Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Âm nhạc
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Âm nhạc
Message Icon Chủ đề: Quán Bên Đường Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 2
Người gởi Nội dung
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 07/Jun/2010 lúc 9:39pm

QUÁN BÊN ĐƯỜNG

 

 

 Đặng Văn Nhâm

 
CHUYỆN MỘT BÀI THƠ

 

Mới đây trong một dịp tới Ba Lê, tôi lại có dịp gặp nhạc sĩ Trịnh Hưng. Ngồi trong quán cà phê quen thuộc ấm cúng ở góc đường Tolbiac, qua khung cưả kính chúng tôi nhìn mưa xuân rơi lấm tấm mà chẳng ai nói với nhau một lời nào. Dường như anh Trịnh Hưng cũng đang thả hồn về dĩ vãng theo hương khói cuả tách cà phê thơm với điếu thuốc lá gần tàn. Riêng tôi, lúc bấy giờ những giọt mưa xuân trên đường phố Ba Lê cũng khiến tôi đang bâng khuâng chạnh nhớ đến quê nhà ở Ngọc Hà, Hà Nội, vào thời thơ ấu, mà nay đã hơn nưả thế kỷ trôi qua vẫn chưa từng được một lần về thăm lại.

 

Bỗng anh Trịnh Hưng lên tiếng :

 

_ “Này  anh Nhâm, loạt bài viết về thi sĩ Quang Dũng đăng trên báo Đại Chúng dường như cũng được nhiều độc giả ưa chuộng lắm đấy?!”

 

_ “Đúng vậy. Nhất là những anh chị em lưá tuổi chúng mình là những người thời trai trẻ đã trải qua cuộc kháng chiến muà Thu cuả dân tộc. Có mấy anh chị đã điện thoại cho tôi kể rằng loạt bài Quang Dũng đã khiến các anh các chị ấy bừng sống lại thuở đôi mươi trong không khí kháng chiến, đầy gian nguy nhưng rất hào hùng và lãng mạn ở liên khu 3...”

 

Cuộc đối thoại bất ngờ khựng lại trong giây lát ngắn ngủi. Vì khi nhắc đến cuộc kháng chiến muà Thu cuả dân tộc, bỗng tôi đã chợt nhớ đến một bài thơ tuyệt tác khác cuả thi sĩ Quang Dũng. Tôi hỏi:

 

_ “Ngoài những bài Tây Tiến và Đôi Mắt Người Sơn Tây... tôi nhớ anh Quang Dũng còn có một bài thơ nổi tiếng khác là bài ” Quán Bên Đường”. Nhưng tôi rất tiếc chỉ còn nhớ được lõm bõm. Không biết anh có nhớ hết không? Và anh có biết vì sao mà anh Quang Dũng đã làm nên bài thơ đó không?”

 

_ “Tôi thuộc lòng bài ấy không sót một chữ ”. Anh Trịnh Hưng đáp. Và dường như khi tôi hỏi đến nguyên nhân tạo ra bài thơ “Quán Bên Đường” đã bất ngờ chạm đúng vào một đầu mối ẩn ức đã chất chứa thầm kín lâu năm trong tâm tư cuả anh, nên anh đã tuôn ra thẳng một tràng những chuyện liên quan đến bài thơ này. Anh hậm hực nói:

 

_ “Anh Quang Dũng đã làm bài thơ đó là do cám cảnh cuộc đời cuả một trang giai nhân tuyệt sắc mà đa truân, bị trôi nổi trong giòng định mệnh  cùng với những sóng gió dồn dập cuả lịch sử dân tộc. Nhưng hiện giờ trang giai nhân ấy đã trở thành một lão bà hãy còn sống ở Mỹ, trong mái gia đình ấm cúng với con cháu...

 

Nhắc đến chuyện này tôi lại bực hai tên Duyên Anh và Lô Răng Phan Lạc Phúc đã viết bậy viết bạ. Không biết thì thôi đi...”

 

Ngừng một lát  như để ôn lại ký ức, anh Trịnh Hưng kể tiếp:

 

_ “Năm 1993, khi tôi mới qua Pháp tị nạn được vài năm, tôi có đọc một bài của Duyên Anh viết về Quang Dũng đăng trên một tờ báo nọ ở Wichita, HK. Trong bài này, Duyên Anh có đề cập đến bài Quán Bên Đường. Nhưng anh ta lại chú thích thêm ra điều thông thạo là thi sĩ Quang Dũng đã sáng tác bài Quán Bên Đường nhân một chuyến đi công tác qua tỉnh Tuyên Quang, vào nghỉ uống nước cuả một cô chủ quán người Hà Nội. Vì cuộc gặp gỡ với giai nhân hôm đó mà thi sĩ Quang Dũng đã cảm tác nên bài thơ ấy.

 

Đọc xong, tôi nghĩ là Duyên Anh chưa hề gặp và không biết mặt mũi Quang Dũng như thế nào.Vì năm đó Duyên Anh mới chừng lên chín hay lên mười gì đó, còn mặc quần đùi, chạy đánh đinh đánh đáo ở nhà quê thôi. Về sau này, lớn lên, Duyên Anh mới có dịp đọc bài thơ đó rồi tự ý suy diễn ra và cứ tưởng là vào thời kháng chiến ai cũng đều ở Việt Bắc cả!...

 

Trường hợp thứ hai, cách nay vài năm, tôi lại được đọc tờ bào Ngày Nay ở Texas có ông Lô Răng viết về Quang Dũng với bài thơ Quán Bên Đường, và vẫn chú thích giống như Duyên Anh, trong mục tản mạn muà hè. Đọc bài của Lô Răng tôi cũng biết ngay là anh này cũng chưa từng quen biết gì Quang Dũng hết cả, và chỉ nghe ai đó đọc lại bài đó. Nhưng tai hại ở chỗ là: người đọc bài thơ cuả Quang Dũng cho Lô Răng chép lại nhớ sai một vài chỗ và bỏ sót cả một đoạn. Thành thử bài thơ do Lô Răng cho in trên tờ Ngày Nay đã chẳng ra làm sao cả.

 

Về sau tôi có gặp anh Lô Răng ấy một lần vào ngày sinh viên làm kỷ niệm 50 năm quốc kỳ VN. Hôm ấy sinh viên có nhờ tôi làm cho một bài ca chính thức để đem ra ca hát. Sau khi sinh viên đã hát xong bản nhạc cuả tôi, bỗng tôi thấy có một anh cũng gần tuổi tôi đem bản nhạc lại xin tôi chữ ký và xưng danh là ký giả Lô Răng. Dịp này tôi mới nhớ lại bài anh ấy viết về Quang Dũng cùng với bài thơ Quán Bên Đường mà anh ta đã trích đăng trên báo Ngày Nay. Tôi liền hỏi thẳng:

 

_ “Chắc anh không có quen biết gì Quang Dũng phải không?”

 

 Anh ta gật đầu.

 

Sau đó tôi mới nói cho anh ta biết hai điều: Trước hết anh ta đã viết sai về người đàn bà trong Quán Bên Đường, kế đó là anh đã chỉ nghe người ta đọc lại bài thơ ấy, nên anh đã ghi chép sai sót nhiều chỗ quan trọng. Như vậy, coi như là anh ta đã tự tiện sửa thơ cuả Quang Dũng rồi. Tiện thể tôi cũng đã cho anh Lô Răng biết tôi là người em kết nghĩa cuả anh Quang Dũng. Tôi đã từng ở chung với anh Quang Dũng trong kháng chiến. Hơn thế nưã, tôi còn quen biết rất thân cả với cô gái chủ quán mà anh Quang Dũng đã tặng bài thơ đó. Ngoài ra, tôi còn cho  anh Lô Răng biết thêm: Hiện thời người phụ  nữ nhan sắc chủ quán bên đường ấy đang còn sống sờ sờ ở HK mà anh lại viết là thi sĩ Quang Dũng đã làm bài thơ đó để tặng cho một cô gái nào đó ở Tuyên Quang, chắc sẽ làm cho bà ta buồn lắm!”

 

Lại ngưng thêm một lát nưã rồi anh Trịnh Hưng mới nói tiếp:

 

_ “Bây giờ nhắc lại chuyện này, tôi có ý muốn kể hết đầu đuôi lịch sử bài thơ Quán Bên Đường cùng với mối tình thơ mộng, nhưng đầy rẫy ngang trái, và cuối cùng đã chấm dứt một cách bi thương trong máu và nước mắt giưã khung cảnh đổ vỡ hoang tàn, xác xơ của cuộc chiến chống ngoại xâm cuả dân tộc, để anh  viết lại cho hậu thế và ghi một bằng chứng xác thực cho lịch sử văn học thời kháng chiến. Vì ngoài những sai lầm cuả Duyên Anh và Lô Răng như đã nói, tôi còn nghe ở Mỹ có kẻ đang kiếm ăn bằng cách quật mồ các văn nghệ sĩ tài danh đã quá cố, sẽ khai thác chuyện của Quang Dũng để kiếm tiền. Tôi sợ bọn con buôn chữ nghiã ấy, vì không biết gì về Quang Dũng, sẽ viết bậy viết bạ, khiến cho đau lòng những người trong cuộc còn sống - như chị Nhật Akimi, một giai nhân hồng nhan đa truân -, và làm tủi vong linh người đã quá cố.

 

Tôi đặc biệt ký thác chuyện này cho anh, và hy vọng sau khi đã hoàn tất toàn bộ, anh sẽ cho quyển sách viết về Quang Dũng, với tất cả sự thật không ai có được, ra đời để độc giả  hải ngoại thưởng lãm.  

 

 

 

CHIẾC QUÁN BÊN ĐƯỜNG

 

Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi ấy, anh Trịnh Hưng đã viết vội cho tôi cả một tập giấy hàng mấy chục trang chi chít, kể đầy đủ về lai lịch cuả bài thơ bất hủ Quán Bên Đường cuả thi sĩ Quang Dũng cùng với tất cả những tình tiết éo le cuả người đẹp Akimi, chủ nhân một ngôi quán lá nghèo xác xơ đã dựng vội bên bờ đê sông Đáy để đón khách qua đường, hay những chàng trai anh hùng ra đi theo tiếng gọi cuả núi sông.

 

Quán bên đường

 

Tôi lính qua đường trưa nắng gắt

Nghỉ nhờ đây quán lệch tường xiêu.

Giàn mướp nghèo không hưá hẹn bao nhiêu

Muà gạo đắt đường xa thưa khách vắng .

 

Em đắp chăn dầy, tóc em chĩu nặng

Tôi mồ hôi ra ngực áo chan chan

Đường tản cư bao suối lạ sương ngàn

Em mê sảng sốt hồng lên đôi má.

 

Em có một mình nhà hoang vắng quá

Mảnh chăn đào, em đắp có hoa thêu

Hàng cuả em chai lọ xác xơ nghèo

Tôi nhìn lại mảnh quần xưa đã vá.

 

Tôi chợt nhớ chúng ta không nhà cưả

Em tản cư, tôi là lính tiền phương

Xa Hà Nội cùng nhau từ một thuở

Lòng rưng rưng thương nhau quá dọc đường

 

Tiền nước trả em rồi, nắng gắt

Đường xa xa mờ núi và mây

Hồn lính vương qua vài sợi tóc

Tôi thương, mà em đâu có hay !

