Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: Việt Nam- Về tất cả Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 121 phần sau >>
Người gởi Nội dung
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 31/May/2010 lúc 10:04am
 
 SAIGON NGÀY NAY
 
 

Tác Giả : Saigon Echo sưu tầm   

Chúa Nhật, 30 Tháng 5 Năm 2010 20:56

 
 
 
 
 
 Con đường đẹp nhất thành phố Saigon và những cây cầu


Những dãy nhà sàn lụp xụp dọc theo Bến Nghé - Bến Chương Dương - Bến Hàm Tử chạy dài đến bến Phú Định ngày nay không còn nữa mà thay vào đó là 1 con đường rộng thênh thang được mệnh danh là con đường đẹp nhất thành phố Saigon.
 
Con đường này mang tên đại lộ Đông tây vì nó là con đường nối quốc lộ 1A từ miền tây thẳng ra xa lộ Biên Hòa xuyên qua hầm Thủ Thiêm. Con đường chỉ mới hoàn thành giai đoạn thông xe và còn rất nhiều hạng mục chưa hoàn tất. Bờ kè dọc 2 bên con sông vẫn còn ngổn ngang nơi này đầy đá lởm chởm nơi kia vẫn còn cỏ dại mọc đầy, lòng sông được nạo vét múc sạch rác rưởi hàng ngày nên có vẻ sạch sẽ hơn xưa nhưng vẫn có đoạn lòng sông vẫn nổi lều bều rác phế thải. Chắc chừng 1 năm nữa con đường này mới có thể xứng đáng với danh hiệu của nó.
 
Chiều đến con đường này trở nên nhộn nhịp với dòng người đi bộ dọc bờ sông, họ tìm đến đây để hít thở chút không khí mát mẻ và trong lành. Cũng có nhiều người ra ngồi câu cá dọc bờ sông và nhiều người mang những cánh diều ra thả bay bay trông vui mắt. Tôi cũng là 1 trong những người thường xuyên có mặt trên con đường này mỗi buổi chiều.
 
Từ nhà đi thẳng ra chừng trăm mét là cây cầu Nguyễn văn Cừ khá đẹp với 4 nhánh rẻ từ quận 1& quận 5 qua quận 4, quận 7 và quận 8, cứ dọc theo bờ sông đi thẳng ra hướng bến Bạch Đằng con đường thật thoáng mát nên dù  bờ sông chưa được san lấp bằng phẳng, cỏ trồng chưa tươi tốt, không có bóng dáng của cây xanh nhưng cũng là nơi dừng chân ngồi hóng mát của từng đôi lứa trẻ cũng như già
 
 
Đại lộ Đông Tây đoạn đường từ Cầu Kho đến Cầu Ông Lãnh, 3 building màu hồng là của tập đoàn AIA 
 
 
Cây cầu Calmette cũng rất đẹp với nhiều nhánh rẻ
 
 
Đại lộ Đông Tây ngay dốc cầu Calmette
 
 
Cầu Ông Lãnh và cầu Calmette
 
 Đi bộ theo bờ sông từ nhà ra đến cầu Calmette chừng 2 cây số, chặng đi chặng về mất hết 1 tiếng đồng hồ mà mồ hôi nhễ nhại vì trời nóng và lặng gió. Chỉ mong sao bãi cỏ dọc bên sông sớm tốt tươi, lòng sông được nạo vét thật sạch, 2 bên bờ kè sớm hoàn tất để rồi sau này nơi đây sẽ là bến du thuyền. Chiều chiều thả bộ tập thể dục rồi ngồi ngắm du thuyền qua lại cũng vui cái tuổi già... 
 
 
 Đoạn cuối của đại lộ đông tây là hầm Thủ Thiêm sắp hoàn thành
 
Từ nhà đi ngược vào hướng quận 5 là cầu chữ Y cũng đã được xây dựng
mới
 

http://saigonecho.com/main/tintuc/thoisu/18875.html


Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 31/May/2010 lúc 9:40pm
mk
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 04/Jun/2010 lúc 9:20am
Ăn cá trèn đồng bằng sông Cửu Long


Mùa nào dường như cũng có cá trèn. Cá thường bán ở các chợ nhỏ; có hai loại: cá trèn và cá trèn bầu. Cá trèn thường được làm mắm, gọi là mắm cá trèn, có giá đắt hơn mắm thái (mắm cá lóc xắt, xé nhỏ trộn với đu đủ bào).


Cá trèn chiên giòn là món ăn không thể thiếu tại các bữa ăn tại khu du lịch rừng Madagui.


Cá trèn nhỏ, người dân nông thôn thường đem chiên giòn. Món cá trèn chiên giòn được chế biến từ cá còn sống, rửa sạch, phơi nắng vài giờ, ướp nước mắm, muối ăn, bột ngọt, sau đó thả vào dầu sôi, cá vàng, xương giòn rụm thì vớt ra, để ráo dầu. Cá trèn chiên giòn được ăn kèm với nước mắm tỏi ớt, rau rừng, xoài sống. Đây là món không thể thiếu tại các bữa ăn tại khu du lịch rừng Madagui.

Cá trèn lớn hoặc cá trèn bầu đem kho thì rất tuyệt. Có thể kho với rau răm như kho cá kèo hay kho với tóp mỡ để có vị béo thơm, cũng có người chỉ kho với nước mắm, sang thì cho chút thịt bằm… Cá trèn bầu ngon nhất chính là cái bầu (cái nọng) của nó, thịt nhiều, béo ngậy. Người ta còn có cá kho tộ rắc thêm nhiều hành, tiêu lên trên. Món này ăn với cơm gạo nàng hương chợ Đào thì ngon hết ý.

(Theo Đất Việt)
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
ranvuive
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 02/May/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1151
Quote ranvuive Replybullet Gởi ngày: 06/Jun/2010 lúc 4:27am
 
Khai mạc Festival quốc tế Huế 2010
Chương trình khai mạc Festival quốc tế Huế 2010 gồm 2 phần trong hơn 2 tiếng đồng hồ, thể hiện âm hưởng chủ đạo tôn vinh các giá trị truyền thống Việt Nam và cuộc giao lưu đầy bản sắc của các cố đô xưa đại diện cho 5 châu lục.
Xin mời độc giả xem thêm một số hình ảnh trong đêm “Tôn vinh di sản và hội ngộ cố đô 5 châu lục” dưới đây:
 

Mở màn Festival Huế 2010
 

Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh, người có công dựng cố đô Hoa Lư


Rồng Thăng Long


Thiếu nữ Duyên dáng


Hình ảnh bắt đầu cuộc hành trình tôn vinh di sản


“Hội ngộ cố đô”, đoàn Pháp đã làm cả hội trường bất ngờ với những tiết mục sôi  động trong tà áo dài Việt Nam


Rồng Trung Quốc 


Múa Kimono, Nhật Bản


Múa trống truyền thống Hàn Quốc


Cà kheo Bỉ chiếm lĩnh hội trường với những chân cà kheo dài lê thê


Huế - Hà Nội - Sài Gòn hội tụ


Những cô gái Nga cuồng nhiệt với điệu flamingo


5 châu cùng gặp gỡ tại Festival Huế 2010
 

IP IP Logged
ranvuive
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 02/May/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1151
Quote ranvuive Replybullet Gởi ngày: 06/Jun/2010 lúc 4:35am
 
Ngỡ ngàng gặp 1.000 con diều trên cầu Trường Tiền
 
Ngày 5/6, người dân Huế và du khách ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của “đàn diều” 1.000 con đầy đủ sắc màu trên cầu Trường Tiền.
 
