Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Lịch Sử - Nhân Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Lịch Sử - Nhân Văn
Message Icon Chủ đề: Stephen Hawking :Vũ trụ ra đời 'không nh Gởi trả lời Gởi bài mới
Người gởi Nội dung
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Chủ đề: Stephen Hawking :Vũ trụ ra đời 'không nh
    Gởi ngày: 02/Sep/2010 lúc 9:10pm
 
14:28 GMT - thứ năm, 2 tháng 9, 2010

Stephen Hawking :

Vũ trụ ra đời 'không nhờ vào Thượng Đế'

 
Tranh của Michelangelo vẽ cảnh Thượng Đế tạo ra Adam theo niềm tin của Thiên Chúa giáo
 
 
Giáo sư Stephen Hawking ở Anh nói rằng Thượng Đế (Chúa Trời) không có chỗ đứng trong các học thuyết về sự hình thành Vũ trụ.

Trước đây, ông cho rằng niềm tin về việc có một đấng Tạo hóa thì không có gì bất tương thích với khoa học. Tuy nhiên, trong một cuốn sách mới ra, ông lại kết luận rằng Vụ Nổ Big Bang là hệ quả tất yếu của các quy luật vật lý.

Cuốn 'Sự Tạo dựng Vĩ đại', được giới thiệu từng đoạn trên báo Times, cho rằng không cần thiết viện dẫn đến Thượng Đế để lý giải Vũ trụ.

Ông kết luận: "Sự hình thành một cách tự nhiên chính là lý do khiến cho một thứ gì đó xuất hiện".

 
'Điều kiện của các hành tinh'

Trong cuốn sách mới nhất, nhà vật lý học nổi tiếng nhất của nước Anh thách thức niềm tin của Isaac Newton rằng vũ trụ phải do Thượng Đế tạo dựng chứ không thể nào hiện ra từ chốn hỗn mang.

Nhắc lại chuyện hồi năm 1992 có một một hành tinh được phát hiện ra là quay quanh một ngôi sao khác chứ không phải Mặt Trời trong Thái dương hệ của chúng ta, ông nói:

 
Nhà khoa học Anh, ông Stephen Hawking thách thức Issac Newton
 
 
"Phát hiện này cho thấy sự tụ hội của các yếu tố và điều kiện của các hành tinh của chúng ta - tức là có một Mặt Trời duy nhất, khoảng cách hợp lý giữa Mặt Trời và Trái Đất, và trọng lượng của Mặt Trời - không còn quá quan trọng, và phát hiện này cũng giảm bớt tính hấp dẫn của bằng chứng cho rằng Trái Đất được thiết kế công phu vì loài người chúng ta."

Ông nói thêm: "Vì có định luật như vạn vật hấp dẫn, Vũ trụ có thể tự tạo ra nó từ chỗ không có gì."

"Sự hình thành một cách tự nhiên chính là lý do khiến cho một thứ gì đó xuất hiện thay vì không có gì xảy ra, và là lý do vì sao vũ trụ tồn tại, vì sao chúng ta tồn tại."

"Không cần thiết phải viện dẫn tới Thượng Đế để khiến vũ trụ chuyển động."

Cuốn sách được viết cùng nhà vật lý học Hoa Kỳ, Leonard Mlodinow và sẽ ra mắt bạn đọc ngày 9/9.

Hồi năm 1988, trong cuốn sách bán rất chạy, 'Lịch sử vắn tắt về Thời gian' (A Brief History of Time), GS Hawking từng tỏ ra chấp nhận vai trò của Thượng Đế trong việc tạo dựng Vũ trụ.

Khi ấy ông nói: "Nếu chúng ta tìm ra một học thuyết tổng thể thì đó sẽ là chiến thắng cuối cùng của lý trí con người và khi ấy, chúng ta sẽ biết tư duy của Thượng Đế."

