Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh
Message Icon Chủ đề: Đập gương xưa tìm... chút dư hương cũ. Gởi trả lời Gởi bài mới
Trang  of 9 phần sau >>
Người gởi Nội dung
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Chủ đề: Đập gương xưa tìm... chút dư hương cũ.
    Gởi ngày: 15/Mar/2010 lúc 12:02am
 
 
 
 

Tem và Bưu Thiếp VNCH
Internet;
19 Février 2010

Ngoại tôi vẫn thường nhắc đến chuyện ngày xưa..thật là xưa lúc bà chỉ có mấy tuổi theo ông cố ông sơ đi tận vào cái xứ Xẻo Rô này để khai khẩn đất hoang lập ruộng lập vườn , ngồi trên bộ ván phía sau hè ngoại chỉ tay vào cái khoảnh rừng rậm phía sau nhà còn sót lại mấy đám dừa nước mọc chen lẩn với mấy cây ô rô , cóc kèn ..bà nói là ngày xưa nơi đó là cái ổ cọp..xa hơn nửa là đám rừng ngập nước cây bần cây tràm mọc chen lẩn đan chằng chịt với nhau nơi đó vô số ổ ong nhưng dưới đất thì cũng đầy cá sấu.

Mẹ tôi cũng lớn dần theo mảnh đất này..rồi bọn cọp dữ ..đám cá sấu cũng rút đi theo từng bứơc tiến của những con người khai phá đất hoang.

Postcard QUÊ NGOẠI gởi đi Canada ngày 18-6-1969
với 2 con tem Kỷ Niệm 50 năm ngày Quốc Tế Lao Động.

Con rạch nhỏ trước nhà ngoại cũng được đào lớn ra thành con kinh rộng rải chạy thẳng tấp nối liền với những khúc sông khác mang nứơc ngọt đầy phù sa đổ vào vùng đất ngập mặn này , ghe giang hồ bắt đầu cặp bến để trao đổi những sản vật từ thành thị lấy những món đồ quí nơi đây..mật ong..tôm cá.Bà con dân giang hồ sông nước sống hẳn trên chiếc thuyền rày đây mai đó buôn bán nhưng cũng không bao giờ quên được cái lể nghỉa đạo đức của ông bà..trên chiếc thuyền có lập hẳn bàn thờ ông thiên làm nơi cúng quảy.

Postcard CON THUYỀN với BÀN THỜ ÔNG THIÊN gởi đi Canada ngày 11-8-1969.

Khác hẳn với quê ngoại..quê nội tôi ở miền Trung nước Việt giáp với biển Thái Bình nhà nội tôi nằm trên một ốc đảo xung quanh là những đầm tôm đầm cá được bao bọc bởi năm ngọn núi che chở gió biển lồng lộng quanh năm.

Postcard ĐẦM TÔM trên vụng biển AN KHE gởi đi Canada
ngày 15-12-1969 với bộ tem Tổng Động Viên.

Những ngày rảnh rổi không có việc làm ở đầm tôm trai tráng trong làng đi ra ngoài cảng biển khuân vác những bao gạo , thực phẩm từ tàu lớn chuyển sang tàu nhỏ để mang vào bờ.

Postcard PHU KHUÂN VÁC TRÊN BIỂN gởi đi Canada ngày 23-10-1969 với 3 con tem.

Qua các lớp tiểu học ở quê cha mẹ tôi được ông bà nội và ngoại gởi lên Sài Gòn để tiếp tục bậc Trung Học..là con nhà nghèo phải ở nơi xa thành phố mà bây giờ gọi là những quận ngoại thành..mổi buổi sáng hai ông bà phải ngồi xe thổ mộ (xe ngựa) để đến trường , có lẽ cùng cảnh cùng chí hướng hai ông bà đã cảm kích lẩn nhau và sau khi tốt nghiệp Trung Học và có được việc làm ổn định cha tôi đã về quê rước ông bà nội vào tận miền Tây để xin lể cầu hôn.

Postcard XE NGỰA trên bến xe ngựa trước Sở Hỏa Xa Sài Gòn gởi đi Mỹ ngày 10-5-1960.

Tôi lớn lên trong vòng tay thương yêu của cha mẹ , mặc dầu cả hai làm việc cực nhọc nhưng buổi cơm chiều của gia đình bao giờ cũng ấm cúng và tràn đầy tiếng cười.

Postcard BUỔI CƠM CHIỀU gởi đi Canada ngày 11-7-1969
với 2 con tem Năm Quốc Tế Nhân Quyền.

Cha tôi mổi ngày xách cặp táp đi làm cho Khách Sạn Caravelle thật đúng giờ cứ 8 giờ sáng là đi..5 giờ chiều là về tới nhà.

Postcard HOTEL CARAVELLE gởi Bỉ ngày 1-6-1969 với 2 tem chim hình tam giác.

Mẹ tôi có một sạp bán rau cải trong Chợ Củ gần đường Hàm Nghi..sau giờ học anh chị em chúng tôi ra đây để tiếp mẹ dọn dẹp cửa hàng.

Postcard CHỢ CỦ gởi đi Canada ngay 22-10-1969 với bộ tem Tổng Động Viên.

Đối với tôi SÀI GÒN đích thực là QUÊ HƯƠNG , tôi lớn lên từ thành phố này..rong chơi khắp nẻo đường ngoài giờ học , khi thi đậu vào Trường Kỷ Thuật Phú Thọ cha tôi thưởng cho tôi một chiếc xe Velo-Solex..ô i sung sướng làm sao..

Postcard VÒNG QUAY TRƯỚC THƯƠNG XÁ TAX
và chiếc xe VELO-SOLEX gởi đi Canada ngày 20-4-1970.

Từ nhà thờ Đức Bà tôi phóng thẳng về đường Lê Thánh Tôn qua khỏi chợ hoa ghé vào cái sạp bán bún thịt nướng làm một tô..ai mà đi ngang hàng bún thịt nướng của dì Bảy mà không ghé là không được...mùi thịt nướng thơm lừng.

Postcard NHÀ THỜ ĐỨC BÀ gởi đi Canada ngày 19-9-1969.

Postcard CHỢ HOA gởi đi Canada ngày 6-11-1969.

Postcard HÀNG BÚN THỊT NƯỚNG gởi đi Belgique ngày 1-8-1970.

Những ngày thứ bảy hoặc chủ nhật tôi thường dạo phố Sài Gòn...từ đường Gia Long (bây giờ là Lý Tự Trọng) tôi gởi chiếc xe Velosolex nơi nhà bà cô có tiệm bán vải , đi bộ qua chợ Sài Gòn thẳng ra Công Trường Quách thị Trang rồi theo đại lộ Lê Lợi đi về hướng đường Nguyển Huệ vào thương xá Tax đi lòng vòng ...rồi trở về lại Gia Long theo lộ trình củ đôi khi còn ghé ngang góc đường Trương Định và Lê Thánh Tôn nơi có cái sạp bán đồ khô ngoài vỉa hè để mua cho mẹ đòn bánh Tét hay cho mấy đứa em vài cục kẹo dừa ngọt lịm.

Postcard đường Gia Long gởi đi Canada ngày 18-8-1969.

Postcard công trường Quách thị Trang gởi đi Canada ngày 14-3-1970.

Postcard tượng Quách Thị Trang gởi đi Belgique ngày 20-6-1970.

Postcard đường Nguyển Huệ nhìn từ Tòa Đô Chính gởi đi Mỹ ngày 22-6-1966.


Postcard Quầy Bán Đồ Khô gởi đi Canada ngày 18-6-1969.

Sở Thú (Thảo Cầm Viên) cũng là nơi anh chị em chúng tôi rất thích vào dạo chơi xem chim cò và thích nhất là ngồi nghỉ chân trên những băng đá xung quanh hồ sen.Vào dịp hè khi gia đình có một chút tiền dư thì cha mẹ cho các anh em chúng tôi ra Cấp (Vũng Tàu) để tắm biển , thật là thích thú khi nhìn cảnh ghe thuyền đánh cá trở về Bãi Trước đầy cá tôm cua ghẹ..ôi những con ghẹ bông thật là to .

Postcard Sở Thú gởi đi Belgique ngày 15-8-1969.

Postcard Vũng Tàu gởi đi Belgique ngày 16-8-1969.

Dù xa QUÊ HƯƠNG tôi vẩn không bao giờ quên được Sài Gòn với những chiếc xe thổ mộ kết nối tình duyên của song thân ..với những gánh hàng rong khắp nẽo đường thành phố với những tòa nhà dinh thự lộng lẩy.

Postcard Xe Thổ Mộ mang tên Sài Gòn một Paris của Á Châu.

Postcard Gánh Hàng Rong gởi đi Canada ngày 18-2-1970.



