Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn
Message Icon Chủ đề: Truyện ngắn -Tùy bút chọn lọc Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 14 phần sau >>
Người gởi Nội dung
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 29/Mar/2011 lúc 6:21pm
 
 
 
VƯỜN CHIM  
Tác Giả: Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích   

Tôi đang lui cui lau sàn nhà, bất chợt tiếng thắng xe kêu rít lên phía trước sân.
Ném nùi giẻ vào sô nước, tôi vội vàng bước ra ngoài hiên xem ai đến. Anh bạn Chu Tăng Mạnh ngồi trên yên chiếc xe Honda Nữ Hoàng đời mới bóng loáng nhìn tôi cười rạng rỡ. Mạnh khóa cổ xe rồi bệ vệ bước vào nhà.
 
Nhìn đôi giày da bóng lộn với những con đỉa dưới đế giày nện cộp cộp xuống nền nhà tráng xi-măng, tôi đoán chừng tay này hiện giờ được cả thần lẫn thế.  Mạnh niềm nở bắt tay tôi :
-  Mình được tin cậu về đã hơn một tháng rồi, mà bận quá không vào thăm được. Hôm nay, nhân tiện vào khám bệnh cho ông Chủ Tịch Huyện, mình ghé vào thăm cậu, bà xã đâu mà cậu phải lau nhà ?
-  Thấy bà ấy vất vả quá, trông đau lòng. Mình mới ra tù chưa có việc gì làm nên giúp vợ được chút nào hay chút đó. À, chị Mạnh vẫn khỏe chứ ?
-  Ma đam tôi thời nào lại không khỏe, có làm gì động móng tay đâu. Mạnh tự tin trả lời.                                               
Nhìn toàn thân tôi rồi đưa tay lật mí mắt theo thói quen nghề nghiệp của ông thầy thuốc chẩn đoán con  bệnh, Mạnh than:
- Thiếu máu trầm trọng. Trông cậu có vẻ mập nhưng là mập nước đấy, triệu chứng của cơ thể thiếu chất khoáng và vi-ta-min.  Hãy ăn nhiều thịt cá vào mới tránh được tình trạng cơ thể suy kiệt.  
Tôi nhếch mép cười, gục gặc đầu, nghĩ thầm: “ Mới trong tù ra, thiếu dinh dưỡng là cái chắc. Giờ đây, được ăn no bụng là quý rồi, lấy đâu mà thịt với cá, ông tướng nầy như ở trên trời rơi xuống”   
- Này, mình vào đây thăm cậu, nhân tiện mời ông bà đến tham dự tiệc kỷ niệm 15 năm ngày cưới của vợ chồng mình vào ngày 25 tháng 3 tới đây. Xin nhớ một điều là không được mang quà cáp gì hết. Tụi mình sẽ không nhận của ai một món nào. Nếu cậu không nghe là buộc phải mang về đấy. Ngày đó, mình sẽ biếu cậu một số thuốc bổ tổng hợp. Gởi lời thăm ma-đam của cậu, ô-rơ-voa nhé.
Mạnh đưa bàn tay trắng muốt, những ngón tay búp măng no tròn mịn màng nắm bàn tay tôi sần sùi chai cứng. Lật ngửa bàn tay tôi lên, Mạnh sững sờ nhìn vào đó như nhìn một vật lạ, kinh ngạc hỏi :
- Nầy, cậu lao động chân tay khổ nhọc đến thế sao?  Những cục u trên bàn tay cậu rất khó biến đi đấy. Mạnh lắc đầu , ngậm ngùi từ biệt tôi.
Hắn vừa phóng xe ra khỏi ngõ thì vợ tôi cũng vừa đạp xe về nhà. Nàng lên tiếng hỏi:
- Ai như thầy Mạnh vừa trong nhà mình mới ra ?
Xách chiếc giỏ đựng đầy khoai lang trên boóc ba-ga xe đạp giúp vợ, tôi trả lời:
- Anh ấy đi khám bệnh cho người ta, sẵn dịp ghé thăm tôi.
Vợ tôi tiếp :
- Giàu có và đầy thế lực lắm đấy. Bác sĩ cách mạng mà. Ở thị xã, từ ông to đến dân hèn, ai mà không biết bác sĩ Mạnh.
Tôi ngạc nhiên hỏi :
- Mạnh đậu bác sĩ hồi nào vậy?
Vợ tôi xách túi rau, dựng xe vào tường, nhìn chồng trả lời cụt ngủn:
-Bác sĩ tự phong.
                                
*  *  *       
Năm 1968, Chu Tăng Mạnh đang là sinh viên năm thứ 3 Y khoa Huế nhưng nằm trong nhóm sinh viên hoạt động bí mật của anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan.  Qua hai mươi lăm ngày đêm VC đánh chiếm thành phố Huế trong Tết Mậu Thân , những hoạt động thiên tả của họ trở thành công khai. Khi tình hình ở Huế đã trở lại bình thường, Chu Tăng Mạnh bị loại ra khỏi trường Y. Anh trở về quê cưới vợ và xin giờ dạy môn Pháp văn cùng trường trung học tư thục với tôi. Ngày đó, Mạnh gắn trước cửa nhà cái tấm bảng nhỏ   “ Chích thuốc theo toa Bác sĩ”. Vừa đi dạy vừa làm nghề chích thuốc tư, cuộc sống của gia đình  Mạnh tương đối thong thả.
 Trước ngày kỷ niệm 15  năm kết hôn, Mạnh cho người mang thư mời vợ chồng tôi. Ngày đó, chỉ mình tôi đến tham dự còn vợ tôi từ chối.
Chiếc xe lam cũ kỹ, chạy ọp ẹp trên con đường lở lói đến thị xã hơn mười cây số. Tôi xuống xe lội bộ đến nhà Mạnh. Trước 1975 nhà chỉ một căn, bây giờ mở rộng ra hai cánh tả hữu. Ðập vào mắt của khách đi đường là tấm bảng nền xanh chữ trắng: “Bác Sĩ Chu Tăng Mạnh”. Có lẽ còn sớm nên phòng tiệc chưa có một ai. Mấy dãy bàn trải khăn nhựa in hoa, những đĩa chén mỏng loại đắt tiền được đặt bên trên bàn ngay hàng thẳng lối.      
  
Nghe tôi đến, Mạnh từ trong phòng, hai tay còn đang thắt chiếc cà-vát đã vội vàng ra bắt tay tôi : 
- Cậu thấy nhà mình khác xưa nhiều phải hông? Thân thế lắm mới mua liên tiếp được hai căn nhà hai bên. Căn bên trái là của một gia đình Tàu xuất cảnh chính thức, còn căn bên phải  của một gia đình vượt biên.
Mạnh nắm tay tôi dẫn ra phía sau nhà. Một cảnh trí khiến tôi ngạc nhiên phải buột miệng ồ lên thích thú. Như một khu vườn bách thảo thu gọn giữa cái thành phố nghèo nàn nầy. Cây ăn quả xanh ngát một vùng. Ðặc biệt là thú chơi chim của Mạnh.
Dọc theo bức tường ngăn cách với nhà hàng xóm từ trước ra đến tận cùng khu vườn đều có mái hiên che. Vô số các loại lồng chim treo bên dưới. Lồng to, lồng nhỏ, dưới thấp , trên cao , san sát, lủng lẳng. Chợt tiếng cu gáy nổi bật trong rừng chim đang hót líu lo. Tôi trực nhìn lên cây dừa cao thấy lồng chim cu cườm  đang giương bẫy. Mạnh giải thích ngay :                         
 
- Nhà mình có đến chục con cu gáy nhưng con nầy quý nhất. Tiếng gáy của nó như có ma lực. Cậu để ý tiếng gáy có thể phân biệt làm năm âm tiết : Cúc - cù - cu -  cú - cu... Mình có thể nói bất cứ con cu nào, dù đang có đôi bạn mà nghe được giọng “bổ ngũ”của nó là bỏ bầy tìm đến ngay. Mạnh ngưng một khắc, hít một hơi dài như để thưởng thức bầu không khí trong lành, mát rượi đầy bóng cây xanh của vườn nhà, rồi giải thích thêm:                 
-  Ðiểm đặc biệt của con “bổ ngũ” nầy là gáy cả ban đêm (1). Tiếng gáy của nó đánh thức cả vườn chim của mình. Ngay cả lòng người cũng cảm thấy nao nao.
Tôi đi dọc theo khu nuôi chim như đi duyệt hàng quân. Phía sau có Mạnh như một cận vệ với sự niềm nở chân tình. Chim chóc nhiều vô kể. Con lớn, con nhỏ, con đen, con trắng, con vàng, con nâu chen chúc tíu tít. Nào chim cu gáy, sáo nghệ, sáo ngà, sáo sậu, kia là chích chòe, bìm bịp, chào mào, chèo bẻo, chim gi... Loại sang trọng và quý hiếm có  họa mi, thiên thanh, công đất, chim trĩ đỏ.
 Nghe nói loại trĩ đỏ nầy chỉ có ở Cao bằng, Lạng sơn và vùng thượng du Bắc Việt. Bộ lông của nó nhiều màu sắc rất đẹp, đầu và trước cổ xanh lục, thân mình màu nâu hung đỏ, nâu vàng với các chấm đen. Ðuôi dài nhỏ, mắt nâu đỏ.
Mạnh húyt huýt vài tiếng sáo miệng, đưa tay búng nhẹ vào nan lồng, con trĩ quay đầu ngước nhìn về phía chúng tôi. Ðôi mắt lóng lánh màu nâu đỏ, thoạt trông như hai viên hồng ngọc lồng trong mắt chim, Mạnh lên tiếng:                         
- Mình tậu được con trĩ đỏ nầy là cả một công trình khó nhọc trong chuyến đi tham quan với các cụ Cựu chiến sĩ. Mình chi đứt nửa chỉ vàng cho chủ nó. Như bất kỳ dân chơi nào cũng đều kiêu hãnh với cái thú của mình, Mạnh tỷ mẩn giới thiệu từng loại chim kể cả xuất xứ của nó :                                                         
 - Ðây, con két của ông Bí thư Huyện tặng. Nó đã bắt đầu bập bẹ vài ba tiếng người. Cái lồng nhốt con trĩ đỏ nầy là của Giám thị trưởng trại tù cải tạo Z  do bàn tay khéo léo của tù nhân làm ra. Nhìn kỹ từng nan lồng cậu mới phục cái công khó của họ. Tất cả đều bằng loại nhôm của thân máy bay trực thăng rơi trong rừng rậm được cắt ra mài dũa, uốn cong thành vòm, đánh bóng rất công phu. Còn đây là con sáo nghệ chân đỏ, mỏ vàng của một bệnh nhân đem đến tạ ơn mình đã chữa lành bệnh lao. Nó bắt chước tiếng người rất chuẩn. Vừa nói, Mạnh vừa cho sáo trổ tài ngay: “ Mạnh, có khách ”.“Trộm vào nhà”. “Rượu, rượu Mạnh ơi”.
Tôi lập tức rời khỏi con sáo đang liến thoắng.
 
Tôi vốn dị ứng với loại chim lồng biết nói tiếng người từ  khi xảy ra một vụ thương tâm tại trại tù cải tạo. Chuyên xảy ra như sau: 
Anh em tù đi chặt lồ ô trên rừng cao bắt được con chim bách khứu mới chuyền cành. Loại chim nầy rất hiếm, chỉ sống trên những khu rừng già. Nó có nhiều giọng hót khác nhau, khi nhặt, khi khoan, khi trong, khi đục, lên bổng xuống trầm rất giàu nhạc điệu.
Vì không đủ điều kiện chăm sóc nên  anh em giao cho nhà bếp nuôi. Loài chim khứơu bắt chước tiếng người nhanh hơn loài sáo nghệ, chim két. Chỉ hơn một năm sau là khứơu nói được nhiều từ dí dỏm. Ðến giờ anh em tù đi lao động về,  ùa xuống bếp lấy nước là từ trong lồng đã nổi lên tiếng khướu tía lia nhắc nhở : “Trật tự, trật tự...”  “nước sôi, nước sôi...” Những lúc chỉ một vài người, khướu lịch sự : “Chào bạn, mạnh giỏi...” Vì là khu công cộng nên nhiều tù nhân đến nói chuyện với khứơu và dạy cho nó nói vài từ trêu chọc.    
Khu trạm xá có chị cán bộ y tá mới đến nhận việc. Lần đầu tiên đến thăm khu nhà ăn, bất ngờ chị nghe giọng nói khàn khàn phát ra từ trong góc nhà :
 - “Anh yêu em”.           
Chị Cán bộ tưởng tù trêu ghẹo mình liền sừng sộ:                        
- Anh nào vừa nói đấy ?
Không ai trả lời, chỉ có tiếng lặp lại. Lần nầy với giọng lánh lót :
- “Anh yêu em”.
Nữ cán bộ nhìn vào chiếc lồng mới phát hiện con chim khướu trêu mình. Bị hố, chị xấu hổ bỏ đi. Mấy anh tù nhà bếp bụm miệng cười. Con khứơu còn biết huýt sáo, gọi tên con Vện, chó của cán bộ lẩn quẩn ở khu nhà bếp.
Một hôm, ông cán bộ Chính uỷ Sư đoàn ghé vào nhà bếp của tù kiểm tra. Bất chợt con khứơu vừa đập cánh vừa hét to : "Vi xi, Vi xi”. Ông cán bộ kinh ngạc. Nhìn con chim, nhìn đám tù nhà bếp đang đứng nhìn nhau sau dãy chảo nấu cơm, người nào cũng sững sờ. Ông ra lệnh vệ binh mang lồng chim về ban chỉ huy trại.
Liên tiếp nhiều đêm, cả toán nấu bếp viết tờ kiểm điểm. Quản giáo  buộc họ phải tìm cho ra người nào đã dạy con khướu nói những từ “phạm húy” đó. Cuối cùng không tìm được thủ phạm. Toán nhà bếp bị đuổi ra ngoài đi lao động sản xuất thay thế toán người mới. Lồng chim khướu bị vất trong chòi chất tranh không cho ăn, cho uống. Ba ngày sau khướu xủ cánh chết. Nhìn xác con khướu cắn mỏ vào nan lồng không chịu nhả ra cho đến chết, khiến lòng tôi quặn thắt.   
       
* * *

Khách khứa, bè bạn đã bắt đầu tề tựu. Mạnh vào nhà tiếp khách, còn lại mình tôi đứng vẩn vơ giữa vườn chim. Tôi rưng rưng nước mắt nhớ về hình ảnh con chim khướu năm nào gục chết trong lồng, rồi liên tưởng đến các con tôi còn trong tuổi học ăn học nói. Tôi không dám nghĩ tiếp, bèn vội vàng bước vào nhà.      
Tiệc bắt đầu, tôi chọn ngồi vào chiếc bàn khuất sau cây cột cùng với mấy người bạn láng giềng của chủ nhà. Mạnh lần lượt giới thiệu từng nhân vật danh dự trước khi vào tiệc. Toàn là chức sắc có uy quyền. Tôi thầm phục tay nầy thuộc loại “bắt mánh” vào hàng  “thượng thừa”. 
Gần mười năm, hôm nay tôi mới được ăn một bữa cơm thịt cá ê hề, có cả loại rượu mạnh của Liên Xô, Trung Quốc và thuốc hút ngoại nhập. Tôi thật sự choáng váng trước lối sống vương giả giữa một xã hội khốn cùng.     
Xong tiệc, Mạnh mời khách ra vườn thưởng thức khu nuôi chim. Vì không muốn gặp mặt mọi người nên tôi đứng chôn chân tại cuối góc vườn. Trước mặt tôi là lồng nhốt con cu cườm. Mạnh tưởng tôi thích con cu cườm nên đến vỗ vai tôi :
- Mình biết cậu “mết” chú cườm nầy rồi. Nó gù mồi độc đáo lắm, dai dẳng, lỳ đòn cho đến khi đối thủ vào bẫy. Biếu cậu đấy, nhớ mang nó về nhé.
Mạnh nào biết tôi rất ghét nuôi chim, chỉ thương hại chúng nó phải chiụ thân phận chim lồng. Tôi nghĩ thầm : “Ừ thì cứu được con nào hay con nấy”.  Tôi liền lên tiếng cảm ơn Mạnh .
Quan khách lớn nhỏ lần lượt ra về, người nào cũng được chủ nhà biếu một món quà kỷ niệm. Riêng tôi với chú chim cu gáy được người làm quây kín lồng bằng tấm vải đen. Ông cán bộ xã, chú vợ của Mạnh ở gần quê tôi được cháu rể tặng một đôi bìm bịp nhốt trong chiếc lồng khá lớn.
Mạnh xách lồng chim đồ sộ trao cho ông chú vợ :                      
- Khu chú ở có dòng sông, vườn cây và cánh đồng rất hợp phong thổ cho sự phát triển giọng hót của loại bìm bịp. Cặp chim nầy cháu nuôi từ lúc chưa mọc lông cánh. Cháu bảo đảm với chú không có cảnh nào thích thú hơn là vừa nhâm nhi ly rượu thuốc vừa nghe tiếng bìm bịp kêu khi chiều về trên dòng sông cuồn cuộn chảy trong mùa nước lên,.
Tôi mang lồng chim về đến nhà. Con tôi mở tấm vải ra, chú cu cườm sợ hãi chạy loanh  quanh trong lồng, Vợ tôi lắc đầu bảo:            
 
-  Anh à, diện của mình mà chơi trò bẫy chim cu là bị ghép tội “Lười lao động, ngồi không ăn bám”. Biết đâu lại vào tù “cải tạo lao động”. Con tôi thì mừng rỡ vây quanh.
Không ai biết được thâm ý tôi là “phóng thích được con nào hay con nấy”.    
 
Sáng sớm hôm sau, khi hừng đông chưa rựng đỏ, tôi mang lồng chim ra giữa đồng lúa đang chín tới. Tôi mở cửa lồng, chim đưa cặp mắt tròn xoe do dự. Một thoáng bất ngờ nó phóng ra khỏi lồng vỗ cánh bay bổng lên giữa khoảng trời xanh và cánh đồng lúa vàng mênh mông.
 - Giã từ chim nhé, hãy vui với ngày tháng tự do.             
Tôi nói vừa đủ cho chính mình nghe. Và tâm trạng của tôi chợt rộn ràng như ngày tôi cầm được giấy ra trại ung dung bước ra khỏi cổng nhà tù. Niềm hạnh phúc của  nỗi vui đoàn tụ như nâng từng bước chân tôi, chẳng khác gì loài chim tung cánh bay lên giữa trời mây.   
 
- Một tháng sau, tôi đạp xe vòng vòng tìm chòi đạp mía mua đường muỗng  cho “mẹ bầy trẻ” nấu chè bán dạo. Bất ngờ, tôi gặp ông chú vợ của Mạnh trong lò đường của hợp tác xã Hiệp Phương. Nhận ra tôi hôm dự tiệc tại nhà cháu rể, ông vồn vã mời vào chòi uống nước chè hai (2). Ông  tâm sư:
- Thằng cháu rể tôi, bác sĩ Mạnh theo Tây y nên dốt đặc cái món thuốc nam. Môn thuốc đã mấy mươi đời lưu truyền trong nhân gian. Cặp chim bìm bịp của nó cho tôi quý lắm. Ðại loại, bìm bịp đạt đến mức mắt đỏ, tròng trắng, cổ cườm, đuôi xòe dải  quạt là cực quý (3). Ðâu phải dễ dàng bắt được đủ cặp trống mái. Bìm bịp mà ngâm rượu mạnh cả đôi, đúng một trăm ngày chôn dưới đất, xương sẽ tan ra trộn lẫn với thịt của nó, lọc lấy phần rượu trong uống mỗi ngày một ly là xương cốt cứng trở lại như tuổi hai mươi. Rượu bìm bịp thuộc loại trung tính chế được cả âm lẫn dương(4) Thằng Mạnh nó mê tiếng hót còn tôi thì quý cả thịt lẫn xương của giống chim bìm bịp.
Hai tháng, mười ngày nữa cậu ghé nhà tôi chơi, lúc đó  hủ rượu ngâm bìm bịp đủ trăm ngày, tôi mời  cậu dùng thử vài ly để chứng nghiệm món thần dược của ông bà ta để lại .
Tôi than thầm : “Thế là xong đời một đôi chim !”
 
Hai tháng sau đó, tôi vào đất Lâm Ðồng làm công nhân gạch ngói trong tổ hợp của người anh cột chèo nên không có dịp đến nhà ông chú vợ của Mạnh để được uống rượu ngâm bìm bịp.
Những ngày tháng phải xa vợ, xa con vì sinh kế thật là ảm đạm nhưng tâm trí tôi lúc nào cũng thanh thản với cuộc sống tự do ngoài đời.
 
Vào cuối tháng chạp âm lịch, tôi về quê ăn Tết có mang theo một món quà đặc biệt tặng cho Chu Tăng Mạnh để gọi là tạ ơn người bạn dạy học cùng trường trước kia đã có tấm lòng hào hiệp biếu cho tôi mấy chục liều thuốc bổ và con chim cu cườm. Món quà là một pho tượng bằng đất sét nung mà tôi đã bỏ công  mấy tháng trời nặn đi nặn lại theo bức hình chụp tượng trên một tấm bưu thiếp. Người lực sĩ hai tay nâng cao con chim bồ câu vươn đôi cánh chuẩn bị bay vút lên bầu trời. Bức tượng nói lên niềm khát vọng tự do và quyền sống.
 
 Khách hàng đến mua gạch ngói nhận xét bức tượng có hồn. Xin được nói rõ ở đây, tôi chỉ là tay thợ làm gạch ngói bình thường nhưng tôi đã dành hết tâm lực và ước nguyện của mình trong khi nặn tượng. Niềm khao khát tự do tìm ẩn trong nội tâm đã truyền lực vào đôi tay tác động lên đường nét của tác phẩm. Tuy bức tượng còn nhiều chỗ ngây ngô thô kệch của người tay ngang nhưng không ngờ lại có thần như vậy.
 
Vừa đặt bức tượng lên bàn và nói với vợ tôi về ý định làm quà Tết cho Mạnh. Nàng lắc đầu bảo :
 -Mạnh không còn ở đó nữa !
Tôi ngạc nhiên hỏi dồn :
 -Chuyện gì đã xảy ra và anh ấy đi đâu ?
Vợ tôi trả lời gọn lỏn :
- Ði tù !
 
Tôi thật sự ngỡ ngàng. Chân tay tôi rịn ướt mồ hôi dù khí trời đang lạnh giá của tiết Ðại hàn.
 
Rồi vợ tôi kể đầu đuôi câu chuyện mà nàng nghe được:
          
-  Một hôm, thình lình toán công an kinh tế đến bao vây nhà Mạnh suốt đêm, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Sáng ngày, một phái đoàn thanh tra từ trung ương về lục soát nhà của Mạnh. Nghe nói một số thuốc tây ngoại nhập khổng lồ chứa bất hợp pháp trong nhà. Số thuốc giá trị nầy do Liên Hiệp quốc và các quốc gia Âu Mỹ viện trợ để phân phát cho các bệnh viện, trạm xá...Mạnh lại giả mạo bằng bác sĩ của chế độ cũ, hành nghề không giấy phép. Họ kết tội Mạnh hối lộ, móc ngoặc, âm mưu đầu độc cán bộ đảng viên bằng những cuộc chơi trác táng hầu làm mất dần phẩm chất đạo đức cách mạng. Ðây là hình thức chiến tranh tâm lý của bọn làm gián điệp cho nước ngoài .
 
Nghe đến đây, cả người tôi nổi gai ốc. Vợ tôi tiếp:
           
- Ba căn nhà đều bị tịch thu. Vợ con anh ấy chỉ được ở tạm khu nhà bếp, theo lệnh tòa án.
            
Tôi thở dài ngao ngán :
 
“ Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”(5). Lời người xưa quả thật không sai. Bài học đầy nước mắt mà Mạnh đã nhận được ngày hôm nay đối với anh ta đã quá trễ, nhưng lại hữu dụng cho đời con cháu của anh sau nầy. Đó là gương trước mắt chúng cần phải tránh xa  /.
    
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
 
-------------------------
(1)(3) (4) : Theo Phạm Ngọc Tiến TNVN
(2) : Nước mía nấu lần thứ hai trước khi thành mật
    
 (5) “ Phúc bất trùng lai họa vô đơn chí” = Vận may, phúc lành họa hoằn lắm mới có, không lặp lại nhiều lần, còn tai họa không chỉ đến một lần mà hay đến dồn dập,


Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 13/Apr/2011 lúc 5:39pm
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 03/Apr/2011 lúc 6:54pm

 

 


Lê Khánh Thọ

SÓNG NGỌT



Kinh tế nước Pháp xuống dốc, trường “Pháp ngữ thực dụng” đóng cửa, tôi mất việc dạy học. Năm 1996 văn phòng tìm việc giới thiệu tôi đến viện dưỡng lão Saint Jean, nguyên do trong tờ lý lịch tôi ghi sở thích: « Hát và chơi đàn Orgue ». Thật tình tôi chỉ biết ca vài bản và học đàn dở dang vì bị thầy Pháp chê không có năng khiếu âm nhạc.

Giám đốc viện dưỡng lão là một thiếu nữ trẻ tuổi mới ra trường, nét mặt đôn hậu. Trước tiên cô hù tôi :
- Những bô lão ở đây bị cái chết cận kề ám ảnh, sức khỏe cũng như tinh thần suy sụp. Từ trước tới nay chưa từng có một animateurs nào thành công lôi cuốn họ sinh hoạt.
- Thưa cô, cô có thể cho tôi biết những cựu animateurs đã làm gì?
- Họ đọc báo, đọc truyện, mở nhạc, xem phim diễu, chơi đàn, làm thủ công… nhưng các cụ thờ ơ.

Tôi than thầm : « Bọn họ là Pháp chính gốc mà còn làm không ra trò thì mình chắc tiêu rồi ! ». Tuy nhiên viễn ảnh thất nghiệp dài hạn làm tôi ngao ngán, tôi bình thản nói:
- Tôi muốn thử việc và không chừng biết đâu…!
Cô hỏi tôi:
- Ngoài đàn và hát, bà có thể cho tôi biết bà có những ưu điểm nào hy vọng thành công?
- Hồi 8 tuổi tôi đoạt giải nhất độc diễn ca vũ liên trường và hai năm cuối lớp tiểu học tôi đuợc bầu làm trưởng ban văn nghệ.
Ở Pháp, tôi học bổ túc nhiều khóa tâm lý chủng tộc, tâm lý tuổi dậy thì và tôi đã thành công dạy người ngoại quốc cũng như tụi trẻ bụi đời Pháp trong 5 năm liên tiếp.
Ngoài óc tổ chức, tôi còn có tính kiên nhẫn và tự tin. Nếu cô dành cho tôi 25% giờ làm việc để soạn chương trình sinh hoạt giống như trước khi tôi lên lớp dạy học thì tôi có nhiều hy vọng.

