Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Thơ Văn | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn |
Chủ đề: Truyện ngắn -Tùy bút chọn lọc | |
<< phần trước Trang of 14 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | ||||||||
Hoàng Dũng
Senior Member Tham gia ngày: 08/Nov/2008 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 592 |
Gởi ngày: 11/Feb/2011 lúc 9:34pm | ||||||||
Chị Phan Thủy nè.. Đọc bài nầy lúc đầu quả là tức " cành hông " , nhưng rồi sao đó ngẫm nghĩ lại thì thấy buồn buồn cho con người mỗi khi bị " nhồi sọ " một chiều để trở thành kẻ lạc hậu , thật ra là thấy thương hơn là giận. Cũng giống như khi " đổi đời " năm 1975 , một số thân nhân miền Bắc bị " nhồi sọ " rằng miền Nam nghèo khổ cần được " giải phóng " cho nên khi vào miền Nam thăm bà con họ hàng có đem theo ít lon gạo , mì gói để giúp đở , nhưng khi đứng trước căn nhà lầu của người thân rồi lại không dám bấm chuông... ngượng ngùng. |
|||||||||
Đầy ly cạn , ru đời biệt xứ
Cạn ly đầy , quên kiếp lưu vong |
|||||||||
IP Logged | |||||||||
Hoàng Dũng
Senior Member Tham gia ngày: 08/Nov/2008 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 592 |
Gởi ngày: 13/Feb/2011 lúc 8:23pm | ||||||||
Chị Sui
Nguyễn Viết Tân và Thanh Mai Chưa tới sáu mươi mà tôi hên quá, có tới những hai chị sui nhỏ tuổi hơn tôi nhiều. Còn hên hơn nữa là cả hai anh sui đều đã đi bán muối mấy năm nay rồi, để lại hai chị phòng không chích bóng, ngó thấy muốn ứa nước mắt, thiệt tội nghiệp vô cùng. Có những lúc phởn chí, tôi ngâm lên bài thơ Chị Sui, giọng ngâm trầm ấm rỉ rả trong canh vắng, nghe hay hơn ông Nguyễn Ngọc Ngạn trong Thúy Nga Paris rất nhiều: - Đêm nằm bên vợ nhớ chị sui Thấy tình cảnh chị luống ngậm ngùi Ước ngày nào đó tôi góa vợ Ghé thăm nhà chị chắc là dzui... Bà vợ nhỏ của tôi ban đầu nghe tức lắm, nhưng cũng nhờ như thế mà bà ấy biết chìu chuộng, đối xử với chồng đàng hoàng hơn xưa, chứ cà chớn cà cháo là tôi... ghé thăm chị sui liền một khi.. thì mất cả chì lẫn chài. Bây giờ bả nghe ngâm thơ riết đã lờn rồi, nên tuyên bố thẳng thừng: - Đi đâu thì đi, càng đỡ mòn của nhà. Xin quí cụ cao niên đừng hiểu lầm là tôi có vợ nhỏ rồi hừng chí bắt chước. Bởi vì bà xã tôi hơi nhỏ con (nhưng rất mắn đẻ) nên hồi tôi mới quen bả thì gọi là người em gái nhỏ, bây giờ bả đã đến tuổi "mày thuôn lá ổi, vú thõng dưa gang" rồi thì tôi kêu là vợ nhỏ, chứ chính thực bả là vợ lớn. Hai chị sui tôi hồi còn con gái chắc là đẹp lắm, bởi vì theo lời hai chị mô tả thì đồ đạc còn nguyên si, không có bơm hút, cắt chích gì hết mà trông vẫn còn phông, nói theo kiểu bình dân là "cứng cạy" lắm. Chắc nhiều người không biết cứng cạy là cái gì. Đó là trái dừa vỏ hết còn là màu xanh, nó đã biến qua màu xám vàng, cơm ở trong không còn mềm èo, mà cùi dừa cũng chưa khô khốc như dừa khô, làm mứt thì ăn vừa miệng vô cùng. Nói tóm lại thì dừa cứng cạy vừa dòn, vừa mềm mà còn nước nôi lắm lắm. Bây giờ nói về chuyện chị sui thứ nhứt: Con trai tôi quen con gái chị được chừng một năm thì cưới nhau. Ngày thằng Cậu Cả dẫn tôi đến nhà vợ tương lai của nó, tôi đi cắt tóc, nhuộm đen, mặc bộ đồ lớn, đeo kiếng trắng gọng vàng coi cũng oách như ông này ông nọ chớ chẳng phải chơi. Thấy ánh mắt là tôi biết chị cũng "chịu đèn" tôi rồi, nhưng cả hai còn thẹn thò đâu dám nói ra. Hôm đám cưới, chị mặc một chiếc váy đen. Chị nhảy đầm tốc cả váy lên coi rất điệu nghệ, tiếc rằng tôi là người chân quê, hồi nhỏ chỉ biết nhảy cò cò, sau lớn lên đi lính thì biết thêm nhảy xổm với nhảy dù, chớ có biết nhảy đầm nhảy đìa chi đâu, bởi vậy cứ ngồi trơ mắt ếch ra xem chị nhảy mà nuốt nước miếng ừng ực. Ngày tôi có đứa cháu nội đầu tiên thì chị dọn về ở chung với con, để săn sóc cháu ngoại cho tụi nó đi làm. Mỗi lần phải đi lên City làm giấy tờ gì đó, là tôi lại kiếm cớ tạt ngang thăm cháu nội. Nhấn chuông xong thì thấy chị vội vàng chạy ra mở cửa, tay bế đứa bé mũm mĩm đang chu mỏ ra phun mưa, chân tay chòi chòi đạp đạp. Chị đưa đứa nhỏ cho tôi bồng, miệng nói: -Dễ thương lắm đó. Tôi nhìn vào tay đứa nhỏ đang níu cổ áo bà ngoại nó mà kéo doãng ra, thấy rõ hai trái ổi xá lị không có gì che đậy nên tôi nói nhỏ: -Ừ, dễ thương quá à! Chị ngước lên nhìn tôi, màu hồng đỏ bừng lên tới tận tai, miệng cười mủm mỉm coi dễ thương hết sức. Chị sui nhỏ nhẻ hỏi: - Bữa nay anh có rảnh không, mời anh vô nhà chờ chút tui nấu chè anh ăn. Tôi là tay hảo ngọt có tiếng, nghe chị mời chè thì khoái chí tử, bồng thằng nhỏ xà vào cái ghế bành. Thấy chị sui lấy ra một rổ hột me, tôi quăng thằng cháu nội vô cái lồng con nít rồi ngồi bệt với chị ... Chị sui nói với anh sui Giờ nầy còn sớm ở chơi khoan về Vô đây phụ lột hột... me Để tui chuẩn bị nấu chè mình ăn. Hôm nay mồng mấy vậy anh? Nhìn ra ngoài ngõ ánh trăng đã tròn Hồi xưa ông xã tui còn Ảnh phụ tui nấu thường hơn anh à Tụi tui ngồi dưới trăng ngà... Ăn chè, tán dóc thật là vui tươi Thắm thoát gần chục năm trời... Ảnh chết, tui bỏ cả xôi lẫn chè Hôm nay làm lại đó nhe Bảo đảm, anh thử sẽ mê tới già... Tối đó về nhà, vợ tôi thấy tôi bần thần đầu óc mơ màng cứ tưởng tôi bịnh nên giã chén muối ớt, cắt mấy trái khế để tôi ăn chua vào cho giải cảm. Nào ngờ nhìn chén muối ớt mà tôi lại nhớ đến hai trái ổi xá lị, nước miếng cứ dâng lên miệng, cục Adam thì cứ chạy lên chạy xuống. Tôi nuốt nước miếng ừng ực, hít một hơi để dồn chân khí chạy xuống... phía dưới, vừa ăn khế vừa tưởng tượng đến ổi xá lị. Ăn xong, tôi vội chạy ngay lên giường trùm mền, mơ màng rồi ngủ quên hồi nào không biết. Có ai ngờ là tôi bị bịnh mộng du, thế mới có chuyện xảy ra....Có trời biết, đất biết, Chúa biết, chị sui biết...mà tôi hổng biết. Hèn chi sáng hôm sau tôi ghé qua thăm thằng cháu nội lần nữa thì chị sui ra mở cửa, mặt ửng hồng, thẹn thùng hỏi: Tối qua ...anh đến nhà tui? Sao không gọi cửa ...mà...chui hàng rào? Tôi thộn mặt ra chắc chắn là …rất ngố. Tại sao mình lại phải chui hàng rào mà không…vượt rào ? Nhưng tôi nhanh trí mạnh miệng chối phăng còn ngố hơn: Đêm khuya chị ngáy ào ào, Tui chun dzô đó khác nào tui điên? Than ôi, nhưng đó chỉ là giấc mơ, cơn mộng du thôi, chớ có bóng đèn làm chứng cho tôi, mối tình anh sui chị sui vẫn còn ngây thơ trong trắng không vướng chút bụi trần. Ai không tin thây kệ. Bây giờ kể đến chị Sui thứ hai: Thằng con trai kế của tôi ra trường đi làm việc đã lâu. Thành phố nó ở lại không có mấy người Việt, mà từ hồi các con còn nhỏ, chúng tôi thường khuyên nhủ là nên lấy người Việt Nam, kẹt lắm thì lấy Tàu, Thái, Phi cũng còn đỡ, chứ lấy Mỹ hay Mễ thì ba má không phản đối nhưng cũng không thích đâu. Mấy đứa nhỏ nghe lời, nên bạn bè cặp xách thì cũng có lai rai, nhưng khi lấy vợ thì tuân theo ý cha mẹ, là cô dâu phải biết húp nước mắm. Nhân dịp về Việt Nam thăm bà nội, nó được giới thiệu với một cô gái đẹp lắm, lại con nhà giàu. Nghe người ta đồn là con gái bây giờ ma mãnh lắm, nó lợi dụng qua đây được rồi là đá liền mà theo thằng khác, nên tôi phải thân chinh về tận bên đó coi lại cho chắc, chứ thằng con tuy gần 30 tuổi rồi mà còn ngây ngô như đá. Gia đình chị Sui ra rước tận phi trường. Đứa con dâu tương lai ôm bó hoa lớn tặng cho tôi ngay khi gặp mặt tại cổng. Dĩ nhiên tôi để ý theo dõi nét mặt, tướng đi, lời nói của con nhỏ thì thấy được quá. Con nhà giàu mà không chưng diện, mặc chiếc áo đầm trắng đơn giản, giống như thiên thần. Còn chị Sui tương lai của tôi thì khỏi nói, mới chừng bốn mươi thôi và nhan sắc thì ôi thôi.. chậc chậc.. giới địa ốc bên Việt Nam gọi là "điện nước đầy đủ cả". Anh Sui đã cất bước theo ông bà khoảng chừng năm năm nay, để lại cho chị một gia sản kếch sù, gồm nhiều căn nhà ở thành phố và các tỉnh miền tây, với một đoàn xe tải ba bốn chục chiếc, chuyên chở hàng từ những cửa khẩu về SG hay các tỉnh. Tôi choáng ngợp trước sự giàu có của họ, cho dù ở bên Mỹ tôi cũng chẳng nghèo hèn gì. Nhà đàng gái có nhiều xe, nhiều tài xế, nhiều người làm, nên nếu sau này con nhỏ đó có về làm vợ thằng con tôi, chắc nó cũng không biết nấu ăn, giặt quần áo gì đâu, chỉ tội cho thằng con lo hầu vợ mà thôi. Nhưng ngẫm đi nghĩ lại, bà xã tôi ngày xưa có là tiểu thư khuê các con nhà giàu gì đâu, mà bây giờ tôi cũng vẫn phải nai lưng ra hầu việc bả vậy. Thôi cũng đành phó thác cho mệnh trời. Giấy tờ làm hôn thú, bảo lãnh cũng còn khá lâu, nên chị Sui muốn nhờ tôi làm một thư mời bả qua Mỹ, thực tế là đi chơi, nhưng giấy tờ là mời một "đối tác" từ bên VN qua để làm ăn. Chắc bả muốn coi gia đình tôi có môn đăng hộ đối không, thằng con tôi là kỹ sư thiệt hay dỏm, nó đang làm ông Sếp hay đang cong đít lau sàn nhà. Thư mời, tôi có bấm con dấu nổi của công ty, bả dòm thấy nổi cộm lên một cục chắc lé con mắt, vì mộc bên VN đóng đỏ toè loe, nhưng làm sao oai bằng con dấu của tôi được. *** Mấy tháng nay, kinh tế Mỹ lao xuống vùn vụt, thằng Cậu Cả nhà tôi bị lay off, nó đành dọn về nhà cha mẹ ở chứ không còn đủ khả năng ở nhà lớn nữa, mà nhà tôi thì các con dần dần như con chim mọc đủ lông cánh, bay đi khắp bốn phương trời. Chị Sui ở một mình cô quạnh nên tôi phải thường xuyên ghé thăm thay thế cho đám nhỏ. Một bữa tôi nghe chỉ than mà thấy thương quá. Cám ơn anh đã ghé qua... Con gả đi hết cửa nhà quạnh hiu! Làm tui cảm thấy buồn thiu Riết rồi sanh bệnh ít nhiều anh ơi! Thế rồi tôi và mấy đứa con thuyết phục bà vợ nhỏ của tôi nên rốt cuộc mời được chị Sui về ở chung với gia đình tôi. Sắp tới chị Sui thứ Hai qua đây chơi, tôi cũng không đành để chỉ ngụ tại Khách sạn, nó lạnh lẽo và bất tiện lắm, tôi sẽ đem về ở chung nhà. Tưởng tượng đến cảnh mấy người đề huề "chung một mái nhà" mà tôi thấy mình như sắp lên thiên đường. *** Chị Sui hai chưa qua mà tôi bây giờ đã biết thế nào là cảnh 1 ông nhiều bà. Trời ơi là sướng như tiên mặc dù hơi...