Người gởi |
Nội dung |
mykieu
Senior Member
Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
|
Chủ đề: Truyện ngắn -Tùy bút chọn lọc Gởi ngày: 19/Oct/2009 lúc 6:26pm |
( KHUÊ VIỆT TRƯỜNG)
Sáng hôm ấy tàu dừng lại ở ga Huế.
Đáng lẻ cuộc hành trình sẽ còn kéo dài cho đến Hà Nội, bởi tôi sẽ phải dự một cuộc hội thảo tại đó. Nhưng tôi đã phải dừng lại ở Huế. Một cơn lũ vô tình đã rơi đúng vào thời điểm tàu đến ga Huế đã làm một đọan đường ray cách đó không xa bị hõng. Thế là tàu phải dừng lại ở ga Huế.
Tiếng cô hướng dẫn viên trên tàu cứ lập đi lập lại những âm thanh trầm bõng: “ Kính thưa quý khách, vì lý do mưa lũ làm hõng một đọan đường sắt ở cây số … cho nên tạm thời chuyến tàu phải dừng lại ở ga Huế trong vòng 12 giờ đồng hồ…”
Theo hướng dẫn của nhà ga thì hành khách có thể ở lại trên tàu hoặc thuê nhà nghỉ, nhà trọ quanh khu vực, họăc cũng có thể đi đâu đó trong thời gian này. Tôi bỗng trở nên thú vị lạ lùng vì chuyến dừng chân bất đắc dĩ ở ga Huế àny,vì mình có cớ để rong chơi ở Huế, bởi dù sao thì đây là lần đầu tiên tôi đã chạm chân mình ở miền đất mà tôi đã từng mơ tưởng phải đến, trong lòng thành phố Huế còn có một người tôi muốn kiếm tìm..
Tôi thong dong xách chiếc balô gọn nhẹ của mình bước ra cổng ga. Chưa vội đi, tôi ngồi ở quán nước trước cửa ga, kêu một tô bún bò. Lạ chưa, bà bán bún lấy mấy lát thịt bò tái bỏ vào tô, chan nước lên. Sau này tôi mới biết cách bán bún bò dã chiến kiểu tiết kiệm ở ga Huế không phải là bún bò Huế, một món ăn lừng danh mà bất cứ ai tới Huế cũng phải thích thú , tìm cách ăn cho được khi đặt chân đến Huế. Thậm chí khi bạn leo lên một chiếc xích lô nào đó, cửa miệng của bác tài cũng sẽ là : “ Cô có đi ăn bún bò Huế không?”.
Tàu dừng lại Huế và tôi đi vào trong lòng phố Huế vì tôi muốn đi tìm anh. Tự dưng tôi muốn ngắm nhìn anh, tôi muốn nắm bàn tay rắn chắc của anh. Tự dưng tôi muốn anh xuất hiện trước mặt tôi dẫu thời gian đã òa trôi như những cơn gío lã lơi cứ lướt qua những mái nhà, những con phố rồi đi vào thênh thang.
Minh Tự, đó là tên anh. Cái tên không thể trùng lắp với bất cứ một cái tên nào trong đám đông. Dẫu nhắm mắt lạii, tôi vẫn hình dung ra gương mặt anh với mái tóc bồng bềnh của một nghệ sĩ, bộ ria nhỏ xinh trên gương mặt với đôi mắt sáng cứ nhìn thẳng vào mặt người khác như khiến cho người đối diện phải trút hết lòng mình trước mặt.
Nhưng đó đã là chuyện của 10 năm trước, cái thuở sinh viên gầy gò ốm yếu, cái thuở đói bụng chỉ có gói mì gói ngâm trong nước lạnh chia đôi trong đêm Đà Lạt lạnh cắt da. Đó là cái thuở đi mỏi cả chân, ngồi ở bên vệ đường thơm lừng hương cỏ dại ôm nhau như thế gian này bỗng xóa nhòa.
Nhưng đó là Đà Lạt. Anh rời Đà Lạt trong buổi sáng sương mù còn che khuất bóng người.
Tôi đã khóc vì sự lìa chia, vì tưởng đời tôi gắn với đời anh mãi mãi.
Đến hôm nay tôi vẫn không hiểu tại sao anh lại trở về Huế bởi một lời hứa nào đó, ngay cả khi tôi nhận được tấm thiệp đám cưới của anh gởi qua đường bưu điện.
Tôi có thói quen lưu giữ tất cả các số điện thọai vào một cuốn sổ tay nhỏ. Trong đó có rất nhiều số điện thọai dường như tôi chưa bao giờ gọi tới, số điện thọai của anh tôi lại ghi bằng mực đỏ, và tôi cũng chưa từng gọi cho anh, từ ngày anh rời Đà Lạt trở lại Huế.
Tôi giỡ cuốn sổ tay nhỏ ghi số điện thọai, tìm số điện thọai của anh.
Tôi gọi cho anh từ ga Huế.
Cũng lạ cho tôi, khi bấm số điện thọai của anh, tôi tin rằng người nghe điện sẽ là anh, dẫu bây giờ người ta vẫn thường thay số điện thọai như thay một chiếc áo, khi gọi vào số điện thọai ấy thì đã trở thành số điện thọai đã cũ.
Tôi gọi cho anh như nghe những rộn ràng của 10 năm trước đang lần lượt hiện về..
Đà Lạt 10 năm trước, tôi yêu anh. Đà Lạt 10 năm trước anh yêu tôi. Đó là con dốc Phù Đỗng rộng lớn, hai hàng cây anh dào dọc theo lối đi. Anh ở ký túc xá ở tận trên đỉnh đồi, còn tôi lại ở trọ trong một căn phòng nhỏ dưới đỉnh đồi.
Hai khảong cách ấy lúc đầu là xa vời vời.
Tôi chắc chắn chẳng hề quen biết anh, nếu không có một tai nạn xảy ra trong buổi chiều khi tôi đang trên đường về xảy ra một câu chuyện nhỏ. Tôi gọi đó là định mệnh. Hôm đó tôi bước chậm rãi ngắm nhìn cây cỏ, không vội đi nhanh khi tôi vừa tan học. Tôi không làm gì để vội về căn phòng trọ nhỏ, tôi cũng chẳng có ai nhớ thương chờ đón và tôi cũng có bận bất cứ công việc gì.
Nhưng bất ngờ khi đó một tóan thanh niên đi xe máy đã lướt qua tôi giật chiếc túi xách tôi đeo trên người.
Khi đó, anh đi đâu phía sau tôi anh đã phóng nhanh nạp theo khi chiếc xe máy đang lảo đảo.
Anh đã đánh cho hai tên thanh niên mấy cú đấm, lấy cặp sách lại cho tôi. Nghĩ lại cái yên hùng thời hiện đại khiến cho hai đứa tôi quen nhau như một câu vọng cổ quen thuộc mà buồn cười.
Tiếng điện thoại bên kia reng vài tiếng.
Rồi tiếng của anh : “Tôi Minh Tự đây, xin lỗi ai đầu dây.”.
Quả thật là tôi thót tim khi nghe tiếng nói của anh.
Tôi thầm thì : “ Em Hướng Dương đây. Anh có nhớ Hướng Dương ở Đà Lạt không?”.
Giọng anh như hơi lạ : “ Hướng Dương ? Em vẫn ở Đà Lạt à?”
,’Không, em đang ở Huế.”.
“ Em đang ở chổ nào?”,
Tôi trả lời : “Em đang ở hàng bún bò trước ga.” .
“Em đợi anh nhé. Anh tới ngay”…
Tôi không tin rằng anh sẽ tới.
Bởi lý do anh rời khỏi Đà Lạt bởi một mối tình, không thể nào lý giải được.
Chắc chắn vợ anh, cô gái Huế hiền thục đã sinh cho anh hai đứa con dễ thương. Anh đâu còn như cái thuở sinh viên rộn ràng để buổi sáng Huế đầm đẫm sương mù anh có thể đến chổ tôi như cái thời ở Đà Lạt.
Ở Đà Lạt đó, nơi mà mãi đến hôm nay dấu chân anh và dấu chân tôi đầm đàm kỷ niệm. Là những hàng thông reo thầm thì trên ngọn đồi gần hồ Than Thở, có khi hai đứa ngủ quên về, mặc cho ngày lượn lờ trôi, mặc cho những chuyến xe ngựa chở rau từ Thái Phiên về phố vẫn lọc cọc những tiếng chân ngựa va lên mặt đường.
Sau tai nạn bị giựt túi xách hôm đó tôi và anh đã trở nên thân thiết.
Rồi hai đứa cùng ra trường.
Tôi tìm được việc làm ở bên bưu điện nhờ quan hệ của ba tôi.
Còn anh thì cả năm trời gần như thất nghiệp. Anh đi dạy kèm theo giờ cho học trò hay đôi khi anh viết những bài báo đăng báo kiếm nhuận bút.
Anh rời khỏi ký túc xá, thuê một căn phòng nhỏ để ở tạm, nơi đó thỉnh thỏang tôi đem tới ít gạo, muối, cá khô gọi là tăng cường sức mạnh cho anh. Anh bảo với tôi trong khỏang thời gian cơ hàn đó là anh không bao giờ thấy Đà Lạt có mùa đông.
Đôi khi ngồi trong một góc quán cà phê, nhìn ra ngòai trời mưa giăng mù mịt, những chiếc lá thông hình kim đập khẻ khàng trên mặt kính, anh bảo : “ Anh nhìn chúng giống như đang kiếm tìm tình yêu.”
Rồi nhiều lần, nhìn những chiếc lá thông hình kim có khắp mọi nơi ở Đà Lạt này, là tôi nhớ tới anh. Rồi anh về làm việc ở tờ báo tỉnh. Hết những ngày đói, anh trở thành một cây viết xuất sắc và có uy tín.
Cho đến một ngày anh theo đòan cứu trợ bão lụt chở hàng hóa cứu trợ nạn lụt ở Huế.
Anh trở về lại Đà Lạt, một thời gian sau anh xin nghĩ việc, về Huế.
Anh ôm tôi trong đêm Đà Lạt: “Anh xin lỗi nhá Hướng Dương, anh phải về Huế.”
Tôi nhớ tới anh, anh xuất hiện trước mặt tôi trên một chiếc xe máy: “Hướng Dương. Chao ơi, em không già chi hết.”
Anh đưa tôi qua phố Huế đang râm ran tiếng ve của mùa hạ, anh đưa tôi qua phố Huế của anh với tiếng cười vang: “ Đi cà phê xong về nhà anh ăn cơm, vợ anh sẽ nấu bún bò Huế cho em ăn, đó mới là bún bò Huế.”
Hiền, vợ anh không đẹp hơn tôi. Không hiểu tại sao tôi lại có một sự so sách khập khểnh đến thế. Nhưng Hiền là người vợ hiền thục. Món bún bò Hiền nấu qủa thật là một bửa ăn ngon lành, là tô bún bò Huế ngon thật sự mà tôi được ăn. Hai đứa con của anh đều gởi ở bên ngọai vì đang là mùa hè.
Hiền đưa tôi trở lại ga Huế, còn một khỏang thời gian khá dài trước khi tàu rời Huế. Tôi và Hiền cùng ghé vào một quán nước.
Con đường sắt rời Huế lập lòe ánh đèn đêm. Tôi nhìn ra ô cửa sổ nhìn bóng đêm trộn ánh sáng đèn. Trong điện thọai của tôi là dòng tin nhắn của Minh Tự : “ Chúc em đi vui vẻ.”
Tôi nhẹ tênh lòng mình trong cuộc hành trình rời ga Huế.
Tôi như giữ nguyên lời kể của Hiền: “ Ba mẹ em và ba mẹ anh ấy có hứa sẽ gã con cho nhau. Tưởng là lời hứa, nhưng trong cơn bão lũ khi anh ấy theo đòan cứu trợ về Huế thì ba mẹ em đèu chết hết, em chỉ còn một mình. Anh ấy bảo anh ấy yêu chị nhưng không thể bỏ em bơ vơ trên cuộc đời này. Anh ấy đã trở lại Huế.”
Tôi còn giữ trong tay mình tấm ảnh gia đình anh do Hiền đưa . Đứa con gái lớn của anh đang cười trong ảnh.
Hiền bảo : “Em đặt tên nó là Hướng Dương đó chị ạ.”
KHUÊ VIỆT TRƯỜNG
Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 14/Jan/2010 lúc 10:32am
|
mk
|
|
IP Logged |
|
mykieu
Senior Member
Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
|
Gởi ngày: 11/Jan/2010 lúc 8:49pm |
Vết Thương Nguyễn Ngọc Tư Tôi
nhớ hoài bản sơ yếu lý lịch mà Phúc viết năm em mười hai tuổi. Ở dòng
nơi sinh em ghi: dưới gốc bàng. Tôi nhớ vẻ mặt trong vắt của em khi
phụng phịu: “Thiệt vậy mà, anh Hai quên rồi sao?”.
Không, có
chết tôi cũng không quên buổi sớm hôm ấy, khi tôi và má nuôi nhìn thấy
Phúc ở dưới gốc cây, xung quanh lá khô rơi đầy. Người ta túm em trong
bọc vải đẫm sương, người em đã tím, em không khóc nữa nhưng dường như
đã khóc rất nhiều, môi em khô rốc, bợt bạt.
Khuôn mặt nhòe
nhoẹt máu, một bên mắt em đã bị chuột gặm nham nhở. Tôi - bảy - tuổi
khóc điếng, hình dung mình cũng đã từng nằm dưới gốc cây nào đó, cùng
kiến, chuột và bóng đêm. Hôm má nuôi ôm tôi lên cũng giống như bây giờ,
gói em trong tay, bà hơi trùng trình, lảo đảo, nom em nhỏ nhoi như trái
bí, trái bầu nhưng mang sức nặng của một sinh linh.
Chúng tôi
mang em về Sương, về ngôi nhà nhỏ chênh vênh trên khu vườn chôn chi
chít những tiểu sành - những hòn máu bị vứt bỏ mà má nuôi tôi nhặt từ
bệnh viện. Tôi lẳng lặng xách dao dọn một khoảng cỏ, chuẩn bị tấm vải
và cái quách nhỏ. Nhưng thật lạ lùng, em vẫn sống, tiếc là chỉ còn một
mắt. Lần đầu tiên má nuôi tôi tin có kỳ tích trên đời.
Vẫn
những buổi chiều lên, vẫn khu vườn hiu hắt, những giọt máu chưa thành
hình không đủ để hóa linh hồn, chỉ vật vờ những ngọn khói mỏng xiêu
xiêu. Nhưng từ khi có Phúc, có tiếng cười giòn tan vắt vẻo trên tàng
cây, khói cũng bớt khóc than. Để hình dung ra mình đã lớn như thế nào,
tôi nhìn Phúc lớn.
Nhưng khó hi vọng được nhìn thấy mình, vì
Phúc khác biệt tôi. Phúc không thèm nhớ mình là đứa bé bị ruồng bỏ đã
đành, vết thương - hốc mắt trống phập phồng trên gương mặt, em cũng
chẳng để ý. Phúc hay đòi má nuôi tôi kể lại ngày lượm được em, để lấy
làm sung sướng, ra vẻ kinh ngạc, ngỏn ngoẻn: “Vậy mà con sống, ngộ
thiệt”. Thời gian đi qua Phúc có vẻ nhẹ nhàng.
Tôi thì không.
Tôi thường buồn bã, chờ đợi, ham muốn điều gì đó không rõ ràng. Vài
bóng người lạ mặt lảng vảng trong vườn khói của má nuôi tôi cũng làm
tôi hi vọng và tuyệt vọng. Chẳng có ai tìm mình.
Có lần bắt
gặp một người phụ nữ ngồi than khóc bên cạnh một ngọn khói nhỏ, tôi ôm
mấy gộc củi ra sân, bửa như điên dại. Ước gì mình cũng hóa khói... Nghe
vẳng trong nhà tiếng Phúc nói với má: “Anh Hai đang khóc…”. Khi chỉ có
hai chúng tôi, Phúc tần ngần hỏi nhỏ: “Có má thương mình không đủ sao
anh Hai?”.
Với Phúc sống là đủ, có người nuôi cưu mang là đủ,
có một con mắt nhìn đời cũng đủ. Đi đường, thấy bất cứ đám tang nào, em
cũng bỏ dép ghé vào, thắp mấy cây nhang, lạy ba lạy. Thấy tôi ra vẻ
ngạc nhiên, em thầm thì: “Biết đâu họ là cha má mình...”.
Em
có thể điềm nhiên chơi dưới gốc cây bàng năm cũ, vừa ngó nghiêng vừa
nói: “Để em kiếm con chuột hỏi nó coi tha con mắt em đâu?”. Rồi thấy
tôi ngồi đằng xa, mướt mồ hôi, mặt cắm xuống đất, em rón rén lại, chìa
trái bàng khô ra:
- Anh Hai, coi con mắt em rớt ở đây nè, chà, nó cũ mèm rồi.
Con mắt còn lại lấp loáng ánh cười.
Đó
là lần đầu tiên tôi nghĩ ước gì mắt Phúc có cả đôi. Nó sẽ làm cho khuôn
mặt em xinh đẹp hơn, cho cái cảm giác chông chênh ở em không còn nữa.
Và quan trọng, ở Phúc không còn dấu tích bị bỏ rơi. Của em và của tôi.
Ý
nghĩ ấy ngày càng vây lấy tôi như con rắn đói điên cuồng quấn mồi. Tôi
thôi học theo má nuôi làm công việc quét dọn trong bệnh viện. Đồng
lương ít ỏi, tôi bỏ bệnh viện đi làm thợ hồ. Nhiều bữa gạch cắt tay đổ
máu, thấy em chắc lưỡi hít hà, tôi cười:
- Đứt chút đỉnh nhằm nhò gì. Miễn là có tiền làm mắt giả cho em...
Phúc
cúi đầu, đang thoăn thoắt quấn vải bó tay tôi bỗng chậm rãi, đắn đo.
Tôi lại bỏ việc ở công trường, bởi quần quật bốn tháng trời cũng chưa
đủ chi phí cho ca phẫu thuật. Người quen giới thiệu một chỗ bưng bê ở
nhà hàng thị xã. Bà chủ tốt bụng hay biểu vào phòng, nhờ đấm bóp, cho
thêm tiền. Bắt gặp cái ánh nhìn rất ướt của bà, lòng tôi lạnh ngắt lạnh
ngơ. Tôi chợt nhận ra, buột miệng nói “Chết cha…”, mình chỉ nóng bừng
khi đứng trước Phúc. Em không còn đơn thuần là đứa em gái nhỏ. Điều đó
làm tôi càng nôn nóng. Thật hạnh phúc khi nhìn thẳng vào em, ôm ghì em
trong tay mà không bị ám ảnh bởi gốc cây, con chuột...
- Anh làm tháng nữa là đủ tiền...
Má
nuôi tôi rầy: “Cái thằng, lải nhải hoài chỉ chuyện đó”. Phúc không nói
gì, ngồi trước thau giặt đồ to tướng, tay vò miết chiếc áo tôi còn
vương vất mùi dầu thơm của người chủ nhà hàng. Dường như em lại lặng
đi… Tôi không hiểu cái lặng đi đó, không hiểu sao nhắc tới chuyện mắt,
Phúc không giấu được buồn.
Phúc lẳng lặng bỏ đi, không trở
lại. Má nuôi tôi nói chính tôi đã đẩy Phúc đi. Tôi chạy ra ngã ba
Sương, vô vọng ngó những con đường chạy hun hút đằng phía chân trời.
Những
ngọn khói không còn vật vờ than thở nữa, chúng nhận ra làm người cũng
chẳng sướng gì khi phải chịu đựng những nỗi đau. Chúng an phận khói…
Chúng để mặc tôi rấm rứt với cách trả lời bằng câm lặng của Phúc.
Rằng
Phúc cũng đau, nhưng em không tránh né bởi quay về hướng nào thì trên
mặt em cũng còn vết, nên em tự giẫm bừa lên đó, để chỗ đau chai sạn.
Rằng em tuyệt vọng khi cố gắng kiệt sức mà chỉ thấy khiếm khuyết của
mình hằn vết sâu nhói trong mắt tôi…
Tôi thường đem củi ra bửa
đến khuya, đến kiệt sức, vì nhớ Phúc. Thật kỳ lạ, trong cái nhớ quay
quắt đó, tôi không mảy may nghĩ về vết thương, trong tôi long lanh nụ
cười trong vắt của Phúc, giọng nói giòn tan của Phúc.
Và mắt của Phúc không bao giờ lầm lũi cúi nhìn, không nề hà chuyện mình có đủ đôi hay không, mắt. http://www.maiyeuem.net/vtopic151049.html
|
mk
|
IP Logged |
|
mykieu
Senior Member
Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
|
Gởi ngày: 14/Jan/2010 lúc 10:20am |
Xin giới thiệu cả nhà bài viết của anh Nguyễn Thanh Nhàn , cựu sinh viên khóa 1, trường Chính Trị Kinh Doanh, Viện Đại Học Đà Lạt . Anh Nhàn sinh trưởng tại Mỏ Cày, Bến Tre . Trong truyện, Thảo Xá Hiền Cung (TXHC) là Thánh Thất Cao Đài , tại thị xã Bến Tre , dành cho phái nữ tu .Khuôn viên TXHC có Nhà Trung Đường , nơi các Đạo Hữu có thể gửi con gái vào tập tu , cùng lúc theo học chương trình giáo dục phổ thông trường ngoài . mk Thảo Xá Hiền Cung
Nguyễn Thanh Nhàn
Nhìn bức ảnh (Thảo Xá Hiền Cung) mà cô QM đã chuyển lên mạng tôi thấy khác xưa rất nhiều.
Buồn!