Mấy câu lòe của tôi không đến nổi làm cô giám đốc lãnh đạm, tôi được cô giao cho nữ thư ký tóc vàng. Annie trạc tuổi 40, nụ cười tươi tắn và lối nói chuyện cởi mở của nàng dễ gây tình thân thiện. Sốt sắng dẫn tôi đi một vòng quanh viện, nàng giải thích:
- Viện dưỡng lão có hai khu vực. Khu đằng trước khoảng 70 cụ già gân. Khu đằng sau khoảng 40 cụ già sụm sắp sửa hui nhị tì. Con cái ít khi thăm viếng, họ thường rơi vào tình trạng dépression (tinh thần suy sụp).
Nàng nói thêm:
- Làm việc với các cụ hết xí quách rầu thấy mồ tổ! Tháng rồi có 3 cụ già sụm và 1 cụ già gân chầu Chúa, mấy cụ bạn teo quá nằm bẹp giường luôn. Chà, dụ các cụ tham gia sinh hoạt coi bộ khó à nghen!
- Theo ý bà tôi phải làm sao?
- Tôi cũng không biết. Nhưng….nếu bà có phương pháp nào ngon hơn mấy tay animateurs trước đây thì họa may ra!

Tôi vào thư viện nghiên cứu sách báo tâm lý tuổi già và được một vài người Pháp lớn tuổi cho biết thời tuổi trẻ của họ, bal lộ thiên ở hội chợ là nơi trai gái tán tỉnh, ôm nhau quay cuồng nhảy đầm suốt đêm. Họ vui trong không khí nhạc sống accordéon, violon sôi động…Âm nhạc giữ vai trò quan trọng trong ký ức họ.

Ngày đêm tôi ráo riết nghe CD nổi danh thời 1930, tập đàn và tập hát độ chục bản nhạc, học thuộc vài câu chuyện cổ tích. Đứng trước gương, tôi tập diễn tuồng và biểu con gái phê bình góp ý. Hai tuần lễ sau, tôi tạm đủ đồ nghề bước vào khu già sụm.


Cụ bà Khánh Thọ & kép 91 tuổi

Phòng sinh hoạt rộng lớn nhưng chỉ lưa thưa 8 cụ bà và 1 cụ ông. Hơn 30 cụ kia đang gặm nhấm nổi buồn cô đơn trong căn phòng biệt lập. Tôi nhìn bao quát. Các cụ ngồi bất động, mắt lim dim ngủ gật. Trong góc phòng, một cụ bà hai tay ôm đầu than thở nho nhỏ: “nhức đầu quá trời ơi!”. Tôi ngạc nhiên hỏi bà Đầm giúp việc, bà cho biết bác sĩ tìm không ra bịnh.

Tôi tới gần cụ bà, cất giọng êm dịu kiểu nựng con nít:
- Cụ ơi, cụ mở mắt nhìn con nè!
Cụ bà hé đôi mắt ( lông mi rụng gần hết) nhìn tôi ngạc nhiên.
- Con là animatrice nhưng con biết bí quyết chữa bịnh nhức đầu, nếu cụ cho phép con thử…
Mắt cụ sáng lên:
- Thật à, thử coi !
Tôi nhẹ nhàng m***age vùng trán nhăn nheo và hai bên thái dương cụ. Nét mặt cụ từ từ thư dãn. Tôi khơi chuyện, cụ kể một lô tên con cháu. Một chốc sau cụ vui vẻ khen tôi :
- Hay quá ! Cụ hết nhức đầu rồi. Con giỏi hơn bác sĩ !
Thì ra cụ mang bịnh tâm lý, khao khát được người quan tâm, vì tôi chưa học qua m***age bao giờ. Tôi nói :
- Dạ cám ơn cụ quá khen. Bây giờ cụ muốn nghe con kể chuyện « Công chúa da lừa » không ?
Có lẻ muốn cám ơn Đông y sĩ, cụ « ờ» yếu ớt.
Trong khi kể chuyện tôi nhìn vào mắt cụ, thỉnh thoảng giả vờ quên vài đoạn, hỏi ý cụ thì được cụ thều thào nhắc tuồng. Khi tôi vờ nói lộn qua “công chúa da ngựa”, cụ cười khúc khích. Tiếng chuyện trò ồn ào thức tỉnh vài cụ. Những đôi mắt hấp hem ngạc nhiên chiếu tướng vào khuôn mặt có cái mũi tẹt không giống ai, lắng tai nghe tôi phát âm tiếng Pháp pha trộn mùi nước mắm. Bộ mặt các cụ thích thú xem hiện tượng lạ, kiểu như ta nghe một người Mỹ lơ lớ giọng Việt nam kể chuyện Tấm Cám. Tôi nhũn nhặn nói:
- Thưa các cụ, con sinh trưởng ở Việt nam nên con nói tiếng Pháp ba rọi. Xin các cụ làm ơn sửa dùm để con có cơ hội học hỏi thêm.

Được dịp làm thầy, một cụ khoái trá chỉnh tôi những lỗi nói trật (tôi thật sự nói trật !). Những cụ khác cũng bắt chước bạn, vễnh tai chờ dịp giúp con nhỏ mới chớm 44 xuân xanh trau dồi sinh ngữ.


Bébé KT + Jean lả lướt + thư ký Annie

Nghe xong một chuyện cổ tích và tốn nhiều hơi sức chỉ dạy đứa học trò có lối phát âm vần R kỳ quái, quí thầy mệt mỏi mắt lim dim. Tôi mở đàn dạo vài bản nhạc êm dịu thời các cụ, dĩ nhiên không dám chơi dại biểu diễn loại đánh nhịp hỏa tiễn dễ lộ tẩy tài nhạc sĩ dổm. Không ngờ trình độ đàn Orgue bình dân học vụ của tôi qua« La Mer, La vie en rose… »có tác dụng mạnh làm hồi sinh dĩ vãng thời son trẻ. Cụ nhức đầu cảm khái hát rống lên say sưa, nhớ đoạn nào hát đoạn đó.

Mỗi buổi chiều từ 3 giờ, nhóm già sụm được nhân viên lên tận phòng rỉ tai « tới xem văn nghệ một lần cho biết, vui hết sẩy ! », cụ nào đồng ý là có người dìu đi. Đám đông lôi cuốn các cụ, phòng sinh hoạt chật ních những gương mặt không son phấn, những mái đầu bạc trắng không cần thuốc nhuộm tóc.Thấy bóng tôi, các cụ nhốn nháo chào « bonjour Thỏ, bonjour To, bonjour Tô » ( phát âm của tên Thọ).

Hiểu rõ bản tính các cụ mau chán, tôi luân phiên thay đổi chương trình. Chưa đủ trình độ đệm hát, tôi dẹp đàn. Phát copy lời nhạc cho vài nhân viên, tôi dạn dĩ cất lớn giọng hát cò mồi trước, khích động những cụ nặng máu văn nghệ hát theo, lôi cuốn đám đông đồng ca. Chỉ cần một bài hâm nóng, sau đó các nhân viên lặng lẽ rút lui tiếp tục công việc của họ. Phần tôi hát hò với các cụ khoảng nửa tiếng, ngày nào các cụ hăng tôi kéo dài một tiếng. Xong mỗi bài hát, các cụ dùng chút sức lực còn lại vỗ tay. Những cụ bị lãng trầm trọng đang lim dim bỗng giật mình ngơ ngác, nhe răng cười vu vơ trong không khí sôi nổi chưa từng có.

Vài tháng sau một cụ ông bỗng nhiên hồi sinh, bảo con cháu đem tới cây đàn accordéon đã bám bụi thời gian. Mỗi chiều cụ chơi vài bản quen thuộc tạo không khí càng thêm hào hứng. Những tiếng vỗ tay tán thưởng mang hạnh phúc cho cụ vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời.

Các cụ yếu ớt, dễ mệt mỏi. Sinh hoạt xong, tôi dành chút thì giờ cho mỗi cụ. Cụ nhức đầu từ nay ghiền m***age với dầu gió xanh hiệu con ó. Tôi khuyến khích họ nói chuyện, dịu dàng nhìn thẳng vào mắt họ(họ phải nhìn lại và tỉnh ngủ). Tôi vuốt ve bàn tay run rẩy nhăn nheo (của họ, không phải của tôi), hy vọng mang đến họ chút tình cảm thiếu thốn.

Ngồi bên cạnh mỗi cụ, vừa khơi chuyện cho các cụ có dịp đối đáp, tôi vừa cắt giấy đủ loại hình hoa lá. Tôi bôi keo, cầm bàn tay cụ dán lên những tấm thiệp đủ màu sắc, dưới hình thức tâm lý cụ có khả năng làm việc. Sau đó là màn nồng nàn khen ngợi. Cụ nào cũng lí nhí cám ơn với nét mặt tràn trề sung sướng.
Nhóm già sụm không có quyền giữ tiền mặt, họ nâng niu tấm thiệp và hãnh diện dành tặng con cháu, khoe: “mẹ làm đó!” « bố làm đó ! ».

Những cụ già sụm không có thân nhân tới thăm đều đặn thường bị một số nhân viên thiếu lương tâm hành hạ tinh thần. Cụ xin dẫn đi tiểu thì nghe đay nghiến: “Tiểu gì mà tiểu hoài! Đồ ích kỷ không để người ta yên! Càng già càng chướng!”. Tôi bực bội báo cáo với cô giám đốc và Annie nhưng họ khuyên tôi nên lờ đi vì không có bằng chứng cụ thể, và căn dặn tôi không được quyền dẫn các cụ đi tiểu, nếu họ té tôi sẽ bị lôi thôi với pháp luật, nhất là không phải công việc của tôi!
Thật tình sức tôi đỡ các cụ không nổi. Các cụ to béo cũng phải! Một cụ than với tôi rằng cụ no cành hông nhưng vẫn tiếp tục ráng ăn, vì sợ bị nhân viên la mắng tội bỏ mứa. Ôi đời sống ở viện dưỡng lão Pháp không sung sướng như tôi vẫn lầm tưởng!

Cuối khu già sụm là phòng “chờ vĩnh biệt” dành cho người hấp hối. Phòng trống trải không bàn tủ, đầu giường gắn tượng gỗ Chúa cứu thế đóng đinh trên thánh giá. Có cụ thăng ngay, có cụ nằm thiêm thiếp cả tháng mới từ giã cõi trần. Những cụ nào không con cháu thăm viếng, tôi dành thì giờ nhiều hơn mặc dù không phải công việc của tôi. Những lúc đó tôi yên lặng cầm tay cụ, lòng thầm cầu nguyện tâm hồn cụ ra đi thanh thản.

Mỗi người sắp từ giã cõi đời phản ứng khác nhau…Có cụ nằm yên lặng nhìn vào khoảng không. Có cụ hả miệng ngáp ngáp liên tục như con cá trên cạn (điều trùng hợp: hồi trẻ cụ này làm nghề bán cá!). Có cụ thều thào sợ chết, tôi trấn an: “Cụ cầu nguyện Chúa thì sẽ hết sợ và con cũng đang cầu ơn trên giúp cụ đây!”. Thông thường các cụ ứa lệ nhìn tôi với ánh mắt bi thương. Lần nào tôi cũng cố giữ bình tĩnh nhưng vừa bước ra khỏi phòng, tôi khóc mùi mẫn, có cảm tưởng mình sắp sửa vĩnh biệt một người thân.


Nhóm già sụm

Tôi và thư ký Annie trở thành bạn tâm giao. Annie vui vẻ dịu hiền chiếm được nhiều cảm tình các cụ. Tuy nhiên nàng bị một số nữ nhân viên ganh ghét vì sắc đẹp rực rỡ của nàng đốt cháy rụi những bông hoa tầm thường. Làm việc ở đây từ 15 năm qua, nàng cho tôi biết tính nết từng người và nhiều tin tức sốt dẻo trong khu già gân.

Đây là viện dưỡng lão công lập bình dân. Chính phủ bảo bọc một số người già không đủ lương hưu hoặc con cái họ có mức thu nhập kém. Trung bình chi phí ăn ở của mỗi cụ tương đương 1.000£. Phần đông trong giới công nhân thợ thuyền, chỉ có vài cụ từng là cựu giáo chức, lương hưu không đủ trang trải viện dưỡng lão tư lập. Sự kỳ thị về giai cấp gây nên tình trạng các cụ giáo chức giữ khoảng cách với các cụ kém văn hóa.

Đàn ông bên Pháp chết sớm, tình trạng trai thiếu gái thừa ở viện bị ảnh hưởng nặng nề. 20 cụ ông trong khu già gân là 20 thanh gươm rỉ sét lạc giữa 50 đóa hoa héo úa. Tuy nhiên xảy ra hiện tượng lạ lùng… Một hoa héo chuẩn bị tháng tới mừng lễ thượng thọ 100 tuổi vớt được thanh gươm báu 87 tuổi, mỗi chiều hai cụ du dương dìu nhau chầm chậm dạo quanh khu vườn hoa tươi thắm.


Ban văn nghệ (ông áo trắng đứng giữa là đại úy Vincent)

Cantine của viện mở trưa và tối, tuy nhiên một số cụ tiết kiệm tự túc nấu nướng. Cụ Jean 72 tuổi, vẫn ăn cantine đều đặn bỗng nhiên lặn cả tháng nay. Người dọn vệ sinh rỉ tai với Annie: “thùng rác cụ chứa nhiều lon cá hộp bốc mùi tanh hôi cả phòng”. Thì ra cụ Jean lả lướt dành tiền quà cáp cho con bồ nhí y tá 45 tuổi, mỗi tối thứ bảy con bồ nhí động phòng hoa chúc với cụ một đêm.

Cụ bà Michèle 75 tuổi bị bịnh mất ngủ, có thói quen gõ cửa phòng các cụ ông tâm sự vụn vặt. Mấy cụ bà hàng xóm xầm xì cụ Michèle tiết hạnh khả nghi. Một cụ ông đồng tuổi úp mở phao tin thường lên võ đài tỉ thí với cụ bà Michèle, những cụ ngồi lê đôi mách được dịp thêm mắm muối câu chuyện và chú tâm theo dõi từng hành động nhỏ nhặt của võ sĩ. Con gái cụ nghe chuyện cười ha hả, bật mí bố mang nhiều bịnh tật, mẹ kể thâm cung bí sử của bố zéro. Vậy là từ nay võ sĩ có tên cụ nổ.

Nhân viên cũng lắm chuyện!…Gã phụ trách kỹ thuật có máu ăn hối lộ. Cụ nào dấm dúi cho gã chút tiền lẻ thì khi cần sửa chữa điện nước được gã sốt sắng, bằng không gã sẽ kiếm cớ cù cưa. Nhiều cụ khiếu nại với cô giám đốc: “ Cụ hàng xóm mới gọi sáng nay nhưng thằng trời đánh trật búa tới sửa trước. Tui gọi nó thay bóng đèn phòng tắm từ cả tuần lễ nhưng không thấy mặt mũi nó đâu!”. Cấp trên làm ngơ vì ông già vợ của thằng trời đánh trật búa có phe đảng trên tòa thị chính.

Cô giám đốc mới nhậm chức từ một năm nay, thường đi xa học thêm khóa bổ túc nghề nghiệp. Cô có bằng cấp cao nhưng nhân viên và các cụ không nể mặt vì cô trẻ tuổi thiếu kinh nghiệm. Tuy nhiên cô có lòng nhân đạo và nhiệt tình với công việc. Cô quí mến tôi và dành cho tôi nhiều sự dễ dãi. Mỗi lần vắng mặt giám đốc, Annie kiếm tôi tán dóc, trao đổi nhiều ý kiến quí báu về nhóm già gân.

Những cụ già gân ít nhất trong đời đã từng trải qua một lần mổ xẻ, có cụ lãnh 3 hay 4 thứ bịnh và phải dùng đến 18 viên thuốc một ngày. Tuy vậy, họ còn đầy đủ tâm hồn ăn uống. Phần đông ú na ú nần, một số ít ốm tong teo vì mang bịnh đặc biệt. Giống y chang tụi trẻ, những cụ hiền lành thường bị các cụ gay go nạt nộ ăn hiếp. Tính nết thay đổi bất thường nhưng trí óc các cụ vẫn sáng suốt. Annie báo trước chinh phục nhóm già gân khó hơn nhóm già sụm.

Annie giới thiệu tôi với ca sĩ Raymonde. Hồi trẻ cụ bà là chủ tiệm bán thịt. Cụ 71 tuổi nhưng làn da mặt chằng chịt như tấm bản đồ đường phố Paris. Lần nọ cụ phân trần làn da B52 hủy hoại nhan sắc chim sa cá lặn của cụ vì hồi trẻ cụ có thói quen rửa mặt bằng nước nóng. Tôi nghĩ nguyên nhân chủ tiệm thịt ăn thịt vượt chỉ tiêu, cụ ờ ờ đồng ý và chắc lưỡi hối tiếc đã chọn lầm nghề. Tuy nhiên cụ vẫn tiếp tục xơi miếng bít- tết to hơn bàn tay mỗi ngày vì cho rằng tuổi cụ đã muộn màng.

Ngày thường các cụ già gân đóng cửa nằm nhà. Thông lệ 2 giờ trưa thứ tư, một chục cụ ông y phục bảnh bao vào phòng sinh hoạt lập 2 sòng bài. Bên cạnh là 5, 6 cụ bà xiêm y phấn son loè loẹt, tóc nhuộm vàng xịt keo cứng ngắc, dầu thơm ngào ngạt, ngồi coi ké hoặc chờ thế chân. Lác đác vài cụ bà chơi ô chữ hoặc đan áo. Khoảng 4 giờ chiều, nhân viên đẩy xe vào phát bánh ngọt và nước trái cây.

Cụ Raymonde thuộc lòng hơn 50 bài hát, giọng mạnh không cần micro vẫn làm những cụ lãng tai tỉnh ngủ. Đã từng hợp tác nồng nhiệt với nhiều cựu animarteurs nhưng Raymonde là ca sĩ độc nhất không thể làm nên cơm cháo. Đợi thứ tư giờ nhấm nháp bánh ngọt, tôi rủ ca sĩ Raymonde và chục cụ bà đồng ca, dụ khị mấy cụ ông hát rống theo. Khoảng 15 phút sau nhóm cụ ông chán ca hát trở lại nhập sòng, nhóm cụ bà vẫn tiếp tục say sưa ngân nga. Một cụ ông quạu quọ: “hát hỏng gì ồn quá, ván này tui thua là cái chắc!”. Đám nữ ca sĩ cụt hứng tiu ngỉu tắt đài phát thanh. Điều lạ lùng chơi không ăn tiền nhưng họ rất say mê, có lần cụ ông tè trong quần vì ráng nín chờ hết ván bài.

Sinh hoạt văn nghệ ở nhóm già gân vào thứ tư kể như thất bại. Thua keo này ta bày keo khác.
Vào đầu tháng, cantine cho thưởng thức món ăn đặc biệt thuần túy của mỗi miền với giá bình dân, lôi cuốn những cụ bếp núc tại gia có dịp đột xuất giang hồ. Ngày đó cantine dập dìu trai kém thanh và gái kém lịch, là môi trường sinh hoạt văn nghệ thuận lợi.
Tôi lập nhóm thủ công vào trưa thứ tư, dựa lý do chuẩn bị trang hoàng cantine, trợ giúp chương trình văn nghệ xôm trò hơn.

Nhóm thủ công chủ yếu khuyến khích các cụ bà họp mặt tâm sự thời dĩ vãng, than thở bịnh tật và khoe khoang tin tức con cháu. Thỉnh thoảng liếc trộm qua bàn các cụ ông đánh bài, tâm hồn cụ bà phơi phới dường như được uống liều thuốc bổ.

Mỗi khi cụ bà nào vắng mặt, tôi lên phòng năn nỉ. Thông thường cụ lấy cớ nhức đầu mệt mỏi, tôi mở câu thần chú: “Cụ không phải làm gì cả, chỉ cần cụ tới 5 phút cho các cụ kia vui. Để con dìu cụ đi. ” Sau vài lần đồng ý, các cụ có thói quen trói buộc với nhóm và đóng đô từ 2 giờ đến 5 giờ chiều. Từ từ các cụ đòi sinh hoạt 3 lần một tuần. Trước nửa tháng chuẩn bị những ngày lễ lớn, trưa nào 20 cụ bà cũng xung phong có mặt.

Một lần nọ giờ ăn bánh ngọt, cụ bà Yvonne cất bánh vào túi áo. Tôi gặn hỏi, cụ trả lời để dành sáng mai điểm tâm vì cụ cần tiền mua áo mặc lễ Noël. Từ đó tôi canh chừng nhà bếp vắng người, chôm bánh phát thêm cho mỗi cụ. Máu kiếm hiệp của tôi sôi sùng sục, tưởng tượng mình đang đánh cướp xe tải lương thực của triều đình để phân phối cho dân nghèo.
Các cụ hoan hỉ lấm lét dấu diếm bánh như con nít và ngạc nhiên vì tôi không thủ cho tôi, tôi nói tôi cữ đồ ngọt. Thật ra tôi không muốn mang tiếng ăn cắp vặt (thà mang tiếng cướp ngân hàng cho đáng!). Dù sao nếu chuyện đổ bể tôi đỡ quê mặt, tôi có thể bào chữa tiền bánh là tiền đóng thuế của nhân dân thành phố, con cháu các cụ cũng có góp phần.

Vào ngày sinh hoạt, viện dưỡng lão khu già gân tràn đầy ấm áp tiếng nói, tiếng cười. Một số già sụm cũng được nhân viên đẩy xe lăn tới tham dự.
Các cụ biết hát nhưng nhát gan không dám trình diễn một mình. Đám đông hát chung giúp các cụ dạn dĩ hát theo. Văn nghệ không cần dợt trước, phát copy, sau đó tôi và ca sĩ chính Raymonde cò mồi.

Thiếu màn đơn ca, tôi hóa trang bà già và chọn một cụ ông lên sân khấu làm kép. Kép 91 tuổi tướng mạo phương phi ngồi bên cạnh cười cười, tôi hát bản tình ca cùng lúc xoa đầu trán hói, nựng cằm kép lão. Khán giả cười lăn chiên thiếu điều văng hàm răng giả.

Các cụ hí hửng được tôi may áo, hóa trang thành mọi da đỏ, tướng cướp, hoàng tử, công chúa Bạch Tuyết…Phòng tiếp tân phất phơ các bông giấy đủ màu sắc do chính các cụ vụng về cắt xén, trang hoàng vui tươi.

Dịp Fête des mères, giám đốc yêu cầu tôi tổ chức lễ mẹ,lễ bố và lễ ông bà nội ngoại chung một lần. Cụ Jean lả lướt tạm quên con bồ nhí y tá, cụ chơi bộ veste mới hấp tẩy, sung sướng hãnh diện đóng vai chú rể, cặp tay cô dâu xinh đẹp thư ký Annie trong bộ áo cưới voan trắng thời con gái (mặc dù bị ông xã cự nự). Tôi cột tóc nhỏng nhảnh hai bên, miệng ngậm núm vú đóng vai bébé và chơi guitare cl***ique bản “Ah vous dirais –je maman” (bản tủ độc nhất!). Mắt lem nhem, các cụ cứ tưởng con gái tôi, đến khi nhận ra tôi các cụ cười thỏa thích.


Nữ hải tặc KT & kép 75 tuổi

Lần nọ tôi hóa trang nữ hải tặc và chọn cụ ông 75 tuổi làm kép. Cụ bị mỗ 4 lần, mang nhiều thứ bịnh, da dẻ xanh xao vàng vọt. Nữ hải tặc vung kiếm gỗ, ca bản nhạc tình lâm ly họa thêm màn choàng vai vuốt tóc người yêu. Đôi mắt cụ lờ đờ bỗng nhiên sáng ngời đắm đuối, cụ âu yếm tham lam ôm hôn nhiều lần lên cánh tay trần(mũm mĩm!) của nữ hải tặc, khán giả la ó cười ngã nghiêng.
Xong bản nhạc, cụ thều thào: “-Cám ơn người đẹp hải tặc đã cho ta sống lại những giây phút thần tiên tuổi trẻ. Dù chết ta cũng hả dạ! »
Sáng hôm sau tôi bàng hoàng sửng sốt nghe tin người tình của nữ hải tặc đã đi vào giấc ngủ ngàn thu.

Sinh hoạt giúp các cụ quên nổi buồn tuổi lão. Những cụ trong ban văn nghệ cảm động rơm rớm nước mắt. Suốt cuộc đời lao động tầm thường không ai chú ý, bỗng nhiên những ngày gần đất xa trời được lên sân khấu biểu diễn trổ tài ngâm thơ, đơn ca hoặc đồng ca, được thị trưởng bắt tay khen và con cháu hết lời ca ngợi. Tôi yêu cầu cô giám đốc đọc tên từng cụ trong ban thủ công và xin quí vị một tràng pháo tay cám ơn. Chao ôi nét mặt các cụ ngây ngất niềm vui!

Sau màn văn nghệ là màn nhảy đầm sôi động. Chỉ có 5 kép còn gân cốt ban ơn mưa móc thay phiên mời đào cụ. Thiếu kép, các cụ bà chân cẳng ngứa ngáy đành tạm ôm nhau dặt dìu trong tiếng nhạc. Thường ngày các cụ đi đứng chậm chạp nhưng nhảy valse thì quay nhanh như chong chóng. Tôi xin chào thua, chỉ hơn được các cụ màn độc vũ “ngàn lẻ một đêm” lắc bụng mà tôi đã học được với người Á rập.

Một số nhân viên tòa thị chính, gia đình của các cụ giờ đây cũng ghiền tới xem văn nghệ. Vé cantine ngày sinh hoạt bán hết sớm, phải đặt chỗ trước.Vài ca sĩ bô lão ngoại viện nghe tiếng tới xin tham gia. Tôi mừng rỡ được có thêm nhiều tiết mục thay đổi. Ca sĩ Raymonde bực bội vì tân ca sĩ Monique hăng tiết vịt đơn ca liên tiếp 3 bản, gây tình trạng một số khán giả chán chường lục tục bỏ ra về. Nếu tôi không nhanh tay giựt lại micro thì ca sĩ Monique dám chơi thêm bản thứ tư.

Tôi cẩn thận lập chương trình văn nghệ thay đổi tiết mục, in giấy phát cho từng bàn. Mỗi ca sĩ trình diễn không quá hai bài và cách khoảng nhau(cho đỡ chán). Sau khi chấm dứt là màn hát thả dàn hoặc nhảy đầm. Lo sợ khán giả bỏ về ngang xương, ca sĩ Raymonde đòi ưu tiên hát mở đầu. Sự xuất hiện của 4 cụ nữ, 3 cụ nam ca sĩ, một cụ nhạc sĩ chơi accordéon giúp chương trình văn nghệ thêm phong phú.