điên cái đầu. Trước hết nói về cái Sướng là bởi mấy bà trong nhà lúc nào cũng chìu chuộng, trổ tài chinh phục trái tim mong manh yếu đuối của tôi. Bà xã tôi hồi giờ ăn hiếp bắt tôi nội trợ lo cơm nước thì nay lại chịu khó lăng xăng lí xí nấu nướng bưng cơm dâng tận tay tôi, lại còn bưng nước, xĩa răng cho tôi nữa. Tôi mới ưỡn lưng than mỏi là bả xà vào đấm bóp, m***age cho tôi ra cái điều tôi là sở hữu của bả. Còn chị Sui thì tự nhiên đòi dạy tôi nhảy đầm. Chỉ bảo là hôm đám cưới thấy tôi ngồi thộn mặt ra ngó thiên hạ nhảy nhót giống y mặt con cóc tía mà tiếc cho tôi và...chỉ hết sức nên phải kiếm dịp mà luyện võ nghệ cho tôi. Chỉ bảo điệu sì lô cóc khô gì gì đó là dễ nhất và hợp với cái tướng to con của tôi. Ừ, nhảy thì nhảy, tôi sợ gì mà không tập. Sẵn bà vợ nhỏ của tôi mắc đi đánh tứ sắc ở nhà bạn, vợ chồng thằng Cậu Cả được dịp xúi vào, hổng hiểu tụi nó có dụng ý gì: - Má đi rồi, Ba tới đi Ba. - Ừ, tới thì tới. Nhảy đầm là một môn nghệ thuật mà. Thế là thằng con mang đờn ra, còn tui thì diện bộ đồ vía vào. Chị Sui vào trong thay đồ thật lâu làm tui sốt ruột quá xá, không tranh thủ mà làm phí thì giờ vàng ngọc thật là uổng. Nhưng úi trời, lúc chị Sui ỏn ẻn từ trong phòng bước ra hai con mắt tui muốn nổ đom đóm, máu cam từ từ ứa ra từ mũi y hệt trong phim Tàu. Chỉ mặc bộ đồ kiểu gì mà cứ y như không mặc. Hai trái ổi giờ được che bởi những bông hoa vải đỏ nho nhỏ được đính trên cái áo voan màu da mỏng dính. Còn thêm những cái tua đỏ dài dài như tấm màn mỏng nửa che nửa hở. Kiểu này mà nhảy nhót sao được, chưa chi tui đã cứng ... cả cẳng, run cả đầu gối. Nhưng phải công nhận chị Sui thật là tài, chỉ dìu tôi đi tới đi lui theo tiếng nhạc dìu dặt mê ly. Biết nhảy đầm mà hấp dẫn như vầy là tôi đã xin đi học nhảy từ hồi mới chui ra khỏi bụng mẹ. Ô, mê lý, mê ly đời ta! Hai trái ổi của chị sui lâu lâu chạm nhẹ vào tôi làm tôi nỗi cả da gà da rắn...Mà đâu cần chị sui chạm, chỉ cần nhìn bộ đồ chỉ mặc kiểu “có mà như không” là trái tim tôi cứ thắt lại, mắt nổ hào quang. Ấy chỉ là mấy điều sung sướng của tôi, kể nhiều lộ hết bí mật. Còn nổi khổ thì trời ơi là khủng khiếp. Cái thằng cậu Cả của tôi thật là ngu đại ngu. Cái ngu thứ nhất là nó đem ông Sui bà Sui ghép với nhau. Cái ngu thứ hai là nó thấy hai sui nhảy đầm hết xảy nên biểu con vợ vào lấy máy chụp hình chụp vài “bô” làm kỷ niệm. Thế mới có cái hình đẹp ác chiến và cũng là nguyên cớ cho cái trận ghen ác liệt xảy ra. Anh sui cùng với chị sui, Đôi ta say đắm mùi ơi là mùi. Cái hình này tôi đã nhét dưới mấy cục tạ mà hổng hiểu sao nó lại lọt vào tay vợ tôi. Sau này mới biết hóa ra thằng con nó thấy đẹp rửa ra và gởi cho Paris by night xin ghi tên cho 2 đứa tôi dự thi khiêu vũ. Lại thêm một cái ngu của nó là xớn xác ghi địa chỉ không đúng nên thơ được châu về hợp phố và lọt vào tay con vợ chằn lửa của tôi. Ngu gì mà ngu truyền kiếp! Đúng là con hơn cha nhà mất nóc. Trước con sư tử dơ nanh vuốt, tôi quỳ thụp xuống xin tha mạng và mếu máo ngâm bài thơ: Trên đời quý nhất là CON Cho nhau chẳng tiếc, mình còn dùng chung. Tiếc chi cái tấm ... thân còng Còn "ngon" mà chẳng ai dùng, phí đi !!! Dĩ nhiên là nghe tôi ngâm xong, bả gầm lên và nhào vô cấu xé “tấm thân còng” và xé tan nát luôn cái hình làm tôi tiếc đứt ruột. Nhưng nghĩ cho cùng, cái hình đã được save trong computer thì mắc mớ gì mà tiếc. Chỉ tiếc có một điều là con vợ của tôi nó ra tối hậu thư: «Một chị Sui chung nhà là đủ. Còn chị Sui hai thì ông lo mà đem chỉ đi đâu thì đi. Tui không cho phép rước thêm vô căn nhà này.» http://tamhien.multiply.com/journal/item/241 Chỉnh sửa lại bởi Hoàng Dũng - 13/Feb/2011 lúc 8:36pm |
|||||||||
IP Logged | |||||||||
Huy-Tưởng
Senior Member Tham gia ngày: 15/Aug/2008 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 164 |
Gởi ngày: 14/Feb/2011 lúc 7:19am | ||||||||
Chu-choa chèn mẹt ơi!!! Có chị sui kiểu nầy thì chỉ có Thánh...mới là...thành được.... Thánh...
|
|||||||||
mhth
|
|||||||||
IP Logged | |||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 20/Feb/2011 lúc 5:02pm | ||||||||
Đây là truyện ngắn đầu tiên viết về tình yêu của nhà văn nữ Nguyễn Thị Bích Nga viết ở Hoa Kỳ . Trước đó cô chuyên viết, dịch các loại sách, phim ảnh về đề tài thiếu nhi, khi còn ở Việt Nam. Hiện cô đang sống ở Westminster Nam Cali.
Tình Như Lá Thu
(Truyện ngắn của Nguyễn Thị Bích Nga )
Tới tháng ba năm nay là bà tròn tám mươi mốt tuổi. Nhưng với mái tóc nhuộm đen nhánh, với hàng lông mày được xâm theo hình lá liễu cong cong, với cặp môi tô son đỏ – màu của sự gợi cảm, người đối diện nghĩ rằng bà chừng bảy mươi lăm là cùng.
Vốn là nhà thời trang nổi tiếng của thành phố Sài Gòn trước đây, bà cố gắng ăn uống điều độ và tập thể dục hàng tuần để thân hình không phì nhiêu cũng không nhão nhét. Trời cũng không phụ lòng mong đợi của bà. Càng nhìn bà, người ta càng kinh ngạc, cứ tưởng thời gian đã quên đi, không hề nhớ tới sự hiện hữu của bà trên cuộc đời này. Cách đây tám năm, chồng bà mất. Mất chồng ở tuổi bảy mươi ba đúng là một bi kịch. Ban ngày bà loay hoay đi ra đi vào một mình, ban đêm bà trằn trọc không ngủ vì nhớ tiếng ho nhè nhẹ của ông, nhớ tiếng dép lẹp xẹp trên sàn gỗ, nhớ tiếng nước chảy vào ly thủy tinh mỗi khi ông rót trà... Mất chồng ở tuổi bảy mươi ba, bà không khóc lóc như những phụ nữ trẻ tuổi, bà chỉ bàng hoàng trong im lặng, đôi mắt bà ráo hoảnh nhưng đôi môi bà cứ run run như muốn gọi tên ông. Rồi những ngày tháng lạnh lùng kinh khủng đó đóng chặt lại và trở thành quá khứ sau khi bà gặp ông Luân trong một cuộc tiệc cưới cháu ngoại của người bạn. Hôm đó bà ngồi bên cạnh một người đàn ông có mái tóc bạc được hớt cao gọn ghẽ, có giọng nói chậm rãi nhưng ấm áp, có sự quan tâm chăm sóc đặc biệt tới bà khiến bà cảm thấy lạ lùng trước điều đó. Ông Luân chỉ phục vụ một mình bà, thỉnh thoảng ông gắp thức ăn để vào trong chén của bà, ông hỏi bà ngon miệng không, ông lựa những phần gỏi bắp cải không có ớt vì sợ bà cay, thậm chí ông thận trọng lột vỏ từng con tôm xú luộc rồi đưa bà ăn. Bà cảm kích nên hỏi tên ông, hỏi tuổi ông. Ông không giấu diếm, ông nói ông đã bảy mươi bảy tuổi rồi. Bà nhìn ông cười, ánh mắt lẳng lơ: -Bảy mươi bảy tuổi còn yêu được không nhỉ? Ông Luân cũng nheo nheo mắt nhìn bà, cười đáp lại: -Sao lại hỏi vậy? Cứ yêu thử đi rồi biết. Tối hôm đó bà đi lòng vòng trong cư xá nửa tiếng đồng hồ để suy nghĩ thật chín chắn rồi quyết định gọi điện thoại cho ông. Chuông vừa reng lên một tiếng ngắn là ông mở máy trả lời liền, cứ như suốt cả buổi tối ông chỉ làm mỗi một việc là ngồi rình cái điện thoại, đợi nó reng lên là bấm nút “A-lô” ngay. Ông hỏi bà đang làm gì, bà nói bà đang đi bộ trong cư xá. Ông nói ông sẽ đến để cùng đi bộ với bà. Bà không tin lắm, nhưng chỉ cười cười. Vậy mà ông đến thật. Ông đưa cho bà một ly giấy to tướng đựng đầy bắp rang, bà chìa tay cầm lấy và trong một thoáng bà cứ ngỡ vẫn còn đang ở tuổi mười tám đôi mươi. Bà hít một hơi dài rồi ngước lên nhìn ông bằng đôi mắt có hàng trăm vì sao trời đang lấp lánh trong đó. -Em thấy bắp rang ở đây không thơm như bắp rang ở Sài Gòn. -Ừ, bắp rang trên con đường Hai Bà Trưng thơm mùi bơ. Anh nhớ mỗi lần đi ngang xe bắp rang bơ là phải dừng lại, mua một gói, rồi vừa đi vừa ăn vì không thể nhịn thèm nổi. Bà cười khẽ. Giọng cười của bà dù có khàn đi nhưng nghe cũng còn quyến rũ lắm. -Có những món ăn ngày xưa em thích mê tơi, thí dụ món ốc leng xào dừa, ngày nào em cũng phải ăn một dĩa đầy mới đã, còn bây giờ mới nhìn thấy là ngao ngán liền. Em không hiểu tại sao nữa. -Vì bây giờ mình trưởng thành hơn, mình hưởng thụ cũng nhiều hơn nên cơ thể cảm thấy không cần thêm nữa. Chỉ mới vài năm trước anh còn khoái ngồi uống bia với bạn bè, tối nào cũng phải một chai ướp lạnh mới ăn cơm được, nhưng từ sau lần anh bị ói ra mật xanh phải vào bệnh viện, nghe nhắc tới bia hay nhìn thấy chai bia là anh xanh mặt liền. Không khí ban đêm lành lạnh nên bà đi sát vào người ông, nép vai bà bên vai ông, nhưng bà vẫn cố ý đút hai bàn tay vào trong túi áo khoác để có một lần vải ngăn cách giữa hai người. Ông Luân nhận ra điều đó. Ông tìm ngón út của bà và giữ chặt nó một lát trong tay ông. Xuyên qua lớp vải dày của chiếc áo khoác, bà vẫn cảm nhận được sự rung động nhẹ nhàng của người đàn ông có độ tuổi đã chấm tới con số bảy mươi