Postcard Dinh Độc Lập ( Hội Trường Thống Nhất) gởi đi Belgique ngày 10-8-1969.


Bài nầy xin tặng đến những bạn xa QUÊ HƯƠNG và những người con của Sài Gòn năm xưa.

 

http://www.congdongnguoiviet.fr/VanHoa/1002TemBuuThiepVNCH.htm

mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 15/Mar/2010 lúc 12:04am
 
 
 
 
Mời vào link này  tham khảo thêm :
 
 
mk
IP IP Logged
Huy-Tưởng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 15/Aug/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 164
Quote Huy-Tưởng Replybullet Gởi ngày: 03/Apr/2010 lúc 12:48am

Postcard tượng Quách Thị Trang gởi đi Belgique ngày 20-6-1970.

Nếu tôi là người chưa từng ở Saigon trước năm 1975

Và.. nếu  tôi là người chưa hề biết Quách-thị Trang là ai..

 Khi thoạt nhìn một Tượng-đài cao với một vị Tướng-quân đang cưỡi ngựa,tay đang thả một con chim bồ-câu trong Postcard nầy với giòng chú- thích

Postcard tượng Quách Thị Trang gởi đi Belgique ngày 20-6-1970.

Tôi sẽ ngạc-nhiên tự hỏi Quách-thị-Trang là vị nữ tướng của triều vua nào vậy???

Thưa không??. Tôi xin phép có vài lời giải-thích:

Bàn thờ và tượng Quách-thị-Trang được đặc bên dưới tượng-đài của tướng Trần-Nguyên-Hãn, một vị Đại-tướng đời Trần và được Quân-lực Việt-Nam Cộng-Hòa tôn-vinh là THÁNH TỔ của ngành TRUYỀN-TIN.

Ngày xưa, Việt-Nam Cộng-Hòa đã xây rất nhiều tượng-đài của các tiền-nhân, và đặc nhiều nơi trong thành-phố Sài-gòn, đồng-thời suy-tôn các tiền-nhân ấy là Thánh-tổ các ngành trong Quân-chủng của họ. Chẳng hạn :

-          Bức tượng An-Dương Vương với cây nõ thần tại ngã sáu Chợ-lớn là Thánh-tổ ngành CÔNG BINH CHIẾN-ĐẤU.

-          Bức tượng của Hưng-Đạo Đại-Vương là Thánh-tổ HẢI-QUÂN.

-          Bức tượng Phù-Đổng Thiên-Vương tại ngã sáu Sài-gòn ( mũi tàu Võ-Tánh, Ngô tùng Châu, Lê văn Duyệt) là Thánh-tổ ngành THIẾT-GIÁP.

Và còn nhiều bức tượng hào-hùng khác nữa, nhưng tiếc-thay ….

mhth
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 03/Apr/2010 lúc 11:09pm
~::Trích Dẫn nguyên văn từ Huy-Tưởng

Postcard tượng Quách Thị Trang gởi đi Belgique ngày 20-6-1970.

Nếu tôi là người chưa từng ở Saigon trước năm 1975

Và.. nếu  tôi là người chưa hề biết Quách-thị Trang là ai..

 Khi thoạt nhìn một Tượng-đài cao với một vị Tướng-quân đang cưỡi ngựa,tay đang thả một con chim bồ-câu trong Postcard nầy với giòng chú- thích

Postcard tượng Quách Thị Trang gởi đi Belgique ngày 20-6-1970.

Tôi sẽ ngạc-nhiên tự hỏi Quách-thị-Trang là vị nữ tướng của triều vua nào vậy???

Thưa không??. Tôi xin phép có vài lời giải-thích:

Bàn thờ và tượng Quách-thị-Trang được đặc bên dưới tượng-đài của tướng Trần-Nguyên-Hãn, một vị Đại-tướng đời Trần và được Quân-lực Việt-Nam Cộng-Hòa tôn-vinh là THÁNH TỔ của ngành TRUYỀN-TIN.

........
........

Và còn nhiều bức tượng hào-hùng khác nữa, nhưng tiếc-thay ….….

 
 
 
Kính chào Anh(Chị) Huy Tưởng ,
 
Cám ơn anh (chị) Huy Tưởng đã trích dẫn hình và góp ý về "Postcard tượng Quách Thị Trang gởi đi Belgique ngày 20-6-1970.".
 
Đọc xong bài góp ý của anh (chị), mk hiểu và trân trọng tâm trạng của anh (chị), một người "từng ở Saigon trước năm 1975. Và.. nếu  tôi là người chưa hề biết Quách-thị Trang là ai..".
Có thể anh (chị) Huy Tưởng "biết Quách-thị Trang" nhiều hơn những gì qua báo chí hay tài liệu trên internet !?
Riêng mk , chỉ biết QTT là một nữ sinh , một Phật Tử , biểu tình chống "đàn án áp Phật Giáo" thời TT Ngô Đình Diệm, bị cảnh sát bắn chết năm 1963, khi mới 15 tuổi .
Và tượng được họa sĩ Mai Lân khắc, SVHS đặt tại nơi QTT tử nạn, từ năm 1964 , đến nay vẫn còn.
Thế thôi .
 
 
 
Nếu anh (chị) Huy Tưởng gạt qua một bên tâm lý 
"Nếu tôi là người chưa từng ở Saigon trước năm 1975. Và.. nếu  tôi là người chưa hề biết Quách-thị Trang là ai.."
Và , cùng nhìn lại vấn đề nhé.....
 
 
Không có gì phải buồn anh (chị) Huy Tưởng à , đây chỉ là postcards,  những card giới thiệu thắng cảnh hay sinh hoạt của một địa phương nào đó.
Postcards thường được du khách hay người dân bản xứ xử dụng gửi vài dòng thăm hỏi nhanh gọn, cho gia đình & bạn bè , qua đường bưu điện (post) .
 
 
Trong các postcards mk copy lại từ trang web congdongnguoiviet.fr, có 2 postcards ghi chú  'Postcard tượng Quách Thị Trang' (liền kề nhau).
1/ Một postcard chỉ có tượng Quách Thị Trang . Không có gì phải bàn.
2/ Một postcard khác, tượng QTG với bàn thờ nhang, đèn, bông, trái. Nằm dưới chân tượng Trần Nguyên Hãn , Vị Thánh Tổ của ngành Truyền Tin (QLVNCH).
Postcard này, góc cạnh nhiếp ảnh viên muốn ghi hình có lẽ là tượng Quách Thị Trang . 
mk nghĩ , người chụp muốn giới thiệu một "thắng ảnh" mà thôi.
Không có ý phân biệt giá trị giữa tượng Trần Nguyên Hãn và tượng Quách thị Trang . Hay giữa Vị Tướng Trần Nguyên Hãn và cô học trò Quách Thị Trang.
( nhưng, người gửi postcard cho thân nhân , có thể và có quyền , chú thích cho postcard : tượng Trần Nguyên Hãn hay tượng Quách Thị Trang.
Không sao hết ! )
 
Chắc chắn thời đó có rất nhiều postcards với hình ảnh tượng của các Vị Anh Hùng Dân Tộc như anh (chị) HT đã liệt kê.
Và, cũng chắc chằn các postcards này đã "tung bay" khắp VN và thế giới( qua đường bưu điện ).
Nhưng trong ww.congdongnguoiviet.fr mà mk copy không có , nên mk không gửi lên DĐ GoCong được .
 
Trong lòng người VN , dù thời đại nào hay chế độ nào, không ai quên Công Ơn các Vị Anh Hùng này .
 
 
TUY NHIÊN ,
Qua vài dòng "suy tư" của anh (chị) Huy Tưởng , mk cũng có chút suy nghĩ,  chúng ta  hãy thận trọng khi gửi tài liệu lên Web Gò Công hay nơi khác , vì có thể chúng ta vô tình phổ biến những tài liệu "không nên phổ biến ".
(Dĩ nhiên , mk không nói về trường hợp tượng QTT).
Một lần nữa, cám ơn anh (chị) Huy Tưởng.
Mong được đọc nhiều bài khác của anh (chị) .
 
 
 


Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 04/Apr/2010 lúc 3:33am
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 18/May/2010 lúc 10:17pm
 
 
 
NGƯỜI LÍNH GIÀ KHÔNG BAO GIỜ CHẾT
 
Tác Giả : Saigon Echo sưu tầm   
Thứ Năm, 13 Tháng 5 Năm 2010 20:17
"...Nhìn em muốn nói chuyện người Kinh Kha
Ngại khơi nước mắt nhạt nhòa môi em ...".



Mời đọc bài viết của Lê Hữu về Nhạc Sĩ Nguyễn Văn Đông (ở dưới).  Và ...
 
