chấp tay lạy. Tôi nghe Cô xin ông bà và Má tôi phù hộ tôi, tránh được lằn tên mũi đạn.

Hơn mười năm trong lính, toàn là đánh đấm. Rất nhiều lần thoát chết trong đường tơ kẻ tóc, tôi tin vào những lời thì thầm khấn vái hằng đêm của Cô.

Lần đầu tiên về phép từ một chiến trường khói lửa ở cao nguyên, tôi dành dụm mấy tháng lương, và mất hai ngày ở thành phố Ban Mê Thuột tìm mua cho Cô sợi dây chuyền vàng có mặt cẩm thạch hình trái tim, loại đắt nhất. Tôi ngồi chỉ cho họ kẻ hai chữ MĐ thật đẹp chính giữa.

Tôi về bất ngờ. Khi mới bước vào cổng nhà nội, tôi thấy Cô đang quét lá dưới gốc cây xoài. Con chó không nhận ra tôi sủa inh ỏi, Cô dừng tay nhìn. Mãi khi tôi đến gần Cô mới nhận ra. Cô nắm tay tôi mắng yêu:

- Tổ cha mày, vậy mà Cô cứ tưởng là ông thầy nào.

Tôi cười đùa:

- A, chắc là Cô Út tưởng con là ông thầy Bình Định ngày xưa chớ gì.

Buổi chiều, sau khi cơm nước xong, tôi dắt tay Cô tôi lên căn nhà thờ để cùng tôi thắp hương và lạy ông bà. Khi đứng lên, tôi bảo Cô nhắm mắt lại để thấy một điều kỳ diệu, rồi choàng vào cổ Cô sợi dây chuyền tôi vừa mua tặng. Lúc mở mắt ra, Cô mân mê cái mặt cẩm thạch rồi cảm động nắm tay tôi:

- Cái này mắc tiền lắm. Con đi lính lương ba cọc ba đồng, lấy tiền đâu mà mua tặng Cô.

Tôi cười:

- Đâu phải con mua, mà là ông bà cho Cô theo lời ước của Cô đó chứ. Cũng như ông bà đã cho con bây giờ được đi đó đi đây rồi đây nè. Lời cầu xin của Cô cháu mình linh thiêng quá phải không Cô ?

Thời gian này ở quê nội tôi mất an ninh. Ban ngày tôi quanh quẩn bên cô. Đến chiều, Cô dắt tôi xuống nhà chú tôi ở bên huyện ngủ. Cô ở với tôi tới tối mịt mới về.

Ngày mãn phép, tôi trở lại đơn vị, Cô giặt ủi mấy bộ áo quần của tôi xếp vào túi xách, kèm theo một gói xôi đậu xanh, để ăn dọc đường. Ngồi trên xe đò, khi lấy gói xôi ra ăn, tôi thấy có một cái túi nhỏ may bằng vải, mở ra tôi mới biết, một xấp tiền mới tinh xếp ngay ngắn trong đó. Nhớ tới cô, nước mắt tôi cứ trào ra.

Tôi theo đơn vị lưu động nay đó mai đây, nên rất khó nhận thư từ hộp thơ KBC hậu cứ ở Ban Mê Thuột. Từ Quảng Đức, xuống Lâm Đồng rồi Phan Thiết. Mãi hơn nửa năm sau tôi mới nhận được cùng một lúc năm lá thư của Cô tôi gởi. Tôi mừng, khi Cô kể là có một ông thầy giáo gốc Huế, cùng tuổi Dần với Cô, đã có một đời vợ, cùng làm nghề dạy học. Nhưng chỉ mới vài tháng sau đám cưới, người vợ trẻ bị chết cùng với mấy đứa học trò trong một trận pháo kích. Ông buồn quá, một phần không muốn mỗi ngày bị ám ảnh bóng hình của người vợ trẻ vừa mới chết oan, một phần không muốn nhìn thấy cái thành phố có những lăng tẩm uy nghi của một triều đại, nhưng đã để lại quá nhiều tranh chấp tôn giáo, phủ bóng mây mù chính trị lên từng ngôi trường, từng bục giảng. Bạn bè ông có mấy kẻ đã vào bưng. Ông xin chuyển vào dạy ở quê tôi vì có gia đình người bác ruột, ngày xưa làm xếp ga rồi lấy vợ ở lại đây luôn.

Tôi viết thơ cho Cô, lên mặt thuyết giảng tình yêu, nào chuyện “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ” nào là “cả hai người cùng một tuổi Dần, thì sau này tát biển đông cũng cạn“.

Mấy tháng sau tôi nhận thư hồi âm của Cô, có kèm theo lá thư ngắn của ông Thầy Huế mà nội dung là một bài thơ ngợi ca người lính.

Tôi để dành tiền lương hằng tháng, chờ ngày về ăn đám cưới. Tôi đến một tiệm bán hàng thêu ở thành phố Phan Thiết đặt thêu một bức tranh có hình hai con cọp âu yếm nhau trong một rừng đầy hoa sim tím dưới ánh trăng để làm quà cưới cho Cô. Sau trận Mậu Thân, đơn vị tôi tiếp tục mỗi ngày sống trong lửa đạn. Tôi không nhận được lá thư nào của Cô tôi. Tôi nghĩ chắc là Cô đã làm đám cưới, nhưng không biết có theo chồng về thăm Huế hay không. Tôi lo cho Cô, khi biết cả thành phố Huế đang đắm chìm trong vành tang trắng.

Mấy tháng sau, tình hình trở lại yên tĩnh, được mười ngày phép, tôi khăn gói về thăm quê. Cô tôi vẫn sống âm thầm một mình trong nhà ông nội, Đám cưới không thành, không phải ông thầy Huế phụ tình, như một vài người bà con trong họ đã cảnh giác Cô từ lúc mới quen ông:” đừng có quá tin mấy chàng trai xứ Huế“. Oan ức và tội nghiệp cho ông. Ông về Huế ăn Tết và xin cha mẹ được cưới Cô tôi, nhưng rồi không ngờ phải cùng chịu chung số phận với mấy ngàn người bất hạnh. Ông mất tích trong đêm mùng hai Tết. Mãi đến ba tháng sau, người nhà mới tìm được xác của Ông trong một hố chôn người tập thể.

Cuối cùng thì.. Cô tôi “vẫn chưa lấy chồng! “. Trên bàn thờ, tấm ảnh nhỏ của ông Thầy Huế được đặt ở một góc khiêm nhường.

Năm 1975, miền Nam bất ngờ thua trận, tôi bị tù đày từ Nam ra Bắc, đến tận Lào Cai, Yên Bái. Ba tôi và ông chú bị bắt vào trại cải tạo trong Nam. Vợ con tôi cùng gánh chịu bao đắng cay hệ lụy, bơ vơ nheo nhóc. Lá chưa rụng mà phải về cội, vợ con tôi lại dắt díu nhau về ở với Cô tôi trong ngôi nhà xưa của ông bà nội, bây giờ trở nên trống vắng, nên chắc buồn và tĩnh mịch hơn xưa. Vợ tôi phải bươn chải làm ăn, nuôi bầy con bữa đói bữa no. Cô tôi bán đủ thứ trong nhà, và cuối cùng bán luôn cả sợi dây chuyền mặt cẩm thạch mà cô đã từng nâng niu như bảo vật, để lo cho mấy đứa con của tôi, và cùng vợ tôi dành dụm gởi cho tôi một ký lô đường và mấy lọ tép mỡ sau khi biết tôi vừa trải qua một cơn kiết lỵ, chỉ còn da bọc lấy xương. Tội nghiệp, tôi chỉ được phép nhận 200 gram đường và một lọ tép mỡ, số còn lại bị sung vào nhà bếp hậu cần, vì số quà gởi “ngoài qui định, không nằm trong chính sách“.

Tháng 6 năm 1976, ba tôi chết trong trại cải tạo Đá Bàn. Nhưng mãi đến hai năm sau tôi mới nhận được tin buồn. Tôi khóc đến không còn nước mắt.

Tám năm sau, tôi cũng được thả về. Lúc này vợ tôi không còn sống ở quê nội tôi, vì không tìm ra công việc gì làm, nên phải dắt theo hai đứa con nhỏ nhất trở lại Ninh-Hòa sống cùng ông bà già vợ của tôi, rồi chạy được cái “hộ khẩu” ở đây luôn. Còn bốn đứa con lớn thì vẫn ở lại quê nội tôi, nhờ cô tôi nuôi nấng. Sum họp được mới năm hôm, thời gian chưa đủ làm quen với mấy đứa con, mà lúc ra đi đứa nhỏ nhất còn nằm trong bụng mẹ, tôi được công an thị trấn Ninh Hòa gọi lên cho biết là chính quyền trên huyện không chấp nhận tôi tạm trú ở đây. Tôi bị gởi trả lại trại tù, rồi được chỉ định về “quản chế” tại nơi sinh quán. Cuối cùng, thì tôi cũng trở lại trong vòng tay của Cô tôi. Có điều bây giờ, Cô phải nuôi thằng cháu, đã gần nửa đời người, mà bỗng dưng trở thành vô gia cư nghề nghiệp. Ăn cơm nhà nhưng hằng ngày tôi phải đi đắp đê, làm thủy lợi cho “nhân dân”. Cô tôi bây giờ ốm yếu, đôi mắt buồn hiu hắt. Sau mấy năm khóc than cho những mất mát đổi thay trong gia tộc, Cô đã già nhiều trước tuổi. Vậy mà bây giờ còn phải lo gánh vác cho mấy cha con tôi. Đã vậy, ông chú của tôi, sau khi ở trại cải tạo về, phải dắt vợ và hai đứa con gái đi kinh tế mới. Bà thím bị sốt rét chết hai năm trước khi tôi về. Cứ vài hôm, ông chú phải tay dắt tay bồng đưa hai đứa con về đây gởi cho Cô tôi. Nhiều lúc âm thầm nhìn Cô “lưng còng uốn nặng kiếp long đong“, tôi nghẹn ngào muốn khóc, nhưng có lẽ tôi cũng không còn nước mắt.

Khi tính chuyện vượt biển, tôi tâm sự xin Cô cùng đi với chúng tôi. “Dù trôi nổi ở đâu, có cô bên cạnh là con mãn nguyện rồi“, Nhưng cô bảo Cô đã già, không muốn rời bỏ quê hương, hơn nữa còn phải trông coi ngôi nhà từ đường và mồ mả ông bà, không để cho hương tàn khói lạnh. Và còn phải phụ giúp ông chú tôi đang ốm đau, lo cho hai đứa con của chú ấy nữa.