Đây là một phần hoạt động văn hóa nằm trong khuôn khổ “Hoạt động cộng đồng” tại Festival Huế 2010, hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Sự kiện sắp đặt 1.000 con diều này có thể lập kỷ lục về diều trong kỳ Festival quốc tế Huế 2010 năm nay.

Theo cảm nhận và quan sát thì diều được trưng bày có hình dạng độc đáo, đủ kích cỡ và màu sắc khác nhau, khiến cho cây cầu bắc qua sông Hương thơ mộng trở nên lạ và lộng lẫy. Diều được treo đủ mọi tư thế: mắc vào vào cầu, dính vào thân tre, ngửa mặt nhìn trời hay sà xuống mặt sông, tạo cảm giác thích thú cho du khách cũng như người dân tham quan.


Dưới đây là một số hình ảnh về lễ hội sắp đặt diều được PV ghi nhận tại cầu Trường Tiền, Huế.

 1.000 con diều rợp cầu Trường Tiền
 Diều bướm lấp lánh
 Diều phượng hoàng
 Con bướm "lạ"
 Hướng về cây phượng trổ bông
 Tung bay lên trời
 Diều trước mặt khách sạn Morin
 "Đàn diều" trên cầu Trường Tiền mang lại vẻ đẹp lạ cho sông Hương.

IP IP Logged
lo cong
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
Quote lo cong Replybullet Gởi ngày: 06/Jun/2010 lúc 12:10pm
 
Cám ơn ranvuive cho xem những bài về Huế rất hay.
Xin gởi tiếp theo đây bài "Huế của một thời" tôi vừa mới nhận được.
Mời đọc.
 

Huế của một thời

   Huế không bao giờ là của tương lai, nơi đó là quá khứ, là những gì đã yên nghỉ, cùng với những linh hồn oan khuất chưa siêu thoát.
   Trong giọng nói, có một cái gì đó gọi là rất Huế, đối với Quảng Nam-Ðà Nẵng, cách nhau một ngọn đèo thì có khác, cũng là điều đương nhiên, nhưng với Quảng Trị, cách mấy mươi cây số đường đồng bằng, giọng Huế không lẫn vào đâu được. Dạ, dạ thưa tiếng nói nhỏ nhẹ dịu dàng.
Vì phải sống trong một hoàn cảnh đặc biệt nên phải kềm giữ sự yên tĩnh, nho nhã theo cung cách quý tộc, quan liêu hay bình dân thôn giã cũng phải nhu mì, gia giáo. Theo các nhà nghiên cứu về thổ âm thì cho rằng, “Ở nơi nước trong thì tiếng nhỏ, ở nơi nước đục thì tiếng tho.ạ” Ðiều rất Huế trong giọng nói này, lâu hóa thành thói quen, được xem là một phong thái lịch sự đặc biệt không đâu có. Làm sao người ta quên được cái tiếng dạ lạ kỳ của người con gái Huế, dạ để khỏa lấp, dạ để từ chối, dạ để đồng ý hay dạ có nghĩa là không gì hết. Làm sao anh chàng trong Quảng ra thi có thể hiểu hay chịu đựng nổi một lối trả lời vô thưởng vô phạt, nhưng nhỏ nhẹ, không thể trách vào đâu của một người con gái Huế mà anh ta muốn làm quen.
-Em tên chi? Dạ!