 
 
I/ nghe nhạc Nguyễn Văn Đông:

Nhớ Một Chiều Xuân (Trần Thái Hòa):
 
http://www.nhaccuat ui.com/ nghe?M=chYp8k6oz_

Tình Anh Lính Chiến (Ý Lan):
 
http://www.nhaccuat ui.com/ nghe?M=ue1PrPFmYX

Sắc Hoa Mầu Nhớ (Thế Sơn và Như Quỳnh):
 
http://www.nhaccuat ui.com/ nghe?M=MSOTLnyLtg

Hải Ngoại Thương Ca (Lệ Thu):
 
http://www.nhaccuat ui.com/ nghe?M=TdiUboGXFw

Phiên Gác Đêm Xuân (Elvis Phương):
 
http://www.nhaccuat ui.com/ nghe?M=VzOmoJzJau 

Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp (Hà Thanh):
 
http://www.nhaccuat ui.com/ nghe?M=lxhJRHi_ hU

Chiều Mưa Biên Giới (Trần Văn Trạch):
  
http://www.nhaccuat ui.com/ nghe?M=gA4nD0lpmO 

Mấy Dặm Sơn Khê (Hùng Cường)
 
http://www.nhaccuat ui.com/ nghe?M=BbeivPCHLF

Về Mái Nhà Xưa (Thái Thanh):
 
http://www.nhaccuat ui.com/ nghe?M=L1LGcP8SJT

Lá Thư Người Lính Chiến (Hoàng Oanh):
 
http://www.nhaccuat ui.com/ nghe?M=IUaQFbyY- 5

Pha.m Anh Du~ng
http://www.youtube. com/ phamanhdung1# g/u



II/ NGƯỜI LÍNH TRONG NHẠC NGUYỄN VĂN ĐÔNG
(Lê Hữu)


"Anh như ngàn gió,
ham ngược xuôi theo đường mây..."

(Mấy dặm sơn khê, Nguyễn Văn Ðông)

 
Hôm ấy, tôi còn nhớ, một chiều hè năm 1969, chúng tôi ngồi ở một quán nước quen dọc bờ biển Nha Trang. Bên cạnh tôi là H., người bạn học cũ. Ðã lâu lắm chúng tôi mới gặp lại nhau kể từ ngày rời xa mái trường cũ ở một thị trấn miền cao nguyên đất đỏ. H. cho biết anh sắp sửa nhập ngũ, thì giờ rảnh rỗi như thế này sẽ chẳng còn được bao lâu nữa. Anh ta có người yêu ở thành phố biển này. Tôi thì vẫn lang thang trên sân trường đại học, tấm giấy chứng chỉ hoãn dịch trong tay vẫn còn hiệu lực...
Trên mặt bàn là những chai bia đã cạn và câu chuyện cũng đến lúc cạn đề tài. Chúng tôi ngồi im lặng, cùng phóng tầm mắt nhìn ra vùng biển bao la trước mặt, chờ mặt trời lặn để ngắm cảnh hoàng hôn trên bãi biển trong lúc tiếng nhạc bập bùng vọng ra từ một góc quầy.

    Người đi giúp núi sông
    hàng hàng lớp lớp chưa về, hàng hàng nối tiếp câu thề
    giành lấy quê hương...

"Bài gì vậy?" H. quay sang tôi, hỏi.

"‘Hàng hàng lớp lớp'," tôi trả lời.

"Tên gì lạ vậy?"

"Gọi tắt là vậy," tôi cười, "tên đầy đủ là ‘Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp'."

H. lặng thinh, có vẻ chăm chú lắng nghe. Lời ca tiếng nhạc khi réo rắt, khi trầm bổng...

    Còn đây đêm cuối cùng
    nhìn em muốn nói chuyện người Kinh Kha
    ngại khơi nước mắt, nhạt nhòa môi em...

"Giọng Hà Thanh phải không?" H. lại hỏi. "Còn giọng nam?"

"Hùng Cường."

"Thiệt sao?" giọng hỏi thoáng chút ngờ vực.

Tôi hiểu, anh bạn tôi đâu biết rằng, ngoài những bài "tủ" như "Vọng ngày xanh", "Ông lái đò", "Sơn nữ ca"..., ca sĩ Hùng Cường-một nghệ sĩ cải lương khá nổi tiếng thời ấy - với chất giọng ténor khoẻ khoắn, còn hát rất "tới" một ít bài tân nhạc khác nữa, đặc biệt là những bài của Nguyễn Văn Ðông.

Bài hát chúng tôi đang nghe là của Nguyễn Văn Ðông.

Anh bạn tôi đã nương theo câu hát ấy mà đi vào cuộc chiến. Anh đã nhập vào "hàng hàng lớp lớp" những đoàn người "nối tiếp câu thề giành lấy quê hương".

Mùa hè năm sau, tôi cũng "lên đường nhập ngũ tòng quân", nghĩa là chỉ sau anh bạn H. một năm. Bạn bè tôi kẻ trước người sau lục tục vào lính. Chiến cuộc ngày càng leo thang, càng trở nên khốc liệt...

H., anh bạn cùng ngồi với tôi buổi chiều ấy, cùng nghe với tôi bài nhạc ấy, cùng ngắm nhìn hoàng hôn trên bãi biển ấy, đã không còn nữa. Anh đã nằm sâu dưới lòng đất. H. đã hy sinh trong chiến trận ít năm sau đó, như biết bao người lính khác, như hơn một nửa bạn bè tôi đã nằm xuống trên khắp các mặt trận trong cuộc chiến nghiệt ngã ấy. Chiến tranh như con quái vật khổng lổ đã nuốt chửng bao nhiêu bè bạn tôi, anh em tôi.

Ðã nhiều năm, nhiều năm trôi qua, hình ảnh một chiều nào biển xanh cát trắng và những câu hát của Nguyễn Văn Ðông giữa biển trời mênh mông vẫn còn đậm nét trong ký ức tôi, mặc cho những lớp sóng của thời gian như từng đợt sóng biển cứ "hàng hàng lớp lớp" xô nhau, xô nhau tràn mãi vào bờ, rồi lại rút xuống trong con nước thủy triều của buổi hoàng hôn...


Người lính Nguyễn Văn Ðông

Anh bạn tôi khi còn sống đã thích bài nhạc ấy vì hai lẽ: thứ nhất, đấy là một bài nhạc lính khá hay, gợi nhiều cảm xúc; thứ hai, nội dung bài hát khá "hợp tình hợp cảnh" đối với anh ta vào lúc ấy.

Chỉ nghe cái tựa thôi, "Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp", người ta cũng biết được rằng đấy là bài tình ca viết về lính, viết cho lính.

Người đi giúp núi sông, hàng hàng lớp lớp chưa về... Không chỉ là "chưa về", trong số "hàng hàng lớp lớp" những "người đi giúp núi sông" ấy, đã có biết bao người đi không về, không bao giờ về lại nữa. Trong số những người đi mãi không về ấy có anh bạn của tôi, người "yêu" câu hát ấy của Nguyễn Văn Ðông, trong lúc tôi và những người lính khác, những chiến hữu, những bè bạn của anh, đã may mắn hơn anh, đã sống sót trở về sau cuộc chiến; và hơn thế nữa, đã được định cư trên miền đất tự do này để nhớ về những đồng đội cũ đã hy sinh hay còn ở lại trong nước, kéo dài cuộc sống lây lất, âm thầm của những người lính già trong buổi hoàng hôn của đời người.

Trong số những người lính vẫn còn ở lại trong nước ấy có người lính Nguyễn Văn Ðông, tác giả "Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp". Ông hiện sống ở Saigon, và hầu như không còn viết nhạc nữa. Ðiều này không có gì lạ, đối với một nhạc sĩ vốn sở trường và khá nổi tiếng về những bài "nhạc lính". Không chỉ vì chiến tranh đã đi qua, tình trạng đất nước hiện nay chắc không phải là môi trường thuận lợi giúp ông tìm lại được nguồn cảm hứng để tiếp tục sáng tác.

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông sinh trưởng tại Saigon (nguyên quán thuộc tỉnh Tây Ninh). Ngay từ thời niên thiếu, năm 14 tuổi, ông đã có cơ hội học hỏi về âm nhạc từ các giáo sư người Pháp trong thời gian 5 năm theo học tại trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Ðây cũng là nơi ông sáng tác ca khúc đầu tay, "Thiếu Sinh Quân Hành Khúc", năm 16 tuổi, được trường chính thức công nhận và sử dụng làm bài "đoàn ca" trong các sinh hoạt tập thể. Ông là thành viên của dàn quân nhạc gồm trên 40 "nhạc sĩ" thiếu niên, từng thi thố tài năng qua nhiều buổi hòa nhạc do một nhạc trưởng người Pháp điều khiển trong các lễ duyệt binh long trọng, đồng thời cũng là thành viên ban nhạc nhẹ của trường, sử dụng thuần thục nhiều nhạc cụ như kèn, trống, mandolin, guitare hawaïenne...