Mấy ngày sau, tôi thấy Cô xuống tóc, và ăn chay trường. Đêm nào cũng quì trước bàn thờ. Tôi biết là Cô đang cầu nguyện cho tôi đi đến bến bờ. Hôm tiễn biệt, Cô nắm chặt tay tôi: “xin ông bà và cha mẹ con phù hộ cho vợ chồng con và mấy đứa nhỏ” rồi im lặng nhìn tôi với hai hàng nước mắt.

Thuyền ra đến hải phận quốc tế thì gặp bão. Mưa gió suốt mấy ngày, không còn trăng sao để mà định hướng. Tất cả đàn bà con nít xuống dưới khoang thuyền. Chỉ có bọn đàn ông chúng tôi ở lại phía trên chống chọi với phong ba. Trong những lúc nguy khốn nhất, tôi lại nghĩ đến Cô, nhớ những lời cầu nguyện của Cô mà lấy lại niềm tin và can đảm. Cuối cùng, một chiếc tàu chở dầu của Vương quốc Nauy đã cứu vớt chúng tôi trước khi cơn bão chính ập tới. Từ trên tàu, vị thuyền trưởng giúp chuyển hộ mỗi người ba cái điện tín cho thân nhân. Người đầu tiên tôi báo tin mừng là Cô.

Sau khi định cư, tôi thường xuyên gởi thư thăm Cô và kèm theo tiền để giúp Cô cùng gia đình ông chú, và xây lại mồ mả ông bà. Cô mừng ghê lắm. Lá thư nào Cô cũng viết thật dài, khuyến khích tôi cố gắng làm lại cuộc đời và dạy dỗ cho con cái phải biết sống theo đạo lý và đừng bao giờ quên quê hương, nguồn cội của mình.

Cô ở xa tôi cả nghìn trùng mà lúc nào tôi cũng tưởng Cô vẫn đang đâu đó bên mình. Mỗi lần gặp khó khăn, phiền muộn trên xứ người, cứ nghĩ đến Cô là lòng tôi phấn chấn. Bây giờ Cô đã già và chắc cũng yếu đi nhiều lắm. Vậy mà chỉ với hình bóng thôi, Cô đã cho tôi biết bao nghị lực.

Hai năm sau, tôi lại nhận được tin buồn. Ông Chú của tôi, sau bao năm chống chọi với bệnh tật mang về từ trại cải tạo, vừa mới lìa đời, giao hai đứa con gái lại cho Cô tôi nuôi nấng. Tội nghiệp cho Cô, đúng là “Trời không nín gió cho ngày Cô sinh“, tuổi già rồi mà phải còn cưu mang con cháu. Lá thư báo tin buồn này là lá thư cuối cùng Cô tự tay nắn nót viết cho tôi. Những lá thư sau đó, mấy đứa con gái ông chú tôi viết. Tôi lo lắng hỏi Cô, Cô chỉ bảo đôi mắt của cô bây giờ hơi kém, nhưng dặn dò tôi không phải gởi thuốc thang gì, vì ở trong nước Cô mua cũng được. Cô khẩn khoản muốn tôi đưa mấy đứa con về cho Cô gặp lại một lần.

Hơn mười năm sau, khi nghe nhà nước có chút đổi thay, gọi những người vượt biển có tội phản bội tổ quốc ngày xưa là khúc ruột ngàn dặm, tôi dắt theo ba đứa con lớn về thăm quê hương. Đúng hơn là về tìm ngôi mộ cha tôi chôn trong núi bên trại cải tạo Đá Bàn và thăm bà Cô suốt cả một đời bảo bọc chúng tôi. Nhớ lại kỷ niệm xưa, tôi nhờ cô con gái lớn ở bên Cali, đến khu Phước Lộc Thọ tìm đặt mua cho tôi một sợi dây chuyền vàng, có mặt màu xanh cẩm thạch, khắc hai chữ MĐ chính giữa. Tôi nghĩ có lẽ đây sẽ là món quà có ý nghĩa, đền bù lại sợi dây chuyền tôi tặng Cô lúc trước, và để cho Cô được trẻ lại những ngày xưa.

Tôi không báo trước ngày về, vì muốn làm cho Cô bất ngờ và không phải khăn gói vào tận Sài gòn để đón cha con tôi, như lời cô hứa.

Quê nội tôi, cái làng Phú Hội một thời trù phú như cái tên gọi, bây giờ sao mà cằn cỗi, điêu tàn. Khi bước vào cổng nhà nội, tôi xa lạ đến thẩn thờ. Ngôi nhà ngày xưa rộng lớn, hồi còn nhỏ tôi đi còn sợ lạc, sao bây giờ nhỏ nhoi, tiêu điều và hiu quạnh quá. Tôi đứng giữa cái sân gạch mà ngày nào trời lụt, anh em tôi tha hồ bơi lội như trong một dòng sông, bây giờ chỉ còn lại cái nền loang lổ, phủ đầy những lá của cây xoài già héo úa, một thời xum xuê làm “bóng mát thiên đường” để Cô cháu tôi ngồi đọc truyện cho bà nội tôi nghe trong những buổi trưa hè. Cái hồ sen tỏa hương thơm ngát ngày xưa, bây giờ là một cái ao cạn đầy cỏ dại. Chỉ còn lại tiếng dế than rên rỉ. Không nghe con chó sủa. Nó là con vật trung thành, không giống như một số người sau tháng tư năm nào, phản suy phù thịnh. Có lẽ nó cũng buồn mà chết rồi sau cuộc đổi đời của chủ. Tôi và ba đứa con lạc lõng trong ngôi nhà mà tất cả đã từng một thời lớn lên ở đó, với biết bao là kỷ niệm buồn vui. Trong nhà không có một ai, ngoài bóng dáng của chính mình ngày trước. Bước ra cửa sau, tôi đứng lặng người khi thấy Cô Út ngồi quay lưng, vãi thức ăn cho một bầy gà. Mái tóc Cô bạc trắng. Cha con tôi đến đứng phía sau lưng, mà Cô không biết.

Mấy đứa con tôi cười khúc khích, Cô quay lại. Tôi ôm chầm lấy cô, nghẹn ngào không nói nên lời. Tôi ngạc nhiên khi nghe cô hỏi: đứa nào đây? Chẳng lẽ mới mười năm mà cô không còn nhận ra tôi. Buông cô ra, tôi suýt hét lên, khi biết là đôi mắt của Cô đã mù. Tôi chỉ thốt lên được mấy tiếng “Cô ơi, thằng Ninh đây Cô“, rồi khóc nức nở.

Sau một khắc yên lặng, tôi nghe Cô cười, rồi đưa hai tay sờ lên đầu lên mặt tôi, rồi đến mấy đứa con tôi.

Tôi dìu Cô vào nhà. Nhưng cô bảo là cô đi được. Cô nói là cả một đời cô ở đây, mọi ngõ ngách và đồ đạc trong nhà như in trong trí. Tôi hỏi mấy đứa con ông chú đâu mà để cô ở một mình. Cô cho biết là nhờ dành dụm số tiền tôi gởi về, đứa lớn đã ra nghề thợ may, vừa lấy chồng, mở tiệm ở dưới huyện. Còn đứa nhỏ, Cô cho đi học làm y tá, vẫn còn ở với Cô.

Thấy chúng tôi về, mấy người hàng xóm sang thăm. Ai cũng nhắc lại cái thời anh em tôi còn bé và ca ngợi Cô tôi hết lời. Không biết ai nhắn tin, hai cô em, con ông chú tôi cũng về ngay, có cả thằng em rể. Sau này tôi mới biết nó chính là cháu họ của ông thầy giáo Huế, người tình của Cô Út ngày xưa.

Có sẵn chiếc taxi thuê bao, tôi mời Cô và mấy đứa em xuống phố ăn cơm, nhưng Cô không cho, bảo hai đứa em con ông chú làm thịt mấy con gà để mấy cô cháu vừa ăn vừa nói chuyện cho vui.

Cả một tuần sau, tôi bận rộn lo việc cải táng phần mộ của ba tôi từ Đá Bàn về chôn trong nghĩa trang gia tộc, bên cạnh ngôi mộ của má tôi và ông bà nội. Cô Út theo ra đến tận nghĩa trang, đưa tay sờ ngôi mộ mới xây của ba tôi, rồi khóc sụt sùi.

Hai tuần sau, tôi quanh quẩn bên cạnh cô tôi, kể lại hầu hết những kỷ niệm ngày xưa, và cuộc sống ở xứ người. Cô bảo có lần nằm chiêm bao, cô thấy ông thầy Huế về thăm Cô, nhưng người ông bê bết máu, Cô lấy khăn lau mãi mà máu vẫn cứ ứa ra.

Đêm nào trước khi đi ngủ, Cô cũng bảo cha con tôi thắp hương và lạy trước bàn thờ. Tôi lại nhớ tới những điều cô cháu tôi ước mơ thuở trước.

E dè mãi, đến đêm cuối cùng, khi đứng trước bàn thờ, tôi lấy sợi dây chuyền vàng có mặt cẩm thạch ra, đeo vào cổ cho Cô. Tôi ôm chặt Cô thì thầm: “xin cho con trả lại Cô cái điều mà ngày xưa cô mơ ước”. Ba đứa con tôi vỗ tay phụ họa: “đẹp lắm ! bà Nội ơi, đẹp lắm!”

Cô tôi không mân mê cái mặt cẩm thạch như lần trước, cách đây hơn bốn mươi năm, khi tôi tặng Cô, mà chỉ đứng lặng im, bất động. Tôi biết, trong đôi mắt mù lòa kia, dù không còn thấy cái mặt cẩm thạch màu xanh có khắc hai mẫu tự tên mình, nhưng Cô tôi đang nhìn thấy cả một quá khứ xa xăm, bao la và sâu thẳm như chính tấm lòng Cô.

Cuối cùng thì tôi cũng phải chia tay Cô, bỏ lại đằng sau dấu tích của cả một phần đời, mà tất cả vui buồn bây giờ đều đã trở thành kỷ niệm, nằm sâu chôn chặt tận đáy lòng. Tôi nghĩ, có lẽ đây là lần cuối cùng tôi gặp Cô.

Dắt ba đứa con bước ra khỏi cổng nhà ông Nội, tôi không dám quay đầu nhìn lại. Một câu hỏi chợt lóe lên trong đầu: Rồi mai này, tôi lại tiếp tục lưu lạc tha phương. Cũng như sợi dây chuyền mặt cẩm thạch tôi vừa mới tặng cho Cô tôi, liệu cái việc đi đó đi đây trên xứ lạ quê người của tôi, có còn là những điều mà Cô cháu tôi đã từng một thời mơ ước?