 

Quang Dũng

 

 

 

Từ bài thơ Tây Tiến, Đôi Mắt Người Sơn Tây, Đôi bờ đến bài thơ này, Quang Dũng đã nói lên tất cả tình cảm đích thực cuả con tim mình. Trong thơ Quang Dũng, ta thấy có nhiều nhạc tính. Điều này cũng dễ hiểu vì chẳng những tác giả đã thạo về âm nhạc cổ điển VN lại giỏi cả âm nhạc Tây phương. Hơn thế nưã, đọc thơ Quang Dũng, tùy theo nội dung cuả mỗi bài, ta còn có thể hình dung ra được cả những bức tranh linh động đã được mô tả bằng lời, đúng như cổ nhân đã nói:” Thi trung hữu họa, hoạ trung hữu thi” (trong thơ có hoạ, trong hoạ có thơ). Đây là câu nói của cổ nhân đã khen Vương Duy, còn gọi là Vương Ma Cật, vốn là một thiên tài xuất chúng, vưà làm thơ rất hay lại vẽ rất đẹp. Đọc thơ ông trong tác phẩm “Võng Xuyên” người ta tưởng như đang  xem một bức tranh tuyệt tác linh động.

 

Ta nên biết, trước kia, khi còn là sinh viên, Quang Dũng đã từng theo đuổi môn hội hoạ ở trường cao đẳng Mỹ Thuật ở Hà Nội cùng với Nguyễn Tường Tam.

 

Đó là nói về hình thức và bút pháp cuả thi sĩ, còn về phần nội dung, ai cũng phải nhìn nhận bài thơ Quán Bên Đường đã biểu lộ trung thực một tình cảm thanh cao và đẹp đẽ cuả người nghệ sĩ chân chính. Bởi thế nên đã có nhiều người từng thuộc nằm lòng bài thơ này, không sót một chữ.

 

 

 

NGƯỜI ĐẸP CHỦ QUÁN LÀ AI?

 

Theo lời nhạc sĩ Trịnh Hưng, vốn đã quen biết thân tình với tất cả những nhân vật liên hệ tới chiếc quán nghèo bên đường thời kháng chiến ở liên khu 3 kể lại thì, người đẹp chủ cái quán lệch tường xiêu kia là một thiếu phụ năm ấy mới khoảng ngoài 20 tuổi. Nhưng không ngờ giai nhân lại còn trẻ hơn tuổi đời rất nhiều. Nhìn dung nhan và thân thể cuả nàng không một ai có thể đoán được nàng đã có đến ba con!  

 

Đến cả danh tánh cuả nàng cũng khá đặc biệt. Khuê danh nàng là : Nhật với ngoại hiệu là Akimi. Nhưng không hiểu tại sao hầu hết những người quen biết thường gọi nàng là Akimi chứ không mấy ai chịu dùng đến khuê danh cuả nàng. Lai lịch cuả cái tên thuần tuý Phù Tang ấy chúng tôi sẽ đề cập đến trong một chương sau. Bây giờ ta hãy biết, ngay từ khi khởi đầu cuộc kháng chiến muà Thu của toàn dân Việt, xã hội VN đã trải qua nhiều biến chuyển trọng đại ảnh có tầm hưởng sâu xa đến cuộc sống cuả nhiều gia đình và làm thay đổi  cuộc đời cuả nhiều con người, nhất là giới phụ nữ nhan sắc chân yếu tay mềm. Trong số đó có người đẹp tên Akimi. Nàng vốn là gái thị thành, nhưng gặp buổi loạn ly, nàng đã trôi giạt về đây từ năm 1947, mở quán nước bên đường làm kế sinh nhai. Chiếc quán lá đơn sơ cuả nàng đã được dựng vội lên bên bờ đê con sông Đáy, mà tên địa phương gọi là Kinh Đào, thuộc tỉnh Hà Đông, phủ Ứng Hoà.

 

Trước quán cuả nàng là con sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc. Bên kia sông là làng Tía Từ Dương, một làng quê trù phú, nơi thường họp những phiên chợ lớn nhất trong vùng. Vì thế nơi đây còn có một bến đò tấp nập đưa khách sang sông họp chợ. Bến đò này gọi là bến đò Tiá. Qua bên làng Tiá, đi độ gần một cây số nưã, người ta tới một xóm đạo có một ngôi nhà thờ lớn gọi là Cả Miêng. Nếu người khách bộ hành vui chân đi thêm một cây số nưã thì tới Quán Tròn, nơi quê hương cuả ông Bùi Tín. Nhưng nếu người ta còn đủ sức đi thêm hai cây số nưã, thì sẽ đến thị trấn Vân Đình. Nơi đây, lúc bấy giờ, đang có rất đông người Hà Nội tản cư sinh sống và buôn bán khá sầm uất.

 

Ngoài tấm nhan sắc xinh đẹp trời cho với làn tóc mây óng ả đen mượt phủ xuống tận gót chân, mỗi khi tắm gội nàng đã phải đứng trên giường cao để chải tóc mà ngọn tóc vẫn còn chấm đất, Akimi lại còn tỏ ra là người hiền hậu, vui tính và nói chuyện có duyên, nên đã được rất nhiều người yêu mến. Riêng giới thanh niên thời bấy giờ, ai đã gặp nàng một lần đều không khỏi có cảm giác ngất ngây và nhận ra rằng quả thực “má hồng không thuốc mà say”!

 

Nhưng phần đông thanh niên đã ”trồng cây si ” chung quanh Akimi, trong chiếc quán nghèo bên con sông Đáy ấy, đều là những chàng trai Hà Nội đã ra đi theo tiếng gọi cuả sơn hà nguy biến. Thậm chí có người đang phục vụ ở các cơ quan xa xôi, mỗi lần đi công tác, nghe đồn bên bờ đê sông Đáy có chiếc quán lá vách đổ tường xiêu cuả Akimi, người đẹp Hà Nội, cũng phải cố tìm mọi cách tạt vào quán, nghỉ chân trong giây lát, để thưởng thức dung nhan cuả nàng, và trao đổi vài câu chuyện vu vơ, uống ly cà phê hay phì phèo điếu thuốc Cotab từ vùng tề gửi ra...

 

Kỳ 7

chiếc ”quán bên đường” đã lập ra từ khoảng đầu năm 1947, nhưng cho mãi đến cuối năm 1948, tức hơn một năm sau, trung đoàn cuả tôi mới về đóng quân gần đó. Nhờ vậy tôi mới có dịp quen biết người đẹp Akimi.

 

Nơi đây là một vùng quê xa các thị trấn đông đúc dân cư, nên chiếc quán nghèo cô đơn cuả chị, người đẹp nổi tiếng cuả Hà Thành hiển nhiên đã trở thành một tụ điểm thu hút rất nhiều trang thanh niên trí thức từ bỏ gia đình theo tiếng gọi cuả núi sông trong trung đoàn cuả chúng tôi. Sở dĩ tôi gọi Akimi bằng chị vì năm đó tôi hãy còn là một chàng trai mới lớn lên, vưà đến tuổi thành nhân. Trong khi đó chị Akimi đã vào khoảng 23-24 tuổi.

 

Mặc dù vậy, trông chị vẫn hãy còn trẻ măng, tưởng chừng hãy còn đôi tám, và nhìn sắc diện bên ngoài, quả thực không một ai dám ngờ năm ấy chị đã có đến 3 con.

 

..

 

Chiều chiều, những khi nhàn rỗi, anh em chúng tôi thường rủ nhau đến quán cuả chị để uống cà phê, hay mua thuốc lá ngoại, hiệu Cotab, là một thứ thuốc thơm đặc biệt , rất hiếm , rất đắt hồi bấy giờ, ở trong vùng tề đem ra bán lậu. Lần đầu tiên đến quán chị, thấy chị đẹp và vui vẻ, nên tôi lân la hỏi chuyện làm quen , thì không ngờ được biết chị vốn là em ruột cuả anh Lân, người đã dạy chúng tôi hát ở đội Thiếu Niên Tiền Phong trước kia. Nhờ thế, tôi đã có thể làm quen với chị rất dễ dàng và mau chóng trở nên thân tình với chị sau này.

 

Không lâu sau, đến khoảng đầu năm 1949, anh Quang Dũng đã không còn ở trung đoàn Tây Tiến nưã, mà được chuyển về làm trưởng phòng văn nghệ cuả liên khu 3. Về phần tôi, lúc bấy giờ thuộc đội tuyên truyền cuả một trung đoàn nằm dưới hệ thống chỉ huy trực tiếp cuả bộ tư lệnh liên khu, nên tôi đã có dịp thường gặp anh Quang Dũng. Trong thời gian này, vì nhiệm vụ , anh Quang Dũng cũng thường đến thăm đội tuyên truyền cuả chúng tôi để hướng dẫn và bổ khuyết các thiếu sót trong công tác. Tôi còn nhớ một hôm anh Quang Dũng đến thăm đội cuả chúng tôi như thường lệ. Nhưng lần này anh lại đưa cho chúng tôi xem bản nhạc “Ba Vì” cuả anh mới sáng tác, đồng thời còn hát luôn cho chúng tôi nghe. Thấy bài hát hay quá, nên trong đội lúc bấy giờ có cô em gái là Kim Ngọc, một con chim hoạ mi cuả đội, liền đòi anh Quang Dũng phải dạy cho cô hát ngay bài hát ấy. Không ngờ chỉ 15 phút sau, Kim Ngọc đã hát rất vững và rất hay, lại còn cực tả được tinh thần cuả bài hát, nên anh Quang Dũng đã tỏ ra rất vui , và không ngớt lời khen ngợi chúng tôi.[xin xem đoạn viết thêm về Kim Ngọc, do nhạc sĩ Trịnh Hưng kể, sẽ đăng vào cuối truyện].

 

Đến chiều hôm đó, vào lúc nghỉ ngơi, anh Quang Dũng đã nói riêng với tôi và một người bạn nưã làm đội trưởng đội cuả tôi (còn tôi là đội phó), là hôm nay anh rất vui, vì thấy đội cuả chúng tôi đã cố gắng vượt bực để đạt được nhiều thành quả tốt đẹp. Dịp này anh muốn khao chúng tôi một chầu uống tại quán cuả chị Akimi.

 

Nói rồi, anh hỏi:

- “Chắc mấy chú đã biết quán ấy rồi chứ?”

-  “Dạ, vâng. Tuị chúng em mấy tháng nay đóng quân ở đây, gần quán , nên thỉnh thoảng cũng đã đến đó.”

 

Đến khoảng 7 giờ tối, anh Quang Dũng dắt chúng tôi ra quán đó. Trên đường đi, trong thâm tâm tôi cứ nghĩ , chắc anh Quang Dũng chỉ mới nghe tiếng quán cuả chị Akimi thôi, chứ chưa bao giờ có dịp đến đó. Nên lần này, anh mượn dịp để cùng đi với chúng tôi đến đó cho vui. Nhưng thực là hoàn toàn bất ngờ. Tôi không dè chẳng những anh Quang Dũng đã biết quán đó rất rành , lại còn đã quen rất thân tình với chị Akimi.

 

 

 

Mới bước chân vào quán, lúc đó chị Akimi đang bận tắm cho con ở đằng sau nhà, anh Quãng Dũng mới cất cao giọng âu yếm lên tiếng gọi :

-  “Akimi! Akimi!”

Đằng sau nhà, tuy chưa thấy mặt người khách gọi tên mình, nhưng có lẽ đã quen thuộc lắm với giọng cuả anh Quang Dũng, nên chị Akimi đã lên tiếng đáp rất dễ thương :

-  “Dạ, có em đây!”