Nơi nào hàng ngày cũng có sự thay đổi, đôi khi ít đến nổi được mặc nhiên chấp nhận.
Nhưng gom tất cả bằng bốn mươi năm những cái mới đã thấy đầy nghẹt. Đầy nghẹt không
phải để cộng thêm mà để xúm nhau làm mất mát. Nhiều người không chịu nghĩ rằng một
miếng ngói cũ cũng chính là vạch nối của thời gian. Thôi thì cái mới để cho người
mới. Những du tử mõi mệt thường về chốn xưa để sống bằng kỹ niệm.
Ngày xưa đi ngang Thảo Xá Hiền Cung trong lòng tự nhiên man mác... Mặt cát phẳng
mịn, mưa không đọng vũng. Lối vào trống thoáng. Không thấy ngưòi nhưng chỗ nào cũng
có dâu vết của sự quét dọn. Sân đầy dừa cao, mát mẽ xào xạt. Cổng màu vôi nhạt,
mái ngói gió sương nhưng tất cả hài hoà vào một không gian êm ã thanh tịnh. Bốn
chữ Thảo Xá Hiền Cung dù chỉ mới đọc thầm nhưng các dấu không hỏi sắc huyền tự nó
đã tạo thành một tiết điệu (ủ ú ù u ) vẳng sâu trong màng nhỉ. Chưa nghe âm thanh
mà đã cảm như có tiếng vọng. Bốn chữ Thảo Xá HIền Cung ngắn hơn tên của một Công
Tằng Tôn Nữ nhưng nếu dù bẽ đôi từng cặp ngắn hơn hoặc thảo xá, hoặc hiền cung hoặc
hiền thảo thì cũng đủ cho lòng người một yêu thương mến trọng. Ấn tượng rung chuyền
gây thêm ấn tượng. tự nhiên bâng khuâng thèm nhớ. Không biết nhớ gì. Bởi lẽ mới
đến lần đầu. Nhớ một kỹ niệm chưa xảy ra? Hay nhớ một kỹ niệm đã xảy ra từ tiền
kiếp?
Thảo Xá Hiền Cung là chổ tu hành của phái nữ đàn ông không được phép vào. Không
có bãng cấm nhưng ai cũng biết và tôn trọng. Nơi đây cũng được xem như là một ký
túc xá nhưng rất giới hạn chỉ dành cho một vài con em của các chức sắc tận tuỵ với
việc đạo hơn việc đời. Nhờ ơn Trời Phật tôi được quen với một người con gái trong
gian nhà cỏ đó. Đến khi lên Đàlạt học, đi về tôi vẫn ghé thăm. Dĩ nhiên là phải
đến nhà người quen ở gân rôi nhờ một bé gái vào nhắn hộ.
Năm đó sau Tết tôi đã ghé thăm. Giáp ranh Thảo Xá HIền Cung là vườn dừa của cô bảy
Quỳnh Mai. Vòng xa phiá sau là một con đường đá đỏ có hàng me che mát chạy băng
giữa một cánh đồng khá rộng. Con đường rất yên tịnh vì đã ra đến ngoài cùng thị
xã. Buổi chiều vài học sinh lớn lớp thi thuờng ra học bài. Ở đây thuộc xã Bình Nguyên
nên cũng gọi là khu Bình Nguyên . Dân chúng Bếntre khi nói đến Bình Nguyên đều liên
tưởng đến một nơi yên bình không khí trong sạch. Ngưòi dân có huê lợi khá. Nữa thành
nữa ruộng. Thành trong tiện nghi và kiến thức phổ thông. Ruộng trong tâm lành và
cách đối xử đôn hậu. Chúng tôi vẫn thường đến đó. Riêng tư mà thánh thiện. Vắng
vẻ mà an toàn.
Chúng tôi ngôi bên bờ đường cũng là bờ ruộng. Hoàng hôn đỏ ối trên rặng dừa phía
xa. Ánh nắng vàng tươi làm những gốc mạ màu vàng cũng thấp thoáng óng ã. Nếu bạn
nào có tâm hồn gắn liền với nghề làm ruộng sẽ cảm nhận được một thứ hạnh phúc bí
ẩn di truyền mỗi khi nhìn được một cánh đồng không người nhưng đầy trơ gốc rạ. Ngày
xưa làm ruộng một mùa gặt xong là sắp tết. Một giai đoạn rất cực khổ và vất vã đã
qua. Mọi người trẻ già bé lớn đều hân hoan chờ Tết. Cúng ông bà có nghĩa là được
ăn ngon. Thăm viếng bà con là có may sắm mới... Niềm vui lấn át nổi buồn cứ tích
luỹ từ bé đến già, từ cha sang con rồi biến thành tiềm thức mà không nhớ hết nguyên
nhân. Như thế đó, thiên nhiên quanh chúng tôi tự nó đã là một bầu trời hạnh phúc.
Gió hiu hiu mát đủ làm lay động những cánh diều. Tôi nghe hương chanh luồn trong
từng hốc phổi. Ở nhà quê tết xong qua hạ nêu mới gội đầu. Lấy chanh làm sạch tóc.
Tuổi xuân thì trong mùi tóc cũng ấp ủ trinh nguyên.
Năm đó em dặn tôi
- Mai mốt anh đừng viết thư về cho em nữa. Chắc năm nay ba bắt em lấy chồng.
- !?
- Lấy ai thì chưa biết nhưng chỉ lẩn quẩn người trong đạo.
Em lấy chồng về Mỏcày, cùng con đường với nhà tôi không xa hơn tầm mắt.
Đạo Cao Đài dạy phái nữ lấy nữ công gia chánh làm bổn phận. Lúc trẻ để tóc thẳng
khi có chồng thì bới đầu. Em có chồng phải chăm lo ăn uống theo sở thích chồng nên
không thể tiếp tục trường chay. Nghe nói hồi mới làm con cá em cũng sợ, chồng phải
làm. Có khi người hàng xóm vừa thấy thương vừa thấy tội nghiệp nên cũng làm dùm.
Những lúc bãi trường hoặc tết, khi nào biết tôi về em ý nhị thả lại mái tóc dài
chãi xuông và thẳng. Chị dâu tôi nói với tôi "Cổ còn thương chú lắm"
Tôi vẫn nhớ em. Sóng mũi thẳng. Lông mi cong dài. Những sợi lông mày xuôi chiều
chụm ngọn vào nhau thành một vành cong nhuyễn mướt đậm quá hơn đuôi mắt. Có người
gọi là vòng nguyệt có ngưòi gọi là vòng cung. Chân mày chụm ngọn là mẫu người hướng
tâm mà thi nhân vẫn thường ca ngợi "Nguyệt hữu loan cung bất xạ nhân". Thoáng
nghĩa, vẫn đẹp vẫn quyến rũ nhưng không gây thế nhân say đắm cuồng si. Nhưng tôi
lại nghĩ khác, nếu gặp những người có ba thứ đam mê chân dung thư pháp và thuỷ mạc
thì chắc họ phải tương tư. Làm thế nào chỉ vút ngược ngọn bút lông cực nhanh cực
chuẩn mà có thể diễn tả được nét ngài !?
Bắt đầu như một sợi chỉ ngòi bút được ấn mạnh hơn mạnh hơn thật đều để lằn mục nở
dần. Chậm thì run. Nhanh thì không ngừng kịp. Tâm động bút khựng là công lao phải khởi lại từ đầu. Mài mực phải kinh nghiệm.
Chấm mực phải khéo Làm sao cho ngọn bút ngậm nước đủ no, quến mực không thừa. Càng
ấn, đầu bút càng bẹt. Mực vẫn xuống đều. Màu đen vẩn đậm. Mực vừa sắp hết nước xuống
loãng màu là nhấc tay thật lẹ. Bút ngừng là đọng mực. Điểm dứt của ngọn bút là điểm
khởi của chân mày. Khởi to mà vẫn nhạt. Phần nước trong mực cũng chỉ đủ thấm nhẹ
ra khỏi bờ viền làm nhoà nét đậm biến sắc xão hoá dịu dàng... Người đó sẽ có những
giây phút rất đau khổ. Không phải đau khổ vì em mà đau khổ vì không đạt được tuyệt
kỹ để dâng hồn cho nghệ thuật.
Nói chung gương mặt thật quyến rũ rất gợi nhìn nhưng nhờ làn da trắng mịn ẩn nhạt
nét trường chay nên trở thành xa xăm và thanh khiết.
Năm 1982 khi ba tôi hấp hối trong u uất ngày nào em cũng có mặt. Và khi ba tôi tắt
hơi thì em không đến nữa. Vì điều đó có nghĩa là tôi về sắp tới.
Hạnh phúc của em nằm bên danh sách hồng nhan nên ít lâu sau em gá nghĩa với một
bác sĩ. Cũng dân công lập Kiến Hoà, ngày xưa học trên tôi hai lớp.
Đời tôi thăng trầm đếm không nhớ hết, nhưng Thảo Xá HIền Cung trong hồi ức vẫn luôn
là một bóng mát êm đềm.
Nguyễn Thanh Nhàn K1.
------------ ---
|
mk
|
IP Logged |
|
mykieu
Senior Member
Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
|
Gởi ngày: 16/Jan/2010 lúc 5:53pm |
Liệu còn nước mắt nào dành cho biết bao đau thương !?, hệ lụy cuộc chiến còn mãi đến hôm nay và ... mãi mãi về sau ....
mkPhạm Tín An Ninh
Hơn hai mươi năm nay, từ ngày đến định cư tại Na-Uy, một nước Bắc Âu nổi tiếng với những mùa đông dài băng gía, nhưng lại rất đẹp vào ngày hè và lãng mạng vào thu, tôi vẫn giữ thói quen đi len lỏi trong rừng, không chỉ vào những ngày nghỉ cuối tuần mà bất cứ lúc nào thấy lòng mình trăn trở. Không phải tò mò vì những cuộc tình cháy bỏng trong "Rừng Na-Uy", cuốn tiểu thuyết nổi tiếng mới đây của một ông nhà văn Nhật Bản,
nhưng để được lắng nghe những tiếng khóc. Tiếng khóc của cây lá, của gỗ đá trong rừng. Tiếng khóc có mãnh lực quyến dụ tôi, thúc bách tôi, cho dù nó đã làm tôi đau đớn, khốn khổ gần cả một đời.
Tôi sinh ra ở Huế, nhưng lớn lên ở thành phố Nha Trang, sau khi cùng cả nhà theo cha tôi vào đây nhận nhiệm sở mới. Có lẽ ngày ấy tôi là một cô gái khá xinh. Ngay từ năm tôi học lớp đệ lục trường nữ trung học Huyền Trân, cũng đã có vài chàng học trò khờ khạo si tình, đạp xe theo sau tôi những buổi học tan trường. Lên năm đệ tam, cũng có vài chàng SVSQ Hải Quân, Không Quân chờ trước cổng trường tán tỉnh. Nhưng như là số trời, trái tim tôi chỉ rung động trước một người. Anh là bạn chí thân với ông anh cả của tôi, hai người học cùng lớp thời còn ở trường Võ Tánh. Tháng tư năm 68, chúng tôi làm đám cưới, kết thúc một cuộc tình đầu thật dễ thương, không có nhiều lãng mạng, cũng chẳng có điều gì trắc trở. Ông xã tôi là lính Biệt Động Quân. Hậu cứ đóng ở Pleiku. Ngày về làm đám cưới, đôi giầy saut của anh còn bám đầy đất đỏ hành quân. Đám cưới của chúng tôi được tổ chức tại một nhà hàng nằm gần bờ biển, không xa tòa tỉnh, nơi vừa trải qua khói lửa Mậu Thân.
Sau đám cưới, cha mẹ chồng cho tôi theo anh lên Pleiku một tháng, rồi phải trở về sống ở nhà chồng, bởi anh đi hành quân liên miên, không an toàn khi tôi phải sống một mình. Chỉ khi nào tiểu đoàn về hậu cứ dưỡng quân, anh đánh điện tín để tôi lên với anh.
Mãi đến ba năm sau, tôi mới sinh cho anh đứa con đầu lòng. Một đứa con trai bụ bẫm. Có lẽ vì nặng nợ với núi rừng, anh đề nghị tôi đặt tên cho con là Cao Nguyên. Lê Cao Nguyên. Anh về thăm con khi cháu vừa đầy tháng. Càng lớn Cao Nguyên càng giống cha. Đôi mắt to, sóng mũi cao, đặc biệt là trên đầu mỗi vành tai đều có một "lỗ tai nhỏ" như ba nó.
Chỉ đúng một tuần sau khi chia tay vợ con về với đơn vị, anh bị thương nặng trong lúc đơn vị hành quân giải vây căn cứ Pleime. Tôi bồng con lên Pleiku. Hậu cứ lo cho mẹ con tôi nơi ăn chốn ở và có xe đưa đón mỗi ngày để tôi thăm và săn sóc anh mỗi ngày trong quân y viện. Sau khi xuất viện, đôi chân còn đi khập khiễng, nên anh được chuyển về Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn đảm trách một công tác tham mưu ở hậu cứ. Mẹ con tôi ở lại Biển Hồ với Anh kể từ ngày ấy. Mẹ chồng tôi rất nhân từ, thường xuyên lên thăm chúng tôi và thuê cho tôi một người giúp việc. Cuối năm 1973, trong một lần pháo kích vào trại gia binh làm một số đàn bà con nít bị thương, trong đó có cháu Cao Nguyên. Rất may, mảnh đạn gây một vết thương khá lớn ở cánh tay, nhưng không vào xương. Sau hôm ấy, chúng tôi ra thuê một căn nhà bên ngoài doanh trại để ở. Năm sau khi Cao Nguyên vừa tròn hai tuổi, tôi sinh đứa con thứ nhì. Lần này là con gái. Con bé giống mẹ, được chúng tôi đặt tên Thùy Dương để nhớ thành phố biển Nha Trang, nơi hai chúng tôi lớn lên và yêu nhau.
Mấy năm sống ở Pleiku, cái thành phố "đi dăm phút trở về chốn cũ" ấy, những ngày nắng chỉ thấy toàn bụi đỏ, còn những ngày mưa bùn bám dính gót chân. Pleiku đúng là một thành phố lính. Những người vợ lính sống ở đây dường như chỉ để chờ chồng trở về sau những cuộc hành quân, hoặc để chăm sóc chồng những ngày bị thương nằm trong quân y viện. Với họ thì đúng là "may mà có anh đời còn dễ thương". Trong số ấy đã có biết bao người trở thành góa phụ!
Giữa tháng 3/75, sau đúng một tuần Ban Mê Thuột mất vào tay giặc. Một buổi sáng, từ bản doanh Liên Đoàn về, hối hả bảo mẹ con tôi và chị giúp việc thu dọn đồ đạc gấp, bỏ lại mọi thứ, chỉ mang những gì cần thiết, nhất là thức ăn và sữa cho các con, theo anh vào hậu cứ.
Khi vừa đến cổng trại, tôi ngạc nhiên khi thấy tất cả mọi người đều đã ngồi sẵn trên xe. Chúng tôi rời khỏi doanh trại. Thành phố Pleiku như đang ngơ ngác trước những người từng bao năm sống chết với mình nay vội vàng bỏ đi không một tiếng gĩa từ. Đang giữa mùa xuân mà cả một bầu trời u ám. Pleiku tiễn chúng tôi bằng một cơn mưa đổ xuống khi đoàn xe vừa ra khỏi thành phố. Đến ngã ba Mỹ Thạnh, đoàn xe dừng lại. Phía trước chúng tôi dày đặc xe và người, vừa dân vừa lính, đủ các binh chủng, đủ các loại xe, kể cả xe gắn máy. Tôi nghe chồng tôi và bạn bè nói là ngoài lực lượng xung kích mở đường, một số đơn vị Biệt Động Quân còn được chỉ định đi sau, ngăn chặn địch quân tập hậu để bảo vệ cho đoàn quân di tản! Đây là trách nhiệm nguy hiểm và nặng nề nhất trong một hành quân triệt thoái.
Hơn một ngày mò mẫm trên Tỉnh Lộ 7, chúng tôi đến thị xã Hậu Bổn vào lúc trời sắp tối. Vừa dừng lại chưa kịp ăn cơm thì bị pháo kích và súng nổ khắp nơi. Xe và người dẫm lên nhau trong cơn hốt hoảng. Địch đã bao vây. Các đơn vị BĐQ chống trả kiên cường, nhưng địch qúa đông, mà bên ta thì vừa quân vừa dân chen chúc nhau hỗn độn. Trong lúc nguy nan này trời lại giáng xuống cho bên ta thêm một điều bất hạnh. Một chiếc phản lực cơ dội bom nhầm vào quân bạn. Đoàn xe vội vã rời Hậu Bổn, di chuyển đến gần Phú Túc thì lại bị địch tấn công từ khắp hướng. Nhiều xe bốc cháy và nhiều người chết hoặc bị thương. Cả đoàn xe không nhúc nhích được. Chúng tôi có lệnh bỏ lại tất cả xe cộ, băng rừng tìm đường về Củng Sơn.
Chồng tôi, vừa chiến đấu vừa dẫn đường chúng tôi cùng một số binh sĩ, vợ con. Tôi dắt theo Cao Nguyên còn chị giúp việc bồng cháu Thùy Dương. Chúng tôi lầm lũi trong rừng. Tiếng súng vẫn còn ầm ĩ, những viên đạn lửa như muốn xé màn đêm. Khi chúng tôi mệt lả cũng là lúc đến bờ một con sông nhỏ. Chồng tôi lo chỗ ngủ cho mẹ con tôi dưới một gốc cây, rồi cùng một số đồng đội chia nhau canh gác. Mệt qúa, tôi ngủ vùi một giấc, thức giấc thì trời vừa sáng.. Chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Tôi không còn đủ sức để bồng Cao Nguyên, nên chồng tôi phải dùng cái võng nilong gùi cháu sau lưng, bên ngoài được phủ bằng cái áo giáp. Vừa ra khỏi bìa rừng tôi ngạc nhiên khi thấy từng đoàn người lũ lượt kéo nhau đi cùng hướng chúng tôi, trong đó có nhiều người vừa bị thương, mình đầy máu. Tôi nghĩ họ cũng là những vợ chồng, con cái, cha mẹ dắt dìu nhau đi tìm sự sống. Hình như họ không còn mang theo bất cứ thứ gì. Nhìn nét mặt ai nấy cũng kinh hoàng.. Chồng tôi bàn bạc cùng một số bạn trong đơn vị, chúng tôi lại tách khỏi đám đông này, tìm một lộ trình khác mà đi, để tránh sự phát hiện của địch.
Vừa rời đoàn người chừng vài phút thì đạn pháo thi nhau rớt xuống. Tiếng la khóc thất thanh cộng với tiếng súng nổ khắp nơi làm cho cả một khu rừng như trải qua một cơn địa chấn. Trong nhóm chúng tôi cũng đã có một số người đã chết. Đến lúc này thì mạnh ai nấy tìm đường sống. Gia đình tôi cùng gia đình vài người bạn nữa chạy vào khu rừng phía trước, nơi không nghe tiếng súng. Kinh nghiệm bao nhiêu năm chiến trận, bây giờ chồng tôi chỉ còn dùng để mong cứu được vợ con mình. Địch quân tràn ngập. Một số đơn vị tan rã. Đồng đội kẻ chết người bị thương. Có thể một số đã bị bắt. Tôi không thể tưởng tượng được số mệnh bi thảm của những người lính Biệt Động một thời oanh liệt trên khắp chiến trường, giờ này lại tan tác trong bất ngờ, tức tưởi! Chồng tôi suýt bật khóc, khi nghe cấp chỉ huy truyền lệnh từ ông tướng tư lệnh Quân Đoàn: "Đạp lên mà đi!" Trong cả đời binh nghiệp, chắc những người lính không còn nhận được cái lệnh nào đau đớn hơn thế nữa.
Sau chừng một tiếng đồng hồ băng rừng, chúng tôi bất ngờ gặp một toán lính hơn 20 người thuộc tiểu đoàn cũ của chồng tôi. Thầy trò chưa kịp nắm tay mừng rỡ thì súng nổ. Địch quân phía trước mặt. Trở lại cương vị chỉ huy, chồng tôi lưng mang con, chồng tôi lưng mang con, điều động anh em xông vào trận mạc. Một cuộc đánh tốc chiến, toán địch quân bị tiêu diệt. Chồng tôi quay lại tìm và hướng dẫn đám đàn bà con nít chúng tôi đi tiếp.
Trong núi rừng đêm xuống thật nhanh. Cái bóng tối bây giờ thật rợn người. Tôi hình dung cái bóng của tử thần. Chúng tôi dừng lại trên một ngọn đồi thấp. Tôi nghiệp cho những người lính trung thành. Đáng lẽ họ lợi dụng bóng đêm để đi tiếp, vì đó là sở trường của họ, nhưng thấy một số vợ con bạn bè cùng vài anh em bị thương không thể đi nổi, nghe lời chồng tôi, tất cả cùng ở lại qua đêm. Sau khi sắp xếp anh em phòng thủ, chồng tôi trở lại phụ lo chỗ nằm cho mẹ con tôi. Tối hôm ấy, dù mệt, nhưng sao tôi cứ trằn trọc, không ngủ được. Chồng tôi ôm tôi dựa vào một gốc cây.. Anh ôm tôi thật chặt vào lòng, thỉnh thoảng hôn nhẹ tôi, trên môi, trên tóc. Trong hoàn cảnh này chẳng ai còn lòng dạ nào để lãng mạn yêu thương, nhưng có lẽ anh đã tội nghiệp cho một người con gái đã trót chọn chồng là lính chiến. Và cũng không ngờ đó là những nụ hôn cuối cùng anh dành cho tôi.