-Nhà em ở đâu? Dạ!
-Tôi có thể làm quen với em được không? Dạ!
Phải chăng ở nhà trước khi đi Mạ đã dặn không ăn trầu người, đừng để người lân la, trước ngoài sân sau lần vô bếp, tốt hơn hết là cứ dạ cho nhỏ nhẹ, cho lễ phép, cho tới khi mô hết dạ nổi thì thôi. E lệ, khép nép là những đặc tính của người con gái Huế mỗi khi nàng gặp khách lạ như thi sĩ Ðinh Hùng đã ghi lại, “Cô gái Huế đa tình, vành nón nghiêng khép nép.”
Người con gái Huế gặp người lạ, tay thì níu vành nón, sẵn sàng làm mạng che, tay thì quấn tà áo, vừa phòng thủ, vừa tránh những làn gió vô duyên quái ác. Cái thời áo trắng quần trắng đã làm cho bao nhiêu chàng trai phải xốn xang rụng rời trước cái mờ mờ ảo ảo, nửa che mà nửa không của cái sương khói mờ nhân ảnh đó. Bạn cũng biết là nữ sinh Huế không bao giờ mặc quần đen, cái màu không tinh khiết, tội lỗi đó, có gì thì cũng phải che đậy, ngụy trang cho tới cùng.
Tính cách Huế thường là che dấu hay tự chế những cái phàm tục, bao gồm cả trong cách nói năng, ăn mặc, ứng xử. Khách đến nhà, thì gia chủ hay con cái trong nhà, phải quấn lại mái tóc, mặc vội chiếc áo dài, mới dám bước giáp mặt khách, dù thân hay sơ.
Tội nghiệp cho những người con gái Huế phải sinh ra trong những hoàn cảnh bần hàn, với một hai chiếc áo mà phải thay đổi luôn luôn, cứ bước ra khỏi cổng nhà là phải lên áo dài, bất kể đi đâu. Ngày nay phải chăng sự thanh lịch đó còn lại nơi chiếc áo dài, dù là chiếc áo dài cũ, bạc màu, vá víu của người con gái gánh một mớ bông thọ ra chợ, hay nơi bà bán đậu hũ trên vĩa hè, dù chân thì đi đất, miệng còn bập bập điếu thuốc Cẩm Lệ sâu kèn.
Cái ăn, cái ngủ là cái rất riêng tư của người Huế, nhiều khi phải giấu giếm đến mức sợ sệt, chớ có đột nhập nhà người ta vào cái thời điểm ấy. Cái nghèo muốn giấu đã đành, cái sang trọng, người Huế cũng không muốn cho ai biết. Cũng có khi cái nghèo mà nghèo kiểu cách, nghèo cái kiểu mệ chém củ khoai, buổi sáng trên chiếc mâm đồng chỉ có mấy chén cháo trắng thì gọi là “thời” cháo hoa.
Cái ăn không còn là cái khoái trá có thể hả hê trưng bày ra ngoài mà hình như phải giấu kín đi mới gọi là người nho nhã. Cơm đường, cháo chợ, cách đây vài mươi năm, trong xã hội Huế còn được xem là thứ tầm thường, hèn hạ. Bạn có biết là ngồi quán cà phê cụ Phấn là một sự cách mạng lớn trong xã hội Huế vào những thập niên năm mươi không? Ðến như khi cái xe nước mía từ Saigon du nhập ra Huế quả là đã thay đổi nhiều lắm. Ngay cả vào những năm 1950, Huế cũng chưa bao giờ có cái cảnh ăn đứng góc đường như chúng ta thường thấy ở khu Pasteur- Lê Lợi Saigon.
Dân Huế ngày xưa thời phong kiến là vua chúa, quan lại, viên chức triều đình, binh lính và thư sinh, một thời sau đó là quân nhân, công chức và học sinh, sinh viên, không thấy có mấy ngành nghề công nghệ hay thương mãi, con buôn hình như không được trọng vọng mấy trong xã hội nho nhỏ này, cái lối xếp hạng sĩ nông công thương. Các ngành tiểu công nghiệp như chằm nón, đóng khăn, đóng giày, dệt lụa có khi được tuyển chọn từ các địa phương trong cả nước về kinh đô để phục vụ cho giới vua quan, sau đó ra cả cho thứ dân, nhưng không thấy có cơ hội phát triển ra rộng lớn.
Một nơi không có kỹ nghệ, không có nhà máy, không vận dụng nhiều đến cơ khí, thì cũng là một nơi yên tĩnh, nhịp sống lặng lẽ, chậm chạp. Thành phố mang một vẻ cổ kính hiền hòa, và không khỏi đượm một vẻ nghèo khó. Cũng như những thành phố cổ xưa, nhỏ bé khác, Huế như trong một chòm xóm nhỏ mà người dân hầu hết đều biết nhau, và vì sự giao thông hạn chế, chỉ có một chiều ngang theo quốc lộ, một mặt thì ngăn bởi biển, một mặt thì chặn bởi núi, ở đó thành kiến còn nặng nề, cố chấp, ít chấp nhận được cái mới lạ, tân thời. Khoảng năm 1948-49, khi mệ Sen (con vua Thành Thái), một người đàn bà Huế, lần đầu tiên dám lái một chiếc xe hơi Simca Aronde, thì cả thành phố coi đó là một hiện tượng dị thường.
Ðến với Huế, người ta như đi trở ngược lại dòng thời gian, ở đây, quá khứ bao trùm lên tất cả. Ở đâu cũng thấy những dấu vết nhắc ta nhớ tới những ngày tháng đã qua. Cung đình, bia mộ, lăng miếu thời Thăng Long hiện hữu trong gần tám thế kỷ, nhưng đã cách xa ta chừng hai thế kỷ, một phần đã mai một theo thời gian. Kinh đô Thuận Hóa thì vẫn còn đây với những di tích, đền đài, lăng tẩm, với những ngàn thông reo, với những bờ tre xanh mướt bên dòng sông Hương lặng lẽ. Những người đã khuất mà hình như linh hồn còn ở đâu đây, phảng phất bóng tinh kỳ hay tiếng trống chiêng, bát nhã, sênh phách cầm ca. Nơi đây, những dấu ấn của lịch sử còn ẩn hiện trên mỗi bờ thành, góc phố, nơi tấm bia mộ hay trên những lăng tẩm. Nơi đây là dĩ vãng, là tháng ngày qua, người ta về đây là để hồi tưởng, để nhớ nhung. Ở đâu cũng đượm một vẻ buồn, mà người ra đi thường ray rứt muốn có một ngày trở lại. Quê hương là cái gì mà người ta nặng lòng với nó như thế tôi thấy ở đây sao buồn quá! (Ðinh Anh Dũng trong Nhớ Huế).
Quá khứ của Huế được ghi nhận nhiều nhất qua những công trình lăng tẩm mà các vua nhà Nguyễn trước khi băng hà đã chọn cho mình một nơi yên nghỉ kiểu cách và xứng đáng của một bậc đế vương, từ địa thế, khung cảnh tĩnh mịch đến các kiến trúc lộng lẫy. Nơi nào cũng là núi rừng bao la, có đại thụ, có hồ sen cùng với tiếng chim, tiếng suối, tiếng thông reo đem lại cái cảm giác dịu dàng thơ mộng và yên tĩnh cho tâm hồn con người.
Huế không những là vùng đất của quá khứ, mà Huế còn như bao phủ bởi những linh hồn quá vãng, là của hương trầm, là của chuông mõ luôn luôn nhắc nhở tới sự hiện diện của những linh hồn oan khuất. Ðó là những linh hồn chưa siêu thoát trong một bề dày của Huế tang tóc, chết chóc, tức tưởi, của những ngày thất thủ kinh đô, khi giặc Pháp tấn công Huế năm 1885, lúc voi ngựa cùng người dày xéo lên nhau thoát ra bốn cổng thành, của giặc giã thanh toán hận thù nhau qua thời đại tứ nguyệt tam vương của Tường-Thuyết, của hàng ngàn cái chết oan khuất giữa ngày Tết Mậu Thân mà máu xương rải rác từ đồng bằng Phú Thứ cho đến khe sâu Ðá Mài, của thây chất thây trên bờ biển Thuận An dưới cơn mưa pháo 75, của hàng trăm thân xác cuốn theo dòng nước lũ của mùa Thu năm Kỷ Mão. Có chỗ nào âm u, sầu thảm hơn Huế với những địa danh Ngã Tư Âm Hồn, Miễu Âm Hồn, cồn chém An Hòa, Mả Ông Trạng hay cả đến cái quán cơm có cái tên ma quái không đâu có là quán cơm Âm Phủ.
Ban đêm, Huế có chỗ nào là không có lập lòe nén hương, xuýt xoa khấn vái, cầu nguyện. Sau tang tóc Mậu Thân, hãy về Huế mà nghe, nửa đêm về sáng, láng giềng, hàng xóm vang dậy chuông mõ và tiếng tụng kinh cầu nguyện cho những người đã mất sớm được siêu thăng. Huế là nơi đã trải qua nhiều biến cố đau thương, Huế đã than khóc với những tang tóc và oan khuất sẽ không bao giờ phai lạt. Nơi mỗi khu vườn của Huế đều có mỗi am thờ cho những người khuất mặt, với hoa quả, một cành hoa phượng và một ngọn đèo leo lét. Linh hồn những người khuất mặt hình như vẫn còn lẩn khuất đâu đây.
Ngày xưa mỗi năm vào ngày hai mươi ba Tháng Tư Âm lịch, để ghi nhớ ngày thất thủ kinh đô trong lịch sử, khắp nơi, nhất là ở vùng chợ Ðông Ba, người ta đã dựng trai đàn, chẩn tế suốt một tuần lễ theo nghi thức Phật Giáo để cầu siêu cho những linh hồn oan khuất chưa siêu thoát. Cũng như ngày lễ Vu Lan ở Huế có phần trọng đại hơn với những nghi lễ cúng cô hồn các đảng thập phương, phóng sanh, phóng đăng để hồi hướng công đức cho tất cả những người đã mất. Huế không bao giờ là của tương lai, nơi đó là quá khứ, là những gì đã yên nghỉ, cùng với những linh hồn oan khuất chưa siêu thoát.
Nói đến Huế, chúng ta liên tưởng đến những cảnh chùa chiền. Không đâu trên đất nước, trong một vùng đất nhỏ hẹp mươi chục cây số vuông, mà có tới trên một trăm cảnh chùa. Ðược cơ duyên như vậy là do từ gần bốn trăm năm trước. Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Ðế, tên húy Nguyễn Hoàng trong khi vào Nam tìm Hoành Sơn nhất đái để dung thân, đã hạnh ngộ với một bà tiên (hay bụt) trong giấc mơ, chọn đất Hà Khê (Kim Long) để dựng chùa Thiên Mụ. Cho tới những đời vua sau, chùa chẳng những được trùng tu và xây dựng thêm (tháp Phước Duyên xây năm 1844 dưới thời vua Thiệu Trị) mà khắp đất thần kinh, chùa chiền được xây dựng thêm rất nhiều, khiến bây giờ Huế có những cảnh chùa rất đẹp, xét về mặt nguy nga tráng lệ, không thể so với lăng tẩm, nhưng không thiếu khung cảnh u tịch, nên thơ. Báo Quốc, Từ Ðàm, Diệu Ðế, Thuyền Tôn, Tường Vân và nhất là Linh Mụ, là những ngôi chùa đã ghi nhiều kỷ niệm trong lòng dân đất Thuận Hóa, Phú Xuân. Và trong tuổi ấu thơ của mỗi người Huế, ai không ghi dấu lại kỷ niệm của một ngày lên chùa?
Nhớ Huế làm sao khỏi nhớ đến những khu vườn. Vườn là khoảng không gian của thời thơ ấu của mỗi chúng ta, là bóng mát thời trẻ dại, là những nỗi hẹn hò, là những thứ trái cây ngọt ngào hay chua chát mà vẫn mang đầy hương vị của thời mới lớn. Những cây mít, những hàng ổi, những gốc thơm, những chùm khế. Nào nhãn lồng, nào vải trạng, nào là dâu. Có khi là bồ quân, có khi là lựu, có khi là đào. Tuổi ấu thơ và nhất là thời mới lớn, tuổi dậy thì, lòng ai không khỏi ngát hương hoa, trong một khu vườn tĩnh mịch nào đó, với nỗi lòng rung động thuở ban đầu còn trong suốt và đơn giản như những giọt sương mai.
Vườn của những vương phủ với giả sơn, hồ sen, thủy tạ, với những bức bình phong, tường ngăn trang trí bởi những mảnh sứ vỡ làm thành hình Long Lân Quy Phụng hay Mai Lan Cúc Trúc.
Những khu vườn đó đây ở Vĩ Dạ, ở Kim Long, ở Gia Hội, ở Ngự Viên, ở An Cựu là những khu vườn đã mang bao nhiêu lời thơ ý nhạc, mang bao nhiêu tình yêu thuở thiếu thời, là nơi của hẹn hò, mong đợi, thương nhớ
Có phải ngày xưa vườn Ngự Uyển