Nói xong , chị vội vàng chạy ngay ra ôm chầm lấy Quang Dũng, và tươi cười, mừng rỡ hỏi:

-  “Anh đi đâu mà cả mấy tháng nay em không thấy mặt, làm cho em lo và mong anh quá!”

 

Anh Quang Dũng nhẹ nhàng từ từ gỡ tay chị Akimi ra vui vẻ nói:

-” Từ liên khu bộ xuống đây quá xa, lại thêm mấy tháng nay anh bận công tác liên miên. Cũng có vài lần đi công tác ở ngoài, nhưng lại ngược đường, nên đã không sao ghé thăm em được! Hôm nay, nhân tiện xuống thăm đội tuyên truyền thuộc trung đoàn cuả hai chú em đây, anh mới dẫn hai chú ra thăm em và khao hai chú một chầu. Chắc em đã biết hai chú đây rồi chứ nhỉ?!”

 

-” Ôi, hai chú này thì còn lạ gì quán cuả em. Các chú ấy thường ra đây chơi và uống nước luôn...Nhưng em không được biết hai chú lại ở trong đội tuyên truyền. Ở trong ban tuyên truyền thì chắc các chú ấy phải giỏi đàn , ca lắm nhỉ?!”

 

Ngưng một chút, chị lại liến thoắng nói tiếp ngay:

-” Lần sau anh đến, anh nói với các chú ấy mang theo đàn ra đây đàn hát cho vui. Vì cả mấy năm nay, em không được nghe tiếng nhạc... Nhớ lắm!...”

 

Thế rồi chị vui vẻ săn sóc anh Dũng như là một cô em gái lâu ngày gặp lại người anh trai đi xa mới về.Chị pha cà phê cho anh Dũng. Còn tụi tôi thì chị làm cho 2 ly trứng đường. Vì chị biết chúng tôi không bao giờ uống cà phê, mà chỉ uống trứng đường cho khoẻ thôi. Rồi chị lại còn mang thuốc lá Cotab ra mời anh Dũng và chúng tôi nưã.

 

Trong khi chúng tôi mải lo uống trứng đường và phì phà điếu thuốc lá thơm Cotab, thì anh Dũng và chị Akimi ngồi ra một chỗ khuất, chụm đầu nói chuyện riêng với nhau, trông có vẻ rất âu yếm, thân tình.

 

Một lát sau, đến lúc phải ra về, anh Dũng đứng dậy móc tiền ra trả, nhưng chị Akimi xua tay, nhất định không nhận và nói:

- ” Hôm nay em thết anh và hai chú đó ! ”

 

Ngược lại, anh Dũng cũng quyết không chịu thua, nói:

-” Lúc này anh có tiền. Anh muốn gửi em để em bù vào nuôi các cháu. Nếu em không nhận , anh giận sẽ không bao giờ đến nưã đâu!”

 

Nghe anh Dũng dọa già sẽ không bao giờ đến nưã, chị Akimi chùn lòng , đành phải miễn cưỡng cầm lấy món tiền anh Dũng trao cho.

 

LAI LỊCH MỘT CÁI TÊN ĐƯỢM MÙI VỊ PHÙ TANG TAM ĐẢO

 

Khi chúng tôi về đến cơ sở thì trời đã tối lắm rồi. Cuộc đi chơi chiều hôm nay thật là vui trọn vẹn, nhưng riêng tôi vẫn còn thắc mắc nên tò mò hỏi anh Dũng:

-” Tại sao em vẫn thấy các anh trong trung đoàn và cả anh nưã , ai cũng gọi chị Nhật là Akimi?”

 

Anh Dũng nhìn tôi cười , rồi mới thong thả giải thích về biệt danh ” Akimi” cuả chị Nhật:

-” Chắc mấy chú còn nhớ, trước khi cách mạng muà Thu bùng nổ, tất cả mọi quyền hành ở VN , chẳng cứ gì thủ đô Hà Nội cuả chúng ta, đều nằm gọn trong bàn tay cuả quân đội Nhật. Lúc này, tụi thực dân Pháp đã bị Nhật đảo chánh rồi. Tụi Nhật mới ra lịnh đóng cưả hết các khiêu vũ trường (bar dancing).

Đó là một trong số những biện pháp an ninh, nhắm chấm dứt những cuộc hẹn hò gặp gỡ nhau, thường là để thông tin bí mật hay âm mưu chánh trị giưã nhóm người làm cách mạng, hay hạng thượng lưu giàu có thân Pháp với người Pháp, ở những nơi công cộng trước mũi cuả quân đội Thiên Hoàng.

 

Đồng thời biện pháp đóng cưả các khiêu vũ trường cũng khiến cho một số người VN thuộc hạng trí thức trung lưu, ham chơi bời, không được tiếp tục hưởng thú tiêu khiển ấy nưã.

Nhưng trong khi đó, ngược lại, tụi Nhật chỉ cho phép một tiệm nhảy lớn duy nhất, tên Takara, ở đường Khâm Thiên được tiếp tục hành nghề, với điều kiện chỉ dành riêng cho cho các sĩ quan Nhật Bản, từ cấp úy tới cấp tướng, làm nơi giải trí. Ngoài ra, không một ai được phép bén mảng đến, kể cả đám lính Thiên Hoàng.

 

Lúc bấy giờ chị Nhật còn là một cô gái mới lớn lên, đang tuổi dậy thì, lại rất xinh đẹp, như một đóa hoa hàm tiếu. Không hiểu nguyên nhân nào, vì thời cuộc chánh trị, vì lý do gia cảnh , tình duyên ngang trái, lỡ làng, hay vì lý do kinh tế ... đã đưa đẩy tấm hồng nhan, đào tơ mơn mởn ấy lạc bước vào chốn vũ trường.

 

Chị Nhật vào làm vũ nữ ở Takara. Tụi sĩ quan Nhật thằng nào gặp chị cũng đều mê mẩn tâm thần như ăn phải bả. Chúng tôn sùng chị như thần tượng , nên đã nhất trí đặt cho chị cái danh hiệu ”Akimi”.

Anh không biết tiếng Nhật, nên không hiểu ý nghĩa cuả chữ ” Akimi” là gì. Nhưng anh, cũng như một số bạn VN khác, đều thầm đoán chữ Akimi có nghiã là: Giai nhân, hoa khôi, hay người đẹp gì đó...

 

Từ đó về sau, bắt chước bọn sĩ quan Nhật, người VN nào cũng gọi chị là Akimi.

Còn cái khuê danh ” Nhật ” cuả chị thì đã bị người đời bỏ quên hẳn, chẳng ai buồn nhắc đến nữa !”

 

Ngừng một lát, anh Quang Dũng lại kể tiếp:

-” Trong thời gian này, anh đâu có ở Hà Nội mà còn đang ở bên Tàu. Nhưng ngay khi cuộc tản cư vưà bắt đầu, anh đã có dịp đến quán cuả chị để uống cà phê. Từ đó anh quen với chị. Rồi lâu dần hai người trở nên thân nhau. Kể từ ngày mới quen biết cho đến nay anh luôn coi chị Akimi như một cô em gái.

Ngược lại, anh nhận thấy Akimi cũng coi anh như một người anh ruột. Vì thế đã có lần anh được nghe chị Akimi kể chuyện tâm sự về đời tư cuả chị ấy. Nghe chuyện cuả chị , anh càng thương mến và cảm phục chị hơn, một người thiếu nữ VN vốn có tinh thần dân tộc rất cao.

 

Chị Akimi đã kể:

-” Khi mới vào làm ở Takara, nhờ trẻ đẹp, chị được coi như một hoa khôi cuả vũ trường. Các tướng tá Nhật đều mê chị, đưá nào cũng muốn chiếm đoạt được thân xác cuả chị. Chúng nó đua nhau tặng quà cáp, để mong lấy lòng chị. Dĩ nhiên vì nghề nghiệp, ngoài mặt , chị luôn luôn phải tươi cười niềm nỡ với mọi người; nhưng thực sự trong lòng chị hoàn toàn dửng dưng đối với tất cả bọn chúng nó. Thậm chí có mấy tên tướng Nhật, đã mê chị đến nỗi quên cả thân danh, thường lui tới với chị, đem tiền bạc và danh vọng ra nhử chị, và đề nghị xin cưới chị về làm vợ đàng hoàng. Trong trường hợp đó, nếu chị là người đàn bà ham tiền bạc, danh vọng và quyền uy, muốn được ăn sung mặc sướng , có nhà cao cưả rộng, dinh cơ sang trọng , có quân hầu đầy tớ, xe cộ đưa rước long trọng...thì chị chỉ cần gật đầu một cái là xong. Nhưng không hiểu vì sao, trong lòng chị vốn đã không ưa tụi Nhật, mà hằng ngày chị lại thấy cách hành xử cuả chúng đối với dân ta quá ác độc, nên chị đã cương quyết khước từ hết.

Hằng đêm chị chỉ lo làm việc , để kiếm tiền về nuôi cha mẹ già thôi! Nhưng một khi đã sinh ra làm kiếp người, nhất là một người con gái nhan sắc mặn mà, xinh đẹp, làm sao thoát khỏi vướng vòng tình luỵ.

 

Thế rồi chị đem lòng yêu một thanh niên VN.Hai người đã chung sống với nhau những ngày hạnh phúc và sinh hạ được một đưá con. Khi đứa bé vưà qua tuổi thôi nôi, bỗng hai vợ chồng sinh ra bất hoà.

 

Một hôm, người chồng đã lặng lẽ bỏ đưá con còn măng sưã lại cho người vợ trẻ nuôi dưỡng, ra đi biệt tích. Từ đó, cuộc đời cuả chị càng thêm quẫn bách. Chị vẫn phải tiếp tục cuộc đời vũ nữ để kiếm tiền nuôi thân , nuôi con và nuôi cha mẹ.

 

Qua năm sau, gặp một thanh niên VN khác, chị mong tìm được nơi người bạn trai này một cơ hội tốt để chắp nối cuộc tình vưà gẫy đổ. Hai người lại ăn ở với nhau có được thêm một đưá con nưã. Nhưng hình như số kiếp cuả chị vốn chẳng khác nàng Kiều cuả cụ Nguyễn Du bao nhiêu, hồng nhan đa truân, má hồng phận bạc...

 

Và định mệnh kiếp người cuả chị hầu như đã được tạo hoá an bài từ trước” Bắt phong trần , phải phong trần. Cho thanh cao mới được phần thanh cao !”.

Vì thế cũng chỉ hơn một năm sau, cuộc tình lần thứ nhì lại gẫy đổ bất ngờ như lần thứ nhất. Và người đàn ông thứ nhì trong cuộc đời cuả chị lại cũng ra đi không bao giờ trở lại !

 

Bấy giờ mới khoảng 20 tuổi đầu, đã trải qua hai đời chồng và có hai con phải nuôi dưỡng, nhưng nét mặt xinh đẹp cuả chị vẫn còn trẻ măng như một thiếu nữ mới mười tám. Bấy giờ bọn sĩ quan Nhật vẫn còn tiếp tục bám sát chị, và vẫn còn tiếp tục sẵn sàng cung hiến cho chị những đề nghị như xưa. Tuy chị vốn là một người con gái có tâm hồn đa tình và đa cảm; nhưng một khi chị đã nhất quyết rồi thì không có gì lay chuyển được.