Buổi sáng sớm khi vừa xuống chân đồi, chúng tôi chạm súng với địch. Cũng là lần cuối tôi chứng kiến những người lính Biệt Động can trường. Các anh phân tán từng toán nhỏ, xông vào lòng địch mà đánh, tiếng thét "Biệt Động Quân Sát" vang dội cả một vùng. Nghe súng nổ, tôi đoán lực lượng địch đông lắm. Một anh trung sĩ bị thương ở cánh tay trong trận đánh hôm qua, được chỉ định dắt tất cả đám đàn bà con nít chúng tôi ra khỏi vùng giao chiến. Đã vậy anh còn phải dìu theo một người lính bị thương khác. Vợ chồng tôi thất lạc nhau kể từ phút ấy. Tôi còn lạc mất cả cháu Cao Nguyên, được ba nó gùi theo phía sau lưng ngay cả những khi lâm trận. Không biết chiếc áo giáp có đủ để che chắn hình hài bé nhỏ của con tôi. Hình ảnh này trước đây tôi nghĩ chỉ có diễn ra trong mấy cuốn truyện Tàu mà tôi đã đọc.
Tiếp tục di chuyển từng vài giờ đồng hồ nữa, khi tới một con đường mòn, chúng tôi lại nghe súng nổ. Anh trung sĩ dẫn đường chúng tôi nhận ra từng loạt lựu đạn nổ, bảo chúng tôi nằm rạp xuống. Chờ im tiếng súng, đám chúng tôi rời con đường mòn, chạy về bên hướng rừng bên phải, mà theo anh trung sĩ, có thể an toàn hơn. Khi đến bìa rừng, tôi thấy mấy người lính BĐQ nằm chết bên cạnh xác quân thù, máu me lai láng. Sau này tôi được biết những người lính này bị địch bao vây, đã tự sát để cùng chết chung với giặc.
Đi vào cánh rừng bên phải chỉ vài trăm mét nửa thì chúng tôi bị đám khá đông VC chặn lại. Anh trung sĩ bị tước hết vũ khí. Tất cả chúng tôi bị lùa vào bên bờ suối nhỏ. Ở đây tôi gặp một số sĩ quan, binh sĩ của ta bị bắt, nhiều người tay bị trói ngược ra sau, ngồi theo hàng dọc quay lưng ra suối, trước họng súng sẵn sàng nhả đạn của kẻ thù. Tôi cố ý tìm xem, nhưng không thấy chồng tôi trong số người bị bắt. Lòng tôi lo âu vô hạn. Từ lúc ấy, tiếng súng tạm im, chỉ còn tiếng quát thoát và tiếng nói rất khó nghe của đám người thắng trận. Tất cả chúng tôi bị lùa về địa điểm tập trung, một ngôi trường nằm trong huyện Củng Sơn (Sơn Hòa).
Trong cảnh khốn cùng này, tôi chỉ còn lại một điều may mắn. Chị giúp việc rất tốt bụng và trung thành. Vừa bồng bế, bảo bọc cho cháu Thùy Dương, vừa lo lắng cho tôi. Chị đi đâu đó xin cho tôi nửa bát cơm, nhưng tôi không nuốt nổi, mặc dù đã trải qua hai ngày đói khát. Nhìn đứa con gái vừa mới lên hai lây lất bên cạnh và nghĩ tới chồng tôi và đứa con trai giờ này không biết sống chết ra sao, lần đầu tiên tôi bật khóc.
Cuối cùng thì tôi cũng lần mò về đến Nha Trang, khi thành phố này cũng vừa lọt vào tay giặc. Khi nhận ra tôi, mẹ tôi ôm tôi vào lòng và khóc như mưa. Tôi không đủ can đảm để mang tin buồn đến nhà chồng, nhờ cha tôi sang báo tin tôi và cháu Thùy Dương vừa mới về nhà, chồng tôi và cháu Cao Nguyên còn đang mất tích. Cả nhà chồng kéo sang thăm tôi, bồng cháu Thùy Dương về nhà chăm sóc. Mẹ chồng tôi thẫn thờ cả mấy ngày liền khi nhận được tin này. Nằm nhà hơn một tuần, nhờ mẹ tận tình chăm lo, sức khỏe tôi đã gần bình phục, tôi xin được trở lại Phú Bổn tìm chồng và cháu Cao Nguyên. Cả nhà tôi và cha mẹ chồng đều ái ngại, âu lo. Nhưng qua sự nài nỉ của tôi, cuối cùng cha mẹ chồng cho đứa em trai út của chồng tôi, dùng xe honda chở tôi ngược đường lên Tỉnh Lộ 7.
Mặc dù đã chứng kiến bao nhiêu máu lửa tang tóc, cũng như đã chuẩn bị tinh thần, nhưng tôi thực sự kinh hãi những gì trước mắt, khi nhìn thấy ngổn ngang bao nhiêu xe cộ bị đốt cháy, những bộ xương người còn vương vãi đó đây, bao nhiêu nấm mộ bị lấp vội bên đường. Cả một vùng xông mùi tử khí. Chiếc khăn bịt miệng tẩm ướt dầu Nhị Thiên Đường đã giúp tôi và cậu em vượt qua chặng đường gần 100 cây số. Đến Cheo Reo, hỏi thăm một vài người dân, được biết một số sĩ quan bị bắt làm tù binh, đang còn giam ở Thuần Mẫn. Chúng tôi đến đó, trình giấy phép đi tìm chồng của Ủy Ban Quân Quản mới được cho vào trại. Sau khi tên VC trực ban cho biết không có tên chồng tôi trong danh sách tù binh, tôi xin được gặp bất cứ sĩ quan nào cùng đơn vị với chồng tôi. Rất may, tôi gặp được anh đại đội phó lúc chồng tôi còn ở tiểu đoàn. Anh cho biết là có gặp một số binh sĩ cùng chồng tôi chiến đấu dưới ngọn đồi gần đèo Tu Na. Họ cho biết chồng tôi bị thương, nhưng cố tìm cách đưa cháu Cao Nguyên đến một nơi nào đó. Tôi sáng lên niềm hy vọng. Ngay hôm ấy tôi thuê năm người thượng, theo tôi lần theo con đường dọc bờ sông mà tôi còn nhớ, trở lại khu đồi thấp, rồi bung ra xa đi tìm. Liên tục trong một tuần, chúng tôi chỉ tìm được mấy bộ xương người, một số mộ vô danh, nhưng không thấy dấu vết của chồng tôi. Tôi trở về mang theo niềm tuyệt vọng, không chỉ cho tôi, mà cho cả nhà chồng.
Cha mẹ chồng tôi lập bàn thờ cho chồng tôi và Cao Nguyên, đứa cháu đích tôn của ông bà. Ngày 19 tháng 3 là ngày giỗ của hai cha con.
Hàng năm, cứ đến ngày này, tôi và Thùy Dương đều trở lại Phú Bổn, tìm đến chân đồi, dưới gốc cây nằm giữa đỉnh đồi, mà đêm cuối cùng chồng tôi ôm tôi vào lòng, thắp hương tưởng niệm anh và cháu Cao Nguyên. Tôi đã dùng dao khắc đậm tên anh và cháu Cao Nguyê vào thân cây. Lần nào, khi nước mắt ràn rụa, trong tiếng gió rừng, tôi mơ hồ như có tiếng khóc từ gốc cây này, rồi văng vẳng bao nhiêu tiếng khóc từ những thân cây khác, từ những khúc gỗ nằm vương vãi do bom đạn hôm nào, tạo thành những âm thanh não nùng, xé ruột.
Tôi đã mang dư âm của tiếng khóc ấy đến tận Bắc Âu, nơi mẹ con tôi định cư sau chuyến vượt biển được một chiếc tàu của vương quốc Na Uy cứu vớt. Thánh 5 năm 1985, cha mẹ chồng tôi góp vàng cùng một người bạn ở vùng biển Lương Sơn đóng ghe vượt biển. Tôi, cháu Thùy Dương, và một đứa em trai của tôi đi cùng với gia đình chồng. Tôi cũng xin được một chỗ cho chị giúp việc lúc trước (chị đã về quê trên vùng quê Diên Khánh, sau ngày cùng tôi thoát chết trở về), nhưng chị chối từ. Tôi âm thầm gom nhặt tài sản của nhà chồng và của tôi mang lên biếu chị trước khi rời khỏi quê nhà.
Con đường Tỉnh Lộ 7 ngày xưa bây giờ đã được tráng nhựa và đổi tên thành Quốc Lộ 25. Chúng tôi thuê bao một chiếc xe tám chỗ ngồi. Ngoài tôi và vợ chồng cháu Thùy Dương , còn có vợ chồng cậu em trai út của tôi và vợ chồng chị giúp việc ngày xưa. Chúng tôi đến Cheo Reo, bây giờ có tên mới là A Yun Pa thuộc tỉnh Gia Lai. Tất cả không còn gì dấu vết của chiến tranh. Người ta đã cố tình trát phấn tô son lên thành phố núi này để có dáng dấp của thời kỳ đổi mới. Màu sắc lòe loẹt, vài ngôi nhà cao tầng quê mùa kệch cỡm, những ngôi nhà sàn "cải biên" thành những biệt thự của các ông quan lớn, nằm chơ vơ giữa một vùng nghèo nàn mang tên "thị xã". Nhìn dãy núi Hàm Rồng từ xa, ẩn hiện trong những đám mây mù, lòng tôi chùng xuống. Nơi ấy, đã bao lần tôi đến thăm chồng, để được hòa mình vào đơn vị với những người lính trẻ, sẵn sàng chết cho quê hương. Cũng ở nơi ấy tôi đã vinh dự chứng kiến chồng tôi cùng nhiều anh em đồng đội được ông tướng Vùng gắn huy chương lên ngực áo khi ban nhạc trổi khúc quân hành. Tất cả bây giờ đã trở thành huyền thoại.
Sau khi thuê phòng trọ, tắm rửa và cơm nước xong, chúng tôi hỏi đường đến tháp Yang Mun và tháp Drang Lai. Vì nghe dân ở đây bảo các vị thần Chàm trong hai ngôi tháp này linh thiêng ghê lắm. Tôi khấn vái và xin xâm. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi lá xâm tôi bốc trúng lại là bốn câu Kiều của ông Nguyễn Du:
Từ phen chiếc lá lìa rừng Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây Rõ ràng hoa rụng hương bay Kiếp sau hoạ thấy kiếp này hẳn thôi.
Tôi bán tín bán nghi, vì nghe nhiều người nói ở Việt Nam, chuyện cúng bái, mê tín dị đoan, bây giờ là một business. Chẳng lẽ ông thần Chàm này lại thuộc cả truyện Kiều. Nghĩ như vậy, nhưng thấy bốn câu thơ lại đúng vào trường hợp của mình, tôi cũng thấy lòng buồn vô hạn. Trở về phòng trọ, bà chủ nhà cho biết ngày mai có chợ phiên của người dân tộc, vừa đông vui vừa có thể mua nhiều thứ thổ sản, gia cầm với gía rất rẻ. Tôi cũng muốn mua mấy con gà, để cúng chồng tôi. Khi còn sống anh thích ăn gà luộc. Bà còn cho biết thêm dân chúng ở vùng này đa số là người Thượng thuộc các sắc tộc Djarai, Bahnar, Hroi và M'dhur. Có một số sống trong các bản rất xa, cách thị xã này từ 10 tới 20 cây số.
Sau một đêm trằn trọc với những cơn ác mộng, vừa mới chợp mắt tôi đã nghe tiếng người réo gọi nhau. Ngôn ngữ của các sắc tộc, tôi không hiểu họ nói gì. Chợ phiên nhóm rất sớm.
Chúng tôi vội vàng ăn sáng rồi kéo nhau ra khu chợ, nằm không xa trước nhà trọ. Tôi có cảm giác lạ lẫm vì đây là lần đầu tiên tôi đến một buổi chợ phiên của người sắc tộc. Đã vậy vợ chồng cháu Thùy Dương cứ theo hỏi tôi điều này điều nọ. Khi đang cố giải thích về nguồn gốc người Thượng, chúng tôi đến một quày gà. Những con gà tre nhỏ xíu được nhốt trong những trong mấy cái lồng đan bằng tre. Tôi ngồi xuống lựa hai con gà béo nhất, bảo người chủ bắt hộ hai con gà này ra khỏi lồng. Người chủ là anh đàn ông người Thượng vừa đen vừa ốm, nói tiếng Việt chưa sõi...Khi Anh xăn tay áo lên và thò tay vào lồng gà, tôi bỗng giật mình khi phát hiện vết sẹo trên cánh tay trái. Vết sẹo có hình dáng đầu một con cọp. Tôi nhớ tới Cao Nguyên, đứa con trai ba tuổi, bị thương trong trận pháo kích của VC vào trại gia binh ở Biển Hồ. Vết thương trên cánh tay cháu sau khi chữa lành cũng để lại một vết sẹo có hình ảnh đầu một con cọp. Biểu tượng binh chủng BĐQ mà chồng tôi luôn mang trên vai áo.
Tôi biến sắc, nắm chặt cánh tay anh người Thượng và nhìn vào mặt anh ta. Cũng hai con mắt khá to, cũng cái sống mũi cao, nhưng khuôn mặt cháy nắng, mái tóc mầu nâu sậm như mầu đất đỏ Pleiku. Không có nét đẹp của Cao Nguyên ngày trước. Anh người Thượng ngượng ngùng, cúi mặt xuống, khựng lại. Nhưng tôi chợt nhớ ra trên vành tai của Cao Nguyên có một lỗ tai nhỏ, giống như ba của nó, tôi cúi xuống để nhìn kỹ vào tai anh người thượng. Tôi bàng hoàng khi nhận ra hai cái lỗ tai nhỏ trên hai vành tai. Bất giác, tôi ôm chầm lấy anh và nước mắt trào ra. Nhưng anh bán gà đẩy mạnh tôi ra và nói một tràng tiếng Thượng. Vợ chồng cháu Thùy Dương ngơ ngác nhìn tôi, không biết xảy ra điều gì. Nghĩ tới chị giúp việc ngày trước có thể xác nhận cùng tôi đôi điều kỳ lạ, tôi báo cháu Thùy Dương đi gọi chị từ gian hàng hoa lan phía trước. Tôi kéo chị ra xa và nói vào tai chị:
- Chị nhìn kỹ anh người Thượng này xem có giống ai không?
Sau một lúc nhìn không chớp mắt, mặt chị biến sắc, rồi không trả lời tôi mà thì thầm một mình:
- Thằng Nguyên? Chả lẽ là thằng cu Nguyên?
Rồi chị nhìn thẳng vào mặt anh ta hỏi:
- Mày có phải là thằng Nguyên, Lê Cao Nguyên không?
Anh người Thượng lắc đầu.
- Tao là thằng Ksor Tlang.
Tôi mua hết những lồng gà hôm ấy và và đưa cho anh một nắm tiền. Sau khi đếm xong anh trả lại cho tôi hơn một nửa, rồi buột miệng:
- Mày bắt cái con gà nhiều tiền qúa!
Tôi mất hết bình tĩnh, bảo vợ chồng chị giúp việc đứng giữ anh ta, rồi chạy vào phòng trọ tìm bà chủ nhà. Tôi kể rất vắn tắt những gì đã xảy ra. Có lẽ bà ta là người có tai mắt ờ đây, nhưng là một người tốt bụng, nhấc điện thoại gọi công an. Chưa đầy ba phút hai gã công an chạy tới bằng xe gắn máy, một Kinh một Thượng, cúi đầu chào bà chủ. Chưa kịp nói gì, bà chủ kéo tay hai gã công an ra chợ. Vừa đi bà vừa giải thích. Đến nơi, gã công an nói một tràng tiếng Thượng. Tôi không hiểu gì nhưng thấy anh bán gà gân cổ cãi lại. Cuối cùng hai người công an kéo anh đi, mặc dù anh cố tình chống lại. Chúng tôi đi theo phía sau trở về phòng trọ.
Qua trung gian của bà chủ nhà trọ, tôi nhờ gã công an giúp tôi, dịch lại các điều trao đổi giữa tôi và anh bán gà, và cố gắng bằng mọi cách tìm ra tông tích của anh ta. Tôọ hai nhét vào tay bà chủ nhà trọ hai tờ giấy bạc 100 đô la.
- Em có cha mẹ không? Tên ông bà là gì? - Tôi có cha mẹ. Cha tôi tên Ksor H'lum, mẹ tôi tên H'Nu - Có anh em không? - Không. - Anh có nhớ ngày sinh không? - Không. (Gã công an nhìn sang tôi, bảo là sẽ đi tìm khai sinh sau) - Anh có nhớ lúc còn nhỏ, khi ba, bốn tuổi anh ở đâu không? - Không! Thì chắc tôi ở với cha mẹ tôi mà. - Cái sẹo trên cánh tay trái, anh biết vì sao mà có cái sẹo này không? (Gã công an bảo anh xăn tay áo lên và chỉ vào vết sẹo) - Không! Chắc là bị cành cây đâm trúng.
Tôi thở ra thất vọng. Nhưng vừa chợt nghĩ ra điều gì, tôi lại hỏi:
- Cha mẹ anh đang ở đâu? - Buôn Ban Ma Dek. (Gã công an nhìn tôi, bảo buôn Ban Ma Dek cách đây hơn 10 cây số) - Anh ở chung với cha mẹ anh? - Không, ở bên cạnh, với vợ và hai đứa con. - Đã có vợ con rồi à! Tôi buột miệng.
Tôi đề nghị hai gã công an cùng đi với chúng tôi và anh bán gà về buôn Ban Ma Dek. Sau khi hỏi nhỏ bà chủ nhà trọ, hai gã công an gật đầu. Nhưng bảo chúng tôi phải thuê xe ôm, vì về buôn Ban Ma Dek chỉ có đường rừng, xe ô tô không chạy được. Bà chủ nhà trọ gọi dùm chúng tôi bảy cái xe ôm.
Cha mẹ của anh bán gà đã khá gìa, trước đây chỉ sống lẻ loi trong núi nên không nói được tiếng Việt. Chúng tôi lại trao đổi qua sự thông dịch của lão công an người Thượng. Vợ và hai con của Ksor Tlang thấy có nhiều người cũng chạy sang nhìn.
Ông bà cứ nhất quyết Ksor Tlang là con đẻ của ông bà. Nhưng thấy tôi khóc lóc, năn nỉ và nhờ gã công an gạn hỏi, cuối cùng ông cha mới kể lại sự thực.
- Năm ấy, lâu rồi, sau mấy ngày chiến trận ác liệt, mà vợ chồng tôi phải nằm suốt sau tảng đá to trước nhà để tránh đạn. Bỗng một buổi chiều có người lính mặc áo rằn ri, bị thương nặng lắm, nhưng cố lết vào dưới căn nhà sàn của tôi rồi gục chết, trên lưng có mang một đứa bé. Nó là thằng Ksor Tlang bây giờ. - Rồi xác của người lính đó ở đâu? Tôi hỏi.
Ông chỉ tay ra rừng cây phía trước:
- Tôi đã chôn ông ta dưới gốc cây ấy, rồi rào lại, sợ thú rừng bới lên ăn thịt.
Chúng tôi theo sau hai người công an dìu ông gìa đi về phía khu rừng.
Tôi khóc ngất khi nhìn thấy ngôi mộ lè tè nằm dưới tàng cây, được rào lại bằng những que gỗ nhỏ. Vợ chồng cháu Thùy Dương cũng qùy xuống ôm vai tôi mà khóc. Tôi ngước lên dáo dác tìm Ksor Tlang, thằng Cao Nguyên, đứa con trai duy nhất của vợ chồng tôi. Nó đang đứng bất động, hai tay đang nắm chặt hai đứa con đang trần truồng, đen đúa. Tôi chạy lại ôm hai đứa nhỏ vào lòng, nhưng cả hai đứa trố mắt nhìn tôi dửng dưng, xa lạ.
Tôi khóc lóc, năn nỉ lắm, ông gìa mới cùng vợ chồng và hai đứa con thằng Ksor Tlang về nhà trọ với tôi. Nhờ bà chủ thuê một cậu học trò thông dịch. Suốt một đêm, tôi, cháu Thùy Dương và vợ chồng chị vú giúp việc ngày xưa, giải thích, khóc hết nước mắt, xin vợ chồng Ksot Tlang và hai đứa con theo chúng tôi về Nha Trang ở với ông bà ngoại, rồi tôi sẽ tìm cách đưa sang Na Uy. Cả hai ông bà gìa, nếu muốn, chúng tôi sẽ mua nhà cửa ở Nha Trang và chu cấp cho ông bà sống gần Ksor Tlang. Nhưng cả Ksor Tlang và ông gìa một mực chối từ, bảo là họ không thể nào bỏ bản mà đi. Núi rừng mãi mãi là nhà của họ. Họ không thể nào sống xa rừng cũng như loài cá không thể nào sống mà không có nước.
Dự trù lên đây ba ngày. Vậy mà chúng tôi đã ở lại đây hơn hai tuần rồi. Ban đầu tôi tính xin phép cha mẹ nuôi của Ksor Tlang cho tôi cải táng phần mộ của chồng tôi, mang về an táng ở nghĩa trang gia tộc ở Nha Trang, nhưng rồi tôi đã đổi ý. Bởi anh phải nằm ở đây, bên cạnh đứa con trai và hai đứa cháu nội của anh, mặc dù bây giờ tất cả đã trở thành người Thượng và chắc không biết gì về anh. Và chắc có lẽ anh cũng muốn nằm lại với bao đồng đội, một thời cùng anh vào sinh ra tử, mà linh hồn chắc đang còn phảnh phất quanh đây. Tôi mướn thợ xây lại ngôi mộ. Trên tấm bia không có hình chân dung của anh, mà có tấm ảnh anh chụp chung với tôi và hai cháu Cao Nguyên và Thùy Dương trong ngày sinh nhật bốn tuổi của Cao Nguyên, chỉ hơn một tháng trước ngày anh mất. Tấm ảnh này lúc nào tôi cũng mang theo.