Là đây hoa cỏ giống vườn tiên
Gót sen nhẹ bước lầu Tôn Nữ
Ngựa bạch buông chùng áo Trạng Nguyên
(Nguyễn Bính)
Vườn Huế ngày Hè còn rộn tiến ve, nhắc nhở tới mùa thi cũng là mùa chia cách. Giữa những buổi trưa yên lặng mùa Hè, một tiếng ve cất lên khởi đầu, rồi muôn ngàn tiếng ve vùng lên phụ họa, tạo nên một khúc hòa tấu, âm thanh lan ra từng vùng rộng lớn. Cùng với hoa phượng nở trên những con đường xứ Huế, tiếng ve đã mang mùa Hè đến bao nhiêu lần trong quãng đời học trò, ghi lại bao nhiêu mối tình, bao nhiêu sum họp và chia ly.
Nhà ở Huế thường làm sâu vào giữa vườn, từ cổng vào nhà có khi phải qua một hàng rào bông cẩn (dâm bụt) hay chè tàu, thỉnh thoảng rắc bởi những sợi dây tơ hồng màu vàng rực. Cậu học trò mới lớn, còn rụt rè, nhút nhát muốn làm quen với cô bé trong nhà làm sao có đủ cam đảm để vượt qua cái con ngỏ dài hun hút đó, hay những đêm trăng, đành thơ thẩn qua lại nơi ngỏ ấy mà ôm mối tình si. Hương trong vườn Huế, có khi là hương bưởi, có khi là hương dạ lý, có khi là hương sói, hương lài, hương mộc lan, cũng có khi là hương sầu đông thơm ngát một khung trời thời trẻ dại. Và đêm vườn Huế làm sao có thể thiếu trăng. Trăng lặng lẽ soi những bóng cây trong vườn, trăng lên trên đọt cau, trăng ướt trên ngọn dừa. Và trăng trên sông Hương, trăng trên màu sáng bạc của cầu Trường Tiền, trăng trên mái thuyền, trăng vỡ dưới mái cheo và ánh trăng rung động theo âm thanh của những tiếng hò đêm trên sông.
Huế với những dòng sông chảy ngang dọc tạo cho Huế một vẻ đẹp tươi mát dịu dàng. Huế có con sông Hương lượn lờ qua Lăng Gia Long, Minh Mạng, qua Ðiện Hòn Chén, qua Văn Thánh, Linh Mụ, Kim Long, về Vỹ Dạ, Cồn Hến, Tây Thượng trước khi tới Thuận An. Huế có con sông đào xinh xắn từ cầu ngói Thanh Toàn, qua An Cựu về Bạch Hổ nắng đục mưa trong, với con sông từ Gia Hội, ngang qua chùa Diệu Ðế qua Ðông Ba tạo nên cái cảnh
“Ðông Ba, Gia Hội hai cầu, ngó vô Diệu Ðế bốn lầu hai chuông,” với con sông đào từ cầu Bạch Hổ, qua Phú Xuân, tới An Hòa. Tất cả dòng sông đó đã ôm ấp Huế, chảy qua những khu nhà vườn, những bậc tam cấp của những khu vườn ven sông, mang những tiếng cười trong trẻo của ai ngày đó vang qua tới bờ sông bên kia. Với những dòng sông như thế, Huế có những con thuyền bềnh bồng trên bến nước, những ngọn đèn hiu hắt bên sông và cả những câu hò vang vọng, mang mang theo sóng nước đi rất xa, và cả với những mối tình chia cắt của ngày nào khi mà
“thuyền về Ðại Lược, duyên ngược Kim Long.”
Nhưng cùng theo với những dòng sông đó, mỗi năm cơn bão lụt đã gieo tai họa thảm khốc xuống Huế. Nghèo đói, tai ương hầu như triền miên trên mảnh đất miền Trung cằn cỗi, nhưng Huế chính là tâm điểm của hiểm họa thiên tai. Có nơi nào chịu nhiều nỗi bất hạnh, thống khổ như Huế. Những xác người trôi ra biển cùng với những mái tranh nghèo theo những cơn nước lũ, cơn đói đổ ập lên cả một vùng đất cằn cỗi trong nhiều ngày tháng. Có nơi nào chịu những cảnh chết chất chồng dày xéo, có nơi nào chịu cảnh chết thảm khốc trong những mồ tập thể như Huế. Phải chăng Huế chịu căn nghiệp của cha ông đã thôn tính, tàn sát, đồng hóa cả một Chiêm Quốc trong một thời Nam tiến.
Huế như một người con gái tài hoa mà bất hạnh. Huế là “nơi đi để mà nhớ, không phải ở để mà thương.” Người xa Huế như xa một mối tình không trọn vẹn, nhưng xa rồi, thương nhớ xót xa biết bao nhiêu. Huế là nỗi ám ảnh không rời, Huế là nơi gợi cho chúng ta những giấc mơ xưa không bao giờ thành, là nơi chúng ta thường mong ngày trở lại nhưng không bao giờ đúng hẹn. Chúng ta khó tìm lại những gì của Huế trong thời thơ ấu của chúng ta, như không thể “tắm hai lần trong một dòng sông,” như không thể tìm lại mùi vị của một món ăn ngày trước, hương thơm dịu dàng của một đêm trăng sáng trong vườn xưa, và một mối tình xa xôi đã mờ nhạt.
Huy Phương