 

Vơí cái tuổi đôi mươi, tràn đầy nhựa sống, mặc dù trái tim non cuả chị còn đang rướm máu vì hai vết thương lòng đau đớn, nhưng chị vẫn còn tha thiết yêu đời và yêu người. Rồi chẳng bao lâu sau, chị lại đem tấm lòng sắt son gửi đến một chàng trai VN khác.

 

Lần này hai vợ chồng chị Akimi đã sống rất hoà thuận và hạnh phúc. Ai cũng ngỡ cái hạnh phúc tầm thường cuả một gia đình nhỏ bé, sống rất khiêm nhường ấy sẽ được bàn tay nhân từ cuả thượng đế hộ trì cho qua cơn sóng gió cuả giòng đời ác nghiệt. Nhưng không ngờ chẳng bao lâu sau cuộc cách mạng tháng 8 bùng nổ. Các khiêu vũ trường ở Hà Nội đều phải đóng cưả.Chị Akimi bị thất nghiệp. Nhưng nhờ vào số tiền vốn chị đã tằn tiện, chắt chiu, dành dụm được trong những năm tháng đi làm, nên cái gia đình bé nhỏ cuả chị cũng tạm sống lây lất qua ngày.

 

Trong thời gian này, quân Nhật đã đầu hàng và quân viễn chinh Pháp đã theo chân đoàn quân đồng minh Anh-Ấn đến Sài Gòn, với mưu toan thiết lập lại nền cai trị trên toàn cõi Đông Dương. Hành động tái xâm lăng này cuả thực dân Pháp đã khích động tinh thần yêu nước cuả toàn thể dân Việt, từ Bắc chí Nam , không phân biệt nam, phụ, lão, ấu...đồng thời tạo nên một làn sóng kháng chiến trong các giới thanh niên nam, nữ trên toàn quốc mạnh như vũ bão.

 

Hưởng ứng phong trào kháng chiến đánh đuổi thực dân, người đàn ông thứ ba trong cuộc đời tình ái cuả chị Akimi cũng đã hăng hái lên đường tòng quân, gia nhập bộ đội vào Nam bộ diệt giặc. Người trai yêu nước, lòng không vướng bận thê nhi ấy ra đi , đã để lại cố đô Hà Nội một người vợ trẻ đẹp với một bào thai sắp đến ngày khai hoa nở nhuỵ. Riêng về phần chị Akimi, sau khi chồng đã lên đường chiến đấu diệt xâm lăng, chị vẫn can đảm , bền chí ở lại Hà Nội , người khôn cuả khó, nuôi con và chờ chồng.

 

Mãi cho đến khi tiếng súng giao tranh giưã quân viễn chinh Pháp và lực lượng kháng chiến đã bùng nổ khắp nơi và lịnh tản cư với chiến thuật ” tiêu thổ kháng chiến” do chánh phủ cách mạng lâm thời ban ra chị mới vội vã, lếch thếch tha lôi một lúc ba đứa con thơ, có đưá còn đang ẵm ngửa trên tay, đi chạy giặc. Chị Akimi đã đem con đến đây cùng một lượt với gia đình một người chị gái và một bà mẹ già cuả chị.

 

Thế rồi, từ đó chị đã lập ra cái quán này để kiếm tiền độ nhật và nuôi con . Cũng từ đó cho đến nay, người chồng theo kháng chiến cuả chị vẫn bặt vô âm tín !...”

 

Nghe anh Quang Dũng kể lại tâm sự cuộc đời cuả chị Akimi, tự nhiên lòng tôi dấy lên một niềm thương cảm vô biên...

 

Hôm sau, sáng sớm, anh Dũng đã sửa soạn lên đường trở về khu bộ. Lần này chúng tôi xa cách nhau rất lâu.Mãi cho đến đầu muà Hè năm 1949 , anh Dũng mới có dịp trở lại đây với chúng tôi và với chiếc quán lá xác xơ nghèo bên đường cuả chị Akimi!

 

BÀI THƠ  “QUÁN BÊN ĐƯỜNG” RA ĐỜI TRONG TRƯỜNG HỢP NÀO?

 

Buổi trưa hôm đó, bắt đầu vào Hè, trời nắng chang chang, trên những cành cây cao chọc mây xanh, chim tu hú kêu ra rả suốt ngày, và các dàn cây vải ở ven đô trái đã chín đỏ rồi. Lúc đó vào khoảng 3 giờ chiều, bỗng tôi thấy bóng dáng cao lớn cuả anh Dũng lừng lững hiện lên giưã ánh vàng gay gắt, chói loà.Vai anh khoác chiếc ba lô nặng chĩu, phanh cả ngực áo ra, và trên mặt, trên người anh mồ hôi nhễ nhại, đầm đià như người vưà mới tắm.

 

Anh bước vào nhà, trút vội cái ba lô nặng chịch xuống, đưa một cánh tay áo lên quệt mồ hôi đã rịn từng giọt nhỏ dầy trên trán và trên mặt , rồi thở phào, nói buông lửng:

- ” Ối chà, hôm nay sao mà nóng quá!”

 

Anh ngồi nghỉ chưa đầy 10 phút đã vội đứng phắt lên rủ chúng tôi qua tắm ở sông Đáy, ngay trước làng đóng quân.

 

Anh em tôi tắm mát và ngâm mình dưới nước cho thoả thích được một lúc, đến khoảng hơn 4 giờ chiều, anh Dũng lại hối thúc chúng tôi phải mau về ăn cơm, vì đã đến bưã hỏa thực chia phần ăn rồi.

 

Lệ trong đơn vị cuả chúng tôi, đến bưã ăn, anh nào về trễ thường bị đói luôn. Chúng tôi rảo bước về đến nhà thì đúng bưã. Như thường lệ, ngày nào cũng như ngày nấy, bưã cơm của chúng tôi chẳng có gì, chỉ quanh đi quẩn lại độc nhất có một món duy nhất là : rau muống luộc chấm với nước muối.

 

Tuy vậy, lúc bấy giờ , không hiểu tại sao anh em chúng tôi đã ăn rất ngon lành, chẳng hề bao giờ có một ai tỏ ý phàn nàn hay chê bai gì cả.

 

Ăn xong , tôi đem bát đuã cuả tôi và anh Dũng đi rửa , rồi lại cất kỹ vào ba lô. Tôi vưà quay trở ra, anh Dũng lại hối thúc:

-” Các chú mặc quần áo vào nhanh lên, đi với anh một chút!”

 

-” Đi đâu hở anh?” Tôi hỏi. Anh đáp cộc lốc như ra lệnh, vẻ gấp rút lắm:

-” Đi ra quán chị Akimi. Mặc áo vào mau lên!”

Tôi vẫn còn lè nhè họi gặng:

-” Mới hơn 5 giờ, ra làm chi sớm quá hả anh ? Mọi khi mãi đến 7, 8 giờ anh em mình mới ra đó mà!”

Anh nói:

-” Nhưng hôm nay vì có việc cần, mình phải ra đó sớm một chút !”

Nghe anh nói thế, chúng tôi biết thế, nhưng thấy giọng cuả anh có vẻ quyết liệt, nên không ai dám hỏi han lôi thôi thêm nưã. Chúng tôi vội vã khoác áo lên người , rồi hấp tấp chạy theo anh ra khỏi nhà.

Khi ra đến đầu đường , anh Dũng mới bảo:

-” Tại sao hôm nay anh muốn các chú đến sớm, các chú có biết không?”

-” Dạ không!”

-” Anh nói cho các chú hay là hồi trưa , lúc 12 giờ, anh ở Vân Đình, có ý định về thăm đội cuả các chú. Anh đã lấy đò qua bến Tiá.

 

Lên đò là nhìn thấy quán cuả chị Akimi ngay. Anh định ghé vào nghỉ chân một lúc cho đỡ mệt, nhân tiện thăm chị ấy một thể. Nhưng không ngờ ngôi quán nhỏ hôm nay vắng lặng khác thường...

 

Kỳ 9

Khi nghe anh Quang Dũng nói như thế, trong lòng anh em chúng tôi không khỏi bồn chồn lo ngại, cố nhanh chân , rảo bước theo anh đến quán lá cuả chị Akimi. Hôm nay, tôi không ngờ quanh cảnh chiếc quán bên đường lại hoàn toàn vắng lặng, khác hẳn mọi ngày. Tuy nhiên chúng tôi vẫn tiếp tục theo chân anh Dũng vào thẳng trong nhà thì thấy chị Akimi đang nằm đắp chăn trên chiếc giường tre ọp ẹp. Dưới lớp chăn dầy, chị nằm im đôi mắt nhắm nghiền, như mê man, mái tóc dầy phủ loà xoà che khuất nưả khuôn mặt xinh đẹp cuả chị. Nhờ làn tóc xoã rối bời đen nhánh ấy mà sắc da trắng , với đôi má ửng hồng tự nhiên cuả chị càng nổi bật thêm ma lực gợi cảm rất hấp dẫn. Sắc diện cuả chị có vẻ mệt mỏi. Toàn thân chị khuất dưới lớp chăn dầy vẫn rung chuyển đều đều. Hai hàm răng đang đánh vào nhau lập cập, và trong làn môi đỏ như son đầy đặn khẽ tiết ra một âm điệu rên rỉ.

Nhìn thấy thế, tôi thầm biết ngay chị đang lên cơn sốt rét, là một chứng bịnh mà trong thời gian kháng chiến, chạy giặc tản cư, nhiều người đã mắc phải. Tôi không nói một lời nào.Nhưng tôi thấy anh Dũng kéo chăn ra.

Lúc bấy giờ chị mới giương đôi mắt xinh đẹp lên nhìn anh Dũng vẻ lờ đờ. Nhưng chị vẫn còn tiếp tục run rẩy khắp toàn thân, và hai hàm răng vẫn còn va vào nhau liên tiếp, nên chị chẳng nói được lời nào. Anh Dũng cũng không nói gì, lặng lẽ đậy chăn lại, rồi đi thẳng xuống bếp, nhanh tay mồi lưả, nấu một ấm nước sôi. Khi đã có nước nóng, anh Dũng bưng bát nước lên , ngồi ghé xuống bên cạnh giường cuả chị, móc túi lấy ra hai viên thuốc sốt rét, loại cuả Tây đem qua VN, rồi gọi chị Akimi:

-” Em. Anh đem cho em thuốc sốt rét đây. Em cố gượng ngồi dậy, uống đi cho mau khỏi”.

Tôi thấy trong chăn động đậy. Anh Dũng nghiêng mình, luồn một tay ra sau lưng nâng chị lên và âu yếm dỗ dành:

-” Em chịu khó uống đi. Chỉ độ năm , mười phút là hết sốt ngay à!”

Loại thuốc sốt rét này quả thực rất hiệu nghiệm. Khoảng mười phút sau, tôi thấy chị Akimi đã hết run và đôi hàm răng không còn khua lập cập nưã.Chị đã có thể nói lên thành tiếng rõ ràng. Nhưng câu đầu tiên chị nói với anh Dũng là:

-” Anh ơi, trong người em bây giờ lại nóng ran lên anh ạ!”

Anh Dũng trấn an:

-” Sốt rét là vậy đó , em ạ! Khi hết rét là sang nóng ngay. Nhưng em đã uống thuốc rồi thì chỉ nóng một chút, vài ba phút thôi, rồi khỏi ngay!”