Ngoài sự nghiệp sáng tác, những nét chính về hoạt động âm nhạc có thể kể ra được của chàng nghệ sĩ "tay súng, tay đàn" Nguyễn Văn Ðông:
 

Từ năm 1958, là Trưởng Ðoàn Văn Nghệ Vì Dân (với sự góp mặt của các nghệ sĩ và ca nhạc sĩ tên tuổi, như Kiều Hạnh, Kim Cương, Khánh Ngọc, Minh Diệu, Vân Hùng, Ba Vân, Bảy Xê, Trần Văn Trạch, Quách Đàm, Mạnh Phát, Minh Kỳ, Thu Hồ, Hoài Linh, vũ sư Trịnh Toàn...).

Cũng từ năm 1958, là Trưởng Ban Nhạc Tiếng Thời Gian, đài phát thanh Saigon, quy tụ các ca nhạc sĩ quen thuộc thuở ấy như Lệ Thanh, Khánh Ngọc, Tâm Vấn, Minh Diệu, Hà Thanh, Anh Ngọc, Quách Đàm, Mạnh Phát, Thu Hồ, Trần Văn Trạch... (Từ năm 1962, được tăng cường thêm các ca sĩ Thái Thanh, Thanh Thúy, Minh Tuyết, Duy Khánh, Nhật Trường, Thanh Vũ, Hùng Cường... và ban nhạc Y Vân).

Từ năm 1960 đến 1975, cùng người bạn là Huỳnh Văn Tứ, một nhà doanh nghiệp ở Saigon, đứng ra thành lập các hãng dĩa và băng nhạc Continental và Sơn Ca (được sự cộng tác của các nhạc sĩ tân và cổ nhạc Nghiêm Phú Phi, Văn Phụng, Lê Văn Thiện, Y Vân, Văn Vỹ, Năm Cơ, Hai Thơm...), gửi đến giới yêu nhạc nhiều chương trình âm nhạc chọn lọc. Ðây cũng là trung tâm băng và dĩa nhạc đi tiên phong trong việc thực hiện một số album nhạc cho từng ca sĩ. Một số ca sĩ "thành danh" trong làng ca nhạc trước năm 1975 như Thanh Tuyền, Giao Linh, Phương Dung, Hà Thanh... nhờ vào sự hướng dẫn và giới thiệu của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, Giám đốc Nghệ thuật của các hãng dĩa này.

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông còn sử dụng các bút danh Vì Dân, Phượng Linh, Phương Hà... cho các thể loại và chủ đề nhạc khác nhau. Ít người được biết, ngoài những sáng tác về tân nhạc, ông còn viết nhạc nền cho trên 50 vở tuồng cải lương thuộc loại kinh điển ở miền Nam như "Mưa rừng", "San hậu", "Nửa đời hương phấn", "Sân khấu về khuya", "Tiếng hạc trong trăng"... và hàng trăm chương trình "tân cổ giao duyên", một hình thức "phối hợp nghệ thuật" giữa tân và cổ nhạc khá phổ biến trong đại chúng vào thời ấy, cũng với các bút danh trên.

Sau những "bước nhẹ tênh" ấy là cánh cửa mở rộng cho "chàng trai trẻ độc thân" Nguyễn Văn Ðông đặt những bước chân đầu tiên lên "đoạn đường chiến binh", để từ đó dấn thân vào cuộc sống mới đầy hứng thú, đầy sôi động và cũng đầy ý nghĩa trong những năm dài quê hương chìm trong khói lửa chiến tranh. Chàng lính trẻ ấy từng phục vụ ở các đơn vị tác chiến, từng đóng quân tại các vị trí được xem là "điểm nóng" của các cuộc giao tranh như chiến khu Ðồng Tháp Mười, vùng Tam Giác Sắt..., từng tham dự những trận chiến ác liệt tại các địa danh Ấp Bắc, Kinh 12 và tuyến lửa Thông Bình, Cái Cái (Tân Thành)..., từng được ân thưởng nhiều huy chương về các chiến tích, trong đó có "bảo quốc huân chương" là huân chương cao quý nhất của quân lực Việt Nam Cộng Hòa.

Hầu như khắp bốn vùng chiến thuật, nơi đâu cũng in hằn dấu chân người lính Nguyễn Văn Ðông (đúng như "Mấy dặm sơn khê", tên một bài nhạc khá nổi tiếng của ông). Ông đã cầm súng chiến đấu vì yêu quê hương này, vì yêu dân tộc này. Ông đã yêu đời lính như yêu mảnh đất này, như yêu những đồng đội, như yêu người mình yêu... Hình ảnh người lính chiến thể hiện qua dòng nhạc của ông xem ra cũng không khác gì lắm với hình ảnh "người lính Nguyễn Văn Ðông", cũng "áo anh mùi thuốc súng", cũng "ngược xuôi theo đường mây", cũng "tóc tơi bời lộng gió bốn phương". (Ông không phục vụ ở Cục Tâm Lý Chiến như nhiều người vẫn lầm tưởng)... Mặc dầu không hề "tơ vương khanh tướng" vì "người đi giúp nước nào màng danh chi", nhưng do lòng "tận trung báo quốc" qua các thành tích chiến đấu và phục vụ, ông cũng đã leo dần lên mãi những nấc thang binh nghiệp với chức vụ sau cùng là sĩ quan tham mưu cao cấp Bộ Tổng Tham Mưu. Có lẽ Ðại tá Trần Văn Trọng (nhạc sĩ Anh Việt, tác giả "Bến cũ", "Thơ ngây"...) và ông được kể là những người "lính" có cấp bậc cao nhất trong số các nhạc sĩ phục vụ trong quân ngũ.

Sau "ngày tàn chiến cuộc" năm 1975, như số phận của "hàng hàng lớp lớp" sĩ quan kẹt lại ở trong nước, ông đã phải lầm lũi đi vào những trại tập trung, những lò cải tạo (Suối Máu, Chí Hòa) để trả giá cho các thành tích trong quân ngũ và trong hoạt động âm nhạc.

Không rõ ông đã "học tập" được những gì, có điều là cơ thể ông đã "tiếp thu" đủ thứ mầm bệnh trong những năm "cải tạo" ấy khiến sức khỏe ông có lúc suy kiệt đến trầm trọng. Chứng phong thấp, căn bệnh quái ác, đã khiến các đốt xương ngón tay của ông sưng tấy lên, các ngón tay co quắp đến gần như không còn cử động được nữa.

"Anh xem này," ông nói với người bạn "tù cải tạo" ở cùng trại Suối Máu, giọng bùi ngùi. "Bàn tay tôi như thế này coi như ‘phế bỏ võ công' rồi, làm sao còn chơi đàn được nữa!"

Tay đã thế, chân lại càng tệ hơn, các khớp xương đầu gối biến dạng và đau nhức đến mức ông phải nằm điều trị nhiều năm trong các bệnh viện ở Saigon trước khi rời bỏ đôi nạng để đi đứng được bình thường trở lại.

    Về đây ngơ ngác chim bay tìm đàn
    Về đây hoang vắng lạnh buốt cung đàn...

Như là câu hát trong bài "Về mái nhà xưa" của ông, sau đúng mười năm "học tập cải tạo" (ông được thả về đầu năm 1985), tác giả bài nhạc ấy đã về lại sau cuộc chiến, về lại sau những năm đọa đầy, về lại với một thân xác đầy tật bệnh, với một tâm hồn đầy thương tích. Xa lạ trước cuộc sống mới, trước một xã hội có lắm đổi thay sau cuộc bể dâu, ông bày tỏ sự hối tiếc đã lãng phí những năm dài do không tìm lại được nguồn cảm hứng nào cho hoạt động âm nhạc cũng như không đóng góp được chút gì có ý nghĩa cho đời. Ðối với con người nghệ sĩ tài hoa, đầy sức sáng tạo, và có thói quen làm việc không ngưng nghỉ, không mệt mỏi như ông thì đấy quả là một sự "hối tiếc vô bờ" như ông nói.

"Tại sao ông không xin định cư ở nước ngoài trong lúc có đủ điều kiện của người tù cải tạo?" Trả lời câu hỏi này, ông cho biết, "Do những căn bệnh ngặt nghèo tưởng như ‘hết thuốc chữa' và do tinh thần suy sụp đến tột cùng, có lúc tôi đã nghĩ rằng mình không còn sống được bao lâu nữa nên chẳng còn thiết tha bất cứ chuyện gì, chỉ muốn từ bỏ tất cả để được thảnh thơi yên nghỉ ở cuối đời."