 
 
 
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 02/Sep/2010 lúc 9:16pm
 
 
Stephen Hawking

Stephen William Hawking
Sinh 8 tháng 1, 1942
Oxford, Anh
Nơi cư ngụ Vương quốc Anh
Quốc gia Flag%20of%20the%20United%20Kingdom.svg Anh
Ngành Toán học ứng dụngVật lý
Nơi công tác Đại học Cambridge
Học trường Đại học Oxford
Đại học Cambridge
Các sinh viên nổi tiếng Bruce Allen
Fay Dowker
Malcolm Perry
Bernard J. Carr
Gary Gibbons
Nổi tiếng vì Hố đen
Vật lý vũ trụ
Hấp dẫn lượng tử
Giải thưởng Escudo%20de%20Asturias.png Prince of Asturias Award (1989)
Copley Medal (2006)
 
 
 
 

Cuộc đời của Stephen Hawking qua ảnh

Cập nhật lúc 15h11' ngày 22/04/2009

 

counter(23486);

Là nhà vật lý nổi tiếng người Anh, dù chịu bệnh tật nhưng trí tuệ và cuộc đời của giáo sư Stephen Hawking luôn khiến cả thế giới nể phục.

Hawking sinh ngày 8 tháng 1 năm 1942, tại Oxford, Anh quốc đúng 300 năm sau ngày mất của Galileo. Ông từng theo học ĐH Oxford, ngành vật lý và tốt nghiệp loại xuất sắc. Sau đó ông chuyển đến ĐH Cambridge để tiếp tục theo đuổi luận án tiến sĩ về vũ trụ học. Trong thời gian làm luận án, người ta phát hiện ra Hawking bị mắc một chứng bệnh về thần kinh có tên là bệnh Lou Gehrig: ông gần như mất hết khả năng cử động. Sau này, ông phải phẫu thuật cắt khí quản và không còn khả năng nói chuyện bình thường được nữa. Ông bị gắn chặt vào chiếc xe lăn, chỉ có thể nói được qua một thiết bị tổng hợp tiếng gắn với một máy tính mà ông gõ chữ vào đó.

Lĩnh vực chính của Hawking là nghiên cứu lý thuyết vũ trụ học và hấp dẫn lượng tử. Năm 1971, ông đưa ra các công trình toán học ủng hộ cho lý thuyết Vụ nổ lớn về nguồn gốc vũ trụ: nếu lý thuyết tương đối rộng là đúng thì vũ trụ cần phải có một điểm kì dị, một điểm khởi đầu trong không thời gian. Ông còn cho rằng, sau Vụ nổ lớn, các hố đen nguyên thủy hoặc các hố đen siêu nhỏ được hình thành và chứng minh rằng diện tích bề mặt của hố đen không bao giờ giảm, rằng tồn tại một giới hạn trong quá trình phát xạ khi các hố đen va vào nhau và rằng một hố đen không thể bị tách thành hai hố đen riêng biệt.

Telegraph giới thiệu chùm ảnh về cuộc đời của giáo sư Hawking: 

Stephen Hawking (trái) cùng em gái Mary.



Nhà vật lý Hawking ở độ tuổi 12 (trái) và khi tốt nghiệp ĐH Oxford năm 1962.



Đám cưới của Hawking với Jane Wilde năm 1965.



Hawking cùng vợ và con trai Tim sau buổi lễ nhận bằng danh dự của trường ĐH Cambridge.



Stephen Hawking trong đám cưới với người vợ thứ hai, Elaine Mason năm 1995. Họ đã chia tay sau ba năm chung sống.



Hình ảnh Stephen Hawking tháng 4/1996.



Giáo sư Hawking tại trung tâm nghiên cứu toán học, ĐH Cambridge, tháng 10/2001.



Giáo sư Hawking diện kiến Nữ hoàng Anh trong phòng hòa nhạc ở Cung điện Buckingham, ngày 18/5/2006.



Giáo sư Hawking thử nghiệm cảm giác không trọng lực trên một chiếc máy bay, tháng 4/2007.

Giáo sư Hawking "khai trương" chiếc đồng hồ Corpus tại trường Corpus Christi, thuộc ĐH Cambridge, tháng 9/2008.