Đúng như lời anh Dũng nói, chỉ vài phút sau cơn sốt đã từ từ hạ xuống. Nhưng nhìn chị tôi thấy những giọt mồ hôi đã rịn ra lấm tấm trên khuôn mặt đỏ hồng. Những giọt mồ hôi từ chân tóc cũng bắt đầu đổ xuống ướt đẵm cổ áo, trông như chị vưà mới tắm. Anh Dũng nói:

-” Sau khi cơn sốt rét đã qua rồi thì mệt lắm. Bây giờ em hãy chịu khó nằm nghỉ thêm một chút nưã. Nếu ngủ được thì em cứ ngủ cho khoẻ. Mọi việc để anh lo liệu cho!”

Lúc bấy giờ có lẽ đã đến khoảng hơn hai giờ chiều rồi. Sau khi thấy chị Akimi đã nằm yên, và hơi thở trong chăn đã phát ra đều đều, anh Dũng biết chị lúc đó đã ngủ ngon rồi, mới quay sang nói chuyện với chúng tôi:

-” Hồi nãy anh bảo các chú theo anh ra đây sớm một chút là có ý nhờ hai chú giúp anh và chị Akimi một tay,coi xem cơm nước ra sao. Các chú nấu cơm cho ba cháu nhỏ ăn. Chứ chị ấy đau như thế đâu có lo gì cho con được. Chúng sẽ đói...Sau khi đã cho các cháu ăn uống xong, hai chú đem chúng nó đi tắm rửa và dỗ cho chúng nó ngủ giúp chị ấy.Công việc chỉ có thế thôi!”

 

Được phân công, tôi và một anh bạn nưã lao ngay vào bếp, lục gạo để nấu cơm, và tìm thức ăn thưà còn lại, đem ra hâm nóng lên. Khi cơm sắp chín, tôi chạy qua nhà thân mẫu cuả chị Akimi , cũng tạm trú ở gần nơi đó, đem các cháu về ăn. Trước hết, tôi gọi các cháu lại, bảo cho chúng nó biết hôm nay mẹ các cháu bị sốt, cần phải nghỉ ngơi cho mau lại sức. Vậy khi về nhà, các cháu phải giữ im lặng không được quấy mẹ. Khi ăn uống xong , các cháu phải đi tắm rửa cho sạch sẽ , rồi đi ngủ...Các cháu, con chị Akimi, đã được chị dạy dỗ chu đáo , nên rất ngoan, biết vâng lời, tôi bảo sao, các cháu làm đúng như vậy. Trong lúc tôi đang cho các cháu ăn uống, anh Quang Dũng vào bếp lục lọi tìm ra một cái nồi nhỏ, bỏ vào đó một ít gạo, rồi bắc lên bếp.

Tôi nhanh nhảu hỏi:

-” Anh làm gì thế ? Để em làm cho !”

Anh Dũng xua tay, và nói:

-” Anh nấu chút cháo cho chị ấy ăn cho lại sức. Các chú cứ để anh lo. Còn các chú cứ lo cho mấy cháu hộ anh là được rồi!”

Chẳng mấy chốc cháo đã chín. Anh Dũng tìm trong trạn kê bát điã, lấy ra một cái tô nhỡ, đập 2 quả trứng gà, bỏ tròng trắng, chỉ lấy tròng đỏ, rồi thái nhỏ vài củ hành tươi với chút gừng , bỏ vào đó.Xong , anh múc cháo vào tô, và rắc thật nhiều tiêu lên. Cuối cùng, anh Dũng lấy muỗng đánh đều tô cháo , hơi nóng bốc lên đưa mùi vị cuả món ăn toả ra thơm lừng , khiến người đang no như chúng tôi cũng có cảm giác thèm thuồng. Nhìn anh Dũng làm tô cháo từ đầu đến cuối, thực tình tôi không ngờ anh là người thanh niên thành thị lại đảm đang, khéo léo việc bếp nước đến vậy! Anh Dũng bưng tô cháo đến bên giường chị Akimi, một tay mở chăn, và dịu dàng âu yếm nói :

- ” Em dậy ăn chút cháo cho khoẻ, chứ sốt như thế là mất sức lắm!”

Chị Akimi nhỏm dậy, nhưng thấy tô cháo còn bốc hơi nghi ngút, nên ngần ngại, nói:

-” Cháo còn nóng lắm. Anh cứ để đó, lát nưã nguội , em sẽ ăn”.

Anh Dũng nhỏ nhẹ dỗ dành:

-” Không, em phải ăn cháo còn đang nóng mới tốt. Anh đã bỏ thật nhiều tiêu vào đấy rồi. Ăn nóng như thế này mới ra được nhiều mồ hôi và mau khoẻ. Chứ nếu em ăn nguội thì làm sao xuất hạn mồ hôi được?!”

Chẳng những anh Dũng phải dỗ dành mãi, lại còn phải tự tay múc từng thià cháo nóng ép cho chị Akimi ăn, như ép đưá trẻ con nhõng nhẽo. Chị vưà ăn vưà nhăn nhó kêu nóng luôn miệng. Tuy nhiên anh Dũng cũng đã cố ép cho chị phải ăn kỳ hết bát cháo, rồi mới đặt chị nằm xuống, kéo chăn lên đắp kín từ đầu đến chân cho chị mau ra mồ hôi. Chị Akimi đã ngoan ngoãn để yên cho anh Dũng săn sóc. Khoảng chừng mười phút sau, chị Akimi mở chăn, thò đầu ra kêu anh Dũng:

-” Anh ơi, trong người em nóng quá.Em chịu hết nổi rồi! Mồ hôi ra đầm đià, làm ướt hết cả quần áo cuả em rồi đây này...Anh ra ngoài chỗ giây phơi quần áo, lấy cho em bộ quẩn áo khô, và một cái khăn để em lau mình và thay quần áo. Chứ mặc quần áo ướt như thế này, em chịu không được đâu!”

Anh Dũng vui vẻ làm theo lời chị Akimi bảo, rồi mấy chúng tôi theo anh ra ngoài sân ngồi hút thuốc. Tôi thầm hiểu ý anh Dũng muốn cùng chúng tôi ra ngoài để cho chị Akimi tiện việc lau mình và thay quần áo. Chỉ một lát không lâu sau, có lẽ đã lau mình và thay xong quần áo, chị Akimi gọi anh Dũng vào rồi ghé tai thì thầm nói nhỏ với anh, cốt ý không cho chúng tôi nghe. Tuy nhiên chúng tôi cũng thưà biết chị đã nói với anh điều gì .

Anh Dũng lúi húi lo gom đống quần áo cũ và chiếc khăn lau mình cuả chị đem ra sau nhà, bỏ vào một cái chậu thau, rồi múc mấy gáo nước dội lên. Trong nhà, chị Akimi nói vọng ra cho anh Dũng nghe:

-” Anh ơi, cứ để đó đi.Mai em khoẻ em giặt.”

Anh Dũng lau tay bước vào nhà, lấy ra thêm 2 viên thuốc sốt rét nưã đưa cho chị Akimi và hối thúc:

-” Em chịu khó uống thêm 2 viên thuốc nưã ngay đi...”.

Trong khi nói, nhìn thấy vẻ ngần ngại thoáng hiện trên nét mặt cuả chị Akimi, anh nói tiếp:

-” Em thật là may lắm đó. Cứ uống đi. Thứ thuốc ngưà sốt rét này cuả Pháp, rất hiệu nghiệm và rất hiếm quí, trong bộ đội ở tiền phương chỉ dành để phát cho các cấp chỉ huy thôi. Nhưng tiêu chuẩn cũng rất giới hạn : Mỗi tháng, mỗi người chỉ được cấp có 20 viên mà thôi... Riêng anh, anh đã được cấp loại thuốc này trong thời gian anh còn phục vụ ở trung đoàn Tây Tiến .Từ khi rời khỏi trung đoàn , anh không còn được cấp nưã... Trong thời gian ấy, lặn lội chiến đấu trong rừng sâu vùng hạ Lào, các anh em chiến sĩ ai cũng bị con ma sốt rét hành hạ thật là khổ sở. Thậm chí nhiều anh em đã bỏ mình trong vùng rừng núi hoang vu rồi. Nhưng riêng anh, nhờ trời thương, nên chẳng hề bị sốt rét một lần nào. Dù vậy, căn cứ trên qui định, anh vẫn được lãnh thuốc theo tiêu chuẩn. Bởi thế anh đã tích lũy để dành được đến hơn 200 viên. Mỗi khi cứ thấy anh em nào bị sốt nặng là anh lại cho họ ít viên để họ uống. Đến bây giờ anh chỉ còn lại khoảng vài chục viên để phòng thân thôi...”

Anh chờ cho chị Akimi uống thuốc xong, mới móc túi lấy thêm ra 4 viên nưã và dặn :

-” Sáng mai, thức dậy, em ráng nấu nồi cháo nóng mà ăn cho lại sức, rồi uống thêm 2 viên nưã, để chận trước cơn sốt buổi chiều. Đến trưa cũng thế, cứ ăn cháo nóng, đừng vội ăn cơm. Ăn xong, khoảng 2 giờ chiều , thì em uống tiếp thêm 2 viên nưã. Anh tin chắc , sau khi đã uống hết 4 viên thuốc này là em sẽ khỏi hẳn bệnh sốt rét rồi đó!”

Dặn dò xong xuôi, anh Dũng nói thêm:

-” Thôi hôm nay, em nên đi ngủ sớm cho khoẻ. Các con đã được mấy chú săn sóc tắm rưả sạch sẽ, cho ăn uống no đủ và đã dỗ ngủ cả rồi. Bây giờ anh và hai chú phải về .Mai anh lại ra thăm em...”

 

NGUỒN CẢM HỨNG.

 

Chúng tôi và anh Dũng ra về.Đến trại thì chúng tôi sức trai mới lớn lên, leo lên giường là kéo gỗ thẳng một mạch đến sáng ngày hôm sau mới thức dậy. Còn anh Dũng, trước khi đi ngủ, tôi đã thấy, anh đốt vội một điã dầu lên, và lôi trong ba lô ra một xấp giấy với cây bút loay hoay ngồi cắm cúi viết. Tuy nhiên tôi vẫn quen miệng hỏi chiếu lệ, dù biết rằng hỏi như thế là thưà :

-” Anh chưa đi ngủ à ?”

Anh đáp:

-” Các chú cứ ngủ đi. Anh còn phải làm việc, rồi sẽ đi ngủ sau! ”

Hôm nay, mới 4 giờ sáng , tôi bỗng giật mình thức giấc. Bước ra ngoài, tôi không khỏi ngạc nhiên thấy anh Dũng hãy còn thức và đang cặm cụi viết lách. lúc bấy giờ anh mải mê làm việc say sưa, tôi không dám phá rối, nên lặng lẽ trở vào, leo lên giường ngủ tiếp, mãi đến khi tiếng kẻng, 6 giờ sáng, báo thức, chúng tôi mới bừng tỉnh dậy, cùng nhau tuá ra sân tập thể dục như thường lệ. Lúc bấy giờ, có lẽ mới đi ngủ, nên tôi thấy anh Dũng vẫn cứ ngủ mê man, không hề biết những gì đang xảy ra chung quanh. Sau khi tập thể dục xong, như qui luật đã ấn định, chúng tôi đi tắm rửa, rồi trở vào nhà ăn điểm tâm. Như thường nhật, bưã ăn sáng nào cũng vậy, chỉ có sắn và khoai lang luộc mà thôi. Cho đến khi bưã ăn sáng chấm dứt, tôi thấy anh Dũng vẫn còn ngủ rất say , nên hết sức ái ngại cho anh. Chúng tôi phải lo cất phần quà sáng quá đạm bạc, rất đỗi nghèo nàn, nhưng vô cùng quí giá ấy cuả anh, để khi nào anh thức dậy thì ăn. Nhưng hôm nay anh Dũng đã ngủ quá say. Mãi tới 11 giờ , lúc bưã cơm trưa đã dọn ra, anh vẫn chưa thức dậy, một lần nưã, tôi lại phải lấy khẩu phần cuả anh đem cất. Nhưng đến khoảng một giờ trưa thì anh thức.