Vậy mà, nhờ "thần dược" hay nhờ... phép lạ, ông vẫn sống sót được đến ngày hôm nay. Vợ chồng ông có một cửa hàng tạp hóa nhỏ (nơi gia đình ông cư ngụ), là nguồn thu nhập chính cho "kinh tế gia đình". Tuy sức khoẻ có sa sút, tuy cuộc sống có chật vật, "người lính Nguyễn Văn Ðông" vẫn có lúc quên đi nỗi đau của riêng mình, vẫn có lúc để lòng mình nghiêng xuống những số phận rủi ro, những số kiếp hẩm hiu của bao người kém may mắn hơn mình. Những bản tin tôi đọc được ở trong, ngoài nước nói về các công tác cứu trợ những mảnh đời rách nát, những kiếp người lầm than, vẫn nhắc đến bàn tay nhân ái, trái tim nhân hậu của người lính, người nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông.

Nhạc lính, nói sao đi nữa cũng từng là "nhạc thời trang" ở miền Nam Việt Nam một thời nào. Loại nhạc thời trang "đặc biệt" này khá phổ biến và có tuổi thọ đo được bằng chiều dài của cuộc chiến tranh hai miền Nam-Bắc, nghĩa là kéo dài hơn bất cứ loại nhạc thời trang nào khác, có lúc trở thành cực thịnh, là thời kỳ cường độ cuộc chiến gia tăng đến mức khốc liệt nhất. Còn chiến tranh là còn nhạc lính.

Trong những năm dài chinh chiến ấy, có rất nhiều ca khúc khá hay viết về người lính và đời lính của một số tác giả ở trong và ngoài quân ngũ, ngợi ca tinh thần chiến đấu anh dũng, sự hy sinh cao cả và thầm lặng của người lính chiến. "Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông" là một trong số ấy. Hơn thế nữa, nhạc lính của ông có những nét rất "riêng", mang sắc thái đặc biệt, được rất nhiều người yêu nhạc (lính hoặc không phải lính) yêu thích.

Trong phạm vi nói về "nhạc lính" của Nguyễn Văn Ðông, những ca khúc quen thuộc của ông nhưng không kể là "nhạc lính" (đôi lúc được ông ký dưới những tên khác) sẽ không đề cập trong bài này hoặc chỉ nói sơ qua.

Những năm trước ngày chiến tranh kết thúc, ngoài những bài "chiến đấu ca" trong quân đội và những bài hát cộng đồng, có vẻ những bài nhạc đề cao lý tưởng, chính nghĩa, tinh thần chiến đấu và hy sinh của người lính ngày càng ít đi (trừ ít bài ngợi ca những tên tuổi cá biệt của người lính đã đền nợ nước, như "Huyền sử ca một người mang tên Quốc" của Phạm Duy, "Anh không chết đâu anh", "Người ở lại Charlie" của Trần Thiện Thanh...). Không còn nghe thấy nữa những bài nhạc một thời làm nức lòng chiến đấu của người lính vì nước quên mình:

    Khi nước nhà phút ngả nghiêng, em mơ người trai anh dũng, mang thân thế hiến giang san, chí quật cường hiên ngang...
    ("Chiến sĩ của lòng em", Trịnh Văn Ngân)

    Em chúc cho chàng lập chiến công oai hùng, vang vang lời chiến thắng, muôn thu danh chàng lừng lẫy với núi sông...
    ("Chàng đi theo nước", Hiếu Nghĩa)

    Anh đi mai về chiến thắng, khi súng quân thù thôi vang trên non sông, tươi thắm màu cờ vui reo trên kinh thành...
    ("Anh đi mai về", Hoàng Nguyên)

    Anh đi xây chiến thắng, dưới màu cờ quật cường, cho loài người hòa bình...
    ("Dặn dò", Thanh Châu)

    Anh sẽ là anh đàn em nhỏ, là con của mẹ giữ quê hương...
    ("Tình quê hương", Ðan Thọ & thơ Phan Lạc Tuyên)

    Không quên lời xưa đã ước thề, dâng cả đời trai với sa trường...
    ("Anh đi chiến dịch", Phạm Ðình Chương)

Và ít bài nhạc khác như "Lá thư gửi mẹ" (Nguyễn Hiền & thơ Thái Thủy), "Bức tâm thư" (Lam Phương), "Trên bốn vùng chiến thuật" (Trúc Phương), "Biệt kinh kỳ" (Minh Kỳ & Hoài Linh), "Anh về thủ đô" (Y Vân), "Mười sáu trăng tròn" (Trần Thiện Thanh)...

Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông, trong lúc ấy, trước sau vẫn dạt dào tình yêu quê hương, đất nước, vẫn ngợi ca người lính chiến, vẫn đề cao lý tưởng và chính nghĩa cuộc chiến đấu của quân dân miền Nam (mà không phải... "tuyên truyền tâm lý chiến").

Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông không có những "tô son điểm phấn" cho đời lính kiểu "anh tiền tuyến, em hậu phương", "người yêu của lính"... Trong lời nhạc của ông không có những mộng mơ, lãng mạn kiểu "anh là lính đa tình" ("Tình lính", Y Vân), hay "ba-lô thay người tình yêu dấu..." ("Ai nói với em", Minh Kỳ & Huy Cường), hay "những đóm mắt hỏa châu là hoa đăng ngày cưới..." ("Những đóm mắt hỏa châu", Hàn Châu), cũng không có những lời thở than hoặc cay đắng như "nhiều đông lắm hạ nối tiếp đi qua, thiếu bóng đàn bà..." hoặc "đến với tôi, hãy đến với tôi, đừng yêu lính bằng lời..." ("Kẻ ở miền xa", Trúc Phương) vân vân... (Người viết chỉ nêu những khác biệt, không có ý bình phẩm).

Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông, như đời lính của ông, là cuộc chiến đấu gian khổ, là những lần xông pha trận mạc, là những cuộc hành quân không giống như là đi... picnic để "đem cánh hoa rừng về tặng em" ("Người yêu của lính", Trần Thiện Thanh), mà luôn kề cận những bất trắc, những hiểm nguy... Ở một đôi bài Nguyễn Văn Ðông, giai điệu có lúc gần gụi với nét nhạc phóng khoáng, mênh mang của Lâm Tuyền (tác giả "Tiếng thời gian", "Khúc nhạc ly hương", "Hình ảnh một buổi chiều"...). Lời nhạc Nguyễn Văn Ðông như có "khẩu khí" riêng, đôi lúc phảng phất cái khẩu khí đầy vẻ thi vị trong thơ Quang Dũng, Thâm Tâm hoặc trong... "Chinh phụ ngâm khúc", tạo nên sắc thái đặc biệt tiêu biểu cho dòng nhạc lính của ông. Có thể nói, Nguyễn Văn Ðông là một trong những nhạc sĩ sử dụng sớm nhất những từ ngữ "đường mây", "sơn khê", "giang đầu", "khanh tướng", "sa trường", "biên thùy", "khu chiến", "tang bồng", "hội trùng dương"... Những từ khá cổ điển nhưng qua nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ thích ứng, lại đặc biệt có vẻ phù hợp với "lính tráng", làm dậy lên những cảm xúc rất "lính", khiến nhạc lính Nguyễn Văn Ðông có một "khí hậu" riêng, mang mang thi vị của hơi thơ cổ, nhuốm vẻ hùng tráng và lãng mạn như bức họa đẹp và buồn của một "thuở trời đất nổi cơn gió bụi". (2)

    Anh như ngàn gió, ham ngược xuôi theo đường mây...
    (Mấy dặm sơn khê)

    Ngoài mưa khuya lê thê, qua ngàn chốn sơn khê...
    (Mấy dặm sơn khê)

    Sao còn đứng ngóng nơi giang đầu?...
    (Chiều mưa biên giới)

    Lòng trần còn tơ vương khanh tướng...
    (Chiều mưa biên giới)

    Thương mầu áo gửi ra sa trường...
    (Chiều mưa biên giới)

    Chốn biên thùy này xuân tới chi?...
    (Phiên gác đêm xuân)

    Xưa từ khu chiến về thăm xóm...
    (Sắc hoa màu nhớ)

    Lòng này thách với tang bồng...
    (Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp)

    Hội trùng dương hát câu sum vầy...
    (Hải ngoại thương ca)

Chữ "đường mây" chẳng hạn ("đường mây chân núi xa...", "ngược xuôi theo đường mây...") là từ rất cũ, từ thuở... "Chinh phụ ngâm khúc" (Sứ trời sớm giục đường mây), được đưa vào ca từ Nguyễn Văn Ðông, lại như có vẻ "mới" và nghe rất "lính".
Trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí trước năm 1975, nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông cho biết ông chịu ít nhiều ảnh hưởng của nền văn hóa Pháp trong các sáng tác âm nhạc và nhắc đến tên vài bài nhạc cũ của những thập niên 40's, 50's như "J'attendrai" , "Ma Normandie", "La Vie en Rose"...