Theo Báo Đất Việt (Telegraph)
 
 
 
**
***
 
Đọc thêm về Stephen Hawking :
 
 
 
 
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 02/Sep/2010 lúc 9:30pm
 
 
14:18 GMT - chủ nhật, 25 tháng 4, 2010

Stephen Hawking: 'cần tránh xa người ngoài hành tinh'

Stephen%20Hawking 
Ông Hawking cho rằng "hoàn toàn có lý" khi nghĩ rằng người ngoài hành tinh tồn tại

Người ngoài hành tinh gần như chắc chắn tồn tại nhưng con người phải tìm mọi cách để tránh họ, khoa học gia Stephen Hawking cảnh báo.

Trong loạt chương trình cho Discovery Channel, nhà vật lý thiên văn học có tiếng nói chuyện cho rằng có nền văn minh khác tồn tại là "hoàn toàn có lý".

Nhưng ông cảnh báo rằng người ngoài hành tinh sẽ chỉ đến lấy tài nguyên của Trái đất và lại lên đường.

"Nếu người ngoài hành tinh thăm chúng ta, kết quả khá giống như khi Columbus đổ bộ vào Hoa Kỳ, vốn không phải là điều tốt đẹp với Thổ dân Hoa Kỳ," ông nói.

Stephen Hawkings nghĩ rằng thay vì cố gắng để liên hệ với người ngoài trái đất, con người phải tìm mọi cách để tránh họ.

Ông giải thích: "Chúng ta chỉ cần nhìn vào chính chúng ta để thấy sinh vật thông minh có thể phát triển thành những thứ mà chúng ta không muốn gặp."

Vi khuẩn đơn giản

Trong quá khứ một số tàu thám hiểm đã được phóng lên không gian với những bản khắc hình người và biểu đồ cho thấy vị trí của Trái đất.

Những sóng âm thanh cũng được phóng vào vũ trụ với hy vọng liên hệ được với các nền văn minh khác.

Ông Hawking nói: "Từ những tính toán toán học của tôi, chỉ những con số không thôi làm cho việc nghĩ về người ngoài hành tinh là hoàn toàn có lý.

Gần chúng ta hơn, những bằng chứng rằng cuộc sống có thể tồn tại trên Sao Hỏa đang ngày càng tăng.

Brian Cox, nhà vật lý học thuộc Đại học Manchester

"Thử thách là dự đoán xem người ngoài hành tinh trông sẽ ra sao."

Chương trình của Discovery nói tới các loại người ngoài hành tinh khác nhau trong đó có loại ăn rau cỏ và loài thú săn mồi giống thằn lằn màu vàng.

Nhưng ông Hawking thừa nhận hầu hết sự sống ở đâu khác trong vũ trụ có nhiều khả năng chỉ bao gồm các vi khuẩn đơn giản.

Trong loạt chương trình gần đây của BBC, Kỳ quan của Hệ Mặt trời, Giáo sư Brian Cox, nhà vật lý học của Đại học Manchester cũng cho rằng cuộc sống có thể tồn tại ở đâu đó trong hệ mặt trời của chúng ta.

Ông nói cơ thể sống có thể tồn tại dưới các tảng băng bao quanh Europa, một trong các mặt trăng của Sao Thổ.

Giáo sư Cox nói thêm: "Gần chúng ta hơn, những bằng chứng rằng cuộc sống có thể tồn tại trên Sao Hỏa đang ngày càng tăng.

"Chúng ta sẽ biết chắc chắn khi có thế hệ tàu vũ trụ mới được cải tiến để tìm sự sống và các tàu này được phóng lên các mặt trăng của Sao Thổ và vùng bình nguyên nóng như thiêu đốt của Sao Hỏa."