Tôi cũng không thể bắt Cao Nguyên và vợ con phải rời khỏi núi rừng, nơi đã cưu mang nó. Có lẽ cái tên Cao Nguyên mà ngày xưa chồng tôi đề nghị đặt cho nó đã vận vào cuộc đời của nó. Điều làm tôi đau đớn hơn là tôi chẳng làm được điều gì cho đứa con trai ruột thịt máu mủ của mình, ngoài việc nhờ bà chủ nhà trọ thuê người dựng cho vợ chồng nó và ông bà cha mẹ nuôi một ngôi nhà sàn chắc chắn và rộng rãi hơn, sắm cho vợ chồng nó và hai đứa con một số quần áo mới. Nhưng phải năn nỉ khóc lóc mãi nó mới chịu nhận, cùng số tiền 200 đô la. Bằng đúng số tiền mà tôi trả công cho hai gã công an!
Ngày cuối cùng, chúng tôi ở lại với với vợ chồng Cao Nguyên trên ngôi nhà sàn mới. Buổi chiều tôi bảo Cao Nguyên và vợ con nó, thay quần áo mới, cùng với tôi và vợ chồng Thùy Dương ra thắp hương trước mộ ba nó. Nó qùy bên cạnh tôi, cúi đầu nói điều gì lầm thầm trong miệng và khi ngước lên, đôi mắt đỏ hoe. Suốt đêm hôm ấy, tôi ngồi khóc một mình. Tôi nghĩ tình mẫu tử thật thiêng liêng, nhưng có lẽ ông trời đã phạt tôi. Tôi sinh ra Cao Nguyên, nhưng không bảo vệ được con mình, để mất nó trong núi rừng này từ ngày nó mới lên bốn tuổi.
Phạm Tín An Ninh Phỏng theo lời kể của một người vợ lính BĐQ
Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 17/Jan/2010 lúc 6:39pm
|
mk
|
IP Logged |
|
mykieu
Senior Member
Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
|
Gởi ngày: 18/Jan/2010 lúc 8:48pm |
Hạnh phúc ở dưới chân
Trên thảo nguyên bát ngát.
Cây và Cỏ luôn ở bên nhau, đồng hành và thân thiết.
Ngọn
cỏ non đẹp dịu dàng như một nàng thiếu nữ đang uốn mình mềm mại với
chiếc áo dài tha thướt xanh màu ngọc biếc, giản đơn và quyến rũ… Cây
cao lớn, sừng sững tựa một chàng trai lực lưỡng đang vươn những cánh
tay dài chắc chắn, trải rộng tán lá khỏe mạnh ra xung quanh như bao
bọc, chở che, như ôm lấy Cỏ vào lòng. Đầm ấm…
Cuộc sống cứ thế lặng lẽ trôi. Đến một ngày trời xanh hửng nắng,
gió mát vi vu thổi, những áng mây trắng trôi bồng bềnh, phiêu lãng ở
trên cao. Cây mơ màng, đưa mắt ngước nhìn lên phía những vì sao và
nghĩ: “Đẹp quá, nơi đó phải chăng là thiên đàng?”. Cây quyết định sẽ đi
đến đó, quyết định rời bỏ ngọn Cỏ, vươn cao mình lên phía những vì sao.
“Anh đi đâu vậy ?” - Cỏ cất tiếng hỏi khẽ.
“Tôi
đi tìm những vì sao hạnh phúc” - Cây lạnh lùng đáp và cất bước ra đi.
Cỏ im lặng nhìn theo, cúi đầu không nói. Cỏ ở lại một mình nơi triền
đất thảo nguyên rộng lớn, còn Cây thì ngày càng vút cao và những cành
lá ngày càng vươn xa. Bởi vì Cây mong một ngày đi đến bầu trời cao. Bởi
vì Cây mơ ước một ngày được gặp các vì sao ngời sáng…
Khoảng cách của Cây và Cỏ cũng ngày càng xa hơn…
Cuộc
sống lặng lẽ trôi đi. Cho đến một ngày, Cây đã trở thành bậc đại thụ
sừng sững giữa thảo nguyên bát ngát nhưng vẫn chưa với được những vì
sao cho riêng mình… Cỏ cũng không còn màu xanh nữa mà trở nên vàng úa,
và lặng lẽ ở phía dưới cây cao.
Cây bắt đầu mệt mỏi nhận ra rằng mình không thể đi đến cái
nơi bản thân vẫn cho là thiên đường hạnh phúc. Cây hối hận nhìn xuống
phía dưới. Cỏ vẫn ngồi đó, vẫn đang vui đùa với những cánh hoa, vẫn
đang thướt tha cùng muôn loài bướm.
Cây chợt cảm thấy nuối tiếc, hối hận khi hiểu: Hạnh phúc chính
là điều mà Cây đã từng có và đánh mất. Cây buồn, nỗi buồn không thể nói
cùng ai…
“Cây ở trên đó thế nào?” - Một ngày Cỏ cất tiếng hỏi thăm.
“Mọi thứ ở đây đều tốt. Được làm bạn với Gió và nghe tiếng chim
hót líu lo. Cuộc sống muôn màu và rất là vui vẻ” - Cây ngẩng cao đầu
trả lời ngọn Cỏ.
“Vậy là Cây đã tìm thấy những vì sao hạnh phúc ?” - Cỏ nhìn Cây hỏi tiếp.
Cây
gật đầu đưa mắt nhìn Cỏ rồi khẽ mỉm cười quay đi, ngẩng cao đầu hướng
về phía các vì sao lơ đãng. Không phải vì Cây muốn tiếp tục đi tìm hạnh
phúc mà đơn giản, Cây đang cố tránh một ánh mắt nhìn. Vì Cây đang nói
dối! Vì Cây biết mình cô độc. Vì Gió chỉ đến rồi Gió lại đi. Gió bỏ Cây
ở lại và lả lơi thổi mãi chứ không bao giờ dừng lại. Và Chim cũng vậy,
Chim không thể ở đó hót mãi cho Cây nghe.
Cây biết Cây là kẻ cô đơn nhưng cái bản tính kiêu căng vốn có
đã không cho phép Cây hạ độ cao, thừa nhận sự nuối tiếc. Cây sợ phải
xấu hổ, sợ tỏ ra mình yếu đuối. Vì thế, Cây mãi ngẩng cao đầu và không
chịu nhìn xuống…
Cuộc sống lại lặng lẽ trôi đi… Cho đến một ngày, Bão đến! Cây
đương đầu chống chọi. Bão gào rú, Cây ngả nghiêng rung chuyển. Bão thổi
mạnh, Cây bật gốc lung lay. Bão cười, Bão đẩy nhẹ, Cây ngã xuống đổ
gục, nằm yên trên thảo nguyên lạnh lẽo… Cây kiệt sức, lịm đi.
Hôm
sau Bão hết, trời xanh lại hừng sáng. Cây mở mắt nhìn lên, bầu trời xa
vời vợi, nhưng màu xanh của Cỏ thì lại thật gần, và ấm áp.
Cây chết, cỏ mọc xung quanh. Một
thời gian sau nơi cây đổ xuống mọc lên một loài cây lạ. Và người ta đặt
cho nó tên là cây Xấu Hổ. Một cây Xấu Hổ với cỏ mọc xung quanh.
Đôi
khi con người ta cứ mải mê lao mình vào cuộc kiếm tìm hạnh phúc để rồi
có lúc chợt nhận ra rằng hạnh phúc đang ở ngay dưới chân mình nhưng lại
không có đủ can đảm và không đủ dũng cảm để cúi xuống nhặt nó lên…
Sưu tầm http://www.namtrung.info/content/view/489/53/
****************************************************
Không biết có phải "Cây Xấu Hổ" là cây này ? Hoa Mắc Cở, Hoa Trinh Nữ
Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 18/Jan/2010 lúc 9:01pm
|
mk
|
IP Logged |
|
mykieu
Senior Member
Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
|
Gởi ngày: 23/Jan/2010 lúc 4:36pm |
Cô Láng Giềng
Nguyễn Thanh Nhàn / Virginia
Nhắc
đến đường Lý Thường Kiệt ít ai biết đến một căn nhà rất đặc biệt. Căn
đầu bìa đối diện với nhà chị Lạc Kim Anh, sát vách tiệm vàng Hồ Phuớc.
Đó là căn nhà ở của ông Hội Đồng Nhơn, cũng là nhạc gia của Thống Tuớng
Lê Văn Tỵ.. Nhiều sách có nhắc đến ông hội đồng Nhơn. Trong căn nhà này
có một người con gái thứ sáu tên H.. đẹp thần sầu. Hồi tôi đệ nhị thấy
cô đi học buổi chiều. có lẽ là đệ ngũ.
Lằn da cô trắng nuột
trắng nà.. Môi đỏ thắm như một cánh hồng. Cặp mắt thật đẹp. Hàng mi
thật đẹp. Đôi mày thật đẹp. Nhưng đẹp đến mức độ nào tôi không diễn tả
nổi. Bởi vì tôi đâu có được quen, và không bao giờ được dịp nhìn gần!
Nhưng bão đãm đôi mắt có thể làm người nhìn ngẫn ngơ rồi tự thấy như
thời gian chết lịm.
Có thể lấy lời trầm trồ của bà giáo Tửng để
thấy rằng những nhận xét của tôi về cô gái này không sai lệch mãy mai.
Cũng xin viết thêm vài dòng về bà giáo Tửng để anh chị em khi đọc xong
đủ tin rằng tôi không dám nói ngoa. Bà giáo Tửng tôi gọi là Cô Ba, Bà
giáo Lê tôi gọi là Bà Bảy. Hai bà cùng học chung lớp sư phạm đầu tiên
của ViệtNam từ hồi đời Tây. Cô Ba nhà gần trường, buổi chiều cô có mở
lớp dạy thêm Pháp văn. Học trò rất đông, tuỳ trình độ mà xếp thành từng
nhóm từ năm đến mười đứa.. Buổi tối dạy xong cô thường thả bộ đến chơi
với bà Bảy. Đoạn đường không đầy hai trăm thước. Bận về thay vì để cô
ba đi một mình tôi thường đi chung với cô đến tận nhà.
Câu chuyện cô kể như sau: "
Hồi chiều lúc tao đang sữa bài cho tụi nhỏ, thường thường khi tao buông
ra là tụi nó bắt đàu nói chuyện huyên thuyên, nhưng bữa nay đột nhiên
tao nghe trong nhà hoàn toàn yên lặng. Im phăng phắc đến độ tao hoãng
hồn là không biết có chuyện gì xảy ra.. Tao vội ngẩng lên thì thấy tất
cả những con mắt của tụi nó đều đổ ra đường.. Nó đi học về ngang,
hai tay vén cao ống quần nhón từng bước qua bãi nước rộng. Trời đất ơi
hai bắp chân của nó trắng không thể tưởng tượng nổi."
Mỗi chiều
cô cũng đi học về ngang nhà tôi. Từ thềm bậc cửa nhà tôi đến lề đường
chưa đầy ba thước nhưng tôi chưa bao giờ ngồi trước cửa để chờ. Hoặc lỡ
thấy cô sắp đi ngang thì tôi cũng vô nhà. Cô rất hiền, hiền đến nổi
mình không dám chọc và ngại làm cô bối rối. Không phải từ cô mà từ cái
không khí đang vây bọc lấy cô như được hấp hơi rồi toát thành một phong
cách lặng lẽ kiêu sa. Mỗi bước chân của cô hình như được bảo vệ bằng
khoãnh không gian kỳ bí đó. Nhà tôi cách nhà cô năm căn. Những ngưòi
chị của cô có lúc còn thấy đi ra đi vào, còn khẻ chào hàng xóm. Riêng
cô tuyệt nhiên không xuất hiện. Nếu từ tiệm vàng của chị Lạc Kim Anh
nhìn sang thẳng qua cửa cái, đôi khi thấy cô đứng sau cửa sổ ngắm chợ
búa bên hông nhà mình. Hai cánh cửa khép hờ nên cô có thề nhìn rõ ra
ngoài nhưng từ bên ngoài rất khó thấy cô.
Có lần cô đứng khuất
sau cửa chánh có lẽ để tiện nhìn một góc chéo, tôi đi ngang rồi như
chợt có điều gì thúc đẩy tôi vô tình ngước nhìn (thềm nhà cao hơn mặt
hàng hiên), hoàn toàn không có người nhưng tôi cũng kịp nhận ra một
chóp nhọn chút xíu của phần áo phía trên nhô ra sau bờ viền của khung
cửa. Đâu cần thiết phải nhìn đủ, chút xíu vậy mà về nhà rồi tới bây giờ
vẫn là nổi nhớ...
Cách nay gần mười năm, trong một bữa tiệc tôi
được ngồi gần bên một người khách, hỏi ra mới biết chị là người tại chợ
Bếntre. Chuyện trò rất mừng nhưng chị vẫn cố tránh những chi tiết về
mình. Dù vậy ráp nối những mậu chuyện tôi khám phá chị là một trong
những người chị trong căn nhà đó. ( Nhà riêng của chị thì ở cuối đường
LTK ) Tôi vội vàng hỏi thăm chị về người em thứ sáu có sắc đẹp mê
hồn..Chị cho biết cô ở Canada, vẫn thật trắng, môi vẫn đỏ tươi và vẫn
chưa lập gia đình.
Buồn làm sao! Triết lý đông phương chữ nữ
(con gái) không đứng liền với chữ tử (con trai) thì không biến thành
chữ hảo được. Một trăm thằng đàn ông đã gặp cô, trong đó có tôi, đều
mong cô được gặp một người tài giỏi hơn mình. Hạnh phúc đó mới thật
xứng đáng mới thật toàn vẹn. Ai đâu ngờ rằng bao chân tình thánh thiện
gộp lại một đáp số làm đời cô vẫn mãi lẽ loi. Chuyện xảy ra giống như một bản nhạc kết thúc bằng nốt cãm âm buồn. Đã nghe dứt từ lâu mà vẫn lê thê thuơng nhớ. Nguyễn Thanh Nhàn / Virginia
|
mk
|
IP Logged |
|
mykieu
Senior Member
Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
|
Gởi ngày: 24/Jan/2010 lúc 5:22pm |
.Bạn cũ năm mươi năm
Tràm Cà Mau
Dạo đó, tôi vừa mới trổ mã, bể
tiếng, tay chân tự nhiên dài ngoằng ra, áo quần thành ngắn cũn cỡn. Tôi vụng về,
ngơ ngác, làm cái gì cũng hư hỏng, má tôi cứ la rầy mãi. La rầy để quở trách mà
cũng chan chứa tình yêu thương. Tôi ăn cái gì cũng ngon, đặt lưng xuống đâu cũng
ngủ được say sưa.
Thời nầy, đệ nhị thế chiến vừa chấm
dứt, nước Pháp đem quân trở lại Việt Nam để tái lập nền đô hộ cũ. Toàn dân đứng
lên kháng chiến, cầm tầm vông vạt nhọn đánh nhau với Tây. Khí thế đằng đằng.
Cũng như mọi thanh niên khác, tôi tham gia kháng chiến. Nói là đánh nhau với
Tây, nhưng chạy thì nhiều hơn, vì lồ ô vạt nhọn không cự nổi với súng ống của
Tây.
Tôi bị Tây bắt lãng xẹt khi đang
ngủ giữa ban ngày. Bị trói ké, đem về giam tại thành phố. Trong trại giam, mỗi
ngày phải đi làm lao động vệ sinh, dọn rác, quét lá, lấp các vũng bùn lầy, khai
mương. Tôi làm quen được một ông lính kèn, mỗi ngày mượn cái kèn thổi tò te làm
khổ lỗ tai mấy ông lính Tây chơi. Không có chi chói tai bằng nghe mấy anh tập
kèn cứ ọ è từ giờ nầy qua giờ kia mãi.
Tập hoài rồi cũng thổi được.
Một lần cao hứng tôi thổi khúc kèn báo hiệu tan giờ làm việc, tiếng kèn vang
vọng, rõ ràng, làm mấy ông Tây tưởng đã hết giờ, rủ nhau ra về. Tôi bị phạt giam
đói, và anh lính kèn cũng bị khiển trách, không cho tôi mượn cây kèn nữa. Nhưng
sau đó hai tuần, tôi được cho ra khỏi tù. Họ phát cho tôi áo quần lính, và sung
vào đội thổi kèn. Ban quân nhạc của Tây. Nhờ có một chút hiểu biết về âm nhạc
Tây Phương, tôi học nhạc cũng khá dễ dàng, không như các ông bạn khác. Khi tập
thổi kèn mà chơi, thì tôi cảm thấy vui, ham thích, thú vị, nhưng khi phải tập
kèn vì bắt buộc, thì thật là chán nãn, mệt nhọc, bực mình. Ông trung sĩ chỉ huy
đội quân nhạc không vui, vì đã chọn lầm người. Trước đó, ông tưởng tôi có năng
khiếu đặc biệt về âm nhạc, nên đề nghị tuyển dụng. Về sau ông thường nói lời an
ủi rằng, thiếu chó thì bắt bất cứ con gì ăn phân cũng được, miễn sao biết ăn
phân thì thôi. Nghe ông nói vậy, tôi cũng tự ái, và bực mình. Thường thường,thì
đội lính kèn được nhàn hạ. Mỗi ngày, mấy xuất thổi kèn báo hiệu buổi sáng thức
dậy, như con gà gáy sáng, bao giờ làm việc, báo giờ nghỉ, giờ tan sở. Báo hiệu
thật đúng giờ. Thế thôi. Còn ngoài ra thì chơi cờ, tán dóc, trêu ghẹo nhau,
nhưng không được bài bạc. Mỗi sáng tiếng kèn vang vang: “Tọ tè ti tọ tè ti.. ti
tọ ti tè...” Mà lũ con nít chuyển âm thành: “Một ngàn, ba mươi vạn thằng Tây,
xách cái bị, đi ăn mày. Mụ đi đâu tui bắt mụ lại, tui không cho mụ về”. Nghe y
hệt tiếng kèn đồng.
Trong đám lính kèn, tôi chơi thân
với Tư Thàn, vì anh cùng tuổi, cũng độc thân và cùng hoàn cảnh như tôi, bị Tây
bắt và sung vào đội quân nhạc. Chúng tôi thường rủ nhau đi xem hát ban đêm.
Chúng tôi biết và thuộc lòng tên đào kép của các gánh cải lương, hò quảng. Nhiều
lần, Tư Thàn thổ lộ ước mơ của anh là được vào làm việc cho gánh cải lương, làm
kép độc, nhờ đó, mà anh có thể mùi mẫn với các cô đào đẹp như tiên kia. Anh
không có tham vọng được nổi tiếng, chẳng cần được khán giả mến mộ, chỉ mong gần
gũi cái nhan sắc của các cô đào thôi.
Có lần, tôi nhặt được tấm ảnh của
một cô gái nào đó. Hình chụp rất điệu, ngón tay trỏ tựa má, hai cái núng đồng
tiền lún sâu rất duyên, mặt sáng và tươi, mắt ướt rượt. Có lẽ bên ngoài đẹp mê
hồn. Tôi đưa tấm ảnh cho Tư Thàn xem, và bảo rằng đó là con Mười, em gái tôi ở
Long Xuyên mới gởi lên. Kể từ khi thấy tấm hình nầy, Tư Thàn nể nang tôi lắm.
Tôi có thể sai Tư Thàn làm những việc mà trước đây anh không bao giờ làm giúp.
Tôi mượn tiền anh dễ dàng hơn, mà anh bớt nhăn nhó khó chịu. Tôi lờ mờ biết Tư
Thàn mê cô gái trong tấm hình, và hy vọng được lòng tôi, thì sẽ được lòng em
tôi. Vốn tính nhút nhát, nên Tư Thàn không bao giờ dám hỏi thẳng về em tôi. Chỉ
một lần, anh đánh bạo hỏi tôi khi nào về thăm nhà, và có thể cho anh đi cùng, về
chơi có được không. Tôi đáp rằng dĩ nhiên là được, và sẽ mời anh ở lại nhà vài
hôm. Nghe vậy, Tư Thàn sướng đến đỏ cả mặt. Sau nầy, tôi cho Tư Thàn tấm ảnh đó,
anh cất kỹ trong ví, lâu lâu mở ra xem mà mơ mộng . Buổi sáng, tôi và Tư Thàn
thường hay ăn cháo trắng với hột vịt muối của cô Năm Cháo Trắng bán, cô nầy có
nước da ngăm ngăm, duyên dáng. Hàng cháo gánh, ngồi chồm hổm ăn, hoặc ngồi trên
các đòn gỗ thấp sát đất. Có nhiều anh lính trêu ghẹo, tán tỉnh cô, nhưng khi nào
cô cũng vui vẻ, tươi cười, không làm mất lòng ai. Tôi cũng khoái cô nầy, thường
giả vờ hết tiền, ăn thiếu nợ. Ðến tháng lãnh lương, thì trả, nhưng không trả
hết, khi nào cũng xin khất lại một ít. Cứ nợ cô, thì cô phải nhớ đến số tiền nợ.
Nhớ đến số tiền nợ, thì phải nhớ đến người mắc nợ, tức là cô phải nghĩ đến mình.
Cái mưu kế nầy, tôi nghe được trong một tiệm hớt tóc mà mấy anh thủy thủ kháo
nhau. Tôi có bày mưu nầy cho Tư Thàn, mà anh không chịu nghe theo, cứ sòng phẳng
trả hết tiền, không bao giờ chịu thiếu một xu.