Cạnh mọi da đỏ KT là ca sĩ Raymonde

Trước khi in chương trình, tôi trình với cụ ca sĩ Raymonde cho phải phép, vì từ xưa nay cụ là người có công lớn trong ban văn nghệ. Ca sĩ rú lên hoảng hốt:
- Thôi chết rồi, Monique hát Pot pourri.
Tôi thản nhiên:
- Thì mỗi ca sĩ được hát hai bài.
Cụ Raymonde nhăn nhó:
- Mụ sẽ cù cưa mất nửa tiếng.
Tôi ngơ ngác:
- Làm gì đến nửa tiếng!? Bản nhạc nào cũng không quá 5 phút. Con chưa từng nghe qua bài này. À, mà cái tên bài hát sao kỳ cục quá phải không cụ!?
Ca sĩ Raymonde cười buồn:
- A, Thỏ chỉ hiểu nghĩa đen(=cái hủ bị mốc). Nghĩa bóng của « pot pourri » là hát mỗi bài một đoạn. Chơi liên khúc 20 bài thì chết con người ta ! Mụ Monique cáo già thật !
Vậy là tôi phải điện thoại hòa giải với cụ Monique :
“Xin lỗi cụ, pot pourri không xác định thời gian mà chương trình văn nghệ có hạn,
xin cụ đổi cho bài khác”.

Mỗi khi giới thiệu ca sĩ, tôi hay diễu : « Kính thưa quí vị, một giai nhân tuyệt sắc quê quán Bordeaux, có giọng ca thiên phú của loài chim quí. Danh ca Raymonde sẽ cống hiến quí vị bản tình ca bất hủ « L’hymne de l’amour » chao ơi vô cùng lâm ly bi đát. Bảo đảm đàn ông đêm nay sẽ trằn trọc mất ngủ và đàn bà sẽ khóc thầm ướt gối. Kính xin toàn thể quí vị cho một tràng pháo tay. Đây, người đẹp Raymonde».
Cụ bà Raymonde cười e lệ bước lên sân khấu.

« Chàng là ai? Chàng là kẻ thù của nam giới vì đôi mắt trữ tình và nụ cười quyến rủ có một không hai của chàng đã và đang hớp hồn những trái tim phụ nữ cô đơn có mặt hôm nay, kể cả tôi (tiếng cười khúc khích từ khán giả). Chao ơi giọng hát của chàng làm thổn thức biết bao nhiêu người đàn bà mềm yếu! Hôm nay chàng đặc biệt cống hiến với quí vị « Parlez –moi d’amour ». Xin toàn thể quí vị cho tràng pháo tay đón tiếp nam danh ca Henri».

Ca sĩ được giới thiệu gồ ghề rất khoái chí, nhưng sau vài lần nhàm chán khán giả cười hết nổi, tôi bàn giao màn giới thiệu cho ca sĩ Raymonde và nam ca sĩ ngoại viện Vincent. Giọng hát tầm thường nhưng dáng dấp to cao, cựu đại úy Vincent có máu quân đội phát tiết tinh hoa oai hùng, hấp dẫn lòng ngưỡng mộ của phái nữ tuổi xế chiều. Thỉnh thoảng tôi bắt gặp ánh mắt dụ dỗ mời gọi của nữ ca sĩ Raymonde, nhưng tiếc thay cựu đại úy Vincent vô tâm chỉ khoái bận rộn với micro.

Sau buổi văn nghệ, các cụ già gân vui vẻ với công việc dán photos sinh hoạt trên vách tường hành lang. Khách tới thăm tò mò đứng xem, hoan hỉ nhận ra hình bố mẹ thân yêu. Các cụ tụ tập hãnh diện chiêm ngưỡng dung nhan trăng tàn trên hè phố. Một cụ yêu cầu tôi gỡ photo chẳng may cụ đang hả miệng ngáp, nhưng ba cụ kia cũng có mặt trong hình cực lực phản đối. Tôi phải hòa giải bằng cách trưng cầu dân ý và hết lời vỗ về cụ (hả miệng): “Báo chí thời nay thường đăng photos những tài tử nổi danh nhắm mắt, vẹo mồm, gãi mông. Cụ hả miệng người ta tưởng cụ đang hát. Chính sự tự nhiên làm cho bức hình sống động. Giá trị là ở chỗ đó! Hình nhe răng cười thì ai chả có, tầm thường quá! Phải không Annie?”. Cụ nguôi giận. Annie lắc đầu cười hi hi.

Nhóm già gân tíu tít ghi tên, nộp tiền nhờ tôi sang photos để tặng con cháu. Kể cả photos khán giả có công vỗ tay tán thưởng. Một số cụ lãng trí, gia đình « bị » nhận nhiều lần cũng tấm hình mà cụ đã gởi cho rồi.

Mỗi buổi sáng tôi thức dậy với tâm trạng phơi phới yêu đời. Mình là người hữu ích và mình đang được trả nợ phần nào công ơn nước Pháp đã cưu mang. Tôi hăng say làm việc không biết mệt. Đến nay tôi đã biết hát được mấy chục bài của thế hệ các cụ. Nhiều đêm tôi trằn trọc không ngủ chỉ vì suy nghĩ sáng tạo một chương trình văn nghệ mới lạ và lối trang trí độc đáo cho lần trình diễn tháng tới.
Những thời gian được nghỉ phép khá lâu, tôi lại da diết nhớ các cụ. Tôi lò dò tới viện dưỡng lão trước sự ngạc nhiên của nhân viên và cô giám đốc.

Ngày nọ tôi đưa ý kiến mở hội chợ, cô giám đốc vui vẻ tán thành. Dù sao nhờ tôi, cô được tiếng là người giám đốc đầu tiên thành công gây không khí sống động cho viện dưỡng lão.

Nhóm các cụ bà làm thủ công nghe bàn sẽ mở hội chợ thì nhốn nháo cả lên. Tôi trình bày quỹ bán hoa giấy và xổ số sẽ làm tiệc ăn mừng, dĩ nhiên chỉ dành cho những người có công tham gia.
Mặt mày các cụ tươi tỉnh.
Quà xổ số là những món đồ quyên góp từ các cụ. Cái ly, cái dĩa, quyển sách…Những cụ có tinh thần náo nức gõ cửa phòng các cụ kia, quyên góp đủ loại hầm bà lằng. Phần tôi được dịp tống khứ vô số quà tạp nhạp của học trò cũ và các cụ tặng tôi dịp Noël (dĩ nhiên tôi cẩn thận gói kín đề phòng các cụ nhận diện).

Nhóm thủ công mỗi chiều hăng say làm việc nhưng bỗng nhiên xảy ra vấn đề trầm trọng. Các cụ than phiền một cụ ngoại viện khai mùi nước tiểu làm các cụ chóng mặt, dọa sẽ bỏ cuộc nếu không giải quyết. Tôi thử ngồi gần cụ bốc mùi kém thơm tho thì đúng là sự thật. Tôi báo cáo với cô giám đốc, cô thở dài: “vấn đề tế nhị tôi không thể giải quyết!” Tôi cầu cứu Annie, nàng cũng đầu hàng.

Tôi buồn bã than thầm: “Vì đại sự quốc gia, ta đành phải hy sinh một chiến sĩ”.
Mời cụ vào văn phòng riêng, tôi thân mật mở đầu:
- Từ ngày cụ tới đây tham gia, các cụ kia vui hẳn lên!
Cụ cười tươi cám ơn.
Tôi hỏi quanh quẩn chuyện con cháu cụ một hồi và chăm chú nghe cụ kể lể. Trước khi vô đề, tôi vuốt:
- Các cụ ở đây mến cụ lắm! Con cũng rất thích làm việc với cụ. Hội chợ mà không có cụ giúp cho một tay thì không xong.
Nét mặt cụ bồi hồi cảm động.
Tôi lễ phép:
- Thưa cụ, con có chút vấn đề nhỏ xin thưa với cụ. Chuyện nhỏ thôi! Các cụ kia có chứng chóng mặt mỗi khi nghe mùi khai nước tiểu. Con xin cụ chịu khó…ơ…chịu khó rửa ráy trước khi vào sinh hoạt nhóm.
Mặt cụ ngượng ngùng bối rối. Giọng mất bình tĩnh:
- Tôi có tắm rửa mỗi ngày, hôi sao được mà hôi!
Tôi vồ vập khen:
- Vậy là cụ sạch sẽ lắm! Tắm rửa mỗi ngày làm sao hôi được! Nhưng có lẻ cụ vô ý mặc lại cái quần chưa giặt. Cụ thử đổi quần sạch xem sao. Tại cái quần dơ chớ không phải cụ ! Con biết cụ sạch sẽ.
Đổ tội cho cái quần của cụ và được khen sạch sẽ, cụ nguôi giận, nét mặt từ từ thư dãn. Cụ vui vẻ đồng ý:
- Đúng vậy, tại cái quần dơ! Lần tới tôi sẽ thay quần sạch.
Tôi nhắc nho nhỏ:
- Dĩ nhiên sau khi tắm rửa cụ nhé!
Tiếp tục gia nhập nhóm thủ công, cụ hết bốc mùi khai và cụ còn chơi nổi xức nước hoa. Than ôi khoảng hai tháng sau, độc khí chóng mặt của cụ tái xuất giang hồ! Các cụ kia cằn nhằn nhưng may mắn vẫn không bỏ phòng sinh hoạt.


Noël tại khu già sụm (KT cùng nhân viên & gia đình)

Nhờ dán bích chương ngoài phố quảng cáo và thông báo qua radio, ngày hội chợ lôi cuốn khá đông người, phần lớn gia đình các cụ tới tham dự. Giá tiền hoa giấy và vé xổ số chỉ 5F(chưa tới 1 euro) bán hết sạch. 15 phút xổ số một lần, giá rẻ nên các cụ mua nhiều hơn người ngoài, tíu tít vui sướng với những lô trúng khiêm nhường. Xui xẻo cho tôi, một cụ trúng nhằm món quà (có dấu hiệu nào đó đặc biệt!) mà chính cụ đã tặng tôi hồi năm ngoái, cụ bực bội chất vấn. Chối không được, tôi phân trần hối tiếc đã vô ý gói lầm. Cụ lập tức trao tặng tôi cũng món quà đó và hớn hở nói: “May mà tui trúng lại được!”.

Câu nói bất hủ : « Những gì không cho thì sẽ mất ! »(phim Cité de la joie) càng ngày càng thấm thía. Một lần nọ tôi bận việc tới trễ. Vừa bước vào khu già sụm, bất ngờ vang dội tràng pháo tay vui mừng chào đón tôi từ những bàn tay run rẩy yếu ớt của những người không cùng chủng tộc. Tôi lặng người bàng hoàng xúc động, chỉ biết nở nụ cười cám ơn, che dấu những giọt lệ long lanh hạnh phúc của đứa con xa nhà tìm lại vòng tay ấm áp gia đình.

Cuối năm, cô giám đốc trao tặng tôi bảng tổng kết gởi lên tòa Thị Chính : “Viện dưỡng lão của chúng ta lần đầu tiên được hợp tác với một animatrice có lòng nhiệt thành và khả năng, đã mang lại niềm yêu đời lạc quan cho các vị bô lão. Bác sĩ của viện xác nhận sự sinh hoạt cộng đồng đã giảm thiểu được 50% bịnh nhân so với những năm trước”.

Nhắc đến bác sĩ, tôi nhớ chuyện một lần nọ tôi gặp ông phát thơ vừa đi vừa cười hihi. Ông mới vào phòng một cụ già gân. Căn phòng tối thui, cụ đang bịnh nằm vùi trên giường. Ông lên tiếng:
- Cụ ơi, xin cụ ký tên nhận thư bảo đảm.
Bị lãng tai, nghe ba chớp ba nhoáng, cụ lầm bầm:
- Cả ngày chỉ khám bịnh, uống thuốc, cặp nhiệt, chán quá!
Ông làm thinh lấy sổ và chuồi vào tay cụ cây viết để cụ ký tên, không ngờ cụ cầm cây viết nhanh nhẹn nhét vào hậu môn.

Ông giám đốc trường cũ khai trương trường dạy nghề cho bọn trẻ bụi đời có nhã ý mời tôi hợp tác. Mặc dù lương dạy học cao hơn lương animatrice nhưng tôi quyết định ở lại với các cụ.
Than ôi, cuộc đời không êm ả như ý muốn! Sau hai năm hạnh phúc ở viện dưỡng lão, bất ngờ cô giám đốc trẻ tuổi bị thuyên chuyển nơi khác. Lần đầu tiên gặp mặt bà tân giám đốc, tôi linh cảm những chuyện không may. Trạc tuổi 50, mặt ngầu dao búa, đôi mắt tóe lửa Từ Hi điểm thêm nụ cười gằn nham hiểm làm tôi rờn rợn. Có lẻ cuộc đời tình ái lu mờ nên bản tính độc ác bẩm sinh của bà chiếu sáng ngời hơn chăng! Thân hình phục phịch khoái diện áo vằn vện cọp beo, tôi và Annie đặt tên “Beo Cái”.


Bébé KT &Annie (cầm micro )

Ganh tị với sắc đẹp Annie, Beo Cái dời văn phòng thư ký vào phòng giám đốc. Giám đốc dọn ra ngoài kiêm chức tiếp tân của thư ký. Tôi nói giỡn: “Annie à, Beo Cái mánh mum dành tiếp tân chực vồ Beo Đực”. Từ ngày dưới ách thống trị của Beo Cái, thư ký Annie tinh thần suy nhược mất ăn mất ngủ.

Không hơn gì Annie, tôi cũng mất ngủ mất ăn. Ganh ghét với tình cảm thương yêu của những bô lão dành đặc biệt cho tôi, Beo Cái cố ý chơi tôi sát ván. Cắt bớt ngân khoản sinh hoạt, kiếm chuyện cản trở chương trình văn nghệ, cấm dán photos trên tường (lý do làm xấu tường). Beo Cái dọn vào ở hẳn trong viện, rình mò khắp nơi. Nhóm thủ công mất ăn bánh chôm cũng rầu rỉ. Hết hứng thú làm việc, tôi muốn từ giã viện dưỡng lão nhưng ngần ngại, vì tôi sẽ không được hưởng trợ cấp thất nghiệp nếu bỏ việc thiếu lý do chính đáng.

Sau 4 tháng nhậm chức, Beo Cái hách dịch ra lịnh tôi phải dùng 25% giờ chuẩn bị sinh hoạt vào việc chùi dọn vệ sinh phòng ăn( gặp ngày văn nghệ hơn cả trăm thực khách!). Sau trận đấu võ mồm kịch liệt với Beo Cái, tôi thật sự bị dépression, xin được giấy chứng nhận của bác sĩ gia đình: “Tinh thần suy nhược trầm trọng, huyết áp cao hơn bình thường, miễn làm việc”. Dĩ nhiên tôi hợp pháp lãnh tiền thất nghiệp.

Tôi đâm đơn lên tòa thị chính kiện Beo Cái nhưng không ai giải quyết. Qua Annie, tôi được biết Beo Cái leo thang nhờ mánh mum ủng hộ tài chánh cho đảng Xã Hội, cấp trên nhắm mắt làm ngơ là lẻ đương nhiên. Annie khuyên tôi bỏ cuộc, lý do tôi không có thế lực và hơn nữa tôi là người ngoại quốc.

Ấm ức ăn ngủ không yên, tôi kiên nhẫn gõ cửa những phe phái chính trị đối lập. Họ cố ý chơi đảng Xã Hội, sốt sắng gây ồn ào chuyện hống hách của Beo Cái, có lợi cho họ trong kỳ bầu cử Thị trưởng vào năm tới.
Annie hoan hỉ mật báo tin tức Beo Cái lãnh tới tấp những cú điện thoại, những thư khiển trách của phe đối nghịch cảnh cáo về tội vi phạm luật lao động. Đồng thời Beo Cái bị đảng Xã Hội chê trách đã gây bất lợi đến uy tín của đảng ta.

Lần này đến phiên Beo Cái bị khủng bố tinh thần đến mất ăn mất ngủ( tuy nhiên có niềm an ủi xuống bớt được 5 kí lô mỡ!). Annie được rửa hận ké, sôi nổi kể trong buổi họp khẩn cấp với toàn thể nhân viên viện dưỡng lão, Beo Cái phân trần vấn đề lạm dụng quyền hành:
- Hồi trước tôi sai một bà Việt nam quét dọn chùi cầu tiêu nhưng bả vui vẻ chấp nhận. Sao con animatrice này dữ dằn quá chừng quá đổi!
Một nhân viên trả lời:
- Có lẻ vì người không dữ dằn đó ở Việt nam vốn làm nghề quét dọn.

Thời gian qua với nhiều thay đổi…Thị trưởng cũ văng chức, Beo Cái về vườn. Thư ký Annie thuyên chuyển nơi khác. Ca sĩ Raymonde dọn tỉnh xa. Cụ lả lướt và phần lớn những cụ trong ban sinh hoạt qua khu già sụm, một số đã vĩnh biệt trần gian.

Sáng hôm nay nghe radio phát thanh bản nhạc tôi thường trình diễn“J’ai deux amours, mon pays et Paris »(Tôi có hai mối tình, quê hương tôi và Paris), lòng tôi nao nao xúc cảm. Tôi bỗng nhớ không khí sinh hoạt sống động ở viện dưỡng lão, nhớ tràng pháo tay run rẩy đặc biệt chào mừng sự hiện diện của tôi, nhớ những đôi mắt đỏ hoe của các cụ ngày ôm hôn tôi từ giã. Mắt tôi nhòa lệ dĩ vãng.

Cuộc sống của tôi từ bao nhiêu năm qua như con thuyền chao đảo trên đại dương. Những con sóng đắng cay vật tôi nhừ tử nhưng có những con sóng dịu dàng trao tặng tâm hồn tôi phong phú một tài sản bao la tình người, ý chí phấn đấu và niềm tin mãnh liệt. Một niềm tin làm đẹp cuộc đời mà những con sóng ngọt không ngừng vỗ về đưa đẩy tôi vào bờ bến lạc quan.


Lê Khánh Thọ - France, 2007
(Giai phẩm Xuân Việt Báo Cali & Houston)
 
 
 
 
 
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 13/Apr/2011 lúc 5:34pm
 
 
Tin hay không tin ???
Lá số tử vi
 
Phạm Thành Châu
 
Bạn tin có số mạng không? Người tin thì bảo “Giày dép còn có số, huống gì con người.” Người không tin, quạt lại “Mấy thầy tướng số có biết được tương lai bản thân mấy thầy không? Hay chỉ nói phét kiếm tiền?” Người tin với người không tin, cãi nhau, có bao giờ ai chịu thua ai!
Nay tôi xin kể, một chuyện về chính bản thân tôi, để nhờ bạn phán xét, rằng con người có số phận hay không?

Ông nội tôi là người cựu trào. Sách chữ nho ông để đầy một tủ. Ông là người nghiện sách nên suốt ngày cầm quyển sách trên tay. Khi về hưu, ông tôi làm thầy thuốc nam, thuốc bắc kiêm cố  vấn cho bà con chòm xóm trong các vụ quan hôn tang tế. Ai bịnh hoạn đến mời ông tôi bắt mạch, hốt thuốc, người nào có ý xây dựng gia đình cho con cháu cũng đến nhờ ông tôi xem tuổi có hạp không, hậu vận có khá không? Hoặc có người thân vừa qua đời cũng đến thỉnh ý về ngày giờ động quan, xem hướng mồ mả. Ngay cả khi sinh con, họ cũng đến nhờ ông tôi một lá số để biết tương lai đứa bé ra sao?

Dĩ nhiên con cháu trong nhà, ông tôi đều chấm cho mỗi người một lá số, hễ người nào gặp một biến cố gì lớn trong đời, ông tôi lại đem lá số đó ra chứng minh. Ngay cả chuyện bố tôi mất tích, ông tôi cũng đã phân tích sẵn trong lá số của bố tôi nhưng không nói ra trước mà thôi.
Bố tôi là con út của ông tôi, tôi lại là con út của bố tôi, là đứa cháu trai nhỏ nhất trong gia đình nên trong nhà, tôi được coi như ông hoàng con, muốn gì được nấy.

Thời Pháp thuộc, bố tôi làm “Jeunesse,” là làm việc làng nhàng gì đó ở ty thanh niên, thể thao của  thị xã. Ðến thời kháng chiến chống Pháp, bố tôi theo kháng chiến và mất tích. Khi kháng chiến bùng nổ thì mọi người phải tiêu thổ và tản cư về vùng nông thôn, ít lâu sau hồi cư về lại thành phố.
 Ðó là một thị trấn miền biển, cách Nha Trang không xa lắm. Khi lên trung học, tôi ra Nha Trang học đệ Nhị và đệ Nhất trường Võ Tánh, vì thị trấn tôi ở không có trường trung học đệ nhị cấp.

Trở lại cái lá số của tôi, ông tôi chấm rất kỹ, nhưng hình như có điều gì khác lạ nên thỉnh thoảng  ông lại đem ra chiêm nghiệm, rồi giở sách ra nghiên cứu với vẻ trầm ngâm, suy tư lung lắm. Hễ nghe ai có tài chấm tử vi thì ông tôi lại đem lá số của tôi, tìm đến, nhờ xem giùm, rồi hai người lại bàn  cãi, lý luận rất sôi nổi nhưng rốt cuộc cũng chịu thua, không biết có trục trặc ở chỗ nào mà tìm không ra?! Sở dĩ tôi biết được như thế là vì mỗi lần có bạn bè đến, khi bàn chuyện sách vở đông tây, kim cổ, ông tôi thường đem lá số của tôi ra làm đề tài về sự huyền bí của văn minh cổ của người Tàu. Tôi  vốn không tin ở số mạng nên chẳng bận tâm.

Ðến năm tôi lên trung học thì ông tôi đã trên tám mươi, tuy là người tri thiên mệnh, nhưng ông tôi  vẫn bồn chồn, ưu tư cho thằng cháu út, nên một hôm, ông gọi riêng tôi và bảo “Ông đã chấm cho con một lá số, theo như lá số, sau nầy, con có thể làm đến nhất phẩm triều đình, xưa gọi là tể tướng, tướng quốc, nay thì tệ ra cũng làm thủ tướng chính phủ, nhưng ông vẫn thấy có sự bất thường nào đó trong lá số?!”
Tôi đáp cho vui lòng ông tôi “Không thủ tướng thì bộ trưởng cũng được, ông đừng lo cho con.” Ông tôi cười “Người ta nói, số phận an bài, đâu có kèo nài, thêm bớt được.” Tôi hỏi “Như vậy tương lai của con ra sao?” Ông tôi trầm ngâm “Cái số của con thì luôn  luôn được may mắn, đi thi là phải đậu, có dịp là làm lớn ngay, không phải leo lên từng cấp bậc một. Giống như thời Chiến Quốc bên Tàu, mấy ông nho sĩ, từ cùng đinh nhảy lên tướng quốc vậy.Nhưng lá số của con có điểm mờ ảo nào đó mà ông vẫn chưa tìm ra. Dù sao thì cổ nhân có dạy “Ðức năng thắng số” sau nầy, con nên nhớ, phải cố mà giữ cho vững cái đạo của người quântử...” Tôi tò mò “Con thấy, chỉ cần học giỏi là làm lớn. Phải không ông?” Ông tôi lại cười “Người xưa nói rằng ‘Nhất mệnh, nhì vận, tam âm công, tứ phong thổ, ngũ độc thư’... Ý là số phận con người còn phụ thuộc rất nhiều vào mồ mả và phước đức ông bà, tổ tiên để lại, chứ còn chuyện học hành, cố cho lắm mà không gặp thời vận thì cũng chỉ là tên cuồng nho, mọt sách mà thôi. Xưa nay có biết bao người dốt mà làm nên sự nghiệp.”

Chuyện dốt mà làm lớn, sau nầy tôi mới thấy, nhưng lúc đó tôi không tin, nhưng tôi vẫn hỏi để tỏ vẻ chú ý lời ông tôi dạy bảo “Vậy nhà mình có âm công phong thổ gì không ông?” Ông tôi có vẻ hào hứng lắm “Về mục âm công, phong thổ thì ông đang tiến hành đây. Ông đã tìm được một cuộc đất rất tốt. Ông đã xây sẵn một sinh phần (huyệt mộ), hễ ông nhắm mắt thì đem quan tài đến đó, bỏ xuống, lấp đất lại là xong, và cứ thế mà chờ cho đến khi mộ ông kết phát...
” Mấy hôm sau, ông tôi dẫn tôi đi xem cuộc đất, là nơi ông sẽ yên giấc ngàn thu. Huyệt mộ nằm trên một sườn đồi, hướng ra biển.
Ông tôi rất vui khi giải thích cho thằng cháu nội sáng giá của ông nghe nào long chầu, hổ phục ra sao, đặc biệt, huyệt mộ nằm ngay hàm của con rồng, chỉ chờ bão tố hoặc sóng thần, nước tràn lên, đất sẽ sụp lỡ, đổ ụp lên mộ, vậy là coi như con rồng đã ngậm miệng lại, lúc đó, con cháu mặc sức mà phát vương, phát tướng. Tôi làm như chăm chú và thích thú lắm để ông tôi vui lòng chứ sự tin tưởng chẳng có bao nhiêu.

Từ nhỏ đến lớn, việc dạy dỗ, học hành của anh chị em tôi trong nhà đều do ông tôi lo. Mẹ tôi phải buôn bán, làm ăn, không có thì giờ, vả lại bà rất thương yêu, chìu chuộng chúng tôi, chẳng nặng lời bao giờ nên khi ông tôi mất thì tôi như ngựa không cương, mặc sức lêu lổng, chẳng ai quản lý được cả. Ði học về là vất sách vở, nhào ra sân đá banh, đá banh chán, xuống sông tắm. Buổi tối, ăn xong là xách cây đàn guita đến nhà mấy đứa bạn hát hò, rên rỉ, nỉ non mấy bài hát mà Duy Khánh, Chế Linh thường hát.

Ðến khi đi thi tú tài một thì trong bụng tôi không có một chữ để làm “hành trang ứng thí.” Sách vở, từ đầu niên học cho đến cuối năm, bài nào tôi cũng thấy mới tinh! Con người khi gặpkhó khăn, không biết giải quyết cách nào mới nghĩ đến những đấng vô hình, năn nỉ cầu xin quí vị đó cứu giúp. Tôi tuy không tin những chuyện mơ hồ, nhưng sẵn có lá số tử vi mà ông tôi chấm cho nên tôi giao trách nhiệm thi cử cho ông tôi đảm trách, dù ông tôi không còn trên cõi đời nầy nữa.

Tôi vẫn tiếp tục lười biếng, tiếp tục ca hát một cách vô tư như con “Ve sầu kêu ve ve, suốt mùa hè...” trong thơ ngụ ngôn của ông La Fontaine. Nhưng đến nhà bạn bè thì đứa nào cũng bận học thi và cha mẹ chúng thường đuổi khéo tôi, nên tôi về nhà hát một mình, đi cà lơ thất thểu ngoài đường phố, đến khuya, về nhà lăn ra ngủ... Thực tâm, tôi cũng muốn học như bạn bè, nhưng bài nhiều quá, học sao cho xuể? Thế là tôi đem tất cả sách vở, tài liệu để lên bàn thờ ông nội tôi, thắp nhang rồi quì xuống, long trọng khấn vái “Ông nội chỉ cho con bài nào sẽ ra trong đề thi, con không có thì giờ học hết.” Khi ngẩng lên, nhìn ảnh ông tôi, quả nhiên tôi thấy hình như ông tôi mỉm cười, vậy là tôi yên tâm.