bảy. Bà im lặng, không rụt ngón tay lại, để mặc cho trái tim đột nhiên thay đổi nhịp đập rộn ràng như pháo nổ ngày Tết. Bà cần tình yêu như như đũa có cặp, bà cần một người đàn ông bên cạnh bà như dép có đôi. Bà sẵn sàng thú nhận bên tai ông điều đó mà không cảm thấy xấu hổ. Ông Luân có tiền hưu, có tiền con cái chu cấp, có tiền tiết kiệm trong ngân hàng nên cứ đến cuối tuần là ông dẫn bà đi ra khỏi thành phố, tận hưởng một không gian vắng lặng chỉ có hai người. Những nụ hôn hiếm hoi ông dành cho bà thật nồng nàn trên trán, trên má, nơi khóe môi. Bà cũng đáp lại cuồng nhiệt, bà ôm ghì lấy đầu ông, vừa hôn vào mép tai ông vừa vò vò mái tóc bạc được hớt cao gọn ghẽ. Ông Luân thích thú trước tình cảm của bà, bấu bấu những ngón tay có móng hình vuông được cắt ngắn vào vai bà. Họ ngồi trên băng ghế đá âu yếm nhau mười lăm, hai mươi phút giữa khung cảnh thiên nhiên lãng mạn, tĩnh mịch và đồng lõa. Tình yêu mà họ dành cho nhau chỉ có vậy thôi, có muốn hơn nữa thì cũng không được bởi vì ở tuổi bảy mươi bảy, khả năng tình dục của ông đã hết rồi – đã chết rồi! Hai người thuê một ngôi nhà gỗ ở bìa rừng để họ có thể lái xe đến đó bất cứ lúc nào họ muốn. Chiều cuối tuần, ông Luân ngồi bên bờ suối câu cá, bà ngồi bên cạnh nép vào ông, theo dõi từng con cá vô tư lượn lờ qua qua lại lại nhưng chẳng con cá nào tỏ vẻ thích miếng mồi trùn sống đang ngo ngoe của ông. Thỉnh thoảng bà cười tủm tỉm khi thấy ông sốt ruột thở dài vì cá không cắn câu. Bà đặt bàn tay phải của bà lên đùi ông như khích lệ, thấy vậy ông cũng đặt bàn tay trái của ông lên bàn tay bà và giữ thật lâu. Đột nhiên bà nhổm người lên chỉ xuống dòng suối, khuôn mặt bà hớn hở với giọng nói vang vang như xé toạt sự yên tĩnh của thiên nhiên: -Kìa, cá dính câu rồi kìa anh! Giựt lên đi! Giựt lên đi! Ông Luân dùng cả hai tay giựt chiếc cần lên cao, miệng nở nụ cười thật rộng khi nhìn thấy một con cá đang vùng vẫy dữ dội nơi đầu sợi dây. Bà mở nắp máy chụp hình ra và chụp ông vài tấm hình cùng với “chiến lợi phẩm”. Sau đó ông vụng về loay hoay gỡ con cá tội nghiệp ra khỏi chiếc lưỡi câu và nhẹ nhàng thả nó xuống nước. Con cá sung sướng quẫy mạnh cái đuôi, lướt sang chỗ khác sau khi bị một phen hoảng hốt. Hai ông bà sống hạnh phúc với nhau được ba năm thì ông Luân tỏ ý muốn đi du lịch sang Canada để thăm con cháu. Bà vui vẻ để ông ra đi. Nhưng sau đó con cháu ông viện cớ ông đã tám mươi tuổi rồi, sức khỏe yếu kém lại bị thấp khớp nên họ không cho ông quay trở về với bà nữa. Khi nghe ông thông báo tin tức đó qua điện thoại, bà chưng hửng – nhưng đành thở dài cam chịu. Một lần nữa bà chấp nhận cảnh cô đơn, nhưng lần này sống cô đơn ở độ tuổi bảy mươi sáu, ở độ tuổi bà nhận ra mình đang già đi thật nhanh, là điều bà không thể quen thuộc nổi. Tạo hóa đã sinh ra muôn vật sống phải có đôi, có cặp, bà không thể sống trái với quy luật sinh tồn của Tạo hóa. Bà cần một người đàn ông, cho dù người đàn ông đó đang lọm thọm chống gậy ở tuổi tám mươi thì ông cũng vẫn là một người đàn ông! Trong một buổi tiệc cưới của đứa cháu ngoại của một người bạn khác, bà tình cờ ngồi bên cạnh ông Nguyện và một lần nữa duyên số lại kết hợp hai ông bà với nhau. Tuổi tám mươi nhưng ông Nguyện còn khỏe mạnh, còn lái xe được và đi đứng thẳng thớm chứ chưa đến nổi phải vịn tường lết đi từng bước. Ông Nguyện sống một thân một mình, đám con lớn có vợ có chồng ra riêng hết chẳng thèm ngó ngàng tới cha gì, thỉnh thoảng cuối tuần bọn họ ghé vào thăm ông, hỏi han mấy câu: “Ba có mạnh giỏi không?”, “Ba có cần ăn uống gì không?”, rồi lên xe dông đi mất. Thấy tội nghiệp ông, bà mở lời đề nghị: -Anh dọn qua ở với em luôn đi. Ông nhìn bà, ngỡ ngàng rồi lắc đầu: -Cảm ơn em, nhưng anh không muốn làm phiền em đâu. -Phiền gì mà phiền? Coi như anh với em góp gạo nấu cơm chung. Anh nấu cơm thì em rửa chén. Em quét nhà thì anh lau nhà. Ông bóp bóp bàn tay bà, giọng nói tràn ngập cảm xúc: -Cảm ơn em. Để anh thu xếp rồi anh sẽ trả lời em sau. Nhưng rồi ông Nguyện giải quyết theo cách khác, ban ngày ông ở nhà bà, ban đêm ông về nhà ông, họ sẽ sống với nhau không hẳn như hai người tình mà là như hai người bạn, dù sao “tương kính như tân” vẫn hơn “thân quá hóa lờn”. Bà lắc đầu chịu thua, đành phải làm theo quyết định của ông. Nhưng rồi bà lại thấy ý kiến đó hay ho và thú vị. Buổi sáng ông lái xe đến, nhẹ tay mở cửa và bước vào trong nhà cùng với một món ăn điểm tâm cho hai người. Tính bà thích trang điểm kỹ lưỡng cho nên sau khi son phấn lượt là xong bà mới bước ra khỏi phòng ngủ để đón ông. Bà quàng tay ôm cổ ông và đi vào bếp pha cho ông một tách cà phê nóng, pha cho bà một tách sữa ca cao. Nơi bàn ăn, chỗ ngồi của ông phải là chiếc ghế đối diện với bà, ông không bao giờ muốn ngồi ở chỗ khác cho dù đó là chiếc ghế đặt bên cạnh bà. -Tại sao kỳ cục vậy anh? -Kỳ cục gì đâu? Tại vì anh thích vừa ăn vừa ngắm em vừa nghe em nói. Nhan sắc của em vẫn còn mượt mà và trẻ đẹp trong mắt anh. Giọng nói của em vẫn còn ngọt ngào và êm ái trong tai anh. Bà biết ông nói thật. Người đàn ông ở lứa tuổi nào cũng có thể nói dối hoặc nói cho qua chuyện, nhưng khi đã bước qua tuổi bảy mươi, họ chỉ thích nói thật. Bởi vì nếu hôm nay họ không nói thật lòng, biết đâu ngày mai họ chẳng còn cơ hội để làm điều đó nữa. Bà và ông Nguyện ngồi đối diện nhau, vừa nhâm nhi ăn sáng vừa rủ rỉ nói chuyện. Chuyện tuyết rơi ở New York. Chuyện hoa mộc lan nở tím trên cành. Chuyện mấy con quạ kêu ầm ĩ mỗi khi kéo nhau bay ngang qua mái nhà. Chuyện ông Bill đi lượm chai trong bồn rác để mang đi bán kiếm vài đồng. Họ ăn xong bữa sáng rồi mà câu chuyện vẫn chưa dứt. Buổi trưa nếu bà làm biếng nấu nướng thì ông đi bộ tới tiệm cơm ở bên kia đường để mua hai hộp cơm mang về. Sau đó ông cầm bịch rác to tướng mang ra khỏi nhà, lững thững đi tới bồn rác ở cách nhà khoảng bốn trăm thước, vừa đi vừa hít thở cho tiêu cơm. Buổi chiều hai ông bà rủ nhau đi lòng vòng quanh cư xá để tập thể dục. Họ bước chầm chậm trong ánh nắng chiều vàng vọt, trong sự im lặng và tĩnh mịch của buổi hoàng hôn. -Anh có thấy lạnh không anh? -Không, em. Anh mặc đủ ấm rồi em. -Một lát nữa mình ăn tối với cái gì nong nóng nghen anh. -Nếu em thích ăn mì vịt tiềm thì anh đi mua cho. -Mì vịt tiềm của tiệm Lục Đỉnh Ký ăn được lắm đó anh. -Ừ. Lát nữa anh đi mua về cho em. Ông Nguyện chìu chuộng bà như thuở vẫn còn đôi mươi, còn bà thì mềm mỏng và dịu dàng như cô thiếu nữ mười tám. Họ nói chuyện thủng thẳng với nhau, không cáu kỉnh cũng chẳng giận hờn, cứ hết lòng “tương kính như tân” với nhau. Khi bà mệt thì ông đứng sau lưng bà, bóp vai, bóp lưng. Khi ông mệt thì bà đỡ ông nằm xấp xuống, xoa dầu, cạo gió cho ông. Bà nương vào ông, ông tựa vào bà, họ cần có nhau như đũa phải có cặp, dép phải có đôi, không cần biết ngày mai ngày mốt ai sẽ là người ra đi trước, ai là người khóc ai trước, ai sẽ là người tiễn đưa ai trước. Sau bữa ăn, bà đứng trong khung cửa sổ nhìn theo ông tay cầm bịch rác to tướng, đi chầm chậm tới bồn rác. Mái tóc ông bạc trắng như cước làm trái tim bà gợn lên chút xót thương. Sống với nhau hơn gần hai ngàn ngày (chỉ là ngày thôi, không hề có đêm) bà nhận được biết bao sự chăm sóc tự nguyện mà ông dành cho bà. Bữa điểm tâm sáng nóng hổi. Bữa cơm trưa nhẹ nhàng với dĩa trái cây ngọt ngọt, chua chua. Bữa ăn tối nóng sốt dưới ngọn đèn chùm màu vàng cùng với một ly rượu chát nhỏ chia đôi. Những hình ảnh ấm cúng giữa ông với bà như cuộn phim quay chậm cứ hiện về rõ mồn một trong trí óc khiến có lúc bà mỉm cười một mình khi vân vê tấm rèm vải trong tay, chờ đón ông đẩy cửa bước vào trong nhà. Tình yêu của người già mong manh như chiếc lá úa vàng trong mùa thu. Lúc đó những chiếc lá khô quắt queo lại chỉ dính một chút xíu vào cành cây chực chờ một cơn gió nhẹ thoảng qua là rơi rụng lả tả. Bà hiểu điều đó nên rất trân quý tình yêu, tình bạn của ông Nguyện dành cho bà. Đi đâu (đi shopping, đi mua sắm) bà cũng năn nỉ ông đi theo, để bà được nắm tay ông, để bà có thể làm bộ hỏi ý kiến ông về món đồ muốn mua, để bà được hưởng cảm giác bà vẫn là một nhân vật quan trọng, quan trọng nhất trong đôi mắt ông. Tới tháng ba năm nay là bà tròn tám mươi mốt tuổi. Còn ông Nguyện thì được tám mươi lăm. Già thì già, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc – hạnh phúc hơn một tỷ người khác – cho dù hạnh phúc đó vẫn được họ đếm từng ngày sau mỗi buổi sớm mai thức dậy… NGUYỄN THỊ BÍCH NGA (Westminster) http://dactrung.net/dtphorum/m553092.aspx Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 20/Mar/2011 lúc 4:25pm |
|||||||||
mk
|
|||||||||
IP Logged | |||||||||
Hoàng Dũng
Senior Member Tham gia ngày: 08/Nov/2008 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 592 |
Gởi ngày: 28/Feb/2011 lúc 10:05pm | ||||||||
Thương Tiếc Bác Sĩ Nguyễn Văn Thế Vị
lương y của người homeless Bolsa
WESTMINSTER - Tin Bác Sĩ Quân Y Nguyễn Văn
Thế, có phòng mạch tại đường Bolsa, giữa lòng Little Saigon, tạ thế sáng
21 tháng 2 khiến nhiều người xúc động,
dù họ không là thân bằng quyến thuộc của ông.