Một hôm tôi rủ Tư Thàn đi xem cải
lương, anh viện cớ bận việc, tôi đi một mình. Khi ngồi trong rạp, nhìn xéo qua
bên kia, thì tôi thấy Tư Thàn và cô Năm Cháo Trắng đang ngồi bên nhau. Tay Tư
Thàn đưa lên chỉ trỏ, như đang giải thích gì đó. À thì ra Tư Thàn đã bí mật
phổng được cô hàng cháo, mà anh em không ai hay biết. Tôi tránh mặt cho Tư Thàn
làm ăn được tự nhiên.
Hôm sau, gặp Tư Thàn, tôi làm
bộ giận, mà thực ra thì tôi cũng hơi ghen tức. Tôi thì đặt mưu tính kế, mà chẳng
được cơm cháo gì, Tư Thàn cứ tự nhiên, thì vớ được cô hàng cháo. Tôi cứng giọng,
nói với Tư Thàn:
“Mày phản bội em tao. Trả tấm hình
con Mười lại cho tao. Tưởng mầy đàng hoàng, thì ra...”
“Tao làm gì mà gọi là phản bội?”
“Mầy còn giả vờ? Hồi hôm mầy đi
đâu? Làm gì? Với ai? Có chối được không?”
“Ai nói với mầy?”
“Chính mắt tao thấy. Tao để yên cho
chúng mày hú hí. Chối tội làm chi?”
Tư Thàn bẻn lẻn móc ví trả tôi tấm
hình cô gái có hai cái núng đồng tiền. Anh có vẻ tiếc lắm. Cuối cùng anh
nói:
“Em gái mày đẹp như thế nầy, thì
chán chi người dòm kẻ ngó. Tao làm gì mà vói thấu. Trả hình lại cho mày là
phải”.
“Mày định bắt cá hai ba tay sao?
Con Năm Cháo Trắng cũng có duyên lắm đó chứ!”
“Ừ. Có duyên. Hồi hôm, em thú thật
với tao em là “đầu gà đít vịt” Mầy thấy da em ngăm ngăm không?”
Tôi hỏi Tư Thàn làm sao mà câu được
em Năm Cháo Trắng? Trong lúc tôi bày mưu tính kế mà không được em đáp ứng. Tư
Thàn cho rằng tôi ngu, đàn bà con gái không ưa những người bê bối, mang nợ mắc
nần. Sau nầy về làm chồng quen thói nợ nần, ai mà chịu nổi. Thì ra, tôi nhẹ dạ
tin vào mưu kế tào lao của mấy anh thủy thủ gà mờ. Từ ngày trả lui cho tôi
tấm hình cô gái có núng đồng tiền, Tư Thàn không còn nể nang tôi như trước kia
nữa. Tôi biết mình ngu, đòi lại tấm hình, chẳng ích gì, nhưng đã lỡ rồi, tiếc
cũng không được.
Tôi thường ứng trực thế cho Tư
Thàn, để anh có thì giờ đi chơi với cô Năm Cháo Trắng. Bởi vậy, sau nầy cô
thường múc cho tôi những tô vun, cháo muốn tràn ra ngoài. Từ đó, tôi không bao
giờ thiếu nợ cô nữa.
Thường thường, Tư Phàn và tôi
trốn trại đi xem đá gà ở xóm trong. Thiên hạ đánh cá ồn ào. Chúng tôi cũng
thường bắt độ, khi ăn khi thua, mà thua thì nhiều hơn ăn. Những khi ăn tiền cá
độ, chúng tôi dắt nhau đi ăn nhậu vui vẻ, ăn thâm cả tiền túi. Khi thua, thì hai
đứa lủi thủi ra về, phải vay mượn tiền bạn bè để gỡ gạc. Có hai lần bị cảnh sát
bố ráp, cả phường đá gà bỏ chạy, chúng tôi cũng sợ bị bắt, chạy trốn, cho nên
mất luôn tiền cá độ. Từ đó, chúng tôi tìm ra một cách đánh cá khác, mà chủ cá độ
không móc được của chúng tôi một xu. Hai đứa tôi đánh cá riêng với nhau, đứa nầy
được, thì đứa kia thua. Chúng tôi gọi là lọt sàng xuống nia. Và sau cuộc đá gà
nào, chúng tôi cũng có buổi ăn nhậu, vì một trong hai đứa thắng cuộc. Thời trước
Tư Thàn có nuôi gà đá, nên nhiều kinh nghiệm, cứ nhìn vóc dáng bên ngoài, là
biết ngay con gà có phong độ hay không. Thế là nợ Tư Thàn một số tiền bằng
nguyên cả tháng lương. Nợ ít ít, thì còn nghĩ đến chuyện thanh toán, nợ nhiều
quá, không còn muốn trả nữa. Tôi cứ khất mãi, và đến tháng lãnh lương cũng không
trả bớt nợ cho Tư Thàn. Từ đó, giữa tôi và Tư Thàn có cái gì lấn cấn, tình bạn
không còn như trước nữa. Tôi không dám ăn tiêu khi có mặt Tư Thàn, sợ bị hỏi nợ.
Không phải tôi muốn giựt nợ, nhưng tôi tự bảo lòng, khi nào tiền bạc dư dả,
thong thả mới trả Một lần, Tư Thàn thấy tôi nói chuyện thân mật, cười nói
với một cô nữ quân nhân. Giữa chỗ đông người, Tư Thàn hướng về tôi mà nói
lớn:
“Sao mày nợ tao một tháng lương,
lâu quá mà chưa trả? Phải vay mượn mà trả chứ?” Tôi bị mất mặt trước đám
đông, phát cáu, giận đỏ mặt. Tôi nghiến răng trả lời:
“Mầy còn đòi tiền nợ, thì tao đục
cho trào máu”.
Tư Thàn lảng đi nơi khác, mà tôi
thì cũng không hết giận, định đi theo gây sự thêm. Vì một món nợ đá gà, mà chúng
tôi mất tình bạn.
Sau năm 1954, Tây rút về nước, chế
độ Cộng Hòa được thành lập tại miền Nam . Chúng tôi được giải ngũ, về đời sống
dân sự. Tư Thàn đem vợ là cô Năm Cháo Trắng về quê làm ăn. Tôi ở lại thành phố,
làm đủ thứ việc, đủ sống qua ngày, nhưng vì con đông, cho nên khi nào cũng thấy
thiếu thốn.
Mười mấy năm sau khi giải ngũ, một
hôm tôi lái xe chuyển kinh sách cho hội Thánh Tin Lành về miệt Long Xuyên, trên
đường trở về, chiếc xe làm nư, chết máy giữa đường, không biết làm sao mà sửa.
Tôi ngồi bên vệ đường, dưới bóng cây nhỏ. Ðầu óc suy nghĩ, tính kế không ra. Tôi
định bắt xe đò về tỉnh lỵ, rước thợ ra sửa xe. Chờ hoài mà không có xe qua. Phía
dưới ruộng khô, có một nông dân đang cày đất với hai con trâu. Nắng cháy, cổ
khát. Tôi thấy anh nông dân ngưng cày, lên bờ lấy bầu uống nước. Túng quá, tôi
đánh liều kêu lớn:
“Nầy anh ơi, khát quá, cho tôi uống
nước với”
Người nông phu mang áo đen, quần xà
lỏn, chậm chạp băng ruộng, đem cái bầu nước đến cho tôi. Khi đến gần, thì anh
reo lên:
“Mày đó phải không Quài. Sao biết
tao cày ruộng ở đây mà ghé lại thăm?”
Tôi mừng quá, thét lớn:
“Tư Thàn! Mày! Ð. M. mày. Thằng
quỷ. Mày ở đây hả ? Chiếc xe nó biết có mầy ở đây, nên chết máy, để cho tao gặp
mầy”.
Tư Thàn và tôi xoắn lấy nhau, nhắc
chuyện mười mấy năm trước. Ðủ thứ chuyện. Nói cho nhau biết tin tức gia đình mỗi
người. Tư Thàn có hai thằng con trai. Ðời sống của gia đình thong thả, nhờ cô
Năm Cháo Trắng buôn bán thêm ngoài chợ quận. Gạo cơm đủ ăn. Mười mấy năm, Tư
Thàn chưa về lại Sài Gòn lần nào, vì cũng không có chuyện gì, mà chẳng còn ai để
thăm viếng.
Tư Thàn bỏ dở luôn buổi cày ruộng.
Tôi cũng bỏ kệ cho chiếc xe nằm ụ bên đường, đến đâu thì đến, theo Tư Thàn đi
vào làng. Nhà Tư Thàn trống trải, đơn sơ như tất cả mọi nhà nghèo miền
quê.
Tư Thàn lấy cái nơm làm bẫy, rải
lúa cho gà ăn, và bắt được một con gà trống thiến lớn. Làm thịt, bao đất sét,
nướng lửa rơm. Tư Thàn đem ra hai lít đế trong veo. Khi gà chín, tôi đập cái vỏ
đất sét, để cả con gà lên chõng tre có lát sẵn mấy tàu lá chuối tươi, mà Tư Thàn
đã rửa sạch. Chúng tôi bốc tay mà ăn, cầm đùi gà nhai, rượu vào đều đều, cạn
chai nầy, qua chai kia. Chúng tôi cùng nhắc chuyện xưa, chuyện không đầu, không
đuôi, chuyện nầy lẫn qua chuyện khác. Hai đứa nhỏ con Tư Thàn đi học về, cũng
nhào vào xâu xé con gà. Tôi ép thằng lớn hớp một ngụm đế, nó nhăn mặt phun ra.
Tư Thàn và tôi cùng cười vang. Khi trời xế chiều, thì cô Năm Cháo Trắng cũng
gánh hàng về. Cô nhận ra tôi, kêu thét lên vui thú, và phát vào vai tôi nhiều
lần đau điếng. Cô mắng:
“Cái ông khỉ nầy, tưởng chết rấp
đâu rồi chớ. Làm sao biết tụi tôi ở đây mà ghé chơi? Vui quá xá”
Ðêm đó, cô Năm Cháo Trắng nấu cháo
vịt, mượn hàng xóm thêm mấy lít đế, chúng tôi ngồi ăn nhậu dưới trăng cho đến
khuya. Ăn uống no say. Tôi chợt nhớ tới món tiền mà tôi nợ Tư Thàn, trị giá bằng
một tháng lương vào thời gian mười mấy năm trước, mà chưa trả, và cũng chưa hề
toan tính thanh toán cho sòng phẳng. Cũng vì món nợ đó, mà cái tình bạn thân
thiết giữa chúng tôi có một thời lấn cấn, mất đi cái mặn nồng, không còn như
trước. Tôi chậm rãi nói lè nhè trong hơi men:
“Tao bậy quá, còn mắc nợ mầy mà
chưa có dịp trả. Công việc làm ăn, cũng không khá, mà con cái đông đúc, có cơm
no bụng từng ngày là may lắm. Tiền không có dư...” Tư Thàn cười hiền hòa,
giọng ấm áp nói:
“Thôi, quên chuyện xưa đi. Nợ nần
cái khỉ gì? Chuyện cờ bạc thời trai trẻ dại dột, để tâm làm chi? Bạn bè gặp lại
nhau, là quý rồi”.
Có lẽ vì rượu đã ngấm nhiều, mà
nghe lời nói chí tình của bạn, mắt tôi cay xè. May mà tối trời không ai thấy.
Tôi xịt mũi. Ðêm đó, tôi ngủ lại nhà Tư Thàn, và nói chuyện rầm rì trong bóng
tối cho đến khuya.
Sáng hôm sau tôi ra chỗ xe nằm ụ,
thì thấy chiếc xe chỉ còn là một đống sắt cháy nham nhở. Thì ra đêm qua, du kích
đặt mìn phá, mà ngủ mê quá, chúng tôi từ làng trong, không nghe biết. Tôi lấy xe
đò về Sài gòn, và bị đuổi việc. Nhưng may mắn, không bị hội thánh bắt bồi
thường. Có lẽ họ biết, tôi đưa mạng cùi ra, có bắt đền cũng không moi được một
xu, thì tha làm phước. Vả lại thời buổi chiến tranh, không ai dự liệu trước được
chuyện bom mìn.
Tháng tư năm 1975 tôi đem gia đình
chạy, chưa biết sẽ chạy đi đâu, về đâu, và làm sao mà sinh sống sau nầy. Cứ chạy
đã. Vì sợ phải đi tù như một số bạn tôi, họ đã trở về miền Bắc vào năm 1954, và
nghe đâu một số đã chết trong tù, một số còn bị giam giữ hơn hai mươi năm chưa
được thả. Ðó là tin tức chính xác đi quành từ miền Bắc qua Pháp, và từ Pháp về
miền Nam . Tôi được nước Mỹ cho vào cư trú, đi làm đủ thứ nghề tay chân. Cuối
cùng vào làm y tá cho một trung tâm dưỡng lão của quận hạt. Hai mươi mấy năm đòi
sống yên lành, no ấm, hạnh phúc.
Năm 2001, sau hai mươi sáu năm xa
quê hương, tôi về lại Việt Nam một mình, lần thứ nhất, để sắp đặt việc cưới vợ
cho đứa con trai út. Khi đang ở Sài gòn, tôi nghe tin bọn khủng bố đánh sập tòa
nhà đôi chọc trời ở New York . Ban đầu tôi không tin, và nghĩ rằng mấy ông Vẹm
hay nói dối, đặt chuyện xạo tuyên truyền, nói xấu đế quốc Mỹ. Nhưng sau đó, xem
truyền hình, tôi sửng sốt, bàng hoàng. Lòng tôi đau nhói, và nhận ra rằng, quê
hương mới là nước Mỹ, cũng muôn vàn yêu mến, thắm thiết không thua gì quê hương
cũ Việt Nam . Tất cả mọi chuyến bay đều bị hủy bỏ, việc vào ra nước Mỹ cũng tạm
ngưng. Tôi chưa thể trở vể lại Mỹ được, và trong lòng cũng tràn đầy lo ngại,
không biết có thể về lại Mỹ được không. Hay là kẹt lại ở Việt nam mãi, cho hết
cuối đời. Bảy mươi mấy tuổi rồi. Một đêm mất ngủ, tôi ra đứng ở hành lang khách
sạn. Từ trên cao nhìn xuống phố phường bên dưới, tôi chợt nhớ, hơn năm mươi năm
trước, nơi đây còn lau sậy um tùm, đất thấp ngập nước, hoang vu. Từ bên trong
phòng vọng ra tiếng ngâm thơ khuya qua cái radio nhỏ, giọng khàn đục buồn não
nề:
Sông kia rày đã nên
đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô
khoai
Ðêm nghe tiếng ếch bên
tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi
đò...” (*)
Lòng tôi chùng xuống, và chợt
nghĩ hơn nửa thế kỷ trôi qua, vèo mau như mộng. Mới ngày nào đó, tôi bị Tây bắt
đi tù, sung vào đội lính kèn. Bao nhiêu là đổi thay, bao nhiêu bãi biển đã biến
thành nương dâu, bao nhiêu trũng hoang đã trở thành phố thị. Những thế hệ trước
tôi và đồng thời với tôi, có lẽ đa số đã về với lòng đất. Yên bề. Những người
còn sống sót như tôi, bây giờ ở đâu, làm gì. Bỗng tôi chợt nhớ đến Tư Thà. Nhớ
tha thiết. Nhớ đến món nợ ngày xưa mà chưa trả được, lòng buồn rưng rưng. Tôi
quyết định ngay, mong cho trời mau sáng, để thuê xe đi tìm thăm Tư Thàn.
Chiếc xe thuê riêng, chở tôi chạy về miền Tây, đi tìm Tư Thàn. Anh tài xế
nghe tôi nói đi tìm một người bạn cũ, gặp nhau lần cuối đã hơn ba mươi năm
trước, anh lắc đầu, có lẽ anh cho tôi là một ông già khùng lẩm cẩm.
Tôi chỉ nhớ mang máng cái nơi mà
chiếc xe tôi lái bị đặt mìn hơn ba chục năm trước. Tôi vào làng hỏi xem ai có
biết ai Tư Thàn, nay chừng trên bảy mươi tuổi, hồi xưa làm lính kèn ở Bộ Tổng
Tham Mưu. Mọi người đều lắc đầu, ngơ ngác. Tôi đi lang thang quanh làng, và hy
vọng, còn có người biết Tư Thàn ở đâu. Khi tôi chán nản trở lại đường cái, ngồi
trong cái chòi bán nước bên vệ đường, thì gặp một bà già. Tôi chận lại hỏi. Bà
nhíu mày một hồi, suy nghĩ lung lắm. Bỗng bà la lên:
“Tôi nhớ ra rồi, từ lâu không ai
gọi ổng là Tư Thàn nữa. Mà ông là ai, tìm Tư Thàn có chuyện chi không?”
“Tôi là bạn lính kèn với Tư Thàn
khoảng hơn năm mươi năm trước. Bây giờ, nhớ bạn, ghé tìm thăm”.
“Trời đất! Năm mươi năm làm chi mà
không thăm nhau, giờ mới trổ chứng đi tìm!”
Mấy đứa trẻ con chạy ra ruộng kêu
Tư Thàn về, người ta nói anh đang cuốc đất thuê. Tôi nghĩ không phải là Tư Thàn
bạn tôi, bảy mươi lăm tuổi, còn sức đâu mà đi cuốc thuê. Lũ trẻ đưa về một ông
già ở trần, xương sườn đếm được, tay chân khẳng khiu, chỉ mặc cái xà lỏn ngắn,
đi chân đất. Da nhăn nheo, khô khốc, đen đúa, gầy gò, hai má hóp, miệng móm xọm,
chỉ còn hai cái răng, một cái của hàm trên, một cái của hàm dưới, rất là thiếu
mỹ thuật. Không có một nét nào của Tư Thàn cả, có lẽ tuổi ông nầy già hơn nhiều.
Tôi nheo mắt nói:
“Tôi tìm Tư Thàn, hồi xưa làm lính
kèn ở bộ Tổng Tham Mưu, có vợ là chị Năm Cháo Trắng.” Ông lão phều
phào:
“Ông là ai? Tìm tôi có việc gì
không?”
“Tôi tìm Tư Thàn. Tôi là bạn
cũ.”
“Ông là bạn cũ của tôi? Chắc ông
tìm lầm người rồi.”
“Ông biết Cô Năm Cháo
Trắng?”
“Vợ tôi, má thằng Ðộ, thằng
Rề.”
Bây giờ thì tôi chắc chắn ông lão
ngồi trước mặt tôi chính là Tư Thàn, không ai khác. Tôi còn mơ hồ thấy vài nét
hao hao của thuở nào. Bố thằng Ðộ, Thằng Rề, hai thằng nầy tôi đã gặp hồi xưa.
Ngày trước, Tư Thàn mong sinh được bảy đứa con đặt tên là Ðộ, Rề, Mi, Pha, Xôn,
La, Xi, nhưng mới có mới có Ðộ, Rề, thì bà vợ tịt ngòi. Tư Thàn ngồi co một chân
lên ghế dài, rất tự nhiên, cái quần xà lỏn kéo nhăn nhúm lên cao, để lòi nguyên
bộ phận kín ra ngoài, một khúc đen điu, nhăn nhúm, mằm tựa trên một đùm bao da
lưa thưa lông bạc trắng. Tôi mừng quá, nắm lấy hai vai Tư Thàn mà lắc: “Mầy
không nhớ ra tao là ai hả Tư Thàn!”
“Không. Ông có lầm tôi với ai khác
không? Ông là ai?”
“Thế thì mày không phải là Tư Thàn,
lính kèn ở bộ Tổng Tham Mưu hả?”
“Tôi, Tư Thàn lính kèn đây.”
Tôi làm bộ buồn bã đổi
giọng:
“Có lẽ ông không phải là Tư Thàn
tôi quen, mà là người khác trùng tên chăng?”
“Lính kèn, ở bộ Tổng Tham Mưu,
trước năm năm mươi tư. Chỉ có Tư Thàn nầy thôi”
Tôi nắm chắc hai vai Tư Thàn mà
lắc, và hét lên:
“Ð.M. mầy không nhớ ra tao là ai,
thật không? Hay mày giả bộ”.
Tôi đưa tay lên miệng, với dáng
điệu như đang thổi kèn và ca: “Một ngàn, ba mươi vạn thằng Tây , xách cái bị, đi
ăn mày. Mụ đi đâu, tui bắt mụ lại, tui không cho mụ về”. Nghe tiêng chửi thề
và điệu kèn Tây của tôi, Tư Thàn nhào đến ôm lấy tôi mà thét lên: “Ð. M.
mầy, chỉ có mầy mới nói cái giọng nầy. Thằng chó chết, thằng dịch vật. Thằng
Quài, mầy, Quài. Mà mầy sang trọng, và trẻ quá, ai ngờ, ai mà nhìn ra”.
Ðám trẻ con đứng xem cười ầm lên
khi thấy hai ông già văng tục và gọi nhau bằng mầy tao. Tư Thàn cảm động quá,
cái miệng móm méo xẹo, và khóc thành tiếng hu hu, làm tôi cũng khóc theo. Tư
Thàn nghẹn ngào:
“Mầy còn nhớ đến tao, tìm thăm. Ðồ
dịch vật. Lâu nay mày chết rấp nơi nào?”
Tư Thàn nhìn tôi từ đầu xuống chân,
nói nho nhỏ:
“Tóc tai cũng còn, răng cỏ hai hàm
còn nguyên, mặt mày có da có thịt, áo bỏ vào quần, đi giày đàng hoàng. Có phải
mầy là Việt kiều về thăm quê hương không? Bây giờ mầy ở đâu? Làm gì?”