 

Anh ơi, răng không nên rứa hè?

Nhớ hồi tui còn nhỏ, Mạ tui hay nhắc tui: “Đừng nói rứa không nên con”, hay “Đừng vô trông nớ không nên” hay “Đừng làm rứa không nên”.
Mạ nói (noái) răng thì nghe rứa thôi, cha còn tại răng mà không nên thì tui cũng không biết. Hồi đó danh từ “không nên” mang một ý nghĩa chi đó có vẻ huyền bí, ma quái, rùng rợn, đáng sợ, đáng kiên. Cho nên khi nghe nói cái chi không nên là thôi không dám làm, dám nói nửa. Rồi tụi nhỏ cũng chuyền miệng nhau cái này không nên, cái khác không nên. Nghe rất chi là u ám.
Cho đến khi lớn sầm sầm rồi mà cũng còn chưa hiểu rõ ý nghĩa của hai từ “không nên”. Chỉ nói lại theo cách xưa bày nay làm mà thôi. Rồi cũng chuyền lại cho con cái như rứa: “không nên, không nên”.
Chừ thì tuổi cao, tác lớn, tóc bạc, da mồi, cuôc đời đã trải qua không biết mấy là chìm nổi, khổ đau rồi nên chẳng còn chi mà phải kiên khem nửa. Vả lại cũng đã gần đất xa trời rồi (bậy, đừng nói rứa không nên!) mới bớt phần bôn ba với cuộc sống và có ít thì giờ suy tư về nền văn hoá Việt Nam (nói cho lớn chuyện để hù thiên hạ chơi), và phong tục của Huế mình.
Rứa thì không nên là răng? Hỏi để tự trả lời.
Danh từ không nên có nghĩa là không nên, rứa ni. Không nên làm, không nên nói. Nhưng mà nếu nói không nên làm thì không có chi cả, nhưng nếu nói đừng làm rứa không nên thì tự nhiên mình cũng hơi sợ sợ, phải không.
Trình căn cước như rứa đã rõ chưa hè. Huế rặc rồi chơ còn chi nửa!
Sáng thứ bảy dậy ra vườn săn sóc mấy chậu bông xong vừa vô nhà ngồi uống miếng nước trà thì đã nghe từ trong nhà vọng ra: Anh ơi! Làm tôi giật cả mình. Lại cái chi nửa đây không biết. Khi mô bà vợ gọi anh ơi thì biết chắc là sắp có chuyện làm. Tiếng anh ơi càng ngọt thì chuyện làm càng khó khăn.
Anh ơi, răng cái đèn không đỏ? Anh ơi, răng vòi nước rửa chén cứ rỉ hoài ri? Anh ơi, răng cái cầu cứ nghe kêu xè xè hoài rứa. Răng, răng, răng.
Biết vậy nên khi nghe kêu tôi vẫn ngồi tỉnh bơ, làm như không nghe.
- Anh ơi !! Anh ơi !!