Những
người “homeless” ở khu Bolsa nói về vị ân nhân chung là bác sĩ quân y
Nguyễn Văn Thế,
vừa
qua đời sáng Thứ Hai, 21 tháng 2. (Hình: Hà Giang/Người Việt)
Tiếp xúc với phóng viên nhật báo Người Việt qua điện thoại, nữ ca sĩ Thanh Mai bảo rằng, bà “rất buồn, rất thương tiếc,” vì theo bà, trong cộng đồng mình “rất hiếm ai có được tấm lòng hay trái tim như thế!” “Phải nói bác sĩ Thế là người có trái tim Bồ Tát!” Ca sĩ Thanh Mai chia sẻ. Rồi bà kể lại một câu chuyện khiến bà “rất ngạc nhiên, cảm kích, và nhớ mãi.” Ðó là lúc bà mới từ Pháp sang Hoa Kỳ, chân ướt chân ráo, chưa có bảo hiểm sức khỏe, con gái của bà bị té, và bị chiếc vòng cẩm thạch bể đâm vào tay chảy máu rất nhiều. Bà được một người quen giới thiệu đưa con đến gặp Bác Sĩ Thế. “Bác sĩ tự tay rửa vết thương, tự tay cắt và may lại, rồi không lấy tiền gì hết!” “Lúc đó tôi rất lấy làm lạ,” ca sĩ Thanh Mai kể, vì “mình không quen biết gì với bác sĩ hết!” Ca sĩ Thanh Mai cho rằng, có thể Bác Sĩ Thế cũng không nhớ là đã giúp bà, và sau này bà cũng không có dịp phải nhờ đến lòng tốt của bác sĩ nữa, nhưng “điều ông đã làm, tôi thực sự không bao giờ quên được.” Không riêng Thanh Mai, trong số những người thương tiếc Bác Sĩ Thế, còn có một nhóm người khác, rất đặc biệt! Họ ở mọi lứa tuổi, đến từ những nẻo đời khác nhau, và có những quá khứ rất cá biệt, nhưng đời sống đã vô tình đưa đẩy họ đến gặp nhau ở hàng hiên của tiệm bánh mì Lee's Sandwiches, trên một góc của Bolsa, gần đối diện phòng mạch của Bác Sĩ Thế phía bên kia đường. Ðó là nơi họ thường xuyên tụ tập để chia sẻ nỗi niềm mà chỉ có những người “homeless” - vô gia cư - như họ mới có thể hiểu được. Và buổi chiều được tin Bác Sĩ Nguyễn Văn Thế từ trần, họ có thêm một điều nữa giống nhau: Cùng chung một niềm thương tiếc. Họ đứng tụm vào nhau, nét mặt buồn rầu, tư lự, nhưng cùng đua nhau kể, như sợ nếu không kể thì sẽ mất cơ hội nói về một vị lương y mà họ hết sức quý mến, và chịu ơn. “Bác Sĩ Thế chết rồi! Em mới nghe tức thời thôi!” Một người nói. “Buồn lắm! Buồn như mất một cái gì lớn lắm lận!” Người khác tiếp lời. “Tụi tôi ở đây là người không nhà! Bác sĩ giúp cho anh em ở đây nhiều lắm!” Một người đứng tuổi giải thích với phóng viên Người Việt. Một người trẻ tuổi, tên Ba, kể: “Ông giúp cho bữa ăn. Chiều chiều, anh em nào đói bụng, không có tiền ăn, tới đây, bác sĩ cho anh em mỗi đứa 5 đồng.” Một người trẻ tuổi tên Cường tiếp lời: “Mà không phải bác sĩ giúp năm bữa nửa tháng thôi đâu, giúp nhiều năm lắm lận!” “Giúp nhiều năm rồi, năm, bảy năm rồi. Có lúc tụi em kéo đến phòng mạch gần hai chục đứa!” “Thoạt đầu, sau giờ làm việc, tụi em kéo vào phòng mạch hết, sau này tụi em nghe mấy bệnh nhân nói sao bác sĩ cho mấy anh em không nhà (homeless) vô nhiều quá, sợ dơ phòng mạch, tụi em sợ bác sĩ mất khách, cho một anh em vào thôi rồi mang tiền bác sĩ cho đưa ra cho các anh em khác.” Như sợ các bạn nói hết, một người khác tên Châu cắt ngang: “Còn em nè, em là ngày nào em cũng tự vô trong chỗ ổng khám cho bệnh nhân luôn, chính tay bác sĩ cho em lúc 10 đồng, lúc 5 đồng, đi ăn.” “Hồi đó, em ở dưới đường Main, em ở tù về, không có tiền trả tiền tòa, tới ngày trả tiền tòa mà không có tiền thì phải vô lại tù. Em thì không có ai giúp vì em homeless, em nói: ‘Bác Sĩ Thế, giờ con còn thiếu 50 đồng tiền tòa.’ Bác sĩ nói không sao, rồi cho em 50 đồng, rồi cho em tiền đi tắm rửa, rồi cho tiền đi ăn uống nữa.” Một người đứng tuổi từ tốn cho biết bác sĩ tốn tiền với họ nhiều lắm, “ngày hơn cả trăm bạc,” vì “có bữa tụi tôi kéo đến mấy chục người.” “Còn em, cách đây mấy tháng em bị chó cắn, chó cắn em ngay cái ngực, còn cái thẹo nè, cắn đau lắm. Em kéo vô phòng mạch, ông băng cho em, cho thuốc em uống, dặn em hoài, là phải uống thuốc một ngày hai lần, còn cho thêm 20 đồng nữa.” Một người nói. Người khác kể lể: “Chiếc xe của bác sĩ đi, đậu đằng sau, mỗi ngày em rửa em chùi sạch bóng, em rửa xong bác sĩ cho em 20 đồng. Em nói chỉ làm giúp để cám ơn bác sĩ, không nhận tiền, nhưng bác sĩ không chịu, bắt em lấy tiền vì biết hoàn cảnh của tụi em.” “Ai cần gì ông cũng giúp, ai đau ổng khám bệnh cho. Nghèo thì khám không lấy tiền, rồi còn cho thuốc, còn dặn phải uống thuốc cho đúng giờ mới hết!” Họ lắng nghe câu chuyện của nhau, rồi cùng nghĩ về vị ân nhân vừa qua đời. Một người cất tiếng: “Tụi em biết ông bịnh, vì phòng mạch đóng cửa hoài, vậy mà nghe tin ông mất, sững sờ, buồn quá!” “Người đâu mà tốt quá không biết, tốt còn hơn Bồ Tát nữa, Bồ Tát đâu có giúp tụi em được gì đâu!” Một người tên Ba nói: “Lâu lâu, nhớ bác sĩ, em bước qua đường nhìn phòng mạch coi bác sĩ về chưa. Rồi hôm nay thì nghe tin ông chết!” “Tụi tôi nghèo, nhưng đang tính góp tiền mua cho bác sĩ một vòng hoa, rồi đi viếng...” Người đứng tuổi vừa nói vừa lắc đầu. Nắng tắt, từ bên hông tiệm Lee's Sandwiches, mọi người chợt cúi đầu rồi lại ngước mắt lên, hướng về phía phòng mạch Bác Sĩ Thế. Có thể, một số trong họ sẽ tìm cách đến để thăm bác sĩ ở nhà quàn, có thể họ sẽ đến để đưa ông đến nơi an nghỉ cuối cùng. Và sau đó, họ thôi, sẽ không còn bao giờ được nhận từ ông những săn sóc mỗi khi bệnh tật hay đói lòng. Họ sẽ nhớ mãi nụ cười hiền hậu của ông, những đồng tiền ông dúi vào tay họ cho những bữa cơm chiều. Nhưng hơn tất cả, điều mà họ sẽ nhớ nhất chính là cử chỉ của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thế - những cử chỉ củng cố cho họ niềm tin, và nhắc nhở họ, rằng lòng nhân là một điều có thật. Hà Giang/Người
Việt
|
|||||||||
IP Logged | |||||||||
Hoàng Dũng
Senior Member Tham gia ngày: 08/Nov/2008 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 592 |
Gởi ngày: 05/Mar/2011 lúc 9:46pm | ||||||||
|
|||||||||
IP Logged | |||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 20/Mar/2011 lúc 4:23pm | ||||||||
CÂU CHUYỆN VỀ KỲ NGOẠI HẦU CƯỜNG ĐỂ
Dù lưu lạc nơi đâu, trái tim Người Tha Phương vẫn hướng về QUÊ HƯƠNG.
Vẫn luôn mơ một ngày về !!!
mk
Nơi có những cây tùng xanh biếc
(Truyện ngắn của Trần Thùy Mai)
Ando Chie cúi xuống, nhúng ngón tay vào chậu nước. Nước ấm vừa đủ tắm. Nàng kéo màn che cửa sổ. Ngoài kia, một cây anh đào vừa nở, những nhành hoa rủ xuống trắng hồng.