Việc đầu tiên khi vưà mở mắt, anh đã hỏi chúng tôi ngay:

-” Bây giờ là mấy giờ rồi các chú ?”

Tôi đáp:

-” Đã một giờ trưa rồi. Nhưng vì thấy anh ngủ ngon quá tụi em không dám đánh thức anh dậy. Đêm qua anh đã thức gần suốt đêm rồi còn gì. Nhưng phần ăn cuả anh, em đã cất cho anh rồi. Anh cứ đi tắm xong rồi vào ăn...”

Thời gian này, ở trong vùng giải phóng, chúng tôi, ai cũng thế, chỉ được ăn ngày hai bưã toàn rau muống luộc chấm nước muối. Thực đơn này không bao giờ thay đổi. Nhưng anh em chúng tôi ai cũng ăn rất ngon miệng. Cái ngon ấy là do tinh thần hy sinh, chiến đấu chống quân xâm lăng đem lại. Riêng anh Quang Dũng, là một người cao lớn, sức vóc lực lưỡng hơn người, nên bưã nào anh cũng ăn rất khoẻ, có khi gấp đôi khẩu phần cuả những người bình thường khác. Đến chiều, khoảng hơn 5 giờ, anh Dũng lại rủ tụi tôi ra quán xem chị Akimi đã khoẻ chưa. Khi chúng tôi vưà bước vào, đã thấy chị đang lúi húi quét nhà. Anh Dũng mừng quá , cười nói:

-” Em khoẻ rồi đó hả? Không còn sốt nưã phải không? Đó, anh nói có đúng không. Hôm nay em chỉ cần uống thêm 4 viên thuốc nưã là khỏi luôn mà!”

Chị Akimi tươi cười bảo:

-” Thật, em cám ơn anh vô cùng. Hôm qua , nếu không có mấy viên thuốc anh cho chắc em chết mất...Và hôm qua, nếu không có hai chú giúp thì mấy đưá con em cũng đã phải nhịn đói suốt đêm rồi!...”

Nói xong, chị bảo anh em tôi ngồi chơi đợi chị một lát, để chị xuống bếp nấu nước pha cà phê cho anh Dũng, và làm trứng đường cho tụi tôi uống. Chỉ thoáng một cái, các thức uống đã xong. Chị đưa hai ly trứng đường cho tụi tôi. Còn tách cà phe nóng, toả mùi thơm ngào ngạt, chị bưng ra cho anh Dũng, và tiện thể chị ngồi xuống ngay bên cạnh anh Dũng cách rất tự nhiên. Lúc bấy giờ anh Dũng mới mở cái sắc -cốt đeo bên mình, lấy một tờ giấy ra,và đồng thời âu yếm nói với chị Akimi :

-” Hôm nay, mừng em đã khỏi bịnh, anh tặng em một bài thơ mà anh vưà mới làm xong đêm qua. Bài thơ này anh tả chiếc quán bên đường này cuả em...”

 

Ngưng một lát, để cho chị Akimi và chúng tôi phải chú ý, anh Dũng cười và chậm rãi nói tiếp:

-” Dù sao anh cũng phải cám ơn em. Vì hôm qua em đã ốm, anh đến đúng lúc em đang lên cơn sốt, nằm run rẩy một mình trong cô đơn lạnh lẽo, khiến anh thương cảm vô cùng...Đó là nguồn hứng dạt dào đã giúp anh đêm qua làm được bài thơ này. Bây giờ anh đem đến để tặng em đây. Vậy, anh đọc lên cho em nghe nhé!...” -” Vâng, anh đọc lên cho em nghe đi!” Chị Akimi ngoan ngoãn đáp. Trước tiên, anh Dũng đọc bài thơ lên cho chị Akimi nghe qua một lượt, xong rồi , anh mới cất giọng , với làn hơi dài ấm áp, ngâm cao bài thơ ấy:

 

-” Tôi lính qua đường trưa nắng gắt

Nghỉ nhờ đây quán lệch tường xiêu,

Giàn mướp nghèo không hưá hẹn bao nhiêu

Muà gạo đắt đường xa thưa khách vắng

 

Em đắp chăn dầy, tóc em chĩu nặng

Tôi mồ hôi ra ngực áo chan chan

Đường tản cư bao suối lạ sương ngàn

Em mê sảng sốt hồng lên đôi má.

 

Em có một mình , nhà hoang vắng quá

Mảnh chăn đào, em đắp có hoa thêu

Hàng cuả em , chai lọ xác xơ nghèo

Tôi nhìn lại mảnh quần xưa đã vá

 

Tôi chợt nhớ chúng ta không nhà cưả

Em tản cư, tôi là lính tiền phương

Xa Hà Nội cùng nhau từ một thuở

Lòng rưng rưng thương nhau quá dọc đường

 

Tiền nước trả em rồi.

Nắng gắt Đường xa xa mờ núi và mây

Hồn lính vương qua vài sợi tóc

Tôi thương , mà em đâu có hay.”

 

Thú thực, trong thời gian mấy năm kháng chiến ấy ở liên khu 3, tôi chưa từng nghe ai ngâm thơ hay như anh Dũng. Giọng ngâm cuả anh rất khác lạ, vưà trầm ấm lại phảng phất chút u buồn. Một phần có lẽ do làn hơi thiên phú; nhưng có thể anh vốn là một nhạc sĩ , giỏi cả về nhạc cổ điển Á Châu và nhạc mới Tây phương, nên anh đã biết lồng những lời thơ cuả anh vào trong những âm điệu đầy nhạc tính. Lúc đầu, bài thơ cuả anh đọc lên, người ta chỉ thấy hay một cách mộc mạc. Nhưng nếu, bài thơ ấy lại được anh ngâm lên nưã thì thật là tuyệt với, tưởng chừng như đang thưởng thức một bản nhạc du dương hiếm có.

Vì thế, sau khi anh Dũng vưà ngâm xong bài thơ, chị Akimi đã bị cảm xúc mãnh liệt, chị ôm chặt lấy hai vai anh rồi từ từ gục đầu vào ngực anh mà thổn thức nói không nên lời.Khi chị ngước mặt lên nhìn anh thì trên đôi mắt long lanh cuả chị đã nhoà ngấn lệ và những giọt nước mắt ấy từ từ lăn tròn xuống đôi gò má mơn mởn ửng hồng ...

Chính vì thế mà ngay từ hôm đó tôi đã nhớ nằm lòng luôn cả bài thơ ấy, cho mãi đến tận bây giờ trải bao thăng trầm thế sự gian nan, tôi vẫn không quên mất một chữ nào!

Bây giờ, sau nưả thế kỷ trôi qua, bài thơ này, đối với tôi, vẫn còn là một kỷ niệm êm đềm, thơ mộng nhắc nhở tuổi hoa niên. Sau lần gặp gỡ và nghe anh Dũng ngâm bài thơ đó, tôi không còn dịp nào gặp lại anh Dũng nưã. Anh đã ra đi biền biệt. Bóng chim tăm cá trong thời buổi khói lưả tràn lan, loạn ly khắp nước , ai biết được gót chân giang hồ cuả anh phiêu dạt đến chân trời nào...Và cũng từ đó không một lần nào nưã anh trở lại thăm ngôi quán nhỏ bên đường , nơi đã ghi dấu bóng dáng cuả một giai nhân đã để lại trong lòng anh nhiều kỷ niệm êm đềm.

Có lần nhớ anh Dũng quá, tôi đã tìm gặp mấy anh làm việc ở khu bộ để hỏi thăm tin tức về anh, thì được biết anh đã đổi công tác vào Thanh Hoá, làm hiệu trưởng trường Hoa Ngữ... Dù lúc bấy giờ không có anh Dũng, nhưng ở đó, chúng tôi vẫn thỉnh thoảng mỗi tuần lễ đôi ba lần ra quán giải khát và luôn tiện thăm chị Akimi.

 

ANH TUẤN SƠN, TRUNG ĐOÀN TRƯỞNG TRUNG ĐOÀN TÂY TIẾN, XUẤT HIỆN...

 

Một hôm, vì mải vui câu chuyện với chị, nên chúng tôi đã quên cả giờ giấc, cứ ở lại nói chuyện mãi đến khuya. Lúc ấy đã vào khoảng 10 giờ đêm rồi. Nhưng vì chỗ chúng tôi đóng quân gần đó, không đầy một cây số, nên chúng tôi vẫn chưa vội ra về...

Trong khi đang vui chuyện bỗng tôi thấy bóng đen cuả một người đàn ông lạ đẩy mạnh cánh cưả liếp bước vào quán. Bóng dáng người đàn ông này cũng vạm vỡ , to ngang không kém anh Dũng, nhưng chiều cao thì không bằng anh Dũng. Như thế chắc chắn là không phải anh Dũng rồi. Vì thế tôi không khỏi ngạc nhiên phân vân, đưa mắt chăm chú theo dõi từng hành động cuả người đàn ông, lúc ấy còn khuất trong chỗ tranh tối tranh sáng, đang cố lách mình qua tấm cưả liếp, một cách rất tự nhiên và hết sức quen thuộc để chống gậy bước vào. Khi người đàn ông ấy vưà bước vào hẳn trong quán, trước ánh đèn dầu leo lét bập bùng, tôi mới giật mình khi kịp nhận ra người đó chính là anh Tuấn Sơn, vị trung đoàn trưởng cuả trung đoàn chúng tôi...

Bị bất ngờ, tôi và một anh bạn nưã cuả tôi hết hồn, vội đứng bật thẳng lên như hai chiếc lò so, giữ lễ, chào theo quân cách. Anh Tuấn Sơn dùng đầu cây gậy dí vào cánh tay tôi đang đưa lên chào kính và thân ái bảo:

-” Thôi bỏ tay xuống. Làm gì mà phải chào nghiêm chỉnh vậy. Đây là quán hàng, các chú đến đây giải khát, tôi cũng đi uống nước.Chúng ta đều là khách cả, đâu có ở trong hàng quân mà phải giữ quân cách. Các chú cứ tự nhiên , kẻo mất vui đi. Chúng mình là anh em cả mà!...”

 

Trước kia anh Quang Dũng với anh Tuấn Sơn vốn là đôi bạn thâm giao, cùng một cấp bậc, đều phục ở trung đoàn Tây Tiến. Nhưng anh Quang Dũng thì phụ trách về văn nghệ, chỉ huy tiểu đoàn tuyên truyền xung phong thuộc trung đoàn. Còn anh Tuấn Sơn thì theo quân sự, nên chẳng bao lâu sau, anh đã được thăng chức trung đoàn trưởng, nắm quyền chỉ huy trung đoàn...