Tôi sợ Tư Thàn buồn, nói
dối:
“Việt kiều cái con khỉ. Tao ở Sài
gòn, nhờ có mấy đứa con vượt biên ra nước ngoài, và mấy đứa ở nhà, buôn bán, ăn
nên làm ra. Giờ già rồi, về hưu, không làm gì nữa cả”. Tôi hỏi thăm gia
cảnh, Tư Thàn cho biết hai đứa con trai đều đã chết. Thằng Ðộ đi lính quốc gia,
đã đền nợ nước, thằng Rề “hy sinh” cho “cách mạng”. Cô Năm Cháo Trắng chết bệnh.
Tư Thàn không có ai để nương tựa, phải đi cuốc đất thuê kiếm ăn qua ngày. Tôi
nhìn cái thân thể xương xẩu của Tư Thàn, không biết anh lấy đâu ra sức mà đi làm
lao động chân tay. Tôi nói:
“Thôi, mầy đưa tao về nhà, thay áo
quần, rồi cùng qua Long Xuyên, lu bù một bữa, anh em hàn huyên chơi, bỏ mấy mươi
năm xa cách”.
Tư Thàn ngự trong căn chòi nhỏ, bốn
bề che lá đơn sơ. Không bàn, không giường, chỉ có cái võng treo xéo. Trên bếp có
cái nồi đen điu, méo mó. Tôi dở nồi ra xem, thấy còn có miếng cơm cháy. Tôi bốc
ăn, mà cứng quá, răng già không nhai nổi. Thế mà Tư Thàn không còn răng, ăn cách
nào đây?
Khi xe vào tỉnh lỵ Long Xuyên, tôi
nhờ anh tài xế tìm cho một quán ăn ngon. Anh đưa chúng tôi vào quán nướng Nam
Bộ. Tư Thàn gạt đi, không chịu vào, và nói:
“Kiếm chai đế và vài ba con khô cá
sặc là đủ vui rồi. Ðừng hoang phí tiền bạc. Vào làm chi những nơi sang trọng nầy
cho chúng chém. Gặp nhau là vui rồi. Ăn uống là phụ”. Tôi ép mãi mà Tư Thàn
không chịu. Cuối cùng, chúng tôi ra chợ, ngồi trên ghế thấp ở quán lộ thiên, ăn
nhậu và nói cười vui vẻ, tự nhiên. Tôi uống rượu thay nước, vì sợ đau bụng. Anh
tài xế cùng ăn, mà tôi không cho anh nhậu rượu, anh tỏ vẻ khó chịu, vùng
vằng.
Ðưa Tư Thàn về lại tận nhà, tôi móc
trong cặp một gói bao, bằng giấy báo đưa tặng. Tư Thàn mở ra xem, và giật mình,
xô gói quà ra về phía tôi:
“Cái gì đây? Tiền đâu mà nhiều thế
nầy? Tôi không lấy đâu. Ðừng bày đặt”.
“Có bao nhiêu đâu. Ngày xưa, tao nợ
mầy chưa trả được, bây giờ trả lại cả vốn lẫn lời. Tao tính rồi, mầy nhận đi cho
tao vui, bỏ công tao lặn lội đi tìm”.
“Không. Nợ nần cái khỉ gì. Ăn thua
đá gà, chuyện tào lao thời trẻ dại. Tao đã bảo mày quên đi từ lâu. Bày đặt. Lấy
tiền làm chi? Không có chỗ cất, bọn trộm cắp nó lấy đi, uổng lắm. Tao không lấy
đâu”.
Thấy bộ Tư Thàn cương quyết quá,
tôi xuống giọng, giả vờ nói:
“Mầy mà không nhận, tao có chết
nhắm mắt cũng không yên tâm. Chưa trả hết nợ, thì sau nầy phải đầu thai làm trâu
cày cho mầy. Khổ lắm. Thương tao, mầy cứ cầm đi. Ðể mua gạo. Ðể khi đau yếu có
chút thuốc thang. Nếu không có nơi cất, thì đem gởi bà con”.
Ðôi mắt già của Tư Thàn chớp chớp,
và nói giọng run run như sắp khóc:
“Ð.M, tao già đến thế nầy, mà mày
cũng còn định gạt tao như hồi xưa nữa sao?
Thằng chó chết. Cái tình bạn của
mầy, còn quý gấp trăm ngàn lần gói tiền nầy. Tao sẽ làm mâm cơm cúng bà Tư Cháo
Trắng, nói cho bà biết cái tình bạn của mày. Dưới suối vàng, chắc bà cảm động
lắm”.
|
|
__._,_.___
|
mk
|
IP Logged |
|
mykieu
Senior Member
Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
|
Gởi ngày: 25/Jan/2010 lúc 8:57pm |
Không biết chuyện này có thật hay không .
Nếu thật , cảm thương cho "Ông Năm" và Người-Đồng-Hương (Gò Công) Lệ Mai làm sao !
mk
Mùa
Thu Cuộc Tình
Tiểu Tử
LGT:
Tiểu Tử tên thật Võ Hoài Nam, sinh năm 1930 tại Gò Dầu Hạ (Tây Ninh).
Sau khi tốt nghiệp trường kỹ sư Marseille (Pháp) năm 1955, ông về Việt
Nam dạy trường Petrus Ký một năm rồi vào làm việc trong hãng dầu Shell
Việt Nam từ năm 1956 cho đến ngày mất nước. Năm 1979, ông vượt biên rồi
định cư ở Pháp. Sau đó, ông qua Côte d'Ivoire (Phi Châu) làm việc cho
Công ty Đường Mía của Pháp (1979-1982) và qua làm hãng dầu Shell Côte
d'Ivoire cho đến lúc về hưu.
Trước 1975, ông phụ trách mục biếm văn Trò
Đời của nhật báo Tiến với bút hiệu Tiểu Tử, và tiếp tục dùng bút hiệu
này kể từ sau 1975. Trong dịp trả lời phỏng vấn của Thư Viện Diên Hồng
vào cuối năm 2007, ông cho biết, đã xuất bản tập truyện, Những Mảnh Vụn
(2004), Bài Ca Vọng Cổ (2006), chuẩn bị tái bản tập truyện Những Mạnh
Vụn và sẽ xuất bản cuốn thứ ba nhan đề Chị Tư Ù (xem chi tiết trang
41). Truyện của ông trong sáng, giản dị, gần gũi với đời sống của
người dân Miền Nam kể từ sau 30-4- 1975, nên đọc truyện,
ai cũng xúc động, không cầm được nước mắt. Ông viết văn bằng cả tấm
lòng đôn hậu, thấm đượm đạo nghĩa của một người Việt yêu nước , nên lời văn nhẹ nhàng, tha thiết, lay động nhân tâm .
Truyện ngắn vô cùng cảm động
sau đây của ông sẽ cho quý độc giả thấy được những giá trị tuyệt vời,
những hạnh phúc cao cả, những phần thưởng vô giá... trong đời sống vợ
chồng, một khi hai người biết thuỷ chung yêu thương nhau, quý trọng
nhau, trọn vẹn sống cho nhau...
Bữa
ăn trưa đó của ông Năm thật giản dị: một trái cà tô mát không dầu không
dấm và một miếng thịt bò nhỏ bằng bàn tay nướng trên vỉ sắt không muối
không bơ. Quá giản dị! Nhứt là hôm nay thứ bảy, không phải đi làm.
Nghĩa là có dư dả thì giờ để làm một món gì đó cho có vẻ một bữa ăn
cuối tuần. Cho nó khác với ngày thường ăn vội ăn vàng cái gì cũng được.
Thật quá giản dị! Nhứt là ông Năm sống một mình, không bị phiền toái
bởi những chuyện vụn vặt lỉnh kỉnh phải làm vào cuối tuần của người có
gia đình. Ở Paris này mà sống một mình như ông Năm thì thời gian không
biết phải làm gì cho hết chớ đừng nói không có thì giờ để làm một bữa
ăn cho tươm tất vào trưa thứ bảy. Nói rằng ông Năm không biết làm bếp
cũng không đúng. Hồi xưa, hồi còn ở bên nhà, thật tình ông Năm không
biết chiên một cái trứng gà. Ông chỉ biết đi làm ngày hai buổi, còn
việc bếp núc có bà Năm lo hết. Bây giờ thì khác. Ông cũng biết nấu vài
món thông thường và lâu lâu cũng biết "làm" một nồi phở để đãi đôi ba
ông bạn già cùng lứa tuổi và cùng thân phận lưu vong…
Như
bình thường thì trưa thứ bảy, ông hay thả xuống khu 13 la-cà ở nhà sách
Khai Trí một lúc rồi sang qua mấy cửa hàng nho nhỏ trên lầu Paris
Stores để coi có gì lạ không. Sau đó, ông mới tấp vô tiệm phở để ăn
trưa, có khi một mình,nhưng thường thì với một vài người bạn gặp nhau
ngoài phố. Ở khu 13 vào trưa thứ bảy, không gặp người này cũng gặp
người nọ, bởi vì ai cũng đến đó để mua đồ, nói là "đi chợ Tàu" chớ thật
ra là để tìm lại một chút gì hơi hướm của quê hương: những khuôn mặt
gần gũi (gặp ai cũng thấy quen quen!), những món hàng còn giữ nguyên
nét cũ (đòn chả lụa vẫn phải có màu xanh của lá, con vịt quay vẫn phải
đỏ ao màu mật…) và những cái tên chỉ cần đọc lên là đủ để gợi nhớ… Hồi
sáng này, ông Năm cũng đã đóng bộ để đi khu 13. Trời đã sang thu, nhưng
nắng còn thật ấm. Cây marronnier nhà hàng xóm nằm ngay dưới cửa sổ nhà
ông Năm đã trở màu vàng. "Chắc lá đã rụng đầy", ông Năm nghĩ vậy khi
đứng thắt cravate gần khung cửa sổ. Chỗ ông cư ngụ là một studio nhỏ ở
lầu ba khu nhà cũ nằm sâu phía sau nhà thờ Sacré Coeur. Cây marronnier
che hết phía dưới thành ra từ cửa sổ nhà ông Năm nhìn thẳng ra chỉ thấy
bức tường cao của khu nhà đối diện chắn ngang, chừa phía trên bầu trời
bị đóng khung hình chữ nhựt bởi hai dẫy nhà dài. Trên nền trời đó, tuốt
phía xa, là nóc nhà thờ với cây thánh giá. Thành ra, thế giới bên ngoài
nhìn từ phòng ông Năm chỉ còn lại vỏn vẹn có cây thánh giá để cái nhìn
còn có một điểm tựa! Ông Năm theo đạo Phật, nhưng từ ngày dọn về đây -
năm sáu năm gì rồi - cứ nhìn cây thánh giá riết mà ông có cảm tưởng như
mình đã thành con chiên của Chúa! Nhiều khi ông thấy cây thánh giá thật
là sinh động. Ông không hay rằng niềm suy tư của ông đã gởi trên đó từ
lâu... Có lần, trong thư gởi về Việt Nam cho bà Năm, ông viết: "Anh
thường nhìn cây thánh giá đứng cao vòi vọi một mình trên kia mà tự hỏi
không biết anh và cây thánh giá, ai cô đơn hơn ai? Nhưng cây thánh giá
hãy còn giang tay ngạo nghễ chớ anh thì từ lâu rồi anh đã buông tay đầu
hàng số mệnh! Tuy nhiên, ở đây anh còn có cây thánh giá trước mắt để
hướng về đó mà cầu nguyện, chớ ở bên nhà giờ đây muốn cầu nguyện em
phải hướng về đâu hả em? Anh bỗng ứa nước mắt thương em vô cùng… Ở ngay
trong lòng quê hương mà thiếu thốn đủ thứ, đến nỗi điểm tựa cho niềm
tin mà còn không có thì em sống ra sao, em hả?" Đối với ông Năm, cây
thánh giá trên chót nhà thờ Sacré Coeur mặc nhiên đã trở thành một vật
gì thật gần gũi, thật trần gian, thật người, và là động cơ khơi nguồn
kỷ niệm…
Hồi xưa, ông làm việc cho Air France ở Sàigòn. Đời
sống rất thoải mái, nhưng hai vợ chồng lại không có con. Chạy thầy chạy
thuốc mãi rồi mới biết tại vì tử cung của bà Năm nằm lệch. Điều này làm
bà Năm khóc hết nước mắt. Tuy nhiên, hồi đó còn trẻ nên cũng dễ nguôi,
hai vợ chồng chẳng quan tâm cho lắm. Lần hồi, tuổi đời chồng chất, sự
không có con đã trở thành một vấn đề cho hai vợ chồng. Mặc dù ông Năm
không bao giờ nhắc đến chuyện đó, bà Năm vẫn khơi ra để nhận lỗi về
mình. Mặc cảm đó làm cho bà lúc nào cũng ân hận, áy náy. Rồi cái gì hư,
cái gì trật, cái gì bậy ở trong nhà dù là do lỗi những người giúp việc,
bà cũng nhận hết. Ông Năm phải mất một thời gian dài để giải thích,
khuyên lơn, an ủi, bà Năm mới lấy lại đựơc quân bình. Có hôm, trong lúc
hai vợ chồng đi dạo trên bãi biển Vũng Tàu, nhìn thấy mấy gia đình đông
con đùa giỡn vui vẻ, bà Năm chợt thở dài than: - Nếu không phải tại em thì bây giờ hai đứa mình đâu có bơ vơ như vầy!
Ông Năm choàng tay ôm vai vợ xoay người lại để nhìn sâu vào mắt:
- Em
à! Mình không có con, nhưng mình còn có nhau. Đó là Trời thương lắm
rồi, em còn đòi hỏi gì nữa? Thử tưởng tượng một ngày nào đó không còn
có nhau nữa thì sao? Bà Năm gật gật đầu nhưng chẳng bao giờ tưởng
tượng đến "cái ngày không còn có nhau" đó. Vậy mà cái ngày đó đã đến
cho ông bà Năm. Hai năm sau ngày mất nước, trong chuyến vượt biên ở Cà
Mau, ông Năm đi thoát, bà Năm bị bắt lại với một số người không may
khác! Ông Năm sang Pháp, làm việc lại cho hãng Air France. Bà Năm nằm
tù hết mấy tháng. Được thả ra thì nhà cửa đã bị tịch thu, đành về quê ở
Gò Công làm công nhân cho nhà máy xay lúa của gia đình mà trong đợt
đánh tư sản đầu tiên, VC đã tịch thu để biến thành hợp tác xã. Từ đó,
là những chuỗi dài thương nhớ, là những lo âu dằn vặt, là những lá thư
nhiều ẩn nghĩa cho đúng "văn phạm Nhà Nước". Còn chuyện vượt biên lần
nữa là chuyện mà bà Năm không bao giờ dám nghĩ đến! Bên này, ông Năm
chạy mãi rồi cũng được giấy nhập cảnh cho bà gởi về, nhưng phía bà Năm
thì gặp quá nhiều khó khăn trong hồ sơ xin xuất cảnh, cứ bị kéo dài,
kéo dài bằng những chầu chực, bằng những lời hứa hẹn suông và bằng mấy
lần bị lường gạt… Để cuối cùng, mấy năm sau, mới biết là hồ sơ đã bị
bác từ lâu! Tin đó đến với ông Năm bằng tờ giấy tập học trò vàng như
giấy súc mà trên đó bà Năm chỉ còn đủ sức viết có mấy hàng… Vậy là vĩnh
viễn không còn có nhau nữa! Ông Năm mất tinh thần hết một thời gian
dài. Sau đó, dọn về khu phố này tình cờ cửa sổ mở về hướng nhà thờ
Sacré Coeur, để mỗi sáng trước khi đi làm ông nhìn cây thánh giá một
lúc, giống như một tín đồ ngoan đạo…
Khi ông Năm mặc xong quần áo thì trời cũng đã gần trưa. Đốt điếu thuốc để lên môi, ông đóng cửa bước chậm rãi xuống cầu thang, giống
như đo từng nấc thang một! Thật ra, tại tánh ông Năm vốn đã trầm thêm
tuổi đã gần sáu mươi bắt ông phải cẩn thận khi bước lên bước xuống.
Ngoài ra, có gì phải vội phải gấp khi mà chẳng có ai đợi ai chờ? Đi khu
13 vào trưa thứ bảy đã thành một thói quen, chẳng có gì phải náo nức.
Bỗng nhiên, ông Năm nhận thấy cuộc đời mình sao thật vô vị. Giống như
tờ giấy trắng mênh mông trải dài, thẳng băng, chẳng có một dòng mực,
chẳng có một đốm màu, cũng chẳng có một vết hoen ố. Hình ảnh đó làm cho
ông Năm dừng lại ở giữa cầu thang, ngẩn ngơ một lúc như vừa khám phá ra
một điều gì quá rõ rệt nằm ngay trước mắt mà sao lâu nay ông không nhận
thấy! "Mình đi làm đều đặn. Mỗi tuần xuống khu 13 cũng đều đặn vào trưa
thứ bảy. Mỗi tối thứ hai đi ciné một lần vì giá vé hạ. Đêm nào cũng coi
télé vào 8 giờ tối để theo dõi tin tức, rồi đọc sách đọc báo đến 11 giờ
rưỡi là tắt đèn ngủ. Đều đặn. Đều đặn. Đến như cái cầu thang này, mình
cũng đều đặn trèo xuống trèo lên đến nỗi biết nó có bốn mươi tám nấc!
Vậy rồi thôi! Rồi cứ như vậy cho tới về hưu,tới chết!" Ông Năm hít hơi
thuốc thật sâu để thở khói ra thật dài. Ông làm mấy lần như vậy, giống
như đang tìm một đáp số! Rồi ông vỗ nhẹ bàn tay lên thành lan can gỗ,
tự nhủ "Thôi! Đừng nghĩ tới nữa". Ông tiếp tục bước xuống, nhưng bây
giờ sao thấy bước chân nặng hơn hồi nãy nhiều… Khi đi qua trước phòng gác gian, có tiếng gọi: - Ông Georges! Ông Georges! Georges
cũng là tên của ông Năm. Người Pháp phát âm Năm thành Nam, nghe lơ lớ
chói lỗ tai, nên ông lấy đại tên Georges cho dễ gọi dễ kêu. Bà gác gian
bước ra trao cho ông một điện tín, nói: - Vừa mới tới. Tôi định lên nhà đưa cho ông thì ông xuống đây. Ông
Năm run tay mở bức điện tín. Giòng chữ ngắn ngủn hiện lên nhảy múa: "Đã
có xuất cảnh. Lo vé máy bay cho em. Mai". Điếu thuốc trên môi bỗng rơi
xuống đất. Ông Năm có cảm giác như mình đang lên cơn sốt. Ông đọc lại
điện tín một lần nữa, hai tay phải gồng cứng lại mới kềm được tờ giấy
đứng yên căng thẳng dưới mắt. Ông nói cho mình nghe: "Đúng rồi! Bả được
xuất cảnh rồi!" Bà gác-dang nghiêng đầu lo lắng: - Có sao không? Có chuyện gì không? Ông Georges? Tiếng bà ta lôi ông Năm về thực tại. Ông nhìn bà ta, mỉm cười,
rồi nắm lấy tay bà ta lắc mạnh: - Cám ơn bà! Cám ơn bà nhiều! Tôi thật không biết nói gì cho phải. Bà thật tốt bụng! Quá tốt bụng! Cám ơn! Cám ơn! Giọng
ông thật thành khẩn, làm như chính bà đã cho giấy xuất cảnh! Bà ta
không hiểu gì cả, vừa ngạc nhiên vừa buồn cười trước thái độ của ông
Năm. Bà ấp úng trong lúc ông Năm buông bà ra để chạy lên cầu thang:
- Nhưng mà… Nhưng mà…"
Nửa chừng, sực nhớ ra, ông dừng lại nghiêng người nói với xuống: - Điện tín của vợ tôi ở Việt Nam. Bả nói bả sẽ qua đây ở với tôi! Cám ơn! Cám ơn nhiều! Rồi ông phóng lên cầu thang, nhảy hai bậc một, nhanh như sóc, nhẹ như hươu. Làm như ông mới có hai mươi tuổi!
Vào phòng, ông ngã người lên giường, thở hổn hển. Cái tuổi hai mươi bất thần tìm lại chỉ đủ giúp ông trèo hết bốn mươi tám nấc thang thôi! Một lúc sau, ông cầm điện tín lên, đọc lại một lần nữa. Thật rõ ràng mà! Đây nè, hàng chữ không bỏ dấu "Da co xuat canh. Lo ve may
bay cho em. Mai". Đọc là hiểu ngay! Còn Mai là tên của bả rồi, chớ còn
ai vô đây nữa! Cái tên dễ thương mà mình đã thương từ mấy chục năm,
không còn lộn với ai được. Vậy là chỉ còn có vé máy bay nữa là xong.