- Xin ngài vào tắm kẻo nước nguội. Giọng nàng nhỏ nhẹ và lễ phép. Ngoài ba mươi tuổi, Chie mạnh khỏe và bầu bĩnh trong bộ kimono giản dị màu lam. Là người giúp việc cho hoàng thân Cường Để, cô đến ở đây đã hai năm theo sự bố trí của đại tá Wanatabe. Năm ấy hoàng thân đã ngoài năm mươi tuổi, dáng vóc nho nhã nhưng khuôn mặt gầy đượm buồn. Ông chăm chú viết, những chữ Nho chân phương rất đẹp trên giấy trắng. Thấy Chie, ông ngẩng lên, vẻ mặt ngần ngừ: - Lại tắm. Ta mới tắm hôm kia... Chie mỉm cười. Ông hoàng Việt Nam này rất lười tắm gội. Người Nhật vốn rất sạch sẽ. Bao giờ cũng thế, Chie rất cương quyết với ông. Chie đến gần, đặt tay lên nút áo ông. Chiếc áo năm thân màu nguyệt bạch với rất nhiều khuy vải. Ở Nhật đã hai mươi năm, ông vẫn mặc áo Việt. Những chiếc áo ông đem theo từ Việt Nam đã cũ nát từ lâu, chiếc áo này là do Chie phỏng theo áo cũ để may cho ông, kiểu áo Việt trên nền lụa Nhật. Nhưng hôm nay, ông hoàng dường như trái tính hơn mọi ngày. Ông chùn lại, xua tay, ánh mắt đầy nghi kỵ: - Để ta yên! Từ lúc Chie mới đến đây, ông vốn đã không tin nàng. Ông không cho nàng sắp xếp thư từ giấy tờ trên bàn ông, dù chúng thường rất lộn xộn. Mỗi lần đau ốm, ông cố giấu không cho nàng săn sóc. Chie là người do quân đội Nhật cử đến. Ông nghi kỵ nàng nhưng không thể từ khước nàng. Ông khư khư không cho nàng chạm tới đống thư từ, nhưng lại quá cần nàng thu dọn giường nằm bề bộn, pha cho ấm trà buổi sáng, khâu lại áo xống, cả ánh mắt cương quyết của nàng mỗi lần bắt ông đi tắm... Nhưng hôm nay nhìn vẻ mặt ông, Chie lẳng lặng không nài ép gì nữa. Nàng quay ra một lúc rồi trở vào với khay trà. Nàng đã quen, những lúc căng thẳng thế này chỉ có một ấm trà Tàu mới có thể làm ông dịu lại. Bước qua ngạch cửa, nàng khựng lại. Kỳ ngoại hầu Cường Để, hoàng đích tôn đời thứ năm của vua Gia Long đang bưng mặt khóc. Ando Chie vội vã đặt khay xuống án thư, chạy đến đỡ lấy mái tóc chớm bạc đang rũ rượi gục về phía trước. Tấm thân gầy mỏng của người đàn ông như muốn sụp xuống trong tay nàng. - Điện hạ... hoàng tử... Chie cứ nghĩ ông sẽ đẩy nàng ra. Nhưng lần này Cường Để chỉ ngẩng lên, mắt nhìn sững vào khoảng không trước mặt. Nàng nhẹ nhàng chặm những giọt nước ứa ra quanh đôi mắt thất thần. "Có chuyện gì...?". Cường Để không kiềm chế được, khóc nấc lên: "Bác Phan mất rồi!". Tại Tokyo một buổi chiều tháng tư, Cường Để nhận được thư báo. Phan Bội Châu, người đã tìm đến ông khi ông mới hai mươi mốt tuổi, đã tôn ông làm minh chủ của phong trào Đông du chống Pháp. Người đã đón ông sang Nhật để tính chuyện phục quốc lâu dài. Việc Phan Bội Châu bị bắt ở Thượng Hải đã là một đòn quá mạnh đối với ông. Từ ngày ấy, ông không thôi cảm thấy lạc lõng, hoang mang; cảm giác thối chí thỉnh thoảng lại ám ảnh ông, ông phải hết sức chống lại. Bây giờ Phan Bội Châu đã mất. Hơn ba mươi năm lưu vong trên đất Nhật, bao nhiêu ý chí, nghị lực của ông dường như được truyền từ sức mạnh tinh thần của con người này. Vậy mà giờ đây người ấy không còn nữa. Số phận đã bỏ rơi ông giữa một thế giới mênh mông xa lạ, trong cảnh tiến thoái lưỡng nan. Không phải là chuyện có thể chia sẻ với Ando Chie, nhưng biết nói cùng ai ở nơi lữ thứ này. Phong trào Đông du đã tan rã, Trần Đông Phong đã tự vẫn, Tăng Bạt Hổ, Nguyễn Siêu đã trốn đi, chỉ còn mình ông trơ trọi giữa trời cùng đất tuyệt. Chie cố gắng an ủi ông, dù không biết người chết là ai. Nàng dìu ông vào giường, đắp chăn, buông màn cho ông. "Để mặc ta" - Cường Để nói, xua tay, quay mặt vào góc tối. Chie gật đầu, nàng ém màn vào dưới nệm, bước lùi mấy bước. "Chie, đừng đi!". Ông ta bíu lấy tay nàng. Chie cảm thấy tất cả nỗi cô đơn, hoảng loạn của người đàn ông. Nàng cúi xuống, lồng tay vào chăn, ôm lấy ông vỗ về, bất giác nàng cũng rơi nước mắt. "Thiếp thương điện hạ lắm". Chie nói, những tiếng rất giản dị, nàng biết rõ Cường Để không giỏi tiếng Nhật, và nàng cũng không biết lời an ủi nào hơn. Nhưng linh cảm dạy cho nàng biết phải làm gì: nàng ghé nằm bên ông và ấp ủ ông bằng thân thể ấm áp của mình. *** Đêm ấy trời mưa, khi trời sáng Chie cuốn màn, mở hé cửa sổ, nàng nhìn thấy những cành anh đào sũng nước. Nàng đặt chậu nước nóng cạnh giường, nhúng chiếc khăn bông trắng muốt rồi vắt thật ráo. Người đàn ông của nàng đã tỉnh giấc. Nàng cúi xuống, mỉm cười dịu dàng, lau mặt cho ông. Kỳ ngoại hầu nắm lấy tay nàng, vẻ mặt ông lộ vẻ biết ơn. Chốc lát, ông quên người đàn bà này là người của quân đội Nhật. Ba mươi năm lưu lạc trên đất nước này, ông đã nhiều lần được chở che. Ông Innukai và Kashiwabara đã bảo bọc ông, thuyền trưởng tàu Yayomaru đã hết lòng che chở ông thoát khỏi sự truy lùng của mật thám Pháp. Đó là chuyện hai mươi, ba mươi năm trước. Lúc đó ông còn trẻ, chí khí còn hăng hái; gần mười năm nay, từ khi Innukai bị ám sát rồi, ông quá chật vật với cuộc sống, cô đơn, mệt mỏi. Phải nhận sự bảo trợ của lục quân Nhật là bất đắc dĩ, ông không thể không dựa vào người Nhật, nhưng ông biết Nhật và Pháp có thể bắt tay với nhau bất kỳ lúc nào. Ando Chie có phải là tai mắt của quân Nhật không? Ai biết đâu được. Dù sao lúc này bên ông chỉ còn có nàng thôi. Giờ phút này nàng đang dịu dàng lau mặt ông. Cảm giác được chăm sóc làm ông bùi ngùi ứa lệ. Chie chuyển dần chiếc khăn nóng xuống cổ và ngực ông, nàng nhẹ nhàng mở khuy áo để lau vai và lưng. Bỗng Cường Để buột miệng: - Về Việt Nam! Ước gì ta được về Việt Nam! Chie khựng lại một giây, rồi nàng hiểu, nhẹ vỗ vào lưng ông như dỗ dành: - Rồi ngài sẽ về, nhất định có ngày ngài sẽ về mà. Ôâng hoàng lưu vong cảm thấy ấm lòng, ông siết chặt tay nàng như muốn cảm ơn. Trong lúc đó Chie lại thấy lòng âm thầm một nỗi buồn. Ông sẽ đi, sẽ xa nàng, chắc chắn sẽ có ngày ấy... Cuối tháng, đại tá Wanatabe gặp Ando Chie ở Bộ Tư lệnh lục quân. Như thường lệ, Chie nói với ông về tất cả những sinh hoạt của Cường Để. Wanatabe hỏi: - Cô có thấy ông ta tiếp khách khứa từ xa tới không? - Không ạ. - Ông ta có nhận thư từ, tin tức gì từ Việt Nam? - Không ạ. Chie trả lời, chắc chắn đến nỗi Wanatabe không hỏi thêm gì nữa. Ông ta nhìn Chie từ đầu đến chân như muốn đánh giá lại quan hệ giữa nàng và người ngoại quốc lưu vong ấy. Chie đỏ mặt, nàng hiểu cái nhìn của đại tá. Chắc chắn là ông ta rất khuyến khích việc nàng lên giường với người đàn ông kia, điều đó rất có lợi cho công việc. Chỉ có điều, ông ta không biết hôm qua nàng đã ủ ấm cho Cường Để, không phải với tư cách một nhân viên của lục quân Nhật, mà với tất cả tấm lòng của một người đàn bà. Năm năm sau. Chiến tranh khốc liệt trên khắp đất nước hoa anh đào. Những trận bom Mỹ dội xuống. Những ngôi nhà bằng gỗ và giấy cháy phừng phừng trong các góc phố Tokyo. Đang mùa lá đỏ nhưng chẳng còn ai nghĩ đến lễ hội mùa thu... Chỉ còn những đoàn người tản cư dắt díu nhau chạy. Ando Chie gói quần áo vào hai chiếc tay nải. Vội vàng, nhưng nàng không quên những chiếc áo lụa năm thân, áo dài the, khăn xếp, và cả bộ bình trà Tàu nhỏ xíu. - Ông ơi! Chie gọi. Hoàng thân giật mình, quay ra. Hôm nay ông mặc Âu phục chỉnh tề. Trong cảnh chộn rộn của Tokyo, vẻ chỉnh tề của ông trông thật lạc lõng. "Mình đi thôi, ông ạ. Mọi người đều tản cư về quê, chiều nay là chuyến chót". Hoàng thân hốt hoảng: - Nhưng ta còn phải chờ máy bay... Biết đâu ngày mai máy bay sẽ tới. Chie nhìn ông, xót xa. Cuối tháng bảy, nội các Suzuki Kantaro đã tổ chức bữa tiệc linh đình đưa ông về nước. Sau ba mươi hai năm xa quê, cái tin được về nước làm ông bàng hoàng. Trong bữa tiệc linh đình tại khách sạn Đế Quốc, ông hân hoan từ giã hết các chính khách đã ủng hộ ông... Mãi đến lúc sắp ra sân bay Haneda, cầm gói thức ăn đi đường từ tay Chie, ông mới nhìn thấy vẻ buồn trong mắt nàng. "Đừng buồn Chie, ta về nước rồi sẽ tính chuyện đón nàng sang". Chie mỉm cười. Ở Việt Nam, ông còn có người vợ cả và hai con nay đã lớn. Người vợ mà ông đã xa cách từ năm hai lăm tuổi. Ông sắp về với người đàn bà ấy. Nàng cảm thấy buồn, nhưng nàng mừng cho ông. Ngày hôm ấy ông đi, rồi đến tối mịt lại quay về. Ông kể, trên sân bay, nhân viên Bộ Tham mưu lục quân Nhật và ký giả báo chí tề tựu để tiễn chân ông... Nhưng máy bay từ Sài Gòn không đến đón. Ông quay về, ngã vật trên giường, mắt mở trừng trừng nhìn lên cao... Chie tháo giày cho ông, lau mặt cho ông. Nàng nhỏ nhẹ bảo ông: "Ông ạ, đừng buồn, chắc máy bay bị trở ngại gì đó thôi, mai lại đến ấy mà!". Từ đó hôm nào nàng cũng quấn sushi cho ông đem theo... Hôm nào ông cũng ra phi trường Haneda, hôm nào ông cũng trở về. Hơn năm hôm sau, nhân viên lục quân lẫn ký giả không còn ai đến nữa, chỉ còn ông ngày ngày một mình ngồi đợi. Lủi thủi tới, rồi lủi thủi về. Và hôm nay, ngày cuối tháng bảy, bom B29 của Mỹ đã trút xuống Tokyo, ông vẫn còn nghĩ đến chuyện đến phi trường chờ đợi. Chie bảo ông: - Mình phải đi thôi ông ạ! Phải chạy về quê, nếu không là chết. - Đúng rồi, nàng cứ đi, ta ở lại, biết đâu... Chie nắm lấy tay ông. Bàn tay ông gầy quá. Với mọi người, ông là một hoàng thân, được các cơ quan tiếp đón, các ký giả săn tin, được các nghị sĩ bảo trợ... Còn với nàng, đây là một người đàn ông tha hương, lạc lõng, túng thiếu, cô độc... Lúc này, nàng nhất định phải cứng rắn với ông, như những lúc bắt ông phải đi tắm vậy; nàng khoác tay nải lên vai ông và đẩy ông đi. Cường