Mỗi môn học, tôi lấy quyển sách hay quyển vở, vái ông tôi mấy vái và giở ra, độ năm bài, theo kiểu tình cờ và tôi chỉ học có năm bài đó thôi. Môn học nào tôi cũng làm như thế. Vậy mà đi thi, tôi trúng tủ, đậu bình thứ. Bạn bè thán phục. Chúng biết tôi đã dốt lại lười, mà đậu bình thứ, trong khi có nhiều đứa thức khuya dậy sớm, học ngày, học đêm, mặt mũi xanh lè vì mất ngủ mà vẫn rớt!? Chúng thắc mắc, tôi phét lác “Sang năm, tú tài hai, tao sẽ đậu tối ưu cho tụi bây coi.” Năm sau, thi tú tài hai, tôi vẫn mững đó mà làm. Tôi tin ở lá số tử vi của ông tôi đã chấm cho tôi - thi đâu đậu đó - và tin nhất là ông tôi vẫn ở bên tôi, phù hộ tôi, dù tôi không thấy được ông. Thi tú tài hai gồm hai đợt, đậu thi viết mới vào thi vấn đáp. Thi viết thì tôi vẫn trúng tủ, nhưng thi vấn đáp, môn vạn vật, tôi bị kẹt.

Số là, khi vào vấn đáp, giám khảo thường để sẵn một số câu hỏi trong hộp nhỏ, thí sinh bốc trúng câu nào trả lời câu đó. Ông giám khảo môn vạn vật nầy nghe nói khó tính lắm.  Lạng quạng là ông ta đuổi ra và nói “Anh về học lại, sang năm đi thi. Tôi cho anh không điểm.” Buổi sáng đó, tôi để cho mấy đứa vào thi trước. Ðứa nào thi xong, bước ra, mặt cũng méo xẹo, khiến tôi mất tinh thần, bụng đánh lô tô, miệng cứ lẩm bẩm kêu cứu ông nội tôi phù hộ, độ trì. Tôi giở mấy bài tủ ra coi lại, kiểu nhứt chín nhì bù. Ðến khi không còn đứa nào nữa tôi mới rón rén bước vào. Ông giám khảo nầy trẻ nhưng coi bộ hắc ám.
 Mặt hầm hầm như sắp bợp tai thằng thí sinh ngồi đối diện. Tôi trình thẻ học sinh, ông không thèm nhìn, chỉ tay vào cái hộp nhỏ đựng câu hỏi. Tôi thò tay bốc một câu, mở ra thấy “Tại sao ban đêm, không nên ngủ dưới tàng cây?” Tôi trình câu hỏi cho ông ta. Ông ta bảo “Nói đi!”

Tôi lặng người! Câu hỏi, tôi nghĩ, không có trong sách vạn vật chứ đừng nói trong những bài tủ của tôi. Trong đầu tôi, hoàn toàn không có một chút ý niệm về chuyện đó, nó sạch bóc như tờ giấy trắng. Tôi biết rõ là vong linh ông nội tôi đang ngồi bên cạnh, nhưng chắc chắn ông tôi cũng lắc đầu, thở dài vì vô phương! Thấy tôi cứ ngồi đực ra, ông giám khảo lại nhắc “Nói đi!” Tôi khiếp quá, tự nghĩ nên nói một câu gì đó cho không khí bớt căng thẳng, chứ hột vịt thì chắc chắn tôi đã có sẵn rồi.

Bỗng nhiên tôi liên hệ bản thân và nói “Thưa thầy, ban đêm không nên ngủ dưới tang cây, vì khi ngủ dậy người uể oải, khó chịu!” Ông ta ngẩng lên nhìn tôi “Sao anh biết?” Tôi phấn khởi “Thưa thầy, buổi tối, em thường đem ghế bố ra sân ngủ, dưới mấy cây vú sữa, sáng dậy, thấy hơi mệt mõi trong người.”

Ông ta lại nhìn tôi, mặt lạnh tanh “Ðây là khoa học thực nghiệm chứ không phải khoa học huyền bí. Anh phải chứng minh bằng công thức đàng hoàng. Anh biết khí ốc xi  không? Anh biết cạt bô níc là gì không? Viết công thức ra xem?” Tôi gãi đầu, ốc xi thì tôi viết được, cả đến khí cạt bô níc tôi cũng viết được nữa, nhưng công thức viết thế nào?
Thấy đã mớm ý cho mà tôi vẫn ngồi ngẩn ngơ như người thất tình, ông giám khảo mở to mắt, ngạc nhiên, có lẽ nghĩ rằng ông đang gặp phải người ngoài hành tinh, gì cũng không biết!

Ông cầm thẻ học sinh của tôi lên, đó là cách đuổi lịch sự. Bỗng nhiên ông nhìn vào thẻ học sinh và hỏi “Anh học vạn vật với thầy nào?” “Thưa thầy, em học với thầy Ðồng Ðen.”
 Nói xong tôi mới biết mình hớ, biệt danh của các thầy cô là chỉ bọn học trò dùng với nhau để phân biệt thầy cô nầy với thầy cô khác, đây lại đem ra nói với ông giám khảo của mình, đúng là tội phạm húy! Ông giám khảo trao tôi thẻ học sinh và bảo “Gặp thầy Ðồng thì thưa với thầy là thầy Bình gửi lời thăm. Tôi cho anh bảy điểm. Còn người nào ngoài kia thì bảo họ vào ngay.Gần hết giờ rồi!” Tôi thưa “Thưa thầy, em là người chót.” Ông giám khảo nhìn lại danh sách và gật đầu. Tôi cúi chào ông ta và đi thụt lùi ra khỏi phòng.

Bạn thử tưởng tượng xem, tôi như một người đang bị đày xuống hỏa ngục, đời đời bị lửa đốt, đau đớn mà không thể chết được, rồi thình lình có ông Phật, ông Thánh nào đó cứu ra khỏi hỏa ngục, còn cho lên thiên đường ở nữa. Trước đó, chỉ năm phút thôi, tôi thấy ông giám khảo sao ác ôn quá, ngay sau đó lại thấy ông ta hiền từ như ông Phật!
 Sướng sao đâu! Tôi sướng đến độ cứ tưởng mình đang bay lơ lửng, tưởng như mình nằm mơ.

Năm đó tôi đậu tú tài hai, mà đậu vớt mới đã! Ðúng như ông tôi nói “Thi đâu đậu đó!”

Cũng chưa hên bằng kỳ thi vào trường Hành Chánh của tôi sau nầy. Tôi vào Sài Gòn học Luật và học cả Văn Khoa nữa. Sau thấy trường Hành Chánh tuyển sinh viên ban Ðốc Sự, tôi cũng nộp đơn, nghĩ rằng sau nầy mình làm lớn (?!), phải thông thạo luật lệ và rành về hành chánh. Muốn thi vào trường nầy, tối thiểu phải biết luật Hiến Pháp.
 Bài bình luận chính trị có đủ điểm, trường mới chấm đến các môn thi khác. Vì tin tưởng ở lá số tử vi của mình nên tôi chả thèm để ý đến chuyện bài vở.

Một buổi tối, đi coi xi nê về, tiện tay, tôi mua tờ báo Chính Luận, về nằm đọc chờ giấc ngủ. Khi giở trang trong, tôi thấy bài luật Hiến Pháp của giáo sư Nguyễn Văn Bông.
Không biết xui khiến sao, tôi lại học thuộc bài báo nầy, thuộc từ dàn bài đến từng chữ một. Quả nhiên, mấy hôm sau đi thi, tôi lại trúng tủ, tuy đề thi có hơi khác. Bạn nào học khóa 14 ban Ðốc Sự, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh ắt còn nhớ rõ đề thi đó. Mà bạn biết thi vào trường Hành Chánh khó cỡ nào không?

Năm tôi thi tổng số hơn sáu nghìn sĩ tử, chen nhau một trăm chỗ ngồi, trong một trăm chỗ đó lại ưu tiên lấy mười sinh viên sắc tộc, mười sinh viên nữ, còn lại chỉ có tám mươi chỗ. Nếu tính tỉ lệ thì còn khó hơn thi tiến sĩ thời xưa nữa. Hên cỡ đó bảo sao tôi không tin tưởng vào lá số tử vi của mình được?

Sau bốn năm đèn sách, tôi ra trường, nhưng học dốt quá nên đội sổ (đứng chót). Khi chọn nhiệm sở, mấy đứa học giỏi chọn trước, còn lại mấy tỉnh khỉ ho cò gáy ở miền giới tuyến và trên cao nguyên cho mấy thằng cầm đèn đỏ, cỡ như tôi.

Tôi về địa phương lãnh một chức phó quận ở một quận miền núi. Ngồi trong quận đường nhìn ra chỉ thấy đồng bào Thượng, nhìn xa hơn nữa là núi cao rừng rậm, thỉnh thoảng nghe vọng về tiếng máy bay, tiếng bom đạn... Vì tin tưởng ở lá số tử vi của mình nên tôi không bao giờ buồn chán. Tôi rất cẩn thận trong cuộc sống cũng như trong công vụ. Tôi đóng đúng vai một ông quan thanh liêm, luôn thương yêu, giúp đỡ đồng bào trong quận. Nói “ông quan thanh liêm” cho oai chứ chức phó quận đâu có quyền hành gì, hơn nữa bọn trẻ chúng tôi đều có lý tưởng, chỉ nghĩ đến hai tiếng tham nhũng đã xấu hổ với mọi người rồi.

Tôi còn nghiêm khắc với chính mình. Tôi không bao giờ nhìn đàn bà, con gái dù các cô gái thượng đã đẹp lại để ngực trần, căng cứng, nhởn nhơ đi trước mặt. Tôi cũng không rượu chè, cờ bạc bao giờ. Chẳng phải tôi thánh thiện gì, nhưng nghĩ đến tương lai sáng lạn (!?) tôi chả dại mà để cho bọn đối lập sau nầy mang đời tư của tôi ra mà bêu riếu.

Thời gian trôi qua, tôi bắt đầu sốt ruột, không hiểu phải bao lâu nữa tôi mới ngồi vào cái ghế tể tướng (thủ tướng)? Nếu cứ làm việc ở nơi hẻo lánh nầy mãi, thiên hạ làm sao biết tôi mà mời tôi ra chấp chính?! Rồi thì tôi được lệnh đi học lớp sĩ quan Thủ Ðức.
 Tôi rất hài lòng khi nghĩ rằng, khi tốt nghiệp sĩ quan quân đội, tôi là người “văn võ toàn tài,” sẽ không mặc cảm khi (làm lớn) phải chỉ huy mấy ông tướng lãnh.

Mãn khóa sĩ quan, tôi được trả về nhiệm sở cũ. Tỉnh điều tôi về làm trưởng ty công vụ tòa hành chánh tỉnh, là ty chuyên việc quản lý hồ sơ, điều động cán bộ, nhân viên trong tỉnh. Tôi nghĩ bộ máy huyền bí của định mệnh bắt đầu chuyển động và con đường công danh, sự nghiệp của tôi đã mở ra một cách thênh thang đây rồi. Không ngờ ngồi chưa nóng đít ở cái ghế trưởng ty thì xảy ra vụ sập tiệm năm bảy lăm, tôi chạy thẳng một mạch vô tới Sài Gòn rồi chui vô cái rọ tù cải tạo của việt cộng.

Khi có thông cáo tập trung cải tạo, ủy ban quân quản Sài Gòn ghi rõ là đem một tháng tiền ăn. Ai cũng tưởng học tập một tháng rồi về nên hăng hái xin đi học tập, chen nhau vô cổng (tù) đến độ bộ đội phải bắn súng để giữ trật tự. Ðến chiều hết giờ, nhiều người ở ngoài cổng, chưa vào kịp, phải trải chiếu nằm ngủ, chờ sáng mai được vô tù sớm! Nơi trình diện học tập, cải tạo là các trường học Gia Long, Trưng Vương, Don Bosco (?)...

Ai cũng tưởng sẽ học ở đó, không ngờ mấy hôm sau, lúc nửa khuya, bộ đội dựng đầu dậy, lùa ra xe tải, chở đi. Xe nào cũng có bộ đội, sát khí đằng đằng, súng lăm lăm chỉa vào mấy cậu ngụy, khiến mấy cậu chới với. Xe tụi tôi được đưa lên làng cô nhi Long Thành, có tên mới là trại cải tạo 15 NV.

Trước đây, làng cô nhi nầy nuôi bọn trẻ mồ côi, khi tụi tôi lên thì bọn trẻ biến đâu mất cả, có lẽ đã cho tan hàng. Trại gồm hai dãy nhà dài, mỗi dãy có sáu căn, giống như sáu dãy trường học. Bọn tù được nhốt mỗi dãy khoảng trên ba trăm tù. Lúc đông nhất, cả trại có trên bốn nghìn tù.
Giai đoạn đầu, tù được thong thả, ăn xong thì làm bản tự khai, nghĩa là khai gia phả ba đời, khai làm chức vụ gì cho Mỹ, Ngụy, đã phạm tội ác gì với cách mạng và nhân dân... Khai xong nộp cho đội trưởng, đội trưởng (cũng là tù) nộp cho nhà trưởng, nhà trưởng (cũng là tù) nộp cho cán bộ quản giáo phụ trách. Ngoài việc tự khai còn lên hội trường nghe cán bộ chửi Mỹ, Ngụy rồi về làm thu hoạch, nghĩa là tù cải tạo cũng chửi Mỹ, Ngụy, càng giống cán bộ càng tốt. Buổi tối thì học hát, những bài hát cách mạng, cũng chửi Mỹ, Ngụy...

Mấy cậu ngụy ngồi hát say sưa, tưởng như bọn Mỹ, Ngụy nào đâu chứ không phải mình! Hát bài “Chiếc Gậy Trường Sơn,” bài “Bác đang cùng chúng cháu hành quân” cũng hả họng hát một cách vô tư, cũng căm thù, cũng tình cảm lai láng như mình là bộ đội, cán bộ việt cộng vừa chiếm được miền Nam và đang làm thịt quân dân cán chính miền Nam để trả thù... Mấy tên tù nầy đóng kịch, ra điều ta đây giác ngộ cách mạng để đánh lừa cán bộ coi tù, vì biết ngoài cửa nhà tù làm gì cũng có cán bộ rình.

Ðúng y bon, một lần bọn tù chúng tôi hát bài “Giải phóng miền Nam,” đến câu “Vùng lên, nhân dân miền Nam anh hùng...” thì cán bộ Hai Sự, phụ trách dãy A, thình lình xuất hiện ngoài cửa, nạt vào “Dẹp, không được hát bài ấy nữa. Miền Bắc không anh hùng sao? Cấm hát. Ai hát bài ấy, tôi cùm đầu!”

Vào nhà tù, tôi chưng hửng! Tể tướng, thủ tướng đâu chẳng thấy mà làm thằng tù khôngbiết ngày nào ra? Khổ nỗi, cán bộ cộng sản lại bảo “Ty Công Vụ” là công an, mật vụ, kết tội nặng, đày ra Bắc cho chóng chết.

Tháng đầu tiên trong trại cải tạo 15 NV được coi là thời sướng nhất trong đời thằng tù cộng sản. Ăn uống đã có nhà thầu Chợ Lớn lo, vì đã đóng một tháng tiền ăn. Bữa nào cũng thịt cá ngon miệng, lại sẵn căn tin, cậu nào có lận theo tiền thì mua cà phê, kẹo bánh...
 Buổi chiều kéo nhau ra bên hông nhà, nấu cà phê, nhâm nhi, tán phét, tự coi như đi nghỉ hè một tháng. Nhiều cậu còn bàn chuyện sau một tháng về nhà sẽ làm gì sinh sống, vì cách mạng vô thì coi như bị thất nghiệp!? Ngây thơ đến thế là cùng! Riêng tôi thì hoàn toàn thất vọng. Cái lá số mà ông tôi đã chấm cho tôi, trước giờ rất đúng, nay bỗng nhiên lại xảy ra chuyện kỳ cục nầy?

Trong trại cải tạo nầy có rất nhiều tay rành tử vi, đẩu số. Những người có học mà nghiên cứu một vấn đề gì, tất phải rộng rãi, sâu sắc lắm. Thế nên, nhân một lúc các tay tổ tử vi họp nhau sau hè, nói chuyện tướng số, tôi mới đem cái lá số của tôi ra và thắc mắc. Ai cũng hỏi tôi có chắc là đúng ngày sinh, tháng đẻ, có đúng giờ chào đời của tôi không? Sau khi xác nhận là đúng y trăm phần trăm, họ bấm tay như mấy thầy bói mù, có người đem tờ giấy ra, vẽ ngang, vẽ dọc...

Rồi ai cũng ngớ ra, lá số tôi quả có chuyện lạ! Họ lại xúm nhau bàn tới bàn lui, cãi nhau như mổ bò, cuối cùng một ông hỏi tôi, từ trước đến giờ có đóng kịch, hát bội, cải lương lần nào chưa? Có đóng vai thừa tướng, tướng quốc, thủ tướng lần nào chưa? Tôi quả quyết là chưa.
Ông ta bảo, sau nầy tôi nên theo gánh hát và đóng vai thừa tướng thì xuất sắc lắm. Một ông khác, lớn tuổi, hỏi tôi một cách nghiêm trang “Cậu biết hiện nay cậu làm chức vụ gì trong trại nầy?” Tôi bảo “Tôi làm đội trưởng.” “Cậu có biết, dưới tay cậu có những ai không?” Tôi kể tên mấy ông trại viên trong đội tôi... Ông A, ông B, ông C... Ông ta lại hỏi “Mấy ông đó, vì sao vô đây cậu có biết không?” “Thì ông A làm thẩm phán, ông B làm dân biểu, ông C làm giám đốc nha...”

Ông bạn tù giải thích “Thủ tướng chỉ làm xếp ngành hành pháp thôi. Ðây cậu quản lý cả ba ngành hành pháp, lập pháp, tư pháp, lớn hơn thủ tướng. Vậy là cậu làm tướng quốc, tể tướng đúng với cái lá số của cậu rồi, còn phàn nàn gì nữa!?” Tôi nổi xùng “Các ông đó đâu còn làm quan chức gì?” “Cậu thấy, thông báo tập trung cải tạo từ phó quận đến tổng thống. Họ nhốt chức vụ vào đây chứ có nhốt tên A, tên B nào đâu. Cậu làm đội trưởng, là làm xếp mấy quan chức đó, vậy cậu không phải tướng quốc thì làm gì?” Cả bọn cười vang, nhưng tôi không cười.
 Cái thằng cha lốc cốc tử nào bên Tàu, ngày xưa, đã chơi cho tôi một cú đau điếng. Hay là con rồng chưa khép miệng để nuốt ông tôi vô bụng cho con cháu phát vương, phát tướng? Lúc đầu tôi nghĩ như thế, cho đến khi bị đày ra Bắc tôi mới hoàn toàn thất vọng. Sau một tháng, đã hết tiền ăn mà tù đã nộp, chúng tôi bắt đầu ăn “cơm” tù để hiểu thế nào là thằng tù cải tạo cộng sản.

Từ trại tù Long Thành, chúng tôi lần lượt, mỗi đứa được lãnh một cái bao bố, nghe cán bộ bảo để đựng vật dụng cá nhân, nhưng có mấy đứa lại bảo để có sẵn mà cho thằng tù vô bao bố, thả xuống biển cho mò tôm được nhanh gọn, hoặc khi đày lên núi rừng, nếu có biến động, cứ bắt tù ngồi vào bao bố và bắn chết và khiêng bỏ xuống hố, tiện việc nhà nước, vì thực sự, chúng tôi có đem gì theo đâu mà phải dùng bao bố?

Chúng tôi xuống tàu thủy, ra miền Bắc. Lúc lên bờ, bị đồng bào đứng chờ sẵn mắng nhiếc và ném đá nữa, nhưng khi tù lên vùng rừng núi, đi lao động, gặp đồng bào họ lại bảo “Nhân dân miền Bắc chờ các ông ra giải phóng, không ngờ các ông ra làm thằng tù!” Tôi chẳng bao giờ để ý đến những chuyện đó, cũng chẳng suy nghĩ, lo lắng cho tương lai bản thân. Nhưng có điều lạ là đi đến trại tù nào, tôi cũng bị cán bộ chỉ định làm đội trưởng, từ chối có thể bị gán cho tội ngoan cố và bị cùm cũng nên, mà dưới quyền tôi, bao giờ cũng là các ông, trước đây là quan lớn trong các ngành hành pháp, tư pháp, lập pháp... đủ cả.

Gần mười năm tù, tôi được thả về. Ở Sài Gòn, tôi đạp xích lô, bán vé số, sửa xe đạp... sống qua ngày. Tôi cố quên cái lá số tử vi của mình, tôi cũng rất cảnh giác, tuyệt đối không bao giờ thay mặt cho ai, không trưởng toán, tổ trưởng nào cả. Tôi sống một mình, và cũng nghĩ rằng cái lá số tử vi của tôi chỉ là những chuyện rắc rối mà mấy chú ba tàu đặt ra mục đích lừa phỉnh, dọa nạt những người ngu dốt, kém hiểu biết để kiếm tiền mà thôi.

Thế rồi có vụ HO, tù được đi Mỹ. Tôi nghĩ, giỏi lắm tôi làm thằng cu ly. Tiếng tây, tiếng u tôi nói như thằng ngọng thì chỉ huy được ai, nên tôi yên trí. Thị trấn tôi ở, thuộc vùng Ðông Bắc Hoa Kỳ, tuy không đông lắm nhưng rất xô bồ. Ðủ thứ người. Da đen cũng có, Mễ cũng có, Á Châu cũng có. Lộn xộn, bát nháo.

Tôi ở trong một chúng cư đông người Việt, dơ bẩn, nhiều tệ đoan xã hội. Trộm cắp, hút xách, đánh lộn... ngày nào cũng xảy ra. Ðậu xe, khóa cẩn thận, nhưng chúng thấy trong xe có gì vừa ý là đập kiếng xe, lấy đi. Ðôi khi chúng ăn cắp xe để chở những thứ quốc cấm như xì ke, súng đạn hoặc để đi ăn cướp, bắt cóc... Nhà có con gái, khuya chúng đập cửa kiếng vô mò con người ta, bọn nhỏ la lên, cha mẹ chạy ra, mở đèn, chúng ngang nhiên mở cửa chính đi ra, chẳng ai dám làm gì vì sợ chúng trả thù. Bọn chúng cùng sắc tộc với nhau thì mặc kệ, nhưng vì người Việt hiền lành, chúng quậy luôn cả người Việt.

Thấy thế tôi nổi xùng, vận động đồng bào người Việt tổ chức thành một cộng đồng nhỏ, có gì binh vực, giúp đỡ nhau. Bọn bất lương động đến người Việt là tất cả đồng lòng chống trả hoặc gọi cảnh sát đến chỉ tận mặt. Kết quả là từ đó, chúng chừa người Việt, không quấy phá nữa. Các chúng cư quanh đấy, người Việt cũng theo gương mà đoàn kết lại.

Rồi nhân những dịp lễ Tết, cộng đồng người Việt họp nhau tổ chức chợ Tết, tổ chức các ngày kỷ niệm truyền thống... Sau cùng thành lập một cộng đồng lớn, bầu cử Hội Ðồng Quản Trị rồi bầu Ban Chấp Hành, xin giấy phép lập hội để đủ tư cách liên lạc với chính quyền địa phương.

Ðến đây thì tôi tự động rút lui. Tôi không muốn đại diện hay chỉ huy ai cả. Tôi ngán chức tước lắm rồi, thứ chức tước “ảo” như đội trưởng, tổ trưởng trong tù. Nhưng nhiều người lại tín nhiệm tôi, họ năn nỉ tôi tham gia Hội Ðồng Quản Trị vì biết tôi rất nhiệt tâm với đồng bào. Tôi cự nự như muốn gây lộn, họ vẫn cứ năn nỉ, tôi đành chấp nhận, cứ nghĩ mình sẽ không đến họp, không làm gì cả tất họ sẽ chán, thế nên, khi họ bầu tôi vào Ban Chấp Hành, tôi cũng không phản đối. Nhưng rồi vì một nguyên nhân mà tôi lại bon chen, cố cho được chức chủ tịch Ban Chấp Hành. Số là trong Ban Chấp Hành có một người đẹp. Với người khác, có lẽ cô không đẹp lắm nhưng với tôi, chỉ mới thấy là đã ngớ người ra, hồn vía lơ lửng đâu trên mây xanh! Người đẹp có đôi mắt và chiếc miệng đúng là “đẹp không thể tả!” Mắt cô một mí, khi cô cười thì như nhắm lại, nhưng dưới hai làn mi đó là cả “một hồ nước mùa thu” long lanh, nếu tôi được cô nhìn và cười thì tôi “chết mê chết mệt,” mặt cứ thộn ra, ai cũng thấy rõ.

Thế là từ “lần đầu gặp gỡ” hình ảnh cô, giọng nói, đôi mắt, nụ cười của cô cứ hiện ra rõ rệt trong đầu tôi, khiến bụng dạ tôi cứ lộn xộn, lúc nào cũng náo nức muốn gặp được cô. Nói theo văn chương là tôi yêu cô, yêu theo kiểu mối tình đầu! Sở dĩ mấy ông bà mời cô ta vào hội vì cô ta rành tiếng Anh, trước đây, khi còn ở Việt Nam, cô là giáo sư Anh Văn, hơn nữa cô rất thiện chí. Mấy người đi HO qua đều được cô giúp đỡ, hướng dẫn đi xin trợ cấp, xin việc...

Cô được bầu làm phó chủ tịch ngoại vụ, lo liên hệ với chính quyền và các cộng đồng bạn. Cô còn độc thân, là con gái của một ông trung tá, gia đình cô có một nhà hàng, rất đông khách. Ban ngày hơi vắng khách nên cô có thì giờ lo việc cộng đồng.

Từ khi lên chức chủ tịch, tôi xin thằng xếp trong tiệm (tôi làm cu li, sai gì làm nấy) làm buổi tối để có dịp cùng cô làm chuyện thiên hạ. Chở người nầy đi khám bịnh, đưa người khác đi xin việc, xin trợ cấp... Ði đâu tôi cũng năn nỉ cô đi theo, viện lí do là không rành tiếng Mỹ. Cô thì lúc nào cũng vui vẻ, nhưng khi chỉ có mình tôi với cô trên xe, cô lại nghiêm trang, mắt luôn nhìn phía trước, không cười khi tôi pha trò! Coi bộ cô không có cảm tình với tôi, nhưng khi đã yêu thì kể sá gì chuyện có được yêu lại hay không! “Ai chiến thắng mà không hề gian khổ? Nghĩa là cứ nhào đại vô mà tỏ tình, không được thì cũng chả chết ai.” Nghĩ thế nên tôi tìm dịp cho cô biết tình cảm của tôi đối với cô.