Ông
nhỏm người lên nhìn tấm lịch tháng treo gần đó để thấy rằng mình bỗng
quên mất hôm nay là thứ bảy! Vậy phải đợi thứ hai mới vào sở lo vụ này
được. Ông lại nằm xuống. Dễ thôi! Nhờ thằng Durand đánh cái télex là
xong ngay. Ờ… nhưng mình cũng phải gởi cái điện tín về cho bả mừng. Tội
nghiệp! Không biết ai chạy lo cho bả cái xuất cảnh, chớ bả thì lo khỉ
gì được với cái tánh hiền khô và nhát hít của bả. Nghĩ đến đó, ông Năm
bỗng thấy thương vợ vô cùng. Cái người đàn bà hiền khô và nhát hít đó
đã về làm vợ ông từ hơn ba mươi năm, trước sau như một, theo chồng như
một cái bóng. Ngoài chuyện không có con, chẳng thấy bao giờ bà làm bận
tâm ông. Con nhà giàu ở Gò Công, học ở Marie Curie, vậy mà cô gái có
cái tên Trần thị Lệ Mai đó đã có một quan niệm sống thật cổ điển, thật
Á đông. Và khi trở thành bà Trần văn Năm, luôn luôn bà đối xử với bên
chồng thật vuông tròn và xem việc nội trợ như một thiên chức! Hồi xưa,
bạn bè vẫn nói là "thằng Năm trúng số độc đắc" hoặc "đẻ bọc điều mới có
người vợ như vậy". Ông thì nghĩ rằng tại vợ mình hiền khô và nhát hít
nên chẳng dám làm phiền ai bao giờ. Có lẽ nhờ vậy mà ai cũng thương…
Ông lại nhỏm dậy nhìn tấm lịch. Trên đó ông có ghi bằng marker đỏ con
số 10 to bằng nửa bàn tay ở gốc trái. Vậy mà cũng đã mười năm xa nhau!
Mỗi năm mua lịch, mình ngồi nắn nót viết con số lên đó giống như người
tù bị lưu đày ghi số năm mà mình biệt xứ. Có khác là người tù còn biết
ngày được thả chớ còn mình thì mù tịt. Đã tưởng vĩnh viễn sống một mình
rồi… chết cũng một mình trên đất lưu vong này, nào ngờ Trời còn thương
mình nhiều quá!
Ông
ngồi hẳn dậy đốt điếu thuốc, khói thuốc thật thơm thật ngọt. Vậy mà
cũng đã mười năm xa nhau! Mười năm… lâu lắm chớ! Vậy mà sao vẫn thấy
còn thương còn nhớ. Lạ quá! Có phải như vậy người ta gọi là chung thủy
hay không! Rồi ông nhìn quanh. Nhà cửa thiệt là lượm thượm, phải dọn
dẹp laị coi cho nó được một chút. Vậy là ông đứng lên đẩy ghế, đẩy bàn,
quên mất là mình còn mặc bộ đồ lớn để đi khu 13 và làm như bà Năm sắp
qua tới bây giờ! Vừa làm vừa nói một mình, lâu lâu ông ngừng lại hít
một hơi thuốc thật sảng khoái. Hai cái fauteuils này cho sát vào tường,
kê gần nhau để cùng ngồi coi télé. Cái télé nằm đó được rồi. Cái bàn ăn
nhích qua một chút để có chỗ kéo cái nệm dưới gầm giường ra. Bả trên
giường, mình dưới đất, tạm ổn trong khi chờ đợi kiếm nhà khác rộng hơn.
Cái tủ búp phê đẩy tới một chút là nằm ngang với bàn ăn. Mẹ nó! Coi vậy
mà cũng nặng ớn! Ông đứng lên thở hổn hển, nhìn quanh. Bây giờ coi có
nét rồi đó. À! Cái màn cửa sổ, phải tháo xuống đem giặt, cho nó "sáng"
ra mới được.
Rồi
ông vào buồng tắm thay đồ. Đồ đạc ở đây thì sạch sẽ rồi, khỏi lo. À!
Còn cái tủ quần áo ở bên phòng ngoài nữa. Phải thu gọn lại cho có chỗ
để bả để quần áo chớ! Ông bỗng phì cười. Làm như mình sắp cưới vợ vậy!
Mà thiệt! Sau mười năm xa cách, gặp lại nhau cũng giống như cưới nhau
lần nữa chớ gì! Ông soi gương chải lại tóc. Tóc mình mới có mấy sợi bạc
thôi. Mặt mũi hãy còn "nét" lắm, ai mà nói mình sắp sáu mươi? Cô dâu
qua đây thấy chú rể như vầy là nhìn… rớt con mắt! Ông Năm bỗng nghe
lòng vui rộn rã, giống như tâm trạng ngày xưa, thuở còn trẻ, lúc sửa
soạn đi đến nơi hẹn với người con gái tên Trần thị Lệ Mai...
Vậy
là trưa thứ bảy này ông Năm không thấy đói! Tuy vậy, cũng phải "bỏ
bụng" một cái gì,vì thói quen hơn là vì nhu cầu. Ông mở tủ lạnh lấy một
trái cà tô mát và một miếng thịt bò. Cà xắt khoanh, không dầu không
dấm, thịt nướng trần trên vỉ sắt không muối không bơ. Làm cho "lấy có"
và ăn cũng cho "lấy có". Bởi vì tâm hồn ông đang mãi phiêu bồng ở đâu
đâu xa lắm, hình như là ở Gò Công quê vợ, ở Gia Định quê mình, ở những
ngày đầu "hai đứa gặp nhau" (những ngày đó, tiếng nói của tình yêu là
một chuỗi dài im lặng!), ở rạp hát bóng Đại Nam là nơi "hai đứa hẹn hò"
(Dù trời mưa anh cũng tới. Em nghe không?), ở Đà Lạt ít lâu sau đó...
Chao ôi! Đẹp quá! Dễ thương quá! Tình yêu là cái gì mà sao mãi mãi vẫn
còn nguyên, như mới hôm qua hôm kia…
* Ông
Năm lái xe lên phi trường Charles de Gaulle lần này là lần thứ hai. Hồi
sáng, đã lên đó một lần, đợi cả tiếng đồng hồ để được thông báo là
chuyến bay Air France từ Thái Lan qua sẽ đến trễ gần tám tiếng. Nhờ là
nhân viên của hãng nên ông Năm được biết là máy bay bị trục trặc kỹ
thuật ở Karachi. Trở về sở làm, ông ngồi đứng không yên, lâu lâu cứ
nhìn đồng hồ. Bạn bè trong sở thấy vậy thương hại, mỗi người một câu an
ủi trấn an. Có người ngồi lại gợi chuyện tán dóc cho ông đỡ thấy sốt
ruột. Có người đặt tay lên vai ông bóp mạnh:
- Georges! Đợi chờ nhau mười năm mà mày còn chịu nổi huống gì chỉ có mấy tiếng đồng hồ nữa thôi. Can đảm lên chớ! Vậy
rồi thời gian cũng qua, chiều cũng xuống, để ông Năm lái xe đi phi
trường, lòng náo nức xôn xao trong sự đợi chờ kỳ diệu. Vào phi trường,
ông gắn thẻ nhân viên lên ngực áo rồi đến quầy Air France hỏi thăm. Mô
phật! Lần này máy bay sẽ đến đúng giờ.. Hai cô tiếp viên trong quầy
không quen ông Năm nhưng thấy đeo thẻ Air France, nên cũng hỏi đẩy đưa: - Ông chờ đón bạn à? Ông mỉm cười, vừa bước đi vừa trả lời: - Không! Tôi đón nhà tôi. Chào hai cô. Phi
trường giờ này nhiều chuyến bay cùng đến một lúc nên người đi kẻ lại
tấp nập. Ông Năm ngồi uống cà phê, hút thuốc, nhìn thiên hạ. Ông thấy
ai cũng dễ thương hết! Ông muốn họ uống với ông một tách cà phê, hút
với ông một điếu thuốc lá. Cà phê expresso thật ngon. Khói thuốc
Dunhill thật ngọt. Tâm hồn ông Năm được trải rộng mênh mông…
Lại
nghĩ đến bà Năm. Bả "điệu" lắm! Lúc nào cũng sạch sẽ gọn ghẽ. Tóc lúc
nào cũng chải gọn về phía sau rồi cuốn thành một vòng kẹp lại phía trên
ót, thành ra khuôn mặt trái soan và cái cổ tròn lúc nào nhìn cũng rõ
nét. Còn về quần áo thì bả chẳng bao giờ mặc loại có màu sắc sặc sỡ loè
loẹt, luôn luôn hoặc đen hoặc xanh đậm và nếu có bông thì cũng phải
tiệp màu với nền vải và hình dáng phải nhã nhặn, nho nhỏ tương xứng với
tầm vóc của bả. Hà! Bả hiền khô và nhát hít vậy mà về vấn đề ăn mặc bả
khó đàng trời! Người ta nói bả có "gout". Mình cũng nghĩ như vậy, nhưng
nếu bả không có thân hình đều đặn cân đối thì không biết cái "gout" để
vào đâu cho nó nổi! Ông hít một hơi thuốc dài sảng khoái. Hồi đó sao mà
mình mê bả quá, nhứt là đôi bàn tay có ngón thon dài sang trọng và cặp
mắt đen to như mắt đầm làm cho cái nhìn của bả lúc nào cũng có vẻ như
ngạc nhiên. Điều lạ là sau này khi đã đứng tuổi, bả vẫn còn giữ nguyên
đường nét thời con gái. Thành ra lắm khi nhìn bả, mình muốn trêu chọc
bằng câu "Gái không con mà nom cũng mòn con mắt", nhưng vì sợ bả buồn
nên mình nín thinh luôn!
Ông
Năm ngừng suy tư trên hình ảnh đẹp của bà vợ, mỉm cười vu vơ. Lại hút
thuốc, lại nhìn thiên hạ. Hớp cà phê cuối cùng đã nguội ngắt mà sao vẫn
còn thấy ngon lạ lùng. Bỗng ông bật cười. Sau bảy mươi lăm, sống với
Việt Cộng mà bả vẫn tiếp tục "điệu" như thường! Trong lúc người ta lôi
quần áo cũ rách ra bận và để mặt mũi tóc tai lôi thôi lếch thếch cho có
"tác phong cách mạng" thì bả vẫn gọn ghẽ sạch sẽ như thường, vẫn chút
đỉnh má hồng, chút đỉnh son, vẫn quần dài áo ngắn tươm tất, mặc dù phải
đạp xe đi làm công nhân ở tổ may thêu xa bảy tám cây số. Mình hay trêu
chọc bả bằng câu nói của Việt Cộng "Song chân lý ấy vẫn không bao giờ
thay đổi", bả cười không nói. Vậy mà có hôm, bả trả lời bằng một câu…
xanh dờn: "Đàn bà phải biết tự trọng. Làm như mấy bà cách mạng tóc tai
xủ xộp, quần áo xốc xếch rộng rinh hoặc ngắn ngủn như mặt đồ khín, em
làm không được"…
Có
tiếng nhạc chuông dìu dặt, tiếp theo là giọng bổng trầm của cô tiếp
viên thông báo chuyến bay Air France số AF 199 đến từ Thái Lan đã đáp
xuống sân bay. Ông Năm đứng lên trả tiền, xong đi vào phía trong qua
ngả văn phòng trực của hãng. Ông nghe lòng vừa náo nức vừa hồi hộp
giống như ngày xưa khi đứng chờ xem kết quả thi tú tài! Ông ra đón tận
cổng vào. Có hai chuyến bay đến từ hai nơi khác nhau nhưng đổ hành
khách xuống cùng một lúc, nên sân bay đầy người. Giữa cái lao xao lộn
xộn đó, ông Năm nghểnh cổ tìm vợ trong luồng người thoát ra từ cổng F,
cổng của chuyến bay Air France. Ông nhìn từng khuôn mặt, từng người.
Ông nhìn, ông chớp mắt để nhìn cho rõ hơn. Những gương mặt Á đông phờ
phạc. Những gương mặt Á đông hốc hác. Những gương mặt Á đông xanh xao.
Ông nhìn, ông chờm tới, nhích tới để nhìn. Bả dễ nhìn lắm. Lúc nào cũng
sạch sẽ gọn ghẽ. Lúc nào cũng điệu. Trong đám đông, bả nổi hơn người ta
nhờ nước da trắng hồng của gương mặt trái soan và đôi mắt lớn, cho nên
dễ nhận ra lắm. Không phải bà này. Bà này già quá cũng không phải. Bà
này coi ngờ ngợ nhưng đi chung với bầy con nít, không phải bả. Ông nhón
chân lên để cái nhìn được đưa ra xa thì tai thoáng nghe hình như có
tiếng người gọi nhỏ: "Ông Năm!" Ông vẫn tiếp tục nhìn từng người, từng
khuôn mặt. Lại có tiếng người gọi nhỏ, lần này tiếng gọi lạc đi: -
Ông Năm… Nghe
rõ có tiếng ai gọi mình, ông nhìn lại. Ngay phía trước, đứng cách ông
chỉ mấy bước, người gọi ông là một bà già tóc muối tiêu hớt bom bê ngắn
như mấy bà Tàu Chợ Lớn, mặc áo len nâu rộng thùng thình, ống tay dài
phủ mất hai bàn tay đang xách mỗi bên một túi vải. Chỉ mới nhìn tới đó
thôi, linh tánh bắt ông nhìn lại gương mặt: khuôn mặt gầy xạm nắng với
những nếp nhăn trăng trắng ở khoé môi và đuôi mắt. Ngần đó thứ giống
như miếng cau khô, chỉ trừ có hai con mắt là sinh động, là mở to như có
vẻ ngạc nhiên, là nói lên, là nhắc nhở, là… là… Trời ơi! Là vợ tôi đây
mà! Ông Năm nghẹn ngào bước tới, hai tay đưa về phía bà già và chỉ còn
đủ sức gọi có một tiếng: "Mai!" Ông ôm lấy vợ mắt nhắm nghiền đau đớn.
Tội nghiệp! Người vợ chỉ dám gọi chồng bằng hai tiếng "Ông Năm!" như
người xa lạ, và chỉ dám gọi có hai lần. Và khi chồng nhìn ra mình, ôm
chầm lấy mình, người vợ đó chỉ còn nói được bằng nước mắt!
Ông
Năm buông vợ ra để nhìn lại lần nữa. Ông nghe nghẹn lời và nghẹn cả
lòng. Ông chỉ còn nói được bằng hai bàn tay… Hai bàn tay vuốt làn tóc
bạc bây giờ sao quá thẳng quá ngắn. Hai bàn tay ôm lấy khuôn mặt bây
giờ sao không lấp đầy hai lòng bàn tay. Hai bàn tay đặt xuống bờ vai
bóp nhẹ. Dưới lớp áo len, ông cảm rõ nét gầy của bờ vai bây giờ. Bây
giờ… Hồi đó… Từ trong sâu thẳm của lòng ông, nỗi đau khổ tột cùng bỗng
bật lên thành tiếng, một thứ tiếng nói lệch lạc méo mó vì uất nghẹn:
"Sao vầy nè?" Rồi, không kềm chế nổi nữa, không cần giữ gìn ý tứ gì
nữa, trong cái rừng người xào xạc đó, ông ôm lấy vợ, ngửa mặt lên trời
thét lên một cách thống thiết: "Sao vầy nè… Trời?" Tiếng "Trời" nặng
trĩu thoát ra từ lòng ngực ông như tất cả sinh lực trong người được
trút ra hết… Rồi ông ôm lấy vợ, nước mắt ràn rụa. Bà Năm cũng khóc
nhưng vẫn không buông rời hai cái túi vải. Hơn mười năm sống với Việt
Cộng, đã trở thành một bản năng: nắm chặt, giữ chặt những gì còn thuộc
về mình, những gì mà "tụi nó" chưa kịp chiếm lấy, cướp lấy!
Một lúc lâu sau, phải một lúc lâu sau, ông Năm mới lấy lại bình tĩnh. Ông nói: - Thôi mình về đi em! Tiếng
"em" thật tự nhiên, thật nhẹ nhàng. Tiếng "em" mà đã mười năm, bà không
còn nghe thấy! Bà cắn môi để kềm xúc động, nhìn chồng mà đuôi mắt nheo
lại mỉm cười. Bà nghe một cái gì mát rượi đang len vào lòng, một cái gì
đã làm rơi mất từ hơn mười năm, bây giờ mới tìm gặp lại. Mãi đến bây
giờ, ông Năm mới thấy trong đôi mắt vợ, nét cũ ngày xưa: to tròn như
mắt đầm, tròng đen lay láy. Đôi mắt đó đang nhìn ông, cái nhìn ngời lên
như muốn nói thật nhiều… Ông cúi xuống định xách hai túi vải. Bà Năm
lắc đầu: - Để em xách! Tiếng
"em" cũng thật tự nhiên thật nhẹ nhàng. Giọng nói thật dịu dàng, trong
trẻo. Làm như nước mắt đã tẩy sạch dấu vết của mười năm… Ông vói tay
cầm lấy quai túi: - Để anh xách cho. Bà Năm vừa bước đi, vừa nói, tay vẫn nắm chặt hai túi vải: - Không sao. Em xách được. Ở bển, em gánh lúa mỗi ngày cho nhà máy, có sao đâu. Ông
Năm bỗng nghe lòng quặn thắt. Thì ra "tụi nó" đày đọa bả đến nước đó!
Bả tội gì? Tội gì? Tội vượt biên? Thì đã ở tù trên ba tháng rồi còn gì
nữa? Vậy tội gì? Ông Năm nghiến cái căm thù trong răng để đừng chửi
đổng, nhưng rồi ông cũng bật ra: - Quân khốn nạn!
*
Về đến nhà thì trời đã xâm xẩm tối. Lần này thì chính ông Năm xách hai túi vải, đi trước dẫn đường, lòng vui như mở hội. Đến chân cầu thang, ông nói:
- Ở từng lầu ba lận. Em leo nổi không? Bà Năm trả lời, giọng vẫn trong trẻo: - Gì không nổi? Bây giờ em làm cái gì cũng nổi hết. Rồi
bà bước lên cầu thang, bước đều đặn. Ông Năm theo sau, nhìn dáng dấp
nhỏ thó với mái tóc bạc hớt bom-bê cao ông bỗng thương vợ vô cùng. Mười
năm… Mái tóc huyền mà ngày xưa hay kéo sát về phía sau để cuốn tròn kẹp
gọn một vòng trên ót… bây giờ chỉ còn là như vầy! Cái cổ tròn dẫn xuống
bờ vai thon thon của hồi đó… bây giờ gầy nhom như vầy! Mười năm… Chắc
bả phải khổ ghê lắm, phải chịu đựng ghê lắm mới ra nông nỗi này! Tội
nghiệp! Người đàn bà hiền khô và nhát hít đó chưa làm phiền lụy ai bao
giờ, vậy mà Việt Cộng vẫn moi ra một cái cớ nào đó để hành hạ. Và như
vậy suốt mười năm. Lam lũ quá nên bả già trước tuổi, chớ bả cũng còn
giữ được cái nhìn, giọng nói và tâm hồn… những thứ mà Việt Cộng không
cưỡng chiếm được!
Vào nhà, ông Năm bật đèn lên, bà Năm nhìn quanh mỉm cười, không nói. Ông Năm đặt hai túi lên bàn ăn, rồi cũng nhìn quanh: - Nhà của anh đó. Nhỏ như cái lỗ mũi. Tạm một thời gian rồi mình sẽ kiếm nhà khác rộng hơn. Bà Năm dịu dàng: - Như vầy cũng được. Có hai đứa mà gì… Bỗng
nhiên hai người nhìn nhau. Tiếng "hai đứa" nhắc cho họ nhớ tới hoàn
cảnh bây giờ, một hoàn cảnh mà từ lúc gặp lại nhau bao nhiêu thống hận
dập dồn đã làm họ quên đi: bây giờ "hai đứa" vẫn còn có nhau, thật sự
còn có nhau. Rồi sẽ không còn gì chia cách. Rồi sẽ đi bên nhau, đi hết
đoạn đường còn lại, một đoạn đường không còn bao nhiêu xa… Bởi vì họ
biết: họ đang bước vào mùa thu của cuộc đời… Cho nên họ nhìn nhau mà
yêu thương dâng đầy trong mắt.
Bà Năm bước lại cửa sổ. Ngoài xa trên nền trời trắng đục, hiện lên thật rõ cây thánh giá và nóc nhà thờ Sacré Coeur. Bà Năm hỏi: - Cây thánh giá này đây? Câu
hỏi trống không nhưng hai người cùng hiểu: cây thánh giá mà ông Năm
viết đi viết lại không biết bao nhiêu lần trong thư gởi về Việt Nam.
Ông bước lại khoác vai vợ, gật gật đầu. Hai người yên lặng nhìn cây
thánh giá như đang tạ ơn, giống như đang rước lễ, giống như cô dâu chú
rể sau khi được kết hợp thành vợ chồng… Thời gian bỗng như dừng lại, để
hình ảnh trở thành bất diệt, nói lên cái cao cả của tình yêu, cái huyền
diệu của niềm tin… những thứ mà Việt Cộng muốn xoá bỏ để biến con người
thành gỗ đá. Một lúc lâu sao, bà Năm như sực tỉnh: - Để em soạn đồ ra. Rồi
bà bước lại bàn mở hai túi vải. Ông Năm đốt điếu thuốc, khói thuốc lâng
lâng nhẹ. Ông ngồi cạnh giường nhìn vợ soạn đồ bằng đôi bàn tay xạm
nắng với những đường gân nổi lên ngoằn ngoèo. Đôi bàn tay đã từng có
ngón tay thon dài khéo léo từ đường kim mũi chỉ… bây giờ là như vậy!