Để gượng lại, phản đối, nhưng khi bị đẩy đến cửa, dòng người tay xách nách mang chạy loạn đập vào mắt ông, và ông hiểu ngay điều gì đang xảy ra. Đêm đó trên chiếc xe bò lắc lư trong dòng xe qua vùng ngoại ô, ông nhìn thấy Tokyo bốc cháy, lửa rực đỏ dưới những lằn máy bay Mỹ vút ngang. Căn nhà mà lục quân Nhật cấp cho ông đã cháy rụi. Tháng tám, bom nguyên tử dội xuống Nagasaki và Hiroshima, Nhật Bản đầu hàng. Không còn ai đủ sức nghĩ đến vị hoàng tử lưu vong. Chỉ có một người đàn bà thầm lặng mỗi ngày làm thuê cho một xưởng than ở vùng quê để nuôi một người chồng lớn tuổi. Ando Chie lúc này không còn là nhân viên của lục quân Nhật nữa. Buổi sáng, nàng thức dậy nấu nước nóng cho chồng rồi tất tả đi; nàng vẫn thế, dù làm ở xưởng than nhưng lúc nào về nhà cũng rất sạch sẽ, còn chồng nàng vẫn vậy, rất lười tắm và suốt ngày ngồi chép những trang sách chữ Hán đã cũ nhàu. Nhiều người hỏi sao ông chồng nàng chẳng làm việc gì mưu sinh, Chie chỉ cười. Ông ấy là một ông hoàng. Dù rất nghèo và chẳng hề có quyền uy. Ông chẳng làm được gì cho nàng cả, nhưng nàng yêu thương ông với tất cả sự trìu mến xót xa. Trong lúc ông thì đau đáu chỉ muốn về quê hương - nghĩa là rời xa nàng. Nhưng nếu ông không có giấc mơ hồi hương, liệu ông có còn là người đàn ông mà nàng thương yêu không? *** Năm năm sau. Cơ hội về nước lại đến. Ando Chie lại chuẩn bị hành lý cho Cường Để lên đường. Nước Nhật đã trở lại thanh bình. Trước ngày Cường Để về nước, bạn bè làm tiệc tiễn đưa. Ký giả Báo Asahi cũng đến dự. Cụng ly mừng, nhà báo ngỏ ý muốn đưa tin chuyến trở về của vị hoàng thân sau gần bốn mươi năm biệt xứ. Chuyến đi lần này bằng đường biển, từ cảng Kobe đáp tàu Hải Minh đến Bangkok rồi theo đường bộ qua Campuchia về Tây Ninh. Vì sao phải về nước qua cửa khẩu Tây Ninh? Vì Việt Nam đang thời kỳ chiến tranh Việt Pháp, Pháp vẫn còn đóng quân ở Nam kỳ. Nhưng Tây Ninh nằm trong lãnh địa của Giáo chủ Phạm Công Tắc. Với sự bảo trợ của Phạm Công Tắc, ông có thể lên bờ an toàn. Ký giả Asahi dặn dò: - Khi ngài tới nơi rồi, xin điện ngay cho tôi biết. Cường Để ngẫm nghĩ: - Trong nước hiện đang chiến tranh, tin tức khó gửi. Có lẽ cứ tính theo hải trình, đến trung tuần tháng bảy thì bỉ nhân đã đến quê nhà, quý ông có thể đưa tin được rồi. Ando Chie đưa ông đến bến cảng. Mùa thu, khí trời se lạnh. Tiếng quạ kêu vang sau những tàn cây lá đỏ. Ông đi rồi, Chie trở lại căn hộ hai phòng ở phố Ogikubo. Con đường bỗng dài hơn bao giờ hết. Ông hứa sẽ có ngày đón nàng sang Việt Nam. Lúc đó nàng chỉ bảo: "Bao lâu cũng được". Đến bây giờ, một mình trên con đường về nhà, nàng mới thấm thía cả khoảng trống chơ vơ trước mặt, rằng có thể nàng sẽ mãi mãi một mình trên đoạn đường còn lại... Nàng tiếp tục khâu những con búp bê vải - những con búp bê đã nuôi sống nàng và ông từ lúc về lại Tokyo. Đến tối, chủ nhà, bà Hashimoto gõ cửa hỏi thăm nàng. Bà đem vào cho nàng một gói bánh dẻo. "Trông em xanh quá. Tôi pha cho em một chén trà nóng nhé?". Chie uống chén trà từ tay bà chủ nhà tốt bụng. Trà nóng làm nàng hồi tỉnh. Nhìn hộp bánh dẻo xinh xắn, nàng nhớ đến chồng. Ông ấy vẫn thích loại bánh này. Nhưng dùng trong khi uống trà Tàu - ông vẫn không quen với trà Nhật. Bây giờ ông ấy đi đến đâu rồi nhỉ? Bà Hashimoto vuốt tóc nàng, dẫn nàng sang phòng làm việc của chồng bà, giáo sư Hashimoto Masukichi. Trên vách, giữa những tủ sách đồ sộ là tấm bản đồ châu Á. Bà chỉ cho Chie xem chỗ nào là Nhật Bản, Thái Lan, Việt Nam. Chie chăm chú nhìn. Chồng nàng đang ở trên vùng biển xanh xanh kia, ngoài khơi cái khối màu hồng rất lớn mà bà Hashimoto bảo là nước Trung Hoa. "Em đừng buồn, rồi ông ấy sẽ đạt chí nguyện, sẽ trở lại đón em sang, em phải gắng giữ sức khỏe nhé!" - Bà Hashimoto an ủi. Chie mỉm cười, nàng cúi đầu thật thấp tỏ lòng cảm ơn bà chủ. Chiều hôm ấy nàng đến chùa Senso, bên chiếc đỉnh lớn nghi ngút khói nhang giữa sân chùa, nàng vớt nhẹ khói hương ủ vào nơi lồng ngực. Lần trong tay áo, nàng lấy ra số tiền nhỏ, đủ cúng dường để xin một lời nguyện cầu. Vị sư già hỏi nàng cầu nguyện gì để ghi vào tấm thẻ gỗ trắng ngà. Nàng cúi đầu ngẫm nghĩ. Nàng muốn cầu nguyện những gì, chồng nàng sẽ có quyền uy, sẽ thành lãnh tụ, sẽ giàu sang, sẽ đón nàng về cùng hưởng cuộc sống cao sang? Cầu cho chồng nàng sẽ không quên nàng? Sẽ... Thực lòng nàng muốn gì? Chie ngập ngừng một lát rồi se sẽ đọc cho vị sư già chép vào thớ gỗ: - Tôi là Ando Chie... Cầu cho chồng tôi là Cường Để vượt sóng gió về đến quê nhà bình yên, sum họp với gia đình. Vị sư già ngẩng nhìn nàng. Ông đã viết giúp cho thiện nam tín nữ hàng ngàn lời nguyện. Ông nhìn Ando Chie một lát như muốn hỏi điều gì, nhưng rồi lại thôi, cúi xuống cắm cúi viết. Khi trở về nhà, nàng thấy giáo sư Hashimoto đang chờ trước cổng. "Ando, có tin mừng cho cô đây". Ông đưa nàng tờ nhật báo Asahi. "Hoàng tử Việt Nam đã về đến quê nhà sau 32 năm ly hương". Chie mừng rơi nước mắt. Chiều hôm đó nàng làm món mì Nhật và sushi cá hồi, mời ông bà Hashimoto để tỏ lòng biết ơn. Ông bà về rồi, còn lại một mình Chie trong căn hộ vắng lặng. Một đoạn đời đã chấm dứt, đoạn đời mới bắt đầu, một chặng đường dài hun hút mà nàng sẽ phải đi một mình. Nàng giở tờ báo Asahi, đọc lại bài viết, rồi lật dần ra những trang sau: những mục tìm nhà, tìm việc. Cuối tháng bảy, bỗng bà Hashimoto đập cửa căn hộ của Ando Chie, hốt hoảng: - Ando, người ta vừa điện đến cho ông nhà tôi. Cô phải ra ngay cảng Yokohama! Chie cuống quýt, hai chân run cầm cập, lưỡi líu lại. Nhưng người phụ nữ Nhật dường như được trời phú cho một nghị lực phi thường, nàng kiềm chế thật nhanh cơn hoảng hốt, cầm lấy chiếc ô, chạy ra cửa. Bà Hashimoto tốt bụng đã kịp thuê giúp nàng một chiếc xe ngựa. Trên cảng Yokohama về chiều, có một ông già ngồi trên chiếc ghế dài, ngẩn ngơ nhìn quanh với đôi mắt vô hồn, mặc kệ bao nhiêu người qua lại. Chie chạy lại gần. Sao mới có một tháng mà chồng nàng đổi thay đến thế, y phục nhàu nát, khuôn mặt gầy tọp rám nắng, mái tóc bạc xỉn đi và bê bết bụi. - Ông ơi... Chie cầm lấy tay chồng. Bàn tay ông gầy trơ xương, nhưng vẫn là bàn tay của ông, ông đang ở đây, bên nàng. "Ông ơi, sao ông lại về được?". Chie hỏi, nhưng người đàn ông ngẩn ngơ nhìn mông lung, vẻ mặt sững sờ tuyệt vọng, dường như không còn nhận ra gì chung quanh nữa. Ông chỉ không ngớt lẩm bẩm: "Không về được! Không về được nữa! Không về nữa!". Với Chie, về là về Nhật Bản, với ông, về là về Việt Nam. Hơn một tháng Chie ra sức chăm sóc, Cường Để mới dần dần hồi tỉnh lại. Ông kể với nàng: tàu Hải Minh bị trục trặc bánh lái nên đã ghé Thượng Hải một tuần. Trong khi đó, Báo Asahi đã đưa tin, và mật vụ Pháp biết được rằng chuyến tàu phải cập cảng Bangkok, đã điện cho Bộ Ngoại giao Thái. Vì quan hệ giao thương với Pháp, Chính phủ Thái đã không cho Cường Để nhập cảnh Thái Lan, buộc lòng phải theo tàu quay về Nhật Bản. Cường Để không bao giờ còn trở lại như trước kia nữa. Tuyệt vọng, suy sụp, ông đã hoàn toàn là một ông già trái tính trái nết, đau ốm triền miên. Đôi khi, căm hận số phận, ông ném bất cứ cái gì vớ được vào vách. Chie phải cất bộ đồ trà ông đem theo từ Việt Nam thật kỹ, mỗi sáng pha trà xong nàng đứng chờ ông uống xong, đem cất ấm chén rồi mới dám dời mắt. Cuối mùa thu có hai người khách ở Việt Nam sang ghé thăm. Họ là hai chính khách đang có thế lực, hứa sẽ tìm cách đưa Cường Để về nước. Khách về rồi, Chie dọn tách chén trên bàn, định bưng đi. Chợt ông níu tay nàng: - Nàng ơi, nàng có tin ta còn về nước được không? Chie đặt khay xuống, quay lại cầm cả hai bàn tay ông, vỗ về: - Thiếp tin. - Ta cũng tin vậy. Nghe nói chẳng bao lâu nữa người Pháp sẽ rút khỏi Đông Dương... Chie lau những giọt mồ hôi đang ứa ra trên trán người đàn ông. Dạo này ông yếu quá, chỉ một cơn xúc động cũng đủ làm mồ hôi toát ra dầm dề. Mấy hôm sau ông bồn chồn đến mất ngủ, lúc nào khỏe lại lật giở những thư từ, sách vở đã cất giữ từ bốn mươi năm trước, cả bức Thư huyết lệ của người Việt Nam mà ông viết khi mới ngoài ba mươi tuổi. Ba mươi năm đã qua, sứ mệnh cứu nước không còn nằm trong tay thế hệ ông nữa rồi. Nhưng những bức thư cũ này sẽ mãi mãi là kỷ niệm rực rỡ nhất của đời ông. - Nàng cất kỹ những giấy tờ này cho ta. Khi ta về nước, đồng bào nhất định sẽ hỏi đến. Chie đặt chén thuốc xuống bàn rồi đỡ lấy những tờ giấy cũ vàng tên tay ông. Bây giờ ông đã tin nàng thật sự, ông giao cho nàng những tờ giấy này, đối với ông nó còn quý hơn cả bạc vàng. - Uống thuốc đi mình - Chie nhắc. Cường Để gật đầu, không đợi Chie nài ép dỗ dành như mọi lần, ông bưng chén thuốc đắng ngắt uống cạn. Gương mặt đang rạng rỡ của ông bỗng nhăn nhúm lại, một cơn đau đang âm ỉ dưới sườn non chợt nhói lên. Chie đỡ cái bát, tay kia vỗ nhẹ lên lưng chồng như muốn xoa dịu phần nào cái buốt nhói trong cơ thể ông. Tuần trước, bác sĩ Bệnh viện Nihon Ika Daigaku đã nói cho nàng biết, Cường Để đã mắc bệnh ung thư gan, ông chỉ còn sống nhiều lắm là ba tháng nữa. Chie giữ kín tin dữ không cho ai hay. Nàng biết đây là lúc nàng phải mạnh hơn bao giờ hết. Cường Để cố uống thuốc cho mau khỏi bệnh. Ông xem đi xem lại bức thư của mấy người Việt vừa ghé thăm tháng tám năm ngoái, bức thư hứa sẽ tìm cách vận động cho ông hồi hương. Mỗi lần đọc thư ông thấy khỏe hẳn lên như vừa