Nhưng phải làm cách nào mà nếu cô có cảm tình với tôi, cô sẽ hiểu ngay, ngược lại cô sẽ nghĩ rằng chuyện đó không liên can đến cô. Nghĩ mãi tôi mới sáng tác ra được một chuyện tình để tìm cách kể cho cô nghe. Thường thì sáng nào tôi cũng đến nhà hàng của gia đình cô để uống một ly cà phê. Cô mang cà phê ra cho tôi, ngồi đối diện, nói vài câu xã giao hoặc bàn đến chuyện cộng đồng, độ mươi phút cô mới đứng lên, vào bên trong lo việc bếp núc.

Một lần tôi đề nghị cô ngồi nán lại để nghe tôi “kể chuyện nầy, hay lắm!” Cô tươi cười ngồi xuống. Tôi kể vắn tắt “Cô có còn nhớ, tuần trước tôi và cô ra phi trường đón một gia đình HO, gồm năm người, trong đó có một cô gái đẹp và có duyên đến độ tôi mới gặp mà đã đem lòng thương yêu. Cô ta có đôi mắt lá răm, miệng lúm đồng tiền, nói năng dịu dàng, vui vẻ. Tôi thường gặp cô ta mà không biết làm cách nào để tỏ tình. Yêu thầm cũng được nhưng rủi cô ấy lấy chồng thì có lẽ tôi sẽ chán đời hoặc thành người điên mất. Theo ý kiến cô, tôi phải làm gì cho cô ấy hiểu được tình tôi? Tôi có nên nói ra cho cô ấy biết không?”

Cô lặng yên một lúc rồi nói “Chuyện tình yêu của anh, anh nên hỏi một người đàn ông khác, bọn phụ nữ chúng tôi làm sao có ý kiến được, hơn nữa, phải gặp gỡ cô gái đó mới biết được ý nghĩ của cô ta...” Nói xong cô đứng lên. Tôi không hiểu cô có biết lời tỏ tình gián tiếp đó của tôi không, nhưng sáng hôm sau, tôi đến nhà hàng của gia đình cô uống cà phê, cô không ra tiếp. Tôi đoán cô không ưa tôi, không muốn bị tôi làm phiền.  Tôi buồn chán quá, thấy đời vô vị, và cô ta, trong đầu tôi, cô vẫn còn đẹp nhưng rất xa lạ, đến độ tôi ngượng, không dám gặp cô. Công việc đón tiếp, giúp đỡ đồng hương mới đến xứ Mỹ, chúng tôi cũng đi chung nhưng tôi không cảm thấy hăng hái chút nào, cô ngồi bên cạnh mà như người chưa gặp lần nào. Nhiều khi tôi đi một mình, không rủ cô đi theo. Tôi có ý định sang tiểu bang khác.

Cái Ban Chấp Hành Cộng Ðồng, thấy thì đủ các ủy viên, năm bảy người, nhưng công việc, họ giao hết cho hai đứa tôi rồi lặn đâu mất tiêu. Trước đây, tôi bon chen cho được cái chức chủ tịch là để được dịp gặp người đẹp, nay thì tôi đã chán rồi, muốn rút lui. Thế nên nhân dịp Việt Cộng đưa mấy ca sĩ tân nhạc, cổ nhạc qua Miền Ðông nước Mỹ làm công tác văn hóa vận, cả Hội Ðồng Quản Trị với Ban Chấp Hành họp lại, tìm cách tẩy chay. Buổi họp có vẻ sôi nổi lắm. Lên kế hoạch, chương trình rất kỹ lưỡng, nhưng cuối cùng lại giao cho Ban Chấp Hành làm cả! Tôi họp mọi người để phân công.

Mấy ông trong ban chấp hành lại giao cả cho hai đứa tôi. Tôi quyết liệt phản đối thì các vị đó lại cười “Tụi tôi biết anh quá mà! Lúc trong tù, trực diện với cai tù, anh còn thành công, bây giờ vận động đồng bào không đến coi hát của văn cộng việt cộng, là chuyện nhỏ...” Tôi ngạc nhiên “Sao quí vị biết tôi đi tù cải tạo?” Các ông ấy nhao nhao lên “Anh quên tụi nầy, chỉ biết có người đẹp thôi, chứ tụi nầy vẫn còn nhớ anh. Ði chung một chuyến bao bố (Tù bị đày ra Bắc, được phát bao bố), ra ngoài Bắc, đi đâu anh cũng làm đội trưởng tụi nầy.” Lúc đó nhìn kỹ, tôi mới nhớ, đó là mấy ông bạn tù ngày trước, thời gian quá lâu, hơn mười năm rồi, các ông ấy qua Mỹ lại thay đổi, nên không nhận ra, vả lại, có người đẹp bên cạnh thì tôi chẳng nhìn thấy ai khác nữa!

Lại mấy ngài quan lớn, hành pháp, lập pháp, tư pháp... ngày xưa! Và tôi vẫn lại làm xếp họ! Tôi đâukhác gì quan tể tướng? Lúc trong tù tôi không dám từ chức, nhưng ngoài đời, ở xứ Mỹ, tôi chỉ cần nói “bye!” một tiếng là xong ngay. Trước kia thì cho rằng số mệnh an bài, nay tôi cãi lại số mệnh để xem cái chức tể tướng có còn theo làm phiền tôi nữa hay không? Còn mấy vị quan quyền nầy, trước giờ cứ bắt bí tôi, gài tôi vào với người đẹp để tôi phải làm chủ tịch, thì nay tôi sẽ chơi lại họ.
 Tôi sẽ qua tiểu bang khác, để xem con rắn mất đầu cựa quậy ra sao? Thế nên tôi vẫn vui vẻ sắp xếp công việc, kêu gọi quí vị ấy tiếp tay, liên hệ với các hội đoàn bạn cùng phát động chiến dịch thêm rầm rộ, hiệu quả. Dự định xong vụ nầy tôi sẽ “lặng lẽ ra đi với một quả tim nặng trĩu buồn phiền!”
Chiều hôm đó, họp xong, tôi xin cô phó chủ tịch, người đẹp của tôi, nán lại ít phút để bàn công chuyện. Tôi vào đề ngay “Cô thấy nhiệm vụ của chủ tịch ban chấp hành có khó khăn, vất vả gì không?” Cô nhìn tôi dò xét “Tôi thấy anh giải quyết chuyện gì cũng ổn thỏa cả, nên nghĩ là không khó khăn bao nhiêu.” Tôi hỏi “Thế cô có thể thay tôi làm chủ tịch được không? Tôi thấy cô đã có ít nhiều kinh nghiệm trong nhiệm vụ nầy.” Cô ngạc nhiên “Anh định làm gì mà trao nhiệm vụ nầy cho tôi?” Tôi nói “Tôi sắp đi tiểu bang khác.” “Vì sao vậy? Có ai làm phiền anh? Hay là vì cô gái mà anh đã kể cho tôi nghe?” Tôi làm ra vẻ suy tư “Ðúng rồi, tôi thất tình cô ta nên muốn đi xa... Tôi hi vọng, cô làm chủ tịch, sẽ được mọi người giúp đơ...” Cô lắc đầu “Tôi không muốn chức vụ gì cả. Tôi chỉ muốn giúp đỡ đồng bào trong lúc mới đến xứ Mỹ xa lạ, để họ ổn định cuộc sống trong giai đoạn đầu mà thôi...” Tôi đành nói “Thôi được, tôi sẽ tính sau. Dù sao thì tôi cũng nhất quyết đi khỏi nơi nầy. Ở đây, lúc đầu thì vui nhưng bây giờ tôi chán rồi. Tôi có người bạn ở tiểu bang khác, hắn đã xin sẵn cho tôi một việc làm ở đó.”

Lúc đứng lên cô cười hỏi “Sao lối rày anh không đến uống cà phê nữa? Không có tiền thì tôi cho ghi sổ.” Tôi cũng cười bảo “Khi thất tình thì đến đâu cũng chẳng thấy vui, uống cà phê cũng hết ngon. Nhưng sáng mai tôi sẽ đến, thưởng thức cà phê do cô pha lần cuối trước khi lên đường.” Sáng hôm sau tôi đến nhà hàng của cô. Cô đích thân mang cà phê ra cho tôi còn ngồi đối diện, cười nói vui vẻ “Tôi mang đến anh một tin vui đây.” Tôi nghi ngờ “Ðang rầu thúi ruột, vui gì nổi!” “Vui chứ! Như thế nầy. Tôi có đến nhà cô gái mà anh trồng cây si. Phải đó là cô Bé Ni không?
Tôi hỏi “Bé có thương chú Vy không?’ Cô bé trả lời “Dạ thương!” Tôi hỏi “Thương nhiều hay ít?”Cô bé nói “Dạ thương nhiều!” Vậy anh vừa lòng chưa? Bây giờ hết thất tình rồi phải không?”
Tôi kêu lên “Trời đất! Cái con bé năm tuổi đó thì tôi làm sao thất tình được!?” Cô nhìn tôi hóm hỉnh “Chính anh nói yêu cô ta. Bị cô ta từ chối, anh thất tình, đòi đi nơi khác. Nay tôi hỏi lại, cô ta nói thương anh nhiều thì anh còn đi đâu nữa?” Tôi lắc đầu, vừa chán vừa ngượng “Ðó là tôi nói ví dụ vậy thôi chứ tôi yêu người khác, nhưng cô ta không ưa tôi nên tôi...” Cô nhìn tôi đăm đăm như chờ đợi.

Tôi không dám nhìn cô, nhưng biết rằng lúc đó mà tôi không nói thì không còn dịp nào khác nữa “Bây giờ, tôi sắp đi tiểu bang khác nên tôi liều mạng. Cô có ghét tôi, khinh tôi, cũng không làm gì được. Hôm trước tôi nói quanh co như thế, chứ thực ra tôi muốn nói là tôi yêu cô. Nhưng tôi biết cô không ưa tôi, mà tôi không nói, cứ để trong bụng, ấm ức, không chịu được. Bây giờ nói xong rồi... Chỉ xin cô đừng cho ai biết lý do tôi đi tiểu bang khác. Tôi xin lỗi cô nếu tình yêu của tôi làm cho cô bực mình...”

Cô cúi xuống, chấm ngón tay vào li nước, vẽ linh tinh trên bàn, một lúc mới nói “Ai cũng lớn cả rồi, đâu còn con nít mà phải nói quanh. Nếu anh có tỏ tình với em mà em không đáp lại thì có gì xấu hổ cho anh đâu? Tư cách anh đàng hoàng, lại có lòng vị tha, yêu thương đồng bào...Ai cũng mến phục anh. Hôm trước, nghe anh nói, lúc đầu em tưởng anh nói thật, cứ tự hỏi.
Có cô nào mắt lá răm, miệng núm đồng tiền giống mình? Em đi tìm gia đình HO mới qua, thì chỉ có con bé Ni. Em biết ngay là anh muốn nói về em. Em cảm động lắm, nhưng ngượng quá, vừa muốn gặp anh vừa sợ anh...”

Bao năm nay, quí ngài “cựu” quan lớn đó vẫn cứ bầu tôi làm chủ tịch, làm xếp họ. Hễ kiểm phiếu,thấy tôi đắc cử, làm gì họ cũng hô lên “Hoan hô chủ tịch gia đình trị!” Chỉ vì vợ tôi vẫn lại là cô
phó chủ tịch ngoại vụ năm nào.

Bây giờ thì mời bạn cho biết ý kiến “Con người có số mạng không?”
 
Phạm Thành Châu
 
 
(From : TranTri)
 
 


Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 13/Apr/2011 lúc 5:40pm
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 15/Apr/2011 lúc 7:26pm
 
 

Ngôn ngữ của đá

 

 Đá núi vô tri sao lại có ngôn ngữ? Có đấy, đá có ngôn ngữ riêng của nó, thứ ngôn ngữ mang tên tình yêu, mang tên cái đẹp và sự rắn rỏi, can cường…

 

                               Ảnh minh hoạ từ Internet

Tình yêu, người ta thường ví von giống như sắt đá. Hoặc có người vẫn hay thề thốt rằng “dẫu sông cạn, đá mòn thì tình anh/em vẫn không đổi”. Đá trở thành một thực thể minh chứng, và được ước lệ về tính lâu bền của tình yêu.

Ở một khía cạnh khác, tác giả của ca khúc Phiến đá sầu đã hơn 2 lần hỏi: “…phiến đá có tình yêu không/…phiến đá có linh hồn không?” để chỉ cho một sự khắc khoải về tình yêu và sự chia xa. Ngôn ngữ của đá lúc này đã hoà quyện thành ngôn ngữ của một người vừa trải qua mất mát, thứ mất mát mang tên tình yêu. Đớn đau và nghi ngờ, đó là cảm giác của con người khi phải đối mặt với sự chia tay, hay sự phũ phàng của tình yêu: chia xa. Người đã hoá đá, bởi hồn người đã giá băng thì có khác chi tượng đá?

Và rồi, nếu được trải nghiệm thêm, ta lại được đối diện với một tâm hồn khác, nhân văn hơn: Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau! (Trịnh Công Sơn). Sỏi đá, hay lòng người? Một người dẫu có thể một lúc nào đó hoá đá bởi những dập dồn của số phận và tình yêu thì cũng có lúc sẽ được tưới tẩm hạt giống yêu đương từ những tấm chân tình. Và thứ sỏi đá trong lòng người về sự đánh mất niềm tin cũng vậy, cũng sẽ có lúc ta thấy lòng mình cần một điểm tựa. Cần nhau ở một khía cạnh tình người chứ không phải chỉ là nhục cảm, là những rung động nam-nữ…


Ảnh minh hoạ

Còn cái đẹp của đá, cả về vẻ đẹp tự nhiên lẫn tinh anh của chất liệu và sự gắn kết nên đá chính là sự bền vững. Sự vững chãi mà đá hiến tặng cho con người sẽ làm tôn thêm vẻ dịu dàng, mềm mại của hoa. Vì vậy, đá và hoa, vẫn là cách ví von thật đẹp trong mối tương quan giữa âm và dương, giữa cứng và mềm. Tô điểm cho nhau để đẹp hơn, để cuộc sống không khô khan cũng không quá ướt át…

Tấn Khôi

 
 
 
 
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 17/Apr/2011 lúc 5:59pm
 
 
Đi cũng là về!


BS.ĐỖ HỒNG NGỌC

Có người hỏi tôi có phải Trịnh Công Sơn là một thiền sư không mà sao cứ thấy tôi nhắc và trích dẫn ca từ của anh trong các bài viết về Thiền, về Phật pháp của tôi?

Với tôi, Trịnh Công Sơn không chỉ là một "thiền sư" mà anh còn là một vị "Bồ tát". Dĩ nhiên Bồ tát trong cái nhìn của tôi thôi, bởi vì, anh đã mang đến cho tôi - và có thể cho nhiều người khác nữa - biết bao niềm phúc lạc, bình an, cũng như biết bao nỗi xót xa, khắc khoải... tùy theo lứa tuổi của mình như một thứ "vô lượng nghĩa" kinh...

Mãi đến vài năm sau khi anh mất, tôi mới viết được một bài thơ nhỏ về anh: "Kẻ rong chơi". Phải, theo tôi, anh là một kẻ rong chơi. Một vị Bồ tát hẳn nhiên là phải rong chơi trong cõi Ta bà thôi, với cái tâm không phân biệt, không chấp trước. Rong chơi thôi đã là quá đủ. Và không dễ. Bởi khi ta mất đi sự rong chơi, tức khắc ta rơi vào những "điên đảo mộng tưởng"...

Khi có cái tâm Bồ tát, người ta "thị hiện" ở cõi người như một cuộc "du ư ta bà thế giới", để chia sẻ những niềm vui và cả những nỗi đau để rồi một hôm "ta lắng nghe ta" thì chợt nhận ra một nỗi niềm "từ bi bất ngờ" ập đến, từ đó biết ra "một cõi đi về" thênh thang!

Khi viết "Gió heo may đã về" tôi nhìn Trịnh Công Sơn khác với khi tôi viết "Nghĩ từ trái tim". Ở "Gió heo may đã về", Trịnh Công Sơn là của "cát bụi mệt nhoài", còn ở "Nghĩ từ trái tim", Trịnh Công Sơn là của "ta là ai mà còn trần gian thế"? Một câu hỏi như vậy mỗi chúng ta chẳng đã từng khắc khoải tự hỏi với chính mình đó sao?

Câu trả lời có đó rồi: "Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt/ rọi suốt trăm năm một cõi đi về". Đi cũng là về. Về cũng là đi. Nó không từ đâu đến, cũng chẳng về đâu (Vô sở tùng lai diệc vô sở khứ). Chính là cái mà Bùi Giáng vẫn thường hay nói "Hà dĩ cố? Chơi thôi mà!". Đôi vầng nhật nguyệt ấy là "minh". Một thứ ánh sáng vẫn soi suốt dặm trường. Ta là ai mà còn trần gian thế? Ta là ai mà yêu quá đời này? Sao không qua bờ bên kia (đáo bỉ ngạn) đi, sao không "thị hiện"... niết bàn đi, mà cứ phải loanh quanh cho đời mỏi mệt?

Tôi quen Trịnh Công Sơn từ cái đêm anh ôm đàn hát một mình dưới mái hiên tôn một tối ở sân Trường đại học Văn khoa Sài Gòn thuở đó. Một người già trong công viên/ một người điên trong thành phố/ một người nằm không hơi thở/ một người ngồi nghe bom nổ... Anh nói tiếng nói của chúng tôi. Tôi nghe mình buốt lạnh: Vết lăn vết lăn trầm... Bài ca dao trên cồn đá; ôi quê nhà một thời... Từng hạt cơm khô, em bé lõa lồ, khóc tuổi thơ đi... Lứa chúng tôi, nói như bạn tôi, Lữ Kiều không chọn lịch sử mà lịch sử chọn mình.

Anh biết tôi với tên Đỗ Nghê, những bài thơ gần gũi trên Bách Khoa, Tình Thương... Anh thường gởi tôi những em bé với đôi dòng nguệch ngoạc: Gửi Đỗ Nghê... chăm sóc giùm...

Mỗi lần tôi ghé nhà thăm anh thường kêu to: "Lấy cho cậu Ngọc một ly nước lọc"! Anh biết tôi không rượu, không thuốc lá. Và không ép. Những khi đông vui, ly này ly khác, thuốc lá chuyền tay, anh vẫn gọi người nhà: Lấy cho cậu Ngọc một ly nước lọc!

Khi tôi in tập thơ Giữa hoàng hôn xưa, thì bìa là của Trịnh Công Sơn với một bức vẽ thiệt ngộ dành riêng cho bài "Thư cho bé sơ sinh"... Khi viết Gió heo may đã về, tôi dùng những ca từ của anh để đặt các tiểu tựa, Trịnh Công Sơn bèn "viết thêm" mấy dòng ở lời Bạt. Anh nói: Moi sẽ nói ngược lại ý toi cho vui nhé. Toi nói "có già", moi sẽ nói không có già nhé! Và rồi, anh viết "Không có già, không có trẻ. Nói với một người trẻ tôi già rồi em ạ là một điều vô lễ".

Đỗ Trung Quân nhận ra ngay vụ "cãi vã" này và bảo sao cho đến cùng, bác sĩ nói có, nhạc sĩ bảo không... trong một bài viết trên Tuổi Trẻ: "Như sông vào biển".

Năm 1997, nghe Trịnh Công Sơn bệnh nặng, đang nằm ở khoa Săn sóc đặc biệt bệnh viện Chợ Rẫy. Tôi đến thăm. Cả nhà đang bứt rứt lo lắng đi qua đi lại trước cửa phòng, vì không ai được vào. Tôi trong nghề nên được các đồng nghiệp cho vào thăm sau khi đã khoác thêm blouse trắng, đổi giày... đâu đó chỉnh tề. Ôi Trịnh Công Sơn đó ư? Một cái xác ve xẹp lép, nhẹ tênh trên tấm drap trắng với nồng nặc mùi nhà thương và bao bệnh nhân hấp hối xung quanh. Ôi, biết bao ca khúc say đắm thẫn thờ là từ cái xác ve xẹp lép nhẹ tênh này đó sao? Có cái gì đó đã bay lên làm nên một Trịnh Công Sơn từ trong tứ đại ngũ uẩn này đó vậy? Có cái gì đó "mặc khải" chăng? Có cái gì đó "thị hiện" chăng? Đã mượn anh để trình hiện như hoa sen trong đầm lầy, như quỳnh hương thoáng sát na?

Tôi lay nhẹ. Anh mở mắt. Nhìn chầm chậm rồi lóe sáng "Toi mới về đó hả?". Thì ra anh vẫn tỉnh, vẫn nhận ra tôi, còn biết tôi vừa mới về sau chuyến tu nghiệp ngắn ở Paris. Tôi mừng quá. Một cô y tá đến chích thuốc. Tôi hỏi cô có biết ai đây không? Cô lắc đầu. Trịnh Công Sơn đó. Cô hơi ngớ ra. Tôi nói thêm: nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đó. Cô có vẻ kinh ngạc. Hình như cô kêu lên, không ra tiếng: Trịnh Công Sơn đây sao? Trịnh Công Sơn đây sao?

Tôi thăm khám qua và bảo không sao đâu. Gan thôi. Gan anh thòng xuống đến 7cm dưới bờ sườn phải. Thực ra bệnh anh nặng hơn nhiều với nào tiểu đường, nào khớp, nào phổi, nào thận... (Trước đó tôi đã được tham khảo bệnh án). Mấy ngày sau, anh được chuyển lên phòng riêng ở tầng thứ 11. Lần này tôi đến đã thấy anh thảnh mảnh.

Khi anh được về nhà, thỉnh thoảng tôi lại ghé thăm. Lấy cho cậu Ngọc ly nước lọc nè! Anh lại kêu. Anh khoe mấy bức tranh mới, nêu những ý tưởng mới... "Moi quyết định bỏ rượu và bỏ thuốc lá rồi. Mỗi sáng đi bộ được một quãng...". Anh nói. Tôi cười cười. Lần sau đến, anh nói: Moi quyết định bỏ thuốc lá thôi. Thuốc lá mỗi người một gu, nhưng rượu thì mọi người đều có thể uống chung với nhau được. Bạn đến đông vui không thể không uống chút rượu. Anh giải thích. Tôi vẫn mỉm cười. Anh có lý. "Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ"? Vấn đề là chất lượng cuộc sống chứ!

Rồi đùng cái tôi bị tai biến mạch máu não phải mổ cấp cứu. Những người bạn đến thăm lần này lại có Trịnh Công Sơn. Anh đi cùng Lữ Quýnh. Trịnh Công Sơn ôm theo một bó hồng vàng. Lúc nào anh cũng tươm tất như thế. Tôi khoe anh mấy bức vẽ trên giường bệnh của mình. Cái đầu trọc lóc bình vôi sau khi mổ. Anh có vẻ khoái lắm. Đó, thấy chưa? Toi không rượu không thuốc lá rồi cũng... vậy thôi!

Rồi một hôm, Lữ Kiều phone báo tôi Trịnh Công Sơn đi rồi.

Đi vào ngày 1.4, ngày của Cá.

Đi, cũng có nghĩa là về vậy !
 