 
 
 
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 02/Sep/2010 lúc 9:59pm
~::Trích Dẫn nguyên văn từ mykieu

 
14:28 GMT - thứ năm, 2 tháng 9, 2010

Stephen Hawking :

Vũ trụ ra đời 'không nhờ vào Thượng Đế'

 
Tranh của Michelangelo vẽ cảnh Thượng Đế
tạo ra Adam theo niềm tin của Thiên Chúa giáo
 
 
Giáo sư Stephen Hawking ở Anh nói rằng Thượng Đế (Chúa Trời) không có chỗ đứng trong các học thuyết về sự hình thành Vũ trụ.

Trước đây, ông cho rằng niềm tin về việc có một đấng Tạo hóa thì không có gì bất tương thích với khoa học. Tuy nhiên, trong một cuốn sách mới ra, ông lại kết luận rằng Vụ Nổ Big Bang là hệ quả tất yếu của các quy luật vật lý.

Cuốn 'Sự Tạo dựng Vĩ đại', được giới thiệu từng đoạn trên báo Times, cho rằng không cần thiết viện dẫn đến Thượng Đế để lý giải Vũ trụ.

Ông kết luận: "Sự hình thành một cách tự nhiên chính là lý do khiến cho một thứ gì đó xuất hiện".  .........

  
 
 
 
Mời tham khảo thêm : Phật Giáo và Vũ Trụ-Khoa Học .
mk
 
 

ĐỨC PHẬT TRONG CÁI NHÌN CỦA CÁC NHÀ KHOA HỌC.

một thầy tu ẩn danh

 

"Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó". [Albert Einstein].

 

1. Nhân cách vĩ đại của Ðức Phật:


Ðức Phật là hiện thân của tất cả các đức hạnh mà Ngài thuyết giảng. Trong thành quả của suốt 45 năm dài hoằng pháp, Ngài đã chuyển tất cả những lời nói của Ngài thành hành động; không nơi nào Ngài buông thả cái yếu đuối của con người hay dục vọng thấp hèn. Luân lý, đạo đức căn bản của đức Phật là toàn hảo nhất mà thế giới chưa bao giờ biết đến. [Giáo sư Max Miller, Học giả người Ðức].

Không một lời thô bạo nào được thấy thốt ra từ nơi đức Phật trong cơn tức giận, chưa từng có một lời thô bạo được thấy trên môi đức Phật kể cả trong lúc tình cờ. [- Tiến Sĩ S. Radhakrishnan].

Ðiều đáng chú ý nhất nơi đức Phật là sự kết hợp gần như độc nhất của một đầu óc khoa học trầm tĩnh và thiện cảm sâu xa của lòng từ tâm. Thế giới ngày nay ngày càng hướng về đức Phật, vì Ngài là người duy nhất tiêu biểu cho lương tâm của nhân loại. [Moni Bagghee, "Ðức Phật Của Chúng Ta"].

Các bạn thấy rõ Ngài là một nhân vật đơn giản, chân thành, đơn độc, một mình tự lực phấn đấu cho ánh sáng, một nhân vật sống chứ không phải là thần kỳ, tôi cảm thấy có một Người, đó là Ngài. Ngài đã gửi bức thông điệp cho nhân loại hoàn vũ. Có nhiều tư tưởng tuyệt diệu hiện đại của chúng ta rất gần gũi tương đồng với thông điệp của Ngài, tất cả những đau khổ, bất mãn trong cuộc sống, theo Ngài dạy: là do lòng ích kỷ. Lòng ích kỷ có ba dạng: - Một là tham vọng thỏa mãn cảm giác; - Hai là tham vọng muốn bất tử; - Ba là tham vọng thành công và trần tục. Con người trước khi có thể trở nên thanh tịnh, người đó phải ngưng sống theo giác quan hoặc cho riêng chính mình.

Rồi con người đó mới trở thành một bậc đại nhân. Ðức Phật, qua nhiều ngôn ngữ khác nhau, năm trăm năm trước Chúa Christ, đã dạy con người đức tính vị tha. Trong một số chiều hướng Ngài rất gần gũi với chúng ta hơn, và đáp ứng được nhu cầu của chúng ta. Ðức Phật cũng tỏ ra sáng suốt hơn Chúa Christ trong sự quan tâm phục vụ con người và ít mơ hồ đối với vấn đề trường tồn bất tử của kiếp nhân sinh. [- H.G. Wells].