uống một thang thuốc bổ. Nhưng đến đầu tháng tư, sau nhiều cơn đau hành hạ, Cường Để cũng nhận ra rằng mệnh của mình đã hết. Ông cố mở đôi mắt mệt mỏi, gắng nhìn thật kỹ những gì chung quanh: khung cửa sổ nhỏ, những chiếc áo Việt may bằng lụa Nhật treo trên vách, chiếc chậu đồng dưới chân giường, những vật dụng thường ngày của cuộc sống lưu vong tạm bợ, giờ phút này ông nhìn chúng với ánh mắt bịn rịn vô cùng. Mắt ông dừng lại nơi khuôn mặt Chie đang nhìn xuống, vẻ thầm lặng và nhẫn nhục đầy yêu thương. Ông quờ quạng nắm lấy tay nàng: Mình ơi, mình có phải là Phật Bà Quan Âm của tôi không? Đó là lần đầu tiên ông nói lời tri ân với nàng sau bao nhiêu năm chung sống. Nhưng nàng không hiểu gì cả, vì ông không biết là mình không dùng tiếng Nhật. Như một bản năng, mấy hôm nay ông chỉ nói toàn tiếng Việt. Chie vẫn cúi nhìn, vẫn vẻ mặt âu yếm xót xa, nàng áp sát mình xuống thân thể còm cõi của ông, tay nắm lấy cả hai tay ông như muốn bảo: Đừng sợ, có thiếp đây, dù đi đến đâu ngài cũng không cô độc. Cường Để dần thiếp đi. Lúc ấy là năm giờ 5 phút sáng mồng 6 tháng 4 năm 1951. Một mình Ando Chie úp mặt khóc lặng lẽ trên thi thể ông. Ngoài cửa sổ, hoa anh đào đang nở. Hôm ấy là ngày đầu của lễ hội hoa anh đào trên đất Nhật. *** Cửa mở ra, hai người đàn ông theo Ando Chie bước vào căn hộ. Đập vào mắt họ là những tấm hình của Kỳ ngoại hầu Cường Để trên vách. Vị hoàng thân trẻ măng hai mươi lăm tuổi ngày mới đến Nhật. Hội chủ Hội Đông du Phục Quốc, sinh viên trường Đại học Waseda, hình chụp với Thủ tướng Innukai, hình chụp với ký giả Asahi trong bữa tiệc long trọng tại khách sạn Đế Quốc... Tất cả là những trang đời đẹp nhất của Cường Để. Còn hình ảnh buồn thảm những ngày chờ đợi trên sân bay Haneda, những ngày chạy loạn nghèo túng cơ cực, ngày về tang thương trên cảng Yokohama... Những hình ảnh ấy giờ đây chỉ còn trong ký ức Chie mà thôi. Hai tay bưng bình tro, Ando Chie trao di cốt Cường Để cho hai con của ông. Nàng cúi mặt thầm nghĩ: Thế là ngài sắp về nhà, giấc mơ cả đời của ngài giờ đây mới thành tựu. Ngài lên đường bình an, lần này thiếp không phải gói sushi cho ngài mang đi nữa rồi. Người con trai cả của Cường Để đỡ lấy bình tro di cốt của cha. Mặt ông đầy nước mắt. Ông ngạc nhiên thấy người đàn bà Nhật này vẫn bình thản, nét mặt trang nghiêm dịu dàng chỉ hơi phảng phất buồn. Nhưng người con trai thứ hai đứng cách đó vài bước thấy rất rõ đôi bàn tay của Chie sau khi trao xong bình tro. Đôi bàn tay ấy bấu chặt vào nhau, những móng tay quắp vào da thịt, rồi chúng run rẩy bấu víu lấy đôi tay áo kimono, và đến lượt thớ vải giằng co như sắp bị xé rách ra. Khi hai người đàn ông đi rồi, Chie khép cửa, quỳ xuống sàn. Nàng lấy trong ống tay áo ra một mẩu xương và một nhúm tro nhỏ. Chie đã giữ lại cho mình một phần thân thể của chồng. Nàng biết mình không làm trái với ý nguyện ông. Dù chẳng hiểu ông nói gì khi sắp mất nhưng nhìn vào mắt ông nàng biết, ông rất muốn ở lại với nàng. Hình như vào giờ phút ấy ông nhận ra mình sắp đi vào một cõi xa thăm thẳm, ở nơi ấy ông sẽ gọi cả trần gian này là quê nhà. Và ở quê nhà đó, một trong những gì giản dị và thân thương nhất chính là Chie... Ando Chie mất bốn mươi năm sau, trước khi mất bà để lại di chúc muốn được chôn cùng với nắm tro tàn của Kỳ ngoại hầu Cường Để. Nhưng cho đến nay lọ hài cốt của bà vẫn còn trong phòng mộ tập thể của nghĩa trang Zoshigaya, nơi có những cây tùng xanh biếc và tiếng quạ kêu man mác buồn trong những buổi sáng mùa Xuân. T.T.M
Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 22/Mar/2011 lúc 7:06pm |
|||||||||
mk
|
|||||||||
IP Logged | |||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 22/Mar/2011 lúc 6:51pm | ||||||||
Bi Kịch Kỳ Thị Tác giả: Sương Nguyễn
Trước 1975, tác giả là giáo sinh trường Sư Phạm Qui Nhơn. Sau 1975 là giáo viên lưu dụng. Vượt biển sang Mỹ năm 1983, làm nghề bán tạp hoá tại Houston. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà là một chuyện kể thể hiện niềm tin ở phước báu cho những người tử tế, theo tinh thần ở hiền gặp lành. Sau đây là một truyện ngắn mới của bà, viết như một cảnh giác về hậu quả khó lường của nạn kỳ thị. http://www.vietbao.com/D_1-2_2-271_4-171990_15-2/ ***
Trước khi mua một nửa căn duplex hai phòng ngủ,ông Lâm đã cẩn thận lái xe đi vòng vòng khu nầy nhiều lần vào buổi sáng, buổi chiều và buổi tối . Khu nhà thật yên tĩnh vào ban đêm , không có một bóng Mỹ đen. Cư dân phần đông là người Mễ, họ chỉ ồn ào, mở nhạc lớn ,con nít chạy nhảy la hét vào buổi chiều sau khi đi làm về . Khi hoàng hôn buông xuống, ai nấy rút vào trong nhà trả lại sự yên tĩnh cho hàng xóm. Ông Lâm và con gái Tin dọn lại đây ở hơn tuần lễ nay, ông rất bằng lòng với sự chọn lựa của mình, nhưng có một điều ông lo ngại nhất là nửa bên kia của duplex: Ai sẽ là người mua nó? họ có phải là người tốt không? con ông đang ở tuổi 16, tuổi ưa làm dáng và hay bắt chước. Cần phải có một gia đình láng giềng tốt để làm gương cho con gái của ông noi theo. Ông Lâm làm việc cho cây xăng Valero vào ban đêm. Mỗi đêm, ông phải tiếp xúc với đủ mọi thành phần trong xã hội, nhiều nhất là dân bụi đời, dân hút xì ke ma túy, mỗi ngày họ ra vô tiệm không biết bao nhiêu lần chỉ để mua một viên kẹo hay một lon nước ngọt. Ông ghét nhất là giới Mỹ đen, cứ đứng chàng ràng phía trước quầy, không cho ông tiếp những khách hàng khác. Quần thì bận xệ xuống thấy quần lót bên trong, mỗi lần đi thì hai tay khuỳnh khuỳnh nắm lấy lưng quần kéo lên mới bước được. Ông không hiểu chúng nó theo cái mode gì mà mà ăn bận kỳ cục, quái đản như vậy. Còn ăn nói thì ôi thôi, mở miệng ra là chưởi thề. Cả giòng họ chúng nó không biết đi làm là cái gì! suốt ngày gạt thẻ foodstamp cho đến cạn tiền mới thôi. Ông Lâm trong vòng ba năm bị cướp bảy lần, lần nào cũng bị bọn Mỹ đen bịt mặt, chỉa súng vào đầu ông, lấy hết tiền bán trong máy tính tiền. Cũng may chúng tha mạng sống cho ông chỉ hốt chụp lấy tiền bạc và mấy cây thuốc lá. Đây chính là lý do tại sao ông không thích Mỹ đen nhưng vì thời buổi kinh tế khó khăn, không dễ gì tìm được công việc khác, ông phải bám vào làm cái nghề tổn thọ nầy để nuôi con . Một buổi tối đi làm về, ông nghe tiếng nói chuyện thầm thì, tiếng di chuyển đồ đạc trên thảm, ông biết là có người mới dọn vào gian kế bên. Ông trằn trọc mãi ngủ không được, mong cho trời mau sáng để xem họ là ai. Mặt trời vừa ló dạng, chiếu những tia nắng ban mai trên thảm cỏ còn ướt đẩm sương đêm , ông bước ra sân trước tò mò nhìn sang nhà bên cạnh, có lẽ họ còn đang ngủ, cửa đóng im ỉm. Buổi chiều , chuẫn bị đi làm, ông vừa mở cửa xe thì cửa nhà bên cạnh bật mở. Điều ông lo lắng đã biến thành sự thật : hàng xóm của ông là một gia đình Mỹ đen, đứa con trai của họ trạc tuổi con gái ông. Ông lái xe đi làm mà lòng da xốn xang, lo lắng. Vợ chết sớm, gà trống nuôi con ,khổ cực trăm bề. Bây giờ con gái đã trưởng thành, rất xinh xắn và hoạt bát lại có lòng từ tâm. Con gái ông rất siêng đi nhà thờ mỗi buổi sáng chủ nhật, tối nào nó cũng cầu nguyện trước khi đi ngủ: xin Chúa ban phước lành cho những người tàn tật và nghèo khổ. Chúa đã dùng máu của mình để rửa sạch tội lỗi của nhân loại, xin Chúa hãy thương xót và cứu rỗi lấy những linh hồn sắp sa vào địa ngục! Cuối tuần con nghỉ học, ông gọi con ra nói chuyên về gia đình mới dọn đến ở bên cạnh .-Ba không muốn con làm bạn hoặc tiếp xúc với nhà bên cạnh. -Tại sao ? -Bởi vì họ là Mỹ đen, họ có máu lạnh trong người, giết người không nháy mắt. Ba làm ăn, tiếp xúc với họ mỗi ngày, họ là loại người không tốt. Lười biếng, không chịu đi làm, chỉ muốn cướp của, giết người và buôn bán cần sa, bạch phiến. Tin phụng phịu bỏ đi vô phòng, nó không tin những lời ba nó nói, nó muốn chứng minh cho ba nó biết là sau cái bề ngoài xấu xí, đen đúa của họ là những tâm hồn thánh thiện. Một ngày nọ, ông Lâm đi làm về, nghe thấy tiếng nói chuyện cười nói, khúc khích đằng sau vườn, ông bước vội ra cửa sau. Con gái ông đang rao giảng lời Chúa qua một lỗ hổng hàng rào cho người thanh niên nhà bên cạnh. Ông tức giận lôi con vào la mắng: -Ba đã bảo con không được tiếp xúc, kết bạn với họ. -Ba! Redneck! họ cũng là người mà. Họ cũng quá đau khổ và mặc cảm khi bị sinh ra dưới cái bề ngoài đen điu như vậy. Ba còn kỳ thị họ nữa, phải cho người ta một con đường sống chứ ! -Không phải kỳ thị mà họ không phải là con người, thú tánh như con vật. Họ là con khỉ, con khỉ con biết không? Hai tay ôm lấy tai, Tin chạy vô phòng mình, đóng mạnh cửa phòng lại. Hai tuần nay Tin nói chuyện rất hợp ý với Kelvin, nó kể hết cho Tin nghe về chuyện gia đình nó, ba má nó ly dị nhau khi nó mới hai tuổi, bà bây giờ là mẹ kế, không thương yêu và săn sóc cho nó, suốt ngày đi shopping. Kể chuyện bà nội, bà ngoại thương nó, lo cho nó ăn uống, dẫn nó đi chơi khi nó còn nhỏ, chuyện trường học mới, không ai thích chơi với nó vì nó là Mỹ đen. Có một chuyện nó không kể cho Tin nghe là ba nó làm nghề ăn cướp để sống, thỉnh thoảng kẹt tiền ba nó xách súng dọa người ta để lấy tiền nhưng ba nó chưa bao giờ giết ai, mấy viên đạn trong súng còn nguyên vẹn mười mấy năm nay. Mỗi lần ba nó đi ăn cướp về, nó chui xuống gầm nhà, chỗ ba nó dấu khẩu súng, ngửi nòng súng, kiểm lại ổ đạn và thở phào nhẹ nhỏm: ổ đạn vẫn