- Chi mà ồn rứa hè. Tôi nói vọng vô cho qua chuyện.
- Nì, con gái mình nói nó đã có bầu rồi đó.
- Thì sao? Tôi hỏi lại
- Thuở trước nghe mẹ em dặn mỗi khi có bầu là phải kiêng cử nhiều điều thần bí. Vói cao là không nên, ngồi chiếu xéo là không nên. Tại răng rứa anh. Cắt nghĩa để em còn dặn con.
Tôi nghe xong thở phào một cái. Cứ tưởng bà sai làm chuyện chi. - Muốn hỏi thì ra đây uống nước trà rồi anh nói cho mà nghe. Tôi chậm rãi khề khà.
Đàn bà Việt nam mình ngày xưa thân hình ốm yếu nên lúc có thai phải kiêng cử nhiều điều. Khi mang thai mà nhón chân, vói cao thì làm cho bắp thịt bụng phải bóp lại khiến cho dạ con co thắt có thể bị sẩy thai. Ngày trưóc làm dâu Huế cực khổ lắm, nhất là gặp một bà mẹ chồng khó khăn sai bảo con dâu làm lụng tối ngày bất kể đến sức khỏe, đến thai nghén. Do vậy cho nên ông bà mình muốn bảo vệ các cô gái còn nhỏ mới về làm dâu đã đặt ra cái điều kiêng khem này để đở bị mẹ chồng hành hạ. Nghe chưa?
- À rứa hả nghe rồi. Nhưng còn tại rằng ngồi chiếu xéo không nên?
- Đó là vấn đề thai giáo. Người xưa nói:” Trịch bất chính bất tọa” nghĩa là chiếu trải không ngay thì không ngồi để nói lên cái tâm chính trực của người quân tử. Do đó bà mẹ mang thai muốn con mình sau này là người ngay thực thì phải tập cho con từ lúc còn trong bụng mẹ. Mội bà mẹ ăn nói cẩn thận, đứng ngồi cẩn thận thì sau này đứa con sinh ra cũng ảnh hưởng những tánh tốt như vậy. Biết chưa?
- Rứa mà lâu nay em nghe nói không nên, cứ tưởng có gì linh thiêng lắm không được làm nên em cũng kiêng.
- À té ra làm mà không hiểu chi cả! Cái chi cũng hỏi.
Vợ tôi vừa bỏ đi vừa lầm bầm:
- Xí, bởi rứa ta mới lấy chồng Huế chơ.
Giao Thủy (nhohue.org)

 

 

 

Lộ Công Mười Lăm
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 06/Jun/2010 lúc 11:40pm

Anh ơi, răng không nên rứa hè?

 

 

 

Nhớ hồi tui còn nhỏ, Mạ tui hay nhắc tui: “Đừng nói rứa không nên con”, hay “Đừng vô trông nớ không nên” hay “Đừng làm rứa không nên”.

 

 

Mạ nói (noái) răng thì nghe rứa thôi, cha còn tại răng mà không nên thì tui cũng không biết. Hồi đó danh từ “không nên” mang một ý nghĩa chi đó có vẻ huyền bí, ma quái, rùng rợn, đáng sợ, đáng kiên. Cho nên khi nghe nói cái chi không nên là thôi không dám làm, dám nói nửa. Rồi tụi nhỏ cũng chuyền miệng nhau cái này không nên, cái khác không nên. Nghe rất chi là u ám.

 

Cho đến khi lớn sầm sầm rồi mà cũng còn chưa hiểu rõ ý nghĩa của hai từ “không nên”. Chỉ nói lại theo cách xưa bày nay làm mà thôi. Rồi cũng chuyền lại cho con cái như rứa: “không nên, không nên”.

 

Chừ thì tuổi cao, tác lớn, tóc bạc, da mồi, cuôc đời đã trải qua không biết mấy là chìm nổi, khổ đau rồi nên chẳng còn chi mà phải kiên khem nửa. Vả lại cũng đã gần đất xa trời rồi (bậy, đừng nói rứa không nên!) mới bớt phần bôn ba với cuộc sống và có ít thì giờ suy tư về nền văn hoá Việt Nam (nói cho lớn chuyện để hù thiên hạ chơi), và phong tục của Huế mình.

Rứa thì không nên là răng? Hỏi để tự trả lời.

 

Danh từ không nên có nghĩa là không nên, rứa ni. Không nên làm, không nên nói. Nhưng mà nếu nói không nên làm thì không có chi cả, nhưng nếu nói đừng làm rứa không nên thì tự nhiên mình cũng hơi sợ sợ, phải không.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trình căn cước như rứa đã rõ chưa hè. Huế rặc rồi chơ còn chi nửa!

 

Sáng thứ bảy dậy ra vườn săn sóc mấy chậu bông xong vừa vô nhà ngồi uống miếng nước trà thì đã nghe từ trong nhà vọng ra: Anh ơi! Làm tôi giật cả mình.

 

Lại cái chi nửa đây không biết. Khi mô bà vợ gọi anh ơi thì biết chắc là sắp có chuyện làm. Tiếng anh ơi càng ngọt thì chuyện làm càng khó khăn.

Anh ơi, răng cái đèn không đỏ?

Anh ơi, răng vòi nước rửa chén cứ rỉ hoài ri?

Anh ơi, răng cái cầu cứ nghe kêu xè xè hoài rứa.

Răng, răng, răng.

 

 

 

Biết vậy nên khi nghe kêu tôi vẫn ngồi tỉnh bơ, làm như không nghe.

- Anh ơi !! Anh ơi !!

- Chi mà ồn rứa hè. Tôi nói vọng vô cho qua chuyện.

- Nì, con gái mình nói nó đã có bầu rồi đó.

- Thì sao? Tôi hỏi lại

- Thuở trước nghe mẹ em dặn mỗi khi có bầu là phải kiêng cử nhiều điều thần bí. Vói cao là không nên, ngồi chiếu xéo là không nên. Tại răng rứa anh. Cắt nghĩa để em còn dặn con.

 

 

Tôi nghe xong thở phào một cái. Cứ tưởng bà sai làm chuyện chi. - Muốn hỏi thì ra đây uống nước trà rồi anh nói cho mà nghe.

Tôi chậm rãi khề khà.

 

Đàn bà Việt nam mình ngày xưa thân hình ốm yếu nên lúc có thai phải kiêng cử nhiều điều. Khi mang thai mà nhón chân, vói cao thì làm cho bắp thịt bụng phải bóp lại khiến cho dạ con co thắt có thể bị sẩy thai. Ngày trưóc làm dâu Huế cực khổ lắm, nhất là gặp một bà mẹ chồng khó khăn sai bảo con dâu làm lụng tối ngày bất kể đến sức khỏe, đến thai nghén. Do vậy cho nên ông bà mình muốn bảo vệ các cô gái còn nhỏ mới về làm dâu đã đặt ra cái điều kiêng khem này để đở bị mẹ chồng hành hạ. Nghe chưa?

 

- À rứa hả nghe rồi. Nhưng còn tại rằng ngồi chiếu xéo không nên?

- Đó là vấn đề thai giáo.

Người xưa nói:” Trịch bất chính bất tọa” nghĩa là chiếu trải không ngay thì không ngồi để nói lên cái tâm chính trực của người quân tử. Do đó bà mẹ mang thai muốn con mình sau này là người ngay thực thì phải tập cho con từ lúc còn trong bụng mẹ.

 

 

Mội bà mẹ ăn nói cẩn thận, đứng ngồi cẩn thận thì sau này đứa con sinh ra cũng ảnh hưởng những tánh tốt như vậy. Biết chưa?

- Rứa mà lâu nay em nghe nói không nên, cứ tưởng có gì linh thiêng lắm không được làm nên em cũng kiêng.