Tôi càng ngày càng cảm thấy đức Thích Ca Mâu Ni gần gủi nhất trong tính cách và ảnh hưởng của Ngài, Ngài là Ðường lối, là Chân lý và là Lẽ sống. [- Giám mục Milman].

2. Trí tuệ siêu việt của Đức Phật


Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, đức Phật tuyên bố sự giải thoát, mỗi con người có thể đạt được do chính bản thân mình trong đời sống của mình trên thế giới mà không cần đến sự giúp đỡ của Thượng đế hay thánh thần nào. Ngài nhấn mạnh về giáo lý như lòng tự tin, thanh tịnh, nhã nhặn, giác ngộ, an lạc và lòng thương yêu nhân loại. Ngài cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết của kiến thức, vì không có trí tuệ thì siêu linh nội tâm không xâm nhập trong đời sống của Ngài được. [- Giáo Sư Eliot, "Phật giáo và Ấn Ðộ giáo"].

Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người". Kiến thức của Ngài rất rõ ràng và độc lập không liên can gì đến thần thoại và hoang đường. Tuy nhiên, nơi đây lại còn cho thấy một hình thức vững vàng, tự nó biểu lộ được một cách rõ ràng và hiển nhiên để cho con người có thể theo Ngài. Vì lý do đó, đức Phật không đòi hỏi phải tin nhưng hứa hẹn kiến thức. [- George Grimm, "Giáo Lý của đức Phật"].

Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, đức Phật khuyến dụ, khẩn cầu và kêu gọi con người không nên làm hại một sanh mạng, không nên dâng lời cầu nguyện, lời ca tụng, hay hy sinh (sanh mạng) cho các Thần linh. Với tất cả tài hùng biện trong sự thuyết giảng của Ngài, đấng Vô Thượng Sư có lần hùng hồn tuyên bố là Thần linh, nói cho đúng, cũng cần đến sự giải thoát cho chính họ. [Giáo Sư Rhys Dadis].

Ðức Phật không giải thoát con người, nhưng Ngài dạy con người phải tự chính mình giải thoát lấy mình, như chính Ngài đã tự giải thoát lấy Ngài. Con người chấp nhận giáo lý của Ngài là chân lý, không phải giáo lý này đến từ nơi Ngài, nhưng vì lòng xác tín cá nhân, thức tỉnh bởi những lời Ngài dạy, trỗi dậy bởi ánh sáng trí tuệ của chính mình. [- Tiến Sĩ Oldenburg, Một học giả Ðức].

Dường như người thanh niên bất diệt, hiền lành, ngồi khoanh chân trên hoa sen thanh tịnh với bàn tay phải dơ lên như khuyên nhủ như trả lời: "Nếu con muốn thoát khỏi sự đau khổ và sợ hãi, con hãy luyện tập trí tuệ và từ bi". [Anatole France].

Sự khác biệt giữa đức Phật và một người bình thường giống như sự khác biệt giữa một người bình thường và một người mất trí. [- Một Văn Hào].

Nếu chúng ta hỏi, chẳng hạn, có phải vị trí một hạt nhân điện tử lúc nào cũng giữ nguyên không thay đổi, chúng ta phải trả lời "không"; nếu chúng ta hỏi có phải vị trí của một hạt nhân điện tử thay đổi theo thời gian, chúng ta phải trả lời "không"; nếu chúng ta hỏi có phải hạt nhân đó đang di động, chúng ta phải trả lời "không". Ðức Phật cũng đã giải đáp như vậy khi có người hỏi tình trạng bản ngã của con người sau khi chết; nhưng những câu trả lời như trên không phải là những câu trả lời quen thuộc theo truyền thống khoa học ở thế kỷ 17 và 18. [J.Robert Oppenheimer].

Nếu một vấn đề nào đó cần được đề ra, vấn đề đó phải được giải quyết trong hài hòa và dân chủ theo đường lối dạy bảo của đức Phật. [- Tổng thống Nehru].