Phạm Tín An Ninh
Vương Quốc Nauy




mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 23/Jan/2012 lúc 9:37pm


Đầu năm coi mắt

Võ thị Trúc Giang Lúa 9

21 Jan 2012


    Hôm ấy, nhà nhà đang chuẩn bị mừng Xuân mới, tình cờ gặp Lân trước cổng Thất Cao Đài xóm đạo, lúc Cúc đạp xe đi mua vôi ăn trầu cho má nàng, đang đi thấy Cúc, Lân dừng lại, xe đạp của hai người châu đầu vào nhau, trước cổng thất, con đường Bình Nguyên đất đỏ mấy ngày đầu Xuân thật nhộn nhịp, từ chùa tỏa ra mùi nhang trầm thơm nhè nhẹ.

    Anh chàng mở miệng mời cô bạn gái về quê ăn Tết, mà sao thấy khó nói nên câu, Lân lí nhí:

    - Mình tính vô nhà Cúc đây, tính mời Cúc về dưới quê tui chơi, dưới Cái Mơn á. Má tui nói, tui mời bạn bè về ăn đám giỗ bà ngoại, tui muốn mời Cúc về chơi.

    Vừa vịn chặt tay cầm xe đạp, đôi mắt nhìn như mong Cúc nhận lời đừng từ chối. Sau kỳ thi tú tài thì bạn bè tung đi tứ xứ, chỉ còn vài đứa còn nán lại thị xã, có lẽ chưa nộp đơn thi vào đại học hay có đứa chuẩn bị chờ " chàng đến xỏ mũi kéo đi ", hay có đứa lo nộp đơn kiếm chỗ làm ngay thị xã hay dưới quận, huyện để gần gia đình. Quan niệm dưới quê là con gái lớn lên chẳng cần phải học cao, miễn là làm sao " câu " được một chàng rễ con nhà giàu, có của ăn của để, kiếm được cho mình tấm chồng giàu để nhờ vã tấm thân. Vài cô bạn gái sẵn sàng bước lên xe hoa về nâng khăn sửa túi với anh chiến sĩ VNCH oai hùng, ngày cưới cô dâu mặt còn non choẹt, cạnh chú rễ trẻ măng, mặt búng ra sữa, mặc áo trận trông thương ơi là thương, cũng tiệc cưới hai họ, có cổng Vu Quy - Tân Hôn cột bằng lá cây đủng đỉnh, xanh tươi. Họ lấy nhau vì tình yêu, chẳng cần giàu nghèo. Thấy bạn gái lên xe hoa, nhìn lại mình thỉnh thoảng Cúc tự hỏi số phần mình sẽ ra sao ? Chồng mình trong tương lai là ai ?

    Trong tỉnh mẹ của Cúc cũng có quen vài ba gia đình, họ có con trai, các bác cũng ngấm nghé dọ hỏi, nói bóng nói gió, nhưng có lẽ thấy Cúc còn trẻ con quá chưa thể lập gia đình, vã lại chưa có gì trong tay lấy chồng rồi lấy gì ăn, còn đẻ con nữa, chẳng lẽ cạp đất ăn à !! Cúc nghĩ vậy.

    Bọn con trai cũng đâu thua gì, các chàng cũng ra công ngấm nghé vài cô bạn học cùng trường, cậu nào con nhà nông thì ráng kiếm vợ tương lai cũng xuất thân là con nhà nông, có vườn, biết róc lá dừa, bó lá dừa đem ra chợ bán, chứ đừng rước mấy thứ công nương về chỉ biết nhõng nhẽo, ngủ tới trưa trời trưa trật mới dậy, là thứ con gái hư, phải lựa thứ quen chân lấm tay bùn, đặng cưới về thì có nó phụ một tay cho gia đình chồng nhờ, con nhà cũng có đất đai môn đăng hộ đối càng tốt. Quan niệm cưới hỏi dâu rễ dưới quê là vậy.

*****

    Thế là sau tốt nghiệp cấp ba trai gái dưới quê bắt đầu để ý, mà óc tò mò của trai gái mới lớn về tình yêu cũng mơ hồ huyền bí lắm đừng nói chi đến chuyện lập gia đình, cưới về làm vợ, làm dâu, làm chồng, làm cha !! ( các bác đừng cười dân nhà quê chúng em nhá, quê nhưng em chân thật các bác ạ, ghét em nói ghét, thương là em nói thương hà ).

    Trai gái mới lớn mà nghe đóng vai làm chồng làm vợ, trách nhiệm nặng trên vai là các chàng, các nường khiếp. Khiếp nhất có lẽ là Cúc, vì khi nhận lời mời của thằng bạn cùng trường tên Lân về nhà nó ăn đám giỗ dịp Tết, là cũng vì óc " tò mò về tình yêu trai gái " ; sẵn lúc này Cúc đang cô đơn, buồn, chẳng biết làm gì, nên có chàng trai dòm ngó, săn đuổi, rồi mời thì nàng nhận lời. Thế thôi hà, Cúc đâu có ngờ là gia đình Lân đang chờ Lân đưa nàng về để coi mắt !

    Trong lòng Cúc muốn đi ăn đám giỗ dưới quê lắm, dân quê rất nhiệt tình và rất hiếu khách, nhưng Cúc đâu dám đi xuống Cái Mơn một mình, nàng kéo theo con bạn gái, tên Thúy Vân. Thúy Vân biết tẩy thằng Lân để ý ngắm nghé con Cúc. Hai đứa bước xuống ghe trực chỉ Cái Mơn. Lân đã về quê mấy ngày trước Tết, con trai dưới quê thường có bổn phận về sớm phụ gia đình quét dọn, lau nhà, quét bù hóng, chùi lư hương, chưng bày bàn thờ ông bà cho phải đạo.

    Ghe xuống tới bến đò Cái Mơn, Lân đã đứng đó chờ hai cô gái tỉnh thành. Được mang tiếng con gái thị xã dù gì cũng đỡ quê hơn con trai, con gái dưới quận, huyện, Thúy Vân và Cúc ra dáng rất công nương, tiểu thơ đài cát, ( nhưng so với trai gái Sài Thành thì ui thui vẫn còn quê hết chỗ chê nhen...)

    Thấy mặt Lân, hai đứa con gái cười mặt tươi rói, Lân lúng túng mắc cở:

    - Hai bạn đi ghe xa mệt hôn, giờ dìa nhà mình, nhà cách đây cũng hơi xa xa, mình có một chiếc xe đạp thôi...hay là chở mình chở từng bạn về trước, rồi sau đó quay lại đón...

    Hai đứa con gái tỉnh thành ra vẽ ta đây, la lối:

    - Ôi thôi hổng sao đâu, xa thì tụi mình lội bộ, vừa đi vừa nói dóc cho dzui mà, nhằm nhò gì.

    - Ừa đi thì đi, ở nhà má và chị mình đang chờ cơm.

    Con đường lộ đất dắt vô nhà của nó sao mà ngoằn ngoèo quá trời, gặp lúc nước lớn đường đất sình thấy ớn. Hai đứa con gái hí hửng nắm tay nhau đi theo   Lân, anh chàng dẫn chiếc xe đạp, vẫn chiếc áo trắng thư sinh. Về tới nhà thì đã trưa trời trưa trật, đứa nào đứa nấy thấy bụng đói cồn cào. Cúc lễ phép đặt hai ký cam sành lên bàn thờ chấp tay xá ảnh bà ngoại của Lân, Thúy Vân bắt chước làm theo, Vân theo đạo Công giáo.

    Cúc nói với Lân:

   - Hai đứa tụi mình có đem tý quà cúng bà ngoại.

   Cúc đâu có hay sau cánh rèm ngăn bếp, má và mấy bà chị dâu, chị ở đang nín thở theo dõi từng cử chỉ của nàng.

 

****

   Buổi tiệc Lân kêu là " đám giỗ ngoại " sang lắm, mọi thứ được chuẩn bị dưới bếp, có chị ở bưng thức ăn lên, má và chị gái hay em gái Lân làm gì dưới đó, có lẽ đang lui cui nấu nướng. Cúc thắc mắc sao không dọn ăn chung mâm cho vui thân mật, nhưng thôi chả hỏi làm gì. Lân ngồi phòng khách tiếp hai cô bạn gái lần đầu tiên về Cái Mơn thăm vào dịp đầu Xuân. Cậu Lân lấy làm hân hạnh lắm: "Chắc chàng ta là con địa chủ đây mà". Cúc nghĩ thầm trong bụng, quen nhau trong trường nhưng chưa từng có dịp hỏi về gia thế của nhau, quan sát thấy nhà rộng thông thống, thoáng mát, vườn tược cây ăn trái um tùm ngoài sân, lựa lúc Lân đi xuống nhà dưới, Cúc đá vào chân bạn gái, nói thầm:

   - Ê, coi bộ nó con nhà giàu nghen mậy, mầy chịu mòi vô làm dâu nhà nó đi.

   - Bậy mậy, nó khoái mầy, vì mầy kéo tao theo, chứ tao theo làm kỳ đà cản mũi hai anh chị, kỳ cục thấy bà.

   - Bậy bạ mậy, tao đâu có ngờ nó đãi mình thịnh soạn dữ thần vậy nè, lát ăn cơm xong biểu nó dắt mình đi hái trái cây ăn mầy.

    Thúy Vân sáng con mắt, chỉ chờ được đến lúc tuôn ra sân hái trái cây, nhà Thúy Vân ở chợ cái cảnh ấy nàng hiếm có, chứ Cúc xuất thân từ ngoại ô, cũng có dừa, chuối, xoài, cam, ổi, khế, mận...nhà Cúc không thiếu. Cúc ngạc nhiên sao má và chị của Lân tiếp đãi mình quá đỗi ân cần.

    Hai nàng con gái tỉnh thành ăn xong, chẳng cần bưng chén dọn xuống bếp, tức thì chị ở nhanh tay thu dọn. Cúc nghĩ ngay tới cảnh nhà mình, sao mà giống thế, cũng vườn cây ăn trái, tá điền và chị ở lo cơm nước. Lân dẫn hai bạn gái bước ra vườn Sầu Riêng, chao ơi vườn Sầu Riêng mênh mông, mỗi thủa đất cách nhau bằng con lạch nhỏ, kiểu dẫn thủy nhập điền.