- À té ra làm mà không hiểu chi cả! Cái chi cũng hỏi.

Vợ tôi vừa bỏ đi vừa lầm bầm:

- Xí, bởi rứa ta mới lấy chồng Huế chơ.

Giao Thủy (nhohue.org)

a

ANH ƠI ! TẠI SAO BẢO “KHÔNG NÊN !” VẬY ANH !?

 

 

Nhớ hồi nhỏ, Mẹ tôi hay nhắc:

“Đừng nói vậy ! Không nên con nhé !”

“Đừng vào chỗ đó ! Không nên !”

“Đừng làm vậy ! Không nên !”.

 

Mẹ bảo sao thì nghe vậy chứ tại sao mà “không nên” thì tôi cũng chưa biết. Hồi đó lời dặn “không nên” mang một ý gì đó có vẻ huyền bí, ma quái, rùng rợn, đáng sợ, đáng kiêng dè,…nên khi nghe nói điều gì “không nên” là thôi. Không dám làm, không dám nói nửa. Rồi tụi nhỏ cũng chuyền miệng nhau cái này không nên, cái khác không nên. Nghe rất chi là u ám.

 

Đến khi trưởng thành mà cũng còn chưa hiểu rõ ý nghĩa của hai tiếng “không nên”, chỉ nói lại theo kiểu “xưa bày nay làm” mà thôi. Rồi cũng truyền lại cho con cái như vậy: “Không nên”, “Không nên”.

 

Giờ tuổi cao, đời đã trải biết mấy chìm nổi, khổ đau nên chẳng còn gì phải kiêng khem nữa. Vả lại cũng đã gần đất xa trời rồi (bậy, đừng nói vậy không nên!) mới bớt phần bôn ba và thêm ít thì giờ suy tư về nền văn hoá Việt Nam (nói cho lớn chuyện để hù thiên hạ chơi), và phong tục xứ Huế.

Vậy thì “Không nên !” là gì ? Hỏi để tự trả lời.

 

 

 

Cụm từ “Không nên !” có nghĩa là …. “Không nên !”. Có vậy thôi !. Không nên làm, không nên nói.

 

Nhưng mà nếu nói “Không nên làm” thì không có gì cảnh báo nguy hiểm đe doạ cả, nhưng nếu nói “Đừng làm vậy ! Không nên !” thì tự nhiên mình cũng hơi sợ sợ, phải không ạ !?.

 

..

 

Giải thích như vậy không biết đã kỹ lưỡng chưa nhỉ !?. Cũng đậm chất Huế rồi chứ còn gì nữa!

 

Sáng thứ Bảy dậy ra vườn săn sóc mấy chậu hoa xong vừa vô nhà ngồi nhấp ngụm nước trà thì đã nghe từ trong nhà vọng ra: Anh ơi! Làm tôi giật cả mình.

 

Lại cái gì nữa đây không biết !?. Khi nào bà vợ gọi “Anh ơi !” thì biết chắc là sắp có chuyện làm. Tiếng “Anh ơi !” càng ngọt ngào thì chuyện làm càng khó khăn.

“Anh ơi, sao cái đèn không sáng?”

“Anh ơi, sao vòi nước rửa chén cứ rỉ mãi?”

“Anh ơi, sao cái bồn cầu cứ nghe kêu xè xè vậy anh ?”

Sao ?. Sao ?. Sao ?

 

Biết vậy nên khi nghe gọi tôi vẫn ngồi tỉnh bơ, làm như không nghe.

- Anh ơi !! Anh ơi !!

- “Vụ gì mà rần rần vậy em ?” Tôi nói vọng vào cho qua chuyện.

- “Anh này! Con gái mình cho biết nó đã có thai rồi anh ạ !.

- Thì sao? Tôi hỏi lại

- Thuở trước nghe mẹ em dặn mỗi khi có thai là phải kiêng cử nhiều điều thần bí như không nên vói cao, không nên ngồi chiếu lệch,...Sao vậy anh !?. Anh giải thích để em còn dặn con.

 

Tôi nghe xong thở phào một cái. Cứ ngỡ bà sai bảo chuyện gì.

- “Muốn hỏi thì ra đây uống nước trà rồi anh nói cho mà nghe”. Tôi chậm rãi khề khà:

 

- Đàn bà Việt Nam mình ngày xưa ốm yếu nên lúc có thai phải kiêng cử nhiều điều – nếu nhón chân, vói cao thì làm cho bắp thịt bụng phải bóp lại khiến cho dạ con co thắt có thể bị sẩy thai. Ngày trưóc làm dâu Huế cực lắm, nhất là gặp bà các mẹ chồng khó tính ưa sai bảo con dâu làm lụng tối ngày bất kể sức khỏe, thai nghén. Để bảo vệ các cô dâu mới,  ông bà mình đã đặt ra những điều kiêng cử này để các bà mẹ chồng bớt hành hạ nàng dâu. Hiểu chưa?

 

- À vậy à ! Hiểu rồi. Nhưng còn tại sao ngồi chiếu lệch cũng “không nên”?

- Đó là vấn đề thai giáo.

Người xưa nói “Chịch bất chính bất tọa” nghĩa là nếu gặp chiếc chiếu (chịch) trải không ngay ngắn (bất chính) thì thai phụ không ngồi (bất toạ) - để nói lên ý hướng về cái tâm ngay thẳng, chính trực của người quân tử. Người mẹ mang thai muốn con mình sau này thành người ngay thẳng thì phải tập cho con từ lúc còn trong bụng mẹ.

 

 

Người mẹ ăn nói cẩn thận, đứng ngồi cẩn thận thì sau này đứa con sinh ra cũng ảnh hưởng những tánh tốt như vậy. Biết chưa?

- Vậy mà lâu nay em nghe nói “Không nên !” cứ tưởng có gì linh thiêng không được làm nên em cũng kiêng.

- À ! Hoá ra làm mà không hiểu nên thường hay hỏi nhỉ !?.

Vợ tôi vừa bỏ đi vừa làu bàu:

- Xí ! Bởi vậy người ta mới lấy chồng Huế chứ bộ !.

b

.

.



Chỉnh sửa lại bởi Hoang_Ngoc_Hung - 07/Jun/2010 lúc 2:55am
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
ut13
Newbie
Newbie


Tham gia ngày: 12/Jul/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22
Quote ut13 Replybullet Gởi ngày: 07/Jun/2010 lúc 12:34pm
Việt Nam! Ôi Việt Nam! Huế, Sài Gòn, Hà Nội..
Mỗi nơi mỗi vẻ mười phân vẹn....một tấc.
Nhìn ảnh và đọc nhiều chuyện của anh chị ở trên mà Út em đây nao nao trong bụng. Chắc em phải khăn gói quả mướp di tản vợ con về cố hương hưởng phước. Anh, Chị nghĩ sao??
IP IP Logged
ranvuive
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 02/May/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1151
Quote ranvuive Replybullet Gởi ngày: 09/Jun/2010 lúc 9:16am
 
Con đường áo dài giữ nét cố đô
 
Cũng như sự trường tồn của sông Hương, núi Ngự… áo dài Huế là nét đặc trưng của đất cố đô vẫn được lưu truyền và gìn giữ cho đến ngày nay.