Ông thấy thương vợ vô cùng. Bà Năm soạn đồ ra để trên bàn: vài bộ quần
áo, mấy cái khăn lông, một cái mền nhỏ… Vừa làm bà vừa nói: - Có
bao nhiêu, em đem theo hết. Nói là đi chánh thức chớ không biết lúc nào
tụi nó bắt mình lại. Có nhiều người lên máy bay rồi mà còn bị lôi
xuống, không biết vì cớ gì. Rồi khi được thả ra là trắng tay. Bà lấy trong túi ra một khuôn hình, trao cho ông Năm: - Em đem hình ông già bà già qua để lâu lâu mình thắp một cây nhang. Ông
Năm nhìn hình cha mẹ, lòng bồi hồi xúc động. Hình này, hồi đó, để trên
bàn thờ nhà cũ. Nhà bị tịch thu, không hiểu bả làm sao lấy được để mang
qua đây? Ông đứng lên nhìn quanh, rồi treo khuôn hình lên cây đinh trên
tường đối diện. Có tiếng bà Năm nói: - Em có đem qua cho anh chai rượu nếp than nữa. Nhớ hồi đó anh ưa lắm. Ông
quay lại, cầm chai lên mở nút. Chưa đặt miệng chai lên mũi mà mùi rượu
ngọt ngào thơm phức tỏa ra thật nồng nàn.. Ông hít một hơi dài, đóng
nút lại, rồi nhìn chai rượu mà ứa nước mắt. Nỗi nhớ quê hương nằm sâu
trong tiềm thức, bây giờ, mùi rượu nếp than, màu rượu nếp than đã làm
bật dậy, vô cùng mãnh liệt. Ông tưởng chừng như vừa hưởi thấy mùi thơm
quê hương. Có mùi ngọt ngọt của lúa chín, có mùi nồng nồng của rơm của
rạ, có mùi hăng hăng của đống un đốt cạnh chuồng trâu chuồng bò… Ông
tưởng chừng như đang giữ trong tay một mảnh trời quen thuộc. Ở đó có
màu tím lờn lợt của hoa bằng lăng, có màu tím nâu nâu của vỏ măng cụt,
có màu tím học trò của trái mồng tơi, và những tà áo tím phất phơ theo
gió qua cầu, với những chiều tím quê ngoại, đứng ngẩn ngơ bên sông Vàm
Cỏ khi tuổi vừa mới lớn… Chao ơi! Ngần đó thứ, tưởng quên nhưng vẫn
nhớ. Ngần đó thứ bây giờ xa thật xa.. Xa, không phải vì cách biệt, mà
xa vì không còn thuộc về mình nữa!
Ông
Năm cầm chai lắc lắc, bột nếp than tím ngát dợn lên trong lòng chai.
Ông mở nút rót thẳng vào miệng một hớp. Chất rượu béo ngậy ngọt ngào
cay cay nhắc ông nhớ những quán nhậu ở Hóc Môn, những món thịt rừng ở
Biên Hoà, những con cá mú sữa kho tộ ở Vũng Tàu bãi sau bãi trước… Ông
ngậm lấy hớp rượu để nghe rõ chất rượu đang thấm vào nướu răn, đang
thấm vào các thớ thịt cổ, đang thấm lên nóc giọng, đang nồng lên mũi.
Ôi! Mùi vị quê hương là đây… ông không cầm được nước mắt!
Bà
Năm vẫn âm thầm soạn đồ đạc. Bà hiểu ông Năm lắm và nghe thương chồng
vô cùng. Tội nghiệp! Mười năm xa quê hương… Ông Năm vào phòng tắm rửa
mặt rồi ra chỉ chỗ cho vợ xếp quần áo. Xong ông bảo: - Anh đã làm sẵn mấy món ăn cho hai đứa. Để anh đem ra hâm. Em đặt bàn đi. Đồ đạc trong tủ búp phê đó.
Bà Năm nghi ngờ: - Anh mà làm bếp cái nỗi gì? Mua ở tiệm thì có. Ông Năm cười sảng khoái: - Em
lầm rồi! Bây giờ, anh làm cái gì cũng được hết. Nấu bếp, giặt đồ, làm
ménage … đủ thứ. Rồi em coi! À… đặt bàn em nhớ để một dĩa sâu cho món
súp légume và một dĩa trẹt cho món gà nấu rượu, nghe! Bà Năm mỉm cười, thấy chồng sung sướng mà
lòng cũng thênh thang trải rộng. Một lúc sau, hai vợ chồng ngồi vào bàn
ăn. Trên bàn cũng có hai cây nến. Cũng khăn trải bàn trắng phau, cũng
khăn ăn màu xám lợt, cũng dĩa trắng chạy chỉ vàng, cũng nĩa dao cán gỗ
có nét vẽ cong cong nhè nhẹ. Và không quên hai ly rượu có chân, đựng
chút rượu nếp than có màu tím đậm đà và hương thơm mời mọc. Ông vui vẻ: - Như vầy mới đúng là nuit de noces chứ, phải không em? Bà Năm nhìn chồng không nói, nhưng vành tai bỗng đỏ bừng. Bà nói lảng: - Súp ngon chớ! Anh học nấu ở đâu vậy? Ông để ngón tay trỏ lên môi, vẻ bí mật: - Hùm… Không nói đâu! Ông Tiên người Tàu chuyên nấu đồ Tây chỉ đó, dặn anh đừng nói cho ai biết! Rồi cả hai cùng cười vì hình ảnh ngộ nghĩnh đó, cái cười hồn nhiên tìm lại sau mười năm xa nhau…
Bữa
ăn kéo dài bằng những chuyện kể cho nhau nghe, nhớ đâu kể đó, không
mạch lạc đầu đuôi, bởi vì trong thời gian mười năm có biết bao nhiêu sự
việc đã xảy ra làm sao mà nhớ cặn kẽ cái nào sau cái nào trước! Dọn dẹp
xong thì trời đã khuya. Hai vợ chồng chia nhau, bà nằm trên giường, ông
nằm trên nệm dưới đất. Tắt
đèn đã lâu mà hai người vẫn còn trằn trọc. Làm như còn thèm nói chuyện
với nhau nữa! Bóng tối dầy đặc vây quanh. Không khí trong nhà êm
êm mát mát. Mùi rượu nếp than và mùi thuốc lá Dunhill còn phản phất
thơm thơm. Bỗng bà Năm nghe một bàn tay của chồng đặt lên mình mình.
Toàn thân bà run lên nhè nhẹ. Hơi thở của bà bỗng trở nên phập phồng.
Một cảm giác dường như thật cũ, mà cũng dường như thật mới, dìu dịu
ngây ngây… Bà không biết nữa! Rồi, không tự chủ được, bà cầm bàn tay
chồng áp lên má, lên mũi, lên môi. Bàn tay này tưởng đã vĩnh viễn không
còn nhìn thấy, cầm lấy. Da thịt này tưởng đã vĩnh viễn không còn đụng
chạm sờ mó được. Mười năm… Mười năm… Nước mắt bỗng chảy dài xuống hai
bên tai, bà Năm thốt lên nho nhỏ: "Mình!" Chỉ có một âm đơn độc, nhưng
sao tiếng "mình" nói lên thật nhiều, diễn tả thật nhiều. Tiếng "mình"
mà mười năm nay ông Năm không còn nghe. Tiếng "mình" gợi lên tình nghĩa
vợ chồng, nỗi niềm chia xẻ. Tiếng "mình" cũng là tiếng nói của yêu
đương, của hài hoà sum họp. Và tiếng "mình" ở đây, trong hoàn cảnh này,
sao nghe thật mời mọc dâng hiến… Người đàn bà mười năm khổ hận đó, vợ
ông, cần được yêu thương thật nhiều để bù lại. Tiếng "mình" gọi nhỏ
trong đêm bỗng nghe tiếp nối… Bồi hồi xúc động, ông Năm chồm lên ôm lấy
vợ, hôn tràn lên tóc, lên má, lên môi. Ông nghe trong tay, thân xác gầy
còm của vợ run lên như đang cơn sốt. Và tai ông còn nghe những tiếng
"mình" đứt quãng ú ớ như tiếng nói trong chiêm bao…
Cuộc
tình của tuổi vào thu âm thầm như lá rụng bên ngoài nhưng cũng nồng nàn
ngọt lịm như hớp rượu nếp than cùng chia nhau khi nãy. Có mùa chớm thu
nào mà không thấy còn sót lại vài tia nắng hạ?
* Tôi
muốn câu chuyện này chấm dứt ở đây cho cuộc tình được đẹp như bài thơ,
được vuông tròn như trong tiểu thuyết. Nhưng trên thật tế không phải
như vậy. Bởi vì… Một tháng sau đó, bà Năm ngã bịnh, phải vào nằm nhà
thương. Bà bị ung thư phổi, ở thời kỳ chót. Bà đã giấu ông Năm lâu nay,
bây giờ bà mới cho biết: hồi còn ở Việt Nam, nhờ khám thấy ung thư nên
bà mới xin được chiếu khán xuất cảnh. "Nhà nước Cách Mạng vốn khoan
hồng nhân đạo, nên cho phép chị sang thăm chồng đấy! Chớ chị không nằm
trong diện được cứu xét nào cả. Rõ chưa?" Gã cán bộ trao giấy phép cho
bà Năm, mà nói như thật! Tụi nó dư biết rằng có giữ bà lại cũng chỉ tốn
gạo tốn khoai thêm vài tháng nữa và là một miệng ăn phi sản xuất, chẳng
lợi lộc gì cho "nhân dân". Thà tống đi gấp để khỏi phải chôn thêm một
người, chật đất!
Ông Năm đã ngồi bên giường vợ suốt thời gian
cuối cùng. Ông đã cầm bàn tay còn mang tỳ vết của mười năm gian khổ.
Ông đã ôm gương mặt phong trần chưa kịp đổi hồng sau mấy tuần sống đầy
hạnh phúc. Và cuối cùng, ông đã chải lại mái tóc bạc chưa kịp dài để
được cuốn tròn kẹp lên sau ót, như ngày xưa…
Ông đã gục lên thân xác gầy khô, khóc với tất cả nước mắt còn lại.
Mùa thu đó, lá rụng thật nhiều.
Tiểu Tử
Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 26/Jan/2010 lúc 10:52pm
|
mk
|
IP Logged |
|
mykieu
Senior Member
Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
|
Gởi ngày: 30/Jan/2010 lúc 7:58pm |
Hoàng Hạc Lâu (Quỳnh Giao)
Wednesday, January 27, 2010
|
|
| |
Chân dung thi sĩ Vũ Hoàng Chương. (Hình: Tài liệu)
Thủ bút bản dịch ‘Hoàng Hạc Lâu’ của Vũ Hoàng Chương. (Hình: Tài liệu)
|
|
Quỳnh Giao
Sinh
tiền, Vũ Hoàng Chương là thày dạy Việt văn của Cung Tiến. Ông sinh năm
1916, trước người nhạc sĩ tên tuổi này 22 năm. Nhưng với thói quen
khoáng đạt của một nhà thơ, ông không hề câu nệ, vẫn coi Cung Tiến như
người bạn vong niên hơn là một đứa học trò.
Có
lần ông nói đùa. Rằng Cung Tiến phổ thơ biết bao người mà chưa từng phổ
thơ Vũ Hoàng Chương! Cung Tiến không quên điều ấy nhưng biến cố 1975 đã
ụp trên cả nước và người nhạc sĩ thì lưu vong ra ngoài, còn nhà thơ kẹt
lại ở bên trong với những Mai Thảo, Phạm Ðình Chương, Thanh Tâm Tuyền,
Phạm Xuân Ninh, Phan Lạc Phúc, v.v....
Trong
nỗi bi phẫn về cảnh bạn bè tán lạc, Vũ Hoàng Chương đã cảm dịch bài thơ
Hoàng Hạc Lâu nổi tiếng của Thôi Hiệu, rồi nhờ bạn bè chuyển được ra
ngoài, đến tay Cung Tiến khi ấy còn ở Canberra bên Úc... Thôi Hiệu là
nhà thơ khét tiếng thời Thịnh Ðường vào đầu thế kỷ thứ tám. Bài thơ của
ông khiến một người như Lý Bạch còn nghẹn lời không dám viết về lầu
Hoàng Hạc nữa và được Kim Thánh Thán ngợi ca là “bút pháp tuyệt kỳ, tác
phẩm đệ nhất cổ kim trong thơ Luật”.
Ðấy
cũng là bài được người mình dịch sang Việt ngữ nhiều nhất. Có người đếm
ra hơn bốn trăm bản dịch khác nhau, từ Tản Ðà, Ngô Tất Tố đến Trần
Trọng Kim, Trần Trọng San, Nguyễn Ðức Hiển, v.v... Với Cung Tiến và
nhiều bằng hữu thì bài cảm dịch của Vũ Hoàng Chương là một sự tuyệt mỹ
vì tâm cảnh mọi người vào lúc đó.
Từ
bên ngoài, nhận được bản dịch, Cung Tiến nhớ thầy, nhớ bạn và nhớ lại
cung cảnh xa xưa nên đã xuất thần phổ nhạc rất nhanh và tìm cách gửi về
ngay năm sau. Nhưng không kịp nữa. Vũ Hoàng Chương bị cầm tù và bị kiệt
sức mới được thả ra và tạ thế sau đó năm ngày nên không bao giờ được
nghe ca khúc này. Bây giờ nhớ lại thì xin ghi bài cảm dịch của ông để
chúng ta khỏi quên và cùng thưởng thức:
“Xưa hạc vàng bay vút bóng người
Ðây lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi
Vàng tung cánh hạc đi đi mãi
Trắng một màu mây vạn vạn đời
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi
Gần xa chiều xuống nào quê quán
Ðừng giục cơn sầu nữa, sóng ơi...”
Khi còn sống, ông Nguyễn Ðức Hiển tại Houston Texas
cho rằng bản dịch Vũ Hoàng Chương “còn hay hơn nguyên bản, mà nguyên
bản vốn đã hay tót vời”. Ông Hiển có thể nói không ngoa vì bản thân đã
dịch đi dịch lại mười mấy lần bài thơ của Thôi Hiệu! Ông còn dụng công
so sánh hai câu thực của nguyên bản, gồm sáu thanh trắc liên tiếp:
“Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du”
Với câu “thực” do Vũ Hoàng Chương để lại mà ông cho là ảo diệu hơn:
“Vàng tung cánh hạc đi đi mãi
Trắng một màu mây vạn vạn đời...”
Khi
đọc lại, làm sao mình không ngậm ngùi với những chữ tuyệt diệu như
“vút” bóng người, hay chút “thơm” rơi...? Và câu kết, “Ðừng giục cơn
sầu nữa, sóng ơi!”, nghe thê thiết hơn vần lục bát của Tản Ðà:
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!”
Cung
Tiến đưa Hoàng Hạc Lâu vào nhạc với phần hòa âm soạn cho dương cầm và
viết trên cung Ré giáng Trưởng, nhịp 4/4 chậm rãi tha thiết - andantino
- và ý nhị. Piano mở đầu bằng hai ô nhịp, hai mesures, viết lối Arpège
chùm hai nốt, thánh thót, êm đềm. Rồi lời ca cất lên bồi hồi day dứt
như một truyện kể, mà dùng phép tả cảnh để tả tình:
“Xưa hạc vàng bay vút bóng người...
Ðây lầu Hoàng Hạc chút (ứ ư ) thơm rơi...”
Ðàn
piano lại rải, nghe như tiếng chim hót, và cứ thế ca khúc dẫn người
nghe vào một bức tranh cổ, với cánh hạc vàng ẩn hiện sau vầng mây bạc
có nắng chiếu, có cây bến Hán Dương u buồn và cỏ bờ Anh Vũ vắng vẻ,
chẳng còn ai chơi...
Ðoạn nhạc chuyển tiếp nỉ non đan lượn những ngậm ngùi rồi chợt mở ra tâm sự kẻ tư hương, nhớ quê, nhớ bạn...
“Gần xa chiều xuống nào quê quán
Ðừng giục cơn sầu nữa (ư ứ), sóng (à à) ơi...”
Rồi đàn lại buông arpège hai nốt nhẹ nhàng, lãng đãng chìm khuất, mơ hồ như cánh hạc vàng tan trong khói sóng...
Toàn
bài, Cung Tiến dùng âm giai ngũ cung đầy chất Ðông phương với nét nhạc
thanh thản, nhuốm vẻ Lão Trang và phảng phất giai điệu Claude Debussy
trong bài “Clair de Lune”. Cung Tiến rất chuộng Debussy khi nhạc sĩ
người Pháp này khám phá nhạc Á Ðông vào đầu thế kỷ trước. Debussy cũng
dùng hợp âm ngũ cung và cũng lấy “Arpège” rải tay trái và đưa ra một
hợp âm lạ tai mà hài hòa êm ái....
Bài
“Hoàng Hạc Lâu” là viên ngọc quý của thơ Ðường. Bản dịch Vũ Hoàng
Chương là bài chuyển ngữ mang tâm sự của một thi hào trong hoàn cảnh bi
đát của đất nước. Ca khúc Cung Tiến là sự kết hợp lạ kỳ của tình cảm và
nhạc thuật để nối liền ngần ấy nét đẹp của thơ, của nhạc. Ðiều hơi tiếc
là ít người biết hoặc trình bày ca khúc trác tuyệt này để đời sau còn
nhớ Vũ Hoàng Chương và dòng nhạc quý phái của miền Nam chúng ta khi
mình đã mất hết...
Lần
cuối mà miền Nam tự do có buổi sinh hoạt để vinh danh Vũ Hoàng Chương
là vào Tháng Ba năm 1975, tại phòng trà của Khánh Ly, do Mai Thảo và
Thanh Tâm Tuyền tổ chức. Ðã 35 năm tròn rồi. Sau đó là cảnh chia ly tan
tác. “Vàng tung cánh hạc”... như ánh chớp chợt lóe rồi vụt tắt.
Dư âm còn lại là tiếng nhạc lãng đãng trong chiều tà. Sau đấy là cõi tối đen của thơ và nhạc...
|
|
http://diaoc.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=357457&ChannelID=450 Mời cả nhà vào link dưới đọc thêm về tác phẫm Hoàng Hạc Lầu (đọc cho vui ! ... VUI ! )http://mocay.org/forum/viewtopic.php?f=51&t=416&p=3704&sid=88fa5d07ac1b55ea86e04eb4f9d4e7cd#p3704
Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 30/Jan/2010 lúc 8:16pm
|
mk
|
IP Logged |
|
SaoMai
Senior Member
Tham gia ngày: 01/Jul/2008
Thành viên: OffLine
Số bài: 331
|
Gởi ngày: 01/Feb/2010 lúc 11:55pm |
MAY MÀ BÀ ĐÃ KHÔNG CÒN NGHE ĐƯỢC NỮA !!!
Bà có hai con trai đã ra riêng, xem ra bà cưng dâu út hơn. Nó giàu, hay quà cáp, mỗi lần về thăm, đi xe hơi, lại giúi cho bà bạc triệu, khiến bà mát ruôt, nở mặt, nở mày với hàng xóm láng giềng. Bà thường thở vắn, than dài thương cho thằng cả "cái thằng thiệt là dại dột, cưới nhầm con vợ chẳng có chút hồi môn đem về nhà chồng, chỉ được cái chữ nghĩa, mà chữ nghĩa làm gì chứ học cho lắm tắm cũng ở truồng" ...
Giáp Tết, nghe tin bà hấp hối, dâu cả chạy về ... ngày đêm túc trưc. Bà bị suy thận, thận đã hư không còn hoạt động được nữa, nên bà bị suy hô hấp nặng, cứ ngạt thở dần dần ... , Cô dâu cả lúc thì đỡ bà lên cho bà thở, lúc thì lau nước ói từ miệng bà khạc ra nào đờm, nào máu lẫn vào nhau trong đó, lúc lại bóp chân, bóp tay cho bà ... cô chỉ dám rời bà một chút khi phải ăn miếng cơm ... rồi lại ngồi một bên mà chăm sóc .
Người ra, kẻ vào chuẩn bị hậu sự ngày càng tấp nập ... nhưng con dâu Út vẫn chưa thấy về ... nghe đâu đang mùa bán Tết, không thể bỏ hàng họ .
Sau hai ngày, chiều tối hôm đó, bà bỗng tỉnh táo hẳn, bà đòi tắm, đòi thay đồ đẹp, giao lại chìa khóa, tiền bạc trong túi cho ông, rồi kêu tên mấy đứa con, kêu tên dâu Út, nhưng dường như bà không thấy con dâu cả đang chăm sóc cho bà ... Cô đang khẽ khàng đỡ cho bà nằm xuống ...
Khuya ... mọi người tản ra ngủ, một mình cô vẫn ngồi im lìm theo dõi từng hơi thở của bà ... đột nhiên, cô thấy bà "ngáp ngáp" ... biết đã đến lúc, cô chạy kêu mọi người dậy ... rồi quay lại bên bà ... kịp thấy bà thở hắt ra một hơi cuối cùng ... cô sửa cho bà nằm ngay ngắn lại, vuốt mặt bà ... Lúc này, mọi người trong nhà mới tỉnh ngủ lục đục bước vào ... thì đâu đó đã xong xuôi ... bà đã nhắm mắt, xuôi tay rồi ...
Đám tang nơi vườn quê, diễn ra tưng bừng, náo nhiệt ... người đến viếng cũng có, người không quen tự dưng ghé vào ăn bát cơm, ăn bữa cháo đêm cũng có ... Từ lúc lo cho bà được sạch sẽ, nằm yên ấm trong áo quan rồi, cô đầu tắt, mặt tối lo trong ngoài, trên dưới ... Bỏ được công việc, cô lại lên ngồi một bên áo quan lúc khơi dĩa tim đèn, lúc thay mấy bình hoa héo, lúc châm thêm trà nước cho bàn dong ...
Trước giờ động quan, cô dâu út chạy vào, chẳng mặc lấy bộ đồ tang, chỉ đến trước bàn thờ bà để lên đó một bao thơ đựng năm chục ngàn đổng ... lạy bà ba lạy, rồi phân bua "dầu gì má cũng chết rồi, mấy ngày này bán đắt, bỏ uổng, mà tang chế vào người, nặng vía, làm sao buôn bán". Nói xong dâu út quày quả chạy về bỏ hàng lâu không tiện ...
Ông đến trước quan tài, nhìn di ảnh bà qua làn khói hương, lẩm bẩm
" May mà bà đã không còn nghe được nữa !!!"
|
IP Logged |
|