3. Cống hiến của Đức Phật với nhân loại:

Trong thế giới giông tố và xung đột, hận thù và bạo lực, thông diệp của đức Phật sáng chói như vầng thái dương rực rỡ. Có lẽ không bao giờ thông diệp của Ngài lại thiết yếu hơn như trong thời đại của thế giới bom nguyên tử, khinh khí ngày nay. Hai ngàn năm trăm năm qua đã tăng thêm sanh khí và chân lý của thông điệp này. Chúng ta hãy nhớ lại bức thông điệp bất diệt này và hãy cố gắng thi triển tư tưởng và hành động của chúng ta trong ánh sáng giáo lý của Ngài. Có thể chúng ta phải bình thản đương đầu cả đến với những khủng khiếp của thời đại nguyên tử và góp phần nhỏ trong việc khuyến khích nghĩ đúng (Chánh tư duy) và hành động đúng (Chánh nghiệp). [Tổng thống Nehru].

Trên quả địa cầu này, Ngài đem ý nghĩa những chân lý giá trị trường cữu và thúc đẩy đạo đức tiến bộ không chỉ cho riêng Ấn độ mà cho cả nhân loại. Ðức Phật là một nhà đạo đức vĩ đại kỳ tài chưa từng thấy có trên hoàn vũ. [Albert Schweizer, một nhà lãnh đạo triết học Tây Phương].

Sự thanh tịnh của tâm linh và lòng thương yêu tất cả sinh vật đã được dạy dỗ bởi đức Phật. Ngài không nói đến tội lỗi mà chỉ nói đến vô minh và điên cuồng có thể chữa khỏi bởi giác ngộ và lòng thiện cảm. [- Tiến Sĩ Radhakrisnan, "Ðức Phật Cồ Ðàm"].

Ðức Phật không phải là của riêng người Phật tử, Ngài là của toàn thể nhân loại. Giáo lý của Ngài thông dụng cho tất cả mọi người. Tất cả các tôn giáo khai sáng sau Ngài, đều đã mượn rất nhiều các tư tưởng hay của Ngài. [- Một học giả Hồi Giáo].

Khi chúng ta đọc những bài thuyết giảng của đức Phật, chúng ta cảm kích bởi tinh thần hợp lý của Ngài. Con đường đạo đức của Ngài ngay trong quan điểm đầu tiên là một quan điểm thuần lý. Ngài cố gắng quét sạch tất cả những màng nhện giăng mắc làm ảnh hưởng đến cái nhìn và định mệnh của nhân loại. [Tiến Sĩ S.Radhakrisnan,"Ðức Phật Cồ Ðàm"].

Ðức Phật là người cha nhìn thấy đàn con đang vui chơi trong ngọn lửa thế tục nguy hiểm, Ngài dùng mọi phương tiện để cứu các con ra khỏi ngôi nhà lửa và hướng dẫn chúng đến nơi an lạc của Niết bàn. [- Giáo sư Lakshimi Narasu, "Tinh Hoa Của Phật giáo"].

4. Giáo pháp của Đức Phật:

Ðọc một chút về Phật giáo là đã biết rằng hai ngàn năm trăm trước đây, người Phật giáo đã hiểu rõ xa hơn và đã được thừa nhận về những vấn đề tâm lý hiện đại của chúng ta. Họ đã nghiên cứu những vấn đề này từ lâu và đã tìm thấy câu trả lời. [- Tiến Sĩ Graham Howe].

Phật giáo chưa bao giờ ép ai theo dù dưới hình thức nào - hoặc ép buộc ý tưởng và niềm tin đối với người không thích, hoặc bằng bất cứ một sự tâng bốc nào, bằng lừa gạt hay ve vãn, hầu đoạt được thắng lợi để gia nhập vào quan điểm riêng tư của mình. Những nhà truyền giáo của đạo Phật không bao giờ thi đua để dành người quy nạp vào Ðạo như nơi chợ búa. [- Tiến sĩ G. P. Malasekara].