· "Lòng này thách với tang bồng"...

Người lính trong nhạc Nguyễn Văn Ðông là lính trận, là lính tác chiến, là những người lính "áo anh mùi thuốc súng", là những người lính vừa trở về từ chiến trường lửa đạn.
Hơn bất cứ một nhạc sĩ nào khác viết về lính, nhạc Nguyễn Văn Ðông làm nổi bật lý tưởng của người quân nhân cầm súng chiến đấu. Mặc "ai công hầu, ai khanh tướng", người đi vì lý tưởng đã vẽ lên những hình tượng đẹp, lãng mạn và đầy hào khí của những chàng Kinh Kha thời đại.

    Người đi giúp núi sông
    hàng hàng lớp lớp chưa về, hàng hàng nối tiếp câu thề
    giành lấy quê hương...

    Người đi giúp nước nào màng danh chi
    cầu cho đất nước vượt ngàn gian nguy...
    (Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp)

    Lòng trần còn tơ vương khanh tướng
    thì đường trần mưa bay gió cuốn
    còn nhiều anh ơi... (Chiều mưa biên giới)

"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh" (3) Những chàng trai đất Việt nặng một lời thề, mang tổ quốc trên vai, mang tình yêu nước trong tim, hàng hàng lớp lớp theo nhau lên đường. Từng đoàn người tiếp bước những đoàn người đi viết tiếp những trang sử hào hùng của dân tộc Việt.

    Đời tôi quân nhân, chút tình gửi cho núi sông...
    (Sắc hoa màu nhớ)

    Nước non còn đó một tấc lòng
    không mờ xóa cùng năm tháng...
    (Mấy dặm sơn khê)

    Đời dâng cho núi sông
    dù ngàn nắng lửa mưa dầu
    lòng người nhất quyết không đầu, giành lấy mai sau...
    (Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp)

Khi đời đã "dâng cho núi sông", khi lòng đã "nhất quyết không đầu", thì... "mẹ thà coi như chiếc lá bay" (4)

    Đời lính thân con nề chi...
    Mẹ hiền ơi chớ buồn vì con, nước non chưa tròn...
    (Lá thư người lính chiến)

Chút tình riêng đành gác lại, vì tình nước sâu hơn tình lứa đôi.

    Đường đi biên giới xa...
    lòng này thách với tang bồng
    đừng sầu má ấy phai hồng, buồn lắm em ơi...

    Hỡi người anh thương, chưa trọn thề ước
    nhưng tình đất nước ôi lớn lao không đành lòng
    dệt mối thắm riêng tư...
    (Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp)

    Vầng trăng xẻ đôi, vẫn in hình bóng một người...
    (Chiều mưa biên giới)

"Chiều mưa biên giới" (1956), một trong những bài nhạc lính quen thuộc của Nguyễn Văn Ðông, là trường hợp khá đặc biệt, nổi tiếng do hai sự kiện: thứ nhất, nhờ sự trình diễn thành công của nghệ sĩ Trần Văn Trạch qua làn sóng phát thanh ở Paris, dẫn đến một hợp đồng thu thanh bài hát bằng hai thứ tiếng Việt và Pháp với một hảng dĩa lớn cùa Pháp (là việc chưa tứng có trong lịch sử tân nhạc Việt thời bấy giờ); thứ hai, nhờ quyết định... cấm phổ biến của Bộ Thông Tin thời ấy, lý do là lời nhạc không thích hợp.

Tại sao cấm phổ biến? Tại sao "lời nhạc không thích hợp"? Nghe lại "Chiều mưa biên giới", tôi không thấy có "vấn đề" gì đáng gọi là cấm kỵ. Có thể là những lời lẽ dưới đây chăng(?):

    Chiều mưa biên giới anh đi về đâu
    sao còn đứng ngóng nơi giang đầu?...
    Về đâu anh hỡi mưa rơi chiều nay?...

Người lính chiến... mất phương hướng, không biết sẽ đi đâu, về đâu(?). Hoặc:

    Kìa rừng chiều âm u rét mướt...
    Một vùng mây nước cho lòng ai thương nhớ ai...
    Cờ về chiều tung bay phất phới
    gợi lòng này thương thương nhớ nhớ...
    Người đi khu chiến thương người hậu phương...

Người lính chiến "nhìn trời hiu quạnh", lòng còn vương vấn chút tình... riêng(?).

Nếu không phải vì những lời nhạc kể trên, có thể là do giai điệu u uẩn, man mác của bài nhạc làm... nản lòng binh sĩ, làm suy giảm tinh thần chiến đấu của quân đội(?).

Dù với bất cứ lý do gì, những câu hát này thực sự chẳng thấm tháp vào đâu so với những bài bản "phản chiến" ít năm sau đó, phổ biến tràn lan một thời mà chẳng ai cấm nổi, chẳng hạn "tôi có người yêu chết trận Pleime..." ("Tình ca người mất trí", Trịnh Công Sơn), "quyết chối từ chém giết anh em..." ("Chính chúng ta phải nói", Trịnh Công Sơn), hoặc "anh trở về bại tướng cụt chân..." ("Kỷ vật cho em", Phạm Duy & Linh Phương), "ngày mai đi nhận xác chồng..., anh lên lon giữa hai hàng nến chong..." ("Tưởng như còn người yêu", Phạm Duy & Lê Thị Ý)...

"Chiều mưa biên giới" bị cấm phổ biến chỉ vì ra đời... sớm vài năm, trở thành một trong những bài nhạc đầu tiên được khoác cho tên gọi là "phản chiến".

"Chiều mưa biên giới" trở thành bài nhạc lính tiêu biểu của Nguyễn Văn Ðông, gắn liền với tên tuổi của ông, gắn liền với giọng hát Trần Văn Trạch, gắn liền với câu hát "lòng trần còn tơ vương khanh tướng thì đường trần mưa bay gió cuốn còn nhiều..." vừa mang tính "triết lý" về đời lính, vừa đượm vẻ... "lãng mạn Nguyễn Văn Ðông".
 

Lãng mạn Nguyễn Văn Ðông

    "Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt
    xếp bút nghiên theo việc đao cung" (2)

Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc luôn có những năm thái bình thịnh trị và những năm chinh chiến điêu linh. Khi vận nước ngả nghiêng, những chàng trai thời loạn đã hiến dâng tuổi trẻ, lên đường theo tiếng gọi của non sông, bỏ lại sau lưng những mộng ước chưa tròn... Hình tượng người lính chiến qua dòng nhạc Nguyễn Văn Ðông, ngoài lý tưởng, lòng yêu nước thương dân, tinh thần hy sinh và chiến đấu, vẫn không thiếu nét lãng mạn của "chí lớn chưa về bàn tay không, thì không bao giờ nói trở lại..." (4)

    Nhìn em muốn nói chuyện người Kinh Kha
    ngại khơi nước mắt nhạt nhòa môi em...
    (Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp)

    Mấy ai ra đi hẹn về dệt nốt tơ duyên...
    (Mấy dặm sơn khê)

Lãng mạn Nguyễn Văn Ðông đẹp tựa câu thơ cũ, "chàng từ đi vào nơi gió cát..." (2), câu thơ về những chàng trai, những người lính chiến ôm mộng hải hồ, bạn cùng sương gió. Trên khắp các nẻo đường đất nước, từ miền địa đầu giới tuyến đến những nơi đầu sóng ngọn gió, từ những tuyến đầu lửa đạn đến những tiền đồn heo hút xa xăm, nơi đâu cũng in hằn dấu chân người lính.

    Anh như ngàn gió
    ham ngược xuôi theo đường mây
    Tóc tơi bời lộng gió bốn phương...
    (Mấy dặm sơn khê)

Lãng mạn Nguyễn Văn Ðông đẹp tựa huyền thoại "trăng treo đầu súng" trong một "phiên gác đêm xuân" giữa vùng hành quân đồi núi chập chùng.

    Xác hoa tàn rơi trên báng súng
    ngỡ rằng pháo tung bay, ngờ đâu hoa lá rơi...
    (Phiên Gác Đêm Xuân)

    Đêm nằm gối súng, chung ánh trăng
    cho người này gợi nhớ thương người kia...
    (Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp)

Câu hát gợi nhớ câu lục bát Nguyễn Du, "Vầng trăng ai xẻ làm đôi / Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường..." Lãng mạn Nguyễn Văn Ðông không chỉ ở những bản tình ca gợi nhớ những mùa xuân thanh bình một thuở, như là "chiều nay hoa xuân bay nhiều quá..." hay là "chiều nay thấy hoa cười chợt nhớ một người..." (Nhớ một chiều xuân), mà còn ở trong những câu hát của một mùa chiến chinh. Tình yêu, bên cạnh những nỗi bất trắc, vẫn nở hoa, như những đóa hồng vẫn nở bên những hầm hố và hàng rào kẽm gai. Vẫn có chút tình yêu làm quà tặng và lẽ sống cho những người lính cầm súng chiến đấu, vẫn có những ánh mắt, "nụ cười xinh tươi" trong câu chuyện tình thời chiến, câu chuyện tình "người hùng và giai nhân".

    Còn đây giây phút này
    còn nghe tiếng hát, nụ cười xinh tươi
    còn trông ánh mắt, còn cầm tay nhau...
    (Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp)


Tình yêu thường xen lẫn thân phận người lính xa nhà, xa người mình thương yêu. "Chàng thì đi cõi xa mưa gió / Thiếp lại về buồng cũ gối chăn" (2), một người đi, một người ở lại và những năm chờ tháng đợi mỏi mòn.

    Một người gối chiếc cô phòng
    còn người góc núi ven rừng, chân mây đầu gió...
    (Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp)

Con đường đấu tranh gian khổ còn dài, những chuyến về thăm, những lần về phép, người lính chiến dừng chân trong chốc lát, rồi lại lên đường, lại miệt mài đi khi quê hương còn tiếng súng, khi máu xương còn rơi...

    Anh đến thăm, áo anh mùi thuốc súng...
    Anh đến đây, rồi anh như bóng mây...
    Anh hỡi anh, đường xa vui đấu tranh...
    (Mấy dặm sơn khê)

    Tôi lại đi giữa trời sương gió
    Mầu hoa thắm vẫn sống trong tôi...
    (Sắc hoa mầu nhớ)

Người nghe đôi lúc bắt gặp đâu đó trong lời nhạc Nguyễn Văn Ðông những câu hát thật là đẹp.

    Cầm tay nhau đi anh
    tơ trời quá mong manh...
    (Mấy dặm sơn khê)


"Tơ trời"?... Là sợi nắng lung linh hay sợi mưa phùn giăng mắc? Tơ trời mong manh hay những phút giây gần nhau cũng mong manh như những sợi... tơ trời?
Người lính trong nhạc Nguyễn Văn Ðông vẫn có những phút để hồn mình lắng xuống, để lòng mình bâng khuâng vì một sắc hoa, một mầu áo...

    Chiều hành quân nay qua lối xưa
    giữa một chiều gió mưa
    xác hoa hồng mênh mông...

    Nhìn mầu hoa vừa tan tác rơi
    nhớ muôn vàn... nhớ ơi
    hát trong mầu hoa nhớ... (Sắc hoa mầu nhớ)

Cuộc đời lính chiến, nhờ vậy, cũng sẽ đẹp thêm lên một chút.
Người lính trong nhạc Nguyễn Văn Ðông không phải là "không có trái tim đắm say mộng mơ" ("Ai nói với em", nhạc Minh Kỳ & Huy Cường). Những ước mơ của người lính thật đơn sơ và "trắng như mây chiều".

    Ước mong nhiều đời không (cho) bấy nhiêu
    vì mơ ước trắng như mây chiều...
    (Phiên gác đêm xuân)

"Mơ ước" gì vậy? Nếu không phải là nỗi ước mơ của những người đi đấu tranh để mang về mùa xuân mới cho quê hương.

    Mong sao nước Việt đời đời
    anh dũng oai hùng chen chân thế giới...

    Người về đây giữa non sông này
    hội trùng dương hát câu sum vầy
    Về cho thấy con thuyền nước Nam
    đi vào mùa xuân mới sang
    xa rồi ngày ấy ly tan...
    (Hải ngoại thương ca)


"Người lính già không bao giờ chết"...

"Hải ngoại thương ca" cũng là trường hợp đặc biệt khác, sau "Chiều mưa biên giới". Không rõ động lực nào, hoàn cảnh nào đã khiến nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông cho ra đời ca khúc ấy. Trước và sau ông hầu như chưa có nhạc sĩ nào viết về đề tài tương tự. Ðiều thú vị, các "cán bộ" văn hóa văn nghệ ở trong nước đã lầm tưởng "Hải ngoại thương ca" là "sáng tác mới" của Nguyễn Văn Ðông, đến lúc hiểu ra rằng đấy là bài nhạc cũ (1963), đã phải thốt lên, "Làm sao mà ở miền Nam ngày trước lại có bài nhạc hay đến như thế, lại phù hợp với hiện tình đất nước đến như thế!"
Cái "hay" trong lời ngợi khen ấy có thể hiểu là cái hay của nội dung bài nhạc được diễn dịch theo chiều hướng có lợi và phù hợp với chính sách kiều vận, với chủ trương "hòa hợp và hòa giải dân tộc" của "nhà nước ta" đối với "khúc ruột ngàn dặm" là cộng đồng người Việt ở nước ngoài, một "bộ phận" không thể tách rời của dân tộc. Cái "hay" ấy là cái hay của những câu hát được xem là thể hiện "tâm tư tình cảm" của bà con "Việt kiều yêu nước" trong chuyến về thăm quê nhà:

    Một mùa thương kết muôn hoa lòng
    người về đây nối câu tâm đồng...

    Tôi đi giữa trời bồi hồi
    cờ bay phất phới quên chuyện ngày xưa...
    Người về đây giữa non sông này
    hội trùng dương hát câu sum vầy...

Không có gì đáng ngạc nhiên khi các báo trong nước đưa tin "Hải ngoại thương ca" là một trong những bài đầu tiên được Cục Nghệ thuật Biểu diễn thuộc Bộ Văn hóa Thông tin nhanh chóng duyệt qua, trong số 18 ca khúc của Nguyễn Văn Ðông được phép lưu hành trong nước kể từ năm 2003. (Trong số, có vài ca khúc quen thuộc, như "Nhớ một chiều xuân", "Về mái nhà xưa", "Thầm kín", "Khúc xuân ca", "Núi và gió", "Trái tim Việt Nam"... Tất nhiên là không có những bài... nhạc lính).

Trong lúc "Hải ngoại thương ca" được viết với nhạc điệu slow rock khá thịnh hành giữa thập niên 60's, thể hiện tình cảm phấn khởi như những bước chân đi tới, như niềm tin phơi phới vào một vận hội mới về trên quê hương, "Mấy dặm sơn khê" có tiết tấu chậm rãi hơn, tình cảm sâu lắng hơn, phác họa nét đẹp của người lính ngược xuôi trên khắp các nẻo đường đất nước. "Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp" là bức tranh hoành tráng về đời lính được vẽ bằng những giai điệu, những khúc hát dạt dào tình nước, khi réo rắt, khi trầm bổng, khi lãng mạn như một khúc tình ca, khi hùng tráng như một khúc quân hành.

Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông từng được thể hiện qua những giọng ca khác nhau, từ Thái Thanh, Lệ Thanh, Hà Thanh, Khánh Ngọc, Lệ Thu... đến Trần Văn Trạch, Hùng Cường, Thanh Hùng, Duy Trác, Elvis Phương, Anh Khoa... và cả những ca sĩ "học trò" của ông. "Chiều mưa biên giới" phù hợp với chất giọng "nam bộ" và làn hơi ấm áp của nghệ sĩ Trần Văn Trạch, trong lúc "Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp" lại phù hợp với chất giọng Huế mềm mại, ngọt ngào của Hà Thanh quyện với giọng ténor vang lộng của Hùng Cường (đến nay chưa có ca sĩ nào hát "hàng hàng lớp lớp chưa về, hàng hàng nối tiếp câu thề..." hay hơn Hùng Cường). Người nghe "Mấy dặm sơn khê" qua giọng hát Thái Thanh và Hà Thanh đều nhận ra mỗi giọng có cái hay riêng, có nét đẹp riêng trong cách thể hiện.

Hình tượng người lính chiến, khắc họa qua dòng nhạc Nguyễn Văn Ðông, như được "nâng" lên ở tầm mức cao hơn và đẹp hơn. Lý tưởng của những người trai anh dũng hiến thân vì tổ quốc như được tô đậm hơn; chính nghĩa của cuộc chiến đấu gian khổ của quân dân miền Nam như được soi sáng hơn. Người đời, qua đó, thấy yêu mến và gần gũi hơn những người lính, thấy cảm kích và ngưỡng phục những hy sinh cao cả và thầm lặng của người chiến binh vì nước quên mình. Vậy thì không thể nào không cám ơn ông, cám ơn người nhạc sĩ đã gieo vào lòng người những mối cảm xúc sâu đậm, những ấn tượng đẹp và sắc nét về người lính và đời lính.

Chiến tranh đã đi qua, những bài nhạc lính như thế ngày nay ít còn được nghe hát, thế nhưng dư âm lời ca tiếng nhạc của một mùa chinh chiến ấy và hình tượng hào hùng của người lính chiến quân lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn đọng lại mãi trong tâm tưởng biết bao người, như câu nói bất hủ của một danh tướng Hoa Kỳ, Douglas MacArthur: "Những người lính già không bao giờ chết; họ chỉ nhạt mờ đi thôi" (Old soldiers never die; they just fade away").
Sau bao mùa tang thương dâu bể, sau bao nhiêu giông tố dập vùi, "người lính già" Nguyễn Văn Ðông, ở độ tuổi 75, vẫn một niềm tin sắt son vào hồn thiêng sông núi, vẫn chưa mất niềm tin vào vận mệnh đất nước, vẫn còn nguyên vẹn trái tim chàng lính trẻ Nguyễn Văn Ðông-nặng trĩu tình quê tình nước-của những ngày đầu bước chân vào đời quân ngũ.

    Non nước ơi, hồn thiêng của núi sông
    kết trong lòng thế hệ
    nghìn sau nối nghìn xưa...
    (Mấy dặm sơn khê)

"Nghìn sau nối nghìn xưa", những thế hệ tiếp nối những thế hệ, những bàn chân tiếp bước những bàn chân, rộn ràng theo nhau lên đường đi xây lại những ước mơ chưa thành tựu của những người đã nằm xuống cho một ngày mai tươi sáng về trên quê hương Việt Nam mến yêu.

"Mai sau dù có bao giờ", nghe lại những khúc hát về người lính và đời lính, những khúc hát của một mùa nào ly loạn, hẳn người đời vẫn còn nhớ tới những người hùng tên tuổi hay những chiến sĩ vô danh, những người con yêu của tổ quốc, những người "nhẹ xem tính mệnh như mầu cỏ cây" (2), những người đã hy sinh cả xương máu, đã hiến dâng cả tuổi trẻ, cả những năm tháng tươi đẹp nhất của đời người cho tình yêu đất nước.

"Chinh chiến đã qua một thì" (5), nhưng những bài hát về người lính anh dũng cầm súng chiến đấu để bảo vệ từng tấc đất quê hương, như những bài nhạc lính Nguyễn Văn Ðông, mỗi lần nghe lại là mỗi lần nghe dậy lên một niềm kiêu hãnh, một nỗi tự hào về một thiên anh hùng ca của dân tộc.

Cám ơn anh, người lính già, người nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông.


Lê Hữu

http://saigonecho.com/main/doisong/danhnhan/18444-ngi-linh-gia-khong-bao-gi-cht.html


Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 19/May/2010 lúc 5:02am
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 26/May/2010 lúc 3:15pm
 
 
 
 
Nhớ một thời…Dâm bụt
 
(VOV) - Những bức ảnh về hàng Dâm bụt này là “chứng nhân” còn sót lại duy nhất ở vùng quê tôi khi ngày nay, hầu hết khuôn viên, vườn tược của mọi gia đình ở nông thôn đều đã được kiên cố hóa bằng cổng kín, tường cao chẳng khác gì ở đô thị

Những hàng rào Dâm bụt ngày càng ít đi. Dẫu biết cuộc sống là thế nhưng vẫn không khỏi nuối tiếc một hình ảnh đã từng in sâu trong tâm khảm nhiều người về cái “hàng rào” thủa xưa. Tuy nhiên, vấn đề ở đây không chỉ là sự nuối tiếc, mà còn là môi trường sống, là hậu quả về biến đổi khí hậu. Khi rừng đại ngàn bị chặt hạ, thậm chí những vụ chặt phá tận rừng sâu đều được đưa ra ánh sáng nhằm bảo vệ lá phổi của tự nhiên. Trong khi đó, ở vùng dân cư - nơi trực diện với cuộc sống con người thì hàng rào cây xanh lại hiển nhiên bị phá bỏ mà chẳng ai quan tâm.

Vùng nông thôn ngày xưa dịu mát nhiều bóng cây là thế, nay trở thành bình địa với mọi thứ bê tông! Tường bao khuôn viên của mỗi gia đình thì chẳng là bao, nhưng hàng triệu ngôi nhà đã không trồng cây xanh, ngược lại còn phá bỏ hàng rào cây xanh để thay bằng tường xây là điều đáng phải suy nghĩ.

Ở nhiều vùng nông thôn miền Bắc, có lẽ không một người nào khoảng mươi năm về trước lại không biết đến cây dâm bụt, một loài cây luôn gần gũi với mọi gia đình. Nó có một tác dụng đặc hữu là làm hàng rào cây xanh cho khuôn viên vườn nhà đã có từ bao đời nay.

Ông cha ta chọn cây dâm bụt một loại cây như thể sinh ra để con người trồng làm hàng rào. Đây là loài cây sống lâu niên chịu được cả ẩm ướt và hạn hán có nhiều cành lá quanh năm tươi xanh. Đặc điểm nổi bật của loại cây này rễ có nhiều nốt sần có khả năng cố định đạm trong đất không làm ảnh hưởng đến các loại cây trồng khác trong vườn. Mặt khác cành non và lá dâm bụt vừa làm thức ăn cho trâu bò và lợn đồng thời là nguồn phân xanh rất tốt cho cây trồng.

Người dân còn quen gọi là Hoa dâm bụt bởi loài cây này có hoa quanh năm. Vâng, cây Dâm bụt cũng có nhiều giống, mỗi giống loài lại cho một kiểu hoa khác nhau một vẻ đẹp riêng chỉ có ở hoa dâm bụt.

Tuổi thơ ai đã đi qua ở vùng thôn quê mà chưa từng chơi với hoa dâm bụt? Hoa với muôn ngàn hoa nhưng chỉ có hoa dâm bụt mới đích thực là loại hoa miễn phí lúc nào cũng sẵn có lại biến hóa thật nhiều trò chơi. Trên đời này không có loài hoa nào lại được trẻ em chơi nhiều như hoa dâm bụt.

Không chỉ có con người, hàng Dâm bụt còn là nơi tụ hội bướm ong rủ nhau về tìm hoa hút mật.

 

Hơn thế nữa, điệu luân vũ giao duyên cho sự sinh tồn vạn vật cũng diễn ra ở đây

Hàng dâm bụt cũng là sân nhà cho lũ chuồn đỏ, vàng, hoa, đá, kim sau những vòng lượn lững lờ đây lại là nơi kiếm ăn nương náu nghỉ chơi.

Thế rồi ngày nay, con người bỗng nhiên không cần đến cây dâm bụt nữa, mọi thứ đều vuông thành sắc cạnh phẳng lỳ và hóa đá! Bê tông hóa nhà, sân, bê tông hóa đường nông thôn, và bê tông hóa luôn hàng rào khuôn viên vườn nhà.

Mọi thứ rào dậu có tự bao đời qua, nay đã bị đốn bỏ, màu xanh cây lá phải lụi tàn thay bằng màu xám bê tông.

Rồi một ngày bên mọi thứ đều là bê tông nắng như đổ lửa, bỗng dội về nhạt nhòa nỗi nhớ. Cái thời đơn sơ hàng dâm bụt xanh tươi, lập lòe hoa thắm đỏ đã sẻ san đi cái nóng của đất trời. Có thể nào, cây dâm bụt lại trở về cái nơi vốn có?./.

Lê Văn Thưa (Quảng Bình)
 
 
 
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 29/May/2010 lúc 10:44pm
 
 
 
QUÁN CAFE TÙNG , DALAT
 
 
 
 
http://img132.imageshack.us/img132/8726/scan0226cafetungdl.png
 
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 30/May/2010 lúc 10:39pm
 
 
 
 
DALAT MƠ
(05/09/2010)
 

mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 31/May/2010 lúc 9:11pm
 
 
 
........
Tình Mẹ yêu mến như làn gió đùa mặt hồ
Lời ru man mác êm như sáo diều dật dờ
........
Dù ai xa vắng trên đường sớm chiều về đâu
Dù khi mưa gió tháng ngày trông đợi bể dâu
Dù cho phai nắng nhưng lòng thương chẳng nhạt màu
Vẫn mong
quay về vui vầy dưới bóng  MẸ  YÊU.
(Trích "Lòng mẹ" của Y Vân )
 
 





 

 


Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 31/May/2010 lúc 9:11pm
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 04/Jun/2010 lúc 9:27pm
mk
IP IP Logged
Trang  of 9 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.180 seconds.