    Ở đây người tá điền kêu ba má của Lân là chú mười Vàng, hôm nay chú Mười theo ghe lên tỉnh thành sớm thăm xui gia, chỉ còn má ở nhà. Trên vách phòng khách có treo hình chú Mười, chú có bộ râu dài phúc hậu, mặc bộ bà ba trắng, đi đôi guốc dông, hình ảnh thật mộc mạc hiền lành đạo đức hết sức.

Sau nhà bếp là chuồng heo, mấy con heo mập mạp chui vào chùm lá chuối khô tránh muỗi cắn. Cảnh tượng giống hệt nhà của mình, bất giác Cúc nghĩ:

    - Nhà mình đã vườn tược, xắt chuối, quết chuối nuôi heo, nuôi gà cực khổ, giả mà lấy chồng như Lân, về làm dâu gia đình này, cuộc đời ta cột chặt vào đây sao ? Nghĩ tới đây Cúc rùng mình.

    Vườn nhà Lân có mấy dãy vườn Sầu Riêng, ngước mắt nhìn lên cây, Cúc sợ hãi hỏi:

    - Lỡ nhìn dòm lên trái nó rụng xuống trúng lủng đầu thì sao ?

     Lân cười hiền ru, giải thích:

    - Sầu Riêng chỉ rụng ban đêm thôi, ban đêm thì đâu có ai ra đứng dưới gốc cây làm gì.

    Thúy Vân hỏi tới:

    - Lỡ ban đêm có người vô vườn mình ăn trộm xoài, trộm sầu riêng thì mình làm sao ta ?

    Lân chỉ tay vào mấy con chó, đang nằm ngủ trước nhà, dưới cái nằng hiu hiu, mùa Xuân nhè nhẹ , nói đùa:

    - Trộm làm sao được, chó sủa rượt chạy xúc quần chứ ở đó mà trộm.

   Lại thêm cảnh giống y nhà mình, nhà mình cũng có treo bảng coi chừng chó dữ, cũng sợ trộm lẽn vào nhà ăn cắp thứ này thứ kia, nên ba má nàng nuôi một đàn chó giữ nhà.

Lân lấy móc kéo mấy trái chôm chôm xuống, có trái rụng trúng đất, mọng nước, Lân mời bạn ngay dưới gốc chôm chôm, cam sành xanh um.

   Thấy trời đã quá trưa, được bạn thiết đãi buổi cơm thật thịnh soạn, cà ri bánh mì, bún, bì cuốn chay, thịt quay bánh hỏi, gỏi tôm, bánh tét thịt kho tàu, dưa giá, dưa hấu và trái cây vườn nhà, Cúc ra dấu cho Thúy Vân là tụi mình về là vừa, nhờ Lân đưa ra bến đò. Chiếc ghe tam bảng gắn máy đuổi tôm chạy kêu xình xịch, lướt sóng. Dưới chân là bịch trái cây có cả gói bánh phồng mì Lân nhanh nhẹn nhét vào giỏ của bạn. Cúc được món quà gì thì Thúy Vân cũng được món quà đó. Ghe chạy về hướng thị xã, bỏ lại sau lưng quận Cái Mơn với những dãy chôm chôm đỏ rực, những chùm nhãn ngọt ngào. Cúc đưa mắt nhìn giòng nước đục phù sa lăn tăn gợn sóng, lòng trĩu u sầu, chùn xuống trước tấm tình mộc mạc chân quê của Lân. Cúc thấy dường như nàng chưa muốn dừng chân lại nơi này, đời nàng còn ham bơi ngược giòng nước phù sa cho thỏa chí tang bồng. Và, nàng đã thực hiện đúng điều đó.

Nàng khoanh tay chào má và chị dâu của Lân, bác gái hiền hậu mời:

     - Hôm nào quởn cháu Cúc cứ xuống chú thiếm chơi, tiếc là chú bữa nay đi vắng, chứ ba má của cháu chú thiếm nghe tiếng nhiều rồi. Muốn hai gia đình làm quen thêm vậy mà...

     - Dạ, tụi cháu cảm ơn thiếm đãi ăn quá ngon.

 

*****

  

  Có lẽ không duyên. Không nợ. Nên từ lúc rời quận lỵ Cái Mơn cho tới nay, chưa lần nào nàng gặp lại Lân nữa. Nhắc đến hai chữ Cái Mơn chợt kỷ niệm bạn cũ trường xưa, một thời con gái chợt hiện về, làm Cúc nhớ con đường làng hiền lành, hàng dừa cao bóng mát, rải rác hai bên đường hiện ra vài căn nhà lá đơn sơ. Ngôi miễu và nấm mồ hoang dọc đường mòn dắt tới bến đò. Với Cúc, tất cả chỉ còn là một khoảng ký ức thật sâu đậm mùi vị quê hương, như vị thịt kho Tàu dịp Tết, tấm lòng nồng nàn như màu đỏ trái dưa hấu, tựa màu trái tim chàng con trai miền Nam khi xưa mới lớn . 

Võ thị Trúc Giang Lúa 9 

21 Jan 2012






mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 24/Jan/2012 lúc 4:14pm



Bài đọc suy gẫm đầu năm mới:


Tình Nghĩa, Nghĩa Tình

Khôi An 



Lần đầu tiên tôi có ý định viết chuyện này là năm 1989. Năm đó, cả nước Mỹ xôn xao tranh cãi về việc một người đàn ông đã đốt lá cờ Mỹ ngay trên thềm toà nhà Quốc Hội trong buổi họp thường niên cuả đảng Cộng Hoà. Lúc đó tôi đã nghe nhiều bàn tán về sự kiện này từ phía chống đối cũng như phe ủng hộ. Ngày đó tôi vưà mới tốt nghiệp đại học, chưa để ý nhiều đến những sinh hoạt chính trị xã hội ở chung quanh, nhưng trong lòng tôi đột nhiên dâng lên một cảm xúc gần như là tiếc cho ngươì đàn ông đã làm hành động đó. Nếu ông ta từng nhìn lá cờ Mỹ qua đôi mắt của tôi và của hơn một trăm ngươì bạn đồng thuyền vaò buổi sáng muà hè năm ấy, không biết ông ta có hành động khác đi chăng?

…..

Đêm trung tuần tháng 7 năm 1983 bắt đầu khá êm ả. Con thuyền nhỏ đầy kín ngươì đã ra hải phận quốc tế được gần 24 tiếng. Tôi đã hơi quen với mùi hôi tanh lợm giọng trong thuyền nên cảm thấy hơi tỉnh táo, ngồi bó gối nhìn cô em gái nằm bên cạnh đang mê man vì say sóng. Ngước mắt nhìn lên bầu trời đang chuyển dần từ màu xám sang màu đen thẫm, tôi thầm cầu nguyện cho được bình an. Cám ơn trời, biển khá êm, con tàu không vật vã mà chỉ chồm lên hụp xuống theo từng đợt sóng. Tiếng khóc cuả con nít, tiếng càu nhàu than thở, tiếng chửi thề cũng lắng dần khi mọi ngươì chìm vào giấc ngủ mệt mỏi…

Hình như tôi có thiếp đi một lúc vì khi tôi giật mình choàng dậy thì sự hoảng sợ đã chụp xuống chung quanh. Bác tài công đang hối hả kêu mấy ngươì lái phụ và các thanh niên khác dùng bạt bịt kín khoang thuyền nơi mọi người đang nằm chen chúc. Chiếc đèn măng xông duy nhất trong phòng máy bị thổi tắt phụt sau khi bác tài công ra lệnh:

- Tắt đèn! Tắt hết đèn đi!!!

Lắng nghe những lời thì thào trao đổi một lúc tôi mới hiểu ra rằng tàu chúng tôi đang bị tàu cuớp Thái Lan đuổi bắt. Chúng tôi phải tắt hết đèn chạy xuyên vào biển đen trong khi tàu Thái ra sức rượt theo. Cả tàu đuợc lệnh tuyệt đối im lặng, những đứa bé vưà lên tiếng khóc phải bị bịt miệng ngay. Không biết lúc đó tôi còn trẻ quá, dại dột quá, có nhiều tin tưởng quá, hay vì cảm xúc cuả tôi đã tê dại đi, nên tôi không thấy sợ hãi lắm. Tôi gần như không cảm được sự hãi hùng của hơn một trăm sinh mạng đang loi ngoi trong khoang thuyền bịt kín. Tôi chỉ thấy khó thở vô cùng; tôi chỉ thấy nhẹ gánh cho em tôi đang mê man, chắc nó không phải cảm thấy sự ngộp thở tưởng chừng như không kham nổi mà tôi đang chịu; tôi chỉ biết tự nhủ ráng lên, ráng lên; và tôi không ngừng cầu xin Thượng Đế, Chúa, Phật, và tất cả những đấng thiêng liêng cứu vớt chúng tôi…


Chúng tôi chạy vòng vèo ngay truớc mũi tử thần trong suốt một đêm, và bình minh tới dù không ai mong đợị. Những tia sáng đã quét đi màn đêm đang che chở chúng tôi. Bác tài công buông những câu chửi thề uất hận khi khoảng cách giữa bọn cướp và chúng tôi thu ngắn trong khoảnh khắc… Rồi tôi lại nghe bác lại chửi, nhưng lần này đuợm vẻ ngạc nhiên pha chút vui mừng:

- ĐM, hình như tụi nó bỏ đi hả bây?

Tấm bạt bịt khoang được hé ra cho chúng tôi khỏi chết ngộp, và qua cái khe hở nhỏ đó, một con cá nhỏ xíu bằng ngón tay cái đã phóng vào thuyền, rơi xuống ngay cạnh tôi. Tôi ngước mắt cố nhìn nhưng vì đang ngồi bẹp trong khoang thuyền nên tôi chẳng thấy được gì ngoài một mảng trời đang sáng dần.

Bỗng bác tài công và những nguơì trong phòng máy trên cao vụt la lớn:

- Có tàu! Có tàu lớn ở đàng xa kià!

- Tàu gì vậy? Vái trời cho không phải tàu Liên Xô!

Chúng tôi như đuợc hồi sinh, ai cũng nhỏm lên nhìn nhưng vì lúc đó chiếc tàu kia chỉ là một đốm nhỏ ở xa nên tôi chưa thấy gì cả. Vài phút sau, có tiếng máy rồi một chiếc máy bay trực thăng nhỏ bay qua. Người trong thuyền la hét như điên cuồng, nhiều người đàn ông cởi áo phất lia lịa nhưng máy bay chỉ lượn vài vòng rồi… mất hút. Dù sao chúng tôi cũng có một tia hy vọng ở chân trời, chúng tôi vội nhắm cái chấm ở tít đằng xa mà chạy tới. Và chiếc tàu kia hình như cũng đang chạy về phía chúng tôi vì nó càng ngày càng lớn dần.