Chỉ nói về Phật giáo thôi, ta có thể xác nhận là tôn giáo này thoát khỏi tất cả cuồng tín. Phật giáo nhằm tạo trong mỗi cá nhân một sự chuyển hóa nội tâm bằng cách tự chiến thắng lấy mình. Nhờ đến sức mạnh và tiền bạc hay cả đến sự chinh phục để tác động mọi người vào đạo thì sao? Ðức Phật chỉ rõ một con đường giải thoát duy nhất để cho cá nhân tự quyết định nếu muốn theo tôn giáo này. [- Giáo Sư Lakshmi Nasaru, "Tinh Hoa của Phật giáo"].

Không thể cho rằng Phật giáo bị suy yếu, ngay hiện tại, vì Phật giáo bắt nguồn trên những nguyên tắc cố định chưa bao giờ bị sửa đổi. [- Gertrude Garatt].

Mặc dù người ta có thể được thu hút từ nguyên thủy bởi sự khoáng đạt của tôn giáo này nhưng người ta chỉ có thể tán dương giá trị thực sự của Phật giáo khi người ta phán xét kết quả tạo ra của tôn giáo này thông qua đời sống của chính mình từ ngày này qua ngày khác. [- Tiến Sĩ Edward Conze, Một học Giả Phật giáo Tây Phương].

Phật giáo là một tôn giáo tự giác, ít lễ nghi. Một hành động được thực thi với chính sự suy tư thì tự nó đã điều kiện hóa để không còn là một nghi lễ. Phật giáo nhìn bề ngoài có vẻ nhiều nghi lễ nhưng thực ra không phải như vậy. [- Tiến sĩ W.F.Jayasuriya, "Tâm lý và Triết lý Phật giáo"].

Là Phật tử hay không phải là Phật tử, tôi đã quan sát mọi hệ thống của các tôn giáo trên thế giới, tôi đã khám phá ra không một tôn giáo nào có thể vượt qua được về phương diện vẻ đẹp và sự quán triệt, Bát chánh đạo và Tứ diệu đế của đức Phật. Tôi rất mãn nguyện đem ứng dụng cuộc đời tôi theo con đường đó. [Giáo sư Rhys Davids].

Trên những giải đất mênh mông của thế giới, vận mệnh nhân loại vẫn còn tồn tại. Rất có thể trong sự tiếp xúc với khoa học Tây phương và cảm hứng bởi tinh thần lịch sử, giáo lý căn bản của Ðức Cồ Ðàm được phục hưng và thuần khiết, có thể chiếm một vị trí phần lớn trong hướng đi của vận mệnh nhân loại. [- H.G.Well].

Lý thuyết của Phật pháp vẫn đứng vững ngày nay không bị ảnh hưởng bởi tiến trình của thời gian và sự tăng trưởng kiến thức, vẫn giữ nguyên như lúc ban đầu bầy tỏ. Dù cho kiến thức khoa học tăng tiến đến thế nào trên chân trời trí óc của con người, trong phạm vi Giáo pháp (Dhamma) cũng vẫn có chỗ để thừa nhận và đồng hóa các khám phá xa hơn nữa. Về phương diện thu hút của lý thuyết nầy không dựa vào các khái niệm giới hạn của các tư tưởng sơ khai, về phương diện khả năng cũng không bị lệ thuộc vào những phủ định của tư tưởng. [- Francis Story, "Phật giáo, Một Tôn Giáo Thế Giới"].

Phật giáo là một phương thức làm sao để đạt được lợi lạc cao nhất từ cuộc sống. Phật giáo là một tôn giáo của trí tuệ mà ở đấy kiến thức và thông minh chiếm ưu thế. Ðức Phật không thuyết giảng để thâu nạp tín đồ mà là để soi sáng người nghe. [- Một Văn Hào Tây Phương"].

"Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học".

"Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó"
.
[Albert Einstein].

 
 
 
mk
IP IP Logged
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.148 seconds.