Các tiệm may áo dài nằm san sát nhau.

Mỗi lần có dịp đi ngang con đường Bến Nghé (Phường Phú Hội, TP Huế), du khách sẽ được chiêm ngưỡng một con đường áo dài với nhiều màu sắc, hoa văn rực rỡ. Nơi đây có đến hàng chục gian hàng trưng bày vải và các áo dài truyền thống với đủ mọi chất liệu và kiểu dáng như: Gấm, lụa, voan kính…

Chị Bích Thủy, một chủ tiệm may trên đường Bến Nghé cho biết: “Một chiếc áo dài may chỉ trong thời gian một đến hai ngày. Hiện nay có rất nhiều kiểu dáng mà các bạn trẻ ưa thích như áo dài suôn, áo cách điệu cổ tròn, vạt áo cao… để tiện mặc và đi lại”.

Điều đặc biệt ở các quán may áo dài hầu hết là nam giới. Để làm nên một chiếc áo dài người thợ phải tỉ mỉ cho từng khâu như chọn vải, màu vải, chất vải rồi sau đó mới khâu kỹ thuật tạo hình, cắt may.

Không chỉ người dân Huế đến mua mà bất kể ai, dù là khách du lịch ghé thăm tiệm may đều được các chủ quán tận tình chỉ bảo cách lựa chọn áo dài truyền thống: áo dài ôm sát lấy người, vạt dài đến mắt cá chân, cổ vuông thấp hoặc cao vừa phải, quần rộng. Có thể rất mơ hồ, nhưng trong những chiếc áo dài Huế, có một vẻ gì đó vừa kiêu sa vừa đài các và dịu dàng của những bước chân cung đình.

Cũng như đặc sản của từng vùng, mỗi lần du khách đến Huế khi ra về cũng đều mua về cho mình hay có thể cho người thân một bộ áo dài xứ Huế. Có những người không phù hợp với mẫu mã thì cũng mua cho mình vài mét vải may áo dài về làm quà.

“Áo dài là nét riêng của Huế. Thế nhưng cuộc sống hiện đại ngày nay, khó có thể tìm thấy bóng dáng những cô gái Huế yểu điệu thướt tha trong tà áo dài tím trên phố xá. Vì thế, để giữ nét truyền thống của đất cố đô này, chúng tôi luôn tìm cách gìn giữ và phát huy nét đẹp này, để mỗi du khách đến Huế đều cảm nhận được vẻ đẹp thướt tha của chiếc áo dài truyền thống xứ Huế”, anh Hào, chủ tiệm may Trương Anh Hào, tâm sự.
(Internet)
 
 

IP IP Logged
ranvuive
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 02/May/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1151
Quote ranvuive Replybullet Gởi ngày: 09/Jun/2010 lúc 9:19am
 
 Chiều Hương Giang
 
 
Sông Hương là quà tặng vô giá của tạo hóa dành cho Huế. Cái tên Hương Giang luôn gắn liền với Huế, trở thành một cảnh đẹp biểu trưng không thể tách rời khi nhắc đến Huế.

Một đoạn sông Hương và cầu Bạch Hổ chiều sương mù bảng lảng nhìn từ Kim Long.

Một trong truyền thuyết kể lại Chúa Nguyễn Phúc Thái một hôm nằm ngủ mơ thấy một bà mụ già đầu tóc bạc phơ nói với Chúa rằng: "Ngài hãy thắp một nén hương bắt đầu từ đồi Hà Khê (tức chùa Thiên Mụ) cầm đi về hạ lưu dọc theo con sông này, đến chỗ nào hương tàn thì đó là nơi đóng đô, và cơ nghiệp đó sẽ muôn đời bền vững". Chúa giật mình thức dậy, cho là điềm lạ, bèn thực hiện lời báo mộng của bà mụ Trời ngay sáng hôm sau. Khi đến ngang nơi thấy địa thế rất đẹp, phía nam có một ngọn núi trông giống như một cái bình phong, hai bên có hai ngọn núi khác thấp hơn đứng đầu, Chúa mừng rỡ quyết định dời đô về địa điểm Đại Nội ngày nay. Nhân việc bà mụ bảo cầm hương đi về hạ lưu con sông nên mới đặt tên là Hương để ghi nhớ việc này.

Chiều tà, không gian ánh một sắc tím đặc trưng Huế.

Sông Hương, một tập hợp của hàng trăm con suối nhỏ xuất phát từ dãy Trường Sơn hùng vĩ trùng điệp theo nhau về xuôi, hợp nhau thành hai nhánh chính Tả Trạch và Hữu Trạch. Đến Bằng Lãng cùng hợp nước uốn lượn quanh co giữa một vùng rừng núi bạt ngàn xanh ngắt rồi dòng sông đổi hướng rẽ về đông, lững lờ trôi về xuôi vượt ngang kinh thành Huế, cuối cùng nhập vào phá Tam Giang cùng đổ về biển xanh.

Dòng Hương Giang nước xanh biếc, hiền hòa, êm ả, nhưng ít ai biết rằng vào khoảng tháng 8-9 âm lịch hàng năm nước sông dâng rất cao, tràn lên bờ chảy xiết, gây lụt lội lớn cho một vùng rộng lớn ở Huế. Khi nước rút, một lượng phù sa lớn được để lại như một sự bồi thường của thiên nhiên, bồi đắp cho hai bờ thêm màu mỡ.

Dòng Hương khúc chảy qua Cồn Hến- Vĩ Dạ. Dòng nước êm ả chở theo bao nhiêu phận người.

Tới Huế, chiều chiều tôi thích lang thang dọc bờ sông Hương, nhìn ngắm dòng nước hiền hòa yên ả, nhìn ngắm những vạn đò với những chiếc thuyền lá mỏng manh. Sông Hương vào những ngày đầu năm còn chút hơi lạnh, trời đất vương chút âm u sương giá, chợt thấy nao lòng với cảnh đẹp êm ả bình dị mà không phải nơi nào cũng có được.
 

IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23875
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Jun/2010 lúc 3:01pm
ĐỘNG PHONG NHA KẺ BÀNG


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 10/Jun/2010 lúc 3:02pm
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 121 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 2.805 seconds.