 

 

Kỳ 10

TRAO CON CHO ÔNG BÀ NỘI NUÔI DƯỠNG

 

Chị Akimi tiếp tục kể về thân thế cuả anh Tuấn Sơn: -” Anh là người con trai độc nhất cuả một ông bác sĩ , giám đốc một bệnh viện lớn ở Hà Nội. Xuất thân trong một gia đình giàu có, danh giá, khi cuộc chiến chống xâm lăng bùng nổ , anh Tuấn Sơn đang là một sinh viên ưu tú cuả ngành y khoa, chỉ còn 6 tháng nưã là cũng trở nên bác sĩ, có khả năng nối nghiệp cha. Vì lòng yêu nước nhiệt thành, gặp kháng chiến, anh Tuấn Sơn đã trở nên một thanh niên trí thức Hà thành đầu tiên xung phong tòng quân theo bộ đội. Anh đã cùng anh Quang Dũng tham gia trung đoàn Tây Tiến. Trong thời gian đó nhị vị thân sinh cuả anh Tuấn Sơn vẫn ở lại Hà Nội. Riêng ông cụ vẫn tiếp tục giữ chức vụ giám đốc bệnh viện như cũ. Từ đó cho đến ngày từ giã cõi đời, anh Tuấn Sơn vẫn thường xuyên liên lạc , thăm hỏi tin tức và vấn an sức khoẻ cuả song thân. Anh là người con chí hiếu. Lúc nào cũng nhớ thương và nghĩ đến cha mẹ. Khi biết tôi đã thụ thai, anh Tuấn Sơn mừng lắm, cũng đã viết thơ kể lại chuyện đó cho cha mẹ nghe. Ngoài ra, anh còn biên cho tôi đầy đủ tên tuổi cuả ông bà thân sinh ra anh , cùng với điạ chỉ cuả gia đình hiện đang cư ngụ ở phố Hàng Đào, Hà Nội.

 

Sau những lần trao đổi thơ từ như thế, anh Tuấn Sơn đã cho tôi biết , bà cụ khi nghe tin sắp có cháu nội thì bà vui lắm... Được biết như thế, khi trở về Hà Nội, tôi đã đánh bạo tìm tới nhà thăm ông bà cụ. Tôi xưng tên và tự giới thiệu, nguyên là vợ cuả anh Tuấn Sơn, và cái bào thai tôi đang mang trong bụng hiện thời chính là con cuả anh Tuấn Sơn để lại. Sau khi nghe tôi nói thế, bà cụ đã ôm chầm lấy tôi mà khóc nức nở. Câu đầu tiên bà nói mà mãi đến sau này không bao giờ tôi quên được: -" Tội nghiệp con dâu tôi quá! " Thế rồi bà cụ kể tiếp: -" Ba me đã nhận được tin anh Sơn gửi về, kể rõ cả rồi. Anh Sơn là con trai độc nhất của mẹ đấy. Nay nó vì nước mà hy sinh, ba me cũng buồn lắm. Nhưng may mà nó còn để lại giọt máu của nó cho ba me, thì ba me cũng bớt buồn. Mẹ mong sao con sẽ sinh ra một cháu trai giống anh Sơn cho ba me. Thôi con đừng buồn nữa. Thôi bây giờ con ở lại đây ăn cơm với ba me nhé!" Hôm ấy tôi bị xúc động mạnh, nên cứ khóc hoài. Bà cụ đã phải dỗ dành tôi mãi và tha thiết muốn tôi ở lại. Tôi cũng cố làm vui lòng bà, nhưng đến chiều thì tôi đành phải xin phép về để đón các cháu về ăn cơm.

 

Từ đó, hằng ngày, cứ chiều chiều , bà cụ lại xuống thăm tôi, an ủi tôi , và có khi còn dắt tôi đi bệnh viện để các bác sĩ quen của ông cụ khám thai và cho tôi thuốc uống dưỡng thai. Tôi thấy bà cụ thật là tội nghiệp. Bà lo đi sắm từng tấm tã lót và quần áo, chuẩn bị sẵn sàng để chờ đón đứa cháu nội của bà sắp chào đời. Khi tôi biết chỉ còn vài ngày nữa là sinh, nên tôi lo gửi các cháu về nhà mẹ đẻ của tôi để nhờ bà ngoại trông nom giúp. Vì đã sinh nở đến 3 lần rồi, nên tôi có kinh nghiệm.

Một buổi sáng kia tôi cảm thấy triệu chứng khác thường , và bắt đầu chuyển bụng, nên tôi bảo bà cụ:

-" Mẹ à, con sắp sinh rồi. Mẹ đưa con vào nhà thương đi kẻo chậm, vì con sinh dễ lắm!" Tất cả các bác sĩ ở nhà thương mà bà cụ sắp đem tôi tới, họ đã được ông cụ gửi gắm cả rồi. Nên khi tôi và bà cụ vừa tới, thì các cô nữ hộ sinh đã ra dìu tôi vào và săn sóc cho tôi cực kỳ chu đáo. Khi sắp sinh, tôi vẫn cứ lẩm nhẩm cầu khấn trời phật cho tôi sinh ra được một cháu trai, giống anh Sơn , để cho bà cụ vui và thỏa lòng ước nguyện. Nhưng đáng buồn thay, khi sau khi sinh, bác sĩ cho biết cháu lại là con gái. Nó cân nặng hơn 3 kí lô và khỏe mạnh bình thường.

Hôm ấy, tôi thấy nét mặt bà cụ vui hẳn lên. Bà không về nhà mà ở lại túc trực đêm ngày bên cạnh mẹ con tôi trong nhà bảo sanh. Bà cụ lo cho tôi và lo cả cho cháu. Bà cụ tỏ ra thương cháu lắm. Mỗi khi nó thức giấc, ọ ọe muốn khóc, tự tay bà cụ đến bế cháu lên , để tôi cho cháu bú. Xong cụ lại đặt cháu vào nôi.Cụ không để cho một cô nữ hộ sinh nào sờ đến cháu của bà. Suốt ngày cụ vui với nó. Sau 7 ngày , tôi phải xuất viện. Trước khi xuất viện, tôi và bà cụ thân mẫu cuả anh Sơn đều đồng ý với nhau đặt tên cho cháu là: Sơn, gọi là để tưởng nhớ mãi mãi đến anh, mặc dù nó là con gái.

 

Sau khi đã đưa mẹ con tôi về , bà cụ mới tạt về nhà trong giây lát để thu xếp công việc trong gia đình, rồi trở lại ở luơn bên cạnh tôi và tiếp tục chăm nom cháu.

Đến đêm , bà cụ bảo tôi :

-" Con cứ ngủ đi cho mau lại sức. Còn cháu bé , con để mẹ lo cho…" Nhìn cụ già đêm hôm phải lận đận lo cho cháu, tôi thương cụ quá. Tôi nghĩ thật là có phúc mới có được một bà mẹ chồng như vậy. Thương cụ bao nhiêu tôi lại càng nhớ đến anh Tuấn Sơn bấy nhiêu.

Thỉnh thoảng cầm lòng không đậu, tôi đã nắm tay cụ, khóc và nói:

-" Con cám ơn mẹ thật nhiều!…"

Bà cụ vừa nghe tôi nói đã vội gạt đi ngay:

-" Con đừng nghĩ ngợi gì cả. Hãy cứ lo nghỉ ngơi cho khỏe!"

 

Đêm đêm bà cụ phải vất vả lo cho cháu, ăn ngủ không yên. Đến sáng , bà cụ lại phải tất tả về nhà săn sóc nhà cửa và lo cơm nước cho ông cụ. Khi công việc nhà vừa xong , bà cụ lại vội vàng trở lại, lo cho mẹ con tôi. Ròng rã như thế suốt tám tháng trời, lúc nào cũng lo cho cháu bé từng bữa ăn, và ẵm bồng nó luôn tay, nên lâu dần nó trở nên quen hơi cụ , và chỉ bám theo cụ thôi. Càng ngày tôi thấy nó càng quyến luyến bà nội hơn cả mẹ. Như thế tôi cũng mừng.

Trong khoảng thời gian này, một hôm bà cụ bảo tôi:

-” Bây giờ cháu đã khá lớn rồi và khoẻ mạnh. Nó lại mến me, theo me hoài. Me mất anh Sơn, nay có nó thay thế me cũng vui. Bây giờ me nói với con điều này, nếu con đồng ý, thì để me đem bé Sơn về trông nom , săn sóc cháu thay cho con, để con bớt vất vả. Hằng ngày hai bà cháu hủ hỉ với nhau , me cũng vui. Về phần ông nội cuả bé Sơn cũng ao ước được như vậy. Nếu có cháu trong nhà thì ông cũng đỡ nhớ anh Sơn. Vì sao nó cũng là giọt máu cuối cùng cuả giòng họ. Bây giờ ông cụ đã già rồi và cũng sắp về hưu. Nhà vắng vẻ quá , nếu có thêm cháu ba me sẽ cảm thấy bớt phần cô đơn...”

Nghe bà cụ nói mà tôi thương bà cụ quá. Tôi là mẹ nên tôi cũng không muốn xa cháu. Vả lại nó còn là một kỷ niệm giưã tôi với anh Sơn. Nhưng tôi nghĩ, tuy cháu là gái, nhưng nó lại là giọt máu cuối cùng cuả gia đình. Bây giờ ông bà đã mất anh Sơn rồi, chỉ còn lại đứa cháu nội độc nhất là nguồn an ủi.

Nếu tôi không đồng ý thì ông bà cụ sẽ rất khổ tâm, nên tôi cười vui vẻ và nói:

-” Con đồng ý để mẹ đem cháu về nuôi, vì nó là cháu nội cuả mẹ mà! Có nó ngày đêm quấn quít bên mình như mẹ vẫn còn có anh Sơn thôi. Vậy , mẹ đừng thắc mắc gì. Mỗi chiều chủ nhật thì con lên chơi với cháu, hoặc đón cháu về chơi ít giờ với các anh cuả nó thôi.” Nghe tôi nói, bà cụ cảm động quá, không cầm được nước mắt.

Bà ôm tôi nói:

-” Me cám ơn con nhiều. May mà con mang cho mẹ được giọt máu cuả anh Sơn , chứ không gặp con thì bây giờ gia đình ta kể như đã tuyệt tự rồi!”

Tôi cũng cảm động lắm.Thế là tôi và bà cụ cứ ôm nhau khóc hoài...

Từ ngày cháu về ở với ông bà nội cho đến nay đã được 3 năm rồi.Càng lớn nó càng xinh đẹp và nhất là giống bố như đúc. Vì thế mà ông bà nội càng thương cháu nhiều hơn. Tôi thấy vậy cũng yên tâm, không phải bận tâm lo lắng gì cho cháu nưã...”

 

GIƯÃ ĐÊM KHUYA KHÔNG HẸN MÀ GẶP !

 

Kể đến đây, chị Akimi ngưng lại, để đi pha cà phê cho chồng và tôi uống. Khi đang uống cà phê, nghe tiếng còi xe Jeep trước nhà, anh D. vội vàng đứng lên nói:

-” Bây giờ xe đã đến đón, tôi phải xin phép đi làm. Vậy anh cứ ở lại chơi kể chuyện kỷ niệm xưa với nhà tôi cho vui. Tôi tôn trọng kỷ niệm cuả bà xã tôi lắm!”

Khi anh D. vưà ra khỏi nhà, chị Akimi lấy ra một cây đàn Guitare còn mới bảo tôi:

-” Ở nhà một mình lắm lúc tôi cũng buồn, nên mới mua cây đàn này, định tìm thầy để học, nhưng chưa đi được.Nay nhân tiện có anh, nhờ anh mỗi tuần ghé lại đây chơi dùng cơm với vợ chồng tôi, và dạy tôi vài giờ cho vui...”