còn nguyên. * Sáng nay đi nhà thờ về, thấy xe ba còn đậu trước cửa nhà, Tin ngạc nhiên vì theo thông lệ giờ này ba đang la cà ở khu VN, chơi một ván cờ hay uống một ly cà phê, tán chuyện gẫu với bạn bè cũ qua một đợt HO với ông. Tin mở cửa bước vảo nhà, nó hét lên, run lẩy bẩy, ba nó nằm bất động, ngửa mặt lên trên vũng máu, nó lết đến cái điện thoại để trên bàn bấm số 911 rồi gục xuống mê man bất tỉnh . Khi nó tỉnh dậy, Tin thấy Kelvin đang ngồi bên cạnh cầm tay nó an ủi. Tin hỏi Kelvin về tình trạng sức khỏe của ba nó. -Không khả quan lắm! Bác vẫn còn hôn mê, bác sĩ nói bác có khả năng biến thành người thực vật vì viên đan xuyên qua não bộ, chạm phải hệ thần kinh. Tin nhắm nghiền mắt lại, khóc nấc lên, thầm cầu nguyện: Lạy Chúa! cầu xin ơn trên ban phước lành cho ba con được tỉnh trở lại, sống sót và ở cùng con dưới sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời yêu thương ba đến nỗi đã ban con một của ngài là Đức Chúa Jesus- Christ thay thế cho ba, tức là gánh vác hết mọi tội lỗi của ba và chết thế cho ba. Ba ơi! sống lại cùng với con nghe ba! Kelvin giúp Tin lo mọi thủ tục khai báo, đưa ông Lâm vào bệnh viện, rồi lái xe đưa Tin trở về nhà khi đã hết giờ thăm nuôi. Tin mệt phờ người, suốt cả ngày chưa ăn gì cả, nó đói lả người đi. Mở tủ lạnh, nó ngạc nhiên là ai đó đã mua đầy đồ ăn, không cần nấu nướng bỏ đầy tủ lạnh. Tin đoán có lẽ là của Kelvin,chiều hôm qua nó có nói với Tin là mới tìm được việc làm ở H.E. B supermarket . Nó cảm động vô cùng: Ai nói là Mỹ đen có máu lạnh, không có tình người ? Năm tháng trôi qua nhanh, ông Lâm vẫn trong tình trạng hôn mê, chưa tìm ra hung thủ, cảnh sát còn trong vòng điều tra.Tin hoàn toàn sống dựa vào sự giúp đỡ của Kelvin. Ngoài giờ học và đi làm ở siêu thị, hầu hết thì giờ còn lại nó ở bên nhà Tin, giúp cho Tin cắt cỏ, tưới cây, nấu ăn,trả bills, làm homeworks và chở Tin vô bệnh viện thăm ông Lâm mỗi ngày. Ngược trở lại, Tin đem lời Chúa rao giảng cho Kelvin. Cuối cùng Kelvin bằng lòng đi nhà thờ mỗi sáng chủ nhật cùng với Tin và tin nhận Chúa là đấng toàn năng, nó tin rằng: nhờ vào đức tin này, cả nhà nó sẽ được cứu rỗi. Cảm động trước tấm lòng nhân hậu, vị tha của Kelvin, Tin đã đem lòng yêu thương nó nhưng Tin cố gắng giữ trong phạm vi bạn bè vì nó biết rằng trừ phi ba nó chết, ba nó sẽ không bao giờ chấp nhân mối tình của nó và Kelvin. Tin mang ơn của Kelvin quá nhiều, không biết bao giờ nó có cơ hôi để trả lại đây? * Trong bệnh viện, ông Lâm như được hồi sinh. Mặc dù nằm bất động nhưng ông nhớ lại câu chuyện xảy ra sáng hôm đó, giống như khúc phim được chiếu lại trước mắt ông : Chờ Tin đi nhà thờ xong, ông gọi điện thoại cho Kelvin sang nhà gặp ông để nói chuyện: -Bác muốn con đừng làm bạn với Tin nữa, hay tốt hơn hết là dọn nhà đi nơi khác. -What 's going on! Tại sao phải dọn nha? Tại sao không được kết bạn với Tin? -Tại vì gia đình con là Mỹ đen? Bác không thích Mỹ đen! -What's the heck! you are racist. Gia đình con mới dọn tới, chưa làm phiền bác điều gì. Tại sao bác lại không thích gia đình con? Ông Lâm nổi nóng: Không thích là không thích! Đừng hỏi tại sao? Mỹ đen tụi bay có máu lạnh, giết người như ngóe. Đồ lười biếng, không chịu đi làm, sống bám vào người khác. Kelvin cố dằn cơn tức giận: - Tin đã từng nói với con: trước mặt Chúa, tất cả mọi người đều bình đẳng, tất cả đều là một trong Chúa Jesus Christ, không phân biêt trắng, đen, chủng tộc, nô lệ hay sang hèn, không phân biệt nam hay nữ. Tất cả mọi người trong chúng ta và muôn loài đều do Chúa tạo dựng ra cho nên bác không được khinh miệt gia đình con. Đen không phải là một cái tội. Ông Lâm trước viễn ảnh sau này có thể bồng những đứa cháu ngoại đen như cục than hầm, ông không kềm được cơn nóng giận vô cớ: -Tụi bay không phải là con người mà là con khỉ. Mầy có coi Michael Jackson hát bao giờ chưa? Một tay bụm chim, nhảy nhót giống hệt như là con khỉ, con khỉ ! Kelvin không còn kềm chế được mình, nổi cơn thịnh nộ, máu nóng dồn lên mặt khi ông Lâm dám đụng đến thần tượng của nó. Nó nhảy xổ vào ông Lâm,đấm vào mặt ông: - Tụi tao không phải là con khỉ mà là con người, là người, là người... Nó điên cuồng phóng chạy về nhà, lấy khẩu súng của ba nó, có gắn bộ phận hãm thanh, nhảy hàng rào vào cửa sau, bắn ông Lâm hai phát, phát đầu tiên trợt ra ngoài, phát thứ hai bắn vào đầu ông Lâm. Ba Kelvin thấy con nổi cơn điên chạy theo ngăn cản nhưng đã quá trễ... Trước khi ngã xuống hôn mê, ông Lâm còn nghe ba Kelvin la lên: Run! run! hurry up, run away! * Chiều nay đi làm về, Kelvin nói Tin nó bận chút chuyện, thăm nuôi ba Tin xong, gọi cho nó, nó sẽ quay trở lại đón Tin về nhà. Tin nhúng khăn nước ấm lau hết mặt mũi và tay chân cho ba. Ông Lâm nằm bất đông, trên người chằng chịt những dây với nhợ dùng để bơm chất bổ dưỡng để nuôi cơ thể ông và bài tiết chất thải ra ngoài .Đột nhiên Tin để ý thấy ngón tay ông co lại, mí mắt nhấp nháy, dấu hiệu ba nó sắp hồi tỉnh. Tin nhào tới đầu giường bấm nút gọi y tá và bác sĩ đến. Ngay sau đó nó gọi cho Kelvin: -Tới bệnh viện nhanh lên Kelvin! Ba Tin sắp tỉnh trở lại rồi, ngón tay và mí mắt đã co giât trở lại. Nhanh lên nghe Kelvin! Kelvin phóng xe như bay về nhà, ba nó đang ngồi coi TV: -Dọn nhà nhanh lên ba! ông Lâm đã tỉnh lại rồi. Ba có cho chủ nhà biết số bằng lái của mình không? -Ba nói với họ là ở tạm ba tháng, sau đó sẽ làm giấy tờ mua dứt luôn cho nên không có đưa bằng lái cho họ. Nhanh như chớp, giống như những lần đi ăn cướp ở tiệm grocery, họ dọn nhà trong vòng hai mươi phút, chỉ dọn những đồ vật có giá trị và quần áo, còn những đồ vặt vãnh, họ bỏ lại hết. Một giờ sau, Tin ngồi trên xe cảnh sát chở nó về nhà. Nó lâm râm cầu nguyện cho những gì ba nó nói không phải là sự thật. Có lẽ ba nó hôn mê đã lâu cho nên tinh thần bất định, quá kỳ thị Mỹ đen cho nên cứ ám ảnh là Kelvin giết mình, không có lý do gì mà Kelvin lại bắn ông Lâm. Rồi nó tự mâu thuẫn với chính mình: chạy lẹ lên Kelvin! Tin không muốn thấy mầy bị tù, dầu gì ba tao cũng đã sống lại. Trốn lẹ lên Kelvin! Mầy là người tốt, tao không muốn thấy mầy tiêu đời trong nhà tù. Rồi nó lại nghĩ: Kelvin không đi đâu hết, Kelvin vẫn còn ở đó, Kelvin là người tốt, Kelvin không có bắn ba Tin, ba Tin chỉ nói bậy trong cơn mơ sảng. Xe cảnh sát ngừng lại, Tin chạy bay vào nhà Kelvin đầu tiên, hai người cảnh sát rút súng ra núp đằng sau xe, sợ hung thủ trong nhà có súng sẽ bắn trả trở lại. Cửa không khóa, Tin mở ra, căn nhà trống rổng. Tin quỵ xuống thảm, hai tay cào cấu lên thảm nấc lên : -Tại sao lại là mầy, Kelvin? Tại sao lại là mầy! Kelvin? Chúa ơi ! Tại sao lại là Kelvin? Sương Nguyễn |
|||||||||
mk
|
|||||||||
IP Logged | |||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 23/Mar/2011 lúc 10:44pm | ||||||||
GIỌT NƯỚC CÁM ƠN
Bác tài nói phải giao xe, và chỉ có dừng xe chút xíu thôi. Em bé gái cúi đầu, mấy giây sau nó lại thành khẩn nói: “Cám ơn bác, bác tài, cháu chỉ ngồi một trạm là một trạm thôi.”
Trong lòng em bé gái có một bí mật nhỏ, bác Chu tài xế rất hiểu điều này. Một lần, hai lần, ba lần, dần dần bác Chu tài xế trở thành thói quen. Cuối tuần trước khi giao xe, thì người cuối cùng phải chở nhất định là cô bé thọt chân trong trường trung học số bốn mươi. Bác tài đem tấm bảng “tạm không chở khách” treo lên, chuyên tâm đợi trước cổng trường. Em bé gái chỉ mười bốn mười lăm tuổi mà thôi, vừa nhìn thấy ông thì giống như con nai nhỏ chạy qua đường, lớn tiếng nói với bạn học “tạm biệt”, bất quá chỉ năm phút đồng hồ là em bé gái xuống xe, câu cuối cùng vẫn là: “Cám ơn bác, bác tài.” Hình như chỉ đợi câu nói ấy, cuối tuần bất kể là đi bao xa thì bác Chu cũng lái xe đến trường. Có lúc giao xe bị phạt, bác ta cũng nhất định chở em bé gái đi một đoạn đường. Thời gian qua rất nhanh, tình hình này tiếp tục thêm một năm nữa, chớp mắt mùa hè của năm thứ hai đã đến. Nhìn em bé gái mang cặp sách thật nặng nề, bác Chu đột nhiên cảm thấy như đánh mất cái gì đó. Bác biết em đã tốt nghiệp phổ thông cấp hai, và nó sẽ học cấp ba ở đâu ?
Em bé gái kinh ngạc tiếp nhận quà, sau đó cúi mình chào bác tài, nói: “Cám ơn bác, bác tài.”
Giữa xấp tiền mỹ kim ấy còn kẹp một tờ giấy nhỏ:“Bác tài, đây là lợi tức của yêu thương, xin bác nhận lấy. Cái vốn vô giá thì vĩnh viễn ở trong lòng cháu. Cám ơn bác, bác tài !”
Linh Mục Giuse Maria Nhân Tài dịch |
|||||||||
mk
|
|||||||||
IP Logged | |||||||||
lo cong
Senior Member Tham gia ngày: 30/Oct/2007 Đến từ: Canada Thành viên: OffLine Số bài: 2596 |
Gởi ngày: 25/Mar/2011 lúc 9:20am | ||||||||
Cuộc Gặp Gỡ Kỷ Diệu
Buổi sáng hôm sau tôi có thói quen thức dậy thật sớm trong lúc mọi người còn say trong giấc ngủ. Tôi mở cửa bước ra ngoài, đi bộ theo con đường Ohio dọc theo bờ sông, rồi tình cờ bước dần về phía bức tường đá đen. Trời còn sớm quá nhưng tôi thấy dưới chân bức tường thấp thoáng bóng ngươi. Bước tới gần hơn tôi bất ngờ nhận ra ông bà già Mỹ hôm qua đang ở đó tự bao giờ. Bà ngồi hẳn xuống đưa tay sờ lên những hàng tên như vuốt ve một vật gì quý giá. LƯU HỒNG PHÚC Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 25/Mar/2011 lúc 10:00am |
|||||||||
Lộ Công Mười Lăm
|
|||||||||
IP Logged | |||||||||
<< phần trước Trang of 14 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |