Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chúc Mừng - Chia Buồn - Cảm Tạ
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Tổng Quát :Chúc Mừng - Chia Buồn - Cảm Tạ
Message Icon Chủ đề: Tiễn biệt thi sĩ "Lá Diêu Bông" về “B Gởi trả lời Gởi bài mới
 
 
http://trannhuong.com/news_detail/4698/N%C3%89N-H%C6%AF%C6%A0NG-TH%C6%A0M-CHO-THI-S%C4%A8-HO%C3%80NG-C%E1%BA%A6M
 
 
 


Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 09/May/2010 lúc 6:26pm
Người gởi Nội dung
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Chủ đề: Tiễn biệt thi sĩ "Lá Diêu Bông" về “B
    Gởi ngày: 06/May/2010 lúc 4:33am
 
 
 
 
 
Thứ Năm, 06/05/2010, 15:25 (GMT+7)

Tiễn biệt thi sĩ "Lá Diêu Bông" về “Bên kia sông Đuống”

TTO - Hoàng Cầm, nhà thơ của Lá Diêu Bông, Bên kia sông Đuống, Mưa Thuận Thành, của kịch Kiều LoanHận Nam Quan đã qua đời sáng nay 6-5-2010, thọ 88 tuổi.

>> Thi sĩ Hoàng Cầm - "Hoàng tử lãng du"
>> Nhà thơ Hoàng Cầm: Dù thế nào, vẫn làm việc

Nhà thơ Hoàng Cầm - Ảnh: Tư liệu

Các tác phẩm chính của Hoàng Cầm

Hận ngày xanh (phóng tác theo Lamartine 1940)
Thoi mộng (truyện vừa, 1941)
Kiều Loan (kịch thơ, 1945)
Men đá vàng (truyện thơ, 1989)
Bên kia sông Đuống (tập thơ chọn lọc, 1993)
Lá diêu bông (tập thơ chọn lọc, 1993)
Về Kinh Bắc (tập thơ, 1994)
99 tình khúc (tập thơ tình, 1955)

Được biết đến như một nhà thơ của Kinh Bắc, tên khai sinh của Hoàng Cầm - Bùi Tằng Việt cũng là tên ghép của 2 địa danh Phúc Tằng và Việt Yên (Bắc Giang). Ông sinh ngày 22-2-1922 tại Thuận Thành - Bắc Ninh, học tú tài tại Hà Nội và bắt đầu tham gia văn đàn vào năm 1940 bằng những tác phẩm dịch từ tiếng Pháp cho Tân Dân xã của Vũ Đình Long.

Vở kịch thơ nổi tiếng đầu tiên của ông Hận Nam Quan cũng ra đời trong khoảng thời gian này (1942). Năm 1945, ông thành lập kịch Đông Phương và đi lưu diễn nhiều nơi trên đất Bắc.

Vở kịch thơ Kiều Loan của ông cũng ra đời trong thời kỳ này, nhưng chỉ diễn được có một đêm thì phải ngừng lại do tình hình chiến sự căng thẳng trước ngày Toàn quốc kháng chiến, ông lên chiến khu và tham gia thành lập đoàn Văn công quân đội năm 1947. Trong suốt kháng chiến, ông nổi tiếng với vai trò một trưởng đoàn văn công, đi biểu diễn phục vụ chiến ssĩ khắp các chiến trường phía Bắc.

Từ 1958 đến khoảng 1995 ông chuyên tâm làm thơ và những tập thơ hay nhất của ông ra đời trong giai đoạn này: Men đá vàng, Bên kia sông Đuống, Về Kinh Bắc, Lá Diêu bông

Thơ ông hấp dẫn các thế hệ người đọc khác nhau, vì ngoài những tìm tòi cách tân về nghệ thuật, Hoàng Cầm vẫn gìn giữ cho riêng mình một vốn ngôn ngữ và hình ảnh đặc trưng Kinh Bắc, độc đáo, tài hoa. Có những câu thơ của ông, dù không phải thơ tình, vẫn làm say đắm bao nhiêu trái tim người Việt.

Từ khoảng 1993, thơ ông được in nhiều và liên tục được tái bản do nhu cầu tìm đọc của công chúng. Năm 2007, ông nhận giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.

THU HÀ

Lá diêu bông

Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ

Chị bảo
Đứa nào tìm được Lá Diêu bông
Từ nay ta gọi là chồng

Hai ngày Em tìm thấy Lá
Chị chau mày
Đâu phải Lá Diêu bông

Mùa đông sau Em tìm thấy Lá
Chị lắc đầu
trông nắng vãn bên sông

Ngày cưới Chị
Em tìm thấy Lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim

Chị ba con
Em tìm thấy Lá
Xòe tay phủ mặt Chị không nhìn

Từ thuở ấy
Em cầm chiếc Lá
đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu bông hời...
...ới Diêu bông...!

..................................................................

Cây tam cúc

Cỗ bài tam cúc mép cong cong
Rút trộm rơm nhà đi trải ổ
Chị gọi đôi cây
trầu cay má đỏ
kết xe hồng đưa Chị đến quê Em

Nghé cây bài tìm hơi tóc ấm
Em đừng lớn nữa Chị đừng đi
Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa
Ổ rơm thơm đọng tuổi đương thì

Đứa được
chinh chuyền xủng xoẻng
Đứa thua
đáo gỡ ngoài thềm
Em đi đêm tướng điều sĩ đỏ
đổi xe hồng đưa Chị đến quê Em

Năm sau giặc giã
Quan Đốc đồng áo đen nẹp đỏ
thả tịnh vàng cưới Chị
võng mây trôi


Em đứng nhìn theo Em gọi đôi

...................................................................

Bên kia sông Đuống

Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp loáng
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu

Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu ?

Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Trầm Chỉ người giăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa mầu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?

Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông

Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp trên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu?
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh...

(Trích Bên kia sông Đuống)

HOÀNG CẦM (Theo Thivien.net)



Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 06/May/2010 lúc 4:45am
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 06/May/2010 lúc 4:43am
 
 
 
 
 
Nhà thơ Hoàng Cầm. (Ảnh: Nguyễn Đình Toán)
 
 
 
 
Tác giả của "Lá diêu bông" đã "trở về với cát bụi"


Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 06/May/2010 lúc 4:45am
mk
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 06/May/2010 lúc 8:14am

Đã tắt lặng

Cây đàn thơ Hoàng Cầm

 
 

Cây đàn thơ Hoàng Cầm đã tắt lặng, nhưng dư âm của nó vẫn ngân nga, vọng mãi trên thi đàn, trong lòng người và nhân thế...

Thế là giữa cuộc đời dâu bể này, đã tắt lặng cây đàn thơ điệu nghệ- Hoàng Cầm. Dù thông tin ông ốm nặng khó bề qua khỏi, lặng lẽ truyền đi trong giới văn chương và những người yêu thơ ông từ khá lâu. Nhưng tin ông ra đi, vẫn khiến văn đàn và không ít người ngưỡng mộ ông hụt hẫng, thương tiếc, xót xa. Dẫu biết tử sinh là lẽ thường tình...

Bởi cái tên Hoàng Cầm- mà người viết bài này, tự đặt - Cây đàn thơ- không chỉ được tạc trong "từ điển văn chương" của nước Việt, mà từ lâu, đã "tạc" trong tâm thức của những người yêu cái đẹp của thi ca, mà nhờ đó, trên hành trình của kiếp người, giữa bao nhiêu nhọc nhằn, biết "vịn câu thơ mà đứng dậy" (Phùng Quán).

Một cuộc đời thấm đẫm chữ Tình

Ông tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh ngày 22 tháng 2 năm 1922, tại xã Phúc Tằng, (Việt Yên, Bắc Giang); nhưng quê gốc của ông ở xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, quê hương của những làn điệu quan họ óng ả, tình tứ, trong một gia đình nhà nho lâu đời. Cụ thân sinh ông thi không đỗ, về dạy chữ Hán và làm thuốc bắc ở Bắc Giang. Tên ông được đặt ghép từ địa danh quê hương: Phúc Tằng và Việt Yên.

Thuở nhỏ, ông học tiểu học, trung học ở Bắc Giang và Bắc Ninh. Năm 1938, ra Hà Nội học Trường Thăng Long. Năm 1940, ông đỗ tú tài toàn phần và bước vào nghề văn, dịch sách cho Tân dân xã của Vũ Đình Long. Văn chương, trong đó, kịch nghệ và thi ca, với ông dường như là một duyên nghiệp, một duyên trời định. Và mảnh đất Kinh Bắc tài hoa làng nghề, tài hoa các làng quan họ như có sứ mệnh tạo nên một thi nhân- một cây đàn thơ lóng lánh muôn điệu: "Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc/ Chiều xưa giẻ quạt voi lồng/ Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc/ Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông... hay Sông Đuống trôi đi/ Một dòng lấp lánh/ Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ...


Ông lấy bút danh Hoàng Cầm, tên một vị thuốc đắng trong các vị thuốc bắc. Ông chọn tên vị thuốc đắng cho mình, như một ám ảnh, một linh cảm của tâm hồn thi sĩ bẩm sinh quá nhạy cảm? Hay chính định mệnh khắc nghiệt đã chọn sự cay đắng "tặng"cho số phận ông?

Không biết nữa!

Chỉ biết, chẳng có người yêu nước nào, dù bé nhỏ đến đâu, vào thời tao loạn của dân tộc, có thể đứng ngoài lề. Đời ông, có đủ đầy cung bậc thăng trầm của một người nghệ sĩ chân chính. Năm 1944, vào đúng lúc Thế chiến II diễn ra khốc liệt, ông đưa gia đình về lại quê gốc tại Thuận Thành, bắt đầu tham gia hoạt động Thanh niên Cứu quốc của Việt Minh. Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, ông về Hà Nội, thành lập đoàn kịch Đông Phương. Khi chiến tranh Đông Dương bùng nổ, ông theo đoàn kịch rút ra khỏi Hà Nội, biểu diễn lưu động ở vùng Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, Thái Bình...

Tháng 8 năm 1947, ông tham gia Vệ quốc quân ở chiến khu 12. Cuối năm đó, ông thành lập đội Tuyên truyền văn nghệ, đội văn công quân đội đầu tiên. Năm 1952, ông làm Trưởng đoàn văn công Tổng cục Chính trị, hoạt động biểu diễn cho quân dân vùng tự do và phục vụ các chiến dịch.

Tháng 10 năm 1954, giải phóng Thủ đô, đoàn trở về Hà Nội. Do mở rộng thêm nhiều bộ môn, năm 1955, Hoàng Cầm được giao nhiệm vụ trưởng đoàn kịch nói. Nhưng trước đó, từ năm 1945, ông đã nổi tiếng vì đóng góp không nhỏ cho sân khâu kịch nghệ Việt Nam, với hai vở kịch thơ: Hận Nam Quan và Kiều Loan.

Hòa bình được lập lại, cuối năm 1955, ông trở về công tác ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm công tác xuất bản. rồi tham gia thành lập Hội Nhà văn và được bầu vào Ban chấp hành. Rồi, giữa lúc cuộc đời tưởng như yên ả nhất, ông bị cuốn vào bão tố của vụ án "Nhân Văn Giai Phẩm", buộc phải rút khỏi Hội Nhà văn- năm 1958 và về hưu non năm 1970, lúc mới 48 tuổi, cái tuổi sung sức nhất của sáng tạo.

Nhưng ẩn dật trong thi ca, lấy thi ca làm mái chắn che chở cho sự bình yên của tâm hồn, và con tim không ngừng náo động bồn chồn vì yêu- đời ông sống được bởi chữ Yêu- ông vẫn tiếp tục thai nghén, sáng tác trong âm thầm, lặng lẽ, trong bóng tối của số phận bất ngờ... Bởi những người vợ của ông-  như Tuyết Khanh, như Hoàng Yến dẫu mặn nồng hương lửa, cũng đã lặng lẽ bỏ ông ra đi, về nơi cuối trời.

Hành trình cuộc đời ông là hành trình của những tập thơ nổi tiếng: "Tiếng hát quan họ", "Men đá vàng", "Mưa Thuận Thành" và đặc biệt là "Về Kinh Bắc"...Một cuộc đời hoạt động sôi nổi, khi thăng khi giáng, lúc ấm áp lúc cô đơn, nhưng luôn thấm đẫm chữ Tình: Yêu nước- yêu người- yêu đời, dù không ít cay đắng và bi kịch số phận cá nhân.

Đôi khi, người viết bài này tự hỏi, trong những đêm dài giá lạnh của cõi nhân gian, ông nghĩ gì, và tìm cho mình cuộc sống như thế nào nhỉ? Bỗng nhớ tới cái quán rượu số 43 con phố nhỏ Lý Quốc Sư. Rượu và Thơ- hai người bạn "tâm giao" không thể thiếu để đến lượt ông "vịn" vào, trong hành trình còn lại dằng dặc, cô độc, dù có thể lúc này lúc khác, bạn bè vẫn thăm hỏi...

Cho đến năm 75 tuổi, cái chữ Tình thấm đẫm cuộc đời ông như được kết tinh nhất, ngọt ngào nhất, đằm thắm nhất, ở tập "Thơ Hoàng Cầm- 99 tình khúc".

Còn sự bình yên với nhân thế, phải gần 40 năm sau mới đem đến cho con tim người nghệ sĩ tài hoa. Đầu năm 2007, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật do Chủ tịch nước ký quyết định tặng riêng.

Lá Diêu bông- hành trình kiếm tìm hạnh phúc

Trong tài sản thơ phú giầu có của ông, Hoàng Cầm có rất nhiều tác phẩm, ngay cả khi chưa công bố, đã được "ngôn truyền" trong công chúng. Và khi cất tiếng hoan ca, nó đủ sức lay động tới con tim mọi giai tầng. Lá Diêu bông là một bài thơ có số phận "hạnh phúc" như thế, cho dù nó nói về nỗi bất hạnh- hay hạnh phúc "ảo" của kiếp người.

Bài thơ dạng kể chuyện, ngắn gọn đến mức tiêu biểu cho sự hàm súc, hàm súc từ hình ảnh đến ngôn từ, khó có thể lược bớt đi một từ nào trong bài thơ.

Câu chuyện có hai nhân vật: Em - tác giả và Chị - đối tượng mối tình thơ ấu của ông. Người ta thường cho rằng bài thơ nói về mối tình đầu đơn phương mộng ảo của người nghệ sỹ tài ba. Nhiều người đã kiếm tìm để biết thêm về cuộc sống tình duyên của hai nguyên mẫu - tác giả và chị Vinh, khai thác sâu các tầng bậc chất lãng mạn trong con người và thơ Hoàng Cầm.

Nhưng thực ra, ngoài phần nổi của bài thơ đã là khá đẹp và hấp dẫn, còn có phần chìm, phần hồn- đó cũng chính là thông điệp của của bài thơ nữa. Cũng giống như người đi tìm trầm hương, cái lõi trầm bên trong mới thực sự quý giá.

Ta hãy quay lại bài thơ và cùng thưởng thức nó.
"Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng

Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều - cuống rạ"

Chỉ với ba câu, tác giả giới thiệu ngay với chúng ta nhân vật chính: Cô thiếu nữ dậy thì mặc váy (con gái Đình Bảng từ tuổi nào đó mới mặc váy), đang vu vơ đi tìm một cái gì đó phi vật thể giữa cuống rạ đồng chiều (có phiên bản chép là thẫn thờ, đúng ra phải là thẩn thơ, chữ thẫn thờ không hợp với tuổi thơ).

Đồng thời tác giả cũng đã tự giới thiệu về mình: Một chú nhi đồng. Một người trai mười tám chắc đã tả "em" nào là hai mắt lá răm, nào đôi môi hồng, nào làn thu thuỷ nét xuân sơn v.v. Còn chú bé nhi đồng chắc chắn chưa hề biết về những cái đó, chú chỉ nhìn thấy có mỗi cái váy (chắc vì ngang tầm mắt của chú!).

Tuổi Trẻ ngày nay ít người biết cửa võng là gì. Cửa võng- một thứ cửa làm bằng gỗ hoặc vải thêu, nhà giàu thì sơn son thếp vàng, hình chữ ∏, ba bên chạm trổ nhiều hoạ tiết, hoặc ghép thêm những chi tiết phụ nhằm tăng thêm sự cầu kỳ của cửa.

Váy buông chùng cửa võng nghĩa là hai thân váy thu sang hai bên rồi buông chùng xuống. Có thể Chị chưa hết tuổi lớn nên váy mặc còn tém sang hai bên như cửa võng.

"Chị bảo đứa nào tìm được lá diêu bông
Từ nay ta gọi là chồng"

Chắc hẳn có mấy chú bé nhằng nhẵng bám theo nên chị nói cho qua chuyện. Xin lưu ý chữ "bảo", không phải Chị nói mà là bảo, bảo là khi người trên nói với người dưới. Hơn nữa, Chị chỉ gọi là chồng, như một trò chơi đóng giả vợ chồng con cái của trẻ con chứ không như Trần Tiến "Em đố ai tìm được lá diêu bông, xin lấy làm chồng"

"Hai ngày em tìm thấy lá
Chị chau mày đâu phải lá diêu bông"

"Chau mày" không phải vì thằng bé dốt quá, làm gì có lá Diêu bông (lá Diêu bông là do nhà thơ sáng tạo ra, có thể hiểu là lá của một loài hoa phiêu diêu, không có thực, giống như hạnh phúc ở trên đời này vậy, cũng là một cái gì đó hư ảo). Hãy phân tích tiếp xem vì cái gì.

"Mùa đông sau em tìm thấy lá
Chị lắc đầu trông nắng vãn bên sông"

"Lắc đầu' là một động tác mạnh hơn "chau mày", cộng thêm động tác nhìn về phía xa xa, như trông đợi một cái gì đó.

"Ngày cưới chị, em tìm thấy lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim"

Chữ "cười" ở đây cho ta lời giải thích vì sao chị "chau mày" và "lắc đầu" ở hai thời điểm trước đó. Nghiã là chị đã đi tìm, đã mong mỏi hạnh phúc lứa đôi. Khi làm đám cưới, chị cảm thấy hạnh phúc, mãn nguyện (có bản chép xe chỉ cắm trôn kim hay ấn trôn kim, nghe thô lỗ quá, ấm trôn kim mới đúng, nó nói lên người con gái đã sẵn sàng cho vai trò làm vợ, may vá thêu thùa, giữ gìn mái ấm gia đình).

"Chị ba con em tìm thấy lá
Xoè tay phủ mặt chị không nhìn"

Khi đã có ba con, lúc nghe nhắc lại lá Diêu bông, Chị có thái độ hoàn toàn thất vọng, không còn muốn nhìn thấy một sự thật phũ phàng: Làm gì có hạnh phúc lứa đôi trong cuộc đời Chị, cái hạnh phúc mà Chị mong mỏi khi nhẩn nhơ đi tìm trong đồng chiều cuống rạ trước đây?

Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể

Gió quê vi vút gọi.
Diêu Bông hời...
ới Diêu Bông!

Khổ cuối của bài thơ như một lời kết cho câu chuyện, như láy lại sự kiên trì ngây thơ suốt cả cuộc đời "Em" trong mối tình vô vọng với "Chị", như một lời than cho số phận bất hạnh của người đàn bà nói riêng và kiếp người nói chung.

Bài thơ thoạt tưởng chỉ là kể về câu chuyện tình liêu trai bất thành, mà thực ra nó là khúc ca xót xa, khóc cho người mình yêu chứ không phải là than thân trách phận. Nó triết lý về hành trình tìm kiếm hạnh phúc đời người. Và nó nói hộ nỗi lòng khát khao. Ai đọc, cũng thấy mình trong đó...

Hạnh phúc chỉ là ảo. Nhưng người ta vẫn không ngừng kiếm tìm...

Vì khát vọng vẫn mạnh hơn ảo vọng. Đó là cái lẽ, bài thơ Lá Diêu bông luôn được mọi lớp người yêu thích, nhập tâm suốt hơn nửa thế kỷ qua.

Và vì thế, cho dù tiếng tơ đồng của  cây đàn thơ Hoàng Cầm đã tắt lặng, nhưng dư âm của nó vẫn ngân nga, vọng mãi trên thi đàn, trong lòng người và nhân thế...

Kim Dung- Phan Chí Thắng


Chỉnh sửa lại bởi Hoang_Ngoc_Hung - 06/May/2010 lúc 8:21am
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 06/May/2010 lúc 7:45pm
 
 
 
                           
             

Thơ 
Hoàng Cầm ...
 
     
 

Trong nhạc Phạm Duy

 
     
 

 

 

 

NẾU ANH CÒN TRẺ NHƯ NĂM ẤY

 
 
 
        NẾU ANH CÒN TRẺ
 (thơ Hoàng Cầm)
 
 

Nếu anh còn trẻ như năm ấy

Quyết đón em về sống với anh

Những khoảng chiều buồn phơ phất lại

Anh đàn em hát níu xuân xanh

 

Nhưng thuyền em buộc sai duyên phận

Anh lụy đời quên bến khói sương

Năm tháng... năm cung mờ cách biệt

Bao giờ em hết nợ Tầm dương?

 

Nếu có ngày mai anh trở gót

Quay về lãng đãng bến sông xa

Thì em còn đấy hay đâu mất?

Cuối xóm buồn teo một tiếng gà...”

 

 

 

TÌNH CẦM
 
(thơ Hoàng Cầm,
nhạc Phạm Duy)
 

Nếu anh còn trẻ như năm cũ...

Quyết đón em về sống với anh!

Những khi chiều vàng phơ phất đến...

Anh đàn em hát níu xuân xanh...

 

 

Có mây bàng bạc gây thương nhớ

Có ánh trăng vàng soi giấc mơ...

Có anh ngồi lại so phím cũ

Mong chờ em hát khúc xuân xưa!!!

 

 

Nhưng thuyền em buộc trên sông hận...

Anh chẳng quay về với trúc tơ!

Ngày tháng tỳ bà vương ánh nguyệt

Mộng héo bên song vẫn đợi chờ!

 
Nếu có ngày nào em quay gót

Lui về thăm lại bến thu xa...

Thì đôi mái tóc không còn xanh nữa...

Mây bạc trăng vàng vẫn thướt tha.”

 

 
TÌNH CẦM
Thơ : Hoàng Cầm
Nhạc : Phạm Duy
Ca sĩ : Vũ Khanh
 
 


 
http://www.nhipcauonline.com/songs/11/Tinh Cam - Vu Khanh.mp3

 
Nếu không nghe được vào link dưới
 
 
 
 
Anh chị và các bạn thích tìm hiểu thêm về nhà thơ Hoàng Cầm ,  sự thật về "chuyện tình" Lá Diêu Bông , về cuộc đời Nhà Thơ ..., xin vào link :
 
 
(Mời đọc phần trích bên dưới)
 
mk
 
 
........
 
Trong một thư gửi cho ông bạn ở Hà Nội, viết vào lúc 5 giờ sáng ngày 22/ 9/ 1976, Hoàng Cầm kể:

Trích "Hoàng Cầm Văn Xuôi," trg.289:

...Hôm mới vào Sàigòn gặp một anh bạn đưa ngay đến anh một thầy tử vi, thầy chỉ cần hai phút là gọi hết các sao biến hiện, xuất nhập của lá số tôi, thầy nói (ông thầy mù hoàn toàn) "Ngài là một người thông minh, tài giỏi, nhưng cả cuộc đời chỉ là hai chữ "dở dang." Công danh, sự nghiệp dở dang, gia đình, tình yêu dở dang. Dở dang hết, không một cung nào trọn vẹn, trừ cung Phúc Đức, có những sao đắc cách đã cứu Ngàị" Thầy còn nói nhiều, (rất đúng) nhưng tôi khoái câu mở đầu ấy của thầy lắm - Mà quả thế, ông Phấn ạ "Đời ông chỉ là hai chữ dở dang." .

.............

Để kết bài này, tôi muốn nối thêm lời ông thầy bói mù Sàigòn 1976 nói về cuộc đời Thi sĩ Hoàng Cầm:

-- Đời ông có một cung không dở dang, một cung trọn vẹn, thật đẹp. Đó là cung Thi Sĩ.
Ông được sinh ra để làm thơ, để làm thi sĩ.
Ông đã là thi sĩ rồi, ông còn đòi hỏi gì thêm nữa? Ông còn cần gì nữa để phải đòi hỏi?
Nếu đời ông có chuyện gì để người đời đàm tiếu thì số ông cũng giống như số cô chị Lá Diêu Bông đồng chiều, cuống rạ, môi trầu cắn chỉ, ổ rơm thơm đọng của ông ; cô Thúy Kiều: Rằng tài nên trọng mà tình nên thương!.

(CÔNG TỬ HÀ ĐÔNG
Viết ở Rừng Phong)

 

 


Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 07/May/2010 lúc 3:32am
mk
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 06/May/2010 lúc 9:44pm

Thi sĩ Hoàng Cầm - 'Hoàng tử lãng du'

Bình Như

Ông nằm đó, nghiêng nghiêng trên chiếc giường nhỏ, thân hình mỏng tang, mái tóc như những sợi cước trắng xoã dài trên gối. Căn gác nhỏ trên cùng tầng 5 của ngôi nhà 43 Lý Quốc Sư mênh mang nắng, gió...

Ông nằm miên man, đôi mắt đẹp chan chứa nỗi u sầu giờ hờ hững khép mở. Mặc cho ngoài kia cuộc sống đang ầm ào gấp gáp và sôi sục, mặc cho thiên hạ dan díu nhau trong bể trầm luân của kiếp người. Ngày lại ngày thi sĩ lãng du chìm đắm trong cõi miên viễn, trong những giấc mơ, những hoài niệm tưởng chừng không dứt, và trong cả sự câm lặng một cách vô thường của thời gian.

Thi sĩ của những tuyệt phẩm thơ Bên kia sông Đuống, Lá diêu bông, Mưa Thuận Thành... từ lâu đã bước quá tuổi “cổ lai hy”, chẳng biết trước thời gian sống trên đời còn lại ngắn hay dài.

Khi tôi bước lên căn gác nhỏ cheo leo trên tận cùng của ngôi nhà nơi thi sĩ Hoàng Cầm nằm tĩnh bệnh, ông giật mình nhỏm dậy. Như một người luôn nửa tỉnh nửa mê trong miên man ngày, miên man đêm của ba năm trời nằm trên giường bệnh mà hiếm lần bước chân ra khỏi bên ngoài cánh cửa, ông trở nên chơi vơi trong cái bừng thức của cuộc viếng thăm không hẹn trước này.

Ông khó nhọc trở mình, đôi mắt u sầu lấp lánh một thoáng vui nhen lên trong khoảnh khắc. Đôi môi đỏ trên làn da sáng mịn khẽ nhếch lên mỉm cười. Ông hoạt bát trở lại, dường như bao nhiêu sự thông thái, am tường và mẫn cảm trong con người ông lại tụ về. Ông như người thiền định trong cõi thực, như người nhắm mắt lãng quên thực tại, lãng quên bản thân.

Thi%20sĩ%20Hoàng%20Cầm.
Thi sĩ Hoàng Cầm.

Ông thì thầm: “Đó cũng là một cách ta giúp cho mình khoẻ mạnh hơn, dưỡng cho mình chút sức tàn còn lại. Nếu không làm vậy, ta làm sao đủ sức trụ tới hôm nay. Ta nằm ở đây không biết bao lâu rồi. Thời gian đối với ta là cực hình, ta thấy sợ và căm ghét nó bởi chúng trở nên thừa thãi quá, dài quá, quá lê thê. Cuộc sống của ta như người bị thời gian và cuộc đời lãng quên rồi”.

Ông nói vậy rồi lại mỉm cười, trở mình cuộn tròn trong chiếc chăn len mỏng. Tôi thấy ở nơi khoé mắt sâu của thi sĩ là những giọt nước mắt long lanh hoen ướt. Ông chỉ cho tôi chốn riêng của mình trên tầng cao chót vót của ngôi nhà và bảo rằng các con ông vừa gợi ý chuyển ông lên đây độ 4 tháng nay. Các con thương ông, muốn ông được yên tĩnh. Ở trên này là tum của ngôi nhà, phía bên ngoài để sân phơi quần áo, ông ở trong gian nhà này được cái có nhiều nắng, gió, ngó ra cửa là ngắm nhìn thiên nhiên, trời trong mây trắng. Tôi nghe ông nói mà thoáng chút xót xa.

Có thể với cá nhân tôi, thi sĩ Hoàng Cầm đã thuộc về một giá trị vĩnh hằng của thi ca Việt Nam, trong tiềm thức của tôi, ông là hoàng tử lãng du của thi đàn Việt Nam. Vì vậy giờ đây nhìn ông trên chiếc giường mỏng, đôi mắt u sầu đã khép nhẹ, đôi môi đỏ thắm trên gương mặt trắng xanh, xung quanh là bao la mây trời, tôi cứ thấy nghèn nghẹn.

Ở đây thật yên tĩnh, bởi ông gần như được tách biệt hẳn cái cuộc sống sôi động thường nhật. Ông có thể không cần phải lắng nghe những âm thanh của cuộc sống giờ đã thuộc về một thế giới khác. Khi tất cả những thứ đó không còn cần cho ông nữa, ông không thuộc về nó nữa thì cách tốt nhất là xa rời, là lãng quên.

Hoàng%20Cầm%20và%20con%20gái.%20Ảnh:%20Tiền%20Phong.
Hoàng Cầm và con gái. Ảnh: Tiền Phong.

Ông giờ đã một nửa là người của cõi thiên thu, của cõi phiêu bồng, một nửa còn lại vẫn còn vương vấn dan díu và duyên nợ với đời thực. Một nửa tỉnh dậy với những cuộc viếng thăm đột ngột, của những nghĩa vụ và bổn phận với gia đình, cháu con. Còn lại là khoảng thời gian vô định, khoảng không gian bát ngát để cho hồn thi sĩ của ông chấp chớt mơ thực tự do bay lượn.

Ông than thở rằng không biết vì sao thượng đế giận ông gì mà còn chưa mang ông về trời. Nói vậy thôi chứ lúc này đây, ngẫm lại một cuộc đời dài bất tận của mình, ngẫm lại những thăng trầm bể dâu của số phận cuộc đời, số phận sáng tác, Hoàng Cầm không thể không cảm ơn đời đã sinh ra ông, một lãng tử tài hoa, một kẻ si tình bậc nhất, một người luôn được sống trong cơn say của những mối tình thơ mộng.

Và may mắn lớn nhất mà số phận đã ban cho ông đấy là những bài thơ ông để lại cho đời. Những bài thơ ông từng tiết lộ rằng nó đã vang lên bằng một giọng tiên nữ, giọng thân linh trong cõi kỳ bí vô thức mà ông chỉ là kẻ chép thơ của cõi vô hình ấy. Với người khác, có thể những câu thơ được hoài thai trong một thời gian dài, và ngay cả khi sinh ra nó cũng nhọc nhằn, khó khăn như bản thân cuộc sống của người thi sĩ.

Nhưng với Hoàng Cầm, những bài thơ nổi tiếng nhất của ông thì cũng là những bài thơ ông viết nó một cách nhẹ nhõm nhất, nhanh nhất và dễ dàng nhất. Ông đã chép lại nó trong cõi vô hình. Trong tình yêu, chàng hoàng tử đa tình Hoàng Cầm là người may mắn. Ông trời ban cho ông cái đa tình si mê từ khi ông chỉ mới lên 8 tuổi. Cả một cuộc đời, một cõi người, ông là chàng thi sĩ hào hoa và lãng du, chàng hoàng tử với cây đàn thơ linh diệu rong ruổi trên trường đời với bao nhiêu tấm tình say mê của những người đẹp.

Từ chị Vinh với chiếc váy Đình Bảng buông chùng cửa võng, rồi Tuyết Khanh, một giai nhân đóng vai nữ chính trong vở kịch Kiều Loan của ông sau một năm say đắm đã ra đi cùng với cô con gái hiện giờ ở Mỹ. Người vợ hiền tay ấp má kề sống cùng ông trọn kiếp người. Rồi đến cô Ninh người đóng vai Kiều Loan sau Tuyết Khanh, một tình yêu dữ dội nhưng đa đoan bởi vướng những rào cản và hệ lụy của cuộc hôn nhân mà Hoàng Cầm đã ràng buộc... Nhiều lắm những người đàn bà đã đến rồi đi trọn cuộc đời thi sĩ. Ông không tài nào nhớ hết được bởi mối tình này chưa kịp lãng quên thì mối tình khác đã đến. Người tình này ra đi thì người mới đã về.

Dẫu vậy đã 22 năm trôi qua, ông là thi sĩ đa tình nhưng cô đơn. Trước khi ngã bệnh, ông thú nhận rằng, 19 năm rồi kể từ ngày vợ ông mất, thi sĩ Hoàng Cầm mòn tay đi tìm người đàn bà cho riêng mình, nhưng ông chỉ có thể ôm mối tơ vương mà chiêm ngưỡng vẻ đẹp thánh thiện của nàng thơ mà không sao với tới nàng được.

Hoàng Cầm ví tình yêu tựa như vì sao cô đơn trên bầu trời mà ông chỉ có thể ôm mối mộng mơ được chạm tay vào vì sao kia, cho dù ông sẽ bị chính thứ ánh sáng huyễn hoặc nhưng khốc liệt của tình yêu thiêu đốt. Có lẽ vậy mà thơ ông luôn phủ một lớp sương buồn, một khát vọng không thoả. Hoàng Cầm kể trong đời tình vô số của ông có 5 người đàn bà để lại 5 mối tình khiến ông đau đớn nhiều nhất mà ông không thể nào quên được.

Trong đó, ám ảnh không kém gì người đàn bà trong Lá diêu bông là một người đàn bà khác giũ áo bụi trần đi tu mà không nói với Hoàng Cầm lấy một lời, hay chút kỷ niệm: “Cõi mê xưa đã trôi veo / Nhớ chăng chẳng nhớ hồn theo bụi nào / Có thời gái nhoẻn hồng đào... Đừng thương em nữa vui càng sinh đau / Chuông thiền xa đổ nhịp mau / Bóng anh thấp thoáng chìm sau mai vàng”.

Tôi hỏi thi sĩ Hoàng Cầm về những bài thơ mới. Ông buồn bã lắc đầu. Có dễ đến 3 năm lại đây, kể từ ngày ông ngã bệnh, ông không buồn làm gì nữa ngoài ý nghĩ về cái chết. Ông mong cho ngày đó đến thật gần, trong một sớm heo may rùng mình, hồn ông bay vút vào cõi thinh không.

Bởi ông không muốn chịu đựng thêm nữa, những cơn đau, sự mệt mỏi triền miên. Bởi ông không muốn bị giày vò thêm nữa cái khát khao được sống, được sáng tạo, được cống hiến cho đời đã trở nên “lực bất tòng tâm”. Ông không giấu được nỗi buồn phiền trong giọng nói, trong câu chuyện thầm thì. Ông sợ thời gian, sợ sự thanh vắng cô quạnh. Các con cháu dù chăm sóc ông hết lòng nhưng không phải lúc nào cũng rỗi việc để có thể bên cạnh ông cả ngày. Bạn bè thân hữu người mất người còn đều bận bịu không phải lúc nào cũng ghé thăm ông được. Mà làm thơ thì ông không còn khả năng nữa.

Tất cả đã lụi tàn, đã ráo hoảnh, đã kết thúc. Chữ nghĩa không còn trở về, không còn thầm thì vang lên thăm thẳm bên tai ông trong những đêm dài. Những thanh âm xưa giờ đã ngủ quên trong sâu thẳm ký ức. Sẽ không trở lại, tất cả những gì đã đi qua, và cái quan trọng là bản thân Hoàng Cầm cũng không muốn níu kéo hay đánh thức.

Giờ đây, ông đã yếu mệt, cuộc sống đo đếm từng giờ phút, kéo lại làm chi cái sứ mệnh ông đã hoàn tất. Số phận sáng tác của một thi sĩ Hoàng Cầm đã hoàn tất một cách may mắn. Có thể với những con người khác, những nhà thơ khác, so với ông họ có một số phận may mắn hơn nhiều, một cuộc đời sung sướng hơn nhiều.

Thi sĩ Hoàng Cầm không có cái may mắn của cuộc đời, không có cái may mắn của cuộc sống. Nhưng ông là một thi sĩ có số phận sáng tác cực kỳ may mắn. Đối với thi sĩ, không có gì ý nghĩa hơn, tuyệt vời hơn, quý giá hơn bằng những câu thơ còn lại với đời ngay cả khi bản thân họ đã tan vào cát bụi.

Tôi biết, tất cả chúng ta cùng biết, rồi một mai, khi nhắc đến Hoàng Cầm, chỉ còn lại là những câu thơ vang lên hào sảng, những câu thơ hào hoa của chàng hoàng tử lãng du ám ảnh hậu thế bởi vẻ đẹp hư thực, bởi nguồn ánh sáng linh diệu phía sau những ngôn từ, bởi vẻ đẹp sang trọng hàm chứa cái sức nặng “trầm đầy một nỗi phương Đông”. “Sông Đuống trôi đi / Một dòng lấp lánh / Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”

“Những cô hàng xén răng đen/ Cười như mùa thu toả nắng”

"Vắt áo nghe thầm tiếng vải kêu/ Một con mèo mướp duỗi chân chiều / Ta con bê vàng lạc dáng chiều xanh đi mãi tìm sim chẳng chín /Ta con chào mào khát nước về vườn xưa hạt nhãn đã đâm mầm /Ta con chim cu về gù rặng tre đưa nắng ấu thơ về sân đất trắng”.

Hoàng Cầm nói rằng ông không làm được thơ nữa, tất cả đã lịm tắt trong tâm hồn đa sầu đa cảm của người thi sĩ. Thế nhưng ông thú nhận thỉnh thoảng ông nằm mơ màng như vậy và đọc lại những câu thơ xưa của mình. Trí nhớ của ông giờ đã kém, nhớ nhớ quên quên nên ông không đọc được trọn vẹn một bài thơ nào cả.

Chỉ là những câu thơ tự nhiên trở về, tự nhiên vang lên, ông nghe lại, nhẩm lại rồi ứa nước mắt vì sung sướng. Ông nói rằng những câu thơ của ông thi thoảng trở về đánh thức ông lão già nua đau ốm trong ông và động viên ông rất nhiều. Chỉ còn lại là những câu thơ như một sự an ủi mình lớn nhất. Ông có thể nương náu vào đấy mà trường kỳ chiến đấu qua cơn bạo bệnh.

Chiếc xe lăn của những bạn hữu yêu quý ông giờ cũng đã nằm yên trong góc nhà bởi ông không còn đủ sức đi dạo phố phường và ngắm thiên nhiên được nữa. Tôi cứ thấy nao lòng khi mường tượng cảnh một ngày nắng lụi, thi sĩ Hoàng Cầm, chàng hoàng tử lãng du, người không thể cưỡng lại được số mệnh, quy luật muôn đời của con người là “sinh - lão - bệnh - tử”, rồi cũng sẽ từ bỏ chúng ta, từ bỏ những người đắm đuối thơ ông, để khoác đôi cánh thiên thần bay về trời, để lại những mối tình sầu, những câu thơ mê đắm trong lòng người.

“Nếu anh còn trẻ như năm ấy / Quyết đón em về sống với anh / Những khoảng chiều buồn phơ phất lại / Anh đàn em hát níu xuân xanh / Nhưng thuyền em buộc sai duyên phận / Anh lụy đời quên bến khói sương / Năm tháng... năm cung mờ cách biệt / Bao giờ em hết nợ Tầm Dương / Nếu có ngày mai anh trở gót / Quay về lãng đãng bến sông xa / Thì em còn đấy hay đâu mất / Cuối xóm buồn teo một tiếng gà...”.

(Nguồn: An Ninh Thế Giới)

Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 06/May/2010 lúc 9:46pm

Chân dung

Thứ năm, 16/02/2006, 07:08

Hoàng Cầm: 'Trời bắt tội tôi yêu sớm'

Hà Linh

Nhà%20thơ%20Hoàng%20Cầm.
Nhà thơ Hoàng Cầm.

Cậu bé ngày nào mải miết đi tìm lá diêu bông vì trót thương thầm nhớ trộm người chị xứ Kinh Bắc, giờ đã thành ông lão tuổi 84. Dấu ấn thời gian đổ cả vào mái tóc bạc trắng của ông để giữ lại vẹn nguyên đôi mắt tinh anh và một tâm hồn thi nhân rộng mở. Dưới đây là cuộc trò chuyện với nhà thơ Hoàng Cầm.

- Thưa ông, chàng trai trẻ Hoàng Cầm đã đến với những vần thơ tình như thế nào?

- Tôi sớm viết thơ tình vì trời "bắt tội" tôi yêu sớm. 8 tuổi đã biết say mê. Nàng thơ đầu tiên của tôi hơn tôi 8 tuổi. Ngày ấy, mẹ tôi bán hàng xén. Một lần từ tỉnh lỵ trọ học về thăm nhà, tôi nhìn thấy chị mua hàng ở chiếc quầy nhỏ. Trong ánh nắng chiều, chị hiện ra trước mắt tôi, đẹp rực rỡ như một thiên thần.

Từ đó trái tim tôi lao đao, choáng ngợp vì chị. Tôi hiểu đó là thứ tình cảm gái trai thật sự chứ không phải là tình chị em con trẻ. Trước, mỗi thứ bảy tôi mới về thăm nhà một lần thì từ khi biết chị, cứ đều đặn đến thứ tư và thứ bảy là tôi mua vé tàu về quê. Rồi tôi lẽo đẽo đi theo chị, chỉ để ngắm thôi. Hai chị em cứ quyến luyến nhau như thế cho đến ngày chị đi lấy chồng. Chị tên là Vinh, là người con gái đã gợi hứng cho bài thơ Lá Diêu Bông của tôi.

- Cuộc đời ông có khá nhiều "lá diêu bông" bay qua. Tại sao không có chuyện tình nào kéo dài?

- Khi yêu nhau, ai chẳng muốn có một tình yêu bền vững. Tôi cũng muốn tình yêu của mình được lâu dài chứ, nhưng hoàn cảnh và số phận vốn mang nhiều điều éo le, bất trắc. Khi một mối tình đi qua, cũng có nhớ, có tiếc thương, khổ đau... đủ cả. Nhưng số tôi vốn đào hoa, luôn luôn được sống trong trạng thái yêu và say mê. Thời gian dành để bâng khuâng và buồn đau quá ít. Bóng hồng này đi qua chưa lâu lại đã có bóng hồng khác tới.

- Ngày xưa, ông thường tỏ tình với những người phụ nữ của mình như thế nào?

- Ngày còn là cậu bé, say mê chị Vinh, tôi viết những vần thơ tình đầu tiên để mỗi dịp về quê lại dúi ngay vào tay chị. Những lần như thế, chị lại thận trọng đút vào túi áo. Tôi biết là chị Vinh hiểu rõ tình cảm của tôi.

Còn những mối tình về sau là do các bà ngỏ lời trước. Cũng có những lúc vì nguyên nhân này nọ tôi phải từ chối nhưng thường thì họ cứ tỏ tình là tôi đồng ý luôn.

- Trong cuộc đời mình, mối tình nào khiến ông phải hối tiếc, ân hận?

Một bài thơ mới của Hoàng Cầm

Xanh xanh lại mùa ảo vọng
Óng thơm dài mái tóc em
Lênh đênh lại dềnh biển sóng
Bốn phương mây trắng nỗi niềm

Hễ nói đến quên lại nhớ
Nhớ nhiều sao chỉ về đêm
Giấc ngủ còn gì để thức
Toàn thân bụi đỏ thoa mềm

Ai vừa cười nụ bên thềm
Vườn cũ bông hồng rạng sáng
Vội vàng chi sập bóng đêm
Mắt cô láng giềng lai láng

Vâng thì em lại lấy chồng
Thế cũng vui đời đôi chút
Dẫu đến nơi nào heo hút
Mai đừng trở lại phòng không

Ta biết mai này mây trắng
Thường bâng khuâng cõi chiều hoang
Ni cô bỏ chùa Long Khám
Về xin đi lại đoạn đường

Vậy thì đi hết đoạn trường
Mới hiểu đâu là hạnh phúc
Thế gian những gì không thực
Thường vây hãm nẻo tâm linh

Tôi biết em đi hy vọng
Giữa rừng tìm một lá xanh.

(Mồng 2 Tết)

- Đấy là chuyện tình với cô Ninh. Mối tình này ập đến khi tôi đã có vợ con đề huề. Nhưng cuộc hôn nhân đầu tiên không xuất phát từ tình yêu mà do mẹ thày sắp đặt và ấn định ngày cưới từ khi 17 tuổi.

Ninh là một người xinh đẹp, sắc sảo, con gái của một gia đình địa chủ giàu có, chúng tôi đã quen biết nhau từ trước. Nhưng đến năm 1942, trong những ngày về Tiên Du (Bắc Ninh) với ý định nhờ Ninh đóng vai Kiều Loan, tôi mới thực sự mê cô ấy. Sau 3-4 chuyến đi đi về về giữa Hà Nội và Bắc Ninh, tôi đã chinh phục được cô Ninh. Ngày đó Ninh đẹp, thông minh, có nhiều gia đình thanh thế giàu có dạm hỏi. Nhưng mà Ninh từ chối hết để nhận lời tôi. Bởi vì tôi ngâm thơ rất hay, nhất là những đoạn trong kịch thơ Kiều Loan. Tôi còn đẹp trai nữa, nhất là khi diện complet, đi giày tây vào thì trông oách lắm. Từ đó, thỉnh thoảng tôi lại lặn lội từ Hà Nội về Bắc Ninh thăm Ninh. Ban ngày chúng tôi xuống làng chơi, còn ban đêm, nhất là những đêm trăng sáng thì đi dạo với nhau, lãng mạn vô cùng.

Nhưng con gái có thì, cũng đến lúc Ninh phải lấy chồng, mà không thể lấy một người đàn ông đã có vợ con như tôi. Năm 1944, cô ấy rủ tôi bỏ trốn vào Sài Gòn nếu còn muốn duy trì mối tình oái oăm này. Đó là những tháng ngày tôi phải đấu tranh với bản thân rất quyết liệt. Bỏ đi là hành động đúng theo tiếng gọi của trái tim nhưng con người ta đâu chỉ có một tình yêu, mà còn biết bao mối quan hệ ràng buộc. Tôi còn bố mẹ già, vợ và con thơ. Đó là chưa kể, cuối năm đó hàng triệu người Việt Nam đang lâm vào cảnh chết đói. Trong lúc cả đất nước đang phải chống chọi với cái chết, tôi đâu đành bỏ tất cả vì hạnh phúc riêng tư. Chúng tôi chia tay nhau. Về sau cô ấy lấy chồng ở Hà Nội. Ông Trời cũng éo le. Trong những ngày tháng ăn ở với tôi, cô ấy không có mang. Nhưng khi lấy chồng, cô ấy đẻ một mạch 7-8 đứa con. Đến lần sinh nở cuối cùng thì cô ấy bị băng huyết và chết khi mới gần 40 tuổi. Đó là một cuộc tình vừa gây thương tiếc, vừa ân hận dẫu rằng nếu có quay ngược thời gian, tôi cũng không thể làm cách nào khác được. Cuộc chia tay ấy là tất yếu, như định mệnh vậy.

- Những mối tình thực trong cuộc đời ảnh hưởng thế nào đến thơ ca của ông?

- Thơ tôi thường nảy sinh từ những mối tình có thật trong đời. Tôi liên miên sống trong tình yêu, có những mối tình trở nên ám ảnh, khiến cho những bài thơ của tôi bật ra một cách tự nhiên và kỳ lạ như từ trong vô thức. Cũng có những bài thơ tôi làm có ý thức hẳn hoi nhưng cũng bắt nguồn từ những tiếc nhớ, yêu thương rất đỗi thật lòng dành cho một người phụ nữ nào đó.

- "Nhớ mưa Thuận Thành/Long lanh mắt ướt/Là mưa ái phi/Tơ tằm óng chuốt/Ngón tay  trắng nuột/Nâng bồng Thiên Thai..." (Mưa Thuận Thành). Đấy là những câu thơ rất giàu nhạc điệu, nghe như chính tiếng mưa rơi. Vậy theo ông, nhạc điệu có vai trò như thế nào trong thơ?

- Nhạc điệu có vai trò rất quan trọng trong thơ tôi. Tôi học được điều này từ Verlaine (nhà thơ Pháp). Khi bàn về thơ, ông cho rằng: "Nhạc điệu trước hết". Tôi luôn chăm chút đến nhạc điệu trong những vần thơ của mình. Và trong thơ tôi, nhạc điệu cũng vang lên một cách rất tự nhiên chứ không phải gượng ép, chắp nối. Nó như là thứ đã hình thành sẵn trong lòng mình.

- Trong số các tập thơ của mình, ông thích nhất tập nào?

- Về Kinh Bắc. Tôi từng nói với các nhà phê bình là muốn nghiên cứu về thơ Hoàng Cầm, chỉ cần mỗi tập thơ đấy thôi cũng đủ. Còn những thứ khác, có cũng tốt còn không thì cũng không sao. Tất cả đặc điểm, tính chất và linh hồn thơ Hoàng Cầm nằm cả trong Về Kinh Bắc.

- Ông nghĩ thế nào về thơ trẻ ngày nay?

- Thú thật là bây giờ tôi ít đọc hơn. Phần vì ốm đau, phải nằm một chỗ nên ít có cơ hội tiếp xúc thường xuyên với báo chí; phần vì tôi cũng tránh đọc. Bởi tôi không đọc thơ một cách dửng dưng mà phải suy nghĩ nhiều nên rất mệt.

Khi làm thơ về tình yêu, tôi không ngại bất cứ điều gì cả, kể cả việc đề cập đến tính dục. Còn hiện tượng nhà thơ, nhà văn trẻ viết về sex dung tục như hiện nay thì đó là những người không mang tâm hồn thi sĩ thực sự, có thể chỉ vì họ muốn nổi tiếng bằng cách tạo nên một điều gì khác lạ. Nhiều khi gặp những câu thơ hay những câu văn "gợn", tôi thường bỏ đi mà không đọc tiếp nữa.

- Ông có những ấn tượng như thế nào với những nhà thơ cùng thời như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Lưu Trọng Lư, Văn Cao...?

- Thực ra, khi tôi mới vào nghề văn, những người như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Lưu Trọng Lư... đã rất nổi tiếng. Tôi cũng thích làm bạn với họ lắm nhưng không dám vì thấy mình còn quá non nớt. Nói chung đối với những tác giả này, lúc bấy giờ tôi rất phục nhưng chỉ dám "kính nhi viễn chi".

Văn Cao là bạn thân của tôi, nhưng thơ tôi và thơ ông khác nhau nhiều lắm. Tôi chú trọng đến nhạc điệu, trong khi Văn Cao không cần đến âm điệu, không cần đến vần. Thơ ông giàu ý tưởng, tư tưởng. Văn Cao là người thâm trầm, ít nói nhưng có rất nhiều tâm nguyện sâu xa.

Hà Linh thực hiện



Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 06/May/2010 lúc 9:49pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
lo cong
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
Quote lo cong Replybullet Gởi ngày: 06/May/2010 lúc 11:21pm

 

Thêm một bài nữa:

Nhà thơ Hoàng Cầm qua đời, thọ 88 tuổi

Nhà thơ Hoàng Cầm ngồi bên dòng sông Đuống đã được ông đưa vào văn học. Ảnh : Nguyễn Đình Toán

Đức Tâm RFi

Sáng 06/05/2010, nhà thơ Hoàng Cầm, tác giả bài thơ nổi tiếng "Bên kia sông Đuống" đã qua đời tại Hà Nội. Bị ốm và gần như liệt trong thời gian qua, ông đã được đưa vào bệnh viện cấp cứu ngày 02/05. Ba ngày sau, thi sĩ qua đời, hưởng thọ 88 tuổi. Hiện tại, thi hài của ông được quàn tại bệnh viện 108. Hội Nhà Văn Việt Nam đang bàn bạc với gia đình về ngày giờ và nơi tổ chức tang lễ cho ông.

Thụy Khuê nói về Hoàng Cầm 06/05/2010

(01:51)

06/05/2010
>

Modifier

Hoàng Cầm là một trong những gương mặt lớn của thi ca Việt Nam trong thế kỷ 20, đồng thời là một trụ cột của Nhân Văn Giai Phẩm. Sau đây là nhận định của nhà phê bình văn học Thụy Khuê :

"Hoàng Cầm là một trong những nhà thơ lớn của Việt Nam trong thế kỷ XX. Hoàng Cầm là nhà thơ có sự nghiệp sáng tác và tranh đấu cho tự do dài nhất trong thế kỷ qua. Hoàng Cầm là một trong những cột trụ của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Đó là ba nét chính của Hoàng Cầm.

Tên thật là Bùi Tằng Việt, Hoàng Cầm sinh ngày 22/2/1922, tại làng Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Nguyên quán làng Lạc Thổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Học cao đẳng tiểu học ở Bắc Ninh, trung học ở trường Thăng Long, Hà Nội. Đậu tú tài, ban triết. Thừa hưởng tinh thần dân ca quan họ và giọng ngâm thơ của mẹ, Hoàng Cầm trở thành nhà thơ có giọng ngâm độc đáo được mọi người truyền tụng.

Làm thơ từ năm 8 tuổi. Dưới thời Pháp thuộc, 15 tuổi, Hoàng Cầm viết kịch thơ Hận Nam Quan. 20 tuổi, sáng tác kịch thơ Kiều Loan, hai tác phẩm gợi lòng yêu nước, kích động sĩ khí, thúc đẩy con người vùng lên chống ngoại xâm.

Trong thời kháng chiến, Hoàng Cầm sáng tác và trình diễn ba bài thơ gây chấn động lòng quân và lòng người: Đêm Liên Hoan, Tâm sự đêm giao thừaBên Kia sông Đuống.

Thời Nhân Văn Giai Phẩm, Hoàng Cầm là một trong những người tiên phong và chủ chốt của phong trào. Không giữ vai trò lãnh đạo như Nguyễn Hữu Đang, cũng không ở vị trí sách lược của một quân sư như Lê Đạt, Hoàng Cầm là người hài hoà và nối kết. Ngoài Phan Khôi, Hoàng Cầm - với uy thế văn học ngang hàng những nhà văn, nhà thơ chính thống lúc bấy giờ - đã viết bài bảo vệ Trần Dần, trực tiếp đương đầu với Tố Hữu.

Không vào Đảng. Khi hoà bình lập lại, Hoàng Cầm là người đầu tiên xin ra khỏi quân đội. Cùng Lê Đạt xây dựng Giai phẩm Mùa Xuân, tác phẩm tự do sáng tác đầu tiên ở miền Bắc sau 1954 và cùng Nguyễn Hữu Đang, khai sinh báo Nhân Văn.

Hoàng Cầm giữ vai trò liên lạc và cổ động văn nghệ sĩ: thúc giục Văn Cao viết bài cho Giai Phẩm Mùa Xuân. Mời Phan Khôi làm chủ nhiệm báo Nhân Văn. Đem bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần ra in. Đưa truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trịnh của Phùng Cung vào Nhân Văn số 4, v.v... Những sáng tác của Hoàng Cầm trong thời kỳ này khá nhiều, nhưng tương đối ôn hoà hơn thơ Lê Đạt, Trần Dần.

Bài "Em bé lên 6 tuổi" (Giai Phẩm Mùa Thu, tập II, tháng 9/56) là một bài thơ âm thầm gợi lại lòng nhân ái của con người đã mất trong cải cách ruộng đất. Hoàng Cầm viết về một chị Đội, đứng trước đứa bé con địa chủ, bố bị đấu tố, mẹ bỏ đi Nam:

"Chị Đội bỗng lùi lại
> nhìn đứa bé mồ côi,
> cố tìm vết thù địch,
> chỉ thấy một con người".

Kịch thơ Tiếng hát (Văn số 24, 18/10/57) mượn hình ảnh tiếng hát để xác định "không thể cưỡng bức được nghệ thuật".

Bài viết mạnh mẽ nhất của Hoàng Cầm trong giai đoạn này là bài Con người Trần Dần, dưới dạng hồi ký văn nghệ, in trong Nhân Văn số 1, vừa biện hộ cho Trần Dần, vừa nói lên những mờ ám, oan ức, trong việc giam giữ Trần Dần. Nếu trong các cuộc hỏi cung, Hoàng Cầm có thể nhát sợ, hay khai, như ông công nhận, nhưng khi cầm bút, cần "can đảm chữ" như lời Lê Đạt, Hoàng Cầm đã không ngại đương đầu với kẻ có quyền sinh sát lúc bấy giờ là Tố Hữu.

Sau Nhân Văn, Hoàng Cầm sáng tác tập thơ Về Kinh Bắc phản ảnh ý chí quật cường của người nghệ sĩ trước cơn bão tố: ẩn sau những âm điệu trữ tình là một bản án buộc tội chế độ toàn trị, đàn áp nhân tài và lũng đoạn văn hoá. Sự nghiệp sáng tác và tranh đấu của Hoàng Cầm gói trọn trong hai chữ: Tình yêu. Yêu tự do, yêu nước và và yêu người.

Một trong những bài thơ hay cuối cùng của Hoàng Cầm, bài Vô Đề, vọng lên tiếng gọi nhân ái, từ bi, hỉ xả, của một nhà thơ, một đời chìm trong bể khổ của bạo lực, chiến tranh và oan nghiệt của dân tộc:

Vô đề
>
Biển xanh ánh phật mười phương
> Hương sen dậy sáng
> Ôm trắng nghìn mây
> Vạn kiếp dãi dầu
> Oan nghiệt rên la bi thống
> Nước mắt dàn bốn đại dương đau
> Chiến tranh ư?
> Bạo lực cơ cầu
> Ðói hành hạ
> Rét dày vò số kiếp
> Người với người cắn nhau đau tội nghiệp
> Tình với tình biền biệt những lìa xa

 


Lộ Công Mười Lăm
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 07/May/2010 lúc 8:56am
Hoàng Cầm
 
...
Người với người cắn nhau đau tội nghiệp
Tình với tình biền biệt những lìa xa
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 09/May/2010 lúc 6:20pm
 
NÉN HƯƠNG THƠM CHO THI SĨ HOÀNG CẦM
• Huệ Triệu
 

     Tôi đọc bài thơ Nước mắt tháng giêng của nhà thơ Thái Thăng Long trên báo SGGP vào những ngày cuối tháng 3 năm 2010, và đến tận bây giờ vẫn bị ám ảnh “Người khóc là người còn ở lại” … Có thể coi Nước mắt tháng giêng là nén hương thơm ngậm ngùi tiễn biệt tác giả Màu tím hoa sim về cõi vĩnh hằng.
     Những ngày đầu tháng 5 này, có thêm nhiều nén hương tiễn biệt ngậm ngùi như thế, trước sự ra đi của nhà thơ xứ Kinh Bắc tài hoa Hoàng Cầm.
      Tôi không nhớ đã bao nhiêu lần đọc, nói trước học trò về bài thơ Màu tím hoa sim, lòng vẫn thầm mong – như đã nhiều lần tuyên bố với học trò, rằng bài thơ sẽ sớm có mặt trong chương trình học của các em. Khi nghe tin nhà thơ Hữu Loan qua đời, tôi thêm một lần nữa ngậm ngùi : bài thơ ấy …
      Rồi chương trình ¬- SGK mới, đưa bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm xuống phần đọc thêm (trước kia học chính thức) tôi cũng lại thấy ngậm ngùi. Không biết bao nhiêu thế hệ người đọc, người học đã để những câu thơ về xứ Kinh Bắc neo đậu đâu đó trong lòng mình : “Em ơi buồn làm chi – Anh đưa em về sông Đuống …”. Dù nói thế nào, thì khoảng trống vắng những lời giảng về Bên kia sông Đuống đối với người dạy văn vẫn chưa bù đắp được.
      Số phận của một bài thơ, nói cho cùng, không phụ thuộc vào việc nó được xuất hiện ở đâu, mà là chỗ đứng của nó, sức lan tỏa của nó trong lòng người đọc. Đây là mối hạnh ngộ, đồng thời cũng là đích đến kì diệu nhất của công việc làm thơ – của công việc đọc thơ;  lí giải vì sao những Màu tím hoa sim, Bên kia sông Đuống, Lá Diêu bông … vẫn  đây đó được viết nắn nót trên những trang giấy trắng học trò đầu thế kỉ XXI.
      Chỉ với Lá Diêu bông, Hoàng Cầm đã được định danh như một trong những thi sĩ đa tình nhất của thế kỉ mình. Tôi muốn nói thêm, chính thi sĩ, bằng thành thực lòng mình, đã đánh thức, nói hộ người đọc những khát khao cháy bỏng dồn nén, để tạo nên một cuộc hạnh ngộ bất ngờ. Lá Diêu bông và tính chất mơ hồ, huyền ảo của nó chính là cái ‘vỏ” hình thức phù hợp nhất chứa đựng một nội dung rất thực : tình yêu đích thực, một phía thật hư ảo, chập chờn, khó nắm bắt như tất cả những gì không có thật trên đời nhưng cũng lại là tình yêu mãnh liệt nhất, cháy sáng nhất. Lâu nay, người đọc thơ dường như chỉ chú ý đến “em” – hiện thân của thi sĩ đa tình, mà như đã quên mất nỗi lòng của nhân vật “chị”. Chẳng cần phải mất công tìm kiếm, cũng thấy rõ cả hai nhân vật “chị” – “em” trong bài thơ đều có những ngóng trông, khắc khoải, chỉ có điều những ngóng trông, khắc khoải ấy không cùng chiều, cùng hướng mà thôi. Tình yêu thủy chung, mãnh liệt của “em” (thể hiện trong sự lặp lại bền bỉ của hành động kiếm tìm, trong sự tiếp nối của thời gian : Hai ngày - Mùa Đông sau – Ngày cưới chị - Chị ba con - Từ thuở ấy ) được đặt trong thế đối lập với hàng loạt phủ định : Chị chau mày - Chị lắc đầu -  Xòe tay phủ mặt chị không nhìn… Có một điều vừa giản đơn vừa phức tạp :  thứ lá mà em tìm thấy, với chị, đâu phải là lá Diêu bông ?  lá Diêu bông không tìm thấy, mà cuộc đời thiếu nữ thì đã đi qua, chỉ còn chống chếnh “Gió quê vi vút gọi” …  Bài thơ đậm chất nhân văn, đưa người đọc đến với một tình yêu đi theo suốt một đời người, đưa người đọc đến với nỗi khắc khoải trống vắng cũng suốt một đời người, và đọng lại ở họ nhiều nhất ý nghĩa của sự kiếm tìm !
     Một chút cùng Lá Diêu bông – xin thắp một nén hương tiễn biệt Hoàng Cầm - nhà thơ tôi yêu quý và ngưỡng mộ !

TP. HCM, ngày 7/ 5/ 2010.
HT
mk
IP IP Logged
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.203 seconds.