Tôi vui vẻ đồng ý ngay. Từ đó hằng tuần tôi đều đến chơi với chị, dạy chị học đàn, rồi ở lại ăn cơm luôn với vợ chồng chị. Những buổi gặp gỡ như thế rất vui.

Nhưng ngày vui thường qua mau. Chỉ vài tháng sau, thì anh Lê Khaỉ Trạch được chính phủ Sài Gòn bổ nhiệm chức đổng lý văn phòng cho bộ Xã Lao, nên anh tôi phải đem cả gia đình, gồm cả tôi, vào Nam. Vì thế, một lần nưã tôi và chị Akimi lại phải chia tay, không hẹn ngày tái ngộ.

Tới năm 1954, sai khi hiệp định Genève 1954 đã được ký kết, cả triệu đồng bào miền Bắc đã lũ lượt kéo nhau vào miền Nam.Trong số người di cư đó, tôi đoán thế nào cũng có gia đình chị Akimi , vì anh D., chồng chị, vốn là sĩ quan Bảo An thuộc chính quyền Sài Gòn. Còn riêng chị, vốn xuất thân là một vũ nữ, làm sao chị có thể ở lại miền Bắc được. Trong thời gian này tôi vẫn để tâm dò la, tìm kiếm, hỏi han về tin tức cuả gia đình chị Akimi. Nhưng hoàn toàn biệt vô âm tín! Mãi 3 năm sau, nhân một buổi tối đi chơi khuya với mấy người bạn, chúng tôi thấy đói, mới rủ nhau tạt vào một con hẻm ở đầu đường Phan Đình Phùng, để ” ăn đêm”.

***

Trước năm 1975, dân hay đi chơi khuya ở Sài Gòn, như đi nhảy đầm, coi hát, ai cũng biết con hẻm đó có rất nhiều quán bán đủ loại thức ăn lót dạ như: bánh cuốn, sôi, chè, miến gà, miến lươn... Tuy mấy cái quán này rất xập xệ , nhưng lại đông khách lắm. Nhiều người không có ghế ngồi phải ăn đứng, nhưng ai cũng vui thích, tạo nên một không khí sinh hoạt nhộn nhịp khác thường. Trong lúc tôi đang chen vào mua điã bánh cuốn, bỗng có một bàn tay nắm chặt lấy tay tôi và kêu rõ tên tôi. Tôi giật mình kinh ngạc, nhìn lại, thì hoá ra vợ chồng chị Akimi. Hai anh chị có vẻ mừng lắm, mà tôi cũng mừng quá, nên đã hỏi ngay:

-” Anh chị vào Nam ở đâu mà tôi tìm hoài không gặp?”

Chị Akimi đáp:

-” Chúng tôi ở xa Sài Gòn một chút. Nhưng tối nào cũng đến đây ăn quà cho đỡ đói trước khi về nhà ngủ. Chắc anh cũng ít khi ra đây phải không ? Nếu anh thường đến đây thì đã gặo nhau rồi!”

Tôi đáp:

-” Tôi ít đi chơi khuya lắm. Mỗi ngày , ở nhà dạy học đến 10 giờ đêm ,mệt quá, ăn xong là đi ngủ thôi.Chả đi đâu cả. Hôm nay, chủ nhật, nhân tiện có mấy anh bạn đến kéo đi chơi, nên mới về khuay thế này. Nhờ vậy hôm nay mới được gặp anh chị đấy chứ!...”

Nói đến đây, tôi chợt chuyển hướng câu chuyện:

-” Thế bây giờ anh chị đang làm gì? Ở đâu ?”

Chị Akimi thay lời chồng đáp: -” Nhà tôi vẫn còn trong lính. Còn tôi ở nhà, không làm gì. Về sau có một vũ trường quen ở Chợ Lớn mời tôi giúp họ làm cai gà. Tôi đã nhận lời để kiếm thêm tiền phụ vào cho gia đình. Vì thế nên tối nào nhà tôi cũng mang xe Vespa đi đón tôi, và trước khi về thì ghé đây ăn lót dạ...”

Sau lần gặp gỡ bất ngờ đó, mặc dù được biết đêm nào hai anh chị cũng đèo nhau đến hẻm Phan Đình Phùng để ăn quà trước khi về ngủ, nhưng vì tôi không có thói quen đi chơi đêm, nên chúng tôi không còn gặp lại nhau nưã.

Thời gian trôi qua khá lâu, mãi đến năm 1965 tôi mới có dịp tình cờ gặp lại chị Akimi lần nưã. Lần naỳ, tôi đã tò mò hỏi chị về tin tức cuả cháu Sơn, xem cháu có cùng di cư vào Nam với mẹ hay không. Nhưng chị lắc đầu nói:

-”Cháu ở lại với ông bà nội. Vì ông bà nội đã gìa rồi, lại có tiền , nên ông bà không muốn rời nơi quê cha đất tổ...”

Bẵng đi một thời gian khá lâu, tới năm 1970, tôi lại gặp vợ chồng chị Akimi lần nưã và đó cũng là lần cuối cùng.

 

HỮU DUYÊN THIÊN LÝ...

 

Sau ngày 30.4.75, tôi kẹt lại Sài Gòn, rồi bị 8 năm, tức đến năm 1982, mới được thả. Trong thời gian này , thỉnh thoảng tôi có nghĩ đến chị Akimi, nhưng không biết anh chị có thoát được không. Đến năm 1990, tôi được qua Pháp, nhưng lúc bấy giờ trong lòng tôi không còn nghĩ gì đến vợ chồng chị Akimi với những kỷ niệm thời kháng chiến ở ngoài Bắc cuả tuổi thanh niên nưã. Nguyên tôi có một anh bạn thân, tên Phạm Nghệ, trong thời kháng chiến anh là đội trưởng cuả tôi, còn tôi là đội phó đội tuyên truyền. Chính anh là người đã có lần theo tôi và anh Quang Dũng ra quán cà phê cuả chị Akimi để nấu cơm cho mấy đứa con chị ăn , hôm chi đang lên cơn sốt rét. Sau năm 1954, anh cũng theo đoàn người di cư vào Nam tìm tự do, rồi sau ngày 30.4.75, anh cũng thoát được, vượt biên sang Mỹ và hiện đã trở nên giáo sư vĩ cầm cuả một trường Quốc gia Âm nhạc ở Hoa Kỳ. Vì thế, trong thời gian lưu vong ở hải ngoại tôi vẫn thường liên lạc , trao đổi thơ từ với anh Phạm Nghệ. Năm 1993, bỗng tôi nhận được thơ anh kể chuyện bất ngờ đã gặp lại vợ chồng chị Akimi ở HK. Anh kể :

-” Hôm ấy là một ngày thứ Tư , có một người bạn làm bác sĩ gọi điện thoại mời tao đến nhà xoa mà chược. Trước sự mời mọc bất thường ấy, tao khỏi ngạc nhiên và thắc mắc, nhưng ông bạn bác sĩ đã giải thích ngay : Vì ông ta mới có hai vợ chồng một người bạn thân ở xa đến chơi , ngỏ ý muốn xoa mà chược , song còn thiếu một chân. Chiều lòng bạn , hôm đó tao đã đến xoa mà chược. Một lát sau, nhà ông bác sĩ lại có thêm một người bạn khác đến chơi. Ông này là một tay rất sính thơ và yêu văn nghệ. Nên câu chuyện quanh bàn mà chược chuyển hướng lần hồi sang chuyện thi phú. Ông bạn mới này mở đầu câu chuyện:

” Trong đời này, trên phương diện thi ca, tôi chỉ phục có một mình nhà thơ Quang Dũng, và thích thơ cuả Quang Dũng nhất...”

Trong lúc phấn khởi , ông ta lại còn cất cao giọng ngâm bài thơ “Quán Bên Đường ” mà ông ta khoái nhất cho mọi người nghe. Sau khi bài thơ đã được ngâm xong , vợ chồng người khách quí cuả ông bác sĩ chủ nhà đã không ngớt lời khen ngợi. Còn tao, nghe xong tao cũng góp chuyện với ông bạn này cho vui , và kể lại chuyện cũ, ngày xưa, tao với mày thân với anh Quang Dũng lắm. Tao cũng kể hiện nay mày đang ở Pháp. Tao còn tỏ ra người biết cả về nguyên nhân đã khiến anh Quang Dũng cảm tác nên bài thơ Quán Bên Đường cho mọi người nghe. Tao nói hôm đó, chị chủ quan bị sốt rét, anh Quang Dũng đã phải cấp tốc đến săn sóc , thuốc men cho chị, đồng thời hôm ấy anh dũng còn dắt thêm cả mày với tao cùng đến quán để lo việc cơm nước cho các cháu nhỏ...

Tối hôm đó, về nhà tao, anh Dũng đã cảm hứng viết nên bài thơ ấy , rồi hôm sau anh đã đem đến quán để ngâm tặng chị... Tao kể, mặc dù bây giờ thời gian ngót nưả thế kỷ đã trôi qua với bao thay đổi khủng khiếp cuả kiếp người VN , nhưng tao vẫn còn nhớ mãi cái tên rất đẹp , nghe rất lại tai cuả chị chủ quán xinh như mộng là Akimi.

Tao dự đoán , lúc bấy giờ hình như chị ấy lớn hơn tao khoảng 3,hay 4 tuổi gì đó. Cuối cùng tao nói với ông bạn ngâm sĩ kia :” Anh ngâm thơ cuả Quang Dũng , tự nhiên làm tôi lại nhớ đến anh Quang Dũng. Anh là người giản dị, vui tính và được nhiều người yêu mến. Ngoài ra anh còn là một thanh niên to cao, đẹp trai, khiến nhiều cô mê lắm... Lúc bấy giờ mải mê kể chuyện dĩ vang xa xưa , tao chẳng còn để ý gì đến cặp vợ chồng người khách quí cuả ông bạn bác sĩ chủ nhà nưã. Người vợ mái tóc đã bạc phơ, nhưng mái tóc ấy vẫn không đủ khả năng xoá hết những nét yêu kiều cuả thời xuân sắc . Còn người chồng trông có vẻ nhỏ tuổi hơn bà vợ. Nhưng xem ra họ yêu đương và quyến luyến nhau lắm. Bàn mà chược kéo dài mãi cho đến 1 giờ sáng mới tạm nghỉ, để giải khát và ăn uống cho no bụng , rồi lại tiếp tục luôn cho đến sáng hôm sau. Trong lúc này , tao thấy cần phải tiểu tiện, nên xin phép chủ nhà vào hậu thất. Khi tao vưà mở cưả bước ra, thì tao thấy bà lão tóc bạc đang đứng chờ sẵn ở ngoài. Bấy giờ , giưã lúc tao còn đang lúng túng, bỗng bà ôm chầm lấy tao, khóc và nói :

- “Anh Nghệ ơi, Akimi mà anh vưà nói bằng xương bằng thịt đây này. Nếu không nghe anh kể chuyện cũ , thì đâu có nhớ anh , và cũng không sao nhận ra anh được. Vì trông anh bây giờ , đã già rồi , cũng khác xưa nhiều lắm!...”

Sau đó , chị Akimi có hỏi thăm mày, rồi cho điạ chỉ và bảo tao viết thơ nói với mày có rảnh viết thơ thăm chị ấy!”... HẾT

 

 

hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 2
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.141 seconds.