 

BS.ĐỖ HỒNG NGỌC

 





Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 17/Apr/2011 lúc 6:02pm
mk
IP IP Logged
Hoàng Dũng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 08/Nov/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 592
Quote Hoàng Dũng Replybullet Gởi ngày: 10/May/2011 lúc 6:13am
Mẹ khóc

Hoàng Thanh/Viễn Đông

ALam-Me-P1040056.jpg

Anh Lý Văn Lâm và mẹ trong viện dưỡng lão ở Garden Grove – ảnh: Hoàng Thanh/Viễn Đông

Có lẽ ai ai trong đời cũng đã có lần đi taxi. Dễ ợt có gì đâu, cứ tìm số điện thoại các hãng taxi rồi bấm số gọi, cho biết địa điểm, xong thì chờ xe tới đón. Nhưng ở quận Cam thì không biết từ bao giờ lại xuất hiện một nghề là lạ, đó là "taxi đưa đón phi trường". Cứ mở các nhật báo ở mục quảng cáo, rao vặt thì thấy ngay hằng hà sa số "Đưa đón - Đi khắp nơi - Dọn nhà - Phi trường - Tuyên thệ - Thi lấy bằng", vân vân và vân vân. Đa số những người làm nghề này là đàn ông (nhưng vẫn có phụ nữ), người Việt Nam. Có người làm thêm như một nghề tay trái, nhưng đa số thì xem đây là nghề chính để nuôi sống bản thân và gia đình. Con số các taxi Việt Nam ngày càng đông, và nghề này cũng khá thịnh hành vì dễ làm, thuận tiện về giờ giấc. Dường như người dân ở vùng này ít khi gọi taxi Mỹ vì giá cả mắc hơn, vả lại nói chuyện với taxi Việt Nam thì dễ dàng, khỏi cần suy nghĩ tìm từ ngữ chi cho mệt óc. Thông thường hễ cần thì mình gọi taxi, gặp người nào cũng được, và rất ít ai quan tâm đến việc chọn một người taxi riêng cho mình. Nhưng tôi thì khác...
Tôi quen anh Lâm taxi gần 3 năm nay. Mắt tôi hơi yếu, nên mỗi lần cần đi đâu xa, tôi không dám lái xe mà gọi taxi. Lần đầu tôi mở báo ra xem rồi gọi anh A, lần kế gọi anh B, rồi anh C, anh D... nhưng dần theo năm tháng, tôi quyết định chọn anh Lâm làm người  taxi "ruột" mà tôi ưng ý nhất. Bởi anh tính giá phải chăng, anh lại vui tính, lên xe anh hay nói chuyện này, chuyện nọ cho thời gian qua mau, hay có thể do anh và tôi hợp gu chăng? Nên thường khi cần đi đâu, bao giờ tôi cũng gọi anh trước, chỉ khi nào anh kẹt vào ngày giờ tôi cần, thì tôi mới gọi người khác. Nhưng có một điểm mà có lẽ một số hành khách có lẽ không hài lòng cho lắm, như có lần anh tâm sự với tôi, là anh luôn luôn đến đón họ sớm chút hay trễ chút. Tôi còn nhớ lần đó, tôi hẹn anh tới đón lúc 11 giờ rưỡi. Anh hỏi: “Đi sớm chút được không em? 11 giờ 10 anh lại, ráng giúp dùm anh chút đi”. Ngẫm nghĩ thấy cũng không có gì mà ầm ĩ, tôi đồng ý.
Khi lên xe, anh Lâm phân trần: “Em thông cảm dùm. Anh phải mua cháo mang vào cho Má anh. Hôm qua tự dưng bả nói thèm ăn cháo gà. Mà anh không mua là bả giận bỏ cơm cho coi”. Tôi ngạc nhiên lắm, vì có bà mẹ nào mà “nhõng nhẽo” dữ vậy ta. Hỏi ra thì mới biết mẹ anh Lâm đang ở trong viện dưỡng lão từ hơn 6 năm qua. Anh còn nói: “Cám ơn em nha. Nhiều khách khó chịu lắm, họ chỉ muốn đi thật đúng giờ. Sớm chút là họ bỏ, gọi taxi khác. Anh cũng đành chịu mất khách thôi”.
Anh Lâm lái xe vào khu dưỡng lão trên đường Haster. Anh bảo tôi ngồi trong xe đợi, 10 phút anh quay lại ngay. Tò mò, tôi hỏi: “Em vô được không?”. Anh Lâm gật đầu: “Được chứ, chỉ sợ làm phiền em thôi”. Thế là hai anh em bước vào Garden Park Care Center.
Lần đầu tiên vào khu nursing home, tôi ngơ ngác như con nai vàng, anh Lâm đi đâu tôi cứ theo đó. Sao mà quẹo trái, quẹo phải tùm lum, vậy mà ảnh thuộc lòng mới tài chứ. Bước vào phòng, không thấy ai, anh quay sang tôi nói: “Chắc họ đưa Má anh ra hội trường rồi”, xong anh tất tả quay ra. Hai chúng tôi đang đi trong dãy hành lang thì tôi nghe tiếng cười nói ồn ào vui nhộn văng vẳng ra từ một căn phòng. Lúc đó tôi nghĩ: “Ái chà, người già mà sao còn cười giỡn dữ vậy? Coi bộ cũng yêu đời quá chứ”. Nhưng hỡi ôi, khi bước vô hội trường thì mới biết thực hư. Thì ra tiếng cười giỡn nãy giờ tôi nghe là tiếng cô MC trên màn ảnh đang pha trò trong show ca nhạc. Trước mặt tôi chừng hơn ba chục ông bà lão, mà hơn hai phần ba là bà, chỉ chừng vài ông cụ mà thôi, và ai nấy đều ngồi trên xe lăn. Tôi quay sang anh Lâm: “Sao đàn bà không vậy anh?”. Anh trả lời ngay không suy nghĩ: “Thì đàn bà bao giờ cũng khổ hơn đàn ông, em không thấy vậy à? Sống thọ mà làm gì, con cái nó thảy mình vô đây chèo queo một mình, sống vậy thì anh thà chết còn sướng hơn”. Tôi thấy vui vui vì cái tính bộc trực, nghĩ gì nói đó của anh taxi này. Tôi chợt nhớ mình có đọc ở đâu đó người ta có nói là đàn bà sống thọ hơn đàn ông vì sức chịu đựng dẻo dai hơn, và đàn bà chịu... khóc hơn đàn ông, và đó cũng là một cách giúp xả stress.
Trước mặt tôi là những gương mặt vô hồn, dửng dưng, im lặng. Tôi lúng túng, và chỉ trong tíc tắc, tôi quyết định mĩm cười, cười với mọi người tôi gặp nơi đây, vì tôi nghĩ có lẽ đó là món quà duy nhất mà với họ, có thể là còn ý nghĩa và giá trị. Tôi quay sang cười: “Chào bác”, “Chào cô”.
Những người đàn bà nhìn tôi, nhưng chẳng ai cười. Gương mặt ai cũng buồn, không chút xúc cảm.
Một cụ già ngồi gục xuống mà nước miếng cứ chảy dài xuống áo. Cụ bên cạnh thì quẹo đầu sang một bên, mắt đờ đẫn, dường như cụ bị tật ở cổ thì phải.
Bỗng dưng có bà cụ trông có vẻ già lắm, nét mặt rất phúc hậu, cụ chắp hai tay xá tôi lia lịa. Tôi sợ mang tội nên lật đật vịn hai tay bà lại và nói: “Cụ khỏe không cụ? Cụ đừng lạy con. Con vào thăm cụ đây”. Anh Lâm bảo: “Bà này sắp bị Alzheimer rồi em ơi. Từ mấy tháng nay ngày nào bả cũng mong chờ con trai và cháu nội vô thăm, mà tụi nó cứ biệt tăm. Bả đang lạy Phật cầu cho con cháu vô thăm đó, chứ không phải lạy em đâu”. Tôi nghe lòng mình thắt lại. Tôi liền giả bộ: “Má, con tới thăm Má nè. Má khỏe không?”. Bà cụ ngước lên nhìn tôi, nhíu nhíu cặp mắt tèm nhèm mà tôi thấy hai tròng đen đã mờ đục hẳn, bà nhìn một hồi, vẻ hoài nghi, và lát sau bà lắc đầu: “Không, con trai, con trai”, rồi bà lại xá tôi lia lịa. Anh Lâm kéo tay tôi: “Anh đã nói con bả là con trai kia mà, em giả bộ bả đâu có tin”. Tôi nói: “Vậy thì bà cụ còn tỉnh mà anh, còn trí nhớ mà”. Anh Lâm gật đầu: “Chỉ những gì dính líu tới con cháu thì bà nhớ. Còn những việc khác như làm vệ sinh, đi tiểu tiện, ăn uống thì bà quên hết. Có vào đây thì em mới thấm thía tình đời”.
Anh Lâm bước đến và đưa tay đẩy một chiếc xe lăn. Một bác gái chừng ngoài 70, mà tôi đoán là mẹ anh, ngồi ủ rũ trên xe như đang buồn ngủ. Tôi theo anh đưa bác về phòng. Đến nơi, anh đỡ bác lên giường, xong anh bày tô cháo ra trên bàn rồi bảo: “Cháo gà nóng con mới mua, mợ ăn đi kẻo nguội. Còn đây là nước mía, ăn xong mợ nhớ uống. Giờ con phải đưa khách đi, trễ giờ rồi”. Tôi chào bác gái ra về. Bà chỉ gật nhẹ đầu đáp lại.
Lên xe, tôi tò mò hỏi thêm về bác. Anh Lâm kể: “Ba má anh có 5 người con. Xưa kia ba anh là đại úy của 3 đời tổng thống (Vua Bảo Đại, TT Diệm và TT Thiệu). Má anh ở nhà nội trợ lo cho 5 đứa con. Ba anh mang tiếng là đại úy chứ nhà anh nghèo lắm, má anh giỏi xoay xở vô cùng mới đủ sống đó chứ. Sau 75, ba anh ở tù 5 năm rồi sau đó cả nhà được sang Mỹ năm 1989 theo diện HO. Khi mới qua với hai bàn tay trắng, cả ba và má anh đều phải đi làm đủ nghề để sống và nuôi các con. Khi đó mấy anh em cũng lớn rồi, mạnh đứa nào đứa nấy bung ra đi làm. Tụi anh đứa nào cũng sức trai tráng, ăn mạnh như voi, nên má anh cứ dành hết món ăn nào bổ là nhường cho chồng và các con. Ba anh thì sức khoẻ rất kém sau những năm tù đày, nên ổng cứ bệnh rề rề và qua đời năm 1997 vì bị xuất huyết bao tử. Sau cái chết của ba, má anh càng xuống tinh thần thấy rõ. Lúc này anh và mấy đứa em đã có gia đình riêng. Anh là anh cả, thằng S. có vợ , mua nhà nhưng không dám mang má về ở chung, mặc dù nó là đứa khá giả nhất trong gia đình. Con C. lấy chồng dọn đi Nevada. Thằng A. thì qua ở với vợ bên Thụy Sĩ. Chỉ còn anh và N., cô em gái bệnh tâm thần từ hồi còn ở Việt Nam, nên má ở với anh và nó. Ông bà mình có câu ‘Cha mẹ nuôi con biển trời lai láng, Con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày’. Anh thấy câu này không đúng chút nào. Bởi như gia đình anh nè, tụi em anh có đứa nào nuôi ba má được một ngày nào đâu mà kể.  Tội nghiệp ổng bả, cả đời còng lưng nuôi con khôn lớn. Để khi thành danh thì đứa nào cũng sợ chồng, sợ vợ không dám cho ba má ở chung. Ai cũng ca hoài cái điệp khúc ‘Con có gia đình riêng, còn nhiều thứ lo lắm. Thầy mợ ráng tự lo đi’. Đúng là bạc bẽo tình đời”.
Sau khi xổ một tràng cho hả giận, anh Lâm ngừng chút lấy hơi rồi tiếp tục kể: “Xưa kia khi ở Việt Nam má anh đã ít vận động, suốt ngày chỉ ở trong nhà lo việc bếp núc và chăm sóc các con, và có lẽ vậy mà xương má đã yếu. Sang đây thì bác sĩ cho biết là má anh bị thoái hóa cột sống, và các khớp xương ở đầu gối, cổ tay, đều thiếu chất dịch trơn nên cử động đều gây đau đớn lắm. Má không còn đi làm được nữa, và phải đi gặp bác sĩ thường xuyên để chữa trị. Sau 5 năm thì bác sĩ đề nghị với gia đình là cho má anh vô nursing home thì sẽ dễ dàng hơn, vì mấy anh chị em không ai rảnh mà chăm sóc cho má hết”.
Giọng anh Lâm đều đều: “Có ở xứ này mới nhận ra là đa số con cái đều bất hiếu lắm em ơi. Nước Việt Nam mình nghèo, con đi làm không đủ nuôi thân, nên không sao lo cho cha mẹ, mình còn chấp nhận được. Còn ở Mỹ, đứa nào cũng có xe, có nhà, chỉ có mỗi thời gian và lòng hiếu thảo là không có. Mà thời gian có đào ra được, cũng chỉ để dẫn vợ, chồng, con cái đi nghỉ hè, còn ông bà già thì mặc xác họ. Ngày nào vô đây 3 bận là anh tức, anh hận cái bạc bẽo của tình đời. Thằng con mà má anh thương nhất, cũng lại là đứa ham tiền, sợ vợ mà chưa hề đến gặp má, dù chỉ một lần, từ hơn 6 năm má anh vào đây. Anh là thằng má la rầy nhiều nhất, giờ thì chỉ mình anh mỗi ngày 3 cử vào ra, đem cơm nước và săn sóc cho bả”.
- Bộ trong đó họ không lo cho bác ăn uống sao anh?
- Có chứ. Nhưng người già trở tính lắm em ơi. 6 giờ sáng anh phải đích thân pha cà phê mang vô cho má, bởi chỉ có anh là biết cách pha đậm lạt như thế nào thôi, chứ mua ngoài tiệm má anh không chịu uống. Trưa phải mua món canh nào bả thích, còn chiều thì có lúc mua đồ tráng miệng, chè hay món gì nhẹ nhẹ mang vô. Anh thuộc lòng món nào má anh thích, món nào bả không ưa. Mà hễ anh không vô một cữ là bả nhịn không ăn cơm, thành thử khách mà gọi gần đến giờ vô nursing home là anh đành phải từ chối, không nhận khách, bởi vậy mà đời anh nghèo cứ mãi nghèo. Anh thì quê mùa có biết gì về tâm lý đâu, nhưng anh nghe người ta nói rằng người già rất sợ cô đơn, họ sợ bị bỏ rơi. Chính vì vậy mà họ tìm mọi cách để con cháu chú ý và quan tâm đến họ. Nói theo cách bình dân của mình, thì người già hay “trở chứng” lắm. Anh thì cứ nghĩ đơn giản là ngày xưa lúc còn nhỏ mình cũng quậy ba má làm ổng bả cực khổ, thì giờ nếu má có làm eo làm sách chút cũng không sao. Là con mình phải biết chiều ba má, lỡ mai này má có chết anh sẽ không hối hận chút gì hết cả.
Lần thứ hai đi taxi thì anh Lâm chở tôi ghé vào mang cơm cho bác gái. Hôm ấy bác mới vừa hết chứng nhiễm trùng phổi và được đưa từ nhà thương về. Khi tôi chào, bác chỉ gật nhẹ đầu như mọi lần. Tôi đưa mắt nhìn quanh phòng. Trên đầu giường bác có treo đầy các ảnh Đức Chúa Giê-su và Đức Mẹ Maria cùng cây thánh giá. Tôi muốn bắt chuyện với bác nhưng không biết nói gì, cuối cùng tôi bảo: “Bác nhớ cầu nguyện mỗi ngày nhe bác. Chúa sẽ che chở cho bác”. Bà không nói gì cả mà chỉ gật đầu.
Chiếc giường bên cạnh có một cô trẻ hơn đang nằm dán mắt nhìn trên trần nhà. Tôi ngạc nhiên vì thấy cái tivi đang mở, chiếu bộ phim Đại Hàn thì phải, coi bộ hay và gay cấn lắm, mà sao hai người không ai thèm xem. Tôi bắt chuyện: “Ở đây cũng được quá cô hả? Có tivi để xem phim đỡ buồn”. Cô này nói ngay: “Chán lắm. Phim lúc nào cũng mơ với mộng. Đời ở ngoài mới cay đắng hơn nhiều. Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại , nằm đây 3 năm rồi có khác gì nhà tù đâu”. Hỏi thăm tôi được biết là cô bị hư thận, phải lọc thận 4 lần mỗi tuần từ vài năm nay, nhưng chồng cô không rảnh chở cô đi, nên cuối cùng gia đình quyết định cho cô vào đây luôn để... rảnh nợ (theo lời cô nói ). Cô chua chát: “Lúc mới đầu, để thuyết phục tôi chịu vô đây, ổng (chồng cô) hứa là sẽ vào thăm tui dịp cuối tuần, nhưng được đâu vài tháng thì riết rồi cũng bặt tăm luôn. Nghe đồn ổng có bà khác rồi. Cuộc đời khốn nạn lắm”. Cô cay đắng lên tiếng.
Anh Lâm bước vô, đỡ bác gái đi làm vệ sinh. Lúc trở ra, trông bác có vẻ mệt, nên anh dìu đặt mẹ lên giường rồi rủ tôi đi đến bàn trực hỏi thăm về thuốc men của bác. Trên đường đi tôi hỏi nhỏ: “Sao má anh ít nói quá vậy?”. “Còn gì mà nói em”. Giọng anh Lâm bực bội. “Em thử nghĩ 5 đứa con mình nuôi từ nhỏ, cả đời cơ cực vì tụi nó, giờ mình già yếu thì không thấy mặt mũi đứa nào. Nằm ở đây 24 tiếng mỗi ngày, dài lắm em biết hôn. Hơn 6 năm trời, tha hồ mà nuốt nước mắt ngược vào trong. Má anh không nói, nhưng anh biết trong đầu bả nói nhiều lắm, và vì vậy mà đau khổ vô cùng. Những ai độc thân hay không con cái vậy mà sướng. Anh bảo bả nhiều lần rồi, ‘Mợ đừng suy nghĩ nữa. Người khổ là con đây nè. Lo cho mợ, cho vợ, cho con cái, cho đứa em bệnh tâm thần, riết rồi con muốn điên cả đầu và chỉ mong được chết sớm mà thôi’”.
Khi ngồi trên xe, chúng tôi nói chuyện nhiều lắm. Tôi thông cảm cho hoàn cảnh của anh, ngày nào anh cũng vào thăm má 3 cữ, đem cơm, đồ tráng miệng, và nhất là mỗi lần bác sĩ cho thứ thuốc mới là má anh đều làm nư không chịu uống. Anh kể: “Bả nhất định không uống thuốc. Bả cứ nói uống nhiều thuốc quá rồi cũng chết, vậy uống mà làm gì? Anh năn nỉ quá thì cuối cùng bả ra điều kiện là anh phải ngủ lại qua đêm, để lỡ nếu uống thuốc vô mà có bị gì thì anh chở bả đi bệnh viện gấp”.
- Vậy anh có ngủ lại không? Tôi hỏi.
- Dĩ nhiên rồi, đã dụ bả thì phải dụ tới nơi tới chốn chứ. Anh giả bộ trải tấm khăn nằm đại dưới đất, mà phải làm lén nữa chứ. Nhìn trước nhìn sau không thấy bóng nhân viên thì anh mới dám nằm. Hễ nghe tiếng chân ai bước tới là anh bật dậy, nói dối má là anh đi vệ sinh, vậy mà bả tin. Uống thuốc xong một hồi là bả ngủ. Thế là anh chuồn về nhà.
Tôi buồn cười vì óc “sáng tạo” của anh Lâm. Nhưng vẫn còn tò mò, tôi hỏi:
- Sáng mai thức dậy không thấy anh thì bể mánh làm sao?
- Vậy là em chưa biết gì về người già rồi. Ngủ một đêm là họ quên sạch, vô đây là ai cũng gần lú lẫn hết rồi em ơi.
Cách đây hơn một tháng, hai anh em có dịp đi xe chung, và bàn tán về đủ thứ chuyện trên đời, kinh tế xuống dốc, thất nghiệp, rồi về cơn thiên tai tại Nhật. Anh Lâm bảo tôi: “Nói thiệt, thiên tai, chiến tranh, thảm họa hạt nhân gì anh cũng không sợ. Điều duy nhất mà anh sợ là anh chết trước má anh. Bởi anh biết anh mà có bề gì là má anh sẽ không còn sống nổi nữa. 6 năm qua, anh đã trở thành niềm vui và hy vọng của bả mỗi ngày. Có một lần anh bệnh nên nhức đầu quá không dậy nổi, nên sáng và trưa anh không vô. Đến chiều thì cô nhân viên gọi, cô ta nói là má anh không chịu ăn uống gì hết. Bả cáu gắt với mọi người và cứ ngồi ngóng về hướng cửa. Bởi vậy mà như em biết đó, kinh tế khó khăn, nghề taxi nghèo lắm, nhưng hễ khách có gọi trùng vào giờ anh phải vô thăm má, thì anh luôn luôn chọn má, mà bỏ khách. Không có người khách này, anh hy vọng sẽ còn người khách khác, nhưng má thì anh chỉ có một. Từ bao năm nay chưa bao giờ anh có thể đi chơi đâu với vợ con, cũng may trời thương nên bà xã anh rất thông cảm. Nhiều lúc mệt mỏi quá anh hay to tiếng với má, lúc về nhà thì lại hối hận. Chắc tại anh là đàn ông nên không biết nói dịu dàng em ơi”. Tôi im lặng. Thấy thương người lái taxi ở vào tuổi trung niên nhưng chưa có được một ngày no đủ. Thương dáng anh lúc nào cũng tất tả. Thương tướng đi của anh bao giờ cũng hối hả. Thương cái lưng anh khòm khòm cứ chúi về phía trước. Có đôi lần anh hơi to tiếng với mẹ anh, và tôi hiểu là vì anh sợ trễ giờ của khách, lo khách sẽ phiền hà, nhưng tấm lòng hiếu thảo của anh thì chưa chắc người con nào khác đã có được.
Tuần rồi có việc cần đi taxi, tôi lại gọi anh Lâm. Giọng anh lo lắng: “Má anh bị gãy xương chân rồi. Em có thể đi sớm nửa tiếng dùm anh được không? Anh vào đó lo cho bả chút rồi mình đi”. Tôi đồng ý.
Trên xe anh kể tôi nghe: “Nửa tháng trước khi đỡ bác lên giường, cô nhân viên vô tình không để ý nên một ống chân của má đập vào thanh giường và gãy. Từ đó má anh phải bó bột và không di chuyển được. Đau đớn mà bả không chịu uống thuốc, hễ anh vào là má cứ cằn nhằn khiến anh nhức cả óc”.
Anh Lâm thở dài chán nản: “Nhiều lúc anh mỏi mệt quá, chỉ muốn được chết cho xong. Nhưng lại nghĩ đến má, anh chết thì ai lo cho bả? Mai này anh già, anh không mong đứa con nào lo cho mình hết. Anh chỉ mong khi nào má mất, anh lo mai táng cho bả đàng hoàng tươm tất, rồi thì  anh ước mình sẽ ra đi theo bả cho xong, sống thọ chưa chắc là phúc đức đâu em”.
Chiếc taxi cứ bon bon trên đường. Thấy tôi im lặng, anh Lâm lại bắt chuyện: “Em thấy khổ vậy đó, nhưng chưa phải tận cùng đâu em. Hôm nào tiện anh dẫn em qua khu bên kia, nơi đó chỉ toàn những người bệnh hấp hối, nằm liệt trên giường với đời sống thực vật. Họ không còn biết gì nữa hết, cũng không còn cả cảm xúc. Anh luôn tự an ủi mình là mỗi ngày ra vào những chốn này, mới nhắc nhở cho anh rằng đời là bể khổ, và mình còn sống được ngày nào khỏe mạnh thì đã là hạnh phúc”.
Tự dưng tôi chợt nhớ ra một điều, nên bảo anh:
- Sắp đến ngày lễ Mẹ rồi đó, anh có định mua gì hay làm gì cho bác vui không?
- Anh làm hoài đó chứ, sinh nhật, Tết, Giáng Sinh, anh đều có quà cho bả vui. Nhưng riết rồi cũng chẳng còn ai vui, kể cả má hay anh. Người già vào đây từ từ rồi tim ai cũng chai, mà anh là người nuôi bệnh, tim anh cũng chai từ hồi nào anh không biết nữa.
Tôi góp ý:
- Có lẽ anh bị stress nhiều quá không? Công ăn việc làm, các em bỏ rơi mẹ, áp lực từ nhiều thứ quá nên anh buồn và bất mãn. Nhưng anh cố gắng đi, khi nào mẹ mất  thì anh sẽ không hề hối tiếc điều gì cả.
Anh Lâm lặng thinh.
Khi vào trong, như mọi lần, anh Lâm cứ hối mẹ: “Mợ mau lên, kẻo khách đợi”. Tôi bảo: “Từ từ, không sao đâu anh, hôm nay em không gấp”. Trong khi anh Lâm đi tìm người nhân viên để dặn dò điều gì đó, tôi bước lại hỏi thăm bác gái về cái chân đang bó bột. Bác cứ gật gật đầu, có vẻ mỏi mệt. Tôi hỏi: “Sắp đến lễ Mẹ rồi, bác thích hoa gì, anh Lâm sẽ mang vào tặng bác”. Bà lắc đầu: “Không cần”. Tôi không biết nói gì nữa. Nghe có tiếng chân ai bước tới gần, tôi đoán là anh Lâm nên tôi chào bác ra về. Tôi nói: “Bác đừng buồn. Bác hạnh phúc hơn nhiều người khác lắm, bởi vì ít ra bác cũng còn có được một đứa con hiếu thảo”. Bác gái gật đầu và quay mặt đi. Tôi thoáng thấy giọt nước mắt ứa ra từ khóe mắt bà. Chắc có lẽ ngượng với tôi nên bác quay nhìn nơi khác. Tôi bước đi về hướng cửa phòng, lòng cảm thấy vui, vì tôi hiểu đó là giọt nước mắt hạnh phúc của một người Mẹ.
Rời khu nursing home, tôi tự hỏi biết bao người mẹ, người cha cả cuộc đời  hy sinh vì con cháu, để rồi khi bóng xế chiều tàn họ một mình vò võ nơi đây. Vào các viện dưỡng lão như thế này tôi mới càng thấm thía câu nói của ông bà xưa: “Nước mắt chảy xuôi, có bao giờ chảy ngược?”. Ngày lễ Mẹ sắp đến rồi, hằng trăm ngàn đứa con, thử hỏi có được bao nhiêu người còn nhớ ra là họ vẫn còn có một bà Mẹ tại nơi này?
Đột nhiên tôi nhớ đến Má. Má tôi đang ở xa, và chưa năm nào tôi có dịp mừng lễ Mother's Day cùng Mẹ.
Nhìn đồng hồ. 12 giờ trưa. Mặt trời đứng bóng. Tôi thấy mắt mình cay cay, có lẽ do chói nắng? Và sao tự dưng mũi bắt đầu sụt sịt.
Anh Lâm chợt quay sang hỏi:
- Em sao vậy? Sao mắt đỏ rồi? Nhớ Má hả?
Tôi gật đầu.
- Nhớ thì về thăm Má.
- Bận... Tôi lúng búng. Năm nào lễ Mẹ, em cũng bận đi làm...
Giọng anh Lâm dịu xuống:
- Em gọi thăm Má đi, và cũng đừng buồn. Xứ này ai mà không bận, anh hiểu. Thôi cứ ráng nhớ dùm anh câu này:
“Ai còn Mẹ xin đừng làm Mẹ khóc
Đừng để buồn lên mắt Mẹ nghe không?”
Tôi gật đầu, ráng kềm chế để cầm giữ giọt nước mắt. Tiếng anh Lâm nhắc: “Đi em. Trễ giờ rồi”. Xong anh hối hả bước về phía xe. Tôi lầm lũi theo sau.
 
(Tặng anh Lâm - người lái taxi hiếu thảo)
Đầy ly cạn , ru đời biệt xứ
Cạn ly đầy , quên kiếp lưu vong
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 08/Oct/2011 lúc 8:43pm


Kiếm sống

Saturday, 08 October 2011 09:19

Tác giả : Phan



Tôi có cảm giác người Mỹ trắng sống tự nhiên trên mảnh đất này họ bất mãn từ chế độ cũ qua chế độ mới; bất mãn luôn cả chế độ chưa ra đời. Giống như những người Sài gòn không có việc gì làm ngày trước. Nhưng người Mỹ trắng ở đây và người Sài gòn ở Việt Nam không có ai chết vì bất mãn, vì không việc làm... Họ là những người sinh ra để làm chủ mảnh đất đó nên không có gì hơn là bất mãn hiện tại, luyến tiếc quá khứ và mong chờ tương lai. Rồi cái tương lai ấy đến để mà cũng như muôn ngàn hiện tại đã qua. Người ta lại bất mãn hiện tại, luyến tiếc quá khứ và mong chờ tương lai...
Những người trong giấy tờ tùy thân có nơi chốn hai mục nguyên quán và mục trú quán khác nhau thì khác. Trong hạn hẹp kiến thức và hiểu biết của tôi thì người Mỹ gốc châu Phi và người Việt Nam là hai sắc dân chắc còn phải nhiều đời nữa mới thấy đất Mỹ là quê nhà. Có thể họ không bao giờ thấy. Những người lạc loài này đã để lại trong tôi nhiều trăn trở, yêu mến và cả lòng sợ hãi.
Vô tình một hôm rảnh, tôi ngồi nói chuyện với thằng con. Cái thằng mà mới vài năm trước tôi còn hỏi nó: "Con cần gì cho bố hay...", bây giờ nó đã hỏi lại tôi: "Bố cần gì cho con hay, bố không biết mua đồ online đâu!"

Tôi kể cho nó nghe chuyện những người Mỹ đen. Người Mỹ đen đầu tiên tôi biết là một người thông minh, giỏi giang. Ông đến làm công nhân trong hãng tôi như mọi người, nghĩa là phụ việc (helper) cho một người đã lắp ráp máy móc thành thạo. Nhưng không lâu ông đã lên tổ trưởng (leader), rồi lên supervisor, lên tới manager trong vòng 3 năm.
Người ta đồn đãi sau lưng rằng ông xuất thân là một người bị cảnh sát tầm nã bên California, đã chạy sang Texas để ẩn thân. Nhưng tôi chỉ nhìn vào thành tích của một người da đen đáng nể, ông giỏi hơn cả những kỹ sư Mỹ trắng về chuyên môn, giỏi hơn ông phó giám đốc kinh doanh bụng phệ, mặt đỏ gay bia rượu suốt ngày; giỏi hơn ông giám đốc có phong độ của một tay chơi hạng sang hơn là người lãnh đạo một công ty lớn... Tôi nể phục sự thành công của ông nhưng dè dặt với những thủ đoạn mà ông đã để tôi thấy được trong việc ông dùng người; trong việc ông đối phó với toàn bộ khối lãnh đạo công ty đều là da trắng.
Hôm lên văn phòng ông để xin nghỉ việc vì đã xin được việc ở hãng khác, lương cao hơn, tôi đã nói thẳng với ông như thế. Ông đề nghị với tôi ở lại, tiếp tục công việc cho ông, ông sẽ lên lương cho tôi bằng hãng mới... Nhưng tôi xin lỗi, cảm ơn và dứt khoát ra đi. Ông vỗ vai tôi, "Bạn khá lắm. Tôi tin là bạn sẽ thành công, chúc mừng..." Tôi chào ông ra về nhưng tôi hiểu ông, biết tỏng rằng nếu tôi đồng ý ở lại thì ông sẽ đuổi tôi sau khi lên lương, ông chỉ dùng kế hoãn binh nhằm tìm kiếm người thay thế thích hợp. Dù sao, tôi cũng rất nể một người da đen bản lĩnh, có phong độ lãnh đạo. Dĩ nhiên là đi kèm với kiểu cách màu da...

Tôi tiếp xúc với nhiều người Mỹ đen khác nữa về sau. Nhưng những người để lại trong tôi nhiều ấn tượng. Một cô Mỹ đen to lớn đến hết hồn, cô làm y tá trong bệnh viện Plano. Người thường được tôi cho free thức ăn (những hộp thức ăn mà nhà bếp đã nấu sai order. Thí dụ, đã ghi rõ là không hành nhưng nhà bếp nấu theo thói quen, không đọc kỹ bản copy nên đã bỏ hành rồi đành phải nấu lại cái khác cho khách hàng. Tôi cho cô ấy các hộp thức ăn coi như bỏ đó vì thấy số lượng thức ăn cô mua quá ít ỏi, dù đã là những món rẻ nhất.
Rồi một hôm không biết trước, cô ấy đến nhà hàng không để mua thức ăn mà chỉ chào tạm biệt tôi, với những lời lẽ chân thành và lòng biết ơn. Cô ấy dọn đi khỏi thành phố Plano vì có bệnh viện khác đã trả lương cao hơn. Ngần ấy đã để lại trong tôi suy nghĩ tốt đẹp về một người da đen tử tế. Càng mong có dịp gặp lại cô ta một lần từ sau hôm lễ Giáng sinh rộn rã, buôn bán đang tấp nập, tôi lại được một khách hàng gọi điện thoại đến tiệm không để order thức ăn mà chỉ chúc tôi Giáng sinh vui vẻ. Giáng sinh năm đó tôi vui vẻ thật với lời chúc của một người còn nghĩ đến mình trong khi mình đã quên họ. Đã nhiều năm rồi, tôi vẫn còn mong được gặp lại, được cô ấy ôm tôi để thấy mình nhỏ nhoi trong vòng tay vĩ đại của người đàn bà khổng lồ; để thấy mình còn rất vô tâm trong tình người bao la của đời sống gạo tiền...

Một cô Mỹ đen khác trẻ đẹp, lịch sự. Mỗi lần cô ta đến tiệm để mua vài món thức ăn. Lần nào cô ta cũng cho tôi hộp bánh ngọt do chính cô làm. Chuyện bắt đầu từ hôm cô ấy bước vô nhà hàng để mua vài món ăn, nhưng trên tay cô đang cầm cái bánh ăn dở. Và tôi đã xạo chuyện là bánh thơm quá! Tôi rất thích món bánh này... Từ đó, mỗi lần đến nhà hàng cô đều cho bánh. Tôi cầm hộp bánh cô cho, rất xấu hổ với chính mình vì chỉ tôi biết tôi nói láo tới hối hận - tôi không ăn bánh ngọt. Đến hôm gặp cô trong nhà thờ quanh vùng, cô ấy đang tập hát cho một nhóm trẻ em. Tôi không khuấy động họ nhưng hình ảnh còn hoài trong ký ức...

Mỹ đen cũng có người không tốt như những dân tộc khác thôi. Trong những người Mỹ đen tôi nhớ, có bà Mỹ đen nọ, một hôm xông vào tiệm với khí thế đánh ghen... bà la toáng lên, trình ra một vành móng tay cái của đàn ông, được gói trong vỏ bọc giấy kiếng của một bao thuốc lá. Bà nói, "Tôi order thức ăn đã ba ngày nên bỏ rồi. Nhưng trong hộp thức ăn đó có cái móng tay này. Bây giờ ông phải trả lại tiền cho tôi. Bằng không tôi đi thưa..." Tôi chỉ biết nói, "Thưa bà, nhà hàng chúng tôi có trả lại tiền khi khách hàng không ưng. Nhưng phải đưa lại đây hộp thức ăn không vừa lòng. Điều thứ hai tôi muốn nói với bà là trong nhà hàng chúng tôi chỉ có người Việt, người Mễ, người Tàu. Chúng tôi nhỏ con như nhau nên không ai có cái móng tay bự như móng voi này. Chắc bà đã nhầm lẫn ở đâu".
Bà ta đùng đùng đi thưa nhưng không bao giờ thấy tòa đòi đi hầu tòa.

Người thanh niên Mỹ đen khác, anh ta lái cái xe cho free cũng không ai lấy, dĩ nhiên là chúng tôi phải cảnh giác với mọi đối tượng chứ không riêng ai trong thời buổi cảnh sát thông báo đều cho hàng quán về tình trạng cướp cạn trong thành phố. Nhưng anh bạn trẻ này chỉ mua hai hộp cơm trắng nhỏ xíu. (50 cents x 2 + thuế = 1,09 đô la) Anh ta xin vài bịch soy sauce và 2 cái muỗng nhựa. Sau khi nói với tôi anh ta chỉ có 1 đồng, anh xin miễn thuế.
Tôi nhìn hai người thanh niên ngồi ăn cơm trắng với xì dầu trong cái xe tồi tàn. Mỗi lon cơm quá nhỏ bé cho thân xác họ, cái cup chỉ có 8 oz, còn nhỏ hơn lon bia 12 oz. Tôi nói anh bạn Mễ, vô bếp xem có hộp thức ăn nào nấu sai order thì đem ra cho họ. Anh bạn Mễ hiền lành đưa ra cho họ đến hai hộp thức ăn. Chẳng biết món gì. Nhưng họ đã vứt hai hộp thức ăn tung tóe ra parking, chửi bới anh Mễ thậm tệ; không quên đe dọa tôi là họ sẽ trở lại!
Tôi thật sự không hiểu họ. Không biết chúng tôi làm gì sai mà họ cho là chúng tôi khi dể họ? Điều họ để lại trong tôi là đừng quá vô tư, nhiều tình cảm trong đời sống Mỹ.

Một hôm khác, trò chuyện với bạn bè trên bàn bia ở nhà một ông bạn, tôi nghe một ông bạn khác nữa kể chuyện: Tên Mỹ đen hàng xóm của tôi là cựu quân nhân. Hắn bị thương và giải ngũ, ăn tiền chính phủ tới chết. Không biết sao hắn tự tử. Làm đêm qua hết ngủ vì cả xóm náo động với xe cứu thương, xe cảnh sát inh ỏi...
Dường như cái chết tự tử của một cựu quân nhân không gây xúc động cho ai; không ngoài việc chỉ làm phiền hàng xóm. Không biết bao giờ mọi người đều có suy nghĩ về sự bình an của mình không do khủng bố cực đoan ban tặng mà do người lính sống chết mang về... Đạn thù không phân biệt đối phương da trắng hay da đen, nhưng người được bảo vệ từ những người lính da trắng lẫn da đen; người kể kết luận hời hợt về cái chết của một cựu quân nhân da đen có phần thiếu tôn trọng với những lý do dẫn đến cái chết hoàn toàn vô căn cứ. Ông ta hết tiền hút xì ke thì tự tử hay trầm uất dẫn đến cái chết. Hãy quên điều đó đi để chỉ nhớ là ông ta đã từng bị thương vì bảo vệ mình. Cũng là người khách không mời mà đến của nước Mỹ như nhau sao kỳ thị nhau làm gì!

Tôi nói về người Mỹ da đen với thằng con, hôm nó về thăm nhà. Ba chuyện kể của thằng con càng nhức nhối thêm vết thương lòng nan giải. Một hôm, nó phát biểu về sự thiếu công bằng trong nhà hàng ở gần trường học. Khi bước ra cửa, đã có nhiều người da trắng bao vây nó. Nó nghĩ cách thoát thân càng lúc càng cấp bách vì những người bạn da trắng của nó không can dự. Bỗng có một người da đen mặt mày hung dữ xuất hiện. Anh ta xốc quần xốc áo mà ngoài giang hồ gọi là "show hàng" - tỏ ra ta đây có súng trong người. Anh ta lên tiếng can thiệp, đứng về phe thằng nhóc Việt Nam.
Mọi người giải tán. Thằng con tôi ngỏ lời cảm ơn cứu mạng. Nhưng anh ta nói, "Mày phải nhớ là không bao giờ nói chuyện công đạo với tụi trắng. Nhất là khi mày đi một mình. Hôm nay mày hên là gặp tao. Bây giờ mày phải đưa tao 5 đô la, công tao cứu mày". Thằng con tôi đưa ra 5 đô la. Nó hiểu về người Mỹ đen hơn tôi trong câu kết luận của nó: "Mỹ đen là như vậy đó. Bố biết không! Con thật sự có xét lại với mấy thằng bạn Mỹ trắng, đi ăn chung, chơi chung, học chung... nhưng khi nguy hiểm thì đừng mong tụi nó cứu bạn".

Chuyện thứ hai, tôi nói với nó là nhờ nó điều tra lý lịch mấy thằng nhóc trong xóm - vì nó xa nhà đã 5 năm. Dạo này, thằng em mày ưa ra park chơi banh. Bố muốn biết mấy đứa ngoài kia thuộc loại nào; đứa nào không nên cho em mày tiếp xúc! Bố thấy thằng cao nhòng như con kên kên có vẻ hoài nghi...
Nó trả lời, thằng cao nhòng đó là được nhất trong đám nhóc ở xóm mình bây giờ. Nó đã ăn bánh, uống nước của nhà mình nhiều rồi. Hôm nó mời qua nhà nó chơi. Nó mở tủ lạnh ra với chai coca-cola còn một chút, hai miếng pizza hình tam giác trong cái hộp pizza cũ lạnh. Nó mời con một miếng, cho em nó một miếng. Chai coca-cola còn chút xíu, nó chia làm hai ly cho con với em nó. Con hỏi nó, "Sao mày không ăn?"
Nó nói, từ sáng tới giờ tao chưa ăn. Không biết má tao đi đâu từ sáng. Trong tủ lạnh chỉ có ba miếng pizza, tao cho em một miếng hồi sáng; còn hai miếng để dành cho em tao ăn tối...
Mỹ đen là như vậy đó! Họ thiếu 'education' hơn người da trắng nên kém cỏi về nhiều mặt. Nhưng về tinh thần, tình cảm thì họ tốt hơn người da trắng.

Tôi chỉ biết nhắc nhở con, không nên đưa ra những nhận xét như thế. Đó chỉ là thiểu số trong đa số; những người ít ỏi mà con đã gặp trong cộng đồng to lớn, mênh mông... Đừng bao giờ quả quyết một điều gì khi chưa thực sự hiểu biết!... Nhưng nó lại kể tôi nghe một chuyện khác:
"Hôm, con mới bị mẹ cằn nhằn trong điện thoại. Bực muốn chết. Con lái ra cây xăng, có thằng Mỹ đen chừng 15 tuổi. Nó dẫn thằng em nó chừng 10 tuổi, đến chỗ con đang đổ xăng. Nó nói, 'Mày có thể cho tao mượn 20 đô được không. Anh em tao mới bị đuổi ra khỏi apartment. Tao cần tiền mua thức ăn cho em tao'. Con nhìn nó, nhìn em nó, rồi lại nhìn nó... con nói, 'Sao mày không bám đôi giày Michael Jordan của mày đi! Không tiền còn mặc đôi giày - tao đoán khoảng 120 đô la'.
Nó nói, "không được đâu! Đây là đôi giày của tao".
"Vậy, tao cho mày mượn hai chục thì chừng nào trả. Tao biết mày ở đâu?"
"Đúng ngày giờ này. Ở đây. Tuần sau. Tao sẽ trả lại mày 25 đồng."
Con đưa nó 20. Trong bụng con vái bà ngoại cho nó trả lại 20 đã mừng! Nhưng đúng một tuần sau con trở lại cây xăng. Anh em nó đứng đợi con. Nó trả con 25 đồng, con chỉ lấy 20. Con hỏi nó, "Tiền đâu mày trả tao?" Nó chỉ qua cái sân basketball của apartment gần đó. Nó nói, "Tao thắng game mấy thằng trắng đó đó. 5 đồng một game, tao chỉ thắng đủ ăn để ngày mai tụi nó lại chơi nữa! Mày thấy tao nói đúng không? Tao không thể bán đôi giày Michael Jordan, vì không có đôi giày này thì làm sao tao thắng game được..."
"Ok. Mày ráng nhớ số điện thoại của tao. Khi nào cần tao giúp thì gọi. Hôm nào rảnh, tao sẽ đến xem mày chơi basketball. Chúc may mắn".
Con lái xe đi mà cười thầm hoài, phải như tụi Mễ ở cái trường không có máy lạnh, ba thằng chung một cuốn sách. Con đến dạy tụi nó tiếng Anh đã không công, không ăn lương ai hết... còn tốn tiền mua sách, mua thức ăn cho tụi nó vì đói quá làm sao học nổi. Tụi nó mà khôn lanh như thằng Mỹ đen thì đỡ biết mấy...

Chân dung người Mỹ đen mà tôi biết qua tác phẩm "Cội rễ" (Roots) của Alex Haley từ những năm còn đi học như con tôi bây giờ, đến nay đã quá lâu cho sự thay đổi diễn ra nhưng dường như họ vẫn vậy. Thích màu sắc và có những niềm tin không kiểm chứng như thằng bé tin vào đôi giày Michael Jordan là nguyên nhân thắng lợi. Niềm tin thiếu khoa học nhưng hướng thiện dù gì cũng hơn người không có niềm tin để bơ vơ trong tâm tưởng suốt đời. Gần đây, phim "The Help" cũng gợi lòng trắc ẩn cho nhiều người da trắng đến rạp. Nhưng sự thay đổi không do người khác ban bố mà phải chính người da đen làm nên. Hy vọng họ có lãnh tụ khả kính đúng nghĩa vì ông Obama chỉ có màu da giống họ chứ ông sinh ra, lớn lên trong môi trường không hề da đen; ông dường như đã lộ nguyên hình là một người Mỹ trắng da đen. Thằng con lại đưa ra nhận xét không phải người Việt Nam. Nó dường như thằng Mỹ trắng da vàng, có bạn là Mỹ trắng da đen chơi basketball, có học trò là Mỹ trắng da ngâm-Mexico... chả thấy thằng nào Mỹ rặt. Còn bố nó thì người Việt quốc tịch Mỹ nên để bụng nhiều hơn nói ra. Bạn bố nó nói ra nhiều hơn suy nghĩ... cũng chỉ là những người hội nhập một nửa thấy được như món ăn, quần áo, nhà, xe... nửa tinh thần vẫn còn quê cũ lắm.

Phan


http://thoibao-online.com/index.php?option=com_content&view=article&id=4125:kim-sng&catid=39:tap-ghi&Itemid=37




mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 16/Oct/2011 lúc 5:13pm

TÌNH YÊU CỦA ANH TÔI



http://thuyngakhanhhoa.files.wordpress.com/2009/07/a-2.jpg


Trước cây thông xanh mơn mởn, tràn trề sức sống, anh đã kể lại câu chuyện tình của mình. Anh và chị sống với nhau rất hạnh phúc.

Tình yêu của anh và chị đang độ nồng nàn thì một tai nạn giao thông bất ngờ đã cướp đi người yêu thương nhất của anh.

Mấy năm sau đó, anh vẫn ở vậy chẳng hề mơ màng đến ai, anh chỉ một mình đơn côi. Anh từ chối hết tất cả những đám mà bạn bè mai mối. Tro xương của chị đươc đựng trong một cái hộp. Anh chị vẫn luôn ở bên nhau. Anh đặt chị trên bàn viết cùng với những cuốn sách anh đang đọc. Với anh chị như vẫn còn đang sống.Anh thường thủ thỉ nói chuyện với chị trong hộp. Anh tin là chị sẽ nghe được những lời anh tâm sự

Thời gian thấm thoát thoi đưa. Đến ngày giỗ tròn năm năm của chị, anh bưng hộp tro xương lên đồi thông ở ngoại thành cách nhà không xa.

Thông mã vĩ mọc kín núi, kín đồi. Đang là tiết xuân, hai bên con đường nhỏ dẫn lên đồi thông nở đầy những bông hoa màu đỏ xen màu vàng, màu trắng. Lên đến lưng chừng đồi thông, chọn một chỗ đất đẹp, anh đào một cái hố trên thàm cỏ mịn như nhung. Nhẹ nhàng, anh đặt vào hố một cây thông con thân to bằng ngón tay cái, rồi anh mở nắp hộp thong thả rắc tro xuống cái hố mới đào. Một dòng tro màu trắng xám chảy xuống hố như dòng nước. Sau đó, anh gạt đất trên miệng xuống hố. Khi lớp đất màu nâu đã giữ cho cây thông non đứng vững ở trong hố, anh nhìn cây thông non mới trồng, lặng đi hồi lâu. Anh thì thầm:”Anh sẽ thường xuyên đến với em”.

Mưa xuân lất phất như giăng mùng. Những hạt mưa bụi li ti đã tắm mát cho cây thông non. Anh lại thầm nói:”Mưa xuân đấy em ạ! Em thật hạnh phúc”.

Anh trở về trong mưa, lòng vô cùng vui sướng.

Cây thông ngày một lớn. Mỗi lần đến thăm cây thông, từ xa, anh như nhìn thấy chị đang đứng chờ anh trong lùm cây xanh ở một góc công viên. Gió thổi váy áo bó sát người vào người chị. Chị mỉm cười trách yêu anh”anh đến chậm thế”.

Chẳng bao lâu, đất quanh gốc cây thông đã ngã màu xanh rêu rồi dần dần hoà cùng màu xanh của thảm cỏ và cả cánh rừng thông.

Mùa hè đến, những cơn mưa rào hối hả trút xuống. Sau những cơn mưa, anh lên ngay đồi thông vun thêm đất cho cây. Cành lá nhẹ đong đưa dường như chị đang xúc động lắm, không nói nên lời. Anh nhớ khi còn sống, lúc có điều gì xúc động là chị không nói thành lời. Lúc ấy anh thường dịu dàng nói với chị: “Em uống một chén trà đi! Rồi thong thả nói cho anh nghe”.

Cây thông lớn rất nhanh, lá ngọn có màu xanh rất đặc biệt khác hẳn những cây khác. Nhiều lúc, anh đã nhìn ra dáng vóc của chị từ cây thông. Anh hiểu đó chỉ là ảo giác. Nhưng khi bừng tỉnh thì đó lại là một cây thông đang độ sung sức, cành lá sum suê, tư thế dáng vóc rất mĩ lệ, nó toát ra cái phong thái của chị thuở sinh thời. Khi trời nắng lâu ngày, ngày nào cũng như ngày nào, anh thường mang cái bình nhựa xuống ao sen dưới chân núi xách nước lên tắm cho chị. Nhìn dòng nước trong vắt ngấm vào lòng đất, anh thầm thì nói nhỏ: “Em khát lắm phải không? Em thong thả mà uống nước đi!”.

Trong mắt anh, dáng cây thông đã thể hiện một dáng người. Điều này chỉ có anh nhìn thấy. Vào độ gió thu về, lá thông reo vi vu, anh như thấy chị rất hào hứng, cành lá cứ rung rinh như cất lên tiếng nói thủ thỉ bên tai anh. Anh cứ đứng vậy nhỏ to tâm sự với chị.

Thế rồi, một sự lạ xuất hiện. Chị hiện về. Chị mặc bộ váy màu xanh lá thông. Anh chạy đến dang hai cánh tay ôm lấy chị vào lòng. Anh cảm thấy mùi thơm dìu dịu toả ra từ da thịt chị.

Mái tóc của chị như mơn man lên má anh. Anh nghe thấy chị nói:

- Anh đừng đến thăm em nữa!

Nước mắt anh lăn dài trên má,anh hỏi:

- Sao vậy em? Em không yêu anh nữa sao?

Chị lắc đầu nói:

- Không phải vậy, em rất yêu anh.

Anh nói:

- Em đã từng nói yêu anh mãi mãi. Sao bây giờ em lại nói thế?

Nước mắt ròng ròng chị nghẹn ngào nói:

- Mấy năm qua, anh đã luôn ở bên em. Nhưng anh ơi,âm dương cách biệt, dù sao thì chúng ta cũng không chung sống cùng nhau được. Em muốn anh hãy tìm một cô gái khác mà kết bạn nơi trần thế.

Anh bảo:

- Sao em lại nói với anh như vậy? Hay là em đã thay lòng đổi dạ?

Chị khóc nức nở nói:

- Anh thấy không? Rễ của em đã cắm sâu vào trong đất rồi. Rời khỏi đất em không sống được. Anh hãy đi tìm một cô gái khác đi. Đó là tâm nguyện của em. Em chúc phúc cho anh.

Anh bỗng thấy trong lòng trống trải quá chừng. Những cành lá sum suê cứ như vuốt ve trên má anh…

Một thời gian sau anh đến thăm chị. Lần này, đến thăm chị, anh không đến một mình mà cùng đi với một người con gái xinh đẹp, dáng vóc giống chị. Cây thông bỗng đong đưa cành lá, lá thông cất tiếng reo vi vu. Ánh mắt trời đậu vào từng kẽ lá nhấp nhánh như những nụ cười hân hoan. Trước cây thông xanh mơn mởn, tràn trề sức sống, anh đã kể lai câu chuyên tình của mình…

Câu chuyện tình trên thật là buồn và đôi khi có thể nó không thể có thực trong cuộc sống đời thường. Nhưng điều đó không quan trọng mà điều quan trọng nhất là sau khi đọc xong câu chuyện trên ta sẽ hiểu thêm về nhiều giá trị đích thực trong tình yêu và cuộc sống. Đó là những giá trị sẽ mãi mãi tồn tại cho dù thời gian có đủ sức mạnh để xóa nhòa đi tất cả. Xin hãy sống , hãy yêu và hãy mơ ước đến những điều tốt đẹp nhất trên đời này đến với tất cả mọi người.


(ST)







Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 16/Oct/2011 lúc 5:15pm
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 01/Nov/2011 lúc 8:36am


Kỷ niệm khó quên...

Monday, 31 October 2011 10:00 tuanhoang

Nguyễn Phương


Vua vọng cổ Út Trà Ôn đào kinh
Nữ hoàng sân khấu Thanh Nga bưng đất gãy móng tay

Về thăm quê hương, tôi được các bạn soạn giả Kiên Giang, Thanh Cao, Đức Hiền rủ đi công viên Đầm Sen để xem chương trình Vầng Trăng Cổ Nhạc. Chúng tôi đi từ ban chiều để ngoạn cảnh, dùng cơm trong quán bán thức ăn hải sản bên bờ hồ Đầm Sen, chờ tối xem văn nghệ.
Nhắc đến công viên Đầm Sen, tôi nhớ lại những chuyện rất bình thường đã xảy ra hơn ba mươi lăm năm qua nhưng "nó" xảy ra trong một thời điểm đặc biệt nên để lại một ấn tượng sâu đậm khó quên. Nhớ kỷ niệm đó, tôi như được sống lại với những chuyện vui buồn trong thời điểm vừa mới có cuộc đổi đời.


Đầm Sen là một công viên rộng lớn, nhiều cảnh trí đẹp, có cây xanh bóng mát, có quán ăn ngon, có những chương trình văn nghệ hấp dẫn.
Có năm cổng vô công viên Đầm Sen: cổng Hòa Bình, cổng Lạc Long Quân, cổng chùa Giác Viên, cổng Tân Hóa và cổng Thủy Tạ. Vợ chồng tôi, năm bạn nghệ sĩ và gia đình cháu tôi đi chung một xe van 12 chỗ ngồi vào cổng Hòa Bình để dễ gởi xe.
Mua vé vào cổng cũng phải chờ khá lâu vì chúng tôi đi nhằm ngày chúa nhựt nên các bạn trẻ, các sinh viên, học sinh và du khách đến Đầm Sen rất đông.
Qua khỏi nhà bán vé, đi một đỗi, quẹo phía tay mặt đi thẳng vô là gặp ngay hồ nước rộng lớn mà người ta gọi là Đầm Sen. Nước trong xanh, gợn sóng lăng tăng theo từng cơn gió nhẹ. Trên mặt hồ, xa xa có một nhà thủy tạ, mái đỏ cong vút như mái cung điện vua chúa thời xưa. Từ trong bờ ra nhà thủy tạ, du khách phải đi qua chiếc cầu có chín khúc dọc ngang gọi là Cửu Khúc Kiều. Lan can cầu sơn màu đỏ, ván cầu bóng lưỡng, du khách có thể đi chầm chậm qua cầu hóng gió và đến nhà thủy tạ để uống trà Tàu.
Nhiều cặp tân hôn đến chụp ảnh kỷ niệm nơi cầu Cửu Khúc này vì gần cầu có một cây dương liễu rũ những cành lá như suối tóc bay bay trên mặt hồ. Dọc bờ hồ có nhiều cụm hoa đẹp, một vườn hoa đầy màu sắc và hương thơm làm tăng thêm vẽ thơ mộng của hồ thủy tạ Đầm Sen.
Soạn giả Thanh Cao hỏi tôi, khi vào nhà thủy tạ, tôi có nhớ kỷ niệm nào không?
Làm sao tôi quên được... ngày 30 tháng 4 năm 1975, cán bộ Sở Văn Hóa Thông Tin bảo với các nghệ sĩ: Đó là ngày đổi đời cho toàn dân, đổi đời cho tất cả các nghệ sĩ. Để ăn mừng cái ngày đổi đời đó, để cho nghệ sĩ cảm nhận "lao động là vinh quang" nên ngày 1 tháng 5 năm 1977, kỷ niệm hai năm toàn thắng, nhà cầm quyền ra lịnh cho các quận, huyện tập trung thanh niên nam nữ đi làm công tác thủy lợi tại xã mới có tên là Lê Minh Xuân. Các cơ quan chánh phủ, các đoàn hát, thanh niên nam nữ các công xưởng đều tập trung lại trên sân bãi trước Dinh Độc Lập cũ, làm lễ xuất phát đi đến quận 11, đào vét cái đầm sen của quận để xây dựng một công viên mới.
Phía nghệ sĩ cải lương và kịch nói có 15 đoàn hát gồm: 2 đoàn hát tuồng cổ Huỳnh Long và Minh Tơ, đoàn cải lương Saigon 1, đoàn Saigon 2, đoàn Saigon 3, đoàn Hương Mùa Thu, đoàn Thanh Nga, đoàn Phước Chung, đoàn hát Tiều, đoàn hát Quảng, đoàn Văn Công, đoàn ca múa nhạc Hương Miền Nam, đoàn kịch nói Kim Cương, đoàn kịch Bông Hồng - Thẩm Thúy Hằng, đoàn ca múa Bông Sen. Tất cả các nghệ sĩ nam nữ đều được căn dặn là phải mặc áo quần bà ba đen hay màu sậm, đi dép, mang giày Bata hay sandale để dễ làm lao động thủy lợi.
Đêm đó đoàn Thanh Nga hát tuồng Bóng Tối và Ánh Sáng của ký giả kịch trường kiêm soạn giả Ngọc Linh, cô Thanh Nga thủ vai một thiếu nữ bị thương tật, phải ngồi xe lăn. Cô mặc một chiếc áo bà ba bằng lụa màu xanh đậm, quần lãnh đen. Khi hết lớp tuồng, vô hậu trường cô dặn bà Sáu giữ phục trang sân khấu là vãn hát, cô sẽ đem bộ y phục đó về nhà để ngày mai mặc nó đi làm thủy lợi.
Hoàng Giang, Văn Ngà, Minh Điển, Kim Quang cũng mượn các bộ quần áo bằng vải màu xanh hoặc đen (dùng cho các vai quân sĩ trong tuồng dã sử) đề mặc đi làm thủy lợi. Họ biếu cho bà Sáu đồ hội một ít tiền để nhờ bà giặt ủi lại cho sạch sẽ sau khi đi làm thủy lợi trở về.
Ai nấy đều tỏ vẻ sốt sắng để cho nhà cầm quyền đừng nghĩ là họ chống lại cái lịnh bắt nghệ sĩ đi làm lao động thủy lợi.
Bà bầu Thơ bảo chị Mẫn tẩm khậu (người lo nấu cơm hội cho đoàn hát), đi chợ cũ đặt mua 60 ổ bánh mì thịt để phát cho nhơn viên của đoàn ăn trong khi làm thủy lợi. Chị Mẫn cũng nấu sẵn một nồi lớn nước trà, chở theo xe camion của đoàn hát để cho anh em trong đoàn dùng.
Khi tập trung trước dinh Độc Lập cũ metting làm lễ xuất phát đi lao động đào vét kinh Tân Hóa và Đầm Sen, nghệ sĩ các đoàn hát vẫn ăn mặc đẹp như đi dạo phố nhưng mỗi người có một cái túi xách nhỏ hay một cái giỏ đệm đựng những bộ y phục vải để làm lao động. Túi xách đó để sẵn trên xe hơi của đoàn hát. Do đó nghệ sĩ của 15 đoàn hát đi làm thủy lợi mà trông như sắp đi dạo phố hay lên sân khấu hát, có son phấn và áo quần tươi đẹp, móng tay vẫn còn sơn đỏ chói.
Kế hoạch được phổ biến là các nghệ sĩ của 15 đoàn hát sẽ chia ra thành từng nhóm, kẻ đào đất, người bưng đất đem đến chỗ quy định đắp thành một cái cù lao nhỏ. Hồ rộng lớn chứa nước sẽ làm giống như hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội và trên cái mô đất đấp lên giữa hồ sẽ được dựng lên một cái Tháp Rùa: Một Hồ Gươm và Tháp Rùa nhỏ giữa thành phố Saigon giống theo cái mẫu Hồ Gươm và Tháp Rùa của Thủ Đô Hà Nội.
Xe hơi chở các đoàn hát được hướng dẫn chạy đến phường 3 quận 11, xe đến nơi, các nghệ sĩ xuống xe, bà Sáu đồ hội căn dây che màn cho các nghệ sĩ thay y phục, mặc quần áo bà ba để đi đào mươn, bưng đất.
Thanh niên nam nữ các công xưởng và các quận huyện đã đi vét đất lòng kinh Tân Hóa, tiếng loa của các trưởng toán lao động điều khiển việc đào kinh, bưng đất nghe vang vang. Khung cảnh dân Saigon lần đầu tiên trong đời đi làm lao động, đào đất móc mương xem cũng rất là náo nhiệt. Trong khi đó thì hơn nửa tiếng đồng hồ sau các nghệ sĩ mới thay xong y phục, tà tà xách cuốc, bưng ky đi đến lô đất chia cho nghệ sĩ.
Vua vọng cổ Út Trà Ôn vốn là nông dân nên anh cầm cuốc, cuốc đất xem ra đúng điệu của một nông dân chính cống. Nữ hoàng sân khấu Thanh Nga bưng ky đến, vua vọng cổ Út Trà Ôn để một cục đất to tướng vô ky, nữ hoàng sân khấu bưng lên không nổi bèn kêu kiều nữ Bích Sơn lại phụ. Thế là chỉ có một ky đất mà phải dùng đến hai người: Nữ hoàng và Kiều nữ hợp sức mới khiêng ky đất đi được.
Quái kiệt Ba Vân và danh hề Kim Quang họp thành một cặp mập ốm, cùng khiêng một ky đất. Giọng ca gấm lụa Ngọc Giàu họp với Trưng nhị Hà Mỹ Xuân khiêng một ky có một cục đất nhỏ xíu bằng một cái nắm tay. Nghệ sĩ đệ nhất lẳng độc, nổi danh là kép Hoàng Giang hai tay nắm hai cục đất nhắm về phía trước mà liệng tới, vừa liệng vừa la. Anh tự cho là có sáng kiến, khỏi đi mà đất cũng được chuyển đi tới trước. Chỉ có các nghệ sĩ Văn Ngà, Ba Nghĩa, Chí Hiếu, các công nhân sân khấu có sức khỏe, mỗi người bưng nổi một ky có một cục đất thật bự.
Nghệ sĩ cuốc mương, bưng đất không có kết quả bao nhiêu nhưng tiếng cười nói ồn ào lớn nhứt trong khu đất ở lòng hồ Đầm Sen. Dân chúng trong khu vực đó cũng tập họp trên bờ hồ Đầm Sen để coi nghệ sĩ làm lao động dưới ánh nắng chang chang. Họ kêu nghệ sĩ mang đờn ra đờn ca, họ nghe cho đã rồi họ sẽ đào đất thế cho nghệ sĩ. Họ cam đoan kết quả công việc đào đất của họ một ngày bằng kết quả của nghệ sĩ làm trong một tháng.
Kim Cương, Lệ Thủy, Hồng Nga lúc đầu cũng hăng hái, khiêng vác cật lực nhưng rồi chỉ chưa tới một giờ đồng hồ, thấm mệt nên không bưng ky đất nữa mà các cô ôm đất từng cục đi đến chỗ quy định, ôm được vài cục đất, mình mẩy mặt mày dính bùn đất, các cô gái đẹp này bèn lên bờ ngồi cười mím chi cọp với mấy bà già trầu trong xóm ra coi nghệ sĩ làm lao động.
Nữ hoàng Thanh Nga loay hoay thế nào mà đến đỗi bị gãy móng tay, đau quá nhưng không dám khóc lớn, nước mắt chảy ròng ròng. Tôi chạy đi kêu y tá của ban tổ chức lại rửa tay băng bó cho cô.
Các soạn giả Hà Triều, Hoa Phượng, Kiên Giang, Hoàng Khâm, Viễn Châu, Thanh Cao và tôi được phân công trong nhóm bưng nước uống và phân phát thức ăn cho nghệ sĩ làm lao động trong Đầm Sen. Tuy không khiêng đất nhưng chạy tới chạy lui, đi giáp số nghệ sĩ trong 15 đoàn hát nên cũng mệt thở không ra hơi.


Các nghệ sĩ hồi đó tới giờ chưa hề vác cuốc vác xuổng để đào để bới, bây giờ làm lao động thủy lợi dù chỉ làm tà tà, chưa tận lực nhưng chỉ cần phơi nắng vài giờ là đã có nhiều cô bị xỉu, nhiều ông ngáp ngáp nói chẳng ra hơi. Các nghệ sĩ không đào được nhiều đất, không khuân vác được như các anh thanh niên trong các quận, huyện nhưng người nào người nấy đều nói cười rôm rã. Thậm chí có vài cô hò như hò cấy lúa. Họ lấy những câu hò trong tuồng Tiếng Hò Sông Hậu ra mà hò, thành ra tuy không thật sự lao động đào đất nhưng các nghệ sĩ đã giúp cho không khí lao động trong ngày đó có nhiều tiếng nói cười vui vẻ.
Mới gần ba giờ chiều, tiếng tu huýt của ban tổ chức thổi rét rét, báo hiệu hết giờ phơi nắng (vì hôm đó nghệ sĩ cuốc đất bưng ky thì ít mà phơi nắng thì phải chịu như mọi người). Các nghệ sĩ lên bờ, tìm chỗ rửa mặt, thay quần áo, phơi phới ra xe về Saigon sau một ngày "hồ hởi" phơi nắng như người lao động chân tay chánh hiệu.
Đêm đó 1 tháng 5, hát mừng kỷ niệm hai năm toàn thắng, các đoàn hát trang trí lộng lẫy trước mặt tiền rạp hát. Đoàn Thanh Nga hát ở rạp Hưng Đạo. Đoàn Saigon 3 hát rạp Quốc Thanh, đoàn Saigon 2 hát rạp Thủ Đô, đoàn Saigon 1 hát rạp Hào Huê, đoàn Phước Chung hát rạp Đại Đồng quận 3, đoàn Kim Cương hát rạp Hòa Bình, đoàn Bông Hồng hát rạp Cao Đồng Hưng, đoàn ca nhạc Hương Miền Nam của Nguyễn Hữu Thiết hát ở rạp Lao Động B gần Nancy.
9 giờ tối rồi mà đoàn Thanh Nga ở rạp Hưng Đạo không mở màn hát được vì cô Thanh Nga khan tiếng, bị cảm nắng. Các cô Hà Mỹ Xuân, Bích Sơn, Ngọc Nuôi, các nam nghệ sĩ Hoàng Giang, Văn Ngà cũng cảm nắng, khan tiếng không hát được. Đoàn hát phải xin lỗi khán giả, yêu cầu hoàn tiền cho khán giả nào muốn lấy tiền lại, khán giả nào giữ luôn vé thì sẽ xem hát vào đêm mai.
Tôi chạy tới rạp Quốc Thanh và chạy luôn qua các rạp hát có đoàn cải lương hát để tìm hiểu tình trạng của các đoàn hát kia coi coi có giống như đoàn Thanh Nga không. Tôi được biết ngay sau khi đi lao động thủy lợi về, các đào kép chánh đều say nắng, cảm nắng, khan tiếng. Có nhiều nữ nghệ sĩ bị nắng làm nám da, phồng da, không hóa trang son phấn được. Đó là chưa kể nhiều nữ nghệ sĩ bị "ắc xi đăng" gãy móng tay, móng chân, sưng tay, sưng chân, hết hát hết hò, nên tất cả các đoàn hát đều trả vé, nghỉ hát.


Sáng hôm sau, nghệ sĩ đi nhà thương khám bịnh rất đông. Nhiều nghệ sĩ đi đến bệnh viện Sùng Chính xin bác sĩ Âu Dương Hồ khám và cấp giấy nghỉ việc năm bảy ngày. Có nghệ sĩ đi bệnh viện Nguyễn Trãi để xin giấy nghỉ việc của bác sĩ Lương Phán. Nghệ sĩ đoàn Phước Chung và Saigon 3 đi khám với bác sĩ Nguyễn La Hĩ bệnh viện Chợ Rẫy, cũng để xin giấy nghỉ hát, mỗi người xin nghỉ hát ít nhất là ba ngày.
Có thể nói, các nghệ sĩ cải lương, tân nhạc, múa, kịch nói và các nghệ sĩ Tiều, Quảng bị một cuộc tổng bệnh, tổng cảm nắng, tổng khan tiếng, tổng nghỉ hát, khiến cho nhiều đêm liền Saigon, Chợ Lớn và Gia Định không có đoàn nào hát được vì nghệ sĩ tổng đau sau một ngày bị bắt phơi nắng.
Sở Văn Hóa Thông Tin, Hội Sân Khấu và các cán bộ Ban Tuyên Huấn của thành ủy phải tổ chức thành từng nhóm chạy đôn chạy đáo, năn nỉ nghệ sĩ, chia nhau đến từng đoàn để viếng thăm và khuyến khích nghệ sĩ hát trở lại. Họ thấy nghệ sĩ đau thiệt nên cảm thấy lỗi là do họ nghĩ một cách đơn giản: làm lao động là phải làm lao động chân tay như các anh nông dân, các chú thợ máy, thợ cưa. Còn làm nghệ thuật, họ không cho là lao động nghệ thuật vì vậy mới bắt nghệ sĩ đi cuốc đất dưới ánh nắng gay gắt suốt cả ngày.


Ngồi trên nhà thủy tạ Đầm Sen, uống trà với các soạn giả Thanh Cao, Kiên Giang, nhìn ánh nắng buổi chiều còn gay gắt trên lòng hồ, chúng tôi nhắc lại kỷ niệm xưa, một ngày tổng làm reo mà được nhà cầm quyền chấp thuận, dẹp bỏ cái lịnh bắt nghệ sĩ đi đào kinh giống như đã bắt các thanh niên nam nữ trong các phường, khóm phải đi lao động thủy lợi.
Tôi được hướng dẫn đi xem công viên văn hóa Đầm Sen, tôi nghĩ cái tên Công Viên Văn Hóa Đầm Sen rất hay nhưng nếu thêm chữ Công viên Đa Văn Hóa Đầm Sen thì có lẽ còn hay hơn cái tên cũ. Bởi vì trong công viên Đầm Sen có đủ các kiến trúc, các loại văn hóa Tây, Tàu, Ấn Độ, La Mã. Âu Châu thời cổ... Nói về vườn hoa thì có Nam Tú Thượng Uyển tức là vườn hoa thượng uyển của phương Nam, có vườn hoa Ôn Đới, vườn hoa Âu Châu, vườn cây Bonsai Tàu, vườn hoa Nhật Bản, có cung Thái Cơ Ấn Độ (Tai Mahal), có Hồ Tây thu nhỏ, có non bộ Thủy Cung, có cụm Ngũ Long. Có Quảng trường La Mã, có Quảng Trường Âu Lạc, Lâu Đài Bắc Âu, Đào Thanh Trúc, Cầu Cửu Khúc, nhà thủy tạ kiểu Trung Quốc, có Vương Quốc Mãng Xà Thái Lan, có Băng Đăng Cáp Nhĩ Tân, có Công viên Khủng Long, có kiệu hoa với đèn hoa đăng Trung Quốc.
Trò chơi thì có trò xe điện đụng, có tàu lượn siêu tốc, xe scooter điện, pédaleau, trò chơi thực tế ảo, trò chơi câu cá, câu cá sấu, trò chơi hải cẩu vượt thác, có cảnh Tây Du Ký với bốn thầy trò Đường Tam Tạng, Tề Thiên, Bát Giái, Sa Tăng, có hồ nước tắm và ván trượt nước...
Còn nhiều lắm, tôi đã chụp ảnh, ghi ký chú trong sổ tay, vậy mà chắc là kể còn sót rất nhiều chỗ...
A! Còn có Vầng Trăng Cổ Nhạc, có khu phố ẩm thực, có chợ trên sông... chỉ thiếu Bầu Cua Cá Cọp, đánh cá đen-đỏ, kéo bài ba lá, kêu lô tô, đổ xí ngầu, đánh cờ người, đánh roulettes, đánh bài cào, đánh xập xám, đánh bài cắt tê, xổ số kiến thiết... Công viên Đầm Sen là chỗ thuận lợi để tổ chức Hội chợ như các tỉnh từng tổ chức.
Nhớ Đầm Sen chỉ còn nhớ chuyện nghệ sĩ bị bắt đi phơi nắng làm lao động chân tay. May mà bây giờ có cái danh từ "Lao động nghệ thuật" nên nghệ sĩ hết lo bị bắt đi làm thủy lợi, khỏi đi đào các mạch phèn ở kinh An Ha, làm cho phèn đổ qua làm hư cá vườn cây ăn trái ở Lái Thiêu.

Nhớ quê hương, nhớ hoài không thôi!


Nguyễn Phương, 2011






mk
IP IP Logged
lo cong
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
Quote lo cong Replybullet Gởi ngày: 11/Nov/2011 lúc 8:40pm
.
Mt bài viết hay dành cho nhng người Vit ti hi ngoi

 
Có phi nếu mình mt nơi nào trên dưới ba mươi năm thì mình là người thuc địa phương đó, đúng không? Đã biết bao nhiêu ln tôi đặt ra câu hi đó sau mt ngày nhìn vào lch thy con sghi năm đã bước vào năm thba mươi ca mt người tnn.

Bây gi
có ai mi quen gp tôi, hi: Bà đâu đến vy? Thì chc tôi strli rt tnhiên, tôi San Jose, hay khi đang đi du lch thì strli, tôi Mđến. Tôi skhông trli là tôi Vit Nam đến na, chtrngười ta hi, bà là người nước nào? Thì lúc đó tôi chc chn nói, tôi là người Vit Nam, để cho hkhông nhm vi người Trung Hoa, Nht, hay Phi.
Đúng, tôi Mtrên dưới ba mươi năm ri, tôi là mt người M. Bây githxem li con người Mca tôi.

Tr
ước tiên mt mũi, chân tay tôi chng có gì thay đổi c. Vn khuôn mt cu trúc ít góc cnh ca người Á Đông và cái mũi tt khiêm tn, tóc si to và đen, khi có tóc bc thì nhìn thy ngay, mun giu thì phi nhum.

Đối vi người Á Đông thì tôi được gi là người có nước da trng, nhưng mu trng này thc ra là mu ngà, và đứng cnh mt ông Tây, bà Mnào thì nó vn cho cái căn cước da vàng rt rõ rt. Khi tôi nói tiếng Anh thì cách phát âm vn có vn đề, đôi khi nói nhanh quá thì svp phi li nói tiếng Anh theo cách dch tiếng Vit trong đầu. Như thế bchê là nói tiếng Anh b(broken English). Vcách phc sc, nhà , xe cbên ngoài, tôi có thkhông kém mt người Mchính gc.

Nh
ưng khi bước vào nhà tôi, tnhng bc tranh treo phòng khách, bát đũa by bàn ăn, chai nước mm, hũ dưa ci trong bếp và nht là sách, báo tiếng Vit khp nơi trong nhà, thì chc ai cũng snhn ra ngay đó là mt gia đình Vit Nam. Như thế thì tôi là người San Jose hay người Hà Ni, người Mhay người Vit? Tôi đất này đến ba mươi năm ri cơ mà.
Ng
ười Lng Sơn, Thanh Hóa ra Hà Ni trên dưới ba mươi năm thì tnhn mình là người Hà Ni; người Hi Phòng, Hi Dương vào Sài Gòn lp nghip tnăm 75, 76 tnhn mình là người trong Nam.

Tôi
Mtìm vVit Nam không ai chu nhn tôi là người Vit na, dù tôi có yêu quê hương đến qun tht crut gan, có gp li hhàng nước mt khôn cm thì khi thăm viếng, hi han, hvn thnh thong nói rt tnhiên: chđâu có phi là người Vit na, bây gichlà người Mri, chc cái này không hp vi ch, cái kia chkhông ăn được, cái nchkhông biết đâu.

Nh
ng lúc đó tôi chng biết mình phi phn ng thế nào cho đúng. Ccãi tôi vn Vit, hay nhn đúng ri tôi là M? Không, chai cùng sai c. Nhng khi cn quyên tin đóng góp vào vic công ích nào Vit Nam thì ai ai cũng nhc li cho tôi đến ngàn ln tôi là mt người Vit Nam chính gc. Rng tôi phi có bn phn và tình thương vi đất nước, đồng bào. Tình thương thì nht định lúc nào tôi cũng đầy p trong ngc ri, tôi chng cn ai nhc na, nhưng bn phn thì cho tôi… nghĩ li.
Tôi
đã đóng góp bn phn ca tôi cho đất nước đó ri. Mt mi tình chết tc tưởi trong chiến tranh hơn ba mươi năm vtrước, xương tht ca người tôi yêu nm trong lòng đất, ri li phi đào lên, đốt thành tro than, bđui mnhư đui nhà, đã trbn phn đó thay tôi ri. Không đủ hay sao?

Bây gi
tôi phi có bn phn đóng thuế hàng năm đất nước tôi đang sng để phvi chính phsa đường, xây trường hc và nuôi nhng người khp nơi mi ti, như trước kia đất nước này đã nuôi người Vit, vì giy tcá nhân hin ti xác định tôi là người M. Tôi phi làm bn phn công dân.

Có nh
ng ngày tôi lái xe bkt xa lvào mt bui chiu mưa mùa thu; hay mt bui sáng mùa xuân vng lng, êm , đứng trong nhà nhìn ra mt h, tôi cm nhn được nơi mình đang hin din không phi là quê mình, không phi nước mình.
Ch
ng có mt lý do gì cth, chlà nhng git mưa đập vào kính xe, chlà mt nước hgn gn sóng. Mưa trên xa lMnhc nhđến nhng cơn mưa tháng Năm ThNghè, nhà mình Trn Quý Cáp, nhà anh trước rp ciné Eden đứng trú mưa vi nhau.

N
ước hSan Jose trước nhà nhc đến nước sông bến Bch Đằng mi ln qua phà sang bên kia ThThiêm chơi vi bn, hay sóng nước bc MThun nhng ln qua phà đi thăm hhàng tn Bc Liêu. Nhng lúc đó tôi bt cht bt gp mình Vit Nam quá, vì nhng cái bóng Vit Nam tht m, tht xa li chng lên hình nh rõ rt ngay trước mt mình. Và kdiu làm sao, nhng cái bóng đó nó mnh đến ni mình quên mt là mình đang M. Chc ti tôi là người Vit Nam.

L
i có nhng ln Vit Nam, tôi bmui đốt kín chai ng chân, bđau bng liên miên ctun l. Đi đâu cũng phi hi đường, ai nhìn mình cũng biết mình tđâu đến và đang đi lc. Tin bc tính hoài vn sai. Nhiu khi đứng chênh vênh trên đường phSài Gòn, biết đất nước này vn là quê hương mình, nhng người đi li chung quanh là đồng bào mình, nhưng sao không ging Vit Nam ca mình, hình như đã điu gì rt l.

Ngôn ng
Vit thì thay đổi quá nhiu, pha trn na Hán na Ta, chp đầu ca chnày vi cui chca chkia, làm nên mt chmi tht là “n tượng”. Cách phát âm ca người Hà Ni bây gikhông ging cách phát âm cũ ca ông bà, cha mtôi ngày trước, và hnói nhanh quá, tôi nghe không kp. Cái tiếng nói trm bng, thanh lch, chm rãi, rõ ràng tng chca thi xa xưa bây gichcòn là ctích.

Ng
ng mt lên nhìn bu tri, vn bu tri xanh biếc ca thi tui tr, cúi xung nhìn mt đất, vn mt đất thân quen, nhưng sao lòng hoang mang quá đỗi, và thy đã có mt khong cách nghìn trùng vô hình gia mình và quê hương đất Vit. Chc tôi là người M!

So sánh th
i gian tôi sinh ra, sng Vit Nam và thi gian tôi bVit Nam ra đi, sng M, hai con sđó đã gn ngang nhau. Tôi được hc tnhquê hương là nơi ttiên lp nghip, là nơi chôn nhau ct rn. trong nước có bài hát ni tiếng “Quê hương mi người có mt”, như là chmt mthôi. Nhưng có người li nói: Nơi nào mình sng đó sut mt quãng đời dài, có nhng người thân chung quanh mình, hưởng nhng ân huca phn đất cưu mang mình, thì nơi đó cũng được gi là quê hương mình. Như vy thì tôi có mt hay hai quê?
Tôi s
ng Mthì bn bè gp nhau thường nói: Cái này người Vit mình không hp, hoc người Mhmi thích nghi được vic này, người Vit mình không quen.
Khi
đi dbui tic cui năm ca mt công ty ln M, toàn là nhng người Msang trng thì thy rõ ngay mình là người Vit đi lc, dù mình có sang trng, lch snhư h. Hóa ra Mhay vVit Nam mình đều lc chc.

Tôi nh
my năm trước có ln trò chuyn vi mca mt người bn, lúc đó cngoài 80 hãy còn minh mn, ctheo đạo Pht. Trưởng nam ca cvà con dâu ctnhiên rnhau theo đạo Công giáo. Găp tôi, chi: Không biết anh Bình nhà tôi khi chết thì đi đâu? Pht gin anh y, vì anh y bđi, Chúa chc gì cho anh y vào, vì anh y mi quá! Năm nay cngoài 90 tui ri và không may, cbAlzheimer. Vy là ckhông còn minh mn để lo con mình không có chdung thân cho phn hn. Bây githnh thong nghĩ li nhng li cnói, thy mình ngay đời sng này cũng đã là mt vt nng pht phơ bay. Quê nhà, quê người, quê M, quê Vit. Chao ôi! Cái thân cbng.

Nh
ưng llm, tôi biết chc mình là người Vit, nht là khi tôi nm mơ. Trong gic ngtôi thường gp cha m, gp ngay trong nhng ngôi nhà cũ Vit Nam, gp bn bè cũng gp trên đường phVit Nam tngày rt xa xưa, và bao gitrong mơ cũng đối thoi bng tiếng Vit. Tnh dy đôi khi vn a nước mt, dù là mt gic mơ vui. Thy nhquê nhà quá đỗi!

Tôi nh
li trong nhng truyn ngn, nhng bài thơ Đường tôi đọc thi rt xa xưa vngười blàng đi xa lâu năm trvkhông ai nhn ra na. Hi đó sao mà mình thương nhng ông già trong thơ đó thế! Bây ginghĩ li thì người trong sách đó còn may mn hơn mình, hđâu có đi đến tn mt nước khác như mình. Hchblàng, chkhông bnước. Thế mà khi vcòn ngơ ngác, bùi ngùi, ti thân vì lc chngay trong làng mình.

So sánh tôi v
i người blàng ra đi trong nhng trang sách đó thì hoàn cnh ca tôi đáng bun hơn nhiu. Không nhng đã blàng, bnước đi, còn nhn quc tch ca mt nước khác.
Khi vđổi hthay tên.
Núi chùng bóng t
i, sông ghen cn dòng.

Kim Thu tùy bút
 
 




Lộ Công Mười Lăm
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 14 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.223 seconds.