Và, suốt đời tôi sẽ không bao giờ quên giây phút đó, giây phút ngươì đàn ông ngồi trên cao la lạc giọng:
- Thấy rồi! Thấy cờ Mỹ rồi!!!

Nước mắt ông ràn rụa trên khuôn mặt khắc khổ lấm lem dầu máy. Mọi người đứng bật lên làm thuyền chao mạnh. Chúng tôi đã thật sự được sống!

Chiếc tàu vớt chúng tôi là một hàng không mẫu hạm của Mỹ. Nó to như một toà nhà mười mấy tầng, những ngươì lính đầu tiên phải leo thang dây xuống để đem con nít và những ngươì yếu sức lên trước. Em tôi đã tỉnh dậy như một phép lạ và chúng tôi bám vào thang dây, dò từng bước leo lên boong tàu. Vưà lên tới nơi, mỗi ngươì được trao một ly sữa và một trái táo trước khi tụ tập trong một góc boong. Và ngạc nhiên thay, trên tàu đã có cả trăm ngươì Việt Nam chạy ra mừng chúng tôi. Thì ra chiếc tàu Mỹ này vừa mới vớt một thuyền vượt biên khác ngày hôm trước. Sau khi mọi ngươì đã lên tàu lớn, những nguơì lính Mỹ tưới xăng lên chiếc thuyền mà chúng tôi vưà rời khỏi rồi châm lưả đốt. Đứng trên boong tàu nhìn vói theo chiếc thuyền nhỏ xíu đang bốc cháy và trôi dần ra xa, biết rằng mình vô cùng may mắn, nhưng lòng tôi vẫn thoáng chút ngậm ngùi…

Tổng cộng thuyền nhân đuợc cứu từ hai chiếc ghe vuợt biên lên tới gần hai trăm năm mươi người. Hồi đó, tiếng Anh cuả tôi kém và tính tình nhút nhát nên không dám hỏi han những người lính ở trên tàu. Tôi chỉ nghe nói lại là chiếc hàng không mẫu hạm này đang trên đuờng đi công tác ở Phi Luật Tân. Họ đã nhìn thấy tàu chúng tôi từ rất xa và quyêt định đi chếch qua để cứu chúng tôi. Chiếc trực thăng bay qua trước khi tàu đến cũng là do vị thuyền trưởng đã gởi tới để xem xét tình trạng của chúng tôi.
Không hiểu vì sao mà trên tàu có sẵn một số quần áo cũ. Chúng tôi đuợc phép lựa những thứ tạm mặc đuợc để thay đổi hàng ngàỵ. Khổ nỗi đống quần áo đã qua sự lựa chọn cuả những người lên trước nên chỉ còn toàn những thứ khó mặc. Tôi nhặt đại hai cái áo to bằng bốn lần khổ người tôi, và một bộ áo liền quần màu xanh bó sát. Chẳng hề gì, tôi vẫn vô cùng sung sướng vì ước mơ gần như hoang đường nay đã thành sự thật: tôi đã trốn thoát khỏi Việt Nam và đang ở trên tàu Mỹ.

Ngày đó tôi vưà học xong trung học. Sau 8 năm đói khổ sau bức màn sắt cuả Cộng Sản, thế hệ chúng tôi hầu như quên mất có một thế giới bên ngoài.. Trong những ngày trên tàu Mỹ tôi đã gặp lại những hành động lịch sự, những cử chỉ nhân ái gần như đã biến mất trong xã hội nơi tôi vừa ra đi. Những ân nhân của chúng tôi ân cần đến từng chi tiết nhỏ, một trong những việc đầu tiên họ làm là phát phong bì, giấy bút cho chúng tôi viết thư báo tin cho người thân. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ chiếc phong bì màu xanh nhạt có hình chiếc hàng không mẫu hạm và tên tàu ở góc, tôi vẫn còn nhớ ánh mắt thương cảm của những người trên tàu nhìn chúng tôi nhếch nhác, bơ phờ dò từng bước lên tàu.

Suốt thời gian trên tàu tôi vô cùng ái ngại cho những ngưòi lính và những sĩ quan đã tốn không biết bao nhiêu công sức để lo cho hơn hai trăm ngươì chúng tôi. Vì hàng không mẫu hạm là đơn vị quân sự nên chúng tôi không được phép ra khỏi phần cuối boong tàu. Mỗi người được phát một tấm chăn dạ màu xám, loại chăn nhà binh Mỹ mà tôi đã thấy trước năm 1975. Chăn rất tốt và khí hậu Thái Bình Dương vào muà hè khá ấm nhưng chúng tôi phải nằm ngay trên boong và gió thổi lồng lộng khi tàu chạy nhanh nên ban đêm vẫn lạnh. Tôi ngủ đuợc rất ít nhưng chính vì thế tôi càng có cơ hội chứng kiến sự tận tâm cuả những người trên tàu. Sáng sớm tôi vưà thức dậy đã thấy ngươì ta đang lăng xăng dọn thức ăn sáng cho chúng tôi. Mất mấy tiếng mới phục vụ hết đám ngươì đông đúc nên chỉ vài tiếng sau là họ lại lục tục lo bữa ăn trưa, rồi ăn tối. Thức ăn quá lạ miệng nên tôi không thấy ngon, ngay cả trái chuối cũng khác ở Việt Nam, nhưng tôi nhớ nhất là ly cà phê đầu tiên trên tàu. Đã từng nếm những ly cà phê đen sánh quậy với sữa đặc ở Việt Nam, tôi ngạc nhiên lắm khi ngậm ngụm cà phê Mỹ pha sẵn. Thật tình, cà phê sao chua lè và trong veo, y như là nước giảo của cà phê Việt Nam!

Vấn đề vệ sinh cho hơn hai trăm người chen chúc trong khoảng không gian nhỏ mới thật là kinh khủng. Thuỷ thủ đòan phải dùng nylon đen che thành mấy phòng tắm quay mặt ra biển, nhà vệ sinh cũng là nylon đen quây quanh mấy thùng sắt to. Mỗi sáng nhân viên trên tàu cùng chúng tôi dọn dẹp, và tôi không thấy người nào tỏ thái độ khó chịu cho dù trong khi làm những việc cực nhọc nhất.


Mấy ngày ngắn ngủi trên tàu mãi mãi là một trong những kỷ niệm khó quên nhất trong đời tôi. Trên chiếc hàng không mẫu hạm hùng vĩ đó, tôi đã đuợc xem cảnh tàu chở xăng xáp vào tiếp nhiên liệu cho tàu lớn ngay trên biển, đã được chứng kiến những sinh hoạt hàng ngày quy củ răm rắp như một trong guồng máy nhưng đuợc thực hiện bởi hải đoàn đầy ắp tình người. Tôi nhớ nhân viên trên tàu ngoài nhiệm vụ riêng họ còn phải chăm sóc đủ thứ cho chúng tôi, và phải lo rất nhiều giấy tờ cho thủ tục gởi chúng tôi vào trại tị nạn Thái Lan. Bận rộn vậy nhưng không khí trên tàu luôn ấm cúng và thân tình. Tôi vẫn nhớ lễ chào cờ mỗi sáng, đám người tị nạn đứng sát bên thuỷ thủ đoàn cùng lắng nghe quốc ca Hoa Kỳ vang vọng. Tôi vẫn mường tượng đuợc cảm giác bàng hoàng khi nhìn lá cờ Hoa Kỳ bay lồng lộng trên bầu trời xanh biếc cuả Thái Bình Dương mà tự nhủ không biết mình sẽ ra sao nếu chiếc tàu này đến trễ chỉ một vài tiếng trong buổi bình minh hôm trước…

Mỗi buổi chiều khi công việc đã xong, người trên tàu túa ra trò chuyện với chúng tôi. Từ vị sĩ quan trong đồng phục trắng toát tới anh thuỷ thủ trong đồng phục xanh, ai cũng ân cần vui vẻ. Họ đuà giỡn với con nít, trò chuyện với mọi nguời, cố lắng nghe những câu tiếng Anh vụng về cuả chúng tôi để tìm hiểu xem chúng tôi có cần thêm gì hay không. Để chúng tôi giải khuây, họ còn căng màn chiếu phim. Tôi nhớ mãi cuốn phim đó là phim Điệp viên 007 James Bond với tựa đề “For Your Eyes Only”. Giữa trời đêm lồng lộng ngàn ánh sao, trên con thuyền băng băng xuyên vào biển đen, những hình ảnh rực rỡ chớp tắt trên màn ảnh vĩ đại làm tôi mơ màng tưỏng như mình đang trôi trong đêm hoa đăng thần thoại của một giấc mơ kỳ diệu…

Như thế đó, tôi đã may mắn gặp đuợc cái đẹp đẽ nhất cuả nước Mỹ trước khi đặt chân tới đất nước này. Tôi đến Mỹ với vài đô la và mấy bộ quần áo tồi tàn nhưng gia tài cuả tôi là lòng cảm mến sâu xa với một miền đất giàu tình ngươì, cùng với hoài bão sẽ cố gắng sống cho xứng đáng với sự hy sinh cuả gia đình, với sự may mắn mà Thượng Đế đã nhờ những “sứ giả” trên tàu Mỹ đem đến cho chúng tôi.

Những bối rối vì ngôn ngữ, những trở ngại khi hội nhập đôi khi có làm tôi buồn nản, nhưng tôi thấy quay quắt nhất là những khi nhớ về Việt Nam. Những chuyện nhỏ nhặt như khi đi chợ Việt Nam, nhìn người ta xăm soi tìm cho được những trái tuyệt hảo nhất trong đám nhãn mọng tươi nhập cảng từ Á châu cũng làm tôi bùi ngùi. Tôi nghĩ đến những trái hơi có tì vết mà không ai thèm mua kia cũng có thể là hàng xuất khẩu từ Việt Nam, là tinh hoa chắt ra từ quê hương nghèo nàn của tôi, là loại hàng “xuất khẩu” mà người đi làm bình thường như cha mẹ tôi không bao giờ mua nổi.

Tuy thế, vấn đề lớn nhất tôi gặp phải trên đất Mỹ là một chuyện tôi chưa hề nghĩ tới: đó là tình cảm của tôi với nước Mỹ đã làm tôi hoang mang. Ngay từ nhỏ, những câu tục ngữ như “Con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nhà nghèo” đã thấm sâu vào lòng tôi. Cho dù tôi biết chắc rằng tôi không liều mạng vượt biển vì miếng cơm manh áo, tôi ra đi không phải vì tôi chê mẹ Việt Nam nghèo khó, nhưng trong trí óc cuả một thiếu nữ đang trưỏng thành một mình trên miền đất mới, tôi cảm thấy gần như… có lỗi khi thấy mình càng ngày càng quen với đời sống mới và thật sự yêu mến quê hương thứ hai này. Có lẽ cảm giác đó giống như đưá con nuôi cuả một gia đình giàu có, một ngày kia trở về quê cũ và cảm thấy băn khoăn khi bắt gặp mình ngập ngừng, xa lạ trước cha mẹ ruột nghèo nàn xấu xí.

Không hiểu may mắn hay không may cho tôi là khi chiến tranh Việt Nam đang diễn ra thì tôi còn nhỏ. Vì thế, trong lòng tôi không có cảm giác hụt hẫng và đau đớn của nhiều người lớn khi bị “đồng minh Mỹ bỏ rơi”. Khi tôi nghe vài ngưòi nói rằng nước Mỹ cưu mang chúng ta không phải vì họ tốt mà vì họ có trách nhiệm với người Việt, tôi hiểu tại sao họ nghĩ thế nhưng tôi không cảm được. Tôi kính trọng suy tư riêng cuả mỗi ngươì, nhưng riêng tôi, tôi thấy cái tinh tuý cuả hiệp chủng quốc vượt khỏi những nhiệm kỳ tổng thống hay đảng phái. Tinh tuý đó đến từ những nguơì dân Mỹ. Có lẽ tình cảm cuả tôi với nước Mỹ đã thành hình từ lúc nhìn con tàu mang lá cờ Mỹ lớn dần từ phía chân trời trên Thái Bình Dưong, từ khoảnh khắc thấy người lính Mỹ ôm chặt em bé nhớp nhúa ói mửa vào lòng để đem lên tàu, từ khi anh thủy thủ ân cần dùng con dao nhỏ cắt bớt chiếc dép cao su cho vừa chân tôi, từ hình ảnh người sĩ quan trong bộ đồng phục trắng toát đang xắn quần, gò lưng kéo dây ghìm cho thuyền nhỏ đứng yên để chúng tôi bước lên bờ biển Thái Lan, từ hình ảnh những ngươì Mỹ đứng một hàng dài lưu luyến dõi theo đám thuyền nhân chúng tôi đang lục tục đi vào trại mà còn cố ngoái lại nhìn qua làn nước mắt.

Tôi tin rằng không phải vị thuyền trưởng nghĩ rằng người Mỹ có trách nhiệm với chúng tôi, hay vì sự may mắn khi con cá nhỏ nhảy vào tàu mà chúng tôi được vớt. Nước Mỹ có quyền không cho phép chiếc hàng không mẫu hạm đi chệch hải đồ để cứu người, giống như bao con tàu khác đã làm ngơ với những chuyến vượt biên kém may mắn. Hơn nữa, những gì không thật sẽ không tồn tại lâu bền, cho nên tình cảm ban đầu cuả tôi với nước Mỹ sẽ mất đi nếu tôi không càng ngày càng thấy Hoa Kỳ là một đất nước bao dung. Tôi không ngây thơ nghĩ rằng – hay mong rằng – nước Mỹ là hoàn hảo; nhưng với tôi nuớc Mỹ là một dòng sông mênh mông, đôi khi cũng đem theo rác dơ, đôi khi cũng dậy sóng nguy hiểm, nhưng dòng sông đó đã rộng lòng đem nước và phù sa đến cho những giống cây đến từ khắp nơi có cơ hội đơm trái ngọt…


Người sống lâu ngày trong bình an, sung sướng thường quên rằng mình may mắn. Người đàn ông đốt lá cờ Mỹ trên thềm nhà Quốc Hội chắc chỉ nhớ đến những rác rưởi trong dòng sông, chắc ông ta không hiểu rằng chỉ ở Hoa Kỳ ông ta mới dám chà đạp quốc kỳ ngay trước toà nhà lập pháp mà không sợ rằng mình sẽ “ra đi không có ngày về”. Ông ta chắc chắn không biết rằng lá cờ đó đã khiến hải tặc Thái Lan buông chúng tôi, đã quyết định giữa cuộc sống bình an ở Hoa Kỳ và cái chết – hay một cuộc sống nô lệ trên xứ Thái đau khổ hơn cả cái chết – cuả hơn một trăm người trên chiếc thuyền vượt biên vào một ngày hè năm 1983.

Thời gian trôi qua. Tôi đã lớn lên và đã hiểu ra rằng tôi không hề phải chọn lựa giữa quê hương thứ nhất Việt Nam và quê hưong thứ hai Hoa Kỳ. Tôi yêu mến đất nước Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ đã cưu mang tôi, cho cây tôi lớn lên thành một cây quýt ngọt, và đất nước này không hề phiền hà khi tôi đem chia xẻ trái ngọt đó với nơi tôi sinh ra. Tôi đâu phải là cá hồi mà phải chọn lựa giưã sông và biển? Tinh thần cuả nước Mỹ luôn khuyến khích mọi người góp sức làm thế giới tốt đẹp hơn và tôi sẽ làm như thế. Tôi sẽ cố gắng để bằng cách này hay cách khác, trao lại những may mắn và cơ hội mà tôi đã được trao. Hy vọng là tôi sẽ góp phần để một ngày nào đó người dân Việt Nam không còn phải tìm cách ra đi cho dù phải trả giá bằng tính mạng hay nhân phẩm.

Tôi yêu Việt Nam đã sinh thành ra tôi và tôi yêu Hoa Kỳ đã duỡng dục tôi. Đôi khi tôi tẩn mẩn phân tích tình cảm cuả mình: với Việt Nam là tình, với Hoa Kỳ là nghiã… Rồi tôi lại loay hoay tự hỏi có phải như vậy không, hay là ngược lại? Cuối cùng tôi bật cười, nghĩ mình thật là lẩn thẩn, bởi vì tình cảm đâu cần gì phân loại và đặt tên.



Khôi An.

Tác giả đến Hoa Kỳ năm 1984, hiện là cư dân cuả Bắc California.  Nghề nghiệp: kỹ sư điện tử tại Intel Cooperation. Bài mới viết  cho biết thêm cô là thuyền nhân và kể lại câu chuyện xúc động:  Một chuyến tầu vượt biển bị hải tặc săn đuổi và vào lúc tả tơi cùng quẫn hết chạy nổi thì thấy lá cờ Mỹ...






mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 08/Feb/2012 lúc 7:17pm

Một bài viết cảm động !
mk






Gia Tài Của Cha Tôi
Nguyễn Duy-An

 
Cha tôi không còn nữa! Cha tôi đã mất ngày 22 tháng 5 năm 1998 ở Việt Nam, để lại lại cho tôi một gia tài vô giá. Đó chính là niềm tin, là lý tưởng, là ý chí và nghị lực giúp tôi vững bước trên đường đời.
Ông nội mất khi cha tôi còn bé lắm! Mấy năm sau bà nội “đi thêm bước nữa” nên cha tôi phải nghỉ học để tìm kế sinh nhai nuôi dưỡng 3 người em còn nhỏ dại mặc dầu lúc đó cha tôi cũng chỉ mới 15 tuổi đầu. Cha tôi không phải là người giỏi, cũng không có tài gì đặc biệt nên đã không thể làm giàu về vật chất nhưng ý chí và nghị lực của ông thật tuyệt vời. Cha tôi luôn luôn can cảm đối đầu với sự thật, cho dẫu có phũ phàng, và sẵn sàng chấp nhận “thua một trận để thắng cả cuộc chiến!”
Lúc còn ở miền Bắc, cha tôi đã từng đi “làm thuê ở mướn”, can tâm chịu nhục nhã để tìm phương tiện nuôi dưỡng các em khôn lớn, dựng vợ gả chồng cho từng người “để cô và hai chú không phải tủi thân vì ông nội chết sớm!”
Sau khi di cư vào miền Nam, ở Bình Giả một thời gian, cha tôi lại một lần nữa đưa gia đình đi dinh điền Phước Tín thuộc quận Phước Bình, tỉnh Phước Long vì sợ con cái mắc phải những cơn bệnh ngặt nghèo vì “ngã nước” nơi vùng đất đầy chướng khí lúc mới thành lập trại di cư này. Nhưng rồi thực tế quá phũ phàng, gia đình tôi lại dọn ngược trở về Bình Giả năm 1966 vì chiến tranh lan rộng trên vùng Phước Long. Một lần nữa, cha tôi đã phải bắt đầu lại từ con số không, ăn nhờ ở đậu anh em bà con, làm thuê làm mướn sống qua ngày, rồi phát rừng kiếm đất cày cấy.
Trong thời gian chạy loạn và di chuyển trở lại Bình Giả, tôi đã mất một năm học, rồi vì tuổi trẻ ham chơi, tôi phải ở lại lớp thêm một năm nữa. Tôi biết lúc đó cha tôi lo buồn nhiều lắm; tuy nhiên, vì sợ tôi chán nản bỏ bê việc học nên cha tôi chỉ ân cần nhắc nhở: “Con phải can đảm vươn lên. Con là niềm tự hào của cha. Nếu tự con không được can đảm cho lắm, thì cũng phải tỏ ra là mình can đảm. Người ta không phân biệt được một người can đảm với một người tỏ ra can đảm đâu…”
Sau năm 1975, khi biết anh em chúng tôi hầu như mất định hướng, không còn hứng thú tiếp tục học, cha tôi chỉ nhẹ nhàng khuyên bảo: “Các con phải cố gắng mà học. Đời cha đã khổ vì ông nội mất sớm, không được học nhiều nên cứ phải cày sâu cuốc bẫm. Thời nào người có học cũng hơn, các con cố lên, đừng chán nản.” Tôi không bao giờ quên giọng nói nghẹn ngào của cha khi tôi từ giã gia đình trở lại trường học vào một buổi sáng cuối thu năm 1975: “Cha không có một hũ vàng cũng không có một tủ sách để lại cho con. Cha chỉ biết cày sâu cuốc bẫm để nuôi con ăn học cho tới đầu tới đũa… Con đừng cầu mong của cải mà hãy cầu mong sự khôn ngoan, hiểu biết, và lòng dũng cảm.”
Chính nhờ những lời khuyên dạy đó mà đầu thập niên 1980, em trai tôi đã trở thành một giáo viên ở vùng “Kinh Tế Mới Xuân Sơn” gần Bình Giả thay vì phải “thi hành nghĩa vụ quân sự” ở Campuchia như bạn bè cùng trang lứa. Và cũng chính nhờ những lời khuyên dạy đó mà sau khi tới Mỹ, tôi đã tìm mọi cách rời khỏi nông trại của người bảo trợ để tự đi tìm cho mình một tương lai qua việc học.
Những ngày đầu gian khổ ở Mỹ, tôi đã nghĩ thật nhiều về cuộc sống vất vả của gia đình đang lây lất qua ngày ở Bình giả, và thường xuyên ôn lại những lời khuyên dạy của cha tôi để làm động lực thúc đẩy mình phải vươn lên. Thời sinh viên độc thân, với tiền học bổng và làm việc trong trường, tôi cũng tạm đủ sống, nhưng đêm từng đêm tôi vẫn đi quét nhà, hút bụi, lau cầu tiêu… để kiếm thêm tiền mua quà gởi về giúp gia đình bên Việt Nam. Tôi rất vui mừng và hãnh diện vì trong gian nan khốn khó của những ngày đầu sống kiếp tỵ nạn, mặc dầu tôi không đủ khả năng để nuôi các em như cha tôi đã từng làm, nhưng tôi cũng giúp đỡ cha mẹ và các em, các cháu được phần nào qua cơn túng quẫn.
Trước Tết Nguyên Đán năm 1998 tôi vội vã dẫn theo đứa con gái đầu lòng mới 8 tuổi trở về khi nghe tin cha tôi bệnh nặng, và sợ sẽ không còn sống được bao lâu! Sau khi hoàn tất thủ tục Hải Quan và bước ra phía ngoài phi trường, tôi đã không cầm được nước mắt khi nhìn thấy cha già một tay chống gậy, một tay bám vào vai em tôi mới có thể đứng vững để nhìn lại đứa con trai sau bao nhiêu năm trời xa cách. Cha tôi gầy gò và xanh xáo quá!
Hai cha con tôi ôm nhau khóc ròng, trong lúc mẹ và các em, các cháu cũng khóc như mưa. Ngày tôi âm thầm lặng lẽ cỡi xe đạp rời Bình Giả ra Láng Cát để xuống thuyền đi tìm tương lai, trời mưa như thác đổ. Chiều nay tôi trở lại, trời Sàigòn nắng chang chang, nhưng sân phi trường cũng ướt đẫm nước mắt của cha, của mẹ, của anh em và con cháu. Người ta trở về trong tiếng vui cười hớn hở, cả Việt Kiều lẫn thân nhân đi đón; chỉ riêng tôi trở về với nước mắt trong vòng tay gầy guộc, yếu đuối của cha già. Khi ôm cha vào lòng để những giọt nước mắt yêu thương nhung nhớ của cha ướt đẫm vai áo, tôi mới nghẹn ngào, nức nở thốt lên: “Cha ơi! Con đã về!” Phải, tôi đã về! Tôi đã trở về bên cha già như đứa con hoang đàng trong Phúc Âm tìm về với Người Cha Nhân Hậu... (Luca 15: 11-32).
Cha tôi vốn ít nói, bây giờ lại bệnh hoạn, đi đứng nói năng đều khó khăn, nhưng cũng không quên hỏi tôi trong nghẹn ngào: “Con có học được tới đầu tới đũa như lòng cha mong ước không?” Nước mắt tôi lại trào ra. Tôi vòng tay ôm cha tựa sát vào người. Trời nóng lắm nhưng lòng tôi lại có cảm giác buốt lạnh và đang được sưởi ấm từ từ nhờ hơi ấm của tình cha...
Chúng tôi về tới Bình Giả lúc nào tôi cũng không hay vì trời đã chập choạng tối nên tôi không nhìn rõ cảnh vật hai bên đường làng. Lúc xe đậu lại trước nhà, tôi mới chợt tỉnh cơn mơ… Anh em bà con trong làng không biết tôi trở về; do đó, khi thấy xe ngừng ở cổng, họ đoán là cha tôi từ bệnh viện trở về nên chạy đến thăm hỏi đầy nhà. Một số người khi biết nhà có Việt Kiều đã âm thầm rút lui vì sợ mang tiếng đến thăm Việt Kiều chứ không phải thăm cha tôi. Khi nghe em tôi nói thế, tôi ra sân đứng chào đón mọi người, nhưng hầu hết lấy cớ “để ông cụ nghỉ” và ra về. Cha tôi mệt lắm, nhưng cũng cố gắng đứng lên nói vài lời cám ơn mọi người rồi mới để em tôi dìu vô phòng nghỉ, sau khi quay sang dặn tôi: “Cha biết con cũng mệt, nhưng cố được thì thay cha ngồi nói chuyện và cám ơn mọi người. Ngày mai con đưa cháu đi một vòng thăm hỏi anh em bà con trong họ, trong làng cho phải phép.”
Mấy ngày Tết tôi bận tối tăm mặt mày vì người vô ra liên tục. Việt Kiều nhà người khác về quê mang quà đi biếu bà con, riêng tôi lại ngồi nhà nhận quà của anh em bà con đến thăm cha tôi đang bệnh: Người mấy quả trứng, người ít trái cây, hộp sữa... Ôi! Cái tình người ở quê tôi đẹp quá! Tôi đã đi qua hơn một nửa quả địa cầu, đến thăm cả trăm thành phố khác nhau, nhưng tôi chưa tìm được ở đâu người ta có “tấm lòng yêu thương chòm xóm” như tại làng Bình Giả – Quê Hương Yêu Dấu của tôi. Có những người đã dọn ra Ngãi Giao hay vào Xuân Sơn, nhưng nghe tin cha tôi đi nhà thương về cũng lặn lội đến thăm. Có người đã nói thẳng với mẹ tôi: “Nghe nói có Việt Kiều về, nhà con cũng ngại lắm, nhưng biết ông ở nhà thương về, không đến không được!”
Cha tôi chỉ là một nông dân tầm thường, nhưng mọi người trong làng đều thương mến... Tôi đã xúc động đến rơi lệ khi bà con trong làng nói cho tôi biết trên con đường nối liền Vũng Tàu và Quốc Lộ số 1, đi ngang cuối làng Bình Giả, trước khi vào tới xã Tân Lập, có một chiếc cầu mang tên cha tôi: Cầu Ông Minh.
Tôi đã chụp hình “chiếc cầu mang tên cha tôi” đưa về Mỹ, để chung vào hộp với tài liệu tôi viết lại những lời khuyên dạy của cha từ ngày còn bé... Đây chính là biểu tượng của một gia tài vô giá cha để lại cho tôi.
Đã từ lâu lắm rồi, trên con đường mòn từ Bình Giả vào Tân Lập, có một đoạn đi qua một con suối thuộc phần đất của gia đình tôi. Chính cha tôi đã vận động bà con đốn cây xẻ gỗ làm một chiếc cầu khá tốt để giúp dân làng vận chuyển nông sản qua lại, và mọi người vẫn gọi là “Cầu Ông Minh”. Khi chính phủ quy hoạch làm đường nhựa và xây cầu xi-măng, bà con trong vùng đã xin phép được chính thức đặt tên là “Cầu Ông Minh” trong bản đồ hành chính của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Việt Nam.
Cầu Ông Minh
Ngày mùng 6 tết tôi phải lên đường trở về Mỹ. Cuộc chia tay nào cũng buồn cả! Riêng tôi, khi nhìn thấy cha già chống gậy đứng bên cửa, nước mắt lưng tròng nhìn theo... tôi bước không đành! Tôi ra xe, ngoảnh mặt lại thấy cha giàn giụa nước mắt, tôi lại chạy vào. Ba bốn lần như vậy tôi cũng không làm sao cất bước lên xe.
Em tôi sợ trễ giờ lên máy bay nên vừa khóc, vừa nói: “Cha vô nhà đi, anh mới ra xe được!”
Không biết vô tình hay hữu ý, cha tôi nói một câu làm mọi người cùng bật khóc nức nở: “Con không cho cha nhìn anh con lần cuối được sao?”
Tôi ôm cha vào lòng thật chặt và nước mắt tuôn trào. Con gái tôi cũng ôm bà nội khóc nức nở. Cha tôi ôn tồn nói: “Con đưa cháu ra xe kẻo trễ. Đừng khóc nữa... Con đi đi, cứ để cha đứng nhìn theo.”
Tôi chỉ còn biết “dạ” trong tiếng nấc và bước thụt lùi ra xe. Đó là hình ảnh cuối cùng của cha tôi còn giữ mãi trong tim cho tới giờ này. Người cha già chống gậy đứng bên cửa nhìn con ra đi, hay trông ngóng bóng con trở về? !!!
Nguyễn Duy-An





mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 20/Feb/2012 lúc 10:34am

Nhớ Bóng Mai Xưa


Tác giả: Diệp Hoàng Mai

Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của Diệp Hoàng Mai được chuyển đến Việt Báo  và giới thiệu bởi tác giả Nguyễn Trần Diệu Hương: “Chị Mai là cựu học sinh ban Toán niên khóa 1974-1975, trường trung học Ngô Quyền tại Biên Hoà. Hiện chị là một luật sư đang ở Việt Nam.  Mong tác giả Diệp Hoàng Mai sẽ tiếp tục góp thêm bài mới.

*** http://www.vietbao.com/D_1-2_2-350_4-187211_5-15_6-1_17-47_14-2_15-2/


1. 
Má tôi yêu nhất loài hoa mai. Yêu đến đổi, má biến mảnh sân nhà thành vườn mai giữa phố. Má nói, Mai được xếp bậc thứ nhất trong “ tứ hữu” Mai – Lan – Cúc – Trúc.” Bậc Thánh thơ ca Cao Bá Quát, người anh hùng chống chế độ phong kiến bạo tàn, bình sinh tâm đắc hai câu đối:
Thập tải luân giao cầu cổ kiếm,
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa…

(Mười năm bàn đạo giao du khó như tìm gươm cổ,
Một đời chỉ biết cúi đầu trước hoa mai)
Má tôi bảo, ông này là người có lý tưởng sâu sắc, nhân cách sống cao thượng và chí khí quật cường. Cả cuộc đời, ông chỉ chịu cúi đầu khuất phục hoa mai. Chưa hết, má còn thi vị hoa mai bằng câu ca dao…

Bông mai vàng,
thuở nàng còn trẻ.
trên lối đi về,
Lắm kẻ đợi mong.
Bây giờ,
Tình đã sang sông.
Anh trèo cây khế,
Ngó mong đất trời.
Bớ em ơi!
Sao chẳng nói một lời…

Hiếm hoi lắm, má mới có chút thì giờ an nhiên như vậy. Công việc hàng ngày gần như nuốt chửng má tôi. Bốn giờ khuya, má lẳng lặng ra đi khi các con chưa thức giấc. Nửa đêm má trở về nhà, các con say ngủ mất rồi. Sống chung nhà, mà ít khi tôi… gặp má. Vì vậy hôm nào má bệnh nằm nhà, tôi lẩn quẩn bên má hỏi han đủ chuyện. Nhưng vừa gượng dậy, má lại kéo tôi ra vườn chăm bẳm mấy gốc hoa mai:
- Chỉ cần một chậu mai ngày Tết, người ta đã có cả mùa xuân rồi. Nhà mình có cả vườn mai, con thích hôn?
Má càng “say” hoa mai, tôi càng tức tối nên hay phản đối:
- Con thấy bông thọ đẹp hơn!...
Má xoa đầu tôi, cười xòa:
- Bông tên thọ, nhưng bông không sống được lâu…
Tôi tự ái trẻ con, không bày tỏ với má rằng tôi cần má. Tôi thích má quan tâm chỉ mỗi mình tôi. Tôi thèm kể kể má nghe, chuyện cô khen tôi làm luận văn giỏi. Hay chuyện thằng Tí xóm Chùa đạp xe lọc cọc đòi chở tôi về. Chà chà, bao nhiêu là chuyện con gái muốn kể má nghe. Vậy mà, má không quan tâm đến nỗi lòng con gái… Dần dà tôi đâm ra ghét hoa mai, ghét thậm tệ... Lòng ghen tị khiến xui tôi hành động điên rồ. Rình rình cả nhà đi vắng, tôi lần lượt tạt… nước sôi luộc mấy gốc mai. “Thiên bất dung gian”, thiệt hổng sai. Anh của tôi bất chợt về nhà, bắt quả tang tôi đang nghịch dại. Khỏi phải nói, tôi bị trận đòn đau quắn đít, nhưng bụng dạ tôi rất hả hê. Mùa xuân năm đó, mấy gốc mai bị tưới nước sôi… nụ đơm đầy đặc. Để sáng mùng một Tết, hoa nở vàng tươi rừng rực khắp sân nhà… Thiệt là, ông Trời hỏng chịu chiều lòng tôi tí tẹo nào.
Ông ngoại tôi nhìn tướng đoán người không sai. Ba tôi quá đỗi hào hoa, nên ngay khi má sinh con đầu lòng, ba tôi có duyên tình mới. Ba vẫn về thăm nhà, vẫn đều đặn “gửi” má thêm mầm sống. Thế nhưng mười lần như một, từ lúc cưu mang đến khi sinh nở, má tôi chỉ có một mình. Con cái cả bầy, ba tôi chỉ nhớ tên đứa đầu tiên. Số đông còn lại, nhìn khuôn mặt giống đứa con đầu, ba tôi sẽ biết đứa đó con mình.
Chiều 30 tháng Chạp hàng năm, cả nhà tôi đợi ba về cùng đón giao thừa. Sáng mùng một Tết, anh chị em tôi dậy sớm, quần áo tinh tươm… Đây là ngày duy nhất trong năm, gia đình tôi có đủ đầy quân số. Chúng tôi bắt chước ba má, nghiêm trang đốt nhang cúng bái tổ tiên. Lễ xong cả đám chen chúc xếp hàng, chờ ba phát phong bì lì xì màu đỏ, mà tối hôm qua má tôi xếp sẵn. Bữa cơm đoàn tụ năm mới qua nhanh, chúng tôi ì xèo gầy tụ đánh bài, không bị má la rầy chi hết. Má còn mang thức ăn, nước uống tiếp tế “cho mấy cha con có sức… ngồi sòng”. Má tất ba tất bật, nhưng khuôn mặt má rạng ngời khi nhìn cảnh cả nhà sum họp đông vui. Sang mùng hai Tết, khi chúng tôi còn say ngủ, thì ba tôi đã bỏ đi rồi.
Trong hoàn cảnh đó, má xoay trở đủ nghề nuôi con ăn học. Lúc con còn nhỏ, má đóng xe bán bánh mì gà ngay trước cổng. Khi chị của tôi có thể trông giữ các em, má tôi quyết định chuyển nghề buôn bán cây rừng. Lên rừng đủ thứ hiểm nguy, bệnh sốt rét rừng ai trải qua đều khiếp sợ. Kế đến, phải nộp thuế “hai đầu”: vô rừng mua cây phải “lo lót” cho VC, về thành bán cây thì “mãi lộ” kiểm lâm. Vẫn chưa hết, một phụ nữ nhan sắc như má tôi, rất vất vả đối phó với đám đàn ông xa vợ dài ngày. Má đã từng đành lòng bỏ những chuyến cây rừng quí hiếm, để giữ tròn đức hạnh của một phụ nữ Á đông. Trong giới làm ăn thuở đó, má tôi nổi tiếng khéo léo giỏi giang. Làm cái nghề mà ngay đến đàn ông còn kiêng dè, nhưng một tiểu thư “vóc hạc xương mai” như má tôi lại vô cùng thành đạt. Hồi đó tôi chưa biết ăn diện, nên vẫn là con ngoan của má. Chứ anh chị em tôi, bị má rầy hoài về tội tiêu hoang. Hàng tháng, má còn chu cấp tiền cho ba nuôi con của … vợ bé. Anh chị tôi bực tức cằn nhằn, má nhẹ nhàng giải thích:
- Người dưng má còn giúp được, huống chi tụi nó là con của… ba bây!
 
2. 
Mười tám tuổi, tôi đến nước Mỹ. Những tưởng, tôi chỉ tạm đi lánh nạn vài tuần. Nào ngờ thời cuộc đổi thay, tôi như cánh chim lạc mất đường về. Tự dưng sống không có má, tôi chơi vơi hụt hẫng tột cùng. Ở bên nhà, tôi đi học về có cơm canh dọn sẵn. Áo quần tôi mặc, có người giúp việc giặt ủi tinh tươm. Má hay cho tiền, và tôi mua sắm thoải mái những gì tôi thích.
Sang bên Mỹ, tôi đơn độc. Nhu cầu đời sống, tôi chỉ trông cậy vào đồng lương tháng ít oi. Ngôn ngữ Mỹ chưa thông, tôi đã lao đi tìm “job”. Quanh năm suốt tháng, tôi xoay tròn trong cái vòng lẩn quẩn “jobs và bills”. Ở nước Mỹ, tìm “job” và mất “job” đều… dễ ẹc. Và ai cũng nơm nớp nỗi lo thất nghiệp, vì thất nghiệp ở Mỹ thì sống cũng như… “chết mà biết thở” vậy thôi! Tôi trở thành nô lệ của chính mình trên đất khách. Tôi không có quyền ban phát thời gian cho tôi theo ý muốn chính mình. Ở xứ này, phải “ăn tốc hành, nói tốc độ, đi tốc … váy”, khó có chỗ cho “hồn thơ lai láng” chen chân.
Họa hoằn lắm, tôi mới gửi thư về quê thăm má. Biết má không vui và cũng chẳng cần, nhưng tôi chỉ biết gửi cho má những đồng dollars như phần nào chuộc lỗi. Má tôi là là một phụ nữ rất giỏi xoay sở, có bao giờ má cam chịu lâm cảnh túng thiếu đâu mà tôi lại gửi tiền? Tôi thương má, nhớ má nhiều lắm! Nhưng thời gian ngủ nghỉ lấy sức “đi cày” tôi còn chưa đủ, làm sao tôi có thể kể lể má nghe những chuyện tôi chắc má rất đau lòng? Mà thôi, má đừng biết chi nhiều về cuộc sống tha hương của con nghe má! Má không biết đâu, nhiều lúc con thèm có một buổi sáng thong dong trong vườn mai của má.
Ở bên này, không có giống mai vàng mộc mạc má yêu thương. Những khi nhớ má, thì thật ngược đời, tôi lại khát khao được nâng niu một cánh mai vàng. Lúc ấy mà được ở bên nhà, tôi nhất định sẽ cùng má bón phân, tưới nước cho mai. Tôi sẽ lắng nghe má ngợi ca, về loài hoa từng làm đắm say tâm hồn của má. Rồi một ngày tôi nhận hung tin, má tôi qua đời sau cơn bạo bệnh. Tôi nghe chừng mặt đất sụp đổ ngay dưới chân mình. Thời gian đó, người Việt tha hương chưa được phép về lại quê hương. Tôi bật khóc tức tưởi, hệt đứa trẻ thơ uất ức đòi sữa mẹ…
Ngày cuối tuần, tôi đến chùa cầu siêu cho má. Tôi không thể tìm được một nhánh mai vàng. Quỳ bên chân Phật, tôi bồi hồi chiêm nghiệm về má, về hoa. Giờ đây tôi mới hiểu, tại sao má yêu thương loài hoa ấy. Là một phụ nữ nhân hậu, tâm hồn má đong đầy khát vọng yêu thương. Má vỗ về trái tim nhạy cảm của mình, bằng cách trải lòng nhân với mọi người. Nương tựa hồn mai, bởi tâm hồn má cô đơn quá! Một bầy con nhỏ, một gánh âu lo, một thân cò vạc… Má tôi kiên cường vượt qua số phận, không một lời trách phận than thân.
Phải đến mùa xuân thứ 28 ở Mỹ, tôi mới có được cành mai ngày Tết. Lần đầu đến xứ lạ, cánh mai gầy guộc mong manh. Bắt chước má, tôi chiết nhánh mai trồng ở sân nhà. Suốt mùa đông, mai âm thầm chịu đựng rét mướt. Để bước sang xuân, mai bất ngờ hóa thân mạnh mẽ, rực rỡ vàng tươi một cách diệu kỳ… Tôi giải thích với các con tôi: “Hoa là hiện thân của bà ngoại, một loài hoa thanh tao cao quí nhất đời…”
Má đã dạy tôi một triết lý lớn ẩn trong hồn mai nhỏ, hoa cứ lặng lẽ cho đời trọn vẹn hương sắc lẫn niềm tin…
 
DIỆP HOÀNG MAI


mk
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